NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
CHƯƠNG V
Phàm tất cả mọi người tại gia đều phải giữ gìn ngũ-giới là thường-giới (niccasīla) và giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạch và trọn vẹn, suốt ngày đêm để giữ gìn nhân phẩm cao quý của mình.
Bát-giới Uposathasīla
Bát-giới Uposathasīla gồm có 8 điều-giới từ điều-giới thứ nhất tránh xa sự sát-sinh cho đến điều-điều-giới thứ 8 tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp.
Bát-giới Uposathasīla này thuộc về kālapariyantasīla: bát-giới chấm dứt theo thời gian hạn định do hành-giả phát nguyện thọ trì, đến khi qua thời gian ấy là chấm dứt, không còn hiệu lực nữa, rồi trở lại ngũ-giới, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là thường-giới cơ bản của mình.
Bát-giới Uposathasīla theo thời gian hạn định
Trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, bát-giới Uposathasīla theo thời gian hạn định có nhiều loại:
* Bát-giới Uposathasīla mỗi tháng có 4 ngày
Trong mỗi tháng có 4 ngày giới được thọ trì bát-giới Uposathasīla là ngày mồng 8, ngày rằm (15), ngày 23 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 29).
* Bát-giới Uposathasīla mỗi tháng có 6 ngày
Trong mỗi tháng có 6 ngày giới được thọ trì bát-giới Uposathasīla là những ngày mồng 8, ngày 14, ngày rằm (15), ngày 23, ngày 29 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 28 và ngày 29).
* Bát-giới Uposathasīla mỗi tháng có 8 ngày
Trong mỗi tháng có 8 ngày giới được thọ trì bát-giới Uposathasīla là những ngày mồng 5, mồng 8, ngày 14, ngày rằm (15), ngày 20, ngày 23, ngày 29 và ngày 30 tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm ngày 28 và ngày 29).
* Bát-giới Uposathasīla mỗi tháng có 20 ngày hoặc 19 ngày (kể thêm ngày đón rước trước 1 ngày và ngày tiễn đưa sau 1 ngày).
Để cho những ngày giới chính thức trọng thể, hành-giả thực-hành pháp-hành giới chuẩn bị đón rước trước một ngày giới và tiễn đưa sau một ngày giới.
Cho nên, trong một tháng gồm có những ngày bát-giới Uposathasīla như sau: (4) + 5 + (6), (7) + 8 + (9), (13) + 14 + 15 + (16), (19) + 20 + (21), (22) + 23 + (24), (28) + 29 + 30 + (1) tháng đủ (nếu tháng thiếu thì nhằm vào ngày (27) + 28 + 29 + (1).
* Bát-giới Uposathasīla suốt 3 tháng an cư nhập hạ
Khi chư tỳ-khưu-Tăng mãn 3 tháng hạ, đồng thời bát-giới Uposathasīla của những cận-sự-nam, cận-sự-nữ cũng mãn hạn.
* Bát-giới Uposathasīla suốt đời
Bát-giới Uposathasīla là thuộc về kālapariyantasīla: bát-giới chấm dứt theo thời gian hạn định do hành-giả phát nguyện thọ trì.
Theo lệ thường, *hành giả phát nguyện thọ trì bát-giới Uposathasīla trong ngày giới, kể từ lúc bình minh bắt đầu ngày mới, rồi giữ gìn trong ngày giới suốt 1 ngày 1 đêm, cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau.
* Trường-hợp hành-giả không có cơ hội thọ trì bát-giới Uposathasīla từ lúc bình minh, khi đến sau giờ ngọ (12 giờ trưa), hành-giả phát nguyện xin thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn từ thời gian đó cho đến bình minh của ngày hôm sau.
* Trường-hợp hành-giả không có cơ hội thọ trì bát-giới Uposathasīla trong ngày, khi đến lúc ban đêm, hành-giả phát nguyện xin thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn suốt đêm cho đến lúc bình minh của ngày hôm sau.
* Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến chùa nghe pháp trong ngày giới, khi vị pháp-sư hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla chung mọi người, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy phát nguyện xin thọ trì bát-giới Uposathasīla suốt trong thời gian nghe pháp. Khi lắng nghe pháp xong thì đồng thời bát-giới Uposathasīla của hành-giả ấy cũng hết hạn.
Vì vậy, bát-giới Uposathasīla thuộc về kālapariyanta-sīla: bát-giới chấm dứt theo thời gian hạn định do hành-giả phát nguyện thọ trì.
Để hiểu rõ về bát-giới Uposathasīla, nên tìm hiểu bài kinh Uposathasīlasutta.
Bài Kinh Uposathasīlasutta
Đức-Phật thuyết dạy bát-giới Uposathasīla có 3 loại trong bài kinh Uposathasīlasutta [1] được tóm lược như sau:
- Này Visākhā! Sao hôm nay con đến từ sáng sớm vậy?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hôm nay là ngày bát-giới Uposathasīla. Bạch Ngài.
- Này Visākhā! Bát-giới Uposathasīla có 3 loại:
1- Gopāla Uposathasīla là hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như người chăn bò.
2- Nigaṇṭha Uposathasīla là hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như nhóm tu-sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha.
3- Ariya Uposathasīla là hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla giống như bậc Thánh-nhân.
1- Gopāla Uposathasīla
Hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như người chăn bò như thế nào?
Buổi chiều người chăn bò dẫn đàn bò trở về nộp vào chuồng cho người chủ bò xong (họ nhận tiền công) trở về nhà rồi tưởng nhớ rằng: “Hôm nay, ta đã dẫn đàn bò ăn cỏ nơi bãi ấy, cho đàn bò uống nước nơi bến nước ấy, v.v … Ngày mai, ta sẽ dẫn đàn bò đi ăn cỏ nơi bãi đó, sẽ cho đàn bò uống nước nơi bến nước ấy, v.v...” như thế nào.
Số hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla cũng như thế ấy, họ tưởng nhớ rằng: “Hôm nay, ta ăn những món ăn mềm này, nhai những món ăn cứng kia. Ngày mai, ta sẽ ăn những món ăn mềm này, sẽ nhai những món ăn cứng kia, v.v…”
Số hành giả ấy giữ gìn bát-giới Uposathasīla suốt ngày đêm trôi qua với tâm tham muốn ăn những món ăn.
- Này Visākhā! Hành-giả giữ gìn bát-giới uposatha-sīla như vậy gọi là gopāla Uposathasīla, là hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như người chăn bò (để mong nhận tiền công).
Hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như vậy không có quả báu nhiều, không làm cho giới có nhiều năng lực lan rộng khắp mọi nơi.
Hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như nhóm tu-sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha như thế nào?
- Này Visākhā! Nhóm tu-sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha dạy nhóm đệ-tử của họ rằng:
- Này quý vị hãy lại đây! Trong hướng Đông, những chúng-sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập, ... những chúng-sinh ấy được.
Trong hướng Tây, những chúng-sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập, … những chúng-sinh ấy được.
Trong hướng Nam, những chúng-sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập, … những chúng-sinh ấy được.
Trong hướng Bắc, những chúng-sinh nào ở ngoài phạm vi 100 do tuần, quý vị có thể hành hạ đánh đập, … những chúng-sinh ấy được.
Như vậy, nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ-tử của họ có lòng thương đến một số chúng-sinh này và không có lòng thương đến một số chúng-sinh kia.
Trong ngày giới Uposathasīla, nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ-tử của họ rằng:
-Này quý vị hãy lại đây! Quý vị hãy nên cởi bỏ tất cả quần áo rồi tuyên bố rằng: “Ta không còn liên quan đến ai cả, nơi nào cả, và ta cũng không bận tâm dính mắc những gì trong thân, hay ngoài thân cả.”
Cha mẹ của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là con của ta.” Và chính người ấy cũng biết rõ rằng:“Hai người ấy là cha mẹ của ta.”
Vợ và con của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là chồng, là cha của ta.” Và chính người ấy cũng biết rõ rằng: “Người ấy là vợ, là con của ta.”
Những người tôi tớ, người làm công của người ấy biết rõ rằng: “Người ấy là người chủ của chúng ta.” Và chính người ấy cũng biết rõ rằng: “Những người kia là người tôi tớ, là người làm công của ta.”
Nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy dạy nhóm đệ-tử của họ nói lời chân thật, nhưng thật ra họ dạy nhóm đệ-tử nói dối.
Vì vậy, Như-Lai dạy rằng: “Lời dạy của nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy là lời nói dối.”
Khi đêm đã qua, đến rạng đông sáng tỏ, nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy dùng vật thực mà người chủ không cho.
Vì vậy, Như-Lai dạy rằng: “Sự dùng vật thực của nhóm tu-sĩ ngoại đạo ấy là sự trộm-cắp.”
- Này Visākhā! Hành-giả giữ gìn bát-giới uposatha-sīla như vậy gọi là Nigaṇṭha Uposathasīla, là hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như nhóm tu-sĩ ngoại đạo Nigaṇṭha.
Hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla như vậy không có quả báu nhiều, không làm cho giới có nhiều năng lực lan rộng khắp mọi nơi.
3- Ariya Uposathasīla
Hành-giả giữ gìn bát-giới Uposathasīla giống như bậc Thánh-nhân như thế nào?
Ariya Uposathasīla có 6 loại:
- Brahma Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật.
- Dhamma Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp.
- Saṃgha Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng.
- Sīla Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm giới của mình.
- Devatā Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 5 pháp chư-thiên.
- Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla.
3.1-Brahma Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật như thế nào?
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật rằng:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjā-caraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisa-dammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.” [3]
1- Arahaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-ra-hán là Bậc có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên.
2- Sammāsambuddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.
3- Vijjācaraṇasampanno: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ tam-minh, bát-minh và 15 đức-hạnh cao thượng.
4- Sugato: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp sự-thật chân-lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
5- Lokavidū: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức Thông Suốt Tam-tổng-pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.
6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức Vô-thượng giáo hóa chúng-sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cái ác làm thiện, từ hạng phàm nhân lên bậc Thánh-nhân.
7- Satthā devamanussānaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của chư-thiên, chư phạm-thiên và nhân-loại, ...
8- Buddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật.
Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, tùy theo năng lực ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.
9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn có ân-đức là Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt được thành-tựu do 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Phật.
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào phát sinh làm cho tâm bị ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
-Này Visākhā! Ví như trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn.
Trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Người ta dùng nước trái cây và nước sạch với sự tinh-tấn của người ấy gội sạch cái đầu.
- Này Visākhā! Trên đầu bị dơ bẩn, làm cho cái đầu được sạch sẽ nhờ sự tinh-tấn gội sạch cái đầu.
Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
- Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật rằng:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjā-caraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisa-dammasāratthi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.”
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào phát sinh làm cho tâm bị ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử giữ gìn bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật như vậy, gọi là Brahma Uposathasīla, như được sống gần gũi với Đức-Phật, đại-thiện-tâm của bậc ấy hướng đến Đức-Phật, nên đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như vậy.
3.2-Dhamma Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp như thế nào?
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp [4] rằng:
“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”
1- Svākkhāto dhammo: Chánh-pháp gồm có 10 pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràng và thanh-tịnh.
10 chánh-pháp đó là:
- Pháp-học chánh-pháp.
- 9 Siêu-tam-giới-pháp đó là 4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả + 1 Niết-bàn.
2- Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh-pháp gồm 9 siêu-tam-giới-pháp mà chư Thánh-nhân đã chứng đắc Thánh đạo, Thánh-quả và Niết-bàn nào, rồi tự thấy, tự biết bằng trí-tuệ thiền-tuệ của mình.
3- Akāliko dhammo: Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo cho quả tương xứng 4 Thánh-quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh-đạo nào liền cho Thánh-quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.
4- Ehipassiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 siêu-tam-giới-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, nên dám mời đến để chứng kiến, để thực chứng, thực đắc.
5- Opaneyyiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 siêu-tam-giới-pháp là chánh-pháp nên hướng tâm đến chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
6- Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo: Chánh-pháp đó là 9 siêu-tam-giới-pháp mà chư bậc thiện-trí Thánh-nhân đã chứng đắc, rồi tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh-quả hưởng sự an-lạc Niết-bàn tịch tịnh.
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Ví như thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn.
Thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Người ta dùng bột đá, bột và nước trong với sự tinh-tấn của người ấy tắm rửa thân hình sạch sẽ.
- Này Visākhā! Thân thể bị dơ bẩn, làm cho thân thể được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn tắm rửa thân thể.
Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, cũng do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
- Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp rằng:
“Svākkhāto Bhagavatā dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử giữ gìn bát-giới Uposathasīla niệm 6 ân-Đức-Pháp như vậy, gọi là Dhamma Uposathasīla, như được sống gần gũi với Đức-Pháp, đại-thiện-tâm tâm của bậc ấy hướng đến Đức-Pháp, nên đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như vậy.
3.3-Saṃgha Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng như thế nào?
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm 9 ân-Đức-Tăng rằng:
“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,
Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,
Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,
Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,
Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa
Bhagavato sāvakasaṃgho,
Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo,
Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”
1- Suppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.
2- Ujuppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành trung-đạo, không quanh co lầm lạc.
3- Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc đã thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
4- Sāmicippaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc đã thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ đúng đắn, xứng đáng để chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường đến quý Ngài.
Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm siêu-tam-giới):
Chư Thánh thanh-văn có 4 đôi:
- Nhập-lưu Thánh-đạo → Nhập-lưu Thánh-quả.
- Nhất-lai Thánh-đạo → Nhất-lai Thánh-quả.
- Bất-lai Thánh-đạo → Bất-lai Thánh-quả.
- A-ra-hán Thánh-đạo → A-ra-hán Thánh-quả.
Chư Thánh thanh-văn có 8 bậc Thánh:
- Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
- Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
- Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
- A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).
- Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
- Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
- Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
- A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).
5- Āhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí-chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.
6- Pāhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí-chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.
7- Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài để mong được phước-thiện lớn và quả báu nhiều cho mình và những người thân quyến.
8- Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những Bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính, lễ bái cúng dường.
9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Ví như tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn.
Tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Người ta dùng đất, tro và nước trong với sự tinh-tấn của người ấy giặt giũ tấm vải cho sạch sẽ.
