NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)

QUYỂN III

PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)


CHƯƠNG V

PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
(tt)

Những tích liên quan đến mỗi giới

1-Tích người phạm điều-giới sát-sinh

1.1-Tích MahākālaUpāsaka

Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, một cận-sự-nam tên Mahākāla bậc Thánh-Nhập-lưu, bị vu oan giá họa là kẻ trộm-cắp với tang chứng rõ ràng, nên ông bị đánh chết. Câu chuyện được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy một người cận-sự-nam Mahākāla [1]bậc Thánh Nhập-lưu có ngũ-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn. Ông thường thọ bát-giới Uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng.

Hôm ấy, nhằm vào ngày giới Uposathasīla, ông cận-sự-nam Mahākāla đến ngôi chùa Jetavana xin thọ bát-giới Uposathasīla xong, rồi ở lại chùa nghe pháp, hành thiền suốt đêm, gần sáng ông mới trở về nhà.

Khi ra khỏi chùa Jetavana, ông đến hồ nước trước cổng chùa để rửa mặt. Trong đêm ấy, bọn trộm-cắp lén vào một nhà trong thành lấy trộm của cải, tài sản.

Người chủ nhà hay biết thức dậy, bọn trộm-cắp liền mang theo của cải chạy trốn thoát.

Người chủ nhà cho người đuổi theo bọn trộm-cắp khắp các ngõ đường. Một tên trộm trong bọn chạy dọc theo ven đường đến chùa Jetavana.

Biết đằng sau có người đang đuổi theo mình, tên trộm không thể mang theo gói của cải lấy trộm được, nên tên trộm liền ném gói của cải lấy trộm ấy xuống hồ nước để nhẹ người chạy thoát thân cho mau.

Chẳng may gói của cải lấy trộm ấy lại rơi gần bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla đang ngồi rửa mặt lúc rạng đông. Khi ấy, nhóm gia nhân của chủ nhà đến, nhìn thấy gói của cải lấy trộm nằm bên cạnh ông cận-sự-nam Mahākāla, nên chúng bắt ông cận-sự-nam Mahākāla, rồi bảo rằng:

- Đêm qua, ngươi vào nhà lấy trộm của cải của chúng ta, có tang chứng rõ ràng.

Ông cận-sự-nam Mahākāla nói rằng:

- Đêm qua tôi đã ở chùa giữ bát-giới Uposathasīla, nghe pháp, hành thiền, sáng nay tôi mới rời khỏi chùa trở về nhà.

Nhóm gia nhân không tin lời cận-sự-nam Mahākāla nên chúng đã đánh đập ông đến chết, rồi chúng bỏ thây bên hồ nước.

Buổi sáng hôm ấy, một số tỳ-khưu trẻ và sa-di mang nồi đi lấy nước ở hồ, nhìn thấy tử thi của ông cận-sự-nam Mahākāla, rồi bảo nhau rằng:

Ông cận-sự-nam Mahākāla giữ bát-giới Uposathasīla, nghe pháp, hành thiền suốt đêm hôm qua tại chùa, nay ông bị đánh đập chết oan, thật không công bằng.

Chư tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch về cái chết oan của ông cận-sự-nam Mahākāla.

Đức-Phật dạy rằng:

-Này chư tỳ-khưu! Người cận-sự-nam Mahākāla bị chết như vậy là không công bằng ở kiếp hiện-tại này, nhưng lại công bằng theo ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của cận-sự-nam Mahākāla đã tạo.

Chư tỳ-khưu, sa-di lắng nghe Đức-Phật dạy như vậy, liền đảnh lễ Đức-Phật, kính thỉnh Ngài thuyết giảng về ác-nghiệp sát-sinh nào của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo trong kiếp quá-khứ.

Tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla đã tạo ác-nghiệp sát-sinh như thế nào?

Trong thời-kỳ quá khứ, trong nước của Đức-vua Bārāṇasī, vùng biên giới có bọn cướp ẩn náu thường quấy nhiễu dân chúng qua lại, cướp của giết người; nên Đức-vua truyền phái một đội binh lính đến vùng biên giới, đặt trạm canh phòng làm phận sự dẫn đường đưa dân chúng đi lại từ vùng này đến vùng khác để bảo vệ dân chúng được an toàn cả sinh-mạng lẫn của cải.

Một hôm, đôi vợ chồng trẻ, người vợ rất xinh đẹp, đi trên một chiếc xe bò đến trạm canh phòng lúc về chiều.

Người trạm trưởng nhìn thấy người vợ trẻ xinh đẹp đem lòng thương yêu và ganh tỵ với người chồng trẻ.

Hai vợ chồng trẻ yêu cầu người trạm trưởng cho lính dẫn đường sang vùng bên kia. Người trạm trưởng đang có mưu đồ đen tối xấu xa nên đã từ chối một cách khéo léo rằng:

- Này anh chị! Trời sắp tối rồi, đợi sáng mai tôi sẽ cho lính đưa anh chị đi sớm.

Hai vợ chồng trẻ khẩn khoản năn nỉ nhờ người trạm trưởng cho lính dẫn đường đi ngay lúc đó, bởi vì, thời gian còn đi lại được, hai vợ chồng trẻ cũng có công việc gấp nên không muốn về nhà trễ.

Người trạm trưởng có mưu đồ đen tối xấu xa nên vẫn tiếp tục khuyên hai vợ chồng trẻ rằng:

- Này anh chị! Tối nay xin mời anh chị về nhà tôi nghỉ lại, sáng sớm tôi sẽ cho lính dẫn đường đưa anh chị đi.

Hai vợ chồng trẻ không còn cách nào khác nên đành phải đến nhà người trạm trưởng, tạm ở lại qua đêm.

Người trạm trưởng mời hai vợ chồng trẻ nghỉ trọ trong nhà khách, tiếp đãi cơm nước rất đàng hoàng, tử tế.

Ban đêm, khi hai vợ chồng đang ngủ say, người trạm trưởng lén đem viên ngọc maṇi giấu vào chiếc xe của họ. Gần rạng đông, người trạm trưởng kêu la lên là có kẻ trộm lén vào nhà lấy viên ngọc maṇi quý giá, rồi cho người nhà đi lục soát tìm khắp mọi nơi.

Lúc ấy, hai vợ chồng trẻ thức dậy đang sửa soạn chiếc xe bò để đi sớm, người trạm trưởng bảo người nhà lục soát trong chiếc xe bò, nhìn thấy viên ngọc maṇi giấu trong chiếc xe. Chúng bảo với hai vợ chồng trẻ rằng:

“Ngươi lấy trộm viên ngọc maṇi quý của chủ ta rồi sáng sớm định sửa soạn chạy trốn thoát hay sao!”

Chúng liền bắt người chồng trẻ đem đến trình chủ là người trạm trưởng rồi thưa rằng:

-Thưa ông chủ! Chúng tôi bắt được người này lấy trộm viên ngọc maṇi của ông, đây là viên ngọc maṇi tang chứng rõ ràng.

Người trạm trưởng quở mắng người chồng trẻ rằng:

-Này ngươi! Ta đã cho vợ chồng ngươi đến nghỉ đêm nhà ta, cho ăn uống tử tế, thế mà ngươi không biết ơn, còn lén vào nhà lấy trộm viên ngọc maṇi quý giá của ta.

Ông chủ trạm sai bảo người nhà đánh đập người chồng trẻ đến chết, đem thây vào bỏ trong rừng…, rồi bắt người vợ trẻ xinh đẹp làm vợ của mình.

Sau khi người trạm trưởng chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh vào đại-địa-ngục Avīci, bị thiêu đốt, bị hành hạ chết đi rồi tái-sinh trở lại trong địa-ngục, chịu bao nỗi khổ cực suốt thời gian trong cõi địa-ngục do ác-nghiệp sát-sinh mà mình đã tạo, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh trở lại làm người, kiếp nào cũng bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đập đến chết suốt 100 kiếp.

Người trạm trưởng phạm điều-giới sát-sinh trong thời quá khứ ấy chính là tiền-kiếp của người cận-sự-nam Mahākāla này.

Tuy người cận-sự-nam Mahākāla đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, song quả của ác-nghiệp sát-sinh còn có năng lực dư sót, nên kiếp hiện-tại này ông bị vu oan giá họa, rồi bị đánh đến chết như vậy.

Cho nên, người cận-sự-nam Mahākāla bị đánh chết là công bằng theo ác-nghiệp sát-sinh của ông đã tạo trong kiếp quá-khứ (khi làm người trạm trưởng).

1.2-Tích người phạm điều-giới sát-sinh và gây oan trái

Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, khi ấy Đức-Phật thuyết giảng đề cập đến nữ dạ-xoa Yakkhinī [2], được tóm lược như sau:

Một đôi vợ chồng không có con, người vợ đi tìm một người đàn bà về làm vợ nhỏ cho chồng để sinh con nối dòng và giữ gìn của cải, tài sản gia đình.

Khi tìm được người vợ nhỏ cho chồng, người vợ lớn lại nghĩ rằng:

“Nếu người vợ nhỏ có con, thì tất cả của cải, tài sản đều thuộc về người vợ nhỏ.”

Nên bà vợ lớn bảo với bà vợ nhỏ rằng:

-Này em! Khi nào em có thai, hãy báo cho chị biết.

Vâng lời bà vợ lớn, khi có thai, bà vợ nhỏ liền báo cho bà vợ lớn biết. Bà vợ lớn làm thuốc phá thai trộn lẫn vào thức ăn, đồ uống cho bà vợ nhỏ dùng nên người vợ nhỏ đã bị hư thai lần thứ nhất.

Người vợ nhỏ có thai lần thứ nhì, cũng như lần trước người vợ nhỏ liền báo cho người vợ lớn biết, người vợ lớn làm thuốc phá thai làm cho người vợ nhỏ bị hư thai lần thứ nhì.

Người vợ nhỏ có thai lần thứ ba, bà nghĩ rằng:

“Ta đã bị hư thai hai lần là bởi do bà vợ lớn, lần này ta không báo cho bà vợ lớn biết.”

Cái thai trong bụng của bà vợ nhỏ càng ngày càng lớn dần, bà vợ lớn biết vậy liền quở trách bà vợ nhỏ rằng:

-Tại sao em có thai, mà không báo cho chị biết!

Bà vợ nhỏ thưa rằng:

-Thưa chị! Hai lần trước em có thai, báo cho chị biết, chị cho uống thuốc làm cho em hư thai hai lần, cho nên, lần này em không dám báo cho chị biết.

Bà vợ lớn sẵn có mưu đồ đen tối xấu xa nên bà tìm cơ hội lúc bà vợ nhỏ sơ hở, bà trộn thuốc vào thức ăn, đồ uống, bà vợ nhỏ không biết nên ăn uống vào làm cho bào thai bị hư. Lần này bào thai không thể ra ngoài được làm cho bà vợ nhỏ phải chết.

Trước khi chết, bà vợ nhỏ nguyện kết oan trái với bà vợ lớn rằng:

“Kiếp này, ngươi đã hại ta hai lần bị hư thai, lần thứ ba này, ngươi không chỉ làm cho ta bị hư thai mà còn giết hại sinh-mạng của ta nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

Sau khi bà vợ nhỏ chết, với tâm oan trái trả thù, do ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm con mèo cái trong gia đình ấy.

Gây oan trái lẫn nhau

Người chồng biết được người vợ lớn là thủ phạm đã hai lần làm người vợ nhỏ bị hư thai, lần này không chỉ làm hư thai mà còn làm người vợ nhỏ chết, ông nổi giận đánh đập người vợ lớn đến chết.

Người vợ lớn sau khi chết, ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con gà mái cũng ở trong gia đình ấy.

Khi gà mái đẻ trứng ra, cả hai lần đều bị con mèo cái đến ăn trứng, đến lần thứ ba, sau khi ăn trứng xong, con mèo cái vồ con gà mái cắn cổ chết rồi ăn thịt gà luôn.

* Con gà mái trước khi chết nguyện gây oan trái với con mèo cái rằng:

“Kiếp này, ngươi đã ăn trứng của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn trứng của ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

* Con gà mái sau khi chết, ác-nghiệp oan trái trả thù cho quả tái-sinh làm con cọp cái. Còn con mèo cái sau khi chết, do ác-nghiệp sát-sinh cho quả tái-sinh làm con nai cái.

Khi con nai cái sinh con lần thứ nhất, con cọp cái tìm đến ăn thịt nai con, khi con nai cái sinh con lần thứ nhì, con cọp cái cũng tìm đến ăn thịt nai con.

Khi con nai cái sinh con lần thứ ba, lần này con cọp cái tìm đến không chỉ ăn thịt nai con mà còn bắt nai mẹ giết chết ăn thịt nữa.

* Con nai mẹ trước khi chết, nguyện kết oan trái với con cọp cái rằng:

“Kiếp này, ngươi đã ăn thịt con của ta hai lần, lần thứ ba này, ngươi không chỉ ăn thịt con ta mà còn giết ta ăn thịt nữa. Kiếp sau, ta sẽ giết hại con của ngươi và cả ngươi nữa.”

* Con nai cái sau khi chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm nữ dạ-xoa Yakkhinī ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ Đại-thiên-vương.

Còn con cọp cái sau khi chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con gái của một gia đình trong kinh-thành Sāvatthi.

Nàng trưởng thành khôn lớn có chồng và sống ở bên gia đình chồng. Lúc nàng sinh đứa con thứ nhất, nữ dạ-xoa theo dõi biết rõ, rồi biến hóa thành người bạn thân đến thăm nàng.

Nhìn thấy con nàng, nữ dạ-xoa liền bắt đứa con của nàng để ăn thịt. Nàng sinh đứa con lần thứ nhì, nữ dạ-xoa theo dõi biết, liền xuất hiện đến bắt đứa con của nàng để ăn thịt như lần trước.

Khi nàng có thai lần thứ ba, gần đến ngày sinh, nàng bàn tính với chồng xin về nhà cha mẹ của nàng để sinh con, bởi vì nếu nàng sinh ở đây thì nữ dạ-xoa sẽ đến bắt con của nàng để ăn thịt như hai lần trước.

Người chồng đồng ý, hai vợ chồng cùng đưa nhau về bên nhà cha mẹ nàng để sinh con.

Khi nàng sinh đứa con và làm lễ đặt tên cho con xong, hai vợ chồng bồng đứa con trở về lại bên nhà chồng.

Trên đường đang đi trở về nhà, khi đi ngang qua ngôi chùa Jetavana, nhìn thấy nữ dạ-xoa đang đi tìm nàng để bắt đứa con của nàng, nên nàng hoảng sợ quá, liền bồng đứa con chạy vào chùa Jetavana trốn thoát.

Khi ấy, Đức-Phật đang thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nàng bồng đứa con đến gần Đức-Phật rồi đặt đứa con của nàng phía dưới đôi bàn chân của Đức-Phật bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính dâng đứa con này đến Ngài, cầu xin Ngài rải tâm đại bi cứu mạng đứa con của con.

Lúc này, bên ngoài cửa ngôi chùa, chư-thiên giữ cửa cấm không cho nữ dạ-xoa đi vào trong ngôi chùa Jetavana.

Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cho gọi nữ dạ-xoa được phép vào hầu.

Nữ dạ-xoa đi vào hầu đảnh lễ Đức-Phật.

Nhìn thấy nữ dạ-xoa, nàng hoảng sợ vô cùng khóc la bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, nữ dạ-xoa.

Đức-Thế-Tôn khuyên dạy, trấn an nàng rằng:

- Này con! Con đừng sợ, không có điều tai hại nào xảy đến cho đứa con của con và con đâu!

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn khuyên dạy rằng:

- Này các con! Nếu các con không đến gặp Như-Lai thì sự oan trái giữa các con sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Tại sao các con gây oan trái lẫn nhau, rồi trả thù lại bằng sự oan trái?

Sự thật, sự oan trái được dập tắt bằng sự không oan trái, chứ không phải dập tắt bằng sự oan trái.

Đức-Phật thuyết câu kệ rằng:

“Na hi verena verāni, sammantīdha kudācanaṃ. Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano.”[3]

“Trong đời này những sự oan trái, Chẳng bao giờ dập tắt được oan trái, Bằng hành động oan trái đáp lại.

Sự oan trái chỉ được dập tắt, Bằng sự không oan trái mà thôi. Đó là pháp có từ ngàn xưa,

Của chư bậc thiện-trí cao thượng.”

Sau khi lắng nghe câu kệ xong, nữ dạ-xoa liền chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập lưu, và các hàng đệ-tử cũng được nhiều lợi ích, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo trí-tuệ ba-la-mật của mỗi người.

Bắt đầu từ khi ấy, sự oan trái hoàn toàn bị dập tắt, tâm từ và nhẫn-nại phát sinh giữa nữ dạ-xoa và nàng có đứa con, họ thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thương yêu đứa con nhỏ.

Tóm lược thay đổi qua mỗi kiếp và gây oan trái

Người vợ lớn Người vợ nhỏ

↓ ↓

Sinh kiếp gà mái Sinh kiếp mèo cái

↓ ↓

Sinh kiếp cọp cái Sinh kiếp nai cái

↓ ↓

Sinh kiếp con gái Sinh kiếp nữ dạ-xoa.

Vấn: Sự khác nhau giữa oan trái và ác-nghiệp như thế nào?

Đáp: Người gây oan trái chắc chắn tạo ác-nghiệp. Người tạo ác-nghiệp, có khi có oan trái, có khi không có oan trái.

Oan trái có thể dập tắt bằng sự không oan trái, còn ác-nghiệp không thể dập tắt bằng đại-thiện-nghiệp, song đại-thiện-nghiệp có khả năng làm giảm bớt tiềm lực cho quả của ác-nghiệp.

Vấn: Hai người đàn bà gây oan trái với nhau, những đứa con của mỗi người có liên quan gì mà phải chịu khổ?

Đáp: Cái thai (của người vợ nhỏ), trứng gà (của gà mái), nai con (của nai cái), đứa con (của người đàn bà) không liên quan trực tiếp đến sự oan trái của người mẹ, nhưng chịu ảnh hưởng gián tiếp về quả của ác-nghiệp của mẹ mình.

Những người con còn nhỏ thường chịu ảnh hưởng quả của đại-thiện-nghiệp hoặc quả của ác-nghiệp của cha mẹ.

Nếu cha mẹ giàu có thì đứa con sinh ra được sống sung túc, nếu cha mẹ nghèo khổ thì đứa con sinh ra phải chịu cảnh thiếu thốn.

Tuy nhiên có trường hợp đặc biệt, cha mẹ chịu ảnh hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp của người con, từ khi mới đầu thai hoặc khi sinh ra đời rồi.

Ví như: * Trường hợp Ngài Trưởng-lão Sīvali, khi Ngài đầu thai vào lòng mẹ là bà Suppavāsā, hoàng-hậu của Đức-vua dòng Koliya, trong các kho của cải lúc nào cũng đầy đủ, sung túc, không bao giờ thấy bị hao hụt, giảm bớt chút nào.

Đó là quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí ba-la-mật của thai nhi Sīvali làm ảnh hưởng tốt lành đến mẫu-hậu và phụ-vương của Ngài và những người thân trong hoàng tộc.

* Trường hợp Ngài Trưởng-lão Losakatissa, khi Ngài đầu thai vào một gia đình trong xóm dân chài có một ngàn gia đình, từ khi thai nhi Losakatissa đầu thai, không chỉ gia đình cha mẹ của Ngài phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn mà còn ảnh hưởng đến một ngàn gia đình trong xóm dân chài ấy cũng phải chịu cảnh đói khổ thiếu thốn nữa.

Đó là quả của ác-nghiệp tiền-kiếp của thai nhi Losakatissa gây ảnh hưởng đói khổ đến gia đình cha mẹ của Ngài và những gia đình trong xóm dân chài.

1.3-Bậc thánh A-ra-hán không tránh khỏi quả của ác-nghiệp sát-sinh

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama thường xuất hiện lên các cõi trời hỏi về các tiền-kiếp của các thiên-nam, thiên-nữ đã làm những phước-thiện nào mà có quả báu rồi thuyết lại cho dân chúng nghe, nên tất cả những người ấy đã bỏ nhóm ngoại đạo đi theo cúng dường chư tỳ-khưu trong Phật-giáo.

Nhóm ngoại đạo mất dần dần lợi ích cúng dường nên tìm mưu kế giết Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna. Nhóm ngoại đạo hội họp bàn bạc với nhau rằng:

“Sở dĩ chúng ta mất nhiều lợi lộc cúng dường là vì Ngài Mahāmoggallāna xuất hiện lên cõi trời hỏi các chư-thiên, khi ở cõi người đã tạo đại-thiện-nghiệp nào mà nay được hưởng mọi sự an-lạc như thế này; hoặc gặp các loài ngạ-quỷ hỏi kiếp trước đã tạo ác-nghiệp nào mà nay phải chịu khổ như thế này, v.v…

Ngài Mahāmoggallāna tường thuật lại cho dân chúng nghe và họ tin theo Ngài, nên phần đông họ chỉ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đệ-tử của Đức-Phật mà thôi.

Vì vậy, chúng ta càng ngày càng mất nhiều lợi lộc cúng dường. Chúng ta nên tìm cách giết hại Ngài Mahāmoggallāna rồi chúng ta sẽ có lại những lợi lộc cúng dường như trước đây.”

Nhóm ngoại đạo đều đồng tâm nhất trí, họ thuê mướn bọn cướp sát nhân với số tiền trên 1.000 (một ngàn) kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa) để giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Bọn cướp đồng ý với số tiền ấy rồi làm theo sự yêu cầu của nhóm ngoại đạo.

Bọn cướp sát nhân kéo nhau đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tại làng Kāḷasila.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vốn là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đệ nhất xuất chúng về phép-thần-thông. Khi biết bọn cướp đến vây hãm, Ngài Đại-Trưởng-lão bay lên hư không, nên bọn chúng vào không thấy Ngài Đại-Trưởng-lão.

Những ngày kế tiếp, bọn chúng cũng đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, khi thì Ngài Đại-Trưởng-lão bay lên hư không, khi thì Ngài Đại-Trưởng-lão biến mất, nên bọn chúng không sao tìm gặp được Ngài Đại-Trưởng-lão, cứ như vậy kéo dài cả tháng mà bọn chúng vẫn không sao bắt được Ngài Đại-Trưởng-lão.

Đến cuối tháng, khi bọn chúng kéo đến vây hãm chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, lần này suy xét thấy đến lúc hết tuổi thọ, đồng thời ác-nghiệp sát-sinh (đánh đập cha mẹ đến chết đem bỏ trong bụi cây mà tiền-kiếp của Ngài đã tạo trong thời quá-khứ xa xưa) cũng đến lúc cho quả ác-nghiệp ấy nên Ngài Đại-Trưởng-lão không thoát ra khỏi chỗ ở.

Bọn cướp xông vào bắt Ngài Đại-Trưởng-lão rồi đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão tan xương nát thịt, bọn cướp tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết, nên đem bỏ thây ở bụi cây.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nghĩ rằng:

“Ta nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép tịch diệt Niết-bàn.”

Nghĩ xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna vận dụng phép-thần-thông gắn liền xương thịt lại rồi bay lên hư không đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, bạch rằng:

-Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con tịch diệt Niết-bàn ngay trong ngày hôm nay. Bạch Ngài.

Đức-Phật cho phép Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog-gallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha.

Như vậy, 1 tháng sau hạ thứ 45 của Đức-Phật, vào rằm tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử tịch diệt Niết-bàn tại làng Nālākagāma xứ Magadha, và cuối tháng 10 (30 tháng 10) Ngài Đại-Trưởng-lãoMahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn tại làng Kāḷasila xứ Magadha.

Thế là hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đều đã tịch diệt Niết-bàn.

Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Ajātasattu đất nước Magadha truyền lệnh truy tìm kẻ chủ mưu giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Quân lính triều đình điều tra biết rõ bọn cướp sát nhân đã nhận tiền thuê mướn của nhóm ngoại đạo để giết hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Đức-vua Ajātasattu truyền lệnh bắt bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo 500 người để xét xử, tất cả đều nhận tội. Đức-vua truyền lệnh đem tất cả bọn chúng chôn một nửa người xuống đất, phủ rơm lên trên thiêu sống, dùng cày sắt cày xới làm cho bọn cướp sát nhân và nhóm ngoại đạo chết tan xương nát thịt cả thảy.

Đó là quả của ác-nghiệp sát-sinh, đánh đập bậc Thánh A-ra-hán đến chết (tịch diệt Niết-bàn).

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đã tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu bàn luận rằng:

“Thật là đáng động tâm biết dường nào! Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử đệ nhất phép-thần-thông xuất chúng trong hàng thanh-văn đệ-tử, thế mà Ngài Đại-Trưởng-lão bị bọn cướp đánh đập đến gần chết, phải tịch diệt Niết-bàn như vậy. Thật là không công bằng chút nào.”

Khi ấy, Đức-Phật vừa ngự đến bèn hỏi rằng:

- Này các con! Các con đang hội họp bàn luận chuyện gì vậy?

Chư tỳ-khưu bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn luận về Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn như vậy.

Thật là không công bằng chút nào. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn không công bằng trong kiếp hiện-tại này, song Mahā-moggallāna tịch diệt Niết-bàn lại công bằng xét theo ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá-khứ xa xưa.

Chư tỳ-khưu đảnh lễ kính thỉnh Đức-Thế-Tôn thuyết giảng về ác-nghiệp sát-sinh trong tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy được tóm lược như sau:

Trong thời quá-khứ xa xưa, tại xứ Bārāṇasī, một người con trai có lòng hiếu thảo đối với cha mẹ mù lòa, có lòng biết ơn và đền đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mình.

Hằng ngày, người con trai lo cơm nước, giặt giũ quần áo, tắm rửa, phụng dưỡng cha mẹ. Sau khi xong công việc trong nhà mới đi làm việc ngoài như vào rừng, ra ruộng, … để kiếm tiền bạc của cải đem về nuôi dưỡng cha mẹ già một cách rất chu đáo với tấm lòng hiếu thảo và tôn kính cha mẹ.

Một hôm, cha mẹ nói với người con chí hiếu yêu quý của mình rằng:

- Này con yêu quý! Một mình con chịu làm lụng vất vả ngoài đồng, về nhà còn phải lo bao nhiêu công việc trong nhà. Cha mẹ muốn tìm cho con một người vợ, để giúp đỡ con lo công việc trong nhà, nghe con.

Người con trai một mực từ chối, xin với cha mẹ rằng:

- Thưa cha mẹ, con không muốn lấy vợ, con chỉ muốn một mình con lo phụng dưỡng cha mẹ mà thôi.

Mỗi ngày, cha mẹ khẩn khoản năn nỉ, người con trai đành phải chiều theo ý của cha mẹ, chịu cưới vợ để làm cho cha mẹ hài lòng.

Người vợ giúp đỡ chồng lo công việc trong nhà, lo phục vụ cha mẹ chồng mới chỉ được 2 -3 ngày mà thôi, rồi những ngày tiếp theo nàng tỏ vẻ bực dọc cảnh cha mẹ chồng mù lòa, không muốn sống chung với cha mẹ chồng nữa.

Người vợ than vãn với chồng rằng:

- Này anh yêu quý! Em không muốn sống chung với cha mẹ mù lòa của anh nữa.

Nàng đặt điều nói xấu cha mẹ chồng. Ban đầu người chồng không tin theo lời người vợ.

Một hôm, khi người chồng đi ra ngoài làm công việc, người vợ ở nhà bày đồ đạc, đổ vỡ rải rác trong nhà. Người chồng đi làm về hỏi người vợ rằng:

- Này em yêu quý! Tại sao đồ đạc đổ vỡ rải rác như thế này?

Người vợ nói với người chồng là do hai ông bà mù lòa làm đồ đạc đổ vỡ rải rác, nàng phải dọn dẹp mệt nhừ cả người mà vẫn không làm hết việc, nàng không thể nào chịu nổi.

Bây giờ nàng không muốn sống chung với hai ông bà già mù lòa ấy nữa.

Mỗi ngày, từ đồng ruộng trở về, người chồng nghe vợ than vãn không sao chịu nổi. Người con trai liền lập mưu kế nói lừa dối cha mẹ, muốn đưa cha mẹ đi thăm người bà con bên làng ấy, người con thưa rằng:

- Thưa cha mẹ, người bà con bên làng ấy muốn mời cha mẹ đến thăm viếng, để con đánh xe đưa cha mẹ đi.

Nghe người con trai chí hiếu nói vậy, cha mẹ tin con nói thật, nên đồng ý đi thăm. Người con sửa soạn chiếc xe bò rồi bồng cha mẹ đặt ngồi lên xe và đánh chiếc xe bò chở cha mẹ đến một khu rừng rậm, tại đây người con thưa với cha mẹ rằng:

- Thưa cha mẹ, nơi đây thường có bọn cướp sát nhân, xin cha mẹ ngồi trên xe để con xuống xe đi quan sát xong con sẽ trở lại.

Người con bước xuống xe bò, rồi một lát sau giả làm bọn cướp sát nhân hung ác la hét chạy đến đánh đập cha mẹ mù lòa.

Tuy cha mẹ thân già yếu mù lòa bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn luôn nghĩ thương đứa con thân yêu, nên hai ông bà la lớn bảo rằng:

- Này con yêu quý! Con hãy chạy thoát thân, cha mẹ già yếu mù lòa có chết cũng cam phận.

Mặc dù cha mẹ gào thét như vậy nhưng người con vẫn giả giọng kẻ cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già cho đến chết, và đem thây cha mẹ ném trong rừng rồi đánh xe trở về nhà.

Đức-Phật thuyết giảng về tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna giả làm bọn cướp sát nhân đánh đập cha mẹ già yếu mù loà đến chết, bỏ thây trong rừng trong thời quá-khứ ấy.

Người con ấy đã tạo ác-nghiệp trọng tội giết cha mẹ thuộc về ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội (ānantariya- kamma), nên sau khi chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy chắc chắn cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci mà không có nghiệp nào có thể ngăn được, chịu quả khổ cùng cực của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài trong các cõi địa-ngục cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Đó là tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog-gallāna đã từng đánh đập cha mẹ cho đến chết, tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội trong thời quá-khứ xa xưa.

* Kiếp hiện-tại, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggal-lāna bậc Thánh A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đó là do phát nguyện và quả của đại-thiện-nghiệp đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật của Ngài Đại-Trưởng-lão.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bị bọn cướp sát nhân đánh đập tan xương nát thịt dẫn đến tịch diệt Niết-bàn, đó là quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội đánh đập cha mẹ đến chết trong thời quá-khứ xa xưa còn dư sót.

Vì vậy, Đức-Phật dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna bị đánh đập dẫn đến tịch diệt Niết-bàn ấy là công bằng theo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội đánh đập cha mẹ cho đến chết mà tiền-kiếp của Mahāmoggallāna đã tạo trong quá-khứ xa xưa.

* Còn nhóm ngoại đạo có tác-ý trong ác-tâm thuê mướn bọn cướp sát nhân đánh đập Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, bậc Thánh A-ra-hán, đến chết, tất cả đều phạm ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết hại bậc Thánh A-ra-hán, thuộc về ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội, nên tất cả chúng nó đều bị Đức-vua truyền lệnh đem hành hình.

Sau khi bọn chúng chết, ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Āvici, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Sự chết của chúng-sinh

Tất cả mọi chúng-sinh trong ba giới bốn loài đều phải chết. Sự chết có 4 trường hợp:

1- Chết vì hết tuổi thọ.

2- Chết vì mãn nghiệp-hỗ-trợ.

3- Chết vì hết tuổi thọ và mãn nghiệp-hỗ-trợ.

4- Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

* Người có phước-thiện tránh được tai nạn

Không đề cập đến 3 trường hợp chết trên, mà chỉ đề cập đến trường hợp thứ tư: Chết vì tai nạn (chưa hết tuổi thọ cũng chưa mãn nghiệp-hỗ-trợ).

Người có phước-thiện hộ trì có thể thoát khỏi mọi tai nạn một cách mầu nhiệm tự nhiên ngoài khả năng của người ấy, dù người khác có tác-ý trong ác-tâm cũng không thể giết được người có phước-thiện, nhờ phước-thiện hộ mạng người ấy.

* Như trường hợp phú hộ Ghosaka

Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Ghositārāma trong nước Kosambī, Ngài thuyết giảng tích Sāmāvatīvatthu [4], trong tích này có phần đề cập đến cuộc đời ông phú hộ Ghosaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, vùng Allakappa xảy ra nạn đói khát và bệnh dịch làm nhiều người chết.

Người chồng tên Kotuhalika dẫn người vợ tên Kāḷī bồng đứa con nhỏ đi đến nước Kosambī để lánh nạn. Hai vợ chồng đi đường đồ ăn uống đã cạn hết, bệnh đói khát làm rã rời tay chân, bồng đứa con cũng không nổi nữa, người chồng bàn với vợ rằng:

-Này em! Vợ chồng chúng ta còn sống, hy vọng sẽ có con nữa, bỏ đứa con này, chúng ta đi thôi.

Người mẹ thương yêu con không đành bỏ con khi nó đang còn sống. Hai vợ chồng đồng ý thay phiên nhau bồng đứa con, mỗi người một đoạn đường. Sự đói khát lại càng làm bủn rủn tay chân, người chồng lại bàn tính với vợ bỏ đứa con, người vợ vẫn một mực năn nỉ chồng đừng bỏ đứa con.

Đứa con nhỏ được trao từ tay chồng sang tay vợ, rồi trao từ tay vợ sang tay chồng làm cho đứa trẻ như ngất xỉu trên tay người cha. Người cha biết đứa con mệt ngủ thiếp đi nên đặt nó nằm trên đống lá cây khô ở dưới bóng mát gốc cây rồi bỏ đi theo vợ ở phía trước.

Người vợ nhìn lại không thấy đứa con bèn hỏi:

- Này anh! Con của chúng ta đâu rồi?

- Này em! Anh để con nằm dưới bóng mát ở gốc cây kia rồi.

Người vợ khóc lóc, van xin chồng bồng đứa con lại cho mình, người chồng trở lại bồng đứa con thì đứa con đã chết. [5]

Hai vợ chồng tiếp tục đi đến một vùng, gặp một gia đình nuôi bò.

Hôm ấy, gia đình nuôi bò làm lễ cầu an cho bò. Hằng ngày, ông chủ thỉnh Đức-Phật Độc-Giác đến độ vật thực, đặc biệt hôm ấy là ngày lễ cầu an nên người nuôi bò nấu cơm sữa bò nhiều.

Người chủ nhà nhìn thấy hai vợ chồng đói khát từ nơi xa đến nên tiếp đãi rất tử tế và cho hai phần cơm sữa bò. Người vợ nói với chồng:

-Này anh! Anh còn sống thì em sống được an-lạc, đã 7 ngày qua, anh chịu đói khát nhiều, anh nên dùng thêm một phần cơm sữa bò của em cho đủ no.

Người vợ nhường một phần cơm của mình thêm cho chồng ăn đủ no, còn người vợ chỉ dùng một ít cơm với bơ còn lại mà thôi.

Người chồng chịu đói khát suốt 7 ngày qua, nay gặp món cơm sữa bơ ngon miệng nên ăn no. Nhìn thấy người chủ nhà cho con chó cái nằm dưới ghế, ăn cơm sữa bơ, người ấy ngồi nghĩ rằng:

“Con chó này có quả phước tốt thật, được ăn những đồ ăn ngon lành đến thế!”

Đêm hôm ấy, người chồng ăn vật thực no, không tiêu hóa được nên bị chết. Khi sắp chết, nhớ tưởng đến con chó nên sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh vào bụng con chó cái của chủ nhà.

Người vợ lo làm lễ hỏa táng cho chồng xong xin ở lại làm công trong nhà người chủ nuôi bò ấy.

Người góa phụ làm công được một ít gạo, nấu cơm để bát cúng dường Đức-Phật Độc-Giác, rồi bạch rằng:

-Kính bạch Ngài, cầu xin phước-thiện này được thành tựu đến người chồng của con vừa qua đời.

Người góa phụ suy nghĩ rằng:

“Ta nên ở lại làm công nơi này, hằng ngày Đức-Phật Độc-Giác ngự đến đây khất thực, dù có ít thì ta cúng dường ít đến Ngài, dù không có thì ta có cơ hội đảnh lễ Ngài, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài, ta vẫn có được phước-thiện.”

Mấy tháng sau, con chó mẹ sinh ra một con chó đực khôn ngoan dễ thương. Người chủ nuôi con chó con bằng sữa bò nên chó con mau lớn khôn.

Mỗi khi Đức-Phật Độc-Giác độ vật thực xong, phần còn thừa, Đức-Phật cho con chó ăn phần vật thực ấy.

Cho nên, con chó rất kính yêu Đức-Phật Độc-Giác. Mỗi ngày nó đi theo người chủ đến hầu Đức-Phật Độc-Giác. Trên đường đi đến nơi rừng cây rậm rạp, e sợ có thú dữ rình mồi, người chủ lên tiếng ‘sù! sù’ ba lần, nếu có thú dữ thì chúng lánh đi nơi khác.

Một hôm, người chủ bạch với Đức-Phật Độc-Giác rằng:

- Kính bạch Ngài, ngày nào con không có cơ hội đến kính thỉnh Ngài được, con sẽ cho con chó này đến kính thỉnh Ngài đến nhà con.

Từ đó trở về sau, khi nào người chủ nhà không có cơ hội đến hầu Đức-Phật Độc-Giác được, thì người chủ sai bảo con chó rằng:

- Này con! Con hãy đến kính thỉnh Đức-Phật Độc-Giác nhé con!

Nghe xong, con chó liền vẫy đuôi chạy thẳng đến cốc của Đức-Phật Độc-Giác. Trên đường đi, đến nơi rừng cây rậm rạp, chó phát tiếng sủa ba tiếng để cho thú dữ lánh đi nơi khác. Con chó chạy đến cốc lá của Đức-Phật Độc-Giác, nhẹ nhàng đến trước cửa nằm mọp xuống ngẩng đầu sủa ba tiếng để báo tin cho Đức-Phật Độc-Giác biết, rồi nằm im lặng chờ Đức-Phật Độc-Giác đi ra.

Con chó đi đằng trước dẫn đường, Đức-Phật Độc-Giác đi theo đường về nhà, nó rất kính yêu Đức-Phật Độc Giác.

Về sau, bộ y của Đức-Phật Độc-Giác cũ quá, người chủ kính dâng cúng dường vải may y đến Đức-Phật Độc-Giác. Công việc may y làm một người rất khó nên Đức-Phật Độc-Giác nói với người chủ rằng:

- Này thí-chủ! Công việc may y làm một mình không thuận tiện cho nên Như-Lai phải tìm bạn đồng phạm-hạnh cùng giúp may y.

Người chủ bạch rằng:

- Kính bạch Ngài, kính thỉnh Ngài đi may y xong, con kính thỉnh Ngài trở lại.

Con chó đứng nghe Đức-Phật Độc-Giác và người chủ nói chuyện với nhau. Tại nơi ấy, Đức-Phật Độc-Giác dùng phép thần thông bay lên hư không hướng về núi Gandhamādana. Con chó đứng nhìn theo Đức-Phật Độc-Giác bay lên hư không và sủa theo với tất cả tấm lòng kính yêu Đức-Phật Độc-Giác cho đến khi không còn nhìn thấy bóng dáng Đức-Phật Độc-Giác nữa. Con chó chết ngay tại nơi ấy.

Con chó chết với đại-thiện-tâm kính yêu vô hạn nơi Đức-Phật Độc-Giác, nên sau khi con chó chết, đại-thiện-nghiệp cung kính ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có 1.000 (một ngàn) thiên-nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an-lạc ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên ấy.

Khi thiên-nam này nói nhỏ bên tai vị chư-thiên nào, thì tiếng nói ấy vang xa đến 16 do-tuần (1 do-tuần khoảng 20 km), nếu thiên-nam này nói bình thường, tiếng nói vang rộng xa đến 10.000 (mười ngàn) do-tuần.

Cho nên, vị thiên-nam này có tên là “Ghosakadeva-putta: Thiên-nam có giọng nói vang”. Đó là quả của phước-thiện kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật Độc-Giác. Vị thiên-nam Ghosaka hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Vị thiên-nam Ghosaka say mê trong đối-tượng ngũ-dục, quên dùng vật thực, thể xác không thể duy trì được, nên chết từ cõi trời Tam-thập-tam-thiên, đại-thiện-nghiệp của kiếp trước cho quả tái-sinh đầu thai vào lòng một kỹ nữ xinh đẹp ở kinh-thành Kosambī.

Cuộc đời Ghosaka có phước thoát chết 7 lần 1-Trẻ sơ sinh ghosaka bị bỏ trong đống rác

Ngày Ghosaka sinh ra đời, người kỹ nữ hỏi người tớ gái rằng:

- Này con! Bé trai hay bé gái?

Người tớ gái thưa rằng:

- Thưa bà, bé trai ạ.

Người kỹ-nữ bảo người tớ gái đem đứa bé trai ấy bỏ nơi đống rác vì kỹ-nữ chỉ nuôi con gái, không nuôi con trai, bởi vì con trai không kế nghiệp nghề kỹ-nữ được.

Đứa bé trai sơ sinh bị bỏ nơi đống rác, các bầy quạ, diều, chó vây quanh đứa bé mà không con nào dám vào ăn thịt.

Đó là quả của đại-thiện-nghiệp kiếp chó sủa với tấm lòng kính yêu vô hạn đối với Đức-Phật Độc-Giác.

Khi ấy, một người thấy các bầy quạ, diều, chó vây quanh đống rác, liền đi lại xem có gì lạ thường, thì thấy một đứa bé trai, người ấy vui mừng hớn hở bồng đứa bé như đứa con của mình, sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!” rồi người ấy bồng đứa bé về nhà nuôi nấng tử tế.

2- Bé ghosaka bị bỏ trước cổng chuồng bò

Khi ấy, phú hộ kinh thành Kosambī đi đến chầu Đức-vua, giữa đường gặp vị quân sư nhà vua chuyên môn xem sao trên hư không mà đoán số. Ông phú hộ hỏi vị quan rằng:

- Thưa vị quân sư, hôm nay có điều lành dữ thế nào?

Vị quân sư thưa:

- Hôm nay, Đức-vua và triều đình, hoàng gia cho đến thần dân thiên hạ đều bình an và có một điều lành.

“Đặc biệt, đứa bé nào sinh ra đời ngày hôm nay, về sau, nó sẽ trở thành một phú hộ nước Kosambī này.”

Nghe nói như vậy, ông phú hộ có phu-nhân đang mang thai, già ngày già tháng rồi, nên ông phú hộ sai bảo gia nhân trở về nhà xem phu-nhân của mình đã sinh hay chưa rồi trở lại báo tin cho ông biết.

Gia nhân báo tin cho ông phú hộ biết rằng bà phú hộ chưa sinh.

Ông phú hộ đến chầu Đức-vua xong vội vàng trở về nhà, gọi người tớ gái thân tín tên Kāḷi và trao cho 1.000 (một ngàn) kahāpana (tiền Ấn-Độ thời xưa), để bà đi tìm kiếm trong kinh-thành có đứa bé nào sinh trong ngày thì bà trao cho họ số tiền 1.000 kahāpana ấy, rồi bồng đứa bé về.

Bà Kāḷi đi hỏi thăm tìm hỏi khắp nơi, lần lượt đến nhà một người, nhìn thấy có đứa bé bèn hỏi người nhà ngày sinh của đứa bé ấy. Người nhà bảo đứa bé vừa mới sinh trong ngày.

Bà Kāḷi trao cho người chủ nhà 1.000 kahāpana, rồi bồng đứa bé về cho ông phú hộ.

Ông phú hộ nghĩ rằng:

“Nếu phu-nhân của ta sinh con gái, ta sẽ cho con gái của ta làm vợ nó rồi cho nó tước vị phú hộ, nếu phu-nhân ta sinh con trai thì ta sẽ giết nó chết.”

Ông phú hộ bảo người nuôi nấng săn sóc đứa bé ở trong nhà. Vài ngày sau, phu-nhân của phú hộ sinh con trai nên ông phú hộ tính kế giết đứa bé này để con mình lớn lên được tước phú hộ.

Ông phú hộ gọi bà Kāḷi đến sai bảo rằng:

- Này Kāḷi! Sáng sớm mai, bà hãy bồng đứa bé Ghosaka này bỏ trước cổng chuồng bò để khi bò ra sẽ đạp đứa bé này chết. Bà đứng xem đứa bé chết hay sống thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ trước cửa cổng chuồng bò. Người chăn bò mở cổng, thường ngày con bò đầu đàn đi ra sau chót, nhưng hôm ấy nó đi ra trước, bốn chân đứng như bốn trụ cột, đứa bé nằm ở giữa, đàn bò hằng trăm con lấn hai bên sườn con bò đầu đàn đi ra. Người chăn bò thấy điều lạ thường, nghĩ rằng:

“Con bò đầu đàn này hằng ngày đi ra sau cùng, hôm nay ra trước đứng yên một chỗ, có chuyện gì lạ vậy.”

Đến xem thấy đứa bé đang nằm giữa bốn chân con bò đầu đàn, người chăn bò vui mừng sung sướng bồng đứa bé, kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!” rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

Bà Kāḷi trở về trình cho ông phú hộ biết tất cả sự việc đã xảy ra. Ông phú hộ liền trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn bò và bồng đứa bé trở về.

3- Bé Ghosaka Bị Bỏ Trên Đường

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

- Này Kāḷi! Sáng sớm ngày mai sẽ có đoàn xe bò 500 chiếc chở hàng hóa đi bán. Bà bồng đứa bé Ghosaka này đặt nằm ngang trên đường để cho bò đạp chết, hoặc xe cán nó chết. Bà đứng đó theo dõi nó sống chết thế nào rồi về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka đặt nằm ngang trên đường. Khi ấy, người trưởng đoàn xe đi trước, khi đi đến gần chỗ đứa bé nằm, con bò đứng sững lại không chịu bước tới trước, dù người trưởng đoàn la bảo thế nào hai con bò vẫn không chịu bước, chỉ đứng sừng sững tại một chỗ. Chờ đến gần sáng, người trưởng đoàn nghĩ rằng:

“Tại sao hai con bò này lại đứng sừng sững như vậy?”

Người trưởng đoàn bước xuống xem thì nhìn thấy đứa bé nằm ngang trên đường, người trưởng đoàn vui mừng sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

Bà Kāḷi về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe. Ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người trưởng đoàn xe, rồi bồng đứa bé trở về.

4- Bé ghosaka bị bỏ nơi nghĩa địa

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

- Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây để cho chó rừng, quạ, diều ăn thịt, hoặc các hàng phi nhân giết hại nó chết. Bà xem xét nó sống chết thế nào về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka bỏ nơi nghĩa địa, cho nằm giữa bụi cây, bà đứng ở một nơi theo dõi xem xét. Bầy quạ, diều, chó rừng, phi nhân v.v… không có con nào dám đến gần đứa bé vì đại-thiện-nghiệp của đứa bé trong tiền-kiếp hộ mạng nó.

Khi ấy, người chăn dê thả đàn dê vào nghĩa địa ăn lá cây, một con dê mẹ đi ăn vào giữa bụi cây, nhìn thấy đứa bé, dê mẹ quỳ gối xuống để cho đứa bé bú sữa.

Người chăn dê la bảo dê mẹ không chịu ra nên đi vào bụi cây đuổi dê mẹ thì nhìn thấy dê mẹ đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Người chăn dê sung sướng vui mừng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc đã xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người chăn dê rồi bồng đứa bé về.

