NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
CHƯƠNG V
(Brahmacariya Pañcasīla)
Ngũ-giới hành phạm-hạnh như thế nào?
“Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi”
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.
* Còn ngũ-giới hành phạm-hạnh (brahmacariyapañca-sīla) dành cho bậc Thánh Bất-lai tại gia, bởi vì bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái trong cõi dục-giới rồi, cho nên trong ngũ-giới hành phạm-hạnh có điều-giới thứ ba là:
“Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi” Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới, đương nhiên không còn muốn hành-dâm nữa. Vì vậy, bậc Thánh Bất-lai tại gia hành phạm-hạnh nghĩa là tuyệt đối không còn hành-dâm không chỉ trong kiếp hiện-tại này mà còn những kiếp vị-lai cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có hai trưởng giả cùng tên Ugga: Trưởng giả Ugga người xứ Vesālī và trưởng giả Ugga người làng Hatthigāma trong xứ Vajji. Cả hai trưởng giả này lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, rồi thực-hành thiền-tuệ đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, cho đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, đã diệt tận được phiền-não tham-ái trong cõi dục-giới, và phiền-não sân loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai, nên tâm không còn thỏa thích, say mê trong ngũ-dục nữa.
Hai vị trưởng giả Ugga là người cận-sự-nam sống tại gia, cho nên họ thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh cao quý.
Tìm hiểu bài kinh Uggasutta [2] Đức-Phật đề cập đến trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như sau:
-Này chư tỳ-khưu! Các con nên biết rằng:
Trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có.
Vào một buổi sáng, một vị tỳ-khưu mặc y bát đến ngôi nhà của ông trưởng giả Ugga xứ Vesālī, ngồi trên tọa cụ đã trải sẵn. Ông trưởng giả Ugga xứ Vesālī đảnh lễ vị tỳ-khưu xong, ngồi một nơi hợp lẽ; khi ấy, vị tỳ-khưu hỏi ông trưởng giả Ugga xứ Vesālī rằng:
- Này ông trưởng giả Ugga! Đức-Thế-Tôn khen ngợi ông rằng:
“Trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có.”
- Này ông trưởng giả! 8 pháp phi thường chưa từng có đó là những pháp như thế nào?
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con không biết Đức-Phật khen ngợi con là người có 8 pháp phi thường chưa từng có thế nào. Riêng đối với con, kính xin Ngài Trưởng-lão hoan hỷ lắng nghe 8 pháp phi thường chưa từng có của con; con xin trình bày cho Ngài Trưởng-lão được rõ.
- Này ông trưởng giả Ugga! Lành thay! Lành thay!
1- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, lần đầu tiên khi con thấy Đức-Phật từ xa, ngay tức thì khi ấy, tâm của con phát sinh đức-tin trong sạch hoàn toàn nơi Đức-Phật.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ nhất của con.
2- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, khi có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, con đến ngồi gần Đức-Phật, lắng nghe Ngài thuyết pháp anupubbikathā (pháp theo tuần tự) để tế độ con, đó là thuyết về giới, thuyết về cõi trời, ngũ-dục.
Khi ấy, Đức-Phật biết tâm trí của con đã nhu mì dễ dạy, đã xa lánh 5 pháp-chướng-ngại, có đại-thiện-tâm trong sạch. Để tế độ con, Đức-Phật thuyết pháp chân-lý tứ đế đó là khổ-đế, nhân sinh khổ-đế, diệt khổ-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế. Ví như tấm vải trắng mới sạch sẽ, không dơ bẩn, muốn nhuộm màu gì cũng tốt đẹp.
Cũng như vậy, sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, chính tại nơi ấy con đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã phát sinh pháp-nhãn (dhammacakkhu)[3], không còn phiền-não làm ô nhiễm. Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ rằng:
“Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái sinh thì tất cả các pháp ấy đều có trạng-thái diệt.”
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con đã phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã đạt đến chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế, đã thấu rõ thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế; nên đã diệt tận được hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng; tâm không còn hoài-nghi nào nữa. Với trí-tuệ thiền-tuệ của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật rồi, nên không còn tin nơi người nào khác nữa. Con đã quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo và xin thọ trì ngũ-giới có điều-giới hành phạm-hạnh cao quý chính tại nơi ấy.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ nhì của con.
3- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con có 4 người vợ trẻ, con đến gặp 4 người vợ trẻ ấy bảo với họ rằng:
- Này các em! Kể từ nay anh đã thọ trì ngũ-giới có điều-giới hành phạm-hạnh rồi; em nào muốn dùng của cải làm phước-thiện bố-thí cũng được; em nào muốn trở về nhà cha mẹ, bà con mình cũng được; em nào muốn lấy người đàn ông khác làm chồng, anh sẽ trao em cho người đàn ông ấy.
Khi con bảo như vậy, người vợ lớn nói với con rằng:
- Này anh! Xin anh đem trao em cho người đàn ông tên ấy.
Con cho người mời ông ấy đến, tay trái con nắm tay người vợ trẻ, tay phải cầm bình nước, con rót nước xuống tay người vợ trẻ trao cho người đàn ông ấy. Tâm con vẫn tự nhiên không hề xao động chút nào cả.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ ba của con.
4- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, trong nhà con có nhiều của cải, con hoan hỷ làm phước bố-thí phân phát của cải ấy đến cho những bậc có giới đức trong sạch, có thiện pháp cao thượng.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ tư của con.
5- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, khi con tìm đến vị tỳ-khưu nào, gặp vị tỳ-khưu ấy với tâm kính trọng thật sự, không phải gặp vị tỳ-khưu ấy với tâm không tôn kính.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ năm của con.
6- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, nếu vị tỳ-khưu ấy thuyết pháp cho con nghe thì con ngồi lắng nghe một cách cung kính thật sự, không phải lắng nghe pháp một cách không cung kính; nếu vị tỳ-khưu ấy không thuyết pháp cho con nghe thì chính con thuyết pháp cho vị tỳ-khưu ấy nghe.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ sáu của con.
7- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, không có gì lạ thường, khi chư-thiên đến tìm con và nói rằng:
“Này ông trưởng giả! Chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết thật hoàn hảo.”
Con trả lời với chư-thiên rằng:
“Dù quý vị có nói như vậy hay không, sự thật, chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết vẫn thật sự hoàn hảo”. Nhưng con không thấy tự hào về vấn đề chư-thiên đến tìm con hay con nói chuyện với chư-thiên.
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ bảy của con.
8- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, Đức-Phật thuyết năm pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục-giới (orambhāgiya-samyojana), trong 5 pháp ấy, con suy xét kỹ không thấy pháp nào mà con chưa diệt tận được (con đã diệt tận được 5 pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục-giới [4] trở thành bậc Thánh Bất-lai).
Đó là pháp phi thường chưa từng có thứ tám của con.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, 8 pháp phi thường chưa từng có của con như vậy. Con không biết Đức-Phật khen ngợi con là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như thế nào.
Vị tỳ-khưu nhận vật thực tại nhà ông trưởng giả Ugga người xứ Vesālī. Sau khi thọ thực xong trở về chùa, vị tỳ-khưu vào hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, vị tỳ-khưu bạch với Đức-Phật toàn cuộc đàm đạo tại ngôi nhà trưởng giả Ugga người xứ Vesālī.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Tỳ-khưu! Trưởng giả Ugga người xứ Vesālī đã trình bày đúng theo sự thật.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai khen ngợi trưởng giả Ugga là người có 8 pháp phi thường chưa từng có đúng như vậy. Các con nên ghi nhớ trưởng giả Ugga người xứ Vesālī là người có 8 pháp phi thường chưa từng có như vậy.
* Ngũ-giới là thường-giới (niccasīla) đối với tất cả mọi người tại gia ở trong đời gồm có các hạng người phàm-nhân và bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai sống tại gia có vợ hoặc có chồng.
* Ngũ-giới hành phạm-hạnh chỉ có đối với cận-sự-nam, cận-sự-nữ là bậc Thánh Bất-lai sống tại gia không có vợ hoặc không có chồng mà thôi, bởi vì bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới rồi, không còn ham muốn trong ngũ-dục nữa, tuyệt đối hoàn toàn tránh xa sự hành-dâm trọn đời này và những kiếp vị-lai nữa, và đặc biệt có số cận-sự-nam, cận-sự-nữ sống độc thân trong đời này cũng thọ ngũ-giới hành phạm-hạnh
- Nếu cận-sự-nam, cận-sự-nữ trước khi trở thành bậc Thánh Bất-lai đã có vợ hoặc có chồng rồi thì sau khi trở thành bậc Thánh Bất-lai, chắc chắn không còn quan hệ tình-dục với người vợ hoặc chồng của mình nữa, bởi vì bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới rồi.
Vì vậy, bậc Thánh Bất-lai sống tại gia thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh đến trọn kiếp.
- Nếu cận-sự-nam, cận-sự-nữ trước khi trở thành bậc Thánh Bất-lai chưa có vợ hoặc chưa có chồng thì sau khi trở thành bậc Thánh Bất-lai, chắc chắn không có vợ hoặc không có chồng nữa, bởi vì bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới rồi, cho nên, bậc Thánh Bất-lai tuyệt đối vĩnh viễn tránh xa hành-dâm suốt trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.
Vì vậy, bậc Thánh Bất-lai sống tại gia thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh đến trọn kiếp.
Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh
Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh phần nhiều giống như nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, chỉ có khác nhau về điều-giới thứ ba mà thôi.
* Đảnh lễ Đức-Phật
* Lễ sám hối Tam-Bảo
-Lễ sám hối Đức-Phật-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Pháp-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Tăng-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
* Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh
Ahaṃ [5] Bhante, tisaraṇena saha pañca komāra-brahmacariyasīlaṃ [6] dhammaṃ yācāmi[7], anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me[8]. Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha pañca komārabrahmacariyasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anug-gahaṃ katvā, sīlaṃ detha me. Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha pañca komārabrahmacariyasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anug-gahaṃ katvā, sīlaṃ detha me. Bhante.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam[9].
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam cho con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh của người cận-sự-nam cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
Phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hành phạm-hạnh
Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:
- Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi [10] (vadetha).
(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy.)
- Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Đảnh lễ Đức-Phật
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
(3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Thọ phép quy-y Tam-Bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh cao quý
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3-Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi.
NTL: Tisaraṇena saha pañca komārabrahma-cariyasīlaṃ [11] dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādehi.
Phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hành phạm-hạnh cao quý của người cận-sự-nam xong rồi, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp được phát triển.
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
NTL: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới, Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới, Chúng-sinh được giải thoát khổ, nhờ giữ giới, Các con nên giữ giới cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!
Bài kệ khẳng định quy-y Tam-Bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Ngũ-giới hành phạm-hạnh cao quý không chỉ dành cho bậc Thánh Bất-lai tại gia, mà còn cho những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ sống độc thân, hoặc những người cận-sự-nam có vợ chết mà không tục huyền, hoặc những người cận-sự-nữ có chồng chết mà không tái giá.
Tất cả những hạng người này đều có thể xin thọ trì ngũ-giới hành phạm-hạnh này được.