- Này Visākhā! Tấm vải bị dơ bẩn, làm cho tấm vải được sạch sẽ do nhờ sự tinh-tấn giặt giũ tấm vải.
Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được cũng do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được cũng do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
-Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm 9 ân-Đức-Tăng rằng:
“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa
Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm 9 ân-Đức-Tăng, thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử giữ gìn bát-giới Uposathasīla niệm 9 ân-Đức-Tăng như vậy, gọi là Saṃgha Uposathasīla, như được sống gần gũi với Đức-Tăng, đại-thiện-tâm tâm của bậc ấy hướng đến Đức-Tăng, nên đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như vậy.
3.4-Sīla Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm giới trong sạch của mình như thế nào?
- Này Visākhā, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được, do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm giới trong sạch và trọn vẹn của mình, nghĩa là giới không bị đứt (akhaṇḍasīla)[5], giới không bị thủng (lủng) (acchiddasīla)[6], giới không bị đốm (asabalasīla)[7], giới không bị đứt lan (akammāsasīla)[8], giới tự chủ (không bị nô lệ bởi phiền-não), được bậc thiện-trí tán dương, giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm giới trong sạch và trọn vẹn của mình thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Ví như tấm kính bị lu mờ, làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh-tấn.
Tấm kính bị lu mờ, làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Người ta dùng dầu lau kính, tro và nước sạch với sự tinh-tấn của người ấy lau chùi làm cho tấm kính trở nên trong suốt.
- Này Visākhā! Tấm kính bị lu mờ làm cho tấm kính được trong suốt do nhờ sự tinh-tấn lau chùi tấm kính.
Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
- Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm giới trong sạch và trọn vẹn của mình nghĩa là giới không bị đứt, giới không bị thủng (lủng), giới không bị đốm, giới không bị đứt lan, giới tự chủ (không bị nô lệ bởi phiền-não), được bậc thiện-trí tán dương, giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm giới trong sạch và trọn vẹn của mình thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử giữ gìn bát-giới Uposathasīla niệm giới trong sạch và trọn vẹn của mình như vậy, gọi là Sīla Uposathasīla, như sống gần gũi với giới, đại-thiện-tâm của bậc ấy hướng đến giới của mình nên đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như vậy.
3.5-Devatā Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla niệm-niệm 5 pháp chư-thiên như thế nào?
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
- Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm 5 pháp của các hàng chư-thiên rằng:
“Những hàng chư-thiên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, chư-thiên cõi trời Dạ-ma-thiên, chư-thiên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên, chư-thiên cõi trời Hóa-lạc-thiên, chư-thiên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, chư phạm-thiên cõi trời phạm-thiên, mà tiền-kiếp của quý vị ấy vốn có đầy đủ 5 pháp là đức-tin (saddhā), giới (sīla), học nhiều hiểu rộng (suta), bố-thí (cāga), trí-tuệ (paññā).
Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh lên cõi trời ấy như thế nào, chính trong ta cũng có đầy đủ 5 pháp ấy là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ cũng như thế ấy.”
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm các pháp là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi của mình cũng như các pháp của các hàng chư-thiên, thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm, thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Ví như vàng chưa tinh khiết, làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh-tấn.
Vàng chưa tinh khiết, làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
Người ta đem vàng bỏ vào cái vá, đem đốt trên lò với sự tinh-tấn của người ấy làm cho vàng trở nên tinh khiết.
- Này Visākhā! Vàng chưa tinh khiết làm cho vàng được tinh khiết do nhờ sự tinh-tấn.
Cũng như vậy, tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn.
Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như thế nào?
-Này Visākhā! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm tưởng đến 5 pháp của các hàng chư-thiên rằng:
“Những hàng chư-thiên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, chư-thiên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, chư-thiên cõi trời Dạ-ma-thiên, chư-thiên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên, chư-thiên cõi trời Hóa-lạc-thiên, chư-thiên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, chư phạm-thiên cõi trời phạm-thiên, mà tiền-kiếp của quý vị ấy vốn có đầy đủ các pháp là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi.
Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh lên cõi trời ấy như thế nào, chính trong ta cũng có đầy đủ pháp ấy là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi cũng như thế ấy.”
Khi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử niệm-niệm các pháp là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi của mình cũng như các pháp của các hàng chư-thiên thì đại-thiện-tâm của bậc ấy trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử giữ gìn bát-giới Uposathasīla niệm-niệm các pháp ấy là đức-tin, giới, học nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí-tuệ, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi như vậy, gọi là: Devata Uposathasīla, như được sống gần gũi với chư-thiên, đại-thiện-tâm của bậc ấy hướng đến chư-thiên nên đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, phát sinh hỷ lạc. Cho nên, những phiền-não nào làm cho tâm ô nhiễm thì những phiền-não ấy bị diệt.
- Này Visākhā! Tâm bị ô nhiễm do phiền-não, làm cho tâm trở nên trong sạch được do nhờ sự tinh-tấn như vậy.
3.6-Uposathasīla: Bát-giới Uposathasīla.
- Này Visākhā! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử có trí-tuệ sáng suốt suy xét rằng:
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự sát-sinh, tuyệt đối tránh xa sự sát-sinh, đã bỏ gậy gộc, đã bỏ khí giới, có đại-duy-tác-tâm biết hổ-thẹn mọi tội-lỗi, có tâm bi thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng-sinh.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự sát-sinh, tránh xa sự sát-sinh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn mọi tội-lỗi, có tâm bi thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng-sinh suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla giữ gìn điều-giới tránh xa sự sát-sinh được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự trộm-cắp, tuyệt đối tránh xa sự trộm-cắp, chỉ thọ nhận thứ vật dụng mà người ta dâng lễ cúng dường mà thôi, không bao giờ trộm-cắp, là Bậc sống hoàn toàn trong sạch thanh cao.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự trộm-cắp, tránh xa sự trộm-cắp, chỉ thọ nhận thứ vật dụng mà người ta cho, không trộm-cắp, là người sống hoàn toàn trong sạch thanh cao suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự trộm-cắp được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự hành-dâm, chỉ hành phạm hạnh cao thượng mà thôi, tuyệt đối tránh xa sự hành-dâm thấp hèn của người tại gia.
Hôm nay, ta cũng tránh xa sự hành-dâm, chỉ hành phạm hạnh cao thượng mà thôi, tránh xa sự hành-dâm thấp hèn của người tại gia suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự hành-dâm được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nói-dối, tuyệt đối tránh xa sự nói-dối, chỉ nói lời chân thật mà thôi, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự nói-dối, tránh xa sự nói-dối, chỉ nói lời chân thật mà thôi, lúc nào cũng nói lời chân thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói-dối được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, đã tuyệt đối tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời chỉ độ vật thực một bữa ngọ (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự độ vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa).
Hôm nay, ta cũng chỉ dùng vật thực một bữa (trong ngày) mà thôi, không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự dùng vật thực phi thời được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn; tuyệt đối tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn; tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới từ bỏ sự nhảy múa ca hát thổi kèn; tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái, được trong sạch.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tuyệt đối tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô.
Hôm nay, ta cũng từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô, được trong sạch.
Quả báu của Bát-giới Ariya Uposathasīla
- Này Visākhā! Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thọ trì bát-giới Uposathasīla như vậy, gọi là ariya Uposathasīla: giữ gìn bát-giới Uposathasīla như bậc Thánh-nhân.
Người thọ trì bát-giới Uposathasīla như bậc Thánh-nhân có quả báu lớn trong cõi dục-giới, có quả báu lớn làm duyên Niết-bàn, có kiếp sống xán lạn nhiều, có nhiều năng lực lớn.
Có quả báu lớn trong cõi dục-giới thế nào? Có quả báu lớn làm duyên Niết-bàn thế nào? Có kiếp sống xán lạn nhiều thế nào? Có nhiều năng lực lớn thế nào?
- Này Visākhā! Ví như người nào được suy tôn lên làm Vua trị vì 16 nước rộng lớn như nước Aṅga, nước Magadha, nước Kāsī, nước Kosala, nước Vajjī, nước Malla, nước Cetī, nước Vaṅga, nước Kuru, nước Pañcāla, nước Maccha, nước Sūrasena, nước Assaka, nước Avantī, nước Gandhāra, nước Kamboja có đầy đủ 7 báu vật quý giá cũng chưa bằng 1 phần 16 của người thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Điều ấy vì sao vậy?
Bởi vì, sự nghiệp đế vương cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 50 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ khoảng 500 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 500 x 12 x 30 x 50 = 9.000.000 (chín triệu) năm ở cõi người.)
- Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 100 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ khoảng 1.000 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 1.000 x 12 x 30 x 100 = 36.000.000 (ba mươi sáu triệu) năm ở cõi người.)
- Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm thiên-nam hoặc thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ quý giá trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 200 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Dạ-ma-thiên, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ khoảng 2.000 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 2.000 x 12 x 30 x 200 = 144.000.000 (một trăm bốn mươi bốn triệu) năm ở cõi người.)
-Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm thiên-nam hoặc thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Dạ-ma-thiên, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 400 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên có tuổi thọ khoảng 4.000 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 4.000 x 12 x 30 x 400 = 576.000.000 (năm trăm bảy mươi sáu triệu) năm ở cõi người.)
- Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm thiên-nam hoặc thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 800 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Hóa-lạc-thiên, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời Hóa-lạc-thiên có tuổi thọ khoảng 8.000 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 8.000 x 12 x 30 x 800 = 2.304.000.000 (hai tỷ ba trăm lẻ bốn triệu) năm ở cõi người.)
- Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm thiên-nam hoặc thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Hóa-lạc-thiên, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
- * Này Visākhā! Cứ 1.600 năm ở cõi người bằng 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, 30 ngày đêm là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm. Chư-thiên trên cõi trời tha-hóa-tự-tại-thiên có tuổi thọ khoảng 16.000 năm cõi trời. (Nếu so với số năm ở cõi người thì bằng 16.000 x 12 x 30 x 1.600 = 9.216.000.000 (chín tỷ hai trăm mười sáu triệu) năm ở cõi người.)
- Này Visākhā! Trong đời này, số người đàn ông hoặc đàn bà thọ trì, giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn.
Sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới ấy có cơ hội cho quả tái-sinh làm thiên-nam hoặc thiên-nữ hưởng sự an-lạc trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, làm bạn chư-thiên trong cõi trời ấy.
- Này Visākhā! Như-Lai căn cứ vào điều ấy mà nói rằng: Đức-vua an hưởng sự an-lạc trên ngôi báu với những thứ cao quý trong cõi người so sánh với sự an-lạc trên cõi trời chỉ là một phần nhỏ chút đỉnh mà thôi.
Người thọ trì bát-giới, giữ gìn tám điều-giới:
Không sát-sinh, không trộm-cắp, không hành-dâm,
Không nói-dối, không uống rượu và chất-say,
Không dùng vật thực phi thời quá giờ ngọ,
Không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát,
Không đeo tràng hoa, thoa vật thơm, xức nước hoa,
Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Đức-Phật là Bậc Thông-suốt tam-tổng-pháp [9]
Truyền dạy Uposathasīla tám điều-giới,
Và quả báu cao quý lớn lao của bát-giới.
Mặt trăng, mặt trời cả hai đều có oai lực,
Phát ra ánh sáng có diện tích rộng bao nhiêu,
Ánh sáng này tiêu diệt bóng tối trong hư không,
Làm sáng tỏ lan rộng khắp mọi phương hướng.
Khi ánh sáng chiếu sáng đến một nơi nào,
Tại nơi ấy tràn đầy những báu vật vô giá,
Như các thứ ngọc maṇi, ngọc muttā, ...
Đủ các loại vàng tinh khiết quý giá,
Dù gồm tất cả các thứ báu vật vô giá ấy,
Cũng chưa bằng một phần mười sáu so với
Quả báu của bát-giới Uposathasīla này.
Ví như ánh sáng của các ngôi sao trên hư không,
Không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng.
Vì vậy người cận-sự-nam, cận-sự-nữ,
Nên thọ trì bát-giới Uposathasīla này,
Giữ gìn tám giới cho được trong sạch và trọn vẹn.
Tạo được nhiều phước-thiện cao thượng đặc biệt.
Là người không bị chê trách mà được tán dương,
Có được quả báu cao quý đặc biệt,
Trong kiếp hiện-tại được nhiều sự an-lạc.
Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới,
Cho quả tái-sinh lên cõi trời như ý,
Hưởng mọi sự an-lạc cao quý đặc biệt.
(Xong bài kinh Uposathasīla)
Chuẩn bị thọ trì bát-giới Uposathasīla
* Biết rằng: ngày hôm sau là ngày bát-giới uposatha-sīla, cho nên ngày hôm ấy, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải sắp đặt mọi công việc cho xong.
* Chuẩn bị đồ ăn uống thanh đạm cho ngày hôm sau.
* Biết thu xếp công việc. Nếu biết công việc nào không cần thiết thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ không nên làm công việc ấy trong ngày bát-giới Uposathasīla.
* Vào ngày giới, thức dậy sớm lúc bình minh, cận-sự-nam, cận-sự-nữ chuẩn bị thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla.
* Nếu nhà ở gần chùa thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đến chùa xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla theo nghi thức với Ngài Trưởng-lão hướng dẫn, rồi ở lại chùa suốt ngày đêm cho đến sáng ngày hôm sau.
* Nếu không có cơ hội đến chùa thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến trước bàn thờ Tam-bảo, đem hoa, trầm lễ bái cúng dường Tam-bảo xong, làm đúng theo nghi thức tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla, từ đầu đến cuối, như có Ngài Trưởng-lão chứng minh.
* Sau khi thọ trì bát-giới Uposathasīla xong, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ở một mình chỗ thanh vắng để thực-hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, hoặc niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp, hoặc niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, hoặc niệm-niệm bát-giới Uposathasīla của mình, v.v… hoặc ngồi nghe chánh-pháp hoặc đàm đạo chánh-pháp, hoặc xem kinh đọc sách pháp (không đọc sách báo đời, không nói chuyện đời), hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng thiền-tuệ tứ oai-nghi: oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm, suốt ngày đêm ấy cho đến rạng sáng ngày hôm sau.