5- Bé ghosaka bị ném xuống hố sâu

Khi ấy, ông phú hộ gọi bà tớ gái Kāḷi rồi sai bảo rằng:

- Này Kāḷi! Bà bồng đứa bé Ghosaka này lên đỉnh núi nơi ném bọn cướp, rồi ném đứa trẻ xuống hố sâu để thân hình nó đụng vào đá tan xương nát thịt rơi xuống đất.

Bà theo dõi xem xét nó sống chết thế nào về trình cho ta biết.

Bà Kāḷi làm theo lời của ông phú hộ, bồng đứa bé Ghosaka lên đỉnh núi rồi ném đứa bé xuống hố sâu. Đứa bé rơi xuống nằm trên bụi tre có dây tơ hồng chằng chịt như nằm trên tấm thảm làm bằng lông thú êm ấm.

Hôm ấy, người thợ đan tre và đứa con lên núi đốn tre, khi đốn cây tre xong, lôi cây tre ra làm cho bụi cây rung chuyển, đứa trẻ phát ra tiếng khóc:

“Giống như tiếng khóc của một đứa bé.”

Người thợ đi vòng quanh, nhìn lên ngọn bụi tre thấy đứa bé nằm trên ấy, người thợ sung sướng kêu lên rằng:

“Ta được đứa con trai!”, rồi bồng đứa bé về nhà nuôi dưỡng tử tế.

Bà Kāḷi trở về trình lại sự việc xảy ra cho ông phú hộ nghe, ông phú hộ lại trao cho bà 1.000 kahāpana, bảo bà đưa cho người thợ đan tre, rồi bồng đứa bé về.

6- Nghĩ hại người, lại tự làm khổ mình

Ông phú hộ nghĩ mưu kế nào cũng không giết hại được đứa bé Ghosaka đành nuôi nấng chờ tìm mưu kế khác. Đứa bé Ghosaka càng ngày càng khôn lớn trưởng thành, ngây thơ và tưởng mình là con của ông phú hộ, không hề hay biết ông phú hộ tìm mưu kế giết hại mình.

Khi ấy, phú hộ nghĩ ra mưu kế giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ đến chỗ làm đồ gốm, gặp người thợ đồ gốm quen thân, hỏi rằng:

- Này người thợ! Khi nào sẽ đốt lò.

Người thợ trả lời:

- Thưa ông phú hộ, ngày mai tôi sẽ đốt lò.

Ông phú hộ bảo rằng:

- Này người thợ! Ngươi hãy nhận số tiền 1.000 kahāpana này rồi giúp tôi một việc.

Người thợ hỏi:

- Thưa ông phú hộ, tôi giúp ông việc gì?

Ông phú hộ bảo rằng:

- Này người thợ! Tôi có một đứa con ngỗ nghịch, vong ơn, tôi sẽ sai nó đến chỗ anh, anh dẫn nó vào trong phòng chặt nó làm nhiều đoạn, bỏ vào trong hũ rồi đem đốt trong lò. Tôi xin thưởng cho anh trước 1.000 kahāpana, khi nào anh làm xong tôi sẽ hậu tạ xứng đáng cho anh.

Người thợ đồ gốm nhận lời.

Sáng ngày hôm sau, ông phú hộ gọi Ghosaka đến rồi bảo rằng:

- Này Ghosaka! Hôm qua, cha có gặp người thợ đồ gốm nhờ làm một việc, con hãy đến nơi ấy, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

“Cha tôi bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong.”

Cậu Ghosaka vâng lời cha ra đi, vừa ra khỏi nhà, gặp đứa em trai (con ruột của ông phú hộ) đang chơi bắn bi với tính cách ăn thua với nhóm trẻ con.

Thấy anh Ghosaka đến, người em vui mừng nói rằng:

- Này anh Ghosaka! Em chơi bị thua bọn trẻ này rất nhiều viên bi, bây giờ nhờ anh chơi hộ, bắn thắng lại số bi ấy cho em.

Cậu Ghosaka bảo với em rằng:

- Này em thân thương! Anh phải đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung, ở đây chơi trò bắn bi sẽ bị cha rầy la, anh sợ cha lắm.

Biết cậu Ghosaka có tài chơi trò bắn bi rất giỏi, lúc nào cũng thắng bọn trẻ nên người em năn nỉ rằng:

- Này anh Ghosaka! Xin anh đừng sợ, để em đem tin của cha đến chỗ lò gốm đất nung thay anh, còn anh ở đây chơi trò bắn bi với nhóm trẻ, thắng lại số bi cho em rồi anh chờ em trở lại.

Cậu Ghosaka nói với em rằng:

- Này em thân thương! Nếu như vậy, em đến chỗ lò gốm, gặp người thợ đồ gốm nói rằng:

“Cha tôi sai bảo tôi đến hỏi ông, công việc cha tôi nhờ ông làm hôm qua, hãy làm cho xong.”

Người em là người con ruột của ông phú hộ đến gặp người thợ đồ gốm nói như vậy. Khi ấy, người thợ đồ gốm liền giết đứa con của ông phú hộ theo lời yêu cầu của ông, chặt đứa con từng đoạn bỏ vào hũ đặt vào lò nung thiêu cháy.

Cậu Ghosaka chơi trò bắn bi thắng nhóm trẻ, lấy lại số bi của người em đã thua, rồi ngồi chờ người em trở lại mãi đến chiều không thấy em trở lại nên trở về nhà. Ông phú hộ nhìn thấy Ghosaka liền hỏi:

- Này Ghosaka! Sao con không đi đến gặp người thợ đồ gốm?

Cậu Ghosaka thưa với cha (ông phú hộ) rằng:

- Kính thưa cha, khi con đi ra, gặp em trai chơi trò bắn bi bị thua bọn trẻ nên nó nhờ con chơi để gỡ lại, còn nó thay con đi đến nhà bác thợ nung lò gốm.

Khi nghe như vậy, ông phú hộ liền kêu la rằng:

“Xin đừng có giết con tôi!”

Ông phú hộ đầu óc choáng váng, bước đi khệnh khạng đến chỗ người thợ đồ gốm, hai tay ôm đầu kêu la:

- Này anh thợ! Xin đừng làm cho tôi thiệt hại.

Người thợ đồ gốm thấy ông phú hộ đến kêu la như vậy nên thưa với ông phú hộ rằng:

- Thưa ông phú hộ, ông đừng lớn tiếng kêu la như vậy, công việc ông yêu cầu tôi đã hoàn thành xong rồi.

Ông phú hộ khổ tâm sầu não tột cùng như bị quả núi lớn đè lên ngực của ông.

Người này mưu hại người kia mà người kia không có tâm làm hại trở lại, hoặc người này mưu làm khổ người kia mà người kia không có tâm làm khổ trở lại, thì người mưu làm hại này sẽ phải chịu 10 điều khổ não, như Đức-Phật đã dạy:

- Chịu khổ tâm cùng cực.

- Bị thiệt hại lớn.

- Bị đau đầu, đứt mạch máu (vì sự nóng nảy quá độ).

- Bị bệnh trầm trọng.

- Bị phóng tâm, loạn trí, điên cuồng.

- Bị tai hại do từ Đức-vua.

- Bị chê trách dữ dội.

- Bà con, bè bạn bị tai nạn.

- Của cải, sự nghiệp bị thiệt hại.

- Sau khi chết sa vào địa-ngục.

7- Mưu kế giết hại Ghosaka lần cuối cùng

Mặc dù vậy, vẫn chưa từ bỏ ý định giết hại cậu Ghosaka, ông phú hộ nghĩ ra được mưu kế:

“Ta sẽ sai Ghosaka đi đến nhà bác thâu thuế 100 gia đình của ta, nhờ bác thâu thuế giết nó.”

Nghĩ xong, ông phú hộ liền viết một lá thư gửi cho bác thâu thuế ấy rằng:

“Người cầm thư này là đứa con ngỗ nghịch vong ơn của tôi, nhờ bác giết chết nó rồi ném xuống hầm. Khi giết chết nó xong rồi tôi sẽ trọng thưởng cho bác.”

Ông phú hộ gọi cậu Ghosaka rồi bảo rằng:

- Này Ghosaka! Con mang thư này đi đến trao cho bác thâu thuế của nhà ta ở vùng ấy.

Ông phú hộ bảo cậu Ghosaka cất giữ cẩn thận lá thư trong chéo áo. Cậu Ghosaka không biết đọc chữ, vì từ nhỏ đến lớn cậu không được đi học chữ, cho nên cậu Ghosaka đem lá thư giết mình nhưng vẫn không biết. Cậu thưa với người cha rằng:

- Thưa cha, trên đường đi con sẽ ở trọ nơi nào?

Ông phú hộ bảo rằng:

- Này Ghosaka! Con đừng lo, trên đường đi đến vùng bên ấy, đến tỉnh thành có một gia đình phú hộ là bạn thân của cha, con đến nhà ông phú hộ ăn và nghỉ lại đêm nơi ấy rồi sáng mai đi tiếp.

Cậu Ghosaka đảnh lễ cha rồi từ giã ra đi, đến tỉnh ấy hỏi thăm nhà ông phú hộ, gặp phu-nhân của phú hộ ở nhà, cậu tự giới thiệu tên là Ghosaka, con trai của phú hộ Kosambī.

Được biết như vậy, bà phú hộ vô cùng hoan hỷ, bởi vì phú hộ xứ Kosambī với gia đình bà vốn là bạn thân thiết với nhau. Phu-nhân phú hộ nhìn thấy Ghosaka đem lòng thương yêu như con của mình.

* Gia đình phú hộ tỉnh này có một đứa con gái được 16 tuổi rất xinh đẹp đáng yêu. Cô ở trong một căn phòng sang trọng đặc biệt trên tầng lầu thứ 7, với một người tớ gái lo phục vụ cho cô. Khi ấy, cô sai bảo đứa tớ gái đi chợ.

Nhìn thấy đứa tớ gái, phu-nhân phú hộ gọi lại hỏi rằng:

- Này con! Con đi đâu?

Người tớ gái thưa rằng:

- Thưa bà, tiểu thư sai con đi chợ mua sắm đồ.

Phu-nhân phú hộ bảo người tớ gái rằng:

- Này con! Con hãy lo nước tắm, nước rửa chân, sắp đặt chỗ nghỉ cho cậu Ghosaka, con của phú hộ, rồi con đi chợ sau.

Người tớ gái làm công việc mà bà phú hộ sai bảo xong mới đi chợ nên về trễ, bị tiểu-thư quở trách.

Người tớ gái thưa chuyện với tiểu thư rằng:

- Thưa tiểu thư, sở dĩ em về trễ là vì em phải lo chỗ ở cho công-tử Ghosaka là con của phú hộ Kosambī xong, em mới đi chợ, xin tiểu-thư đừng trách em.

Nghe đến tên công tử Ghosaka là con trai phú hộ Kosambī, con gái phú hộ cảm thấy con tim rung động, lòng yêu thương dạt dào trong lòng, khiến nàng không thể ngồi yên trên tầng lầu.

Thật ra, tiền-kiếp của cô con gái phú hộ này tên là Kāḷī, có người chồng yêu quý tên là Kotuhalika, và tiền-kiếp của cậu Ghosaka tên là Kotuhalika có người vợ yêu quý tên Kāḷī.

Như vậy, cô con gái phú hộ và cậu Ghosaka đã từng là vợ chồng thương yêu với nhau trong tiền-kiếp, cho nên, tình nghĩa vợ chồng yêu thương với nhau trong kiếp trước đã phát sinh trở lại với cô khiến cho cô muốn gặp lại người chồng yêu thương trong kiếp trước.

* Tình thương yêu phát sinh do hai nhân

Đức-Phật dạy rằng:

“Tình yêu phát sinh do hai nguyên nhân:

-Tình yêu vợ chồng đã từng sống chung trong kiếp trước.

-Tình nghĩa giúp đỡ lẫn nhau trong kiếp hiện-tại.”

Cô gái phú hộ hỏi người tớ gái rằng:

-Này em! Bây giờ công-tử Ghosaka đang ở đâu vậy?

Người tớ gái thưa rằng:

- Thưa tiểu-thư, công-tử Ghosaka đang nghỉ ở trong phòng khách.

Cô gái phú hộ hỏi rằng:

- Này em! Công-tử Ghosaka có mang gì theo không?

Người tớ gái thưa rằng:

- Thưa tiểu thư, công-tử Ghosaka có mang theo lá thư được cất giữ trong chéo áo.

Cô gái phú hộ nôn nao muốn biết nội dung của lá thư nên cô từ tầng lầu thứ 7 vội vàng đi xuống. Trong nhà không ai hay biết, nàng lén vào phòng ngủ của công-tử Ghosaka, thấy công tử Ghosaka đang nằm ngủ say, tình yêu thương vô hạn phát sinh, nàng muốn biết lá thư nói gì nên lấy lá thư trở về phòng đọc, nàng giật mình nghĩ rằng:

“Người gì mà khờ khạo đến thế! Mang thư giết mình mà không hay biết, nếu ta không đọc thư này thì chắc anh ta chết mất thôi!”

Nàng bỏ lá thư ấy, viết lại lá thư khác, dựa theo lời của ông phú hộ, đổi ý nghĩa lại rằng:

“Thưa bác, con của tôi tên Ghosaka, mang thư này đến bác, nhờ bác thâu thuế 100 nhà rồi làm một nhà lầu 2 tầng, có hàng rào xung quanh chắc chắn, có người canh gác cửa ngày đêm. Nhờ bác thay mặt tôi đứng ra làm lễ thành hôn con trai của tôi Ghosaka với con gái phú hộ trong tỉnh thành ấy. Khi công việc xong rồi tôi sẽ trọng thưởng cho bác.”

Viết xong nàng gấp lại, xuống lầu đến phòng ngủ của công-tử Ghosaka, nàng cất giữ lá thư vào trong chéo áo của cậu ta như trước.

Cậu Ghosaka nghỉ một đêm, sáng dậy ăn uống no đủ, từ giã ông bà phú hộ đi đến nhà bác thâu thuế. Bác thâu thuế nhìn thấy cậu Ghosaka hỏi:

- Này công-tử! Công-tử đến có công việc gì?

Cậu Ghosaka thưa rằng:

- Thưa bác! Thân phụ của con gửi lá thư cho bác đây.

Cậu Ghosaka trao lá thư cho bác thâu thuế xem, đọc xong thư bác thâu thuế vô cùng hoan hỷ nghĩ rằng:

“Ông phú hộ đã giao cho ta công việc quan trọng, rất vinh dự lớn lao.”

Ông thông báo với 100 gia đình đóng thuế biết rằng:

-Thưa quý bà con! Công-tử Ghosaka của ông phú hộ mang lá thư đến cho tôi, trao một phận sự quan trọng rất vinh dự là thay mặt ông phú hộ đứng ra lo công việc làm lễ thành hôn công-tử lớn của phú hộ với cô tiểu-thư của gia đình phú hộ trong tỉnh thành này.

Chúng ta hãy mang vật liệu, v.v… để xây cất một căn nhà lầu 2 tầng thật xinh đẹp xong, rồi chúng ta sẽ tổ chức làm lễ thành hôn cho công-tử của ông phú hộ với tiểu-thư của ông phú hộ trong tỉnh thành này.

Tất cả mọi người vô cùng hoan hỷ chung lo xây cất nhà rồi làm lễ thành hôn công-tử Ghosaka của phú hộ Kosambī với cô tiểu-thư của phú hộ trong tỉnh thành này xong, cho người báo tin cho ông phú hộ Kosambī biết rằng:

“-Kính thưa ông phú hộ, công việc mà ông phú hộ giao cho tôi, bây giờ tôi đã làm xong.”

Ông phú hộ Kosambī nghe người đem tin thuật lại mọi sự việc ngoài ý muốn của mình, ông than vãn rằng:

“Ta muốn làm điều nào thì điều ấy không thành tựu, ta không muốn làm điều nào thì điều ấy lại thành tựu.”

Ông phú hộ Kosambī phát sinh khổ tâm buồn phiền lâm bệnh nặng, một phần vì thương tiếc đứa con ruột, một phần uất ức đứa con nuôi, đã bao nhiêu lần giết nó mà vẫn không giết được, cho nên căn bệnh của phú hộ càng ngày càng trầm trọng không có thuốc men nào điều trị cho khỏi được.

Phần tiểu-thư của ông phú hộ sau khi làm lễ thành hôn với công-tử Ghosaka rồi, nàng bảo nhóm gia nhân rằng:

Nếu có người nhà ông phú hộ xứ Kosambī đến mang tin tức gì, các người hãy cho ta biết trước, không được cho cậu Ghosaka biết trước.

Ông phú hộ Kosambī tuy đã lâm bệnh nặng, nhưng ông nghĩ rằng:

“Ta sẽ không cho đứa con nuôi xấu số này thừa hưởng của cải sự nghiệp của ta.”

Ông phú hộ Kosambī sai người đem thư đến gọi đứa con nuôi Ghosaka về gặp ông hai lần mà phu-nhân của Ghosaka vẫn giấu kín không cho phu-quân Ghosaka biết, mãi cho đến lần thứ ba, người nhà phú hộ Kosambī đem tin đến, bảo công-tử Ghosaka trở về nhà cho ông phú hộ gặp mặt gấp.

Lần này phu-nhân của công-tử Ghosaka hỏi thăm tình trạng và biết ông phú hộ lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống lâu được nữa, nàng mới báo tin cho phu-quân biết rằng:

-Cha của anh bị bệnh nặng trầm trọng, hai vợ chồng chúng ta nên sắp đặt trở về thăm cha.

Nàng muốn kéo dài thời gian nên nàng tính đem xe chở của cải hàng hóa thâu thuế 100 nhà về nhà chồng.

Khi cậu Ghosaka về đến nhà thì ông phú hộ đã quá yếu rồi, người nhà báo tin cho ông phú hộ biết cậu Ghosaka về đến.

Theo sự sắp đặt của phu nhân, công tử Ghosaka đứng phía dưới chân của người cha, vợ của công tử Ghosaka đứng ở phía trên đầu.

Ông phú hộ gọi người thủ kho báo cáo tất cả của cải vàng bạc trong kho của ông và của cải bên ngoài. Người thủ kho báo cáo: “Của cải có 400 triệu (bốn trăm triệu), còn ruộng đất, đàn gia súc: trâu, bò, ngựa, xe cộ, v.v… có chừng ấy, chừng ấy, …”

Ông phú hộ Kosambī nghĩ trong tâm không muốn cho cậu Ghosaka số của cải, tài sản ấy, nhưng miệng lại nói cho, ngược lại với điều ông đã nghĩ, bởi vì, do phước-thiện của cậu Ghosaka khiến ông phú hộ Kosambī nói trái với điều ông suy nghĩ.

Sau đó, ông phú hộ Kosambī qua đời (chết), tất cả của cải, tài sản sự nghiệp của ông phú hộ Kosambī đều thuộc về của cậu Ghosaka.

* Cuộc đời Ghosaka trở thành phú hộ

Sau khi ông phú hộ Kosambī chết, các quan tâu lên Đức-vua Udena nước Kosambī.

Đức-vua truyền hỏi:

- Ông phú hộ Kosambī có đứa con nào không?

Các quan tâu:

- Muôn tâu Bệ hạ, ông phú hộ xứ Kosambī có một công-tử tên là Ghosaka.

Đức-vua truyền lệnh gọi công-tử Ghosaka vào chầu, rồi phong tước Ghosaka thừa kế tước vị phú hộ của người cha để lại.

Từ đó, cậu Ghosaka trở thành phú hộ nước Kosambī.

Một hôm, phu-nhân phú hộ nhìn phu-quân Ghosaka mỉm cười. Phú hộ Ghosaka hỏi phu-nhân cười việc gì?

-Thưa phu-quân Ghosaka, nay phu-quân trở thành phú hộ nước Kosambī như thế này là nhờ em giúp một phần.

Nàng kể lại việc công-tử Ghosaka đem lá thư đến bác thâu thuế nhờ bác ấy giết công-tử, chính nàng đã bỏ lá thư ấy rồi viết lại lá thư khác, nhờ bác thâu thuế đứng ra làm lễ thành hôn cho công tử với nàng.

Phú hộ Ghosaka không tin lời của phu-nhân bởi vì phú hộ Ghosaka tin rằng:

“Ta là người con trai thừa kế của cải tài sản và tước vị của người cha để lại.”

Bởi vì phú hộ Ghosaka không hề hay biết gì về thân phận của mình và những sự việc mà ông phú hộ đã đối xử với mình.

Vì vậy, phú hộ Ghosaka không tin lời của phu-nhân.

Biết phú hộ Ghosaka vẫn chưa tin đó là sự thật nên nàng cho người gọi bà tớ gái Kāḷi đứng ra làm chứng.

Bà tớ gái Kāḷi thân tín đứng ra làm chứng thuật lại đầy đủ cuộc đời của cậu Ghosaka từ khi còn là đứa trẻ sơ sinh, ông phú hộ đã tốn nhiều tiền, với tác-ý trong ác-tâm muốn giết Ghosaka 6 lần trước, nhưng không thể nào giết chết Ghosaka được.

Đến lần thứ 7, như lời phu-nhân đã nói là hoàn toán đúng theo sự thật.

Như vậy, công-tử Ghosaka thoát chết 7 lần, nay trở thành phú hộ Ghosaka nước Kosambī này.

Phú hộ Ghosaka nghe qua tiểu sử cuộc đời của mình như vậy nên suy nghĩ rằng:

“Ta đã tạo ác-nghiệp gì nặng mà ta bị tai nạn như thế, và ta đã tạo đại-thiện-nghiệp gì mà ta được thoát khỏi chết như vậy. Từ nay về sau, ta không nên dể duôi, cố gắng tạo mọi phước-thiện.”

Từ đó, phú hộ Ghosaka mỗi ngày đem của cải ra làm phước-thiện bố-thí cho mọi người nghèo khổ đói khát, người đi đường, v.v…

Về sau, khi nghe tin Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian, phú hộ Ghosaka cùng với hai người bạn cũng là phú hộ tên Kukkuṭa Pāvārika cùng nhau đến hầu Đức-Phật tại xứ Sāvatthi, nghe pháp xong, cả ba phú hộ đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Cả ba phú hộ thỉnh Đức-Phật ngự đến xứ Kosambī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi mỗi ông phú hộ xây cất mỗi ngôi chùa dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

- Ông phú hộ Ghosaka xây cất ngôi chùa đặt tên Ghositārāma.

- Ông phú hộ Kukkuṭa xây cất ngôi chùa đặt tên Kukkuṭārāma.

- Ông phú hộ Pāvārika xây cất ngôi chùa đặt tên Pāvāritārāma.

Ba ông phú hộ nước Kosambī hộ trì Tam-bảo cho đến trọn đời.

2- Tích người phạm điều-giới trộm-cắp

Một thuở nọ, Đức-Phật ngự tại cung điện của Đức-vua Bimbisāra trong kinh-thành Magadha, thuyết bài Tirokuḍḍapeta tế độ nhóm ngạ-quỷ là thân quyến tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra.

Trong bộ Chú-giải Petavatthu giảng giải bài kệ Tirokuḍḍapetavatthu [6] nói về nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra, được tóm lược như sau:

Nhóm ngạ-quỷ vốn là bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra từ thời kỳ Đức-Phật Phussa xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức-Phật Gotama của chúng ta trải qua thời gian khoảng cách 92 đại-kiếp trái đất, có 8 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức-Phật Phussa, Đức-Phật Vipassī, Đức-Phật Sikhī, Đức-Phật Vessabhū, Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức-Phật Kasspa đến Đức-Phật Gotama.

Tiền-kiếp của nhóm ngạ-quỷ vốn là bà con thân quyến của vị quan thâu-thuế [7] của Đức-vua Jayasena trong thời-kỳ Đức-Phật Phussa.