(Bát-giới có đệ bát-giới chánh-mạng)
Giới ājīvaṭṭhamakasīla: Bát-giới có điều-giới thứ 8 chánh-mạng nghĩa là bát-giới này có điều-giới thứ 8 là điều-giới sống chánh-mạng.
Giới ājīvaṭṭhamakasīla: Bát-giới có điều-giới thứ 8 chánh-mạng là giới chung của tất cả mọi người tại gia và những bậc xuất-gia, đặc biệt còn là giới của các hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ nữa.
Như vậy, giới ājīvaṭṭhamakasīla này có một tầm quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người.
Nếu người nào phạm đến điều-giới nào thì người ấy đã tạo ác-nghiệp ấy, cho nên giới ājīvaṭṭhamakasīla này có tầm quan trọng rộng lớn hơn ngũ-giới.
Thật vậy, người nào đã thọ trì giới ājīvaṭṭhamakasīla, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng cho mọi thiện-pháp được phát triển từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, đó là 4 Thánh-đạo-tâm.
Giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới:
1-Điều-giới tránh xa sự sát-sinh.
2-Điều-giới tránh xa sự trộm-cắp.
3-Điều-giới tránh xa sự tà-dâm.
4- Điều-giới tránh xa sự nói-dối.
5- Điều-giới
tránh xa sự nói lời chia rẽ.
6-Điều-giới tránh xa sự nói lời thô tục.
7-Điều-giới tránh xa sự nói lời vô ích.
8-Điều-giới tránh xa cách sống tà-mạng, mà sống chánh-mạng.
Nghi thức thọ phép quy-y tam-bảo và thọ trì giới Ājīvaṭṭhamakasīla
* Đảnh lễ Đức-Phật
* Lễ sám hối Tam-Bảo
-Lễ sám hối Đức-Phật-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Pháp-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Tăng-Bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.
\Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và bát-giới Ājivaṭṭhamakasīla
Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no. Bhante.
Dutiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no. Bhante.
Tatiyampi mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no. Bhante.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con, lần thứ nhì. Bạch Ngài
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla.
Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho chúng con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
NTL: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha.
Sư hướng dẫn từng chữ, từng câu như thế nào, các con hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy.
CSN: Āma, Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
* Đảnh lễ Đức-Phật
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
(3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
* Thọ phép quy-y Tam-Bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
* Thọ trì bát-giới Ājīvaṭṭhamakasīla
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời chia rẽ.
6- Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời thô tục.
7- Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời vô ích.
8-Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa cách sống tà mạng.
NTL: Tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.
Các con đã thọ phép quy-y Tam-bảo cùng thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp được phát triển, bằng pháp không dể duôi, thực-hành tứ niệm-xứ.
CSN: Āma, Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới, Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới, Chúng-sinh giải thoát khổ, nhờ giữ giới, Các con nên giữ giới cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!).
* Bài kệ khẳng định quy-y Tam-Bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ [12].
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla này là giới chung của tất cả mọi người tại gia, những bậc xuất-gia, đặc biệt còn là giới của hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ nữa.
Giảng giải bát-giới Ājīvaṭṭhamakasīla
* Ājīvaṭṭhamakasīla: Ājīva + aṭṭhamaka + sīla.
- Ājīva: Mạng sống, nuôi mạng
- Micchājīva: Cách sống tà-mạng, nghĩa là sống bằng cách thân hành 3 ác-nghiệp, khẩu hành 4 ác-nghiệp, làm 5 nghề buôn bán: buôn bán vũ khí, buôn bán người làm nô lệ, giết gia súc bán thịt, buôn bán rượu, bia và các chất say, buôn bán thuốc độc giết hại chúng sinh, …
- Sammā ājīva: Cách sống chánh-mạng, nghĩa là sống bằng cách thân hành 3 thiện-nghiệp, khẩu hành 4 thiện-nghiệp, không làm 5 nghề buôn bán như không buôn bán vũ khí, không buôn bán người làm nô lệ, không giết gia súc bán thịt, không buôn bán rượu, bia và các chất say, không buôn bán thuốc độc giết hại chúng sinh, …
- Aṭṭhamaka: Thứ 8.
- Sīla: Điều-giới.
Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới, 4 điều-giới đầu là điều-giới thứ nhất, điều-giới thứ nhì, điều-giới thứ ba và điều-giới thứ tư đã giảng giải trong phần ngũ-giới.
-Điều-Giới Thứ 5
Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Pisuṇavācā: Pisuṇa + vācā
- Pisuṇa: Làm cho chia rẽ, phá tan sự đoàn kết.
- Vācā: Lời nói.
- Pisuṇavācā: Lời nói chia rẽ nhau, lời nói làm mất tình thương yêu đoàn kết nhau.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời chia rẽ.
Chi-pháp phạm điều-giới nói lời chia rẽ
1-Nói lời chia rẽ giữa hai người đang thân thiết với nhau.
2-Tác-ý ác làm cho hai người ấy chia rẽ nhau.
3-Cố gắng bằng khẩu để hai người ấy chia rẽ nhau.
4-Hai người nghe và tin lời người nói, rồi lánh xa nhau.
5-Hai người oán ghét lẫn nhau, rồi chia rẽ xa lánh.
Nếu người nào hội đủ 5 chi-pháp này thì người ấy đã phạm điều-giới nói lời chia rẽ. Nếu không đủ 5 chi-pháp thì không phạm điều-giới nói lời chia rẽ.
Giảng giải về sự nói lời chia rẽ
Sự nói lời chia rẽ như thế nào?
Cô C lén tìm đến gặp cậu A nói rằng:
-Này anh A! Em nói cho anh biết, cô B lén lút quan hệ với người con trai khác, anh nên thận trọng là hơn.
Vì nghi ngờ nên mỗi khi gặp cô B, cậu A thường có thái độ dè dặt.
Lúc khác cô C lén tìm đến gặp cô B khuyên rằng:
-Này em B! Chị nói cho em biết, cậu A lén lút quan hệ với người con gái khác, em hãy thận trọng trong việc quan hệ với cậu ấy để tránh sự hối hận về sau.
Vì nghi ngờ nên cô B có thái độ dè dặt, bắt đầu để ý, dò xét thấy gần đây cậu A có thái độ dè dặt đối với cô. Cô B tin lời cô C nói thật và nghĩ rằng:
“Chị C thật tâm thương mình nên nhắc nhở.”
“Chắc có lẽ điều mà cô C nói là sự thật.”
“Cô C có tâm tốt đối với ta, cô ấy không muốn ta thất vọng.”
Cậu A tìm đến gặp cô B, mắng nhiếc cô B rằng:
- Cô là con người lừa dối, không thật tâm với tôi.
- Anh cũng không tốt gì đâu!
Như vậy, cô C đã phạm điều-giới nói lời chia rẽ.
Nói lời chia rẽ do khẩu là chính, nhưng cũng có trường hợp thuộc về phần thân: Không nói mà có cử chỉ, hành động, hoặc viết thư gửi cho hai người khiến cho họ hiểu lầm nhau, ghét bỏ nhau, rồi xa lánh nhau.
Phạm điều-giới nói lời chia rẽ tạo ác-nghiệp
Nếu người nào có tác-ý trong ác-tâm nói lời chia rẽ giữa hai người có giới đức thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng.
Nếu người nào có tác-ý trong ác-tâm nói lời chia rẽ giữa hai người không có giới đức, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ.
Quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ
* Người nào phạm điều-giới nói lời chia rẽ, tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi được cõi ác-giới.
Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới, trường hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
* Và trường hợp, nếu người nào phạm điều-giới nói lời chia rẽ, tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ ấy không có cơ hội cho quả tái-sinh, mà đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ trong kiếp quá-khứ của người ấy như sau:
1- Là người thường sống bất hòa với cha mẹ, anh em, bà con thân quyến, bạn bè, vợ chồng, ...
2- Là người thường bị người khác đánh đập, bị tàn tật.
3- Là người không có bạn bè thân thiết.
4- Là người có bạn bè không bền vững, không lâu sẽ bỏ nhau.
5- Là người có nhiều người không ưa thích, không thân thiết.
6- Là người thường có tâm bị ô nhiễm bởi phiền-não, thường khổ tâm, …
Quả của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ
Người nào đã thọ trì bát-giới ājivaṭṭhamakasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói lời chia rẽ, tạo đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ, sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Hoặc sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Sau khi vị thiên-nam, vị thiên-nữ chết tại cõi trời ấy, trường hợp nếu đại-thiện-nghiệp khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả-tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ trong kiếp quá-khứ của người ấy, đáng hài lòng.
Quả tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời chia rẽ là hoàn toàn trái ngược với quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ như sau:
Kiếp hiện-tại của người ấy:
1- Là người thường sống hòa thuận với cha mẹ, anh em, bà con thân quyến, bạn bè, vợ chồng, ...
2- Là người không bị người khác đánh đập, không bị tàn tật.
3- Là người có nhiều bạn bè thân thiết.
4- Là người có bạn hữu thân thiết không bỏ nhau.
5- Là người có nhiều người thương yêu, quý mến.
6-Là người thường có tâm ít bị ô nhiễm bởi phiền-não, sống an-lạc.
- Điều-Giới Thứ 6
Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Pharusavācā: Pharusa + vācā
- Pharusa: Thô tục, phát sinh từ tâm sân.
- Vācā: Lời nói.
- Pharusavācā: Lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), phát sinh từ tâm sân.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời thô tục.
Chi-pháp phạm điều-giới nói lời thô tục
1- Tâm sân tức giận.
2- Có người bị chửi rủa, mắng nhiếc.
3- Đã nói lời chửi rủa, mắng nhiếc.
Nếu người nào hội đủ 3 chi-pháp này thì người ấy đã phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc). Nếu không đủ 3 chi-pháp thì không phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).
Giảng giải về sự nói lời thô tục
Sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) này có tác-ý trong ác-tâm phát sinh từ sân-tâm. Vì vậy, lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) chua chát hoặc ngọt ngào, nghe êm tai thì cũng gọi là pharusavācā: lời nói thô tục.
Trường hợp nói lời ngọt ngào nghe êm tai với tác-ý trong ác-tâm phát sinh từ sân-tâm muốn tiêu diệt người khác cũng gọi là pharusavācā: nói lời thô tục.
“Tôi sẽ giúp anh được yên giấc nghìn thu; hoặc tôi sẽ đưa anh về nơi chín suối; hoặc tôi sẽ gửi anh đi chầu trời, v.v...”
Như vậy, người ấy vẫn phạm điều-giới pharusavācā: nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).
Nếu cha mẹ rầy la, chửi mắng con, hoặc thầy rầy la, chửi mắng học trò, ... là cốt để dạy dỗ, khuyên răn, hăm dọa muốn cho con cái, học trò trở nên người tốt, người thiện. Cho nên, những lời rầy la, chửi mắng ấy hoàn toàn không có tác-ý trong ác-tâm làm hại con cái, làm hại học trò, v.v..., thì không gọi là nói lời thô tục.
Như vậy, khi cha mẹ, thầy rầy la, chửi mắng không hợp đủ chi-pháp của điều-giới nói lời thô tục. Cho nên, cha mẹ, thầy không phạm điều-giới nói lời thô tục.