* Đến giờ dùng vật thực chỉ dùng món ăn giản dị, khi dùng nên suy xét rằng: “Dùng vật thực để duy trì mạng sống, để thực-hành pháp-hành giới, thực-hành pháp-hành thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ .”
Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ cảm thấy bụng đói, khó chịu thì được phép dùng các thứ nước trái cây nhỏ ép bỏ xác lấy nước để dùng, dùng mật ong, thuốc bổ, thuốc trị bệnh, … (không được phép dùng sữa, bởi vì sữa thuộc về vật thực).
* Ban đêm người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên ngủ ít (ngủ khoảng từ 22 giờ đến 2 giờ khuya) dành nhiều thời giờ để thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Khi thức dậy sớm, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên quán triệt lại bát-giới Uposathasīla của mình rằng: “Chư bậc Thánh A-ra-hán tuyệt đối tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự hành-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất-say, tránh xa sự ăn phi thời, tránh xa sự xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp suốt trọn đời.
Về phần ta, noi gương theo chư bậc Thánh A-ra-hán, ta cũng thọ trì bát-giới Uposathasīla tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự hành-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất-say, tránh xa sự ăn phi thời, tránh xa sự xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham ái, tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp suốt 1 ngày và 1 đêm.”
* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ không cần xả bát-giới Uposathasīla. Thật ra, hành-giả đã phát nguyện thọ trì bát-giới Uposathasīla 1 ngày 1 đêm, khi trải qua 1 ngày 1 đêm, ngay khi ấy bát-giới Uposathasīla hoàn mãn, không còn hiệu lực nữa, trở lại ngũ-giới là thường giới, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla của người tại gia.
Nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla
Nghi thức theo tuần tự
* Đảnh lễ Đức-Phật
* Lễ sám hối Tam-bảo
-Lễ sám hối Đức-Phật-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.
\Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và bát-giới Uposathasīla
Ahaṃ [10] Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannā-gataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi[11], anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me[12], Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅga-samannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha aṭṭhaṅga-samannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
Phép quy-y Tam-bảo và bát-giới Uposathasīla
Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:
- Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi [13] (vadetha).
(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy.)
- Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Đảnh lễ Đức-Phật
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
(3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Thọ phép quy-y Tam-bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL. Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Thọ trì bát-giới Uposathasīla
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu bia và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi.
6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
7- Nacca-gīta-vādita-visūkadassana-mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.
8- Uccāsayana-mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
NTL: Tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhutaṃ katvā appamādena sampādehi.
Phép quy-y Tam-bảo và bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới xong rồi, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp được phát triển.
CSN: Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
NTL: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới, Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới, Chúng-sinh được giải thoát khổ, nhờ giữ giới, Các con nên giữ giới cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!)
Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.[14]
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Phần giảng giải bát-giới Uposathasīla
Trong bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới này, có 4 điều-giới là: “Tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất-say …” đã được giải thích trong phần ngũ-giới.
-Tránh xa sự hành-dâm; tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa); tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái; tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
- Điều-giới thứ 3
Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Abrahmacariyā: A + brahmacariyā
- A = na: không.
- Brahmacariyā: hành phạm-hạnh.
- Abrahmacariyā: Không hành phạm-hạnh, nghĩa là hành-dâm.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
Chi-pháp phạm điều-giới hành-dâm
1- Tâm muốn hành-dâm.
2- Sự tiếp xúc giữa 2 bộ phận sinh dục của 2 bên.
- Nếu hội đủ 2 chi-pháp này thì gọi là phạm điều-giới hành-dâm.
- Nếu thiếu 1 trong 2 chi-pháp, thì không thể gọi là phạm điều-giới hành-dâm.
* Trường hợp hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ sau khi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla xong rồi, nếu hành-giả ấy quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng của mình thì hành-giả ấy phạm điều-giới hành-dâm, không tạo được phước-thiện cao quý đặc biệt, nhưng không phải phạm điều-giới tà-dâm, nên không tạo ác-nghiệp tà-dâm.
* Trường hợp hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ, sau khi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla xong rồi, nếu hành-giả ấy quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng, hoặc con của người khác (không phải vợ hoặc chồng của mình) thì hành-giả ấy không chỉ phạm điều-giới hành-dâm mà còn phạm điều-giới tà-dâm nữa, tạo ác-nghiệp tà-dâm, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
- Điều-giới thứ 6
Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
* Vikālabhojanā: Vikāla + bhojanā
- Bhojanā: Vật thực gồm có cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v... đều gọi chung là vật-thực.
Vikālabhojanā: Dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) gồm có cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v…
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự dùng vật thực lúc phi thời.
Chi-pháp phạm điều-giới dùng vật thực phi thời
1- Lúc phi thời là thời gian từ quá ngọ (quá 12 giờ trưa) qua đêm cho đến trước lúc bình minh của buổi sáng ngày hôm sau.
2- Các thứ vật thực như cơm, các món đồ ăn, các loại bánh, các thứ trái cây, các thứ bột ngũ cốc, sữa tươi, sữa chua, bơ đặc, v.v...
3- Vật thực nuốt qua khỏi cổ.
- Nếu hội đủ 3 chi-pháp này thì gọi là phạm điều-giới dùng vật thực phi thời.
- Nếu thiếu 1 trong 3 chi thì không thể gọi là phạm điều-giới dùng vật thực phi thời.
Khi quá 12 giờ trưa, qua đêm cho đến trước lúc rạng đông của sáng ngày hôm sau, hành-giả không nên dùng các loại vật thực.
Nếu hành-giả bị bệnh đói hành hạ thì có thể dùng nước trái cây xay nhuyễn, lọc kỹ, bỏ xác lấy nước uống, hoặc có thể dùng 5 thứ thuốc là nước bơ, nước bơ lỏng, dầu mè, mật ong và nước đường, hoặc các loại thuốc dùng để trị bệnh được.
Trường hợp hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ sau khi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla xong rồi, nếu hành-giả ấy dùng vật thực phi thời thì hành-giả ấy phạm điều-giới dùng vật thực phi thời, không tạo được phước-thiện cao quý đặc biệt nhưng không tạo ác-nghiệp nào, bởi vì hành-giả dùng vật thực của mình, không làm khổ mình cũng không làm khổ người khác nên chắc chắn không tạo ác-nghiệp nào cả.
-Điều-giới thứ 7
Nacca-gīta-vādita-visūkadassana-mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
- Nacca: nhảy múa nghĩa là tự mình nhảy múa, hoặc sai bảo người khác nhảy múa để cho mình xem, thì phạm điều-giới, thậm chí sai khiến con công múa cũng phạm điều-giới này.
- Gīta: Ca hát nghĩa là tự mình ca hát, ngâm thơ,... hoặc sai bảo người khác ca hát, ngâm thơ, ... để cho mình nghe, thì phạm điều-giới này.
- Vādita: Thổi kèn, đánh đàn nghĩa là tự mình thổi kèn, đánh đàn, sử dụng các loại nhạc cụ khác, hoặc sai khiến người khác thổi kèn, đánh đàn, sử dụng các loại nhạc cụ khác để cho mình nghe, thì phạm điều-giới này.
- Visūkadassana: Xem nhảy múa, nghe ca hát, thổi kèn, đánh đàn đều là đối tượng của tham-ái nhân sinh khổ, là pháp nghịch với pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, thì phạm điều-giới này.
- Mālādharaṇa: Đeo tràng hoa nghĩa là trang điểm cho mình bằng các thứ hoa, thì phạm điều-giới này.
- Gandhamaṇḍana: Làm đẹp bằng các thứ phấn son, thì phạm điều-giới này.
- Vilepanavibhūsana: Xức nước hoa trong người có mùi thơm, thì phạm điều-giới này.
- Ṭhāna: Nhân sinh tâm tham-ái.
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
Chi-pháp phạm điều-giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn…
1-Nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn...
2-Tâm thỏa thích.
3-Đã thỏa thích hành động bằng thân và khẩu.
- Nếu hội đủ 3 chi-pháp này thì gọi là phạm điều-giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.
- Nếu thiếu 1 trong 3 chi thì không thể gọi là phạm điều-giới nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
Trường hợp hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, sau khi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla xong rồi, nếu hành-giả ấy tự mình nhảy múa ca hát, thổi kèn, đánh đàn, ...; hoặc sai khiến người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, ... hoặc đi xem người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn … làm nhân phát sinh tâm tham-ái trong đối-tượng ấy, làm trở ngại cho việc thực-hành pháp-hành thiền-định không thể dẫn đến chứng đắc các bậc thiền.
Hoặc trở ngại cho việc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn
Thật ra, hành-giả phạm điều-giới này chỉ là nhân làm trở ngại cho sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp và siêu-tam-giới thiện-nghiệp không thể phát sinh mà thôi, nhưng không tạo ác-nghiệp nặng.
-Điều-giới thứ 8
Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
-Uccāsayana: Chỗ nằm ngồi quá cao nghĩa là chân giường, chân ghế cao quá 1 hắt tay với 1 gang tay (60 tấc).
* Veramaṇisikkhāpadaṃ: Veramaṇī + sikkhāpadaṃ.
- Veramaṇī: Tác-ý tránh xa.
- Sikkhāpadaṃ: Điều-giới, giới.
* Samādiyāmi: Con xin thọ trì.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Chi-pháp phạm điều-giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp
1-Chỗ nằm, chỗ ngồi quá cao và xinh đẹp.
2-Tâm muốn nằm, ngồi nơi ấy.
3-Đã nằm, đã ngồi nơi ấy với tâm thỏa thích.
- Nếu hội đủ 3 chi-pháp này thì gọi là phạm điều-giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
- Nếu thiếu 1 trong 3 chi thì không thể gọi là phạm điều-giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Trường hợp hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, sau khi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla xong rồi, nếu hành-giả ấy nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp, thì phạm điều-giới nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp, dễ phát sinh tâm tham-ái thoả thích trong chỗ nằm, chỗ ngồi, cho nên không tạo được phước-thiện cao quý đặc biệt nhưng không tạo ác-nghiệp nặng.
Giới cấm và giới hành
1-Phần giới-cấm (vārittasīla) là giới không được phạm.
2-Phần giới-hành (cārittasīla) là giới nên thực-hành.
- Tránh xa sự sát-sinh.
- Tránh xa sự trộm-cắp.
- Tránh xa sự nói-dối.
- Tránh xa sự uống rượu, bia và các chất-say.
Bốn điều-giới-cấm này có trong ngũ-giới là thường-giới của tất cả mọi người không ngoại trừ một ai cả, nếu người nào giữ gìn 4 điều-giới này được trong sạch và trọn vẹn thì người ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp của 4 điều-giới ấy, có quả báu an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Thật vậy, ví dụ: nếu người nào phạm điều-giới sát-sinh, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh giết hại sinh-mạng chúng-sinh.
Cũng như vậy, nếu người nào phạm điều-giới trộm-cắp, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải tài sản của người khác.
Nếu người nào phạm điều-giới nói-dối, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói-dối.
Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy, v.v…
2- Phần giới-hành (cārittasīla) trong bát-giới uposatha-sīla có 4 điều-giới là:
- Tránh xa sự hành-dâm.
- Tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
- Tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn,...
- Tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ trì bát-giới Uposathasīla có bốn điều-giới-hành này:
* Nếu hành-giả nào thực-hành giữ gìn 4 điều-giới-hành ấy được trong sạch và trọn vẹn thì hành-giả ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp cao quý đặc biệt, có quả báu cao quý đặc biệt, hưởng được sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
* Nếu hành-giả nào phạm điều-giới-hành nào thì hành-giả ấy không tạo đại-thiện-nghiệp cao quý đặc biệt của điều-giới-hành ấy, nhưng không tạo ác-nghiệp nào, bởi vì hành-giả ấy tuy đã phạm điều-giới-hành ấy nhưng không tự làm khổ mình, cũng không làm khổ người khác.
Tóm lại, hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, nếu hành-giả nào giữ gìn 4 điều-giới-hành ấy được trong sạch và trọn vẹn thì hành-giả ấy đã tạo đại-thiện-nghiệp cao quý của 4 điều-giới hành ấy.
Nếu hành-giả nào phạm điều-giới-hành nào thì hành-giả ấy không tạo đại-thiện-nghiệp cao quý của điều-giới-hành ấy, nhưng không tạo ác-nghiệp của điều-giới-hành ấy.
Thật vậy, trong các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ tại gia, có một số người là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai sống tại gia, các bậc Thánh-nhân ấy chắc chắn có ngũ-giới là thường-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, các bậc Thánh-nhân ấy vẫn có vợ hoặc có chồng và có con. Cho nên, hai bậc Thánh-nhân tại gia ấy hành-dâm là điều không thể tránh khỏi, nhưng chắc chắn hai bậc Thánh-nhân ấy không bao giờ phạm điều-giới tà-dâm với vợ hoặc chồng hoặc con của người khác.
* Ví như trường hợp bà Visākhā, khi bà còn là một tiểu-thư của ông phú hộ Dhanañjaya mới lên 7 tuổi, tiểu-thư Visākhā đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Khi tiểu-thư Visākhā trưởng thành, đã kết hôn với công-tử Puññavaḍḍhana là con trai của ông phú hộ Migāra.
Như vậy, những bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai sống tại gia, nếu khi bậc Thánh-nhân thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng thì những vị ấy mới giữ gìn 4 điều-giới-hành được trong sạch và trọn vẹn.
Riêng bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới, dù sống tại gia bậc Thánh Bất-lai cũng không bao giờ ham thích hành-dâm.
Cho nên bậc Thánh Bất-lai sống tại gia tuyệt nhiên không có vợ hoặc có chồng.
Trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có 2 ông trưởng giả cùng tên Ugga: Trưởng giả Ugga người xứ Vesālī và trưởng giả Ugga người làng Hatthigāma trong vùng Vajji. Cả 2 trưởng giả này sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, và chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, đã diệt tận được tâm tham-ái trong cõi dục-giới, trở thành bậc Thánh Bất-lai tuyệt nhiên không bao giờ còn hành-dâm nữa.