Những người bà con thân quyến ấy có phận sự lo làm các món vật thực đem dâng cúng dường đến Đức-Phật Phussa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Nhóm người ấy vốn không có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp, nên đã tự tiện lấy dùng trước những món đồ ăn dành để dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, còn đem cho các con ăn nữa, đã phạm giới trộm-cắp đồ ăn của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, lại còn gây gỗ với những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo rồi đốt cháy nhà bếp, nên tạo ác-nghiệp trộm-cắp và phá hoại.

Sau khi nhóm người ấy chết, ác-nghiệp trộm-cắp đồ ăn của chư tỳ-khưu-Tăng cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục, rồi từ cõi địa-ngục này sang địa-ngục khác, trải qua 92 đại-kiếp trái đất, mãi cho đến kiếp trái đất Bhaddakappa [8] này.

Trong thời kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, chúng nó mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục rồi tái-sinh làm nhóm ngạ-quỷ đói khát.

Một hôm, nhóm ngạ-quỷ ấy đến hầu Đức-Phật Kassapa, bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhóm ngạ-quỷ chúng con đến khi nào mới có người bà con thân quyến làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng con, để cho nhóm ngạ-quỷ chúng con hưởng được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, chúng con mới thoát ra khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ sở này, hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc? Bạch Ngài.

Nghe chúng ngạ-quỷ bạch hỏi như vậy, Đức-Phật Kassapa dạy bảo rằng:

- Này nhóm ngạ-quỷ! Bây giờ các con chưa được gì. Các con hãy ráng chờ trong thời vị-lai đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Thuở ấy, có Đức-vua Bimbisāra đã từng là bà con thân quyến của các con cách đây 92 đại-kiếp trái đất. Đức-vua Bimbisāra sẽ làm phước-thiện bố-thí, cúng dường đến Đức-Phật Gotama cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi sẽ hồi hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho các con.

Nghe lời dạy của Đức-Phật Kassapa như vậy, nhóm ngạ-quỷ vô cùng hoan hỷ trông chờ như sắp nhận được phần phước-thiện bố-thí ấy trong nay mai.

Thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm.

Đến khi Đức-Phật Kassapa tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật bị mai một dần dần cho đến khi hoàn toàn bị tiêu hoại, thì ác-pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện-pháp từ từ suy thoái, cho nên, tuổi thọ của con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống dần dần cho đến khi tuổi thọ con người chỉ còn 10 năm.

Khi ấy, một thảm họa khủng khiếp xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con thân quyến, …

Một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại lẫn nhau nữa.

Từ đó, con người bắt đầu biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, do đó, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng trưởng dần dần lên đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm. [9]

Thời-kỳ ấy, con người sống lâu phát sinh tâm dể duôi, ác-pháp bắt đầu phát sinh, do đó, tuổi thọ của con người cũng bắt đầu giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm.

Trong thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 100 năm, Đức-Phật Gotama của chúng ta xuất hiện trên thế gian.

Vào thời ấy, Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha, trị vì đất nước Māgadha. Đức-Phật ngự đến kinh-thành Rājagaha cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Đức-vua Bimbisāra cùng toàn thể dân chúng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tế độ đức-vua cùng dân chúng.

Ngay ngày hôm ấy, Đức-vua Bimbisāra chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cùng với số đông dân chúng cũng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Đức-vua Bimbisāra có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính thỉnh Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngày hôm sau độ vật thực tại cung điện.

Đức-Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Bimbisāra.

Sáng hôm ấy, Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Đức-vua Bimbisāra làm phước-thiện đại-bố-thí đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Khi ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra cùng nhau hiện đến cung điện đứng chờ đợi với hy vọng rằng:

“Hôm nay, Đức-vua Bimbisāra sẽ hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho nhóm ngạ-quỷ chúng ta.”

Sau khi làm phước-thiện bố-thí dâng cúng dường vật thực đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng độ xong, Đức-vua Bimbisāra mãi lo suy nghĩ xây dựng ngôi chùa nơi nào thuận lợi, làm chỗ ở cho Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, nên không hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho ai cả.

Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua không hưởng được phần phước-thiện bố-thí, cho nên, chúng ngạ-quỷ vô cùng thất vọng khổ tâm.

Đêm hôm ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến lâu đài của Đức-vua, kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ.

Sáng ngày hôm sau, Đức-vua Bimbisāra ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua, con nghe những âm thanh đáng kinh sợ. Vậy, có chuyện gì sẽ xảy đến với con hay không? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại-vương! Đại-vương không có gì đáng lo sợ. Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đại-vương thời quá-khứ, chúng nó trông chờ Đại-vương từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến nay. Chúng ngạ-quỷ hy vọng Đại-vương làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng riêng biệt, khi nhóm ngạ-quỷ hưởng được phần phước-thiện hồi-hướng ấy, nhóm ngạ-quỷ sẽ thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

Ngày hôm qua, sau khi làm phước-thiện bố-thí xong, Đại-vương không hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến cho chúng ngạ-quỷ. Do đó, nhóm ngạ-quỷ thất vọng khổ tâm, đêm khuya chúng ngạ-quỷ hiện đến gần lâu đài của Đại-vương kêu la khóc than những âm thanh đáng kinh sợ như vậy.

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua Bimbisāra bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, nếu con làm phước-thiện bố-thí rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy thì nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con có nhận được hay không? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại-vương! Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của Đại-vương sẽ nhận được.

Lắng nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức-vua Bimbisāra liền bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai, con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để con xin làm phước-thiện bố-thí, cúng dường đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, lần này con sẽ hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí riêng biệt đến cho nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến của con, để cứu giúp cho nhóm ngạ-quỷ thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát ấy, được hưởng kiếp sống đầy đủ an-lạc.

Đức-Thế-Tôn im lặng nhận lời thỉnh mời của Đức-vua Bimbisāra.

Đức-vua Bimbisāra thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi xin phép hồi cung ngự trở về cung điện, lo sửa soạn vật thực để làm phước-thiện bố-thí vào ngày hôm sau.

Sáng hôm sau, Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện của Đức-vua Bimbisāra cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Đức-Thế-Tôn ngự lên ngồi chỗ cao quý và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngồi chỗ mỗi vị.

Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra dẫn nhau hiện đến đứng các nơi bên ngoài chờ đợi với hy vọng rằng:

“Hôm nay, chúng ta chắc chắn sẽ hưởng được phần phước-thiện bố-thí hồi-hướng ấy, rồi hóa thành món ăn, thức uống, v.v ... cho chúng ta.”

Đức-Thế-Tôn hóa phép thần-thông làm cho tất cả nhóm ngạ-quỷ hiện rõ ra để cho Đức-vua Bimbisāra nhìn thấy chúng ngạ-quỷ ấy.

Mỗi khi, Đức-vua tự tay mình dâng cúng dường món ăn, thức uống nào đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Đức-vua đều hồi hướng phần phước-thiện bố-thí rằng:

Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

Nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến trong tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

Ngay khi ấy, nhóm ngạ-quỷ bà con thân quyến ấy đều thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, có đầy đủ món ăn, thức uống ngon lành trên cõi trời.

Đức-vua Bimbisāra thành kính dâng cúng dường bộ y và các thứ vật dụng khác đến Đức-Thế-Tôn và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi hồi hướng phần phước-thiện bố-thí rằng:

Idaṃ me ñātīnaṃ hotu” Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu đến những bà con thân quyến của tôi.

Nhóm bà con thân quyến ấy của Đức-vua Bimbisāra phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

Ngay khi ấy, nhóm bà con thân quyến có đầy đủ các bộ y phục đẹp đẽ lạ thường, các đồ trang sức quý giá, các lâu đài sang trọng, chỗ nằm, chỗ ngồi đẹp đẽ, v.v… trên cõi trời.

Do nhờ oai lực của Đức-Thế-Tôn, Đức-vua Bimbisāra tận mắt nhìn thấy tất cả nhóm bà con thân quyến được thoát khỏi cảnh khổ đói khát, lạnh lẽo, … được hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời. Đức-vua phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ.

Sau khi độ vật thực xong, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tích Tirokuḍḍapetavatthu này gồm có 12 bài kệ, trong đó có câu:

Idaṃ vo ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của các con, những bà con thân quyến của các con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

Thí-chủ hồi-hướng phước-thiện đến thân quyến

Dựa theo bài kệ trong Tirokuḍḍapetavatthu, mỗi khi các thí-chủ có cơ hội làm phước-thiện nào ví như phước-thiện bố-thí, cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng v.v… nên hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến các ngạ-quỷ bà con thân quyến của mình bằng cách tự đọc câu kệ hồi-hướng rằng:

“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

Cầu mong phần phước-thiện bố-thí này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.

Các thí-chủ sau khi tự đọc xong câu kệ này, nếu các ngạ-quỷ là bà con thân quyến của mình hay biết có thân quyến hồi-hướng phần phước-thiện ấy thì liền xuất hiện đến, các ngạ-quỷ đều phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

Ngay khi ấy, các ngạ-quỷ là bà con thân quyến của thí-chủ được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, nhờ phước-thiện ấy đó là đại-thiện-nghiệp cho quả hóa-sinh kiếp sau trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng mọi an-lạc tại cõi trời ấy.

Mỗi người trong chúng ta trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này, tin chắc chắn rằng:

“Có số bà con thân quyến thuộc về kiếp ngạ-quỷ có ác-nghiệp nhẹ đang sống gần gũi với chúng ta, các ngạ-quỷ ấy ngày đêm đang trông chờ bà con thân quyến làm phước-thiện rồi hồi-hướng phần phước-thiện ấy đến cho các ngạ-quỷ ấy. Cho nên, chúng ta mỗi khi làm phước-thiện nào rồi nên đọc câu kệ hồi-hướng rằng:

“Idaṃ no ñātīnaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.”

Cầu mong phần phước-thiện này được thành tựu quả báu đến những bà con thân quyến của chúng con, cầu mong những bà con thân quyến của chúng con thoát khỏi mọi cảnh khổ, được hưởng sự an-lạc lâu dài.”

Nếu nhóm ngạ-quỷ là bà con thân quyến của thí-chủ hay biết tin lành ấy thì nhóm ngạ-quỷ ấy liền xuất hiện đến, phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nói lên lời hoan hỷ rằng:

Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!”

Ngay sau khi có đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước-thiện ấy, các ngạ-quỷ bà con thân quyến liền thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát, được trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy, thì hạnh phúc an-lạc biết dường nào!

Trên đây đề cập đến người phạm điều-giới trộm-cắp đồ ăn của tỳ-khưu-Tăng tạo ác-nghiệp nặng mà phải chịu quả khổ trong cõi địa-ngục lớn đến các cõi đia-ngục nhỏ suốt thời gian lâu dài trải qua 92 đại-kiếp trái đất, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi lại tái-sinh làm kiếp ngạ-quỷ còn phải chịu quả khổ đói khát trông chờ bà con thân quyến làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi-hướng phần phước-thiện bố-thí ấy đến nhóm ngạ-quỷ. Sau khi nhóm ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ phần phước-thiện ấy mới thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ đói khát khổ sở như đã trình bày.

3- Tích của người phạm điều-giới tà-dâm

Người phạm điều-giới tà-dâm là người có quan hệ tình-dục bất chính với vợ hoặc chồng hoặc con của người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.

3.1-Quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm:Isidāsītherīgāthā

Trích trong bộ Therīgāthā (Đại-đức Tỳ-khưu-ni kệ), Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsītherī [10] thuật lại tiền-kiếp của Ngài rằng:

Tỳ-khưu-ni Isidāsī tỳ-khưu-ni Bodhī là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch, nhập thiền an hưởng sự an-lạc trong thiền, là bậc đa văn túc trí, bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi phiền-não không còn dư sót.

Hai Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni cùng nhau đi khất thực, độ xong cùng trở về, ngồi nghỉ một nơi thanh vắng đàm đạo với nhau.

Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Bodhī hỏi vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsī rằng:

- Này em Isidāsī! Em là bậc đáng kính trọng, em đang còn trẻ, em thấy tội-lỗi gì trong đời mà em xuất gia tỳ-khưu-ni như vậy?

Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Isidāsī là bậc có trí-tuệ sáng suốt, có tài thuyết pháp, đã thưa rằng:

- Thưa chị Bodhī, xin chị nghe em thuật lại câu chuyện cuộc đời em, khiến em đi xuất gia như vầy:

“Em là đứa con gái duy nhất trong gia đình, cha em là phú hộ ở trong thành Ujjeni, là người có giới, có tâm từ thương yêu quý mến em.

Khi em đã trưởng thành, có một người con trai phú hộ ở xứ Sāketa đến xin làm lễ cưới em về làm vợ, thân phụ của em bằng lòng cho em về làm dâu gia đình phú hộ xứ Sāketa.

Em đã về nhà cha mẹ chồng, hằng ngày em đảnh lễ cha mẹ chồng, cha mẹ chồng dạy bảo điều nào em cũng làm tròn phận sự điều ấy.

Chị gái, em gái, anh trai, em trai, bà con, bạn bè người quen bên chồng, em chỉ thấy một lần, về sau khi gặp lại em cư xử kính trọng lễ phép, tiếp đón tử tế bằng thức ăn, nước uống, đồ dùng, v.v… em biết những gì hợp với người nào, em tiếp đãi biếu tặng cho người ấy.

Buổi sáng, em thường thức dậy sớm, rửa mặt rửa tay xong, chắp tay đi vào hầu hạ chồng, nào lấy nước nóng nhúng khăn lau mặt, chải tóc, xoa vật thơm, lấy gương soi mặt, đem áo quần sạch thay bộ áo quần cũ, hầu hạ chồng em, như người tớ gái ngon ngoãn vâng lời chủ.

Em tự nấu cơm canh, rửa chén bát, giặt giũ quần áo cho chồng, … như người mẹ hiền săn sóc đứa con yêu quý duy nhất như thế nào thì em cũng săn sóc chồng như thế ấy.

Em chỉ có một mực hết lòng thương yêu, chiều chuộng chồng, chung thủy với chồng, làm tròn bổn phận người vợ hiền đối với chồng.

Em không hề có tính ngã-mạn khó dạy, không hề lười biếng, nhác làm. Em là người siêng năng cần mẫn, dễ dạy, có giới trong sạch và đầy đủ.

Thế mà chồng em không vừa lòng với em, không thương yêu em, chồng em thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, con sẽ bỏ nhà ra đi, con không thể nào sống chung trong một ngôi nhà với nàng Isidāsī được.

Cha mẹ chồng bảo chồng em rằng:

- Này con yêu quý! Con chớ nên nói như vậy, nàng Isidāsī là người thiện-trí thông minh, siêng năng chăm chỉ, làm tròn phận sự của người vợ hiền, dâu thảo.

Tại sao con không vừa lòng, không thương yêu Isidāsi vậy con?

Chồng em thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, Isidāsī không hề làm điều gì để cho con phật ý, không vừa lòng cả, nhưng thưa cha mẹ, con không thể sống chung với Isidāsī được, con không muốn nhìn thấy mặt Isidāsī, con xin phép từ giã cha mẹ, con xin đi nơi khác.

Cha mẹ chồng khi nghe chồng em nói như vậy, đến hỏi em rằng:

- Này con yêu quý! Con đã làm điều gì sai quấy, làm cho chồng con không vừa lòng, muốn từ bỏ con?

Con hãy nói thật cho cha mẹ nghe điều ấy. Em thưa với cha mẹ chồng rằng:

- Kính thưa cha mẹ, con không hề làm điều gì sai quấy, con không hề làm điều gì khiến cho chồng con phật ý, không vừa lòng cả, con không hề coi thường chồng con, con không hề nói lời nào thô tục khiến chồng con không vừa lòng hoặc giận hờn con cả.

Cha mẹ chồng em khổ tâm vô cùng, không nói gì cả, nhưng dù sao cũng phải giữ con trai ở lại nhà, không cho con trai đi nơi khác, nên đành phải trả em trở về nhà cha mẹ em ở thành Ujjeni.

Kể từ đó, em trở thành người đàn bà xinh đẹp, dễ thương mà bị chồng bỏ.

Em về sống với gia đình cha mẹ em được một thời gian, cha của em lại gả em cho một người con trai của một gia đình giàu có, của cải bằng một nửa gia đình cha mẹ người chồng thứ nhất.

Em sống chung với người chồng thứ hai, hằng ngày em làm tròn phận sự của một người vợ hiền, một người con dâu thảo trong gia đình cha mẹ chồng, em hầu hạ săn sóc chồng em như một người đầy tớ gái hầu hạ săn sóc chủ.

Mặc dù vậy, em hầu hạ săn sóc chồng em được một tháng, người chồng thứ hai cũng gửi trả em về lại với cha mẹ của em. Em trở về sống với gia đình cha mẹ em.

Một hôm, cha em gặp một chàng trai trẻ đi lang thang, đi xin ăn sống nhờ vào lòng từ, bi của người khác, chàng trai trẻ có thân, khẩu, ý hành thiện. Cha em bảo với chàng trai hành khất ấy rằng:

-Này con! Con nên đến làm rể của nhà ta, con hãy vất bỏ cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm, bộ đồ rách rưới dơ bẩn của con đi.

Anh ấy đồng ý đến làm rể của cha mẹ em, làm chồng của em.

Em sống chung với người con trai hành khất ấy là người chồng thứ ba được trọn mười lăm (15) ngày.

Người con trai hành khất ấy thưa với cha em rằng:

- Thưa ông, xin ông trả lại cái nồi đất nhỏ, cái bát xin cơm và bộ đồ rách rưới dơ bẩn ấy lại cho con, để cho con đi xin ăn, bởi vì con không thể sống chung với nàng Isidāsī được.

Cha mẹ em và người bà con hỏi anh chàng hành khất ấy rằng:

- Này con! Cô Isidāsī đã làm điều gì mà con không hài lòng?

Vậy, con nên nói cho cha mẹ và bà con biết, cha mẹ sẽ giúp đỡ cho con được vừa lòng như ý.

Chàng trai hành khất thưa với cha mẹ em và bà con rằng:

- Con muốn được sống tự do, con không muốn sống chung với nàng Isidāsī.

Cha mẹ em phải để cho chàng trai hành khất ra đi sống tự do, còn lại một mình, em suy nghĩ rằng:

“Em nên từ biệt cha mẹ, em đi tự tử hoặc nên đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni?”

Khi ấy, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā, là bậc đa-văn túc-trí, giới-đức thanh-tịnh đến khất thực tại nhà em.

Nhìn thấy Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, em cung kính đón rước tiếp đãi, trải chỗ cho Ngài ngồi, em đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ngài, rồi kính dâng vật thực cúng dường đến Ngài. Khi Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Jinadattā độ vật thực xong, em đảnh lễ và bạch rằng:

- Kính thưa Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni, con có nguyện vọng muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Kính xin Ngài có tâm từ tế độ cho con.

Khi ấy, cha mẹ em bảo với em rằng:

- Này con gái yêu quý! Con nên sống tại nhà, thực-hành giới, giữ gìn giới trong sạch, thực-hành phước-thiện bố-thí, dâng vật thực cúng dường đến Sa-môn, Bà-la-môn, như vậy cũng tốt chứ con.

Em chắp tay lạy cha mẹ, vừa khóc vừa thưa với cha mẹ rằng:

- Kính xin cha mẹ có tâm từ, tâm bi cho phép con được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni, con sẽ cố gắng thực-hành phạm-hạnh cao thượng, để làm cho ác-nghiệp cũ của con không có cơ hội cho quả nữa.

Cha mẹ em biết không thể ngăn được ý nguyện muốn xuất gia của em, nên cha mẹ đành cho phép em xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Cha mẹ em cầu chúc cho em chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn cao thượng mà Chư Phật đã dạy:

“Niết-bàn là pháp an-lạc tuyệt đối.”

Em chắp tay lạy cha mẹ và bà con rồi xin đi xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

Sau khi trở thành tỳ-khưu-ni thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đến ngày thứ 7, em đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc theo tuần tự đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả cùng Tam-minh, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Em đã nhớ rõ lại tiền-kiếp của em suốt 7 kiếp, kể từ kiếp hiện-tại này trở lại theo tuần tự 7 kiếp quá-khứ của em, để biết ác-nghiệp nào cho quả khiến cho cuộc đời của em bị chồng không vừa lòng bỏ em như vậy.

Em xin thuật lại quả của ác-nghiệp mà tiền-kiếp của em đã tạo trong kiếp quá-khứ.

Xin chị lắng nghe ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp ấy trong tiền-kiếp của em như sau:

* Tiền-kiếp thứ 7 của em, kể từ kiếp này trở lui, em là con trai tiệm vàng có nhiều của cải giàu sang ở thành Erakaccha, là người con trai dể duôi (thất niệm) si-mê trong thời trẻ trung, đã phạm điều-giới tà-dâm với vợ người khác, đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.

* Tiền-kiếp thứ 6 của em, sau khi con trai tiệm vàng chết, do ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm suốt thời gian lâu dài trong đại-địa-ngục Avīci cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

* Tiền-kiếp thứ 5 của em, sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con khỉ đực. Khỉ đực con sinh ra được 7 ngày, bị con khỉ chúa cắn đứt dương vật.

Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

* Tiền-kiếp thứ 4 của em, sau khi kiếp con khỉ chết, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con dê đực bị mù mắt, bị què chân. Về sau, cũng bị cắn đứt dương vật, rồi sinh bệnh sưng làm mủ, dòi ăn bộ sinh dục, phải chịu đau khổ suốt 12 năm rồi chết.

Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

* Tiền-kiếp thứ 3 của em, sau khi dê đực chết, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh làm con bò đực có bộ lông nâu. Khi lớn lên được 12 tháng cũng bị thiến bộ sinh dục. Kiếp làm bò đực, khi thì người chủ bắt kéo cày, khi thì người chủ bắt kéo xe, không có lúc nào được nghỉ.

Về sau, kiếp bò đực ấy bị mù đôi mắt, bệnh hoạn chết.

Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

* Tiền-kiếp thứ nhì của em, sau khi kiếp bò đực chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm con của một người tớ gái, là đứa trẻ ái-nam ái-nữ (không phải trai cũng không phải gái), sống được 30 tuổi rồi chết.

Đó là quả của ác-nghiệp tà-dâm.

* Tiền-kiếp thứ nhất của em, sau khi kiếp ái-nam ái-nữ chết, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm người con gái trong gia đình thợ dệt chiếu nghèo nàn cực khổ, túng thiếu mang nợ, chủ nợ đến đòi, không trả nổi, người chủ nợ lấy tất cả của cải, bắt gia đình, kể cả con gái về làm tôi tớ.

Về sau, khi đứa con gái (là em) lớn được 16 tuổi rất xinh đẹp, người con trai của chủ nợ tên Giridāsa bắt ép em làm vợ nhỏ mặc dù ông ta đã có vợ lớn rồi.

Người vợ lớn là người có giới, có đức-hạnh tốt, thương yêu chiều chuộng chung thủy với chồng.

Ông Giridāsa rất say mê người vợ nhỏ xinh đẹp. Người vợ nhỏ (là em) năn nỉ, lời ngon, tiếng ngọt, xúi dục ông Giridāsa đuổi người vợ lớn ra khỏi nhà.

Do ác-nghiệp ấy, nên kiếp này 3 người chồng đều ruồng bỏ em, đuổi ra khỏi nhà, không muốn nhìn mặt em, mặc dù em hết lòng hầu hạ chồng như người tớ gái ngoan ngoãn lo phục vụ chủ.

Đó là ác-nghiệp xúi dục chồng đuổi vợ lớn ra khỏi nhà.

Kiếp hiện-tại này là kiếp cuối cùng, bởi vì em đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, không còn tái-sinh trở lại kiếp nào nữa.

