NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN III
PHÁP-HÀNH GIỚI
(SĪLĀCĀRA)
CHƯƠNG V
Giới Của Bậc Xuất-Gia
“Anuttaraṃ puññakhettaṃ lokassa”
Chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.
Bậc sa-di là thuộc về dòng dõi đệ-tử của chư Đại-Trưởng-lão, Trưởng-lão kế thừa theo truyền thống dòng dõi của chư tỳ-khưu-Tăng để giữ gìn và duy trì giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Trong giới luật của Đức-Phật quy định người nam dưới 20 tuổi kể từ khi đầu thai trong bụng mẹ được phép xuất gia trở thành vị sa-di.
Giới và pháp-hành của vị sa-di
Lễ xuất gia trở thành sa-di,[1] Ngài Đại-Trưởng-lão thầy tế độ (upajjhāya) truyền thọ phép quy-y Tam-bảo: quy y Phật-bảo, quy y Pháp-bảo, quy y Tăng-bảo bằng tiếng Pāḷi từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana, và 10 byañjanabuddhi của văn phạm Pāḷi, và giới-tử cũng đọc lặp theo bằng tiếng Pāḷi từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana, và 10 byañjana-buddhi của văn phạm Pāḷi đến câu cuối lần thứ 3 rằng:
“Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”
Giới-tử đọc lặp theo“Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.”chấm dứt.
Nếu Ngài Đại-Trưởng-lão thầy tế độ (upajjhāya) và giới-tử cả hai đều phát âm từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana, và 10 byañjanabuddhi của văn phạm Pāḷi, gọi là ubhato suddhi: cả hai bên đều đúng thì cuộc lễ xuất-gia trở thành sa-di được thành-tựu, giới-tử trở thành vị sa-di trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, đồng thời 10 điều-giới của sa-di, 10 pháp hoại phẩm-hạnh của sa-di, 10 pháp hành phạt của sa-di, 75 điều-giới hành của sa-di, 14 pháp-hành của sa-di cùng thành tựu một lúc không trước không sau với vị tân sa-di ấy.
1-10 Điều-giới của vị sa-di
Vị sa-di có 10 điều-giới là thường-giới của vị sa-di, cần phải giữ gìn 10 điều-giới cho được trong sạch trọn vẹn suốt ngày đêm trong cuộc đời của vị sa-di như sau:
* 10 điều-giới của vị sa-di:
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự hành-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất-say là nhân sinh sự dể duôi.
6- Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự dùng vật thực phi thời.
7- Nacca-gīta-vādita-visūkadassanā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát là pháp nghịch với pháp-hành giới-định-tuệ.
8- Mālāgandha-vilepana-dhāraṇa-maṇḍana-vibhū-sanaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.
9- Uccāsayana-mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
10- Jātarūpa-rajata-paṭiggahanā veramaṇisikkhā-padaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự thọ nhận vàng bạc, châu báu.
2-10 Pháp hoại phẩm-hạnh của sa-di
Vị sa-di có 10 pháp hoại phẩm-hạnh của vị sa-di.
1-Sa-di có tác-ý sát-hại chúng-sinh dù nhỏ dù lớn.
2-Sa-di có tác-ý trộm-cắp của cải của người khác.
3-Sa-di có tác-ý hành-dâm với người hoặc súc vật.
4-Sa-di có tác-ý nói-dối, nói không đúng sự thậṭ
5-Sa-di có tác-ý uống rượu, bia và các chất say.
6-Sa-di có tác-ý nói xấu, chê trách Đức-Phật.
7- Sa-di có tác-ý nói xấu, chê trách Đức-Pháp.
8- Sa-di có tác-ý nói xấu, chê trách chư tỳ-khưu-Tăng.
9- 9-Sa-di có tác-ý tà-kiến thấy sai, hiểu lầm.
10-Sa-di có tác-ý hãm hại phẩm-hạnh tỳ-khưu-ni.
Nếu vị sa-di nào có tác-ý phạm điều-pháp sát-sinh dù nhỏ dù lớn cũng đã phạm điều-pháp sát-sinh thì vị sa-di ấy bị hoại phẩm-hạnh sa-di, vị sa-di không còn là vị sa-di nữa. Tuy bên ngoài thân còn mặc bộ y, nhưng bên trong tâm không còn phẩm-hạnh sa-di nữa.
Vì vậy, phẩm-hạnh của vị sa-di rất mong manh, nên vị sa-di cần phải biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, nhờ có đức-tin ấy nên có tác-ý trong đại-thiện-tâm giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn.