Ông trưởng giả Ugga có 4 người vợ, sau khi trở thành bậc Thánh Bất-lai trở về nhà, ông gọi 4 người vợ cũ đến rồi ban của cải cho mỗi bà và ông bảo rằng:
“Từ nay về sau, quý bà được tự do, ai muốn có chồng khác thì được quyền chọn lựa theo ý của mình.”
Những tích người thọ trì bát-giới Uposathasīla
* Quả của bát-giới Uposathasīla chỉ trong một đêm
Một vị chư-thiên ngự ở cội cây da lớn, có nhóm đạo-sĩ ở dưới cây da lớn ấy. Vị Đạo-sĩ trưởng nghĩ rằng:
“Cây da lớn như thế này có chư-thiên ngự trên cây, và chư-thiên này chắc chắn có nhiều oai lực.
Quý hóa biết dường nào! Nếu vị chư-thiên ấy bố-thí cho chúng tôi nước uống” thì ngay tức thì, chư-thiên ấy dâng nước uống đến cho nhóm đạo-sĩ.
“Xin chư-thiên bố-thí nước tắm” thì ngay tức thì, chư-thiên ấy dâng nước tắm đầy đủ đến cho nhóm đạo-sĩ.
“Xin chư-thiên bố-thí vật thực” thì ngay tức thì, chư-thiên ấy dâng vật thực đầy đủ đến cho nhóm đạo-sĩ.
“Chư-thiên này có nhiều phước báu, có nhiều oai lực, ta mong muốn những thứ nào, chư-thiên ấy đều dâng cúng dường những thứ ấy.
Quý hóa biết dường nào! Nếu ta được diện kiến vị chư-thiên ấy” thì ngay tức thì, vị chư-thiên ấy xuất hiện trước sự hiện diện của nhóm đạo-sĩ.
-Này vị thiên-nam! Ngươi có nhiều phước-thiện, có nhiều oai lực. Tiền-kiếp của ngươi đã tạo phước-thiện nào mà nay ngươi có nhiều oai lực như vậy?
Người nghèo khổ thọ trì bát-giới Uposathasīla
- Kính thưa quý Ngài, kiếp trước tôi là người nghèo khổ đi làm thuê để nuôi mạng sống qua ngày. Một hôm, tôi đến nhà ông phú hộ Anāthapiṇḍika xin việc làm thuê kiếm sống.
- Này các con! Hôm nay là ngày giới Uposathasīla, có ai nói cho người làm công mới đến biết hay không?
- Thưa ông, không có ai nói cho người làm công mới ấy biết.
- Này các con! Chiều nay, chỉ nấu cơm cho một mình người làm công mới ấy mà thôi, còn lại tất cả mọi người ở trong nhà đều thọ trì bát-giới Uposathasīla cả thảy.
- Này bà! Hôm nay, mọi người ăn xong rồi đi nghỉ hết, chỉ còn lại một mình tôi chưa ăn phải không?
- Này anh! Hôm nay là ngày bát-giới Uposathasīla, nên mọi người trong gia đình từ ông phú hộ, phu-nhân, các con, các cháu nhỏ, cho đến mọi người làm công trong nhà, tất cả đều thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, rồi giữ gìn bát-giới Uposathasīla.
Mọi người đều tìm nơi thanh vắng yên tịnh để giữ gìn bát-giới Uposathasīla, và thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ cả thảy.
Chúng tôi quên nói cho anh biết hôm nay là ngày bát-giới Uposathasīla, nên chỉ có một mình anh đi làm, đây là phần cơm nấu cho anh, anh hãy ăn cơm một mình vậy.
Mọi người trong nhà ai cũng đều thọ trì bát-giới Uposathasīla, chẳng lẽ một mình ta không thọ trì bát-giới Uposathasīla được hay sao? Ta cũng nên thọ trì bát-giới Uposathasīla như mọi người trong nhà này vậy.
Khi ông phú hộ nghe tôi nói như vậy, ông phú hộ hoan hỷ nói lên lời “Sādhu! Lành thay!”
Ông phú hộ Anāthapiṇḍika dạy tôi rằng:
Nếu con thọ trì bát-giới Uposathasīla ngay chiều tối nay thì con thọ trì bát-giới Uposathasīla được 1 đêm là một nửa Uposathasīla.
Bởi vì tôi đi làm vất vả suốt ngày mà chiều về không ăn, cho nên tối đến bụng đói. Ban đêm tôi bị lâm bệnh phong (gió), căn bệnh hành hạ đau khổ khiến tôi không chịu nổi.
Khi biết tôi bị lâm bệnh phong nặng ông phú hộ đem thuốc đến cho tôi uống.
Tôi thưa với ông phú hộ rằng:
- Thưa ông, những người khác đều dùng thuốc rồi phải không?
- Này con! Những người khác không có bệnh nên không dùng, chỉ có một mình con có bệnh nên được phép dùng thuốc mà thôi.
- Thưa ông, con xin giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho được trong sạch và trọn vẹn. Dù chỉ thọ trì bát-giới một nửa (một đêm), con cũng không thể để cho phạm điều-giới nào hoặc để bị đứt điều-giới nào.
Tuy thân thể của tôi có khổ nhưng tâm của tôi vô cùng hoan hỷ cho đến khi yếu dần rồi chết.
Sau khi tôi chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn bát-giới Uposathasīla một đêm của tôi cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam ở tại cội cây da này, được hưởng quả báu an-lạc của đại-thiện-nghiệp giữ gìn bát-giới Uposathasīla một đêm như quý Ngài đã thấy.
Bát-giới Uposathasīla là giới có hạn định theo thời gian dài hoặc ngắn tùy theo hành-giả đã phát nguyện.
* Quả báu thọ trì bát-giới Uposathasīla một đêm
Tích Gaṅgāmālajātaka [16] tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, phần đầu của tích, Đức-Phật thuyết lại chuyện tiền-kiếp của Đức-Phật, khi còn là Đức-Bồ-tát nghèo đi làm công ở nhà phú hộ, Đức-Bồ-tát thọ trì bát-giới upaḍḍhuposathasīla và giữ gìn trong thời gian một đêm uposathasīla, được tóm lược như sau:
Khi ấy, Đức-Phật thuyết dạy những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên bố-thí, nên thọ trì bát-giới uposatha-sīla có 8 điều-giới, rồi giữ gìn bát-giới cho được trong sạch và trọn vẹn. Đức-Phật thuyết lại rằng:
“Tiền-kiếp của Như-lai còn là Đức-Bồ-tát thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn bát-giới trong sạch và trọn vẹn chỉ có một đêm gọi là upaḍḍhuposathasīla mà hưởng được quả báu vô cùng lớn lao.”
Đức-Phật thuyết dạy rằng:
“Một thuở nọ, Đức-vua Brahmadatta trị vì xứ Bārāṇasī. Trong xứ ấy, một phú hộ tên là Siripavara có đức-tin trong sạch thường bố-thí, giữ ngũ-giới. Đặc biệt vào 6 ngày giới Uposathasīla trong mỗi tháng là ngày 8 -14 -15 -23 -29 và ngày 30 cuối tháng. Ông phú hộ cùng vợ con, tôi tớ, những người làm công cho đến người chăn bò,… tất cả mọi người đều phải thọ trì và giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới.
Thời ấy, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama còn là Đức-Bồ-tát sinh trong một gia đình nghèo khổ. Hằng ngày, người cha phải đi làm công để nuôi gia đình.
Khi Đức-Bồ-tát trưởng thành cũng phải tự đi làm công để nuôi sống.
Một hôm, Đức-Bồ-tát đến nhà ông phú hộ để xin việc làm, ông phú hộ nhận Đức-Bồ-tát vào làm công.
Thông thường, ông phú hộ nhận người vào làm công có kèm theo điều kiện là đến ngày giới mỗi tháng phải thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, rồi giữ gìn bát-giới ấy. Nhưng trường hợp Đức-Bồ-tát thì ông quên không đề cập đến điều kiện ấy.
Mấy ngày đầu, Đức-Bồ-tát thức dậy sớm, dùng cơm sáng xong đi ra đồng làm việc đến chiều mới trở về.
Đức-Bồ-tát làm công việc rất siêng năng và cần mẫn, nên ông phú hộ rất hài lòng.
Hôm ấy, nhằm vào ngày giới, Đức-Bồ-tát là người mới vào làm công nên không biết gì về chuyện thọ trì bát-giới Uposathasīla trong các ngày giới, cho nên, sau khi ăn cơm sáng, Đức-Bồ-tát vẫn đi ra đồng sớm, làm việc như mọi ngày.
Sáng hôm ấy, ông phú hộ gọi mọi người đến dạy rằng:
-Này các con! Hôm nay là ngày bát-giới Uposathasīla, những người làm công dùng sáng xong, không phải đi làm việc, chỉ thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn bát-giới, thực-hành pháp-hành thiền-định mà thôi.
Tất cả mọi người trong gia đình ông phú hộ, bao gồm vợ, con, cháu, người tôi tớ, người làm công đều thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, rồi sau khi dùng cơm sáng xong, mỗi người đều tự tìm cho mình nơi thanh vắng, để giữ gìn bát-giới Uposathasīla và thực-hành pháp-hành thiền-định.
Đức-Bồ-tát đi làm suốt cả ngày, đến chiều trở về nhà ông phú hộ, nhìn thấy trong nhà vắng vẻ, yên tịnh, khác với những ngày qua, mọi người xôn xao, ăn uống, nói cười, chuyện trò vui vẻ. Đức-Bồ-tát tìm người hỏi để biết xem chuyện gì đã xảy ra.
Đức-Bồ-tát gặp một người, hỏi người ấy cho biết rằng:
-Này anh! Hôm nay là ngày bát-giới Uposathasīla, nên mọi người đều đã thọ trì bát-giới Uposathasīla, mỗi người đều tìm nơi thanh vắng yên tịnh để giữ gìn bát-giới và thực-hành pháp-hành thiền-định.
Anh mới đến làm công nên chưa biết nội quy ở đây. Đức-Bồ-tát nghe nói như vậy, nghĩ rằng:
“Bát-giới Uposathasīla là thế nào? Mọi người ở đây đều có giới, chỉ có một mình ta không có giới hay sao?
Ngay bây giờ, ta thọ trì bát-giới Uposathasīla có được hay không?”
Nghĩ như vậy xong, Đức-Bồ-tát liền tìm đến ông phú hộ, nhờ giảng giải những điều thắc mắc của mình.
Khi Đức-Bồ-tát thưa với ông phú hộ rằng:
- Thưa ông phú hộ, bát-giới Uposathasīla là như thế nào, xin ông giảng giải cho tôi hiểu biết rõ.
Sau khi nghe ông phú hộ giảng giải về bát-giới Uposathasīla và đã hiểu biết rõ rồi Đức-Bồ-tát thưa rằng:
- Thưa ông phú hộ, ngay bây giờ, tôi có thể thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới được hay không?
Ông phú hộ dạy bảo rằng:
- Này con! Bát-giới Uposathasīla gồm có 8 điều-giới, hành-giả thọ trì bát-giới 1 ngày 1 đêm cũng tốt, hoặc nửa ngày cũng tốt, hoặc một đêm kể từ bây giờ cho đến rạng đông của ngày mai cũng tốt.
Đức-Bồ-tát thưa với ông phú hộ rằng:
- Thưa ông phú hộ, ngay bây giờ, tôi xin thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho đến rạng đông ngày mai.
Ông phú hộ vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát rằng: “Sādhu!: Lành thay!”
Đức-Bồ-tát xin thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới từ ông phú hộ xong, trở về chỗ ở riêng của mình, giữ gìn bát-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, và thực-hành pháp-hành thiền-định.
Bởi vì Đức-Bồ-tát làm việc vất vả suốt ngày, đến chiều không dùng vật thực, trong bụng đói, đến canh chót đêm phát sinh bệnh phong (gió) đau đớn như dao cắt ruột, vô cùng đau khổ.
Ông phú hộ cho thuốc uống, Đức-Bồ-tát nghĩ rằng: “Ta đã thọ bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, ta quyết tâm giữ gìn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, thà ta chịu chết chứ không để phạm một điều-giới nào.”
Đức-Bồ-tát chịu đựng sự đau đớn cho đến sáng ngày hôm sau, sức khoẻ yếu dần, mọi người biết không thể sống được nên đem Đức-Bồ-tát ra nằm ở ngoài hiên nhà.
Sáng hôm ấy, Đức-vua Bānāṇasī ngự trên xe ngựa cùng các quan đi ngoài đường ngang qua nhà ông phú hộ, Đức-Bồ-tát nằm nhìn thấy Đức-vua, phát sinh tâm tham muốn trở thành Đức-vua.
Sau khi Đức-Bồ-tát chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn bát-giới uposathasīla trong sạch và trọn vẹn trong thời gian 1 đêm ấy cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng bà chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Bārāṇasī.
Bà Chánh-cung Hoàng-hậu mang thai đúng 10 tháng, sinh hạ được Thái-tử khôi ngô tuấn tú. Thái-tử được đặt tên là Udayarājakumāra.
Thái-tử trưởng thành và theo học các bộ môn theo truyền thống Vua chúa đều xuất sắc, văn võ song toàn... Đức-Bồ-tát nhớ rõ lại tiền-kiếp của mình nên thường tự truyền dạy rằng:
“Ngày nay ta được hưởng mọi sự an-lạc như thế này, là do quả báu giữ gìn bát-giới Uposathasīla trong sạch và trọn vẹn trong thời gian ngắn, chỉ một đêm ở kiếp trước của ta.”
Khi Đức-phụ-vương đến tuổi già băng hà, các quan làm lễ đăng quang suy tôn Thái-tử lên ngôi Vua để trị vì xứ Bārāṇasī. Đức-vua Udaya trị vì xứ Bārāṇasī dân giàu nước mạnh, thái bình thịnh vượng. Đức-vua hưởng mọi sự an-lạc, thần dân được an cư lạc nghiệp.