Như vậy, tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp. Cho nên, quả của mọi ác-nghiệp và quả của mọi thiện-nghiệp cũng đều kết thúc trong kiếp chót này.”

3.2-Quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm: Aññatarapurisavatthu

Thuở ấy, Đức-Phật đang ngự tại chùa Jetavana đề cập đến câu chuyện Aññatarapurisavatthu [11]: có một đoạn nói về quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm, được tóm lược như sau:

Một hôm, Đức-vua Pasenadi Kosala cỡi bạch tượng trang sức lộng lẫy có đoàn quân lính hầu ngự đi trong thành biểu dương oai lực của Đức-vua.

Khi ấy, một người đàn bà rất xinh đẹp, đứng ở cửa sổ trên tầng 7 của lâu đài nhìn Đức-vua.

Đức-vua ngẩng lên nhìn thấy nàng đẹp như thiên-nữ, Đức-vua sinh tâm yêu say đắm nàng ấy. Khi hồi cung trở về cung điện, Đức-vua gọi vị quan cận thần đi dò hỏi xem nàng đã có chồng hay chưa. Vị quan cận thần về tâu cho Đức-vua biết nàng đã có chồng rồi. Đức-vua truyền lệnh đòi chồng của nàng vào cung, bày mưu kế hiểm giết người chồng để chiếm người vợ trẻ rất xinh đẹp ấy.

Mưu kế đã tính sẵn, đợi ngày hôm sau mới giết người đàn ông và sẽ chiếm người vợ trẻ xinh đẹp, Đức-vua bị lửa tình dục thiêu đốt, suốt đêm không sao ngủ được, trông cho mau đến sáng.

Khi ấy, bốn chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục Loha-kumbhī: Địa-ngục nước đồng sôi(chiều sâu 60 do-tuần) bị lửa địa-ngục thiêu đốt, nước đồng sôi làm cho cả 4 chúng-sinh ấy nhào lên rồi lộn xuống, giống như hạt gạo đang sôi trong nồi cháo lỏng. Từ miệng địa-ngục nước đồng sôi chìm đến đáy thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm; rồi từ đáy nước đồng sôi nổi lên đến miệng thời gian 30.000 (ba mươi ngàn) năm, vừa đến miệng 4 chúng-sinh nhìn nhau định đọc một câu kệ, nhưng thời gian không kịp, cho nên mỗi chúng-sinh ấy chỉ đọc được âm đầu là Du, Sa, Na, So.

Đức-vua suốt đêm không ngủ được, vào canh giữa đêm nghe rõ 4 âm đầu Du, Sa, Na, So. Đức-vua kinh sợ không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho mình, cho hoàng hậu hoặc cho ngai vàng của mình, không sao nhắm mắt được cho đến sáng.

Đức-vua truyền lệnh gọi vị quân sư đến hỏi, vị quân sư không biết nhưng sợ mất mặt nên nói bậy rằng:

-Tâu Đại-vương, có sự nguy hiểm đến sinh-mạng của Đại-vương.

Vị quân sư bày ra việc lấy máu tế thần, bắt 100 con voi, 100 con ngựa, 100 con bò đực, 100 con bò sữa, 100 con dê, 100 con cừu, 100 con gà, 100 con heo, 100 đứa con trai, 100 đứa con gái cắt cổ lấy máu tế thần, để Đức-vua khỏi bị nguy hiểm đến tính mạng.

Hoàng-hậu Mallikā hay tin Đức-vua tin theo lời vị quân sư truyền lệnh bắt sinh vật làm lễ tế thần. Hoàng hậu Mallikā ngự đến chầu Đức-vua, khuyên can Đức-vua không nên tạo ác-nghiệp sát-sinh, mà kính thỉnh Đức-vua đến hầu Đức-Phật.

Đức-vua Pasenadi Kosala cùng Hoàng hậu Mallikā đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, Hoàng hậu Mallikā kính bạch Đức-Phật rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vào canh giữa đêm Đức-vua không ngủ được, nằm nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So” rất rùng rợn.

Buổi sáng, Đức-vua truyền hỏi vị quân sư thì vị quân sư tâu rằng: “sẽ có sự nguy hiểm đến sinh mạng của Đức-vua.” Vị quân sư bày ra việc sát-sinh làm lễ tế thần để cứu nguy sinh mạng của Đức-vua.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sự thật như thế nào?Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

- Này Đại-vương, Đại-vương nghe như thế nào?

Đức-vua Pasenadi Kosala bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đêm qua con không ngủ được, vào canh giữa đêm con nghe 4 âm là “Du, Sa, Na, So”, con cảm thấy kinh sợ không biết sự việc gì sẽ xảy đến cho con? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

- Này Đại-vương! Không có sự nguy hiểm gì xảy đến cho Đại-vương cả. Đó là 4 chúng-sinh trong cõi địa-ngục đã từng tạo ác-nghiệp trong tiền-kiếp, khi chúng nhìn thấy lại nhau, muốn đọc câu kệ, nhưng thời gian không kịp, mới đọc được âm đầu của câu kệ rồi bị chìm lại xuống cõi địa-ngục.

Đức-vua bạch hỏi:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, 4 chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp gì? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn thuyết dạy về ác-nghiệp của 4 chúng-sinh ấy rằng:

- Này Đại-vương! Đại-vương hãy lắng nghe ác-nghiệp mà 4 chúng-sinh ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

Trong quá-khứ, thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ của con người khoảng 20.000 (hai mươi ngàn) năm.

Đức-Phật Kassapa cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngự đi khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.

Trong xứ Bārāṇasī, 4 người con trai của 4 ông phú hộ, có của cải đến 400 triệu, là bạn hữu với nhau; chúng không nghĩ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng, không nghĩ giữ gìn ngũ-giới và tạo mọi phước-thiện, chúng lại bàn bạc với nhau rằng:

“Trong nhà chúng ta có nhiều của cải, chúng ta sẽ làm gì với số của cải ấy để được sung sướng.”

* Một người nói rằng:

- Này các bạn! Chúng ta uống rượu ngon, ăn đồ ngon, đi chơi, thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

* Một người khác lại nói rằng:

- Này các bạn! Chúng ta ăn cơm nấu từ gạo sāli, có mùi thơm được cất giữ suốt 3 năm, với đồ ăn ngon, đi chơi thì đời sống của chúng ta được sung sướng.

* Một người khác nói rằng:

- Này các bạn! Chúng ta sai người làm đồ ăn ngon đặc biệt, ăn rồi đi chơi thì cuộc sống của chúng ta được sung sướng.

* Một người khác nói rằng:

- Này các bạn! Phần đông đàn bà ham tiền của, chúng ta đem tiền của ra dụ dỗ vợ của người khác sống chung với chúng ta thì cuộc sống của chúng ta sẽ được sung sướng nhiều.

Cả 4 người con trai phú hộ đồng tình với nhau theo ý kiến cuối cùng.

Từ đó, cả 4 người con trai ấy đem tiền bạc dụ dỗ vợ của người khác, đã phạm điều-giới tà-dâm tạo ác-nghiệp tà-dâm.

Sau khi 4 người con trai phú hộ chết, ác-nghiệp tà-dâm cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ trong suốt khoảng thời gian lâu dài, từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian.

Khi chúng mãn quả ác-nghiệp tà-dâm trong đại-địa-ngục Avīci, song ác-nghiệp tà-dâm ấy còn dư sót, cho quả tái-sinh vào cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī: Địa-ngục nước đồng sôi” có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), từ miệng địa ngục chìm xuống đến đáy trải qua thời gian 30.000 năm, rồi từ đáy địa-ngục nước đồng sôi trồi lên đến miệng địa-ngục trải qua thời gian 30.000 năm, khi nổi lên đến miệng địa-ngục thì 4 chúng sinh ấy nhìn thấy nhau định đọc câu kệ, nhưng vì thời gian ngắn ngủi không kịp nên mỗi chúng sinh chỉ đọc được một âm đầu, rồi chìm xuống đáy trở lại.

-Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Du” còn câu kệ đầy đủ là:

Dujjīvitamajīvimha, ye sante na dadamhase.
Vijjamānesu bhojesu, dīpaṃ nākamha attano.”[12]

“Này các bạn thân mến của tôi!

Khi chúng ta có nhiều của cải,

Đã không đem làm phước bố-thí,

Làm hòn đảo nương nhờ của mình.

Chúng ta có tuổi thọ sống lâu.

Mà sống đời thấp hèn đáng khinh.”

- Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Sa” còn câu kệ đầy đủ là:

Saṭṭhivassasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso.

Niraye paccamānānaṃ, kadā anto bhavissati.”

“Này các bạn thân mến của tôi!

Chúng ta chịu khổ trong địa-ngục,

Đầy đủ suốt sáu chục ngàn năm.

Khi nào chúng ta mới mãn hạn,

Trong địa ngục này các bạn nhỉ?”

- Này Đại-vương! Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “Na” còn câu kệ đầy đủ là:

Natthi anto kato anto, na anto paṭidissati.

Tadā hi pakataṃ pāpaṃ, mama tuyhañca, mārisā.”

“Này các bạn thân mến của tôi!

Mãn hạn trong địa-ngục không có,

Sự mãn hạn từ đâu có được?

Mãn hạn địa-ngục không hiện rõ.

Bởi vì khi chúng ta làm người,

Tôi và các bạn tạo ác-nghiệp.”

-Này Đại-vương, Đại-vương nghe âm đầu của câu kệ “So” còn câu kệ đầy đủ là:

Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ.

Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahuṃ.”

“Này các bạn thân mến của tôi!

Sau khi tôi thoát khỏi địa-ngục,

Nếu được tái-sinh lại làm người,

Sẽ là người biết lắng nghe pháp,

Giữ giới trong sạch và trọn vẹn.

Chắc chắn sẽ tạo nhiều phước-thiện.”

Khi Đức-Phật giảng giải xong ý nghĩa 4 âm đầu trong 4 câu kệ đầy đủ của 4 chúng-sinh địa-ngục vốn là 4 người con trai của 4 nhà phú hộ trong tiền-kiếp, Đức-vua lắng nghe phát sinh động tâm nghĩ rằng:

“Tạo ác-nghiệp tà-dâm này nặng đến thế! 4 người con trai của 4 nhà phú hộ phạm điều-giới tà-dâm, phải chịu thiêu đốt ở đại-địa-ngục Avīci suốt khoảng thời gian từ thời-kỳ Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama.

Sau khi thoát ra khỏi đại-địa-ngục Avīci, rồi còn phải sa vào địa-ngục nước đồng sôi Lohakumbhī có chiều sâu 60 do-tuần (yojana), chịu thiêu đốt 60.000 năm cũng chưa biết lúc nào mãn quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm trong địa-ngục nước đồng sôi.

Còn ta đem lòng thương yêu, say mê vợ người khác, làm suốt đêm không ngủ được. Kể từ nay, ta sẽ không dám sinh tâm thương yêu, say mê vợ người khác nữa.”

Đức-vua Pasenadi Kosala truyền lệnh thả những người và các loài thú được tự do trở về chỗ của mình, do nhờ Hoàng hậu Mallikā.

4- Tích người phạm điều-giới nói-dối

Người phạm điều-giới nói-dối là người nói lời lừa dối, trái với sự thật, khiến cho người nghe tin theo, đem lại sự tai hại trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai. Cho nên, người phạm điều-giới nói-dối, tạo ác-nghiệp nói-dối, rồi phải chịu quả khổ tái-sinh trong cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

4.1-Tích con cá vàng Kapila

Trong bộ Chú-giải Pháp-cú, tích con cá vàng Kapila [13] được tóm lược như sau:

Thuở ấy, Đức-Phật đang ngự tại chùa Jetavana, đề cập đến tích con cá vàng tên là Kapila liên quan đến ác-nghiệp nói-dối.

Trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa có hai anh em, người anh tên Sāgata, người em tên Kapila. Cả hai anh em có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa. Còn thân mẫu tên Sādhinī và em gái tên Tāpanā, cả hai người đều xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

Sau khi hai anh em trở thành tỳ-khưu xong, một hôm hai huynh đệ tỳ-khưu bạch hỏi vị Thầy tế độ rằng:

- Kính bạch Thầy, phận sự trong Phật-giáo có bao nhiêu? Bạch Thầy.

Vị Thầy tế độ dạy rằng:

- Này hai con! Trong Phật-giáo này có hai phận sự chính là:

1- Gandhadhura: Phận sự học pháp-học đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, …

2- Vipassanādhara: Phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

* Vị tỳ-khưu Sāgata suy nghĩ rằng:

“Ta lớn tuổi, ta nên theo phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.”

Vị tỳ-khưu Sāgata ở với vị Thầy tế độ 5 hạ (5 năm) học hiểu rõ về pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ với vị Thầy tế độ xong, rồi xin phép đi vào rừng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

Ngài Trưởng-lão Sāgata thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

* Vị tỳ-khưu Kapila nghĩ rằng:

“Ta còn nhỏ tuổi, ta nên theo phận sự học pháp-học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trước, khi lớn tuổi ta sẽ theo phận sự thực-hành pháp-hành thiền-tuệ sau.”

Vị tỳ-khưu Kapila cố gắng theo học pháp-học, ghi nhớ Tam-Tạng Pāḷi, nhờ ghi nhớ pháp-học giỏi, có tài thuyết pháp hay, có tài biện luận giỏi,nên có nhiều người ngưỡng mộ.

Do có nhiều người ngưỡng mộ nên có nhiều lợi lộc phát sinh, vị tỳ-khưu Kapila say mê trong lợi lộc, ỷ lại vào tài năng sở học của mình, nên phát sinh tâm ngã-mạn, tự cho mình là tài giỏi hơn người, coi thường bậc phạm-hạnh có giới-đức, dùng sở học của mình áp chế người khác, ngụy biện đảo lộn.

- Điều nên hành (kappiya), nói không nên hành (akappiya).

- Điều không nên hành (akappiya), nói nên hành (kappiya).

- Điều có lỗi (sāvajja), nói không có lỗi (anavajja).

- Điều không có lỗi (anavajja), nói có lỗi (sāvajja)…

Những bậc thiện-trí có giới-đức, có tâm từ, tâm bi, đến khuyên dạy nhắc nhở rằng:

- Này pháp-hữu Kapila! Không nên nói như vậy, làm hư hoại Phật-giáo.

Tỳ-khưu Kapila không kính trọng bậc thiện-trí, lại còn coi thường chê trách rằng:

- Quý vị không hiểu biết gì! Quý vị chỉ có nắm tay không, …

Những bậc thiện-trí đem chuyện này thưa với Ngài Trưởng-lão Sāgata bậc Thánh A-ra-hán, là pháp-huynh của tỳ-khưu Kapila.

Ngài Trưởng-lão Sāgata đến khuyên dạy, nhắc nhở tỳ-khưu Kapila là pháp-đệ rằng:

-Này Kapila! Pháp-đệ nên thực-hành đúng theo lời khuyên dạy, nhắc nhở của chư bậc thiện-trí để làm cho Phật-giáo được trường tồn.

Vì vậy, pháp-đệ hãy từ bỏ tà-kiến sai lầm, như điều nên hành, nói không nên hành, điều không nên hành, nói nên hành, v.v…

Tỳ-khưu Kapila có tính ngã-mạn khó dạy, không làm theo lời khuyên dạy, nhắc nhở của pháp-huynh (bậc Thánh A-ra-hán).

Ngài Trưởng-lão Sāgata có tâm từ, tâm bi đến khuyên dạy 2-3 lần, biết tỳ-khưu Kapila không nghe lời khuyên dạy, nhắc nhở, nên dạy rằng:

-Này Kapila! Nếu cứ tiếp tục như vậy thì pháp-đệ sẽ phải chịu hậu quả ác-nghiệp nghiêm trọng của mình.

Về sau, Ngài Trưởng-lão Sāgata tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Tỳ-khưu Kapila càng ngày càng tạo ác-nghiệp nói-dối, nên sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp nói-dối ấy cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình đã tạo.

Thân mẫu là tỳ-khưu-ni Sādhinī và em gái là tỳ-khưu-ni Tāpanā là hai vị tỳ-khưu-ni có tính thiên vị, bênh vực tỳ-khưu Kapila, rồi chê trách những tỳ-khưu có giới-đức, nên sau khi hai vị tỳ-khưu-ni chết, ác-nghiệp ấy cho quả đều tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình đã tạo.

* Sinh làm con cá vàng tên Kapila

Hậu kiếp tỳ-khưu Kapila ở trong đại-địa-ngục Avīci, bị thiêu đốt chịu quả khổ của ác-nghiệp trong suốt khoảng thời gian từ thời Đức-Phật Kassapa cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama mới thoát ra khỏi địa-ngục. Do ác-nghiệp nói-dối ấy còn dư sót cho quả tái-sinh làm con cá vàng tên Kapila ở sông Aciravatī có vảy màu như vàng, nhưng miệng có mùi hôi thối ghê tởm, đó là quả của ác-nghiệp nói-dối.

Một hôm, nhóm trẻ xóm dân chài bàn tính nhau đi bắt cá, rồi đem lưới giăng ở sông Aciravatī. Con cá vàng lớn này bị mắc lưới, được bắt lên trên ghe, nhóm dân chài thấy cá lạ nên mang đến trình Đức-vua để lãnh thưởng.

Đức-vua Pasenadi kosala nhìn thấy con cá vàng lớn lạ thường, nên nghĩ rằng:

“Ta nên đem con cá vàng này đến trình Đức-Phật để biết rõ thế nào.”

Con cá được đem đến ngôi chùa Jetavana, khi con cá mở miệng mùi hôi thối tỏa ra khắp ngôi chùa Jetavana.

Đức-vua bạch hỏi Đức-Phật rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nhân nào con cá có màu như vàng? Do nhân nào miệng con cá lại hôi thối đến như thế? Bạch Ngài.

Đức-Phật dạy rằng:

- Này Đại-vương, con cá này tiền-kiếp là tỳ-khưu tên Kapila trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa, là bậc đa-văn túc-trí, học Tam-Tạng Pāḷi có tài thuyết pháp giỏi, được nhiều người theo ngưỡng mộ.

Vì tâm tham muốn trong lợi lộc chế ngự, nên tỳ-khưu Kapila nói dối sai với chánh-pháp, điều nên hành thì nói không nên hành, …. còn chê trách các tỳ-khưu có giới-đức trong sạch mà không nghe theo mình.

Sau khi tỳ-khưu Kapila chết, ác-nghiệp nói-dối cho quả tái-sinh trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp, sau khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, cũng do ác-nghiệp nói-dối ấy cho quả tái-sinh làm con cá màu vàng này.

* Con cá có màu như vàng là do quả của đại-thiện-nghiệp học pháp-học Pāḷi nhiều năm và tán dương ca tụng ân Đức-Phật lâu năm.

* Miệng của con cá có mùi hôi thối ghê tởm là do quả của ác-nghiệp nói dối, chê trách tỳ-khưu có giới-đức trong sạch, thuyết pháp sai chánh-pháp, ...

- Này Đại-vương, Như-Lai sẽ khiến con cá nói được.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, xin Ngài khiến con cá nói. Bạch Ngài.

Đức-Phật hỏi con cá rằng:

- Ngươi là Kapila phải không?

Con cá bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con là Kapila. Bạch Ngài.

- Ngươi từ đâu đến tái-sinh làm con cá này?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kiếp trước con từ cõi đại-địa-ngục thoát ra, do ác-nghiệp cho quả tái-sinh làm con cá này. Bạch Ngài.

- Tỳ-khưu Sāgata, pháp-huynh của ngươi ở đâu?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, pháp-huynh Sāgata đã tịch diệt Niết-bàn. Bạch Ngài.

- Tỳ-khưu-ni Sādhinī thân mẫu của ngươi và tỳ-khưu-ni Tāpanā em gái của ngươi ở đâu?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tỳ-khưu-ni Sādhinī thân mẫu của con và tỳ-khưu-ni Tāpanā em gái của con đang ở trong địa-ngục. Bạch Ngài.

- Bây giờ, ngươi sẽ đi đâu?

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sau khi chết, ác-nghiệp sẽ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci như trước. Bạch Ngài.

Con cá Kapila hối hận tức mình tự đập đầu chết tức thì, cũng do ác-nghiệp nói-dối cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci trở lại.

Tất cả mọi người nghe cuộc đối thoại giữa Đức-Phật và con cá vàng đều phát sinh động tâm nổi da gà, rợn tóc gáy.

4.2-Nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā vu oan cho Đức-Phật

Thuở ấy, Đức-Thế-Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, nhóm các tu-sĩ ngoại đạo bày mưu với nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā [14] vu oan, mắng nhiếc Đức-Phật, để làm mất uy tín của Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử. [15]

Vào thời-kỳ đầu của chánh-pháp, các hàng đệ-tử ngày một thêm đông, chư-thiên, phạm-thiên, nhân-loại đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân vô số, không sao kể xiết.

Vì vậy, danh thơm tiếng tốt của Đức-Phật lan truyền khắp mọi nơi. Đại đa số dân chúng trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, nay đã trở thành đệ-tử của Đức-Phật. Đó là điều mà các tu-sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm nên sự cúng dường lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

Khi thấy dân chúng lũ lượt kéo nhau đi nghe pháp cúng dường tứ vật dụng đến Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, các tu-sĩ ngoại đạo đã ra đứng chặn giữa đường rồi lớn tiếng thuyết phục họ rằng:

“Không chỉ Sa-môn Gotama là Đức-Phật mà chúng tôi đây cũng là Thế-Tôn. Bố-thí cúng dường đến Sa-môn Gotama có phước nhiều, quả báu nhiều, thì bố-thí cúng dường đến chúng tôi cũng được như vậy.”

Mặc dù các tu-sĩ ngoại đạo gắng sức rao truyền quảng cáo, cũng không thể đem lại đức-tin cho dân chúng được nữa. Khi phần đông dân chúng mất đức-tin nơi các tu-sĩ ngoại đạo thì họ cũng bị mất nhiều lợi lộc. Do đó, chúng họp bàn với nhau bày mưu kế thâm độc để hạ uy tín của Đức-Phật.

Vào thời ấy, trong kinh-thành Sāvatthi có cô kỹ-nữ rất xinh đẹp như thiên-nữ tên là Ciñcāmāṇavikā. Nàng vốn là đệ-tử thuần thành của các tu-sĩ ngoại đạo.

Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng Ciñcāmāṇavikā, các tu-sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế:

“Chúng ta dùng nàng kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Sa-môn Gotama, gây ra sự hiểu lầm để làm mất uy tín của Samôn.”

Mưu kế ấy được họ chấp nhận.

Một hôm, như lệ thường cô Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu-sĩ xong, rồi ngồi một bên. Cô Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu-sĩ ngồi im lặng không nói với cô một câu nào.

Cô nghĩ rằng: “Mình có lỗi gì đây!”

Cô bạch vị Đạo-trưởng rằng:

- Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị Đạo-trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng rằng:

- Này Ciñcāmāṇavikā! Con là một đệ-tử rất thuần thành, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à!

Vì vậy, quý thầy cảm thấy khổ tâm, buồn bực nên không ai nói với ai điều gì cả.

Cô Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

- Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ sung túc lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

Vị Đạo-trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói:

- Này Ciñcāmāṇavikā! Con không biết gì hay sao? Chính Sa-môn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Sa-môn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường, … Cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy.

Cô Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa rằng:

- Kính bạch quý Ngài, vậy mà con không hay biết gì cả. Con có thể làm gì để giúp đỡ cho quý Ngài được hay không ?

Các vị đạo-sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói rằng:

- Này con! Chỉ sợ con ngại khó mà không giúp quý thầy đó thôi.

Cô Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

- Kính bạch quý Ngài, khó khăn gì con cũng có thể làm được miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an-lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

Vị tu-sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

- Này con! Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy thì chỉ có một cách là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào giả mang thai với Sa-môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa-môn Gotama, như thế phần đông đệ-tử của Sa-môn Gotama sẽ trở lại với chúng ta.