Nếu vị sa-di biết phẩm-hạnh của mình đã bị mất, bởi vì đã phạm 1 trong 10 pháp hoại phẩm-hạnh của sa-di, thì vị sa-di ấy nên đến hầu Ngài Trưởng-lão thầy tế độ, hoặc vị tỳ-khưu khác hiểu biết rành rẽ thông thạo về văn phạm Pāḷi, biết cách phát âm từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana, và 10 byañjanabuddhi của văn phạm Pāḷi, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở lại.
Sau khi, cả hai bên đều phát âm từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana, và 10 byañjana-buddhi, vị sa-di ấy đã phục hồi lại phẩm-hạnh của vị sa-di như trước.
3-10 Pháp-hành phạt của sa-di
Vị sa-di có 10 pháp hành phạt của vị sa-di:
1-Sa-di độ (dùng) vật thực phi thời (quá 12 giờ trưa).
2-Sa-di xem nhảy múa, nghe ca hát, thổi kèn, đánh đàn làm chướng ngại cho việc hành phạm-hạnh cao quý.
3-Sa-di trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn son, đeo tràng hoa (làm cho phát sinh tham-ái).
4-Sa-di nằm, ngồi chỗ quá cao và xinh đẹp.
5-Sa-di thọ nhận vàng bạc (tiền bạc).
6-Sa-di cố gắng làm mất lợi lộc đến các tỳ khưu.
7-Sa-di cố gắng làm mất lợi ích đến các tỳ-khưu.
8-Sa-di cố gắng làm mất chỗ ở của các tỳ-khưu.
9-Sa-di mắng nhiếc, hăm dọa các tỳ-khưu.
10-Sa-di nói lời chia rẽ các tỳ-khưu.
Sau khi hành phạt xong, vị sa-di kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở lại rồi giữ gìn giới cho được trong sạch và trọn vẹn.
4 -75 Điều-giới hành của sa-di
1- 10 điều-giới phần Parimaṇḍala.
2- 10 điều-giới phần Ujjagghika.
3- 10 điều-giới phần Khambhakata.
4- 10 điều-giới phần Sakkacca.
5- 10 điều-giới phần Kabaḷa.
6- 10 điều-giới phần Surusuru.
7- 15 điều-giới phần Pāduka.
4.1-10 Điều-giới phần Parimaṇḍala: Vòng quanh trước sau đều đặn
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên mặc y nội vòng quanh trước sau đều đặn.” (phần trên che kín lỗ rún, phần dưới phủ đầu gối 8 lóng tay).
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên mặc y vai trái vòng quanh trước sau đều đặn.” (phần trên trùm kín cổ hoặc chừa vai phải, phần dưới phủ đầu gối 4 lóng tay).
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên trùm y kín thân mình khi đi vào trong xóm làng.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên trùm y kín thân mình khi ngồi trong nhà.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên cẩn trọng tay chân đàng hoàng khi đi vào trong xóm làng.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên cẩn trọng tay chân đàng hoàng khi ngồi trong nhà.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, mắt nên nhìn xuống.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, mắt nên nhìn xuống.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên dỡ y khi đi vào trong xóm làng.”
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên dỡ y khi ngồi trong nhà.”
4.2-10 Điều-giới phần Ujjagghika: Cười lớn
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên cười lớn tiếng khi đi vào trong xóm làng.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên cười lớn tiếng khi ngồi trong nhà.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên nói nhỏ nhẹ khi đi vào trong xóm làng.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên nói nhỏ nhẹ khi ngồi trong nhà.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng thân không nên lắc lư.” (đi nghiêm chỉnh).
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà thân không nên lắc lư.” (ngồi nghiêm chỉnh).
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, tay không nên chuyển động, đánh đàng xa.” (đi nghiêm chỉnh).
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, tay không nên chuyển động.” (ngồi nghiêm chỉnh).
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, đầu không nên lắc lư.” (đi nghiêm chỉnh).
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, đầu không nên lắc lư.” (ngồi nghiêm chỉnh).
4.3-10 Điều-giới phần Khambhaka: Tay chống nạnh
1- Sa-di nên hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, tay không nên chống nạnh.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, tay không nên chống nạnh.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, không nên trùm đầu.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, không nên trùm đầu.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đi vào trong xóm làng, không nên đi nhón gót.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi trong nhà, tay không nên choàng khoanh vòng 2 đầu gối.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ nhận vật thực một cách cung kính.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta chỉ nhìn trong bát, khi thọ nhận vật thực.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ nhận vật thực canh vừa với cơm.”