Đó là quả báu thọ trì và giữ gìn bát-giới Uposathasīla trong sạch và trọn vẹn trong một thời gian ngắn ngủi (một đêm) của tiền-kiếp Đức-Bồ-tát.
* Quả báu giữ gìn bát-giới Uposathasīla một lần
Trong kinh-thành Bandhumati, vào ngày rằm Đức-vua Bandhumā thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn bát-giới Uposathasīla.
Ở thời kỳ ấy, tôi là người tớ gái tên là Kumbhadāsī trong kinh-thành Bandhumati ấy, tôi được biết Đức-vua Bandhumā cùng các quan trong triều đều thọ trì bát-giới Uposathasīla trong ngày giới hằng tháng, rồi giữ gìn bát-giới nên tôi nghĩ rằng:
“Đức-vua nghỉ việc triều chính mà thọ trì bát-giới Uposathasīla trong ngày giới hằng tháng. Chắc chắn bát-giới Uposathasīla ấy có quả báu tốt lành nên mọi người đều hoan-hỷ thọ trì bát-giới Uposathasīla.”
Tôi đã suy xét với trí-tuệ thấy rõ, biết đúng đắn rằng: “Con người nghèo khổ sống trong đời đầy khổ não, và chúng sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh lại càng phải chịu quả khổ nhiều hơn”, nên tôi phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian.
Sau khi tôi chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn bát-giới Uposathasīla cho quả tái-sinh làm thiên-nữ xinh đẹp trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong lâu đài nguy nga tráng lệ cao 1 do tuần, được trang hoàng hết sức lộng lẫy, có 100.000 (một trăm ngàn) thiên-nữ hầu hạ.
Tôi đã từng là chánh-cung Hoàng-hậu của Vua trời Sakka suốt 64 đời Vua trời liên tiếp. Khi tôi sinh làm người, tôi cũng đã từng là chánh-cung Hoàng-hậu của Đức Chuyển-luân Thánh-vương, trải qua 63 đời Vua trong cõi người.
Tôi là người rất xinh đẹp, có màu da như màu vàng, tôi sinh ra ở kiếp nào cũng là người cao quý trong cõi ấy. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới Uposathasīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi có đủ các loại xe, xe ngựa, voi,... được trang hoàng lộng lẫy. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới uposatha-sīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi có đủ các thứ vải, vải lụa, lông thú,... toàn là những thứ vải tốt. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới uposatha-sīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi có nhiều thứ vàng, ngọc quý báu, có giá trị. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới Uposathasīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi có đầy đủ các thứ nước hoa thơm, đồ trang điểm quý báu. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới uposatha-sīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi có đủ các kiểu lâu đài nguy nga và tráng lệ. Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới Uposathasīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, tôi sinh làm người, mới lên 7 tuổi, tôi xin cha mẹ đi xuất gia. Sau khi tôi xuất gia trở thành sa-di-ni được nửa tháng, tôi đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, đã diệt tận được tất cả mọi phiền-não, đã nhổ tận gốc rễ vô-minh và tham-ái, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, không còn tái-sinh kiếp nào nữa.
Kể từ khi tôi đã thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn bát-giới trong sạch và trọn vẹn cho đến kiếp chót này, trải qua suốt 91 đại-kiếp trái đất. Trong vòng tử sinh luân-hồi suốt khoảng thời gian ấy, tôi không hề bị sa đọa vào trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh). Đó là quả báu một lần thọ trì bát-giới uposathasīla và giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn của tôi.
Tôi đã đến xuất gia nơi Đức-Phật Gotama cao thượng, thật là điều vô cùng diễm phúc cho tôi.
Tôi đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục-thông. Tôi đã hoàn thành phận sự của người nữ xuất-gia, tôi đã thực-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama.
Nhận xét về bát-giới Uposathasīla
Đối với người tại gia cư-sĩ có 2 loại giới: ngũ-giới, bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là thường-giới (niccasīla) chung cho tất cả mọi người tại gia cư-sĩ, không phân biệt dân tộc nào, không ngoại trừ một ai cả, người thọ trì hoặc người không thọ trì 2 loại giới này.
Nếu người nào phạm điều-giới nào trong 2 loại giới ấy thì người ấy đã tạo ác-nghiệp điều-giới ấy, rồi phải chịu quả khổ trong kiếp hiện-tại và vố số kiếp vị-lai.
* Còn bát-giới Uposathasīla này là loại giới có quy định các ngày trong một tháng. Ngày bát-giới Uposatha-sīla bắt đầu từ lúc rạng đông của ngày hôm ấy cho đến lúc rạng đông của ngày hôm sau.
Như vậy, mỗi ngày bát-giới Uposathasīla có khoảng thời gian trọn 1 ngày và một đêm.
Đối với người tại gia muốn có được phước-thiện giữ-giới đặc biệt cao quý hơn ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla thì nên thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn. Hành-giả thọ trì bát-giới Uposathasīla do tự nguyện, hoàn toàn không có bị bắt buộc.
Hành-giả thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn dù thời gian ngắn, dù thời gian dài vẫn có nhiều quả báu đặc biệt hơn cả ngũ-giới và bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là thường-giới, bởi vì trong bát-giới Uposathasīla có 4 điều-giới không chỉ thuộc về giới của người tại gia cư-sĩ, mà còn thuộc về giới của bậc xuất-gia tu-sĩ sa-di, tỳ-khưu nữa. 4 điều-giới ấy là:
1- Điều-giới tránh xa sự hành-dâm.
2- Điều-giới tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
3- Điều-giới tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe cá hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.
4- Điều-giới tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Nếu hành-giả nào là cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ trì bát-giới Uposathasīla, trong đó có 4 điều-giới-hành này trong sạch và trọn vẹn thì chắc chắn hành-giả ấy tạo đại-thiện-nghiệp giữ gìn bát-giới Uposathasīla đặc biệt cao quý và cho quả báu của đại-thiện-nghiệp ấy cũng đặc biệt cao quý.
Bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới mà hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, xin thọ trì bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới ấy, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn.
Khi có bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới trong sạch và trọn vẹn làm nền tảng, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng-sinh vô lượng trong 10 phương hướng, vậy là thêm vào một pháp-hành nữa, cho nên, Uposathasīla này gọi là cửu-giới Uposathasīla.
Cửu-giới Uposathasīla này có 9 điều, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Navaṅguposathasutta[18], được dịch nghĩa như sau:
- Này chư tỳ-khưu! Hành-giả thọ trì Uposathasīla có 9 điều, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, có quả báu lớn trong cõi dục-giới, có quả báu lớn làm duyên Niết-bàn, có kiếp sống xán lạn nhiều, có nhiều năng lực rộng lớn.
Hành-giả thọ trì Uposathasīla có 9 điều, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn như thế nào để có quả báu lớn trong cõi dục-giới? Có quả báu lớn làm duyên Niết-bàn như thế nào? Có kiếp sống xán lạn nhiều như thế nào? Có nhiều năng lực rộng lớn như thế nào?
- Này chư tỳ-khưu! Trong giáo-pháp này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử có trí-tuệ sáng suốt suy xét rằng:
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự sát-sinh, tuyệt đối tránh xa sự sát-sinh, đã bỏ gậy gộc, đã bỏ khí giới, có tâm biết hổ-thẹn mọi tội-lỗi, có tâm bi cứu khổ tất cả mọi chúng-sinh.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự sát-sinh, tránh xa sự sát-sinh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm biết hổ-thẹn mọi tội-lỗi, có tâm bi thương xót cứu khổ tất cả mọi chúng-sinh trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự sát-sinh được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ nhất.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự trộm-cắp, tuyệt đối tránh xa sự trộm-cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cúng dường, không bao giờ trộm-cắp, là bậc sống hoàn toàn trong sạch thanh cao.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự trộm-cắp, tránh xa sự trộm-cắp, chỉ thọ nhận vật dụng mà người ta cho, không trộm-cắp, sống hoàn toàn trong sạch thanh cao trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự trộm-cắp được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ nhì.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự hành-dâm mà hành phạm-hạnh cao thượng, tránh xa việc hành-dâm thấp hèn của người tại gia, tuyệt đối tránh xa sự hành-dâm.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự hành-dâm mà hành phạm-hạnh cao thượng, tránh xa việc hành-dâm thấp hèn, tuyệt đối tránh xa sự hành-dâm trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự hành-dâm được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ ba.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nói-dối, tuyệt đối tránh xa sự nói-dối, chỉ nói lời chân-thật, lúc nào cũng nói lời chân-thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối đời.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự nói-dối, tránh xa sự nói-dối, chỉ nói lời chân-thật, lúc nào cũng nói lời chân-thật, lời nói có chứng cứ rõ ràng, lời nói đáng tin, không lừa dối đời trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nói-dối được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ tư.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, tuyệt đối tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ năm.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời chỉ độ vật-thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự độ vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa).
Hôm nay, chính ta cũng chỉ dùng vật thực một bữa (trong ngày), không dùng vật thực ban đêm, tránh xa sự dùng vật thực phi thời (quá ngọ, quá 12 giờ trưa) trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự dùng vật thực phi thời được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ sáu.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời đã từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tuyệt đối tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa sự nhảy múa ca hát, thổi kèn, tránh xa xem nhảy múa, ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tâm tham-ái được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ bảy.
* Chư bậc Thánh A-ra-hán suốt cuộc đời từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tuyệt đối tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô.
Hôm nay, chính ta cũng từ bỏ chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô trong suốt 1 ngày nay và 1 đêm nay.
Ta cũng được gọi là người thực-hành theo gương của chư bậc Thánh A-ra-hán về điều-giới này. Và ta đã thọ trì Uposathasīla, giữ gìn điều-giới tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao quý và xinh đẹp, chỉ nằm ngồi chỗ thấp, trên cái giường nhỏ hoặc trên chỗ nằm được làm bằng cỏ khô được trong sạch.
Đó là Uposathasīla điều-giới thứ tám.
* Hành-giả có đại-thiện-tâm với tâm từ rải khắp hướng Đông đến tất cả mọi chúng-sinh trong muôn loài, trong khắp mọi nơi, với tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng-sinh vô lượng, không oan trái lẫn nhau, giữ gìn thân tâm được an-lạc.
Cũng như vậy, tâm từ rải khắp hướng Nam...; tâm từ rải khắp hướng Tây...; tâm từ rải khắp hướng Bắc...; tâm từ rải khắp phía dưới…; tâm từ rải khắp phía trên đến tất cả mọi chúng-sinh trong muôn loài, trong khắp mọi nơi, với tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng-sinh vô lượng, không oan trái lẫn nhau, giữ gìn thân tâm được an-lạc.
Đó là Uposathasīla có pháp-hành thứ chín.
- Này chư tỳ-khưu! Hành-giả thọ trì Uposathasīla có 9 điều, rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, để có quả báu lớn trong cõi dục-giới, có quả báu lớn làm duyên Niết-bàn, có kiếp sống xán lạn nhiều, có nhiều năng lực rộng lớn.
(Xong bài kinh Navaṅguposathasutta)
Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla
Nghi thức theo tuần tự
* Đảnh lễ Đức-Phật
* Lễ sám hối Tam-bảo.
-Lễ sám hối Đức-Phật-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.
\Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và cửu-giới Uposathasīla
Ahaṃ [19] Bhante, tisaraṇena saha navaṅgasamannā-gataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi[20], anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me[21], Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha navaṅga-samannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha navaṅga-samannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều cho con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì cửu-giới Uposathasīla
Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:
- Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi [22] (vadetha).
(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy.)
- Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Đảnh lễ Đức-Phật
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.
(3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Thọ phép quy-y Tam-bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN: Āma! Bhante.
(Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Thọ trì cửu-giới Uposathasīla
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.
6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
7- Nacca-gīta-vādita-visūkadassana-mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham ái.
8- Uccāsayana-mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
9- Mettāsahagatena cetasā sabbapāṇabhūtesu pharitvā viharaṇaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì pháp-hành niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng-sinh muôn loài với đại-thiện-tâm hợp với tâm từ.
NTL: Tisaraṇena saha navaṅgasamannāgataṃ Uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhutaṃ katvā appamādena sampādehi.
Phép quy-y Tam-bảo và cửu-giới Uposathasīla có 9 điều xong rồi, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
NTL: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới, Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới, Chúng-sinh được giải thoát khổ, nhờ giữ giới, Các con nên giữ giới cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!)
Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.[23]
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Phần giảng giải cửu-giới Uposathasīla
“Mettāsahagatena cetasā sabbapāṇabhūtesu pharitvā viharaṇaṃ samādiyāmi.”
Con xin thọ trì pháp-hành niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng-sinh muôn loài với đại-thiện-tâm hợp với tâm từ.
“Yathābalaṃ mettāsahagatena cetasā sabbavantaṃ lokaṃ pharitvā viharāmi.”
Con xin thực-hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng-sinh trong đời theo năng lực đại-thiện-tâm hợp với tâm từ.
Trong cửu-giới Uposathasīla có 9 điều, điều thứ 9 không phải là điều-giới như 8 điều-giới ở phần trước (từ điều-giới thứ nhất đến điều-giới thứ 8). Điều thứ 9 là pháp-hành thiền-định niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng-sinh muôn loài vô lượng trong 10 hướng.
Như vậy, trong cửu-giới Uposathasīla có 9 điều này, 8 điều-giới đầu thuộc về pháp-hành giới hỗ trợ cho điều thứ 9 thuộc về pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng-sinh muôn loài vô lượng trong 10 hướng.
Phước-thiện và quả báu đặc biệt của cửu-giới Uposathasīla có 9 điều
Nếu hành-giả nào thọ trì cửu-giới Uposathasīla có 9 điều rồi giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn thì hành-giả ấy không những được phước-thiện giữ-giới, mà còn có được phước-thiện hành-thiền nữa. Vì vậy, cửu-giới Uposathasīla có 9 điều này cao quý hơn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới.
Phước-thiện hành-thiền niệm rải tâm từ có được 11 quả báu trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai như sau:
1- Ngủ được an-lạc.