Cô Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói rằng:

- Kính bạch quý Ngài, đúng vậy, kế này rất hay. Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều, sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi đảnh lễ Đức-Phật trở về nhà, họ thường gặp cô Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi cô rằng:

- Này cô! Chiều tối rồi cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy? Cô Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra sự nghi ngờ rằng:

- Tôi đi đâu là việc riêng của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, cô bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana nhưng cô lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem các lễ vật đến ngôi chùa Jetavana để cúng dường lên Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng, thì lại thấy cô Ciñcāmāṇavikā từ hướng ngôi chùa Jetavana trở lại kinh-thành Sāvatthi, người ta lại hỏi cô rằng:

- Này cô! Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào kinh-thành sớm vậy?

Cô Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp rằng:

- Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, cô Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận-sự-nam, cận-sự-nữ khác hỏi cô:

- Này cô! Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Cô Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

- Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi!

Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin nói thật.

“Đêm qua tôi nghỉ ở cốc Gandhakuṭi chung với Sa-môn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi.”

Nói xong, cô tỏ vẻ đắc ý bỏ vào kinh-thành.

Khi nghe cô Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận-sự-nam, cận-sự-nữ phàm-nhân thiểu-trí, sinh tâm bán tín bán nghi. Ba – bốn tháng sau, cô Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai.

Một số phàm-nhân khác không có trí-tuệ, không hiểu biết rõ giáo-pháp của Đức-Phật, nên nghi ngờ rằng:

“Có phải cô Ciñcāmāṇavikā có thai với Sa-môn Gotama hay không?”

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức-Phật đến hồi chung cuộc. Nhóm tu-sĩ ngoại đạo gọi cô Ciñcāmāṇavikā đến, họ đẽo một miếng gỗ giống hình dạng như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây.

Nhóm tu-sĩ ngoại đạo bảo cô Ciñcāmāṇavikā đeo miếng gỗ giống hình dạng cái thai vào trước bụng, buộc chặt 4 sợi dây sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người đàn bà mang thai gần đến ngay sinh nở.

* Đức-Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức-Phật đang ngự trên pháp tòa thuyết-pháp tại giảng đường ngôi chùa Jetavana, tứ chúng đệ-tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì cô Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức-Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

- Này ông đại Sa-môn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ?

Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ…

Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức-vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, … cho người lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

Nghe cô Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức-Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói:

“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitatha-bhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma.”[16]

- Này cô! Cô nói lời chân thật hay lời giả dối chỉ có Như-Lai và cô biết rõ mà thôi?

Cô Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

- Đúng vậy, này ông Đại Sa-môn, chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi.

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, bảo tòa của Đức-vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên-nhãn quan sát nguyên nhân, Đức-vua trời Sakka thấy rõ, biết rõ cô Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức-Phật trước tứ chúng thanh-văn đệ-tử bởi chuyện không có thật.

Đó chỉ là âm mưu thâm độc của nhóm tu-sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ-nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức-Phật trước tứ chúng đệ-tử mà thôi.

Đức-vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Đức-vua trời Sakka cùng 4 vị thiên-nam xuất hiện xuống giảng đường ngôi chùa Jetavana ngay tức khắc.

Theo lệnh của Đức-vua trời Sakka, 4 vị thiên-nam hóa thành 4 con chuột cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây cột tấm gỗ giống như bào thai của cô Ciñcāmāṇavikā, đồng thời Đức-vua trời Sakka hóa một luồng gió thổi làm cho tấm gỗ ấy rơi xuống đụng nhằm vào hai bàn chân của cô Ciñcāmāṇavikā làm cho đôi bàn chân của cô bầm máu.

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng thanh-văn đệ-tử.

Cô Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa.

Cô Ciñcāmāṇavikā hoàn toàn thất vọng, bước đi thất tha thất thểu vừa khuất tầm mắt của mọi người, ác-nghiệp nói-dối, nói lời vu khống của cô quá nặng nên mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy cô rồi hút xác cô xuống sâu dưới lòng đất.

Sau khi cô Ciñcāmāṇavikā chết, ác-nghiệp nói-dối, nói vu khống ấy cho quả tái-sinh vào đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ của ác-nghiệp nói-dối, nói lời vu khống ấy.

5-Tích người phạm điều-giới uống rượu và chất say

Thuở ấy, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, Đức-Phật đề cập đến hai người con của hai nhà phú hộ (Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu) [17] được sơ lược như sau:

* Một nhà phú hộ trong thành Bārāṇasī có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, chỉ có một người con trai duy nhất. Hai ông bà phú hộ bàn với nhau rằng:

“Gia đình chúng ta có nhiều tiền, nhiều của như thế này, chúng ta chỉ có một đứa con trai, sau này chúng ta sẽ giao tất cả gia tài lại cho con để nó thừa hưởng sung sướng suốt cuộc đời cũng không sao hết được. Con chúng ta không cần làm việc gì cho vất vả.”

Hai ông bà phú hộ nhất trí như vậy nên cho đứa con trai đi học đờn ca, múa hát vui chơi, không học nghề hay chuyên môn nào khác.

* Một nhà phú hộ khác cũng trong thành Bārāṇasī này, cũng có của cải, tài sản nhiều đến 800 triệu, cũng chỉ có một người con gái duy nhất. Hai ông bà phú hộ cùng bàn với nhau như nhà phú hộ có người con trai, nên cho đứa con gái đi học đờn ca, múa hát vui chơi như con trai nhà phú hộ kể trên.

Khi người con trai và người con gái của hai nhà phú hộ đến tuổi trưởng thành, hai bên gia đình kết làm sui gia với nhau, tác hợp cho con trai và con gái làm lễ thành hôn, thành đôi vợ chồng với nhau.

Sau khi cha mẹ hai bên lần lượt qua đời, tất cả gia tài của hai nhà phú hộ gom chung lại thành tài sản lớn đến 1.600 triệu.

Cho nên, hai vợ chồng con của phú hộ có tài sản của cải rất lớn, nên gọi là “Mahādhana”, và hai người con của hai nhà phú hộ gọi là “Seṭṭhiputtā”, hai danh từ ghép lại nhau gọi là “Mahādhanaseṭṭhiputtā”, nghĩa là: “Hai người con của hai nhà phú hộ có tài sản lớn.”

Hai vợ chồng trẻ, con nhà phú hộ không biết kinh doanh nào khác, chỉ biết đờn ca, múa hát vui chơi mà thôi. Thường ngày, hai vợ chồng đến chầu Đức-vua.

Trên đường đi, một nhóm người uống rượu, ăn chơi, ca hát bên đường, bọn chúng nhìn thấy hai vợ chồng con phú hộ thường qua lại nên bàn tính với nhau rằng:

“Chúng ta có thể làm cách nào để cho hai vợ chồng con phú hộ này nghiện rượu, chúng ta sẽ sống bám vào họ thì được sung sướng suốt đời.”

Bọn chúng bàn mưu tính kế vừa xong, khi thấy hai vợ chồng con phú hộ đang đi tới, bọn chúng vừa uống rượu, vừa ca hát, nhảy múa có vẻ rất vui sướng rồi đồng thanh nói lời chúc tụng rằng:

“Chúng tôi cầu chúc hai vợ chồng con phú hộ được sống lâu trăm tuổi, được hạnh phúc an-lạc suốt đời.

Chúng tôi xin nương nhờ nơi hai người, cũng sẽ được an-lạc, sung sướng.”

Người con trai phú hộ nghe bọn chúng chúc tụng mình có vẻ thích thú hoan hỷ lắm, mới hỏi người đánh xe rằng:

- Này ngươi! Chúng nó uống nước gì vậy?

- Thưa cậu chủ, chúng nó uống rượu ạ.

- Rượu có vị ngon không?

- Thưa cậu chủ, trong các loại nước, rượu là loại nước có vị ngon làm cho người thưởng thức say ngây ngất.

Người con trai phú hộ nói với người đánh xe rằng:

- Nếu như vậy thì ta cũng nên uống chơi cho biết vị của rượu.

Người con trai phú hộ sai người đánh xe đến gặp nhóm người kia lấy một chút rượu uống thử cho biết.

Về sau không lâu, uống rượu được nhiều, người con trai phú hộ trở thành người nghiện rượu nặng.

Nhóm người nghiện rượu kia biết người con trai phú hộ đã nghiện rượu rồi, chúng rủ nhau đến tận nhà người con trai phú hộ để uống rượu cho có bạn.

Lâu ngày, tiếng đồn càng xa, bọn chúng rủ nhau đến ngày càng đông. Người con trai phú hộ sai gia nhân mua rượu, mỗi lần 100 kahāpana, rồi 200 kahāpana, v.v… Ngoài việc tốn tiền mua rượu, còn tốn thêm tiền mua bông hoa, nước thơm, tiền mướn đoàn vũ nữ nổi tiếng đến ca hát, nhảy múa, xong rồi còn ban thưởng, mỗi lần 1.000 kahāpana, 2.000 kahāpana, v.v…

Người con trai phú hộ phung phí tiền bạc suốt ngày đêm như vậy, trải qua một thời gian lâu, của cải, tài sản 800 (tám trăm) triệu phần của mình đã hết sạch.

Người quản gia đến trình cho người con trai phú hộ biết rằng:

- Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của cậu đã hết sạch rồi!

Người con trai phú hộ bèn hỏi:

- Này ngươi! Của cải, tài sản phần của phu-nhân ta không còn hay sao?

Người quản gia thưa rằng:

- Thưa cậu chủ, của cải, tài sản phần của mợ vẫn còn.

Người con trai phú hộ ra lệnh:

- Này ngươi! Hãy lấy của cải phần của phu-nhân ta ra xài.

Người con trai phú hộ phung phí như vậy trải qua thêm một thời gian lâu nữa, tài sản phần của người vợ cũng hết sạch.

Những ngày tiếp theo sau, bán dần ruộng, vườn, xe cộ, đồ đạc trong nhà, đến cuối cùng cũng bán cả căn nhà đang ở để tiêu xài.

Đến khi hai vợ chồng con phú hộ tuổi già, không có nhà ở, hai vợ chồng phải dẫn nhau ra ở bên hiên nhà người khác.

Hằng ngày, hai vợ chồng cầm mảnh bát đi xin những đồ ăn thừa của người khác, để sống lay lắt qua ngày.

Một hôm, ông già đứng gần cửa trai tăng đường để chờ nhận đồ ăn còn dư của chư tỳ-khưu, sa-di.

Đức-Phật nhìn thấy ông già, rồi mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch hỏi Đức-Phật, do nguyên nhân nào mỉm cười.

Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

- Này Ānanda! Ông già kia, trước đây là con của nhà phú hộ có một tài sản lớn lao, đã tiêu xài phung phí hết sạch, sau đó lại còn bán hết tất cả ruộng, vườn, đồ đạc, nhà cửa,… Bây giờ, không còn gì nữa, ông phải dẫn vợ đi xin ăn trong kinh-thành này.

Đức-Phật truyền dạy rằng:

* Nếu người con phú hộ, trong tuổi thiếu-niên không tiêu xài phung phí của cải, tài sản, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhất trong kinh-thành Bārāṇasī này.

Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ trong tuổi thiếu-niên xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Còn người vợ có khả năng chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

* Nếu người con phú hộ, trong tuổi trung-niên với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhì trong kinh-thành Bārāṇasī này.

Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ, trong tuổi trung-niên xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

Còn người vợ có khả năng chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

* Nếu người con phú hộ, trong tuổi lão-niên với phần của cải, tài sản còn lại, biết lo kinh doanh, khuếch trương công việc làm ăn thì sẽ trở thành phú hộ thứ ba trong kinh-thành Bārāṇasī này.

Nếu cả hai vợ chồng con phú hộ, trong tuổi lão-niên, xuất gia trong Phật-giáo, biết thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

Còn người vợ có khả năng chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Nhưng bây giờ, hai vợ chồng con phú hộ này đã trải qua hết cả 3 thời (thiếu-niên, trung-niên, lão-niên) rồi, của cải, tài sản trong thế gian của họ đã bị khánh kiệt, của báu siêu-tam-giới là Thánh-đạo và Thánh-quả trong Phật-giáo cũng bị hoại nữa, như con cò già rụng hết lông cánh, nằm thoi thóp trong vũng bùn khô.

Đức-Phật dạy bài kệ rằng:

“Acaritvā brahmacariyaṃ, aladdhā yobbane dhanaṃ. Jiṇṇakoñcāva jhāyanti, khīṇamaccheva pallale.

Acaritvā brahmacariyaṃ, aladdhā yobbane dhanaṃ. Senti cāpātikhīṇāva, purāṇāni anutthunaṃ.”[18]

“Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh. Không được của báu lúc còn trẻ trung,

Như con cò già yếu nằm than thở, Trên vũng bùn khô, không còn tôm cá.

Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh, Không được của báu lúc còn trẻ trung,

Nằm hối tiếc của cải xưa đã hết, Như mũi tên đã rời khỏi cây cung, Rơi xuống đất làm đồ ăn cho mối.”

Nhận xét về tích người con phú hộ

Như Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda về hai người con phú hộ. Ngay trong kiếp hiện-tại, hai người con phú hộ đều có khả năng trở thành bậc Thánh-nhân, sở dĩ hai người con phú hộ không trở thành bậc Thánh-nhân là vì gần gũi thân cận với bạn ác nghiện rượu, nên người con trai phú hộ phạm điều-giới uống rượu và các chất say, trở thành người nghiện rượu nặng, cho nên tất cả của cải tài-sản đều bị tiêu hao, thậm chí còn ngôi nhà ở cuối cùng cũng không giữ gìn được. Tất cả của cải tài-sản sự nghiệp đều bị khánh kiệt hết thảy. Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn cũng không có cơ hội phát triển được nữa.

Đến thời kỳ lão-niên, người con trai phú hộ dẫn vợ đi ăn xin, sống lay lắt qua ngày ở dưới mái hiên nhà của người khác.

Như vậy, người phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say trở thành người nghiện rồi, không gặp được người bạn tốt là bậc thiện-trí khuyên bảo, nhắc nhở thì càng bị sa lầy, chìm đắm trong vòng truỵ lạc.

Đức-Phật dạy:

“Asevanā ca bālānaṃ, paṇḍitānañca sevanā…”
Không nên gần gũi thân cận với bạn ác.

Nên gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.

Đó là điều hạnh phúc an-lạc cao-thượng…

Tóm lại, trong ngũ-giới có 5 điều-giới, người ác nào có tác-ý trong ác-tâm phạm mỗi điều-giới nào hợp đủ chi-pháp của điều-giới ấy, tạo mỗi ác-nghiệp ấy nặng hoặc nhẹ khác nhau nên quả của mỗi ác-nghiệp ấy tương xứng khác nhau đối với chủ nhân của ác-nghiệp ấy.

Những tích được trích dẫn làm tiêu biểu giúp cho độc giả tìm hiểu về người ác phạm mỗi điều-giới, tạo ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp của mỗi điều-giới trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.

Ngũ-giới là pháp hạnh-phúc an-lành

Ngũ-giới có tầm quan trọng trực tiếp đem lại sự an lành đến cho người giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn nói riêng, đến cho mọi chúng-sinh nói chung.

Tầm quan trọng của ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn đó là pháp đem lại sự an lành tùy theo địa vị mỗi người trong đời.

Nếu người ấy là một Đức-vua có ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn thì toàn cõi đất nước có mưa thuận gió hòa, dân giàu nước mạnh, thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ đều sống an cư lạc nghiệp, …

* Tích Kurudhammajātaka[19], Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành pháp kurudhamma, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Đức-Phật thuyết về tiền-kiếp của Đức-Phật khi còn là Đức-Bồ-tát trong tích Kurudhammajātaka:

Trong thời quá-khứ, Đức-vua Bồ-tát Dhanañcaya-korabya ngự tại kinh-thành Indapattha trị vì đất nước Kuru. Đức-vua Bồ-tát thực-hành kurudhamma[20] là danh từ gọi ngũ-giới” và có 10 người thực-hành theo Đức-Bồ-tát cùng giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) đó là:

1- Mẫu hậu của Đức-vua Bồ-tát.

2- Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua.

3- 3-Hoàng đệ Đức phó-vương.

4-Vị Bà-la-môn quân sư của Đức-vua.

5-Vị quan đo điền thổ.

6-Người đánh xe ngựa của Đức-vua.

7-Phú hộ trong thành Indapattha.

8- Vị quan trông coi kho thóc gạo.

9- Người đóng cửa thành Indapattha.
10-Cô kỹ-nữ trong thành Indapattha.

Đó là 10 người thực-hành kurudhamma theo Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya

Đức-vua Bồ-tát lập ra trại bố-thí vật thực và đồ dùng tại 6 nơi: 4 cửa thành, trung tâm kinh-thành trước cửa cung điện Đức-vua.

Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya rất hoan hỷ trong pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật. Mỗi ngày, Đức-vua đem của cải trị giá 600.000 (sáu trăm ngàn) phân phát tại 6 trại bố-thí cho mọi người nghèo khổ, đói khát, người đi đường.

Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya ngự tại kinh-thành Indapattha, trị vì toàn đất nước Kuru được mưa thuận gió hòa, dân giàu nước mạnh, thái bình thịnh vượng, mọi thần dân thiên hạ được sống an cư lạc nghiệp.

Đất nước Kāliṅga gặp nạn

* Thời ấy, Đức-vua Kāliṅga ngự tại kinh-thành Dantapura, trị vì đất nước Kāliṅga. Đất nước Kāliṅga gặp cơn hạn hán, trời không mưa, đến mùa màng không cày cấy trồng trọt gì được nên dân chúng thiếu ăn đói khổ, còn sinh ra 3 nạn: nạn đói khát, nạn dịch bệnh nạn cướp bóc. Dân chúng trong đất nước kéo đến kinh-thành Dantapura, đứng trước cung điện Đức-vua kêu la, than khóc xin Đức-vua Kāliṅga cứu giúp.

Đức-vua Kāliṅga truyền hội các quan cận thần bèn hỏi:

- Này các quan! Có chuyện gì xảy ra?

Các quan tâu lên Đức-vua rằng:

- Tâu Bệ hạ, trong đất nước của Bệ hạ gặp cơn hạn hán kéo dài, trời không mưa, đến mùa màng không cày cấy trồng trọt gì được nên dân chúng thiếu ăn, đói khổ, còn sinh ra 3 nạn: nạn đói khát, nạn dịch bệnh và nạn cướp bóc.

Dân chúng trong đất nước kéo đến kinh-thành, đứng trước cung điện của Đức-vua, kêu la, than khóc, xin Đức-vua cứu giúp. Cầu xin Đức-vua làm cho đất nước mưa thuận gió hòa.

Đức-vua bèn truyền hỏi các quan rằng:

- Này các quan! Các Đức-vua trước làm cách nào để cho đất nước mưa thuận gió hòa?

Các quan tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, các Đức-vua trước, nếu khi đất nước gặp cơn hạn hán kéo dài, trời không mưa thì Đức-vua đem của cải ra bố-thí, nguyện thọ trì giới, nằm trên giường không lát nệm bông suốt 7 ngày, trời sẽ mưa.

Đức-vua làm đúng theo lời tâu của các quan cận thần, nhưng trời vẫn không mưa. Đức-vua hỏi các quan rằng:

- Này các quan! Trẫm đã làm đúng theo lời tâu của các khanh mà trời vẫn không mưa.

Vậy, Trẫm nên làm thế nào để cho trời mưa?

Các quan tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, tại kinh-thành Indapattha, Đức-vua Dhanañcayakorabya có con voi báu tên là Añjanavaṇṇa, nếu Bệ hạ có được voi báu ấy thì trời ắt có mưa.

Đức-vua truyền lệnh hỏi rằng:

- Này các quan! Làm thế nào để chúng ta có được con voi báu ấy?

Các quan tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, chúng ta không thể chiến thắng Đức-vua Dhanañcayakorabya bằng sức mạnh, Đức-vua ấy là bậc thiện-trí cao thượng hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí đến người thọ thí theo nhu cầu.

Dù người ta muốn xin ngôi Vua, Đức-vua cũng truyền ngôi Vua lại cho họ, dù người ta muốn xin đôi mắt, Đức-vua cũng móc mắt ra cho họ, dù người ta muốn xin sinh-mạng, Đức-vua cũng dám cho sinh-mạng được, huống hồ chúng ta xin con voi báu ấy, chắc chắn Đức-vua sẽ ban con voi báu cho chúng ta.

Đức-vua truyền bảo rằng:

- Này các quan! Bây giờ Trẫm phái 8 vị bà-la-môn đi đến xin con voi báu ấy.

Nhóm 8 vị bà-la-môn đến kinh-thành Indapattha dò hỏi để biết Đức-vua Bồ-tát ngày nào sẽ ngự đến trại bố-thí. Dân chúng cho biết Đức-vua thường ngự đến trại bố-thí mỗi tháng 6 ngày: 8 -14 -15 -23 -29 -30.

Ngày hôm sau nhằm vào ngày rằm (ngày 15), Đức-vua Bồ-tát sẽ ngự đến trại bố-thí. Nhóm 8 vị bà-la-môn vội đến trước cửa thành phía Đông chờ đợi từ sáng sớm.

Đức-vua Bồ-tát ngự trên voi báu trang điểm đầy đủ đồ trang sức, vòng vàng, ngọc quý. Khi Đức-vua Bồ-tát ngự đến phía Đông, tự tay Đức-vua Bồ-tát bố-thí đến cho 7 -8 người xong, rồi truyền lệnh cho các quan làm phận sự bố-thí.

Đức-vua Bồ-tát cỡi lên voi báu ngự đến cửa thành phía Nam, cùng các quan theo hầu đông đảo, nhóm 8 vị bà-la-môn không thể đến gần Đức-vua Bồ-tát được, nên nhóm 8 vị bà-la-môn vội đến cửa thành phía Nam đứng chờ đợi trước.

Khi Đức-vua Bồ-tát ngự đến cửa thành phía Nam, nhóm 8 vị bà-la-môn chắp tay chúc tụng Đức-vua rằng:

“Cầu xin Đại-vương sống trường thọ.”

Đức-vua Bồ-tát nghe vậy liền giục voi báu đến gần nhóm 8 vị bà-la-môn truyền hỏi rằng:

-Này các vị bà-la-môn! Quý vị muốn được gì không?

Nhóm 8 vị bà-la-môn ca tụng ân-đức của Đức-vua bằng câu kệ rằng:

Muôn tâu Đại-vương là Bậc cao thượng.

Đại-vương có tâm đại-bi vô lượng,

Có đại-thiện-tâm hoan hỷ bố-thí.

Chúng hạ thần thành kính xin Đại-vương.

Ban con voi báu hạnh phúc an lành,

Thỉnh đem về đất nước Ka-lin-ga,

Để thần dân thoát khỏi ba nạn tai.

Chúng hạ thần kính dâng số vàng này.

Nghe quý vị bà-la-môn ca tụng như vậy, Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya truyền dạy rằng:

-Này các vị bà-la-môn! Nếu các ngươi kính dâng vàng để đổi lấy voi báu này thì thật là việc làm không hợp lẽ. Trẫm sẽ ban cho con voi báu này cùng với đồ trang sức của nó và người nài voi tài giỏi này.

Con voi báu này là con vật xứng đáng dành cho Đức-vua làm phương tiện.

Đức-vua Bồ-tát ngự xuống voi, đi vòng quanh xem xét mọi đồ trang sức đầy đủ, sau đó, Đức-vua Bồ-tát cầm lấy vòi voi đặt lên bàn tay nhóm 8 vị bà-la-môn, rồi lấy bình nước bằng vàng đựng đầy nước thơm rót từ trên vòi voi chảy xuống tay bà-la-môn rơi xuống đất, gọi là làm lễ bố-thí voi báu cùng với người nài voi tài giỏi và cả nhóm tùy tùng cho nhóm 8 vị bà-la-môn ấy.