Thật vậy, trong Phụ-chú-giải Ṭikā của Trường-bộ-kinh và Trung-bộ-kinh, giảng giải về sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) rằng:
“Người nào nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) với sân-tâm, dù không có người thù, người ghét, hoặc người thù ghét đã chết, người ấy vẫn phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).”
Lời thô tục chửi rủa, mắng nhiếc
Lời chửi rủa, mắng nhiếc là 1 trong 3 chi-pháp của điều-giới nói lời thô tục.
Nói lời thô tục chửi rủa, mắng nhiếc như thế nào?
Lời chửi rủa, mắng nhiếc có 10 cách
1- Hạng người (jāti): Lời mắng nhiếc gọi người thấp hèn hay người cao quý.
- Hạng người thấp hèn như: Đồ tôi tớ! Đồ kẻ ăn mày! Tên trộm cướp! v.v…
- Hạng người cao quý như: Thôi, ông chủ! Thôi, ông tướng! Thôi, ông hoàng! bà chúa! v.v…
2- Tên người (nāma): Lời mắng nhiếc gọi tên xấu hay tên đẹp.
- Tên xấu như: Đồ thằng quỷ! Đồ con ma! ...
- Tên đẹp như: Ông hoàng! Bà chúa! ...
3- Dòng dõi (gotta): Lời mắng nhiếc gọi dòng dõi thấp hèn hay cao quý.
- Dòng dõi thấp hèn như: Con nhà ăn trộm! Con nhà lừa đảo! ...
- Dòng dõi cao quý như: Con ông hoàng! Công nương! Tiểu thư! ...
4- Nghề nghiệp (kamma): Lời mắng nhiếc gọi nghề nghiệp thấp hèn hay cao quý.
- Nghề nghiệp thấp hèn như: Đồ sát-sinh! Đồ trộm-cắp! Đồ tà-dâm, ...
- Nghề nghiệp cao quý như: Thầy dạy học! Ông làm quan lớn! ...
5- Nghệ thuật (sippa): Lời mắng nhiếc gọi nghệ thuật thấp hay cao.
- Nghệ thuật thấp như: Đồ tài lừa đảo!...
- Nghệ thuật cao như: Anh làm thơ hay rồi! Anh giỏi nói chữ! ...
6- Bệnh (ābādha): Lời mắng nhiếc gọi bệnh người hèn, bệnh người sang.
- Bệnh người hèn như: Thằng bệnh lậu! Thằng bệnh nghiện ma túy! ...
- Bệnh người sang như: Ông bệnh đau đầu! Bà bệnh đau tim! ...
7- Hình dáng (liṅgika): Lời mắng nhiếc gọi hình dáng xấu hay hình dáng đẹp.
- Hình dáng xấu như: Thằng lùn! Con mụ mập! ...
- Hình dáng đẹp như: Thôi, cậu công tử! Thôi, cô tiên nữ! 8-Phiền-não (kilesa): Lời mắng nhiếc gọi phiền-não... Đồ tham lam! Đồ ngu ngốc! ...
9- Tội-lỗi (āpatti): Lời mắng nhiếc gọi tội ...
-Ông đã phạm tội bất công trụ! ...
10- Lời thô tục (akkosa): Lời mắng nhiếc nói lời thô tục.
-Mẹ mày! Cha mày! Đồ loài súc sinh! ...
Đó là 10 cách chửi rủa, mắng nhiếc thô tục. Chửi rủa, mắng nhiếc bằng 2 môn
- Chửi rủa mắng nhiếc bằng thân.
Lời chửi rủa, mắng nhiếc phần nhiều bằng khẩu, nhưng cũng có trường hợp bằng thân như hành vi cử chỉ thô tục hoặc viết thư, viết báo, viết sách, ... bằng những lời lẽ thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).
Phạm điều-giới nói lời thô tục tạo ác-nghiệp
Người nào phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến cha mẹ, thầy tổ, những bậc Trưởng-Lão, chư tỳ-khưu, sa-di có giới hạnh trong sạch, đến Đức-Phật Độc-Giác, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng.
Người nào phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa mắng nhiếc) đến người không có giới đức trong sạch, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
Quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục
* Người nào phạm điều-giới nói lời thô tục, tạo ác-nghiệp nói lời thô tục nặng, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời thô tục nặng ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi được cõi ác-giới.
Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới, trường hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
* Và trường hợp, nếu người nào phạm điều-giới nói lời thô tục, tạo ác-nghiệp nói lời thô tục nhẹ, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời thô tục nhẹ ấy không có cơ hội cho quả tái-sinh, mà đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục trong kiếp quá-khứ của người ấy như sau:
Kiếp hiện-tại của người ấy:
1- Là người thường nghe những lời không hài lòng như lời chửi rủa, mắng nhiếc, v.v...
2- Là người có nhiều người ghét.
3- Là người thường bị chê trách, bị vu oan giá họa.
4- Là người ít được nghe những lời ngon ngọt thân thiết.
5- Là người sống nghèo nàn khổ cực.
6-Là người bị tàn tật câm điếc, đui mù.
Quả của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục
Người nào đã thọ trì bát-giới ājivaṭṭhamakasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói lời thô tục, tạo đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục, sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Hoặc sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Sau khi vị thiên-nam, vị thiên-nữ chết tại cõi trời ấy, trường hợp nếu đại-thiện-nghiệp khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả-tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục trong kiếp quá-khứ của người ấy, đáng hài lòng.
Quả tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời thô tục là hoàn toàn trái ngược với quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục như sau:
Kiếp hiện-tại của người ấy:
1-Là người thường được nghe những lời đáng hài lòng.
2-Là người được nhiều người thương yêu quý mến.
3- Là người thường được nghe những lời tán dương ca tụng, không bị vu oan giá họa.
4- Là người thường được nghe những lời ngọt ngào thân thiết.
5- Là người sống được an-lạc hạnh-phúc.
6- Là người có giọng nói thanh tao rất hay.
-Điều-Giới Thứ 7
Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Samphappalāpā: Sampha + palāpā
- Sampha: Làm mất sự lợi ích và sự an-lạc.
- Palāpā: Lời nói.
- Samphappalāpā: Lời nói làm mất sự lợi ích và sự an-lạc.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói lời vô ích.
Chi-pháp phạm điều-giới nói lời vô ích
1-Tác-ý trong ác-tâm nói lời vô ích.
2-Nói lời vô ích.
Nếu người nào hội đủ 2 chi-pháp này thì người ấy phạm điều-giới nói lời vô ích. Nếu không đủ 2 chi-pháp thì không phạm điều-giới nói lời vô ích.
Giảng giải về sự nói lời vô ích
Như vậy, lời nói của người ấy gọi là lời nói vô ích (samphappalāpa).
Trường hợp người nào nói hoặc người viết những câu chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật, để làm cho người nghe, người đọc say mê tiêu khiển trong chốc lát, làm mất thì giờ mà không đem lại lợi ích, gọi là lời nói vô ích (samphappalāpa), nhưng không gọi là lời nói-dối (musāvāda), bởi vì người nói hay người viết không có tác-ý trong ác-tâm nói-dối làm cho người nghe, người đọc tin theo rồi gây ra sự tai hại.
Nếu người nào nói hoặc người viết những chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật, để người nghe hoặc người đọc say mê, tin theo rồi làm mất lợi ích, gây ra sự tai hại, thì người nói hoặc người viết phạm điều-giới nói lời vô ích và phạm điều-giới nói-dối nữa.
Trường hợp người nào nói hoặc người viết trình bày những câu chuyện có thật, đúng theo sự thật, nhưng không đem lại lợi ích gì cho người nghe hoặc người đọc.
Như vậy, lời nói của người ấy không gọi là lời nói vô ích.
Phạm điều-giới nói lời vô ích tạo ác-nghiệp
Nếu người phạm điều-giới nói lời vô ích trở thành thói quen hằng ngày như các diễn viên hài, viết chuyện vui cười, chuyện nhảm nhí,...thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng.
Nếu thỉnh thoảng hoặc đôi khi nói lời vô ích, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
Quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích
* Người nào phạm điều-giới nói lời vô ích, tạo ác-nghiệp nói lời vô ích nặng, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời vô ích nặng ấy trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát khỏi được cõi ác-giới.
Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới, trường hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
* Và trường hợp, nếu người nào phạm điều-giới nói lời vô ích, tạo ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ ấy không có cơ hội cho quả tái-sinh, mà đại-thiện-nghiệp nào khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích trong kiếp quá-khứ của người ấy như sau:
1- Là người có nhiều người không tin theo lời nói của mình.
2- Là người có nhiều người không ưa thích.
3- Là người không được nhiều người kính trọng.
4- Là người không thể nói cho người khác tin theo.
5- Là người nghèo khổ túng thiếu.
6-Là người không có quyền lực.
7-Là người thiểu trí (ngu dốt).
Quả-của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích
* Người nào đã thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói lời vô ích, tạo đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích, sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Hoặc sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm vị thiên-nam hoặc thiên-nữ trong cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.
Sau khi vị thiên-nam, vị thiên-nữ chết tại cõi trời ấy, trường hợp nếu đại-thiện-nghiệp khác trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trở lại làm người trong cõi người này.
Thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả-tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích trong kiếp quá-khứ của người ấy, đáng hài lòng.
Quả tốt của đại-thiện-nghiệp tránh xa sự nói lời vô ích là hoàn toàn trái ngược với quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích như sau:
Kiếp hiện-tại của người ấy:
1-Là người có nhiều người tin theo lời nói của mình.
2-Là người có nhiều người thương yêu, quý mến.
3- Là người có nhiều người kính trọng.
4- Là người có thể nói cho người khác tin theo.
5- Là người sống hạnh phúc an-lạc.
6- Là người có nhiều quyền lực.
7- Là người có nhiều trí-tuệ có tài đối đáp nhanh nhẹn.
Nói lời vô ích
Nói lời vô ích (niratthakathā) là nói những lời không đem lại sự lợi ích. Trong kinh Sāmaññaphalasutta [13] Đức-Phật thuyết giảng có 32 chuyện không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ gọi là tiracchānakathā, đó là:
1-Rājakathā: Nói chuyện về Đức-vua, Hoàng tộc, ...
2-Mahāmattakathā: Nói chuyện về các quan trong triều đình, trong chính phủ.
3-Corakathā: Nói chuyện về bọn trộm cướp.
4-Senākathā: Nói chuyện về quân đội.
5- Bhayakathā: Nói chuyện về tai họa.
6- Yuddhakathā: Nói chuyện về chiến tranh.
7- Annakathā: Nói chuyện về vật thực: cơm, gạo, ...
8- Pānakathā: Nói chuyện về đồ uống.
9- Vatthakathā: Nói chuyện về vải, quần áo.
10- Mālākathā: Nói chuyện về các loại hoa, vòng hoa.
11- Sayanakathā: Nói chuyện về chỗ nằm, chỗ ở.