2- Thức dậy được an-lạc.
3- Không thấy các ác mộng.
4- Được mọi người thương yêu, quý mến.
5- Được các hàng phi nhân thương yêu, quý mến.
6- Được chư-thiên hộ trì.
7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí, ... không thể làm hại được.
8- Tâm dễ dàng an tịnh. 9-Gương mặt sáng sủa.
10-Lúc lâm chung tâm không mê muội, tâm tỉnh táo.
11-Đề-mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới (trừ đệ-ngũ-thiền sắc-giới), nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán thì sau khi chết, bậc thiền sắc-giới cao sở đắc của mình cho quả tái-sinh lên cõi trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng.
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm rải tâm từ đến cho chính mình trước, rồi hành-giả niệm rải tâm từ đến tất cả mọi chúng-sinh vô lượng trong 10 hướng khép kín từ hướng Đông, hướng Đông-Nam, hướng Nam, hướng Tây-Nam, hướng Tây, hướng Tây-Bắc, hướng Bắc, hướng Đông-Bắc, hướng Đông, hướng dưới, hướng trên.[24]
Thập-giới vốn là thường-giới của bậc xuất-gia sa-di. Bậc sa-di có thập-giới là thường-giới và các loại giới khác, v.v… cần phải giữ gìn suốt ngày đêm cho được trong sạch và trọn vẹn trong phẩm-hạnh của vị sa-di.
“Ta chưa có đủ duyên từ bỏ nhà đi xuất gia như các bậc xuất-gia trở thành sa-di, tỳ-khưu, vì ta còn bị ràng buộc bởi gia đình, xã hội.
Nay được nghỉ ngơi một thời gian ngắn, ta nên vào chùa xin thọ trì thập-giới như giới của vị sa-di trong suốt thời gian ngắn ở trong chùa, để có cơ hội tốt thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ. Bởi vì, đời sống của người tại gia có nhiều ràng buộc, khó thực-hành phạm-hạnh được trong sạch và trọn vẹn hoàn toàn.”
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão trong chùa, bạch cho Ngài Trưởng-lão biết rõ nguyện vọng của mình xin ở trong chùa, thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia trong suốt thời gian ngắn ở trong chùa. Kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm từ tế độ.
Nghi thức thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia
Nghi thức theo tuần tự
* Đảnh lễ Đức-Phật
* Lễ sám hối Tam-bảo
-Lễ sám hối Đức-Phật-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khalito doso, buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, dhammañca duvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khalito doso, dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
-Lễ sám hối Đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khalito doso, saṃgho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con.
(đảnh lễ một lạy)
* Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này,
Cầu xin mọi tai-hại hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
Xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia
Ahaṃ [25] Bhante, tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi[26], anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me[27]. Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha dasa-gahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me. Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha dasa-gahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia cho con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia.
Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
Phép quy-y Tam-bảo và thập-giới của người tại gia
Ngài Trưởng-lão truyền dạy rằng:
- Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi.
(Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, con hãy nên lặp lại đúng từng chữ từng câu như thế ấy.)
- Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Đảnh lễ Đức-Phật
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)
Thọ phép quy-y Tam-bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.
- Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.
- Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
- Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
- Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
- Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
- Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.
NTL: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
Thọ trì thập-giới của người tại gia
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3-Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi.
6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
7- Nacca-gīta-vādita-visūkadassanā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát là pháp nghịch với pháp-hành giới-định-tuệ.
8- Mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhū-sanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
9- Uccāsayana-mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
10- Jātarūpa-rajata-paṭiggahanā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, châu báu.
NTL: Tisaraṇena saha dasagahaṭṭhasīlaṃ dhammaṃ sādhutaṃ katvā appamādena sampādehi.
Phép quy-y Tam-bảo và thập-giới của người tại gia xong rồi, con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.
CSN: Āma! Bhante. (Dạ, xin vâng! Bạch Ngài.)
NTL: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới, Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới, Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới, Các con nên giữ giới cho được trong sạch!
CSN: Sādhu! Sādhu! (Lành thay! Lành thay!)
Bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena, hotu me jayamaṅgalaṃ.[28]
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Phần giảng giải thập-giới của người tại gia
Thập-giới gồm có 10 điều-giới, từ điều-giới thứ nhất đến điều-giới thứ 6 và điều-giới 9 đã được giải thích trong phần ngũ-giới và bát-giới Uposathasīla.
Trong phần này sẽ giải thích 3 điều-giới còn lại là điều-giới thứ 7, điều-điều-giới thứ 8, và điều-giới thứ 10.
-Điều-giới thứ 7: Nacca-gīta-vādita-visūkadassanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát là pháp nghịch với pháp-hành giới-định-tuệ.
-Điều-giới thứ 8: Mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
Hai điều-giới này được tách ra từ điều-giới thứ 7 trong bát-giới Uposathasīla thành 2 điều-giới riêng biệt trong thập-giới.
Trong thập-giới, *điều-giới thứ 7:“Nacca-gīta-vādita-visūkadassanā,…” tự mình nhảy múa, ca hát, thổi kèn,… và sai bảo người khác nhảy múa, ca hát, thổi kèn, …. để xem, để nghe do tâm tham-ái, đó là ác-pháp nghịch với pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, mà hành-giả nên tránh xa.
* Điều-giới thứ 8: “Mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā, …” tự mình đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái, đó là ác-pháp mà hành-giả nên tránh xa.
-Điều-giới thứ 10: “Jātarūpa-rajata-paṭiggahanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.”
- Jātarūpa: Vàng ròng, gồm tất cả những đồ trang sức làm bằng vàng như dây chuyền vàng, nhẫn vàng, ...
- Paṭiggahanā: Nhận lấy, đụng chạm đến vàng bạc, tiền bạc, châu báu, ... bằng 5 cách:
2- Uggahāpana: Sai bảo người khác thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc, ngân phiếu, ... cất giữ cho mình.
3- Upanikkhittasādayana: Thí-chủ đem vàng, tiền bạc, ngân phiếu, … dâng cúng dường đến vị tỳ-khưu để mua sắm y mặc, mua dép mang, mua vé xe, vé tàu, … vị tỳ-khưu ấy không thọ nhận bằng thân hoặc bằng khẩu mà thọ nhận bằng tâm hoan hỷ số vàng, tiền bạc, ngân phiếu, … ấy dành cho mình.
Trước tiên, người thí-chủ đem số tài chánh ấy gửi cho người hộ-Tăng, nhờ người hộ-Tăng ấy mua những thứ vật dụng cần thiết dâng đến vị tỳ-khưu ấy.
Sau đó, người thí-chủ tìm đến vị tỳ-khưu ấy bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con có gởi một số tài chánh cho người hộ-Tăng, nhờ người ấy mua sắm những thứ vật dụng mà Ngài cần dùng.
Khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính thỉnh Ngài đến gặp người hộ-Tăng ấy, nhờ người ấy đi tìm kiếm thứ vật dụng ấy, để dâng đến Ngài (đúng theo giới-luật của tỳ-khưu và sa-di).
5- Āmasana: Vị tỳ-khưu không được phép hoan hỷ đụng chạm đến vàng, bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, ... của người khác.
Đó là 5 cách mà hành-giả thọ trì điều-giới thứ 10 cần phải biết để giữ gìn điều-giới ấy được trong sạch và trọn vẹn.
Hành-giả là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia.
Người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ có ý nguyện thọ trì thập giới của người tại gia có điều-giới thứ 10 là: “Tránh xa thọ nhận vàng bạc, châu báu, tiền bạc, ngân phiếu …” Nếu người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ có mang theo vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu,
Sau khi người người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia xong rồi, hành-giả ấy nên thực-hành giống như bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu, tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, … từ một người nào khác, kể cả người thân trong gia đình, để giữ gìn điều-giới thứ 10 cho được trong sạch và trọn vẹn trong suốt khoảng thời gian ngắn ở trong chùa.
Thập-giới của người tại gia với thập-giới của bậc xuất-gia sa-di khác nhau như thế nào?
Khi đi vào đến chùa, nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có mang theo vàng bạc, tiền bạc, châu báu, … thì cần phải gửi người hộ-Tăng tin cậy trong chùa xong, mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì thập-giới của người tại gia.
Sau khi hành-giả đã thọ trì thập-giới của người tại gia xong, từ đó hành-giả ấy không thọ nhận vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, ... từ người khác, dù người ấy là người thân trong gia đình (cha mẹ, anh, chị, em, con cái, ...) để giữ gìn thập-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, thực-hành pháp-hành giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
* Đối với bậc xuất-gia là sa-di, tỳ-khưu, trước khi đi vào chùa để làm lễ xuất-gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong Phật-giáo, người cận-sự-nam từ bỏ tất cả của cải, vàng bạc, tiền bạc, châu báu, ... của mình.
Khi đi vào chùa, người cận-sự-nam giới tử xin cạo tóc, làm lễ xuất-gia trở thành sa-di trong Phật-giáo.
- Vị sa-di có nhiều loại giới, trong đó có thập-giới là thường-giới của bậc xuất-gia là sa-di.
Trong thập-giới có điều-giới thứ 10 là điều-giới tránh xa sự thọ nhận vàng, bạc, châu báu,… mà vị sa-di phải giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn suốt cuộc đời phạm-hạnh sa-di của mình.
Thập-giới của người tại gia với thập-giới của bậc xuất-gia là vị sa-di (tỳ-khưu) khác nhau như vậy.
Khi hành-giả mãn thời hạn phát nguyện thọ trì thập-giới của người tại gia xong, hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ xả thập-giới ra, rồi xin thọ trì ngũ-giới là thường-giới trở lại cuộc sống sinh hoạt bình thường của người tại gia.
Nhận xét về điều-giới thứ 10 trong thập giới của người tại gia
Thập-giới vốn là thường-giới của bậc xuất-gia là vị sa-di, trong thập-giới có điều-giới thứ 10: “Tránh xa thọ nhận vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, v.v ...” mà vị sa-di, vị tỳ-khưu không được phép đụng chạm đến vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, … trong suốt cuộc đời thực-hành phạm hạnh của mình.
Khi người cận-sự-nam hoặc người cận-sự-nữ nào có đức-tin đặc biệt trong sạch nơi Tam-bảo, có ý nguyện muốn thọ trì thập-giới của người tại gia trong khoảng thời gian ngắn theo ý nguyện của mình.
Về hình thức bên ngoài, hành-giả ấy là cận-sự-nam, cận-sự-nữ không phải là bậc xuất-gia, nhưng nội tâm bên trong, hành-giả ấy thực-hành điều-giới thứ 10: “tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, tiền bạc, ngân phiếu, châu báu, v.v…” giống như vị sa-di, vị tỳ-khưu, trong suốt khoảng thời gian phát nguyện thọ trì thập-giới của người tại gia.
Cho nên, quả báu của thập-giới của người tại gia ấy chắc chắn cao quý hơn bát-giới Uposathasīla có 8 điều-giới và cửu-giới Uposathasīla có 9 điều.
Giới bị chấm dứt và giới không bị chấm dứt (Pariyantasīla và Apariyantasīla)
- Giới bị chấm dứt (pariyantasīla).
- Giới không bị chấm dứt (apariyantasīla).
1- Giới bị chấm dứt (Pariyantasīla)
- Giới bị chấm dứt vì tham muốn lợi lộc (của cải) (lābhapariyantasīla).
- Giới bị chấm dứt vì bảo vệ thuộc hạ (yasapariyantasīla).
- Giới bị chấm dứt vì bảo vệ thân quyến (ñātipariyantasīla)
- Giới bị chấm dứt vì bảo vệ các bộ phận trong thân (aṅgapariyantasīla).
- Giới bị chấm dứt vì bảo vệ sinh-mạng (jīvitapariyantasīla).
* Thế nào gọi là giới bị chấm dứt vì tham muốn lợi lộc?
Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị phạm) vì tham muốn lợi lộc.
* Thế nào gọi là giới bị chấm dứt vì bảo vệ thuộc hạ ?
Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị phạm) vì bảo vệ thuộc hạ của mình.
* Thế nào gọi là giới bị chấm dứt vì bảo vệ thân quyến?
Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị phạm) vì bảo vệ thân quyến của mình.
* Thế nào gọi là giới bị chấm dứt vì bảo vệ các bộ phận trong thân?
Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị phạm) vì bảo vệ các bộ phận trong thân của mình.
* Thế nào gọi là giới bị chấm dứt vì bảo vệ sinh-mạng?
Đó gọi là giới bị chấm dứt (giới bị phạm) vì bảo vệ sinh-mạng của mình.
Vì vậy cho nên, khi giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan, số người ấy không còn tự chủ, làm tôi tớ của tham-ái, không được bậc thiện-trí tán dương ca tụng, bị tà-kiến và tham-ái khống chế, không thể làm nền tảng để phát sinh cận-định, an-định, làm cho thân tâm nóng nảy khổ tâm, không làm cho tâm thoải mái, không làm cho tâm hoan hỷ, không làm cho thân tâm an tịnh, không làm cho thân tâm an-lạc, không có thiền-định; không có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các sắc-pháp danh-pháp; không phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp danh-pháp; không có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế của sắc-pháp danh-pháp; không có trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán sắc-pháp danh-pháp; không ly dục trong tử sinh luân-hồi, không diệt được phiền-não, không làm vắng lặng được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.
Đó gọi là hậu quả của giới bị chấm dứt (giới bị phạm).
2- Giới không bị chấm dứt (Apariyantasīla)
- Giới không bị chấm dứt vì lợi lộc (của cải).
- Giới không bị chấm dứt vì thuộc hạ.
- Giới không bị chấm dứt vì thân quyến.
- Giới không bị chấm dứt vì các bộ phận trong thân.
- Giới không bị chấm dứt vì sinh-mạng.
* Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì lợi lộc?
Đó gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì lợi lộc.
* Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì thuộc hạ?
Đó gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì thuộc hạ của mình.
* Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì thân quyến?
Đó gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì thân quyến của mình.
* Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt, (giới không bị phạm) vì các bộ phận trong thân?
Đó gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì các bộ phận trong thân của mình.
* Thế nào gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì sinh-mạng?