Nhóm 8 vị bà-la-môn dẫn voi báu, người nài voi tài giỏi và đoàn tùy tùng trở về kinh-thành Dantapura để dâng lên Đức-vua Kāliṅga.

Đất nước Kāliṅga đã có voi báu nhưng trời vẫn không mưa nên Đức-vua Kāliṅga hỏi các quan rằng:

- Này các quan! Nay, đất nước chúng ta đã có voi báu rồi nhưng trời vẫn không mưa.

Vậy, Trẫm nên làm thế nào nữa để cho đất nước mưa thuận gió hòa, dân chúng sống no đủ thái bình an-lạc.

Các quan tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, Đức-vua Dhanañcayakorabya là bậc thiện-trí giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới). Chính do nhờ thiện-pháp ấy nên trong nước mưa thuận gió hòa, dân giàu nước mạnh, thái bình thịnh vượng, dân chúng được sống an cư lạc nghiệp, chắc chắn là do oai lực của kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch của Đức-vua Dhanañcayakorabya. Con voi báu này không có oai lực bằng kurudhamma.

Nghe các quan tâu như vậy, Đức-vua Kāliṅga liền truyền lệnh cử một phái đoàn bà-la-môn và các quan đi sứ đến kinh-thành Indapattha, đồng thời tiễn đưa voi báu cùng với người nài voi tài giỏi, tất cả nhóm tùy tùng trở về lại kinh-thành Indapattha, đến chầu Đức-vua Dhanañ-cayakorabya kính dâng lại voi báu Añjanavaṇṇa cùng với người nài voi tài giỏi, rồi tâu lên Đức-vua Dhanañcayakorabya, kính xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) trên tấm biển vàng, đem về dâng lên Đức-vua Kāliṅga để Đức-vua thực-hành kurudhamma (pháp ngũ-giới) ấy, để cho nước Kāliṅga được mưa thuận gió hòa, dân giàu nước mạnh, thái bình thịnh vượng, dân chúng được sống an cư lạc nghiệp.

* Kurudhamma (Pháp ngũ-giới)

1-Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya giữ gìn Kurudhamma (Pháp ngũ-giới)

Các quan cận thần của Đức-vua Kāliṅga và nhóm bà-la-môn đến kinh-thành Indapattha, vào chầu Đức-vua Dhanañcayakorabya dâng trở lại voi báu cùng với người nài voi tài giỏi và nhóm tùy tùng, rồi kính tâu lên với Đức-vua rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, đất nước của chúng hạ thần, khi đem voi báu trở về, trời vẫn hạn hán không có mưa, được biết Đại-vương là bậc giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch. Đức-vua của hạ thần muốn giữ gìn kurudhamma nên phái chúng hạ thần đến kính xin Đại-vương ban kurudhamma cho chúng hạ thần ghi chép trên tấm biển vàng này, rồi đem về dâng lên Đức-vua Kāliṅga để thực-hành kurudhamma ấy.

Kính xin Đại-vương có tâm đại-bi ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho hạ thần ghi chép.

Đức-vua Bồ-tát truyền dạy rằng:

-Này các khanh! Trẫm có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật nhưng bây giờ Trẫm hoài nghi về kurudhamma của Trẫm.

Vì vậy, Trẫm phân vân không muốn ban kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho các khanh.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Theo lệ thường, cứ 3 năm tổ chức lễ một lần, các quan đều hội họp đông đủ, mỗi đời Đức-vua đều đóng vai chư-thiên đứng trên cung điện Yakkha Cittarāja bắn cây tên được trang điểm bằng các thứ hoa từ 4 phương. Khi ấy, Trẫm cầm cây cung đứng trên cung điện Yakkha Cittarāja gần mặt hồ nước, bắn mũi tên đến bốn phương, Trẫm thấy rõ 3 mũi tên theo 3 hướng, còn một mũi tên rơi xuống hồ nước cho nên Trẫm hoài nghi rằng:

‘Không biết mũi tên của Trẫm rơi xuống nước có đụng phải con cá nào hay không?’

Trẫm có phạm điều-giới sát-sinh hay không?”

Vì vậy, Trẫm phân vân không muốn ban kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho các khanh.

Các sứ giả đều tâu rằng:

- Muôn tâu Đại-vương, Đại-vương không có tác-ý sát-sinh thì không thể gọi là phạm điều-giới sát-sinh được.

Vậy, kính xin Đại-vương có tâm đại-bi ban kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Đức-vua Bồ-tát truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Nếu vậy thì các khanh hãy ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Các sứ giả đem tấm biển vàng ra ghi chép:

1- Pāṇo na hantabbo: Không nên sát-sinh.

2- Adinnaṃ nādātabbaṃ: Không nên trộm-cắp.

3- Kāmesu micchā na caritabbaṃ: Không nên tà-dâm với vợ hoặc chồng hoặc con người khác.

4- Musā na bhaṇitabbaṃ: Không nên nói-dối.

5- Majjaṃ na pātabbaṃ: Không nên uống rượu và các chất say.

Đức-vua Bồ-tát truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Mặc dù vậy, Trẫm vẫn chưa hài lòng, Trẫm xin giới thiệu đến Mẫu-hậu của Trẫm là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Các khanh hãy đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi Mẫu-hậu của Trẫm.

2- Mẫu-hậu của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến chầu Mẫu-hậu của Đức-vua tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng thái-hậu, chúng hạ thần được biết Lệnh-bà giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch.

Kính xin Lệnh-bà có tâm từ ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Hoàng thái-hậu truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Ta có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ ta hoài nghi về kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) của ta nên ta phân vân không muốn ban kurudhamma đến cho các khanh.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Ta có hai Hoàng-tử, Hoàng-tử trưởng là Chánh-vương và Hoàng-tử thứ là Phó-vương.

Một lần có một Đức-vua ở nước lân bang, gửi đồ cống hiến Đức-vua Chánh-vương của ta một lõi trầm thơm giá trị 100.000 (một trăm ngàn) kahāpana và một nhánh hoa bằng vàng giá trị 1.000 (một ngàn) kahāpana. Đức-vua Chánh-vương đem hai món quà ấy dâng cho ta. Ta nghĩ rằng:

‘Lõi trầm ta cũng không thoa và nhánh hoa vàng ta cũng không trang điểm, ta nên đem cho hai nàng dâu của ta.’

Ta đem nhánh hoa bằng vàng có giá trị thấp ban cho nàng dâu trưởng là Chánh-cung Hoàng-hậu của Hoàng-tử trưởng Chánh-vương, và đem lõi trầm có giá trị cao ban cho nàng dâu thứ là vương-phi của Hoàng-tử thứ Phó-vương.

Khi ta ban cho họ rồi, nghĩ lại ta là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) lẽ ra ta không nên có tâm thiên vị nàng dâu nào giàu, nàng dâu nào nghèo, ta nên nghĩ đến địa vị lớn địa vị nhỏ.

Đúng ra, vật có giá trị cao ta nên ban cho nàng dâu trưởng. Ta đã không làm như vậy.”

Như vậy, giới của ta có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho các ngươi.

Các sứ giả tâu rằng:

-Muôn tâu Hoàng Thái-hậu, của cải của mình muốn ban cho ai tùy theo mình, điều ấy không làm cho giới bị ô nhiễm.

Vậy, kính xin Lệnh-bà có tâm từ ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi Hoàng-Thái-hậu của Đức-vua trên tấm biển vàng xong, Bà truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Mặc dù vậy, ta vẫn chưa hài lòng, ta xin giới thiệu đến nàng dâu trưởng là Chánh-cung Hoàng-hậu của Hoàng-tử trưởng Chánh-vương, là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Các khanh hãy đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi nàng dâu trưởng của ta.

3- Chánh-cung hoàng-hậu của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến chầu Chánh-cung Hoàng-hậu tâu rằng:

- Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, chúng hạ thần được biết Chánh-cung Hoàng-hậu giữ gìn kurudhamma.

Kính xin Chánh-cung Hoàng-hậu có tâm từ ban kurudhamma cho chúng hạ thần.

Chánh-cung Hoàng-hậu truyền dạy rằng:

-Này các khanh! Ta có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ ta hoài nghi về kurudhamma của ta nên ta phân vân không muốn ban kurudhamma đến cho các khanh.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, ta đứng trên bao lơn cung điện, nhìn thấy Đức Chánh-vương ngồi trước, Đức phó-vương ngồi sau trên lưng voi báu đang ngự ra khỏi thành, ta trộm nghĩ thầm rằng:

‘Ta nên giao thiệp với Đức phó-vương này, khi Đức chánh-vương băng hà, Đức phó-vương lên ngôi Chánh-vương sẽ có lòng ưu ái đến ta.’

Sau đó, ta cảm thấy hổ-thẹn tội-lỗi, vì ta là người hành kurudhamma, Đức-vua phu-quân của ta vẫn còn sống, ta lại trộm nghĩ đến một người đàn ông khác.”

Như vậy, giới của ta có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho các khanh.

Các sứ giả tâu rằng:

-Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, chỉ có suy nghĩ ở trong tâm, không thể phạm điều-giới tà-dâm được.

Vì vậy, kính xin Chánh-cung Hoàng-hậu có tâm từ ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma nơi Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua trên tấm biển vàng xong, Chánh-cung Hoàng-hậu truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Mặc dù vậy, ta vẫn chưa hài lòng, ta xin giới thiệu đến Đức phó-vương là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Các khanh hãy đến xin ghi chép kurudhamma từ nơi Đức phó-vương ấy.

4- Đức phó-vương – hoàng-đệ của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến chầu Đức phó-vương tâu rằng:

- Muôn tâu Đức phó-vương, chúng hạ thần được biết Đức phó-vương giữ gìn kurudhamma.

Kính xin Đức phó-vương có tâm từ ban kurudhamma cho chúng hạ thần.

Đức phó-vương truyền dạy rằng:

-Này các khanh! Ta có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ ta hoài nghi về kurudhamma (pháp ngũ-giới) của ta nên ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) đến cho các khanh.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một buổi chiều, ta đến chầu Đức Chánh-vương bằng xe ngựa, ta nghĩ, khi đến chầu Đức hoàng-huynh xong sẽ xin cáo lui trở về. Nhưng khi chầu xong, lại gặp phải cơn mưa lớn có sấm sét, Đức hoàng-huynh khuyên bảo ta nên nghỉ lại đêm tại cung điện.

Phần người lái xe và đoàn người thuộc hạ tùy tùng nghĩ rằng:

‘Đức phó-vương sẽ trở về nên họ chờ đợi suốt đêm đến sáng.’

Sáng ngày hôm sau, ta xin phép ra về, khi ra đến cửa, ta thấy người lái xe và đoàn người thuộc hạ tùy tùng đứng chờ suốt đêm, bị trời mưa ướt phải chịu cực khổ.

Ta cảm thấy ân hận và thương cảm cho người lái xe và đoàn người thuộc hạ tùy tùng. Ta là người giữ gìn kurudhamma mà làm khổ người khác.”

Như vậy, giới của ta có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho các khanh.

Các sứ giả tâu rằng:

- Muôn tâu Đức phó-vương, Đức phó-vương không có tác-ý làm khổ người khác, còn giới của Đức phó-vương không hề bị ô nhiễm một điều-giới nào cả.

Vậy, kính xin Đức phó-vương có tâm từ ban kuru-dhamma cho chúng hạ thần.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi Đức phó-vương trên tấm biển vàng xong, Đức phó-vương truyền dạy rằng:

- Này các khanh! Mặc dù vậy, ta vẫn chưa hài lòng, ta xin giới thiệu đến vị bà-la-môn quân sư của Đức-vua, là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch và trọn vẹn.

Các khanh nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi vị quân sư ấy.

5- Vị bà-la-môn quân sư của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến hầu vị quân sư bà-la-môn thưa:

- Kính thưa Ngài quân sư, chúng hạ thần được biết quân sư giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Kính xin Ngài quân sư có tâm từ ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Vị bà-la-môn quân sư dạy rằng:

-Này các ngươi! Ta có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ ta hoài-nghi về kuru-dhamma của ta nên ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) đến cho các ngươi.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, ta đến chầu Đức-vua, trên đường đi ta thấy một chiếc xe mới xinh đẹp, được biết chiếc xe ấy của Đức-vua lân bang đem đến kính dâng lên Đức-vua Dhanañcayakorabya. Ta thầm nghĩ rằng:

‘Ta đã già rồi, nếu được Đức-vua ban chiếc xe này cho ta, ta sẽ dùng chiếc xe này làm phương tiện đi lại chầu Đức-vua thì tốt biết dường nào!’

Khi ta vào chầu Đức-vua, sứ giả tâu kính dâng chiếc xe lên Đức-vua. Đức-vua khen ngợi chiếc xe rất xinh đẹp, rồi truyền dạy rằng:

-Này sứ giả, các ngươi nên kính dâng chiếc xe xinh đẹp này đến vị bà-la-môn quân sư khả kính của Trẫm.

Ban đầu ta không chịu nhận nhưng Đức-vua khẩn khoản mãi ta mới chịu nhận. Vì ta là vị quân sư giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới), sao lại phát sinh tâm tham muốn trong của cải của người khác.”

Như vậy, giới của ta có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, ta phân vân không muốn ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho các ngươi.

Các sứ giả thưa rằng:

- Kính thưa Ngài quân sư, tâm nghĩ tham muốn của cải người khác thì chưa phạm điều-giới được, bởi vì phạm điều-giới phải do thân và khẩu.

Vậy, kính xin Ngài quân sư có tâm từ ban kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng hạ thần.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi vị quân sư trên tấm biển vàng xong, vị quân sư truyền bảo rằng:

-Này các ngươi! Mặc dù vậy, ta vẫn chưa hài lòng, ta xin giới thiệu đến vị quan đo điền thổ của Đức-vua, là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Các ngươi nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ vị quan ấy.

6- Vị quan đo điền thổ của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến hầu vị quan đo điền thổ thưa:

- Kính thưa vị quan đo điền thổ, chúng tôi được biết quan lớn giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Kính xin quan lớn có tâm từ ban kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Vị quan đo điền thổ bảo rằng:

- Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài-nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, tôi có phận sự đo điền thổ ở tỉnh ngoài, tôi lấy sợi dây cột vào hai đầu cây, người chủ đất cầm một đầu, còn tôi cầm một đầu.

Khi tôi giăng dây để đo đất, đầu cây của tôi nhằm ngay vào hang con cua, tôi nghĩ rằng:

‘Nếu tôi cắm cây ngay vào hang con cua thì có thể làm con cua chết, nếu tôi cắm cây tránh quá hang con cua thì bị thâm lạm đất nhà nước, nếu tôi cắm cây trước hang con cua thì thiếu hụt đất của chủ điền.’

Tôi nghĩ nếu trong hang này có con cua thì tôi đã thấy nó, tôi đã xem xét không nhìn thấy con cua nào, có lẽ nó đã bỏ hang đi rồi.

Khi tôi cắm cây nhằm ngay vào hang cua, tôi lắng nghe có tiếng kêu, tôi nghĩ có lẽ tôi đã cắm cây đụng phải con cua bị đau nhưng tôi không biết con cua sống chết thế nào.”

Như vậy, giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả thưa rằng:

-Kính thưa vị quan đo điền thổ, Ngài không có tác-ý sát-sinh, dù con cua có chết hay không, quan lớn cũng không phạm điều-giới sát-sinh.

Vậy, xin quan lớn có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi vị quan đo điền thổ trên tấm biển vàng xong, vị quan đo điền thổ bảo rằng:

- Thưa quý vị, mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hài lòng, tôi xin giới thiệu người đánh xe ngựa của Đức-vua, là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Các người nên đến xin ghi chép kurudhama (pháp ngũ-giới) từ ông ấy.

7- Người đánh xe ngựa của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến gặp người đánh xe ngựa cho Đức-vua thưa rằng:

- Thưa anh đánh xe ngựa, chúng tôi được biết anh giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Xin anh có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Người đánh xe ngựa thưa rằng:

- Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài-nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, tôi đánh xe ngựa đưa Đức-vua du lãm vườn thượng uyển. Đức-vua mải ngắm cảnh, đến quá chiều Đức-vua mới ngự lên xe hồi cung.

Chiếc xe đi được một đoạn đường, tôi nhìn thấy bầu trời mây kéo đen nghịt, báo hiệu trời sắp mưa, lo Đức-vua sẽ bị mưa ướt nên tôi dùng roi báo hiệu cho ngựa chạy nhanh về cung điện.

Bắt đầu từ đó về sau, mỗi khi đến đoạn đường này, con ngựa vụt chạy nhanh với ý nghĩ nơi đoạn đường này có nguy hiểm nên trước đây người lái xe đã báo hiệu cho chạy nhanh.

Sự thật, hôm ấy trời mưa ướt hay không chính tôi không có lỗi, thế mà tôi dùng roi ra hiệu cho ngựa chạy nhanh, tôi đã làm khổ con ngựa từ ngày ấy cho đến nay.

Tôi cảm thấy ân hận thương cảm cho con ngựa.

Vì tôi là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) không nên làm khổ chúng-sinh khác…”

Như vậy giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả nói rằng:

- Này anh đánh xe ngựa, tâm của anh không nghĩ làm khổ đến con ngựa, còn ngũ-giới của anh không bị phạm một điều-giới nào cả.

Vậy, xin anh có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi người đánh xe ngựa trên tấm biển vàng xong, người đánh xe ngựa khuyên rằng:

- Thưa quý vị, mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hài lòng, tôi xin giới thiệu ông phú hộ là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch và trọn vẹn.

Quý vị nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi ông ấy.

8- Ông phú hộ ở kinh-thành Indapatta giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến gặp ông phú hộ thưa rằng:

- Thưa ông phú hộ, chúng tôi được biết ông giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Kính xin ông có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Ông phú hộ thưa rằng:

-Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, tôi đi thăm ruộng của tôi, xem xét lúa sāli đến thời kỳ chín, có thể gặt được chưa.

Trước khi trở về, tôi sai người cắt một nắm đem về, sau đó tôi nghĩ rằng:

‘Lúa ruộng của tôi chưa được đóng thuế cho nhà nước, nhưng tôi đã đem về một nắm lúa mà tôi chưa đóng thuế.’

Tôi là người giữ gìn kurudhamma lẽ ra, tôi phải đóng thuế lúa cho nhà nước xong rồi, phần lúa còn lại là phần của tôi mới đem về nhà được, tôi đã vô ý.”

Như vậy, giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả thưa rằng:

-Thưa ông phú hộ, ông không có tác-ý trộm-cắp, nên ngũ-giới của ông không bị phạm điều-giới nào cả.

Vậy, xin ông có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi ông phú hộ trên tấm biển vàng xong, ông phú hộ khuyên bảo rằng:

- Thưa quý vị, mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hài lòng, tôi xin giới thiệu vị quan trông coi kho thóc gạo là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Quý vị nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi vị quan ấy.

9- Vị quan trông coi kho thóc gạo của Đức-vua giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến tìm gặp vị quan trông coi kho thóc gạo của Đức-vua rồi thưa rằng:

- Thưa quan trông coi kho thóc gạo, chúng tôi được biết ông giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới).

Kính xin quan có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Vị quan trông coi kho thóc gạo thưa rằng:

-Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài-nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, tôi ngồi trước cửa kho, dùng thẻ để đếm lúa đem nạp vào kho thóc lúa nhà Vua.

Trong khi đang đếm lúa thì trời mưa, vì sợ trời mưa ướt lúa tôi vội vàng sai người đong lúa đóng thuế nạp vào kho. Khi công việc xong rồi, tôi nghĩ lại rằng:

‘Trong khi vội vàng lỡ đếm nhầm, nếu thiếu lúa thì có hại cho nhà nước, hoặc nếu dư lúa thì có hại cho dân chúng.’

Tôi là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) mà không thận trọng trong phận sự của mình.”

Như vậy, giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả thưa rằng:

-Thưa quan, quan không có tác-ý gì, nên quan không thể phạm điều-giới nào cả.

Vậy, xin quan có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi vị quan trông coi kho thóc gạo trên tấm biển vàng xong, vị quan ấy khuyên bảo rằng:

- Thưa quý vị, mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hài lòng, tôi xin giới thiệu người đóng cửa thành là người giữ gìn kurudhamma trong sạch và trọn vẹn.

Quý vị nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi người ấy.

10- Người đóng cửa thành giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến gặp người đóng cửa thành thưa rằng:

- Thưa anh, chúng tôi được biết anh giữ gìn kuru-dhamma (pháp ngũ-giới).

Xin anh có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Người đóng cửa thành thưa rằng:

- Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài-nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) đến cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một hôm, đến giờ đóng cửa thành, tôi đã thông báo lớn tiếng đến 3 lần. Khi ấy, một người nghèo với một đứa em gái vào rừng tìm củi và cỏ xong, đang trên đường đi vào cửa thành. Hai anh em vội vàng chạy đến, cũng vừa đúng lúc đóng cửa thành. Tôi quở trách người ấy rằng:

- Anh không biết có Đức-vua trong thành, không biết đến giờ đóng cửa thành hay sao? Mà anh ham vui dẫn vợ đi dạo chơi trong rừng mãi cho đến giờ này mới trở về?

Anh chàng nghèo ấy đáp rằng:

- Này thưa anh! Người con gái ấy là em của tôi, không phải là vợ.

Tôi nghĩ lại rằng:

‘Em gái của anh ấy mà ta nói là vợ.’

Tôi là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới), tôi không biết rõ nên nói lời không chân thật, tôi rất ân hận.”

Như vậy, giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả bảo rằng:

-Này anh đóng cổng thành, người nào nói theo sự hiểu lầm của mình, thì người ấy không gọi là phạm điều-giới nói-dối.

Vậy, xin anh có tâm từ truyền lại kurudhammma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Sau khi các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi người đóng cửa thành trên tấm biển vàng xong, người đóng cửa thành ấy khuyên rằng:

- Thưa quý vị, mặc dù vậy, tôi vẫn chưa hài lòng, tôi xin giới thiệu cô kỹ-nữ Vaṇṇadāsī là người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch và trọn vẹn.

Quý vị nên đến xin ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) từ nơi cô kỹ-nữ ấy.

11- Cô kỹ-nữ trong kinh-thành Indapattha giữ gìn Kurudhamma

Các sứ giả đến gặp cô kỹ-nữ Vaṇṇadasī, thưa rằng:

- Thưa cô, chúng tôi được biết cô giữ gìn kuru-dhamma (pháp ngũ-giới).

Xin cô có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Cô kỹ-nữ Vaṇṇadasī thưa rằng:

- Thưa quý vị, tôi có giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) thật, nhưng bây giờ tôi hoài-nghi về kurudhamma của tôi nên tôi phân vân không muốn truyền lại kuru-dhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Nguyên do câu chuyện xảy ra như thế này:

“Một thuở nọ, một chàng trai trẻ đến tìm tôi và trao trước cho tôi một số tiền 1.000 kahāpana, rồi bảo với tôi rằng:

- Này cô! Cô hãy chờ, tôi sẽ trở lại.

Chàng trai trẻ ấy ra đi, tôi đã chờ đợi suốt 3 năm ròng rã vẫn không thấy chàng trai trẻ ấy trở lại sống chung với tôi.

Trong suốt thời gian 3 năm trường ấy, tôi không dám nhận tiền bạc của cải từ một người đàn ông nào khác, tôi giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, không để phạm điều-giới nào.

Vì vậy, tôi phải chịu sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu, đến lúc tôi không thể nào tiếp tục chịu đựng kéo dài cuộc sống như vậy được nữa.

Khi tôi đến tòa trình bày rằng:

- Kính thưa quan tòa, xin tòa phán xét trường hợp của tôi như vầy:

‘Cách đây tròn đúng 3 năm, một chàng trai trẻ trao trước cho tôi số tiền 1.000 kahāpana, rồi bảo với tôi rằng:

- Này cô! Cô hãy chờ, tôi sẽ trở lại.