12-Ghandhakathā: Nói chuyện về mùi thơm, dầu thơm.
13-Ñātikathā: Nói chuyện về bà con, dòng họ.
14- Yānakathā: Nói chuyện về xe cộ.
15- Gāmakathā: Nói chuyện về xóm làng.
16- Nigamakathā: Nói chuyện về quận, huyện.
17- Nagarakathā: Nói chuyện về thành phố.
18-Janapadakathā: Nói chuyện về vùng quê,
19-Itthikathā: Nói chuyện về đàn bà.
20- Purisakathā: Nói chuyện về đàn ông.
21- Kumārakathā: Nói chuyện về những chàng trai.
22- Kumārīkathā: Nói chuyện về những cô gái.
23-Surakathā: Nói chuyện về sự can đảm.
24-Visikhākathā: Nói chuyện về đường xá.
25- Kumbaṭṭhānakathā: Nói chuyện về bến nước.
26- Pubbapetakathā: Nói chuyện về bà con đã qua đời.
27- Nānattakathā: Nói những chuyện nhảm nhí.
28- Lokakkhāyika: Nói chuyện về thế giới tạo thiên lập địa.
29- Samuddakkhāyika: Nói chuyện về đại dương.
30- Itibhavābhavakathā: Nói chuyện về kiếp nhỏ, kiếp lớn luân-hồi.
31- Araññakathā: Nói chuyện về rừng.
32- Pabbatakathā: Nói chuyện về núi, ...
Mười Chuyện có ích (Kathāvatthu) [14]
1-Appicchakathā: Nói chuyện về ít tham muốn.
2-Santutthikathā: Nói chuyện về biết tri túc.
3- Parivekakathā: Nói chuyện về ở nơi thanh vắng.
4- Asaṃsaggakathā: Nói chuyện về sự sống không tiếp xúc nhiều người, sống riêng một mình.
5- Vīriyārambhakathā: Nói chuyện về sự cố gắng tinh-tấn giải thoát khổ.
6- Sīlakathā: Nói chuyện về giới trong sạch và trọn vẹn.
7- Samādhikathā: Nói chuyện về định vững chắc.
8- Paññākathā: Nói chuyện về trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp.
9- Vimuttikathā: Nói chuyện về giải thoát khỏi phiền-não.
10- Vimuttiñāṇadassanakathā: Nói chuyện về tri kiến giải thoát khỏi phiền-não.
Gặp nhau có hai phận sự nên hành
“Sannipatitānaṃ vo bhikkhave dvayaṃ karaṇīyaṃ dhammī vā kathā ariyo vā tuṇhibhāvo.” [15]
-Này chư tỳ-khưu! Các con khi gặp mặt nhau có 2 phận sự nên hành là: nên nói đúng theo chánh-pháp, hoặc nên im lặng như bậc Thánh-nhân.”
* Trường hợp Đức-Phật thuyết pháp
Đức-Phật biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng:
1- Đức-Phật biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
2- Đức-Phật biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
3- Đức-Phật biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
4- Đức-Phật biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, người nghe cũng không hài lòng, không hoan hỷ. Đức-Phật không thuyết giảng pháp ấy.
5- Đức-Phật biết rõ pháp nào chân thật và đem lại sự lợi ích, nhưng người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Đức-Phật biết tùy người, tuỳ nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
6- Đức-Phật biết rõ pháp nào chân thật và đem lại sự lợi ích, người nghe cũng hài lòng, hoan hỷ. Đức-Phật biết tùy người, tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
1- Người nghe hiểu biết sự thật (puggala).
2- Người nghe ấy có thời gian thích hợp nghe sự thật (kāla).
3- Người nghe ấy có thời gian thích hợp và có nơi chốn thích hợp nghe sự thật (desa).
- Điều-giới thứ 8
Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Micchājīvā: Micchā + ājīvā
- Micchā: Sai lầm, tà.
- Micchājīvā: Cách sống tà-mạng.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa cách sống tà-mạng.
Giảng giải về sự tránh xa cách sống tà-mạng
Micchājīvā là cách sống tà-mạng, nghĩa là nuôi mạng bằng thân hành 3 ác-nghiệp, khẩu nói 4 ác-nghiệp.
- Thân hành 3 ác-nghiệp là ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm gọi là tà-nghiệp.
- Khẩu nói 4 ác-nghiệp là ác-nghiệp nói dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp nói lời vô ích gọi là tà-ngữ.
Người nào sống bằng những thứ vật dụng như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh, v.v... là những thứ nhu cầu cần thiết cho cuộc sống hằng ngày được tạo ra bằng tà-nghiệp (thân hành ác), tà-ngữ (khẩu nói ác), thì người ấy gọi là người sống tà-mạng (micchājīvā).
1- Satthavāṇijjā: Làm nghề buôn bán vũ khí giết hại chúng-sinh.
2- Sattavāṇijjā: Làm nghề buôn bán người để làm nô lệ, làm tôi tớ, buôn bán thú vật,…
3- Maṃsavāṇijjā: Làm nghề giết gia cầm, giết gia súc để bán thịt.
4- Majjavāṇijjā: Làm nghề buôn bán rượu, bia, và các chất-say như thuốc phiện, ma túy, thuốc lá,…
5- Visavāṇijjā: Làm nghề buôn bán các loại thuốc độc giết hại chúng-sinh (người, các loài vật,...).
* Người làm nghề cờ bạc, nghề cá độ ăn thua, nghề lừa đảo, lừa gạt, v.v…
Vấn: Điều-giới tránh xa cách sống tà-mạng, mà sống chánh-mạng như thế nào?
Đáp: Người nào tránh xa cách sống tà-mạng là hoàn toàn tránh xa tà-nghiệp do thân hành 3 ác-nghiệp, tránh xa tà-ngữ do khẩu nói 4 ác-nghiệp, tránh xa 5 nghề buôn bán làm khổ chúng-sinh, tránh xa nghề cờ bạc, nghề cá độ ăn thua, nghề lừa đảo, lừa gạt, v.v... rồi sống theo chánh-mạng là sống bằng những thứ của cải được tạo ra một cách hợp với thiện-pháp bằng chánh-nghiệp do thân hành 3 thiện-nghiệp, bằng chánh-ngữ do khẩu nói 4 thiện-nghiệp, người ấy gọi là người sống chánh-mạng.
Vấn: Trước kia, một người nào chưa hiểu biết cách sống chánh-mạng mà sống tà-mạng. Người ấy đã tạo ra những của cải bằng tà-nghiệp do thân hành 3 ác-nghiệp, bằng tà-ngữ do khẩu nói 4 ác-nghiệp, bằng nghề buôn bán bất lương làm khổ chúng-sinh, bằng cách lừa đảo, lừa gạt, v.v...
Về sau, người ấy nghe chánh-pháp, hiểu biết chánh-pháp, người ấy đã tránh xa cách sống tà-mạng, đã từ bỏ cách sống tà-mạng, sống theo chánh-mạng.
Những của cải sự nghiệp như nhà cửa, những thứ vật dụng, đồ dùng, v.v... đã có trước kia được tạo ra bằng tà-nghiệp do thân hành 3 ác-nghiệp, bằng tà-ngữ do khẩu nói 4 ác-nghiệp, hoặc bằng nghề buôn bán bất lương làm khổ chúng-sinh, hoặc bằng nghề lừa đảo, lừa gạt, v.v…
* Người ấy có thể tiếp tục sử dụng những thứ của cải cũ không hợp với thiện-pháp ấy được hay không?
* Nếu người ấy sử dụng những thứ của cải cũ không hợp với thiện-pháp ấy thì có gọi người ấy sống tà-mạng hay không?
Đáp: Sau khi hiểu biết chánh-pháp, người ấy hoàn toàn tránh xa cách sống tà-mạng, từ bỏ cách sống tà-mạng, người tại gia ấy có thể tiếp tục sử dụng những thứ của cải cũ không hợp với thiện-pháp đã có từ trước kia cho đến hết, mà không tạo ra thêm những thứ của cải mới không hợp với thiện-pháp nữa. Người ấy chỉ làm những nghề lương thiện hợp với thiện-pháp mà thôi.
Như vậy, tuy thân của người ấy vẫn còn sử dụng những thứ của cải cũ không hợp với thiện-pháp còn lại, nhưng tâm của người ấy hoàn toàn đã tránh xa tà-nghiệp (do thân hành 3 ác-nghiệp), đã tránh xa tà-ngữ (do khẩu nói 4 ác-nghiệp), đã tránh xa các nghề buôn bán bất lương, tránh xa nghề lừa đảo, lừa gat, v.v…
Như vậy, không thể gọi người ấy sống tà-mạng, mà nên gọi người ấy sống chánh-mạng.
Ví dụ: Trong bộ Chú-giải Pháp-cú, tích ông đao phủ tên Tambadāṭhikacoraghātaka[16], ông hành nghề giết tội nhân trộm cướp theo lệnh của Đức-vua suốt 55 năm để nuôi mạng. Đến khi tuổi già sức yếu, ông xin về hưu.
Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực, ông thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão vào trong nhà để làm phước bố-thí vật-thực. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thuyết pháp tế độ ông.
Sau khi nghe pháp xong, ông thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Sau khi ông ấy chết, đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Tusita (Đâu-xuất-đà-thiên) hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.
Trong Chú-giải Pháp-cú, tích người thợ săn tên Kukkuṭamitta [17] làm nghề săn bắn thú rừng nuôi sống cả gia đình gồm có người vợ, 7 đứa con trai và 7 đứa con dâu (bà vợ của người thợ săn là bậc Thánh Nhập-lưu từ khi còn con gái). Khi kết hôn với người thợ săn, bà sinh được 7 đứa con trai.
Một hôm, Đức-Phật ngự đến thuyết pháp tế độ người thợ săn cùng với 7 người con trai và 7 người con dâu, toàn gia đình đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Từ đó về sau, toàn gia đình đều hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh săn thú rừng, vĩnh viễn từ bỏ sự sát-sinh săn thú rừng để nuôi mạng, trở lại hành nghề lương thiện nuôi mạng chân chính, gọi là những người sống chánh-mạng.
Vấn: Một người thích săn bắn thú rừng hoặc thích câu cá,… xem như thú vui tiêu khiển.
Vậy, người ấy có phải sống tà-mạng hay không?
Đáp: Người ấy thích săn bắn thú rừng hoặc thích câu cá, v.v.… xem như thú vui tiêu khiển, không liên quan đến vấn đề nuôi mạng.
Cho nên, người ấy chỉ phạm điều-giới sát-sinh thuộc về tà-nghiệp mà thôi, không phạm điều-giới sống tà-mạng, bởi vì không liên quan đến sự nuôi mạng.
* Tương tự, một người nói-dối lừa gạt người khác cho vui, không liên quan đến vấn đề nuôi mạng, thì người ấy chỉ phạm điều-giới nói-dối thuộc về tà-ngữ mà thôi, không phạm điều-giới sống tà-mạng, bởi vì không liên quan đến sự nuôi mạng.
* Nếu người nào làm nghề sát-sinh để nuôi mạng thì người ấy phạm điều-giới sát-sinh thuộc về tà-nghiệp và cũng thuộc về sống tà-mạng nữa.