Đó gọi là giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm) vì sinh-mạng của mình.
Vì vậy cho nên, giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị đốm, giới không bị đứt lan, số người tự chủ, không làm nô lệ của tham-ái, được bậc thiện-trí tán dương ca tụng, tà-kiến và tham-ái không thể khống chế được, có thể làm nền tảng để phát sinh tâm cận-định, tâm an-định, làm cho thân tâm mát mẻ, làm cho tâm thoải mái, phát sinh tâm hoan hỷ, làm cho thân tâm an tịnh, làm cho thân tâm được an-lạc, có định-tâm trong sáng; có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các sắc-pháp danh-pháp; làm phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp danh-pháp; có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế của sắc-pháp, danh-pháp; có trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán sắc-pháp danh-pháp; tâm ly dục trong tử sinh luân-hồi, diệt được phiền-não, làm vắng lặng được phiền-não; trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, làm vắng lặng mọi phiền-não.
Đó gọi là quả báu của giới không bị chấm dứt (giới không bị phạm).
(Tóm lược trong bộ Paṭisambhidāmagga)
Giải thích
- Giới bị chấm dứt
- Giới không bị chấm dứt
1- Giới bị chấm dứt nghĩa là phạm giới, giới bị đứt, giới bị thủng, giới bị đốm, giới bị đứt lan do nguyên nhân vì lợi lộc, hoặc vì nhóm thuộc hạ, hoặc vì người thân quyến, hoặc vì bộ phận trong thân thể, hoặc vì sinh-mạng của mình, do nguyên nhân nào đó mà người ấy bị phạm giới, bị đứt giới, không thể giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn như trước nữa.
2- Giới không bị chấm dứt nghĩa là không phạm giới, giới không bị đứt, giới không bị thủng, giới không bị đốm, giới không bị đứt lan dù bất cứ nguyên nhân nào như vì lợi lộc, hoặc vì nhóm thuộc hạ, hoặc vì người thân quyến, hoặc vì bộ phận trong thân thể, hoặc vì sinh-mạng của mình, mà vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
Ví dụ: 1-Nguyên nhân vì lợi lộc
Nhưng nếu khi thấy món lợi lộc lớn, mà không ai thấy, không ai biết, cũng không ai nghi ngờ, thì người ấy mới phát sinh tâm tham, quan tâm đến món lợi lộc lớn ấy, người ấy chiếm đoạt món lợi lộc lớn ấy làm của mình, người ấy đã phạm điều-giới trộm cắp.
Như vậy, giới của người ấy bị chấm dứt (giới bị đứt)
* Hành-giả nào đang giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, dù thấy món lợi lộc lớn mà không ai thấy, không ai biết, cũng không ai nghi ngờ, hành-giả ấy cũng không phát sinh tâm tham, không quan tâm đến món lợi lộc lớn ấy.
Hành-giả ấy vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, không để bị phạm điều-giới nào.
Như vậy, giới của hành-giả ấy không bị chấm dứt (giới không bị đứt) do nguyên nhân lợi lộc, mà vẫn giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn.
2- Nguyên nhân vì nhóm thuộc hạ
Nhưng nếu thấy một người thân là thuộc hạ của mình có hành vi phạm pháp thì người ấy phát sinh tâm thiên vị vì thương, nên đứng ra làm chứng gian, người ấy phạm điều-giới nói-dối để giúp cho người thân, thuộc hạ của mình tránh khỏi bị tù tội.
Như vậy, giới của người ấy bị chấm dứt (giới bị phạm) do nguyên nhân vì người thân thuộc hạ của mình.
Như vậy, giới của hành-giả ấy không bị chấm dứt (giới không bị phạm) do nguyên nhân người thân thuộc hạ, vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
3- Nguyên nhân vì người thân quyến
Nhưng nếu thấy một người thân quyến của mình có hành vi phạm pháp thì người ấy phát sinh tâm thiên vị vì thương, nên đứng ra làm chứng gian, người ấy phạm điều-giới nói-dối để giúp cho người thân quyến của mình tránh khỏi bị tù tội.
Như vậy, giới của người ấy bị chấm dứt (giới bị phạm) do nguyên nhân vì người thân quyến của mình.
Như vậy, giới của hành-giả ấy không bị chấm dứt (giới không bị phạm) do nguyên nhân người thân quyến, vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
4- Nguyên nhân vì bộ phận trong thân thể
Như vậy, giới của người ấy bị chấm dứt (giới bị phạm) do nguyên nhân vì bảo vệ bộ phận trong thân thể.
Hành-giả ấy thà chịu hy sinh chặt cánh tay (hoặc chân), chứ không chịu phạm điều-giới sát-sinh, giết chết con gà quạ để làm thuốc.
Như vậy, giới của hành-giả ấy không bị chấm dứt (giới không bị phạm) do nguyên nhân bộ phận trong thân thể, vẫn giữ gìn giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.
5- Nguyên nhân vì sinh-mạng
Như vậy, giới của người ấy bị chấm dứt (giới bị phạm) do nguyên nhân vì bảo vệ sinh-mạng của mình.
Quyết tâm giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, thà chịu hy sinh sinh-mạng để bảo vệ giới của mình được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn.
Như vậy, giới của hành-giả ấy không bị chấm dứt (giới không bị phạm) do nguyên nhân sinh mạng, vẫn giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn.
- Giới bị đứt và giới không bị đứt.
- Giới bị thủng và giới không bị thủng.
- Giới bị đốm và giới không bị đốm.
- Giới bị đứt lan và giới không bị đứt lan.
1- Thế nào gọi là giới bị đứt (khaṇḍa) và giới không bị đứt (akhaṇḍa)?
Trong bát-giới Uposathasīla, … nếu hành-giả phạm điều-giới đầu và điều-giới cuối, 2 điều-giới này bị đứt rời ra thì gọi là bát giới bị đứt.
* Ví dụ: Bát-giới Uposathasīla gồm có 8 điều-giới. 1 -2 -3 -4 -5 -6 -7 – 8
Và hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi, giữ gìn điều-giới đầu và điều-giới cuối được trong sạch và trọn vẹn thì gọi là bát giới không bị đứt.
2- Thế nào gọi là giới bị thủng (chidda) và giới không bị thủng (acchidda)?
* Ví dụ: Bát-giới Uposathasīla gồm có 8 điều-giới.
1 - 2 -3 -4 -5 -6 -7 -8
Hoặc: 1 -2 – 3 -4 -5 -6 -7 -8
Hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi, nếu phạm một trong những điều-giới thứ 2, hoặc điều-giới thứ 3, hoặc điều-giới thứ 4, hoặc điều-giới thứ 5, hoặc điều-giới thứ 6, hoặc điều-giới thứ 7 thì gọi là bát-giới bị thủng.
Và hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi, giữ gìn những điều-giới ở khoảng giữa của điều-giới đầu và điều-giới cuối, không để phạm điều-giới nào thì gọi là bát-giới không bị thủng.
3- Thế nào gọi là giới bị đốm (sabala) và giới không bị đốm (asabala)?
Trong bát-giới Uposathasīla, ngoại trừ điều-giới đầu và điều-giới cuối ra, nếu hành-giả phạm các điều-giới còn lại cách khoảng nhau thì gọi là bát-giới bị đốm.
* Ví dụ: Bát-giới Uposathasīla
1 - 2 -3 - 4 -5 - 6 - 7 -8
Hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi, nếu phạm điều-giới thứ 2, điều-giới thứ 4 và điều-giới thứ 6 cách khoảng nhau thì gọi là bát-giới bị đốm.
Và hành-giả thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn những điều-giới ở phần giữa của điều-giới đầu và điều-giới cuối, không để bị phạm điều-giới cách khoảng nhau thì gọi là bát-giới không bị đốm.
4- Thế nào gọi là giới bị đứt lan (kammāsa) và giới không bị đứt lan (akammāsa)?
Trong bát-giới Uposathasīla, nếu hành giả phạm những điều-giới liền theo với nhau thì gọi là bát-giới bị đứt lan.
* Ví dụ: Bát-giới Uposathasīla
1 - 2 -3 - 4 - 5 - 6 - 7 -8
Hoặc: 1 - 2 -3 - 4 - 5 - 6 - 7 -8
Hoặc: 1 - 2 -3 - 4 - 5 - 6 - 7 -8
Hoặc: 1 - 2 -3 - 4 - 5 - 6 - 7 -8
Hành-giả đã thọ trì bát-giới Uposathasīla rồi, nếu phạm điều-giới thứ 2, điều-giới thứ 3, điều-giới thứ 4; hoặc phạm điều-giới thứ 5, điều-giới thứ 6, điều-giới thứ 7 liền theo với nhau thì gọi là bát giới bị đứt lan.
Hoặc nếu phạm điều-giới thứ 2, điều-giới thứ 3, điều-giới thứ 4, điều-giới thứ 5 liền theo với nhau thì gọi là bát-giới bị đứt lan.
Hoặc nếu phạm điều-giới thứ 4, điều-giới thứ 5, điều-giới thứ 6, điều-giới thứ 7 liền theo với nhau, thì gọi là bát-giới bị đứt lan, …
* Và hành-giả thọ trì bát-giới Uposathasīla, rồi giữ gìn những điều-giới ở phần giữa của điều-giới đầu và điều-giới cuối, không để bị phạm điều-giới liền theo với nhau thì gọi là giới không bị đứt lan.
Giới với sinh-mạng
- Các bộ phận trong thân thể là quý hơn tiền của, nếu khi có bộ phận nào trong thân thể bị thương, thì người ta dám hy sinh đem tiền của ra chữa trị cho đến khi khỏi hẳn, dù phải tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc.
- Sinh-mạng con người là quý hơn các bộ phận trong thân thể, nếu khi lâm bệnh nặng thì nên nghe lời khuyên của bác sĩ, dám hy sinh bộ phận nào trong thân thể để bảo vệ duy trì sinh-mạng được tồn tại.
-Các điều-giới của mình là quý hơn cả sinh-mạng, nên bậc thiện-trí dám hy sinh sinh-mạng để giữ gìn các điều-giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, bởi vì sinh-mạng chỉ có lợi ích ngắn ngủi trong một kiếp mà thôi, rất khó giữ gìn, đến khi chết phải từ bỏ sinh-mạng, còn giữ gìn các điều-giới được trong sạch và trọn vẹn thì đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc không chỉ trong kiếp hiện-tại mà còn vô số kiếp vị lai, làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho mọi thiện-pháp phát triển từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp (4 Thánh-đạo-tâm) tùy theo khả năng của mình. Cho nên, bậc thiện-trí dám hy sinh sinh-mạng để giữ gìn giới.
* Tích bậc thiện-trí dám hy sinh sinh-mạng để giữ gìn giới trong sạch
Tích Ngài Trưởng-lão hành đạo tại khu rừng [29]
Một bọn cướp gặp Ngài Trưởng-lão, chúng nghĩ đó là điều xui xẻo đối với chúng nên chúng cột trói Ngài Trưởng-lão bằng ngọn sợi dây tươi trong rừng, rồi để Ngài Trưởng-lão nằm nơi ấy.
Ngài Trưởng-lão quyết định hy sinh sinh-mạng để bảo vệ giới nên nhẫn nại chịu đựng, đồng thời thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đến ngày thứ 7, Ngài Trưởng-lão chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn cho đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
Tích Ngài Trưởng-lão xứ Srilanka [30]
Một bọn cướp gặp Ngài Trưởng-lão, chúng nghĩ đó là điều xui xẻo đối với chúng, nên chúng cột trói Ngài Trưởng-lão bằng ngọn sợi dây tươi trong rừng, rồi để Ngài Trưởng-lão nằm nơi ấy.
Khi ấy, đám lửa rừng bốc cháy lan đến, Ngài Trưởng-lão không dám vùng vẫy chạy thoát vì sợ làm đứt sợi dây còn tươi, sẽ bị phạm điều-giới pācittiya mà Đức-Phật đã chế định và ban hành đến tất cả chư tỳ-khưu.
Ngài Trưởng-lão quyết định hy sinh sinh-mạng để giữ gìn điều-giới cho được trong sạch nên nhẫn nại chịu đựng, đồng thời thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đồng thời khi ấy ngọn lửa rừng cháy lan đến thiêu Ngài Trưởng-lão tịch diệt Niết-bàn gọi là “jīvitasamasīsī: chứng đắc A-ra-hán đồng thời tịch diệt Niết-bàn” giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Tích Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lâm bệnh
Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đến phục vụ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bèn hỏi rằng:
- Kính thưa pháp-huynh, ngày xưa pháp-huynh bị căn bệnh phong như thế này, pháp-huynh đã chữa trị khỏi bệnh bằng phương thuốc nào?
- Này pháp đệ! Ngày xưa lúc còn tại gia, tôi bị căn bệnh phong như thế này thì mẹ tôi làm món bơ trộn với mật ong, đường nấu với sữa tươi nguyên chất không lẫn với nước thành món sữa pāyāsa, tôi đã dùng món ấy, nên trị khỏi được bệnh này.
- Kính thưa pháp-huynh, do oai-đức của pháp-huynh hoặc pháp-đệ, ngày mai chúng ta sẽ có được món sữa pāyāsa thì tốt biết dường nào!
“Ngày mai ta sẽ giúp làm cho phát sinh món sữa pāyāsa đến hai Ngài.”
“Kính xin cha mẹ hãy làm món sữa pāyāsa dâng cúng đến Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trong ngày mai thì bệnh con mới khỏi.”
-Này con yêu quý! Con hãy yên tâm, gia đình chúng ta thường ngày hộ độ hai Ngài Đại-Trưởng-lão từ lâu.
Sáng ngày hôm sau, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā-moggallāna đi khất thực đến nhà thí-chủ ấy, gia đình thí-chủ thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, xin cái bát của Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi đặt món vật thực đặc biệt là món sữa pāyāsa vào bát, rồi dâng đến Ngài Đại-Trưởng-lão.
Nhìn thấy món vật thực sữa pāyāsa, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nghĩ rằng: “Ta nên mang món vật thực sữa pāyāsa về dâng cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.”