Tôi đã chờ đợi chàng trai trẻ ấy tròn đúng 3 năm rồi, mà vẫn không thấy chàng trai trẻ ấy trở lại tìm tôi, tôi giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, không để phạm điều-giới nào.

Vì vậy, cuộc sống của tôi càng ngày càng túng thiếu, nghèo khổ. Đến nay, tôi không thể tiếp tục chịu đựng kéo dài cuộc sống như vậy được nữa.’

Vậy, kính xin quý tòa phán xét giải quyết hoàn cảnh khổ của tôi thế nào cho được công minh.

Tòa phán xét rằng:

- Kể từ nay, nàng có thể nhận tiền bạc từ người đàn ông khác được.

Sau khi tòa phán xét xong, tôi vừa bước ra khỏi tòa, thì có một người đàn ông lại tìm tôi, trao cho tôi một số tiền 1.000 kahāpana. Tôi vừa đưa tay ra định nhận, nhưng chưa kịp nhận. Ngay khi ấy, chàng trai trẻ cách đây đúng 3 năm về trước xuất hiện, vừa thấy chàng trai trẻ ấy tôi liền rút tay lui lại và kêu lên rằng:

- Chàng trai trẻ năm xưa đã đến rồi! Tôi không thể nhận số tiền 1.000 kahāpana của ông được, xin ông thông cảm.

Chàng trai trẻ ấy hóa trở lại thành Đức-vua trời Sakka đứng trên hư không có hào quang sáng ngời, làm cho dân chúng trong thành đều vui mừng hớn hở.

Đức-vua trời Sakka truyền dạy rằng:

“Cách đây đúng 3 năm, Trẫm đã biến hóa thành một chàng trai trẻ trao cho cô kỹ nữ này 1.000 kahāpana, để thử lòng cô kỹ-nữ có giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn hay không.

Nay, Trẫm đã biết rõ cô kỹ-nữ ấy là người giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.”

Đức-vua trời Sakka khuyên dạy mọi người nên giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn sẽ được nhiều quả báu lớn lao.

Sau đó, Đức-vua trời Sakka ban phước lành cho tôi, trong nhà có đầy đủ 7 thứ báu vật và khuyên dạy rằng:

“Cô nên giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, chớ nên dể duôi trong mọi thiện-pháp cho đến trọn đời.

Sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, thọ hưởng mọi sự an-lạc cao quý trong cõi trời.”

Như vậy, tôi đã nhận số tiền 1.000 kahāpana từ chàng trai, nhưng tôi chưa làm xong bổn phận, lại còn đưa tay định nhận 1.000 kahāpana từ một người đàn ông khác, tuy tôi đưa tay nhưng chưa kịp nhận số tiền ấy.”

Như vậy, ngũ-giới của tôi có bị ô nhiễm hay không?

Vì vậy, nên tôi phân vân không muốn truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho quý vị.

Các sứ giả thưa rằng:

-Này cô Vaṇṇadāsī! Như vậy, ngũ-giới của cô không bị ô nhiễm, vẫn còn trong sạch và trọn vẹn.

Vậy, xin cô có tâm từ truyền lại kurudhamma (pháp ngũ-giới) cho chúng tôi.

Các sứ giả ghi chép kurudhamma (pháp ngũ-giới) nơi cô kỹ-nữ trên tấm biển bằng vàng.

Như vậy, các sứ giả của Đức-vua Kāliṅga ở kinh-thành Dantapura đã ghi chép kurudhamma từ 11 người giữ gìn kurudhamma (pháp ngũ-giới) trong sạch và trọn vẹn trên tấm biển vàng, rồi trở lại kinh-thành Dantapura, kính dâng tấm biển vàng ấy lên Đức-vua Kāliṅga.

Đức-vua Kāliṅga thực-hành nghiêm chỉnh theo kuru-dhamma trong sạch và trọn vẹn.

Cho nên, trong đất nước Kāliṅga của Đức-vua được mưa thuận gió hòa, 3 nạn tai không còn nữa, đất nước được thái bình thịnh vượng, dân giàu nước mạnh, dân chúng sống được an cư lạc nghiệp.

Phần Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya tiếp tục thực-hành bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật như bố-thí, trì giới, v.v… cho đến trọn đời.

Đức-vua Bồ-tát cùng những người trung tín sau khi chết, đại-thiện-nghiệp giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn cho quả đều được tái-sinh lên cõi trời, được hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời.

Đức-Phật thuật lại câu chuyện tiền-kiếp của Ngài, những người nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, phát sinh đức-tin trong sạch, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai

Có số người phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới suốt đời.

Tích Kurudhammajātaka liên quan đến kiếp hiện-tại

Trong tích Kurudhammajātaka này, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh làm Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya trong thời quá-khứ.

Đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian thì hậu-kiếp của các nhân vật trong tích Kurudhammajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại như sau:

- Mẫu hậu của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại này là Mẫu-hậu Mahāmayādevī.

- Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức Chánh-vương, nay kiếp hiện-tại này là Chánh-cung Hoàng-hậu Yasodharā, về sau xuất gia trở thành Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Yasodharātherī.

- Đức phó-vương, Hoàng-đệ của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại này là Ngài Trưởng-lão Nandatthera.

- Vị Bà-la-môn quân sư, nay kiếp hiện-tại này là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapatthera.

- Vị quan đo điền thổ, nay kiếp hiện-tại này là Ngài Trưởng-lão Kaccayanatthera.

- Người lái xe ngựa của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng-lão Anuruddhatthera.

- Ông phú hộ kinh-thành Indapattha, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputtatthera.

- Vị quan trông coi thóc lúa, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallānatthera.

- Người đóng cửa thành, nay kiếp hiện tại này là Ngài Trưởng-lão Puññatthera.

- Cô kỹ-nữ Vaṇṇadāsī, nay kiếp hiện-tại này là Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇattherī.

- Đức-vua Bồ-tát Dhanañcayakorabya, nay kiếp hiện-tại này chính là Đức-Phật Gotama.

Như vậy, người giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn rất quan trọng, có khả năng đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Trong kiếp hiện-tại, người giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn có tầm quan trọng ảnh hưởng đến những người khác, chúng-sinh khác tùy theo địa vị của mỗi người trong đời.

- Nếu Đức-vua là người giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì trong nước được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, thần dân thiên hạ được sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, an cư lạc nghiệp.

- Nếu gia chủ trong gia đình là người giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì toàn thể những người trong gia đình được sống an lành hạnh phúc.

- Nếu hai vợ chồng đều giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì vợ chồng con cái được sống hạnh-phúc an-lạc.

- Nếu người nào giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn thì chính người ấy đã tạo những đại-thiện-nghiệp giữ gìn ngũ-giới không chỉ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai đối với mình, mà quả tốt, quả an-lạc ấy còn ảnh hưởng đến những người thân gần gũi với mình nữa.

Tám dòng phước-thiện

Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy y Tam-bảo: quy-y Đức-Phật-bảo, quy-y Đức-Pháp-bảo, quy-y Đức-Tăng-bảo và thọ trì ngũ-giới là tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say.

Như vậy, Tam-bảo và ngũ-giới gồm có 8 pháp đó là 8 dòng phước-thiện triền miên vô tận.

* Trong 8 dòng phước-thiện này, ngũ-giới 5 dòng phước-thiện cũng là 5 pháp đại-thí đối với tất cả chúng-sinh vô lượng.

Như Đức-Phật dạy trong bài kinh Abhisandasutta [21] có 8 chi-pháp được tóm lược ý nghĩa như sau:

- Này chư tỳ-khưu! Tám dòng phước, dòng thiện này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Tám dòng phước, tám dòng thiện ấy là thế nào?

1- Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhất sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

2- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhì sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

3- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ ba sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

- Này chư tỳ-khưu, năm loại bố-thí gọi là 5 đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

Năm loại bố-thí gọi là 5 đại-thí ấy là thế nào?

4- Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự sát-sinh, hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh.

- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ tử hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh-mạng của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài.

Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh-mạng, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhất gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tư, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

5- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự trộm-cắp, hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp.

- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài.

Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

-Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhì gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ năm, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

6- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự tà-dâm, hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm.

- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (vợ, chồng, con của người khác), bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài.

Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn hạnh phúc gia đình, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ ba gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ sáu, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

7- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh-thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự nói-dối, hoàn toàn tránh xa sự nói-dối.

- Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự nói-dối, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây thiệt hại đến chúng-sinh), bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài.

Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn không thiệt hại, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ tư gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ bảy, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

8- Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

-Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây ra tai hại), bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài.

Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, không gây ra sự tai hại, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ năm gọi là đại-thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng:

Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

- Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tám, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

- Này chư tỳ-khưu! Đó là tám dòng phước, dòng thiện sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.”

Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước-thiện như sau:

“Aṭṭhime bhikkhave puññābhisandā kusalābhisandā.”

- Này chư tỳ-khưu! Tám dòng phước, dòng thiện.

* Abhisanda: Dòng là một danh từ cụ thể, diễn tả sự trôi chảy không ngừng. Trong bài kinh này, Đức-Phật đã cụ thể hóa phép quy y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước (puññābhisandā), dòng thiện (kusalā-bhisandā) đó là đại-thiện-tâm sinh rồi diệt, trôi chảy thành dòng sinh diệt theo các lộ-trình-tâm.

Để tám dòng phước, dòng thiện này được phát triển triền miên là nhờ người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hướng tâm quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo, và có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa những đối-tượng phạm giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.

Như vậy 3 phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới là thường-giới gồm có 8 điều gọi là tám dòng phước, tám dòng thiện này sẽ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt làm phước-duyên dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4

Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Thọ phép quy-y tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là hạng phàm-nhân chưa phải là bậc Thánh-nhân, trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi vì dể duôi (thất niệm) nên dễ phạm điều-giới.

Vậy, mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đến trước bàn thờ Đức-Phật, đảnh lễ Đức-Phật, rồi tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới của mình trở lại, để cho 8 dòng phước, 8 dòng thiện đó là đại-thiện-tâm làm phận sự tác-hành-tâm trong các dục-giới lộ-trình-tâm được liên tục diễn tiến, không bị gián đoạn, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt làm phước-duyên sâu sắc trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, biết giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ không chỉ tạo đại-thiện-nghiệp ngũ-giới; mà còn gọi là 5 đại-thí bố-thí sự vô hại, bố-thí sự an toàn, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài; nên cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, nên không có chúng sinh nào làm khổ người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Tính ưu việt của người thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

Trường hợp người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, gặp lại người bạn cũ là người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, người bạn cũ mời cận-sự-nam vào quán uống rượu, bia, chuyện trò với nhau.

Cả hai người này đều phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, cùng tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say. Vậy, người nào tạo ác-nghiệp nặng? Người nào tạo ác-nghiệp nhẹ?

Câu hỏi này tương tự câu hỏi của Đức-vua Milinda bạch hỏi Ngài Trưởng-lão Nāgasena.

Đức-vua Milinda [22] bạch hỏi đại ý như sau:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão Nāgasena, một người không hiểu biết về ác-nghiệp và một người hiểu biết về ác-nghiệp.

Nếu cả hai người đều tạo ác-nghiệp giống nhau thì người nào tạo ác-nghiệp nặng? Người nào tạo ác-nghiệp nhẹ? Bạch Ngài.

Ngài Trưởng-lão Nāgasena giải đáp rằng:

- Thưa Đại-vương, người không hiểu biết (ajānanto) về ác-nghiệp và người hiểu biết về ác-nghiệp (jānanto) cùng nhau tạo ác-nghiệp giống nhau thì người không hiểu biết về ác-nghiệp tạo ác-nghiệp nặng, còn người hiểu biết về ác-nghiệp thì tạo ác-nghiệp nhẹ.

Nghe như vậy, Đức-vua Milinda bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão Nāgasena, nếu như vậy, thì những vị quan, quân lính trong triều đình của con, người nào không hiểu biết quốc-pháp mà phạm pháp thì con phải hành phạt nặng, trị tội nặng đối với người ấy có phải vậy không? Bạch Ngài.

Ngài Trưởng-lão giải thích bằng ví dụ rằng:

- Thưa Đại-vương, Đại-vương hiểu thế nào về điều này:

Một thỏi sắt được nung cháy đỏ, một người không hiểu biết thỏi sắt nóng mà đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, và một người khác hiểu biết rõ thỏi sắt nóng ấy mà bất đắc dĩ phải đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy.

Trong hai người đều đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, người nào bị cháy phỏng nặng nhiều? Người nào bị cháy phỏng nhẹ?

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão Nāgasena, dĩ nhiên người không hiểu biết thỏi sắt nóng mà đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy thì chắc chắn phải bị cháy phỏng nặng nhiều. Còn người hiểu biết thỏi sắt nóng mà bất đắc dĩ phải đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy thì bị cháy phỏng nhẹ. Bạch Ngài.

- Thưa Đại-vương, cũng như vậy, người nào không hiểu biết về ác-nghiệp mà tạo ác-nghiệp thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng. Còn người nào hiểu biết về ác-nghiệp, mà bất đắc dĩ phải tạo ác-nghiệp thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.

Dựa theo lời giải đáp của Ngài Trưởng-lão Nāgasena, nên hiểu rằng:

* Người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, và người bạn cũ không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới cùng nhau phạm điều-giới uống rượu, bia đều tạo ác-nghiệp uống rượu, bia thì người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nặng. Còn người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, rồi bất đắc dĩ phạm điều-giới uống rượu, bia ấy, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nhẹ.

Nguyên nhân vì sao?

* Người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, vốn là người không có đức-tin nơi Tam-bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, khi họ phạm điều-giới uống rượu, bia với tham-tâm hoan hỷ, nên tạo ác-nghiệp uống rượu, bia ấy, rồi họ không biết ăn năn hối lỗi, không biết tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say. Cho nên, người ấy tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say nặng hơn nhiều.

* Còn người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, vốn là người có đức-tin nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi. Song vì cả nể bạn cũ, hoặc vì phiền-não tham muốn xui khiến phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say với bạn cũ, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say nhẹ hơn nhiều. Bởi vì sau đó, cận-sự-nam biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn sám hối, rồi tự nguyện xin thọ trì ngũ-giới trở lại, trong đó có giới:

“Con xin thọ trì điều-giới có tác-ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp.”

Sau khi thọ trì ngũ-giới xong rồi, người cận-sự-nam ấy có ngũ-giới trở lại như trước.

Người cận-sự-nam ấy giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn để làm nền tảng cho mọi thiện-tâm phát sinh và phát triển.

Đó là tính ưu việt của cận-sự-nam, cận-sự-nữ, đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Trước tạo ác-nghiệp sau tạo thiện-nghiệp

Thời gian trước, người nào gần gũi thân cận với bạn ác (pāpamitta) nên tạo ác-nghiệp dù nặng, dù nhẹ; nhưng thời gian sau, người ấy được gần gũi thân cận với bạn thiện (kalyāṇamitta), đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, hoặc bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, trở thành người cận-sự-nam (hoặc cận-sự-nữ) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, rồi từ đó, tránh xa mọi ác-nghiệp, cố gắng tạo mọi thiện-nghiệp.

Nhờ các đại-thiện-nghiệp này có thể làm giảm được tiềm năng cho quả của ác-nghiệp ấy, hoặc nhờ thiện-nghiệp bậc cao làm cho ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Thật vậy, * như trường-hợp Đức-vua Ajātasattu, ngự tại kinh-thành Rājagaha trị vì đất nước Māgadha.

Thời gian trước, Đức-vua Ajātasattu thân cận với tỳ-khưu Devadatta, nghe lời khuyên bảo của tỳ-khưu Deva-datta, nên Đức-vua Ajātasattu đã phạm điều-giới sát-sinh giết Đức-Phụ-vương Bimbisāra, đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội.

Sau đó, Đức-vua Ajātasattu biết ăn năn hối hận về tội lỗi của mình, vô cùng khổ tâm. Khi ấy, nếu Đức-vua Ajātasattu băng hà thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy suốt thời gian nhiều đại-kiếp trái đất.

Nhờ vị thái y Jīvaka thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, khi ấy, Đức-Phật thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ Đức-vua Ajātasattu.

Sau khi lắng nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, nên phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, kính xin Đức-Phật công nhận Đức-vua Ajātasattu là cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Khi ấy, Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối tội-lỗi giết Đức-Phụ-vương của mình, kính xin Đức-Phật chứng minh.

Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam đặc biệt có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tận tâm phụng sự Tam-bảo.

Thật vậy, Đức-vua Ajātasattu là người đã hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất tại động Sattapaṇṇi, gần kinh-thành Rājagaha, đất nước Māgadha, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Đức-vua Ajātasattu tận tâm phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời.

Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ đại-thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo và các đại-thiện-nghiệp khác nhất là đại-thiện-nghiệp hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất ấy làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi) suốt 60.000 năm mà thôi.

Đức-Phật thọ ký rằng:

“Đức-vua Ajātasattu sau khi băng hà, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương, chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi) từ miệng nồi chìm xuống đáy nồi khoảng thời gian 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi khoảng thời gian 30.000 năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy. Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia trở thành Đức-Phật Độc-Giác có

danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī [23].”

* Trường-hợp kẻ cướp sát nhân giết chết hơn ngàn người, rồi cắt một đầu ngón tay trỏ xâu làm vòng đeo cổ, nên có biệt danh gọi là Aṅgulimāla sống trong rừng sâu.

Một hôm, Đức-Phật Gotama ngự vào khu rừng để tế độ kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla. Khi nhìn thấy Đức-Phật đang bước đi khoan thai, kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla cầm gươm chạy đuổi theo để giết Đức-Phật, dù y đã chạy nhanh hết sức lực suốt 3 do-tuần mà vẫn không đuổi kịp Đức-Phật, y đuối sức đành dừng lại, rồi gọi rằng: Sa-môn hãy dừng lại!

Đức-Phật vẫn bước đi khoan thai, rồi truyền dạy rằng:

-Này Aṅgulimāla! Như-lai đã dừng lâu rồi. Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi.

Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla vô cùng ngạc nhiên, suy nghĩ rằng:

“Những sa-môn dòng Sakya thường nói lời chân thật, làm như thế nào nói như thế ấy, nói như thế nào làm như thế ấy. Nhưng trong trường-hợp này, vị sa-môn đang bước đi, mà lại nói:

“Như-lai đã dừng lâu rồi”. Còn ta đã dừng lại rồi, vị sa-môn nói là “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi”. Như vậy, nghĩa là gì?”

Aṅgulimāla bèn hỏi Đức-Phật rằng:

- Này vị sa-môn! Sự thật ông đang bước đi mà lại nói “Như-lai đã dừng lâu rồi”. Còn tôi đã dừng lại rồi, ông lại nói là “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi.”

Ông nói vậy nghĩa là gì?

Đức-Phật giảng giải rằng:

- Này Aṅgulimāla! Sự thật “Như-lai đã dừng lâu rồi” nghĩa là Như-lai đã từ bỏ giết hại tất cả mọi chúng-sinh từ lâu rồi. Còn con chưa từ bỏ giết hại chúng-sinh. Vì vậy, Như-lai nói rằng: “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi”.

Lắng nghe Đức-Phật giảng giải như vậy, kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla liền thức tỉnh ngay, rồi ném các loại vũ khí xuống hố sâu, đồng thời biết rõ vị sa-môn này chính là Đức-Phật nên đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là Bậc Tôn-Sư của chư-thiên, phạm-thiên, nhân-loại. Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi ngự đến khu rừng này để tế độ con thoát khỏi sự si mê lầm lạc, được thức tỉnh trở lại.

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi ác-nghiệp. Kính xin Ngài chứng minh lòng chân thành sám hối tội-lỗi của con.

Sau đó, Aṅgulimāla đến quỳ đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật, cầu xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Đức-Phật có Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ phước-duyên của Aṅgulimāla có thể phát sinh đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, nên Đức-Phật đưa bàn tay phải ra, chỉ bằng ngón tay trỏ mà truyền dạy rằng:

“Ehi bhikkhu! ...”

-Này Aṅgulimāla! Con được trở thành tỳ-khưu như ý nguyện. Pháp mà Như-lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn.

Sau khi Đức-Phật vừa truyền dạy xong như vậy, Aṅgulimāla trở thành vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, có tăng tướng trang nghiêm như một vị Trưởng-lão có 60 tuổi hạ.

Đức-Phật ngự trở về ngôi chùa Jetavana có vị tỳ-khưu Aṅgulimāla theo sau. Về sau không lâu, vị tỳ-khưu Aṅgulimāla một mình ở nơi thanh vắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán. Khi ấy, tại nơi thanh vắng, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla vô cùng hoan hỷ thốt lên câu kệ rằng:

“Yo ca pubbe pamajjitvā, pacchā so nappamajjati.
So’maṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā.[24]

Người nào trước dể duôi thất niệm,

Sau, người ấy không dể duôi có chánh-niệm,
Thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.

Hành-giả ấy làm xán lạn cuộc đời mình,
Như vầng trăng thoát ra khỏi đám mây.

Khi Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy, được lưu trữ ở trong tâm từ vô-thủy trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi ác-nghiệp, mọi đại-thiện-nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosi-kamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa, bởi vì bậc Thánh A-ra-hán, không còn tái-sinh kiếp sau nữa.

Đó là tính ưu việt của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đã thọ phép quy-y Tam-bảo và có ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn.

(Xong phần ngũ-giới là thường-giới)



[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Mahākāla upāsakavatthu.

[2] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kāḷayakkhinīvatthu

[3] Dhammapadagāthā thứ 5 trong tích Kāḷayakkhinīvatthu.

[4] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Sāmāvatīvatthu.

[5] Người chồng bỏ đứa con nhỏ chết. Kiếp sau của người chồng ấy, khi được tái-sinh đầu thai làm người, bị người ta bỏ chết 7 lần, nhưng nhờ phước-thiện hộ mạng nên không chết.

[6] Khu. Bộ Chú-giải Petavatthu, Tirokuḍḍapetavatthuvaṇṇanā.

[7] Vị quan thâu thuế này là tiền-kiếp của Đức-vua Bimbisāra.

[8] Bhaddakappa là kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống có 5 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā-gamana, Đức-Phật Kassapa, Đức-Phật Gotama, và sẽ có Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian trong thời vị-lai, cùng trong kiếp trái đất này.

[9] Asaṅkhyeyya tính theo số lượng, số 1 đứng trước 140 số 0 (số không).

[10] Bộ Khuddakanikāya, bộTherīgāthā, tích Isidāsitherīgāthā.

[11] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Bālavagga, Aññatarapurisavatthu.

[12] Dhammapadaṭṭhakathā, tích Aññatarapurisavatthu.

[13] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kapilamacchavatthu.

[14] Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ciñcāmāṇavikāvatthu.

[15] Chuyện xảy ra vào khoảng thời gian giữa hạ thứ 7 và hạ thứ 8 của Đức-Phật.

[16] Dhammapadaṭṭhakathā, tích Ciñcāmāṇavikāvatthu.

[17] Dhammapadaṭṭhakathā, Jarāvagga, Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu.

[18] Dhammapadagāthā thứ 155, 156.

[19] Jātakaṭṭhakathā, Udapānavagga, Kurudhammajātakavaṇṇnā.

[20] Kurudhammo nāma pañcasīlāni: Pháp kuru là tên gọi ngũ-giới.

[21] Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipātapāḷi, kinh Abhisandasutta.

[22] Trong bộ Milindapañhā.

[23] Dī, Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, Sāmaññaphalasuttavaṇṇanā, đoạn cuối.

[24] Dhammapadaṭṭhakathā, Lokavagga, Aṅgulimālattheravatthu.


Mục lục quyển 3 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08


Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10


[Đầu trang][Mục lục tổng quát]