* Nếu người nào nói-dối lừa gạt người khác để chiếm đoạt của cải đem về nuôi mạng, thì người ấy phạm điều-giới nói-dối thuộc về tà-ngữ và cũng thuộc về sống tà-mạng nữa.
Bậc xuất-gia sống tà-mạng
Bậc xuất-gia là tỳ-khưu, sa-di cần phải tránh xa mọi cách sống tà-mạng, sống theo chánh-mạng, phải thực hành theo đúng giới luật mà Đức-Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu.
Đức-Phật không cho phép vị tỳ-khưu hành nghề thầy thuốc, thầy bói, thầy xem tướng số, v.v… và các ngành nghề khác.
Nếu tỳ-khưu nào làm nghề như vậy, tỳ-khưu ấy bị phạm điều-giới (āpatti). Những thứ vật dụng được phát sinh do hành nghề ấy gọi là những thứ vật dụng không hợp với giới luật của Đức-Phật chế định và ban hành đối với chư tỳ-khưu.
Cho nên, những thứ vật dụng ấy không chỉ vị tỳ-khưu phạm điều-giới ấy không thể sử dụng được, mà còn tất cả chư tỳ-khưu khác cũng không thể sử dụng được. Vị tỳ-khưu ấy chỉ có cách xả bỏ mà thôi.
* Tỳ-khưu nào sống tà-mạng thấp hèn, tự khoe khoang pháp của bậc Thánh-nhân mà chính mình không có, tỳ-khưu ấy phạm điều-giới bại-hoại (pārājika) (không còn phẩm hạnh tỳ-khưu nữa).
* Tỳ-khưu nào sống tà-mạng, làm mai mối cho người nam và người nữ kết hôn thành vợ chồng, tỳ-khưu ấy phạm điều-giới hành-phạt (saṃghādisesa) (tuy còn phẩm hạnh tỳ-khưu nhưng là tỳ-khưu phạm giới).
* Tỳ-khưu nào sống tà-mạng, nói gián tiếp trong chùa có vị Thánh-nhân, tỳ-khưu ấy phạm điều-giới nặng (thullaccaya).
* Tỳ-khưu sống tà-mạng, tỳ-khưu không có bệnh xin vật thực ngon để dùng, tỳ-khưu ấy phạm điều-giới sám hối lỗi (pācittiya), v.v…
Nhận xét về ngũ-giới và bát-giới Ājīvaṭṭhamakasīla
Ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có điều giống nhau và điều đặc biệt.
Ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là 2 loại giới chung cho tất cả mọi người tại gia trong đời, không ngoại trừ một ai cả, dù có thọ trì, dù không thọ trì 2 loại giới này, hễ người nào phạm điều-giới nào thì người ấy tạo ác-nghiệp điều-giới ấy.
* Ngũ-giới có 5 điều-giới là thường-giới (niccasīla) của tất cả mọi người tại gia ở trong đời, không ngoại trừ một ai cả.
- Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn thì người ấy giữ gìn được nhân phẩm cao quý con người của mình, đồng thời tạo đại-thiện-nghiệp giữ giới cao quý đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
- Nếu người nào phạm điều-giới nào trong ngũ-giới, thì người ấy làm mất nhân phẩm cao quý con người của mình, tạo ác-nghiệp điều-giới ấy đem lại sự bất lợi, sự thoái hóa, sự khổ não trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
* Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới cũng là thường-giới (niccasīla) có tính chất rộng và sâu sắc đặc biệt hơn ngũ-giới.
- Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới có tính chất rộng của tất cả mọi người tại gia và những bậc xuất-gia, đặc biệt còn là giới của các hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
- Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có 8 điều-giới cao quý, bởi vì 8 điều-giới này gồm có 3 chánh là chánh-nghiệp, chánh-ngữ, chánh-mạng, thuộc về phần giới trong bát-chánh-đạo.
* Chánh-nghiệp có 3 thân hành thiện-nghiệp:
- Tránh xa sự sát-sinh.
- Tránh xa sự trộm-cắp.
- Tránh xa sự tà-dâm.
* Chánh-ngữ có 4 khẩu hành thiện-nghiệp:
- Tránh xa sự nói-dối.
- Tránh xa sự nói lời chia rẽ.
- Tránh xa sự nói lời thô tục.
- Tránh xa sự nói lời vô ích.
* Chánh-mạng là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành 3 ác-nghiệp, do khẩu hành 4 ác-nghiệp, mà chỉ sống theo chánh-mạng do thân hành 3 thiện-nghiệp, do khẩu hành 4 thiện-nghiệp mà thôi.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định; đó là 8 tâm-sở chỉ đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn mà thôi. 8 chánh trong bát-chánh-đạo này chia ra làm 3 phần:
1- Phần tuệ có 2 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy.
2- Phần giới có 3 chánh là chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng.
3- Phần định có 3 chánh là chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Cho nên, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là giới cơ bản của tất cả mọi người nói chung, làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo-tâm.
Thật vậy,* trong siêu-tam-giới-tâm, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng đó là 3 tâm-sở cố định (niyata-ekatocetasika) chỉ đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn mà thôi.
* Trong đại-thiện-tâm, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng đó là 3 tâm-sở bất định (aniyatacetasika) thuộc loại nānākadācicetasika mỗi tâm-sở đồng sinh riêng rẽ với 8 đại-thiện-tâm có mỗi đối-tượng khác nhau.
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo gọi bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là ādibrahmacariyakasīla: giới ban đầu thực-hành phạm-hạnh cao thượng, cho nên hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cần phải giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla có một tầm quan trọng hơn ngũ-giới. Bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla này cũng là thường-giới của tất cả mọi người ở trong đời, trong cuộc sống hằng ngày đêm, không ngoại trừ một ai cả.
Nếu người nào phạm điều-giới nào trong 8 điều-giới ājīvaṭṭhamakasīla này, đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy thì người ấy phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.
Những tích liên quan đến phạm điều-giới trong bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla
1- Quả xấu của người phạm điều-giới nói lời chia rẽ
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa dạy bài kinh Sūcilomasutta [18] được tóm lược như sau:
Một buổi sáng, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa từ trên núi Gijjhakūṭa cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực.
Trên đường từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nhìn thấy loài ngạ-quỷ có lông kim đâm thật là kỳ quái, nên Ngài Đại-Trưởng-lão mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, do nhân duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười.[19]
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Bây giờ tôi chưa thể trả lời được. Pháp-hữu chờ khi chúng ta cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, tôi sẽ trả lời cho pháp-hữu rõ.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân-duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười?
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, tôi nhìn thấy loài ngạ-quỷ có lông kim lơ lửng trên hư không, những lông kim ấy đâm từ đầu ra miệng, đâm từ miệng ra ngực, đâm từ sau ra bụng, đâm từ bụng ra 2 vế non, đâm từ 2 vế non ra 2 bắp chân, đâm từ 2 bắp chân ra 2 bàn chân. Ngạ-quỷ ấy đau đớn khóc than thảm thiết.
- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Như-lai là người có nhãn-thông thấy rõ loài ngạ-quỷ có lông kim ấy, đúng sự thật như vậy.
Thật ra, trước đây, Như-Lai đã từng gặp loài ngạ-quỷ có lông kim đâm ấy, nhưng Như-lai chưa cho các con biết có loài ngạ-quỷ như vậy, bởi vì Như-Lai nói ra, nếu người nào không tin Như-Lai thì điều ấy sẽ đem lại sự bất lợi, làm họ khổ lâu dài.
- Này chư tỳ-khưu! Tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ có lông kim đâm ấy là người phạm điều-giới nói lời chia rẽ, tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ làm cho mọi người trong kinh-thành Rājagaha chia rẽ nhau, làm mất sự đoàn kết trong thời quá-khứ.
Một thuở nọ, Đức-Phật ngự ở tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy Đức-Phật đề cập đến loài ngạ-quỷ đầu heo trong tích sūkarapetavatthu [20] được tóm lược như sau:
Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực. Trên đường từ núi Gijjhakūṭa đi xuống, đến một nơi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog-gallāna nhìn thấy loài ngạ-quỷ thật là kỳ quái, rồi Ngài mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi rằng:
- Kính thưa pháp-phuynh Mahāmoggallāna, do nhân-duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười.
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Bây giờ tôi chưa thể trả lời được. Pháp-hữu chờ khi chúng ta cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, tôi sẽ trả lời cho pháp-hữu rõ.
Hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực. Sau khi độ vật thực xong, hai Ngài Trưởng-lão cùng nhau đến ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha, vào đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Lakkhaṇa hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Mahāmoggallāna, khi từ trên núi Gijjhakūṭa đi xuống, do nhân-duyên nào mà pháp-huynh mỉm cười?
- Này pháp-hữu Lakkhaṇa! Khi ấy tôi nhìn thấy một ngạ-quỷ thật là kỳ quái, nó cao khoảng 3 gāvuta [21] thân hình của nó giống người, cái đầu giống đầu heo, trong miệng của nó có mọc một cái đuôi, các con giòi chảy ra từ miệng. Tôi chưa từng thấy một loài ngạ-quỷ kỳ quái như vậy. Đó là nhân-duyên làm cho tôi mỉm cười.
- Này chư tỳ-khưu! Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Như-Lai có nhãn-thông nhìn thấy được loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái ấy, đúng sự thật như vậy.
Trước đây, chính Như-Lai cũng đã từng gặp ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái ấy, nhưng Như-lai chưa cho các con biết có loài ngạ-quỷ như vậy, bởi vì Như-Lai nói ra, nếu người nào không tin Như-Lai thì điều ấy sẽ đem lại sự bất lợi, làm họ khổ lâu dài.
Bây giờ, Moggallāna nhìn thấy ngạ-quỷ ấy nên Như-Lai truyền dạy cho các con biết rõ.
- Này chư tỳ-khưu! Moggallāna nhìn thấy và thuật lại loài ngạ-quỷ ấy có thân hình kỳ quái như vậy là hoàn toàn đúng với sự thật.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào mà kiếp hiện-tại này là loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ quái như vậy? Bạch Ngài.
* Đức-Phật truyền dạy về tiền-kiếp của loài ngạ-quỷ ấy là người phạm điều-giới nói lời chia rẽ giữa hai Ngài Trưởng-lão có giới-đức trong sạch trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, được tóm lược như sau:
Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa (thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20.000 năm), hai Ngài Trưởng-lão rất thương yêu kính mến nhau, cùng sống chung trong một ngôi chùa làng. Vị Trưởng-lão lớn có 60 hạ và vị
Trưởng-lão nhỏ có 56 hạ, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ hết lòng tôn kính Ngài Trưởng-lão cao hạ.
Hằng ngày, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cung kính làm mọi phận sự như đem nước uống, nước dùng, quét dọn, giặt y,… cho Ngài Trưởng-lão cao hạ.
Khi Ngài Trưởng-lão cao hạ đi khất thực, thì Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ mang y và bát theo sau … Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ làm mọi phận sự như một vị sa-di cung kính phục vụ vị thầy của mình.