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna độ xong, người thí-chủ xin cái bát đặt món vật thực sữa pāyāsa, rồi kính dâng lên Ngài Đại-Trưởng-lão, nhờ Ngài Đại-Trưởng-lão mang phần vật thực sữa pāyāsa về kính dâng cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna mang món vật thực sữa pāyāsa về rồi bạch rằng:
-Kính thưa pháp-huynh, xin pháp-huynh độ món vật thực sữa pāyāsa này.
“Món vật thực sữa pāyāsa này được phát sinh bằng cách nào?”
“Món vật thực sữa pāyāsa này được phát sinh do chính ta nói ra, chư-thiên cội cây lắng nghe được, chư-thiên ấy nhập vào người con trai lớn của nhà thí-chủ thường hộ độ ta. Người con trai lớn xin gia đình nấu món vật thực sữa pāyāsa này.
Vì vậy, ta không nên độ món vật thực sữa pāyāsa này.”
-Này pháp-đệ! Pháp-huynh không thể độ món sữa pāyāsa này, bởi vì món vật thực này được phát sinh do pháp-huynh đã nói ra bằng lời, do đó món vật thực này không hợp với pháp-huynh.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đem bát vật thực sữa pāyāsa đổ xuống đất cho các loài súc-sinh, đồng thời ngay khi ấy căn bệnh của Ngài Đại-Trưởng-lão khỏi hẳn.
Tôn trọng giới của mình
Trong bộ Visuddhimagga (Thanh-Tịnh-Đạo), Đức-Phật khuyên dạy câu kệ rằng:
“Kikīva aṇḍaṃ camarīva vāladhiṃ.
Piyaṃva puttaṃ nayanaṃva ekakaṃ.
Tatheva sīlaṃ anurakkhamānakā.
Supesalā hotha sadā sagāravā.” [31]
“Như con chim kikī giữ gìn, bảo vệ cái trứng của nó, không màng đến sinh-mạng.
Như con bò camarī giữ gìn, bảo vệ cái đuôi của nó, không màng đến sinh-mạng.
Như người mẹ hiền giữ gìn, bảo vệ một đứa con duy nhất yêu quý của mình.
Như người có một con mắt, giữ gìn bảo vệ con mắt còn lại của mình.
Cũng như vậy, các con nên cẩn trọng giữ gìn, bảo vệ giới của mình cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn.
Các con là người biết kính yêu tha thiết giới của mình, luôn luôn có pháp tôn kính giới của mình.”
Hành-giả thực-hành giữ gìn các điều-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn, làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho mọi thiện-pháp phát triển tốt.
Nếu người nào phạm giới, người không có giới thì phải chịu quả khổ của ác-nghiệp phạm giới, đem lại điều tai hại, sự bất lợi, sự thoái hóa, sự khổ tâm, khổ thân trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Cho nên, nếu người nào đã biết mình phạm điều-giới nào thì người ấy nên biết làm phục hồi điều-giới ấy trở lại bằng nhiều cách:
* Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ thì tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì điều-giới ấy trở lại. Sau khi đã thọ trì điều-giới ấy xong, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy trở thành người có giới trở lại như trước.
* Đối với vị sa-di thì tự mình xin thọ trì sa-di giới không được mà phải tìm đến Ngài Trưởng-lão xin hành phạt, rồi kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì sa-di thập-giới trở lại. Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì sa-di thập-giới xong, trở thành vị sa-di có giới trở lại như trước.
* Đối với vị tỳ-khưu nào phạm các điều-giới nhẹ thì vị tỳ-khưu ấy nên tìm đến vị tỳ-khưu khác xin làm lễ sám hối đúng theo luật mà Đức-Phật đã chế định. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị tỳ-khưu có giới trở lại như trước.
* Đối với vị tỳ-khưu nào phạm 2 điều-giới nặng là
điều-giới saṃghādisesa và điều-giới pārājika.
• Nếu vị tỳ-khưu ấy không giấu phạm điều-giới saṃghādisesa cách đêm, nghĩa là sau khi phạm điều-giới saṃghādisesa nào liền đến trình với vị tỳ-khưu khác biết ngay thì vị tỳ-khưu ấy không cần phải xin thọ parivāsakamma, mà chỉ kính xin chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự tại sīmā, xin thọ mānattakamma mà thôi, rồi vị tỳ-khưu ấy hành mānattakamma nghiêm chỉnh suốt 6 đêm.
Sau khi Ngài Trưởng-lão luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và 3 lần abhānakammavācā (thành-sự-ngôn) xong, đồng thời vị tỳ-khưu ấy thoát khỏi phạm điều-giới saṃghādisesa, vị tỳ-khưu có giới trở lại như trước.
• Nếu vị tỳ-khưu ấy giấu phạm điều-giới saṃghā-disesa bao nhiêu đêm, thì vị tỳ-khưu ấy phải kính xin chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự tại sīmā, xin thọ parivāsakamma, rồi vị tỳ-khưu ấy hành parivāsakamma đầy đủ suốt thời gian giấu bấy nhiêu đêm ấy.
Sau khi hành mānattakamma đủ 6 đêm, vị tỳ-khưu ấy đến kính xin chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự tại sīmā, xin thọ abhānakamma.
Chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự, sau khi Ngài Trưởng-lão luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và 3 lần abhānakammavācā (thành-sự-ngôn) xong, đồng thời vị tỳ-khưu ấy thoát khỏi phạm điều-giới saṃghādisesa, vị tỳ-khưu có giới trở lại như trước.
-Nếu vị tỳ-khưu nào phạm điều-giới pārājika nào thì vị tỳ-khưu ấy mất phẩm hạnh tỳ-khưu, chỉ còn có cách hoàn tục mà thôi, trở thành người cận-sự-nam.
Trong Phật-giáo có 3 pháp-hành chính là:
1- Pháp-hành giới.
2- Pháp-hành thiền-định.
3- Pháp-hành thiền-tuệ
Ba pháp-hành này có 2 loại:
1- Pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ trong tam-giới.
2- Pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ trong siêu-tam-giới.
Trong tam-giới có 3 pháp-hành là pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả cần phải thực-hành theo tuần tự trước sau pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, bởi vì pháp-hành trước làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành sau theo tuần tự.
Hành-giả biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, thực-hành pháp-hành giới đầu tiên, giữ gìn thân và khẩu trong sạch, thanh-tịnh để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ được phát triển tốt.
* Pháp-hành thiền-định là pháp-hành mà hành-giả là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) nương nhờ nơi pháp-hành giới giữ gìn thân và khẩu trong sạch, thanh-tịnh làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, để thực-hành pháp-hành thiền-định có đề-mục thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, và tiếp theo chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.[32]
5 Bậc thiền sắc-giới thiện-tâm
- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm (vitakka), quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là tham-dục, sân-hận, buồn-chán buồn-ngủ, phóng-tâm hối-hận, hoài-nghi.
- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan-sát (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền hướng-tâm (vitakka).
- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền quan-sát (vicāra).
- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc (sukha), nhất-tâm (ekaggatā) do chế ngự được chi-thiền hỷ (pīti).
- Đệ-Ngài-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā) do thay thế chi-thiền lạc (sukha) bằng chi-thiền xả (upekkhā).
Sau khi đã chứng đắc được 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm xong, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, mà mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có mỗi đề-mục thiền-định riêng biệt dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm như sau:
4 Bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm
- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).
- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).
- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).
- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là xả (upekkhā), nhất-tâm (ekaggatā).
* Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành mà hành-giả là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) nương nhờ nơi pháp-hành giới giữ gìn thân và khẩu trong sạch, thanh-tịnh, nương nhờ bậc thiền của pháp-hành thiền-định làm nền tảng, làm nơi nương nhờ để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh 16 loại trí-tuệ-thiền-tuệ [33] từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanāñāṇa) cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā)
trải qua 16 loại trí-tuệ-thiền-tuệ theo tuần tự.
1- Trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpaparicchedañāṇa là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân tích rõ chỉ có sắc-pháp, danh-pháp mà thôi, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh nào cả, mà chỉ có thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi.
2- Trí-tuệ thứ nhì gọi là nāmarūpapaccayaparigga-hañāṇa là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân-duyên phát sinh mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.
3- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 3 gọi là sammasanañāṇa là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp do nhân-duyên-diệt nên thấy rõ biết rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.
4- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện tại do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại trong tam-giới, v.v… cho đến,
12- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 12 saccānulomañāṇa là trí-tuệ-thiền-tuệ thuận dòng theo 8 loại trí-tuệ-thiền-tuệ phần trước và thuận dòng theo 37 pháp bodhi-pakkhiyadhamma phần sau thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā) có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ với đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, tiếp theo,
13- Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nhưng có đối-tượng Niết-bàn thuộc về siêu-tam-giới, làm phận sự chuyển dòng từ bậc thiện-trí phàm-nhân lên bậc Thánh Nhập-lưu, v.v… trải qua 13 loại trí-tuệ-thiền-tuệ này vẫn còn là trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā).
* Trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā có 2 loại trí-tuệ-thiền-tuệ là:
14- Trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là maggañāṇa: Thánh-đạo-tuệ trong 4 Thánh-đạo-tâm có đối-tượng Niết-bàn.
15- Trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới thứ 15 gọi là phalañāṇa: Thánh-quả-tuệ trong 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn.
Khi ấy, 3 pháp-hành: pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ thuộc về 3 phần: phần giới, phần định, phần tuệ được thành-tựu đồng thời cùng một lúc không trước không sau trong pháp-hành bát-chánh-đạo trong 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm chỉ có Niết-bàn làm đối-tượng mà thôi.
Thật vậy, trong pháp-hành bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đó là 8 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
- Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở.
- Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở.
- Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.
- Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.
- Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.
- Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.
- Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.
- Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.
* Chánh-kiến, chánh-tư-duy thuộc về phần tuệ trong 8 siêu-tam-giới-tâm.
* Chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về phần giới trong 8 siêu-tam-giới-tâm.
* Chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định thuộc về phần định trong 8 siêu-tam-giới-tâm.
Phần giới đó là chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, là 3 tâm-sở đồng sinh với 8 siêu-tam-giới-tâm cùng có chung đối-tượng Niết-bàn, bởi vì 3 tâm-sở này thuộc về niyata-ekatocetasika: 3 loại tâm-sở này chắc chắn đồng sinh với 8 siêu-tam-giới-tâm có chung đối-tượng Niết-bàn.
Ngoài 8 siêu-tam-giới-tâm ra, 3 tâm-sở là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở thuộc về aniyatayogīcetasika: bất-định tâm-sở còn thuộc loại nānākadācicetasika mỗi bất-định tâm-sở này riêng rẽ đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm; bởi vì, mỗi chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở này đồng sinh với đại-thiện-tâm có mỗi đối-tượng khác nhau, nên 3 tâm-sở này không thể đồng sinh với đại-thiện-tâm được.
[1] Aṅguttaranikayā, phần Tikanipatā, kinh uposathasīlasutta.
[2] Migāramātā: Mẹ của ông phú hộ Migāra. Thật ra, bà Visākhā là người con dâu của ông phú hộ Migāra, nhưng ông suy tôn người con dâu lên địa vị như người mẹ của ông, nên gọi là Migāramātā.
[3] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.
[4] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Dhajaggasutta.
[5] Giới không bị đứt nghĩa là điều-giới đầu (thứ nhất) và điều-giới cuối (thứ được giữ gìn trong sạch nguyên vẹn.
[6] Giới không bị thủng nghĩa là ngoại trừ điều-giới đầu và điều-giới cuối ra, còn lại 6 điều-giới giữa được giữ gìn trong sạch nguyên vẹn.
[7] Giới không bị đốm nghĩa là trong 8 điều-giới ấy, điều-giới thứ 2, điều-giới thứ 4, điều-giới thứ 6 được giữ gìn trong sạch nguyên vẹn.
[8] Giới không bị đứt lan nghĩa là trong 8 điều-giới ấy, có 2 hoặc 3 điều-giới liền nhau không bị phạm, ví như điều-giới thứ 2 với điều-giới thứ 3, hoặc điều-giới thứ 3 với điều-giới thứ 4, hoặc điều-giới thứ 4 với điều-giới thứ 5, hoặc điều-giới thứ 5 với điều-giới thứ 6 với điều-giới thứ 7 được giữ gìn nguyên vẹn.
[9] Tam-tổng-pháp là tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.
[10] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.
[11] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.
[12] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.
[13] Nếu có 2 người trở lên thì thay chữ vadehi bằng vadetha.
[14] Ba bài kệ này trích trong quyển Nhật Hành Cư Sĩ của Sư Tổ Hộ-Tông.
[15] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Appamādavagga, Tích Sāmavatīvatthu.
[16] Khu. bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Aṭṭhakanipāta, Tích Gaṅgāmālajātaka.
[17] Khuddakanikāya, bộ Therī apadāna, Tích Ngài Đại-đức Tỳ-khưu-ni Ekuposathikātherī.
[18] Aṅguttaranikāya, phần Navakanipāta, kinh Navaṅguposathasutta.
[19] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.
[20] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.
[21] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.
[22] Nếu có 2 người trở lên thì thay chữ vadehi bằng vadetha.
[23] Ba bàikệ này được trích trong quyển Nhật Hành Cư Sĩ của Sư Tổ Hộ-Tông.
[24] Phương pháp thực-hành niệm rải tâm từ, nên xem quyển IX “Pháp-Hành Thiền-Định” trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, cùng soạn-giả.
[25] Nếu có nhiều người thì thay chữ “ahaṃ” bằng chữ “mayaṃ”.
[26] Nếu có nhiều người thì thay chữ “yācāmi” bằng chữ “yācāma”.
[27] Nếu có nhiều người thì thay chữ “me” bằng chữ “no”.
[28] Ba bàikệ này được trích trong quyển Nhật Hành Cư Sĩ của Sư Tổ Hộ-Tông
[29] Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.
[30] Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.
[31] Bộ Visudhimagga, phần Sīlaniddesa.
[32] Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn giả.
[33] 1Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn giả.
Mục lục quyển 3 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10