Hai Ngài Trưởng-lão sống chung hòa thuận với nhau như hai anh em ruột cùng cha mẹ sinh ra.
Một hôm, có một vị pháp-sư đến chùa, nhằm vào ngày thuyết pháp, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư thuyết pháp tế độ hai Ngài Trưởng-lão.
Sau khi lắng nghe pháp xong, hai Ngài Trưởng-lão phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ.
Ngày hôm sau, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư cùng đi vào xóm làng để khất thực. Sau khi thọ thực xong, hai Ngài Trưởng-lão kính thỉnh vị pháp-sư thuyết pháp tế độ những thí-chủ.
Nghe pháp rất hoan hỷ, những người thí-chủ kính thỉnh vị pháp-sư mỗi ngày đi khất thực, để họ có cơ hội tốt cúng dường vật thực và nghe pháp.
Sau khi trở về chùa, vị pháp-sư nghĩ rằng: “Hai Ngài Trưởng-lão này dễ dạy, những thí-chủ nơi đây có đức-tin nơi ta, vậy ta nên tìm cách làm cho hai Ngài Trưởng-lão bỏ ngôi chùa này đi nơi khác, một mình ta ở tại ngôi chùa này, ta sẽ được nhiều lợi ích biết dường nào.”
Sau khi suy nghĩ xong, lén tìm đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão cao hạ, vị pháp-sư bịa chuyện thưa với Ngài Trưởng-lão cao hạ rằng:
- Thưa Ngài Trưởng-lão, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài nữa.
Ban đầu, Ngài Trưởng-lão cao hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.
Rồi lại lén tìm đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ, vị pháp-sư bịa chuyện thưa với vị Trưởng-lão nhỏ hạ rằng:
- Thưa Ngài Trưởng-lão, tôi xin nói nhỏ cho Ngài biết, Ngài Trưởng-lão cao hạ nói xấu Ngài, còn khuyên tôi không nên gần gũi thân cận với Ngài nữa.
Ban đầu, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ không tin rằng đó là sự thật, bởi vì từ lâu họ đã sống chung với nhau như tình huynh đệ.
Vị pháp-sư cố gắng bịa chuyện nói như vậy nhiều lần, khiến gây ra sự ngờ vực giữa hai Ngài Trưởng-lão, rồi từ ngờ vực phát sinh hiểu lầm nhau, dẫn đến tin rằng: ‘Điều mà vị pháp-sư nói có lẽ là sự thật.’
Như thường ngày, đến giờ đi khất thực, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão cao hạ xin nhận mang y bát theo sau, nhưng sáng hôm ấy Ngài Trưởng-lão cao hạ không cho Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ nhận y bát của mình, mỗi Ngài Trưởng-lão đi khất thực riêng rẽ.
Khi xảy ra sự bất bình giữa hai Ngài Trưởng-lão với nhau, cả hai Ngài Trưởng-lão đều bỏ ngôi chùa đi mỗi người mỗi hướng, một Ngài Trưởng-lão đi về hướng Đông, còn Ngài Trưởng-lão khác đi về hướng Tây.
Chỉ còn lại một mình vị pháp-sư đi vào xóm làng để khất thực, những người thí-chủ bạch hỏi đến hai Ngài Trưởng-lão ấy, vị pháp-sư nói rằng:
-Ngày hôm qua, hai Ngài Trưởng-lão ấy có chuyện bất hòa, cãi cọ với nhau, bần sư đã cố gắng hết sức khuyên bảo giải hòa nhưng không được, cho nên hai Ngài Trưởng-lão đã đi khỏi ngôi chùa, mỗi người mỗi hướng.
Ngài Trưởng-lão cao hạ nghĩ rằng: “Ác-nghiệp của vị nhỏ hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với ta.”
Và Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng nghĩ rằng: “Ác-nghiệp của vị cao hạ nặng thật, đã nói xấu ta, lại còn khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với ta.”
Vì vậy, hai Ngài Trưởng-lão mỗi vị đi một đường suốt 100 năm, tâm của hai Ngài Trưởng-lão không được an-lạc.
Một hôm, Ngài Trưởng-lão cao hạ đến tạm trú tại một ngôi chùa. Về sau, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng ghé vào tạm trú tại ngôi chùa ấy. Ngẫu nhiên hai Ngài Trưởng-lão gặp lại nhau.
Ngài Trưởng-lão cao hạ nhận biết Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ, và Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ cũng nhận biết vị Trưởng-lão cao hạ, hai Ngài Trưởng-lão vô cùng cảm động và đều trào nước mắt.
Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ đảnh lễ Ngài Trưởng-lão cao hạ xong, rồi bạch rằng:
- Kính bạch pháp-huynh, trong thời gian trước đây, pháp-đệ đã cung kính phục vụ pháp-huynh, nếu có phạm những lỗi nào làm phật ý pháp-huynh thì pháp-đệ xin thành tâm sám hối. Kính xin pháp-huynh có tâm từ, tâm bi tha thứ lỗi cho pháp-đệ.
Nghe Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ kính bạch như vậy, Ngài Trưởng-lão cao hạ suy xét kỹ rồi trả lời rằng:
- Này pháp-đệ! Pháp-huynh chưa từng thấy lỗi nào mà pháp-đệ đã mắc phải.
- Kính bạch pháp-huynh, nếu thật như vậy thì tại sao pháp-huynh nói xấu pháp đệ với vị pháp-sư, và khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với pháp-đệ?
Ngài Trưởng-lão cao hạ khẳng định rằng:
- Này pháp đệ! Pháp-huynh không bao giờ nói như vậy với vị pháp-sư ấy. Và chính vị pháp-sư đã nói với pháp-huynh rằng:
“Pháp-đệ nói xấu pháp-huynh với vị pháp-sư ấy, và khuyên vị pháp-sư không nên thân cận với pháp-huynh.”
Nghe Ngài Trưởng-lão cao hạ nói như vậy, Ngài Trưởng-lão nhỏ hạ khẳng định chắc chắn rằng:
- Kính bạch pháp-huynh, pháp-đệ không bao giờ dám nói xấu pháp-huynh với vị pháp-sư và cũng không bao giờ khuyên vị pháp-sư không nên gần gũi thân cận với pháp-huynh.
Ngay lúc ấy, hai Ngài Trưởng-lão mới hiểu rõ rằng: “Vị pháp-sư có mưu đồ đen tối bịa chuyện nói lời chia rẽ, gây ra sự hiểu lầm giữa hai Ngài Trưởng-lão huynh đệ thân thiết như ruột thịt, làm cho hai Ngài Trưởng-lão giận hờn nhau bỏ đi mỗi vị một hướng, để ngôi chùa lại cho vị pháp-sư.”
Bây giờ, đã hiểu biết rõ như vậy, nên hai Ngài Trưởng-lão sám hối lẫn nhau, tình huynh đệ trở lại thương yêu kính mến nhau như xưa.
Hai Ngài Trưởng-lão cùng dẫn nhau trở về ngôi chùa cũ, vị pháp-sư giả vờ tỏ vẻ vui mừng đón rước, nhưng do đã biết rõ thái độ giả dối của vị pháp-sư, nên hai Ngài Trưởng-lão nói rằng:
-Này vị pháp-sư! Ngài không còn xứng đáng ở tại ngôi chùa này nữa, Ngài hãy đi nơi khác.
Biết âm mưu của mình đã bị bại lộ, vị pháp-sư liền đi ra khỏi chùa ngay tức thì.
Vị pháp-sư đã xuất gia suốt thời gian lâu năm trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa. Tuy vị pháp-sư thuyết pháp hay, nhưng đã phạm điều-giới nói lời chia rẽ hai Ngài Trưởng-lão có giới-đức.
Sau khi vị pháp-sư chết, khẩu ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy trong ác-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài, rồi từ cõi đại-địa-ngục đến các cõi tiểu-địa-ngục, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, cũng do ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy cho quả tái-sinh kiếp sau làm ngạ-quỷ có hình thù kỳ quái đầu heo như vậy.
2- Người phạm điều-giới nói lời thô tục
Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Khi ấy Đức-Phật đề cập đến tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Jambuka [22] đã phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, được tóm lược như sau:
Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đến độ ngọ tại nhà thí-chủ. Một hôm, một Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là bậc Thánh A-ra-hán đi khất thực đến đứng trước cổng nhà người thí-chủ ấy, Ngài Trưởng-lão có lục căn thanh-tịnh thật đáng tôn kính.
Nhìn thấy tấm y của Ngài Trưởng-lão đã cũ, người thí-chủ xin phép kính dâng đến Ngài Trưởng-lão tấm y mới. Thấy tóc Ngài Trưởng-lão hơi dài, người thí-chủ xin phép gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài Trưởng-lão. Người thí-chủ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão đến nghỉ tại chùa, và xin phép mang một chiếc giường đến kính dâng lên Ngài Trưởng-lão.
Vị tỳ-khưu trụ trì đang ngồi trong nhà thí-chủ, theo dõi nhìn thấy người thí-chủ hết lòng thành kính đối với Ngài Trưởng-lão khách-Tăng như vậy, phát sinh tâm ganh tỵ, nên nghĩ rằng:
“Tuy mới gặp vị khách-Tăng này nhưng người thí-chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ đến như thế. Còn ta đến đây độ ngọ mỗi ngày, mà ta đâu có được người thí-chủ tôn kính ân cần phục vụ như vậy đâu.”
Người thí-chủ kính dâng một tấm y mới đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài, kính dâng đến Ngài một chiếc giường, rồi kính thỉnh Ngài sử dụng chiếc giường ấy để cho thí-chủ có được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Người thí-chủ kính thỉnh vị tỳ-khưu trụ trì và Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sáng ngày hôm sau đến nhà ông độ ngọ. Người thí-chủ cung kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão khách-Tăng và vị tỳ-khưu trụ trì, rồi xin phép trở về nhà.
Theo dõi thấy người thí-chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ chu đáo Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ không sao chịu nổi được, nên vội vàng đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão, buông lời chửi mắng Ngài Trưởng-lão là bậc Thánh A-ra-hán 4 điều là:
-Này ông khách-Tăng!
* Ông nên ăn phân hơn là độ vật thực của nhà thí-chủ.
* Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí-chủ.
* Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí-chủ.
* Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí-chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.
“Xin cho vị tỳ-khưu trụ trì này đừng có bị tai-hại.”
Sáng ngày hôm sau ấy, sau khi làm mọi công việc trong chùa xong, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ trì dùng ngón tay búng nhẹ vào cái chuông báo hiệu giờ đi khất thực, rồi một mình đi đến nhà người thí-chủ.
Người thí-chủ đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ trì xong, bèn bạch rằng:
- Kính bạch Ngài, Ngài đến đây một mình, còn Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sao chưa thấy đến. Bạch Ngài.
- Này ông thí-chủ! Xin ông đừng nhắc đến vị khách-Tăng ấy nữa. Hôm qua, sau khi ông trở về, vị khách-Tăng ấy vào phòng ngủ. Sáng nay sư thức dậy sớm làm mọi công việc quét dọn sạch sẽ bên trong, bên ngoài chùa, lấy nước uống, nước dùng… xong, đến giờ đi khất thực, sư đã đánh chuông báo hiệu, mà vẫn chưa thấy vị khách-Tăng ấy thức dậy, cho nên một mình sư đến đây.
“Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là Bậc có Tăng tướng thanh-tịnh, đáng tôn kính như vậy, thì chắc chắn không phải là Bậc mê ngủ như vị tỳ-khưu trụ trì đã nói.
Có lẽ vị tỳ-khưu trụ trì thấy ta hết lòng tôn kính, ân cần phục vụ chu đáo đặc bịêt Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, cho nên vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ mà bịa chuyện nói xấu Ngài Trưởng-lão khách-Tăng ấy.”
-Kính bạch Ngài, kính xin Ngài hoan hỷ mang bát vật thực này về chùa dâng lại cho Ngài Trưởng-lão khách-Tăng. Bạch Ngài.
“Nếu vị ấy có được vật thực ngon như thế này, thì sẽ ở mãi ngôi chùa của ta, không dễ gì chịu đi nơi khác.”
Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ trì đi vào chỗ ở không thấy Ngài Trưởng-lão khách-Tăng nữa.
Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm hối hận, nóng nảy khổ tâm, cho nên, thực-hành pháp-hành thiền-định, hoặc pháp-hành thiền-tuệ không thể phát triển được, bởi vì vị tỳ-khưu trụ trì phạm điều-giới nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là bậc Thánh A-ra-hán.
Vị tỳ-khưu trụ trì đã phạm điều-giới nói lời thô tục, đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục, nên phát sinh tâm hối hận, nóng nảy, khổ tâm, duy trì sinh-mạng đến hết tuổi thọ.
Sau khi vị trụ trì ấy chết, ác-nghiệp nói lời thô tục ấy trong ác-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi-sandhikāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục suốt thời gian lâu dài, rồi từ cõi tiểu-địa-ngục này đến các cõi tiểu địa-ngục kia, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.
Hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, sau khi hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì ấy thoát ra khỏi cõi địa-ngục, nhờ đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào một gia đình khá giả ở trong kinh-thành Rājagaha.
Đứa trẻ sinh ra đời được đặt tên là Jambuka, ác-nghiệp nói lời thô tục đối với bậc Thánh A-ra-hán trong tiền-kiếp cho quả thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, bé Jambuka lớn dần nó có những tính cá biệt như:
* Nó chỉ thích ăn phân của nó mà thôi, không chịu ăn món vật thực nào khác. Cha mẹ nó tưởng rằng:
“Trẻ con còn nhỏ dại không biết nên ăn bậy.”
* Nó chỉ thích nằm dưới đất mà thôi, không chịu nằm trên giường.
* Nó chỉ thích ở truồng mà thôi, không chịu mặc quần áo gì cả (mặc dù trời lạnh hay trời nóng).
Khi trưởng thành, cậu Jambuka thích ăn phân không chịu ăn các món ăn khác; thích ở truồng không chịu mặc quần áo; vẫn thích nằm trên mặt đất không chịu nằm trên giường.
“Jambuka đã lớn rồi, nhưng không biết hổ-thẹn, không biết mắc cở, nó thích ở truồng, không chịu mặc quần áo. Chúng ta nên cho Jambuka xuất gia theo phái tu-sĩ đạo lõa thể, thì sẽ thích hợp với nó hơn là sống tại gia với chúng ta.”
Cha mẹ dẫn cậu Jambuka đến phái tu-sĩ đạo lõa thể, xin cho cậu Jambuka được xuất gia theo phái này.
Phái tu-sĩ đạo lõa thể đồng ý chấp thuận cho cậu Jambuka xuất gia trở thành tu-sĩ trong phái họ với điều kiện bắt buộc Jambuka phải nhổ tóc cho sạch, không được cạo tóc.
Chấp nhận điều kiện ấy, cậu Jambuka tự nhổ sạch tóc, rồi được xuất gia trở thành tu-sĩ lõa thể.
Sáng ngày hôm sau, tất cả nhóm tu-sĩ đều đến nhà cha mẹ của Jambuka,nhưng tu-sĩ Jambuka xin phép ở lại tu viện một mình.
Thấy tất cả nhóm tu-sĩ vừa đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đến hầm cầu dùng 2 bàn tay hốt phân ăn no đủ. Khi nhóm tu-sĩ trở về có mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng Jambuka không thọ nhận mà thưa rằng:
- Con đã dùng vật thực no đủ rồi.
- Con đã dùng vật thực no đủ rồi.
“Tại sao tu-sĩ Jambuka không dùng vật thực mà chúng ta đem về? Vật thực mà Jambuka dùng mấy hôm vừa qua có từ đâu?
Chúng ta nên cho người dò xét xem để biết sự thật.
Thấy tất cả tu-sĩ lõa thể đã đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đi đến hầm cầu dùng 2 tay hốt phân ăn no đủ rồi đi ra, không hề hay biết có người đang theo dõi mình.
Khi nhóm tu-sĩ đi khất thực trở về, hai vị tu-sĩ làm phận sự theo dõi tu-sĩ Jambuka trình bày sự thật mà họ đã tận mắt nhìn thấy cho mọi người cùng nghe.
Nghe xong như vậy, nhóm tu-sĩ lõa thể bàn bạc với nhau rằng:
“Nếu chúng ta để Jambuka ở lại nơi đây, không sớm thì muộn đệ-tử của Sa-môn Gotama hay biết, chắc chắn chúng ta sẽ mất uy tín, tiếng xấu sẽ lan tỏa ra khắp mọi nơi. Vậy chúng ta nên đuổi Jambuka ra khỏi tu viện.”
Buổi tối, tu-sĩ lõa thể Jambuka lén đến nơi đó lấy phân ăn, còn ban ngày y đứng một chân, một chân kia chống vào đầu gối và một tay vịn vào tảng đá há miệng ngửa mặt nhìn trời.
Một số đông người qua lại gặp tu-sĩ lõa thể Jambuka thực-hành hạnh lạ thường nên đến gặp tu-sĩ lõa thể Jambuka bạch hỏi rằng:
- Kính bạch Ngài! Tại sao hằng ngày Ngài đứng há miệng như vậy?
- Này quý vị! Ta là người dùng vật thực bằng gió, chỉ có gió là vật thực của ta mà thôi. Ngoài vật thực gió ra ta không dùng một thứ vật thực nào khác.
- Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng một chân, còn một chân kia chống vào đầu gối như vậy?
- Này quý vị! Ta là người thực-hành hạnh cao thượng, hạnh này có nhiều thần-lực. Nếu ta đứng cả 2 chân trên mặt đất thì sẽ làm cho mặt đất này rung chuyển. Vì vậy, ta chỉ đứng một chân mà thôi, còn chân kia chống vào đầu gối, suốt ngày đêm không ngồi, không nằm.
Một số đông dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem nhiều phẩm vật đến cúng dường, nhưng tu-sĩ Jambuka không nhận một thứ nào cả.
Tu-sĩ Jambuka ở truồng, ăn phân, nằm trên mặt đất, nhổ tóc trải qua suốt 55 năm ròng rã.
Đức-Phật ngự đến tế độ tu-sĩ Jambuka
Sáng hôm ấy, Đức-Phật ngự vào kinh-thành Rājagaha cùng chư tỳ-khưu-Tăng để khất thực, khi trở về Đức-Phật gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda dạy rằng:
-Này Ānanda! Như-Lai sẽ ngự đi một mình đến tế độ tu-sĩ Jambuka.
Buổi chiều hôm ấy, Đức-Phật ngự đến gặp tu-sĩ Jambuka xin nghỉ trọ một đêm. Tu-sĩ Jambuka một mực khước từ, y nói rằng:
- Thưa Sa-môn, nơi đây không có chỗ cho Sa-môn nghỉ trọ một đêm đâu, xin Sa-môn hãy đi đến nơi khác.
- Này Jambuka! Ngươi có phải là tu-sĩ lõa thể không?
- Thưa Sa-môn, tôi là tu-sĩ đạo lõa thể.
- Này Jambuka! Những thứ vật dụng của tu-sĩ đạo lõa thể của ngươi để đâu mà Như-lai không thấy?
- Này Sa-môn! Nơi đây không có chỗ để Sa-môn nghỉ trọ đâu.
- Này Jambuka! Xin đừng nổi giận, xin ngươi chỉ cho Như-Lai một chỗ ở.
- Này Sa-môn! Sa-môn tự tìm lấy chỗ ở.
Canh đầu đêm, Tứ-đại-Thiên-vương từ 4 hướng cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, ánh sáng hào quang của Tứ-đại-thiên-vương tỏa ra khắp một vùng trời. Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:
“Ánh sáng hào quang gì vậy, 4 vị chư-thiên ấy là vị nào mà đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
Canh giữa đêm, Đức-vua trời Sakka cõi Tam-thập-Tam-thiên ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, ánh sáng hào quang tỏa ra khắp vùng rộng lớn hơn canh đầu đêm.
“Ánh sáng hào quang này lớn hơn lần trước, vị chư-thiên ấy là vị nào có oai lực hơn 4 vị chư-thiên trước đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy. Vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
“Vị chư-thiên ấy là vị nào mà có ánh hào quang gấp bội hơn hai lần trước, đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy, chắc chắn vị Sa-môn ấy phải là Bậc cao thượng.”
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh đầu đêm hôm qua, 4 vị chư-thiên nào từ 4 hướng đến hầu đảnh lễ Ngài, 4 vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng như vậy? Bạch Ngài.
- Này Jambuka! 4 vị ấy là Tứ-đại-Thiên-vương từ 4 hướng của cõi trời Tứ-đại-thiên-vương.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả Tứ-đại-thiên-vương.
- Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn Tứ-đại-Thiên-vương, cho nên, Tứ-đại-Thiên-vương đến hầu hạ Như-Lai.
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh giữa đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
- Này Jambuka! Vị ấy là Đức-vua trời Sakka trị vì cõi trời Tam-thập-tam-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn Đức-vua trời Sakka.
- Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn Đức-vua trời Sakka, cho nên, Đức-vua trời Sakka như người nuôi bệnh của Như-Lai, hay như một sa-di nhỏ hầu hạ Như-Lai.
- Kính thưa Đại Sa-môn, canh chót đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa khắp một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
- Này Jambuka! Vị ấy là vị Đại-Phạm-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả vị Đại-Phạm-thiên.
- Này Jambuka! Như-Lai là bậc cao thượng hơn cả vị Đại-Phạm-thiên.
- Kính thưa Đại Sa-môn, Ngài là Bậc cao thượng. Tôi thực-hành hạnh cao thượng, chỉ đứng một chân, còn chân bên kia chống vào đầu gối, không ngồi, không nằm, ngửa mặt lên trời dùng gió làm vật thực trải qua 55 năm rồi, mà không có một chư-thiên nào đến hầu hạ tôi cả.
- Này Jambuka! Ngươi lừa dối được những người mê tín nhưng ngươi không thể lừa dối được Như-Lai đâu!
- Này Jambuka! Có phải trải qua suốt 55 năm, hằng ngày ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc. Thế mà ngươi đã lừa dối những người mê tín rằng:
“Ngươi ăn vật thực bằng gió, đứng một chân, không ngồi, không nằm.”
Nay, ngươi còn muốn lừa dối cả Như-Lai nữa hay sao?
Trong tiền-kiếp của ngươi đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán, nên kiếp hiện-tại này ngươi phải chịu quả khổ của khẩu ác-nghiệp ấy còn dư sót, cho nên, ngươi phải ăn phân, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc.
Bây giờ ngươi còn chấp thủ do tà-kiến thấp hèn như vậy được nữa hay sao?
-Kính bạch Đại Sa-môn, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục nào mà con đã tạo trong tiền-kiếp quá khứ của con? Bạch Ngài.
Tiền-kiếp của tu-sĩ Jambuka đã từng là vị tỳ-khưu trụ trì một ngôi chùa đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục, mắng nhiếc bậc Thánh-A-ra-hán trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa rằng:
* Ông nên ăn phân hơn là độ vật thực của nhà thí-chủ.
* Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí-chủ.
* Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí-chủ.
* Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí-chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.
Lắng nghe về khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán của mình như vậy, tu-sĩ Jambuka phát sinh động tâm và vô cùng hổ-thẹn tội-lỗi của mình, liền ngồi chồm hổm xuống.
Đặc biệt đồng thời ngay khi ấy, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cũng đã mãn quả của ác-nghiệp ấy, hết hiệu lực cho quả xấu nữa.
Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tu-sĩ Jambuka có đủ phước-thiện đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ, nhất là kiếp tỳ-khưu trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa suốt 20.000 năm, có lời phát nguyện, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh như thần thông, nên Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ, rồi truyền dạy rằng:
“Ehi bhikkhu! cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”[23]
-Này Jambuka! Con hãy đến đây, con được trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Con nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng dẫn đến tận cùng của sự khổ sinh.
Sau khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt, tướng mạo của tu-sĩ Jambuka liền biến mất. Và ngay khi ấy, Jambuka trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, và có tăng tướng trang nghiêm như một Ngài Trưởng-lão có 60 hạ.
Hôm ấy, mọi người đến gặp Đức-Phật tại nơi ấy, nên họ nghĩ rằng:
“Không biết Sa-môn Gotama cao thượng hơn tu-sĩ Jambuka, hay tu-sĩ Jambuka vị thầy của chúng ta cao thượng hơn Sa-môn Gotama?”
“Satthā me Bhante Bhagavā, Sāvakohamasmi.”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là vị Tôn-sư của con, và con là hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn.
Khi bạch xong, Ngài Trưởng-lão Jambuka đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Phật.
Một lần nữa, Ngài Trưởng-lão Jambuka bay lên cao khoảng 2 cây thốt nốt, 3 cây thốt nốt, …, 7 cây thốt nốt, … rồi bạch như lần trước xong, đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Phật.
Mọi người đã thấy và nghe rõ lời của Ngài Trưởng-lão Jambuka cho nên không còn hoài-nghi nữa. Mọi người đồng tán dương ca tụng ân-Đức-Phật thật là phi thường.
Khi ấy, Đức-Phật thuyết một bài kệ, vừa chấm dứt bài kệ, 84.000 chúng-sinh đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
* Nghệ sĩ chuyên nghiệp sẽ có hậu quả như thế nào?
- Có phải là chánh-ngữ hay không?
- Có phải là chánh-nghiệp hay không?
- Có phải là chánh-mạng hay không?
- Hậu quả của họ như thế nào?
* Nghiệp và quả của nghiệp của người nghệ sĩ
Để hiểu rõ những vấn đề này, nên tìm hiểu bài kinh Tālapuṭasutta [24] Đức-Phật truyền dạy ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi được tóm lược như sau:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đã từng nghe lời dạy của nghệ sĩ tài hoa, giỏi về tài nghệ nhảy múa ca hát, những người ấy là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối nói rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, về điều này, Đức-Thế-Tôn truyền dạy như thế nào? Bạch Ngài.
-Này Gāmaṇi! Con không nên hỏi Như-Lai về điều ấy.
Lần thứ nhì…, lần thứ ba, ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi cũng bạch hỏi như trước rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan-hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
- Này Gāmaṇi! Như-Lai đã dạy bảo con rằng: “Con không nên hỏi Như-Lai về điều ấy.”
Nếu con muốn biết thì Như-Lai sẽ trả lời cho con biết rõ rằng:
- Này Gāmaṇi! Những người chưa diệt được tâm tham, bị phiền-não tham dục chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài nghệ trình diễn, nhảy múa, ca hát, … là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm tham say mê trong những đối tượng ấy.
Những người chưa diệt được tâm sân, bị phiền-não sân hận chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài nghệ trình diễn,… là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, người nghe phát sinh tâm sân trong đối tượng ấy.
Những người chưa diệt được tâm si, bị phiền-não si mê chế ngự; khi xem, khi nghe người nghệ sĩ có tài trình diễn,… là những đối tượng trên sân khấu, làm cho người xem, nghe phát sinh tâm si lầm lạc trong đối tượng ấy.
Chính người nghệ sĩ tài nghệ ấy cũng say mê, dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp. Cho nên, sau khi người nghệ sĩ ấy chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục gọi là cõi địa ngục Pahāsa (pahāso nāma nirayo).
-Này Gāmaṇi! Nếu người nào hiểu rằng: “những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ)” thì đó là sự sai lầm của người ấy.
-Này Gāmaṇi! Như-Lai truyền dạy rằng:
Đối với người hiểu sai lầm ấy, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 2 cõi ác-giới: sinh làm chúng sinh trong cõi địa-ngục hoặc sinh làm loài súc-sinh.
Ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi cung kính bạch rằng:
-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con không phải khóc do điều mà Đức-Thế-Tôn đã dạy con, mà con đã khóc tức tưởi, bởi vì những nghệ sĩ có tài nghệ nhảy múa, ca hát,… là bậc thầy, và bậc thầy của bậc thầy tiền bối đã lừa con từ lâu rằng:
“Những nghệ sĩ nào có tài nghệ nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú hoan hỷ. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú hoan hỷ. Sau khi những nghệ sĩ ấy chết, nghiệp ấy sẽ cho quả tái-sinh làm bạn của chư-thiên Pahāsa (Pahāsānaṃ devānaṃ sahabyātaṃ).”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá!
- Kính bạch Đức Thế Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá!
Đức-Thế-Tôn thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang đi lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối, để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ mọi vật hiện hữu.
- Kính bạch Đức Thế Tôn, con đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, nơi Đức-Pháp và chư tỳ-khưu Tăng.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được xuất gia sa-di và tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Thế-Tôn.
Sau đó ông Tālapuṭa Naṭagāmaṇi được xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Tālapuṭa một mình ở nơi thanh vắng tinh-tấn không ngừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Vấn: Các nghệ sĩ tài giỏi ưu tú đã phạm điều-giới nào, đã tạo ác-nghiệp nào mà sau khi họ chết, ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục hoặc sinh làm loài súc-sinh như vậy ?
Đáp: 8 điều-giới trong bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, các nghệ sĩ có tài nghệ ưu tú sống trong tài nghệ điêu luyện nhảy múa ca hát, trình diễn, làm cho người xem, người nghe say mê thích thú. Khi nói chuyện hài hước, chuyện có thật hoặc chuyện không có thật trên sân khấu làm cho khán thính giả say mê thích thú, v.v… nếu phạm điều-giới trong bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla thì phạm điều-giới nói lời vô ích.
Thật vậy, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú có tác-ý làm cho thính giả, khán giả nghe, xem say mê thích thú với tài nghệ điêu luyện của mình; và thính giả, khán giả nghe, xem bị thu hút vào màn trình diễn của các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú ấy, mua vui chốc lát, rồi họ không được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nào trong sự nghe, sự xem ấy, chỉ có tâm tham phát sinh trong vai diễn viên, có tài hát hay, diễn nhập vai như thật, làm cho người xem, người nghe say mê, thích thú; hoặc tâm sân phát sinh trong vai diễn viên đóng vai ác nhập vai như thật, làm cho người xem, người nghe tưởng như thật, nên phát sinh tâm sân không vui trong vai diễn ấy.
Cho nên, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú làm cho khán giả, thính giả mê hồn trong vai diễn của mình, không đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nào cả. Vì vậy, các nghệ sĩ tài nghệ ưu tú đã phạm điều-giới nói lời vô ích, tạo ác-nghiệp nói lời vô ích.
[1] Hành phạm-hạnh là hành hạnh cao quý, cao thượng là không hành dâm.
[2] Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Uggasutta.
[3] Dhammacakkhu: Pháp-nhãn ở đây có nghĩa là bậc Thánh Bất-lai.
[4] Orambhāgiyasamyojana: 5 pháp ràng buộc bậc thấp trong cõi dục-giới đó là: Tà-kiến chấp-thủ trong ngũ-uẩn, hoài-nghi, chấp-thủ pháp-thường-hành, tham-ái trong cõi dục-giới và thù-hận. Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được 5 pháp ràng buộc này.
Còn lại 5 pháp ràng buộc bậc cao đó là: tham-ái trong cõi sắc-giới, tham-ái trong cõi vô-sắc-giới, ngã-mạn, phóng-tâm, vô-minh; chỉ có Bậc Thánh A-ra-hán mới có khả năng diệt tận được 5 pháp ràng buộc này.
[5] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.
[6] Nếu là người cận-sự-nữ thì đọc “komārībrahmacariyasīlaṃ”.
[7] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.
[8] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.
[9] Nếu là người cận-sự-nữ thì đọc “của người cận-sự-nữ”.
[10] Nếu chỉ có một người thì dùng chữ vadehi, nếu có 2 người trở lên thì dùng chữ vadetha.
[11] Nếu người cận-sự-nữ thì đọc: “komārībrahmacariyaṃ”.
[12] Ba bài kệ này trích trong quyển Nhật Hành Cư Sĩ của Sư Tổ Hộ-Tông
[13] Dīghanikāya, Sīlakkhandhavagga. Kinh Sāmaññaphalasutta.
[14] Aṅg. Dassakanipāta, kinh Kathāvatthusutta.
[15] M. Mū. Kinh Pāsarāsisutta.
[16] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Tambadāṭhikacoraghātakavatthu.
[17] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kukkuṭamittanesādavatthu.
[18] Bộ Saṃyuttanikāya, phần Nidānavagga, kinh Sūcilomasutta.
[19] Bậc Thánh A-ra-hán nhìn thấy ngạ-quỷ kỳ quái bằng nhãn thông, không phải bằng mắt thường. Ngài mỉm cười bởi vì Ngài tự biết rõ chắc chắn Ngài đã thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ như vậy. Và Ngài biết rõ chỉ có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng-sinh mà thôi.
[20] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, phần Maggavagga, Tích Sūkarapetavatthu.
[21] 1 gāvuta = 5.120, 64 mét.
[22] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Jambukattheravatthu.
[23] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Jambukattheravatthu.
[24] Saṃyuttanikāya, phần Sālāyatanavagga, kinh Tālapuṭasutta.
Mục lục quyển 3 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10