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ nhận vật thực chỉ vừa miệng bát.”
4.4-10 Điều-giới phần Sakkacca: Cung kính đàng hoàng
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ thực một cách đàng hoàng.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta chỉ nhìn trong bát khi thọ thực.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ thực từ trên xuống dưới.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên thọ thực canh vừa với cơm.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thọ thực từ đỉnh giữa bát.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên che đậy canh, đồ ăn bằng cơm, vì tham muốn nhiều.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Không bị bệnh, ta không nên xin cơm, canh để dành cho ta dùng.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên nhìn bát người khác với ý chê trách.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên dùng miếng cơm quá lớn.”
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta nên vắt miếng cơm tròn.”
4.5-10 Điều-giới phần Kabaḷa: Miếng cơm
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Khi miếng cơm chưa đến miệng, ta không nên há miệng.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Khi đang dùng vật thực, ta không nên bỏ trọn các ngón tay vào miệng.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên nói chuyện lúc vật thực còn trong miệng.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên ném vật thực vào trong miệng.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên cắn vắt cơm từng miếng.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên độn cơm bên má như con khỉ.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên búng rảy ngón tay.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên để rơi rải rác.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên lè lưỡi ra khỏi miệng.”
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực không nên có tiếng chắp miệng.”
4.6-10 Điều nhóm Surusuru: Tiếng rột rột
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên có tiếng rột rột.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên liếm ngón tay.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên vét, nạo bình bát.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta dùng vật thực, không nên liếm môi.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thọ nhận ly nước, bằng tay dính vật thực.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên đổ nước rửa bát có hạt cơm, khi ở trong xóm làng.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh cầm dù trong tay.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh cầm gậy trong tay.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh cầm dao trong tay.”
10- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh cầm khí giới trong tay.”
4.7-15 Điều-giới phần Pāduka: Mang guốc
1- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh mang guốc.”
2- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh mang giày da.”
3- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi trên xe.”
4- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi hay nằm trên giường.”
5- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi khoanh tay choàng 2 đầu gối.”
6- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh đầu quấn (bịt) khăn.”
7- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không nên thuyết pháp cho người không bệnh đầu trùm khăn.”
8- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi dưới nền đất, không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi trên nệm.”
9- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta ngồi chỗ thấp, không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi chỗ cao.”
10-Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đứng, không nên thuyết pháp cho người không bệnh ngồi.”
11- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đang đi đằng sau, không nên thuyết pháp cho người đi đằng trước.”
12- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta đang đi bên lề đường, không nên thuyết pháp đến người đi giữa đường.”
13- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không có bệnh, không nên đứng tiểu tiện, đại tiện.”
14- Sa-di nên thực-hành rằng: “Ta không có bệnh, không nên tiểu tiện, đại tiện hoặc khạc nhổ nước miếng trên cỏ cây xanh.”
15- Sa-di nên thực-hành rằng:“Ta không có bệnh, không nên tiểu tiện, đại tiện hoặc khạc nhổ nước miếng trong nước.”
5-14 Pháp-hành của sa-di và tỳ-khưu
“Cuddasa khandhakavattāni nāma khandhake vattāni, kathaṃ?
Āgantukavattaṃ, āvasikavattaṃ, gamikavattaṃ, anumodanāvattaṃ, bhattaggavattaṃ, piṇḍacārika-vattaṃ, āraññakavattaṃ, senāsanavattaṃ, jhantā-gharavattaṃ, vaccakuṭivattaṃ, upajjhāyavattaṃ, siddhivihārikavattaṃ, ācariyavattaṃ, antevāsika-vattaṇcā’ ti.
Iminā cuddasa khandhakavattāni, etāni ca sabbesaṃ sabbadā ca yathārahaṃ caritabbāni.”
14 pháp-hành (vatta) như thế nào?
1- Pháp-hành của sa-di, tỳ khưu khách.
2- Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu chủ chùa.
3- Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu sắp đi xa.
4- Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu thuyết pháp làm cho thí-chủ hoan hỷ.
5- Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu ở trai đường.
6- Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đi khất thực.
7-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu sống ở trong rừng.
8-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu nơi chỗ ở.
9-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu trong nhà tắm hơi nóng.
10-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu nơi phòng vệ sinh.
11-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đối với Thầy tế độ.
12-Pháp-hành của Thầy tế độ đối với đệ-tử.
13-Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu đối với vị Thầy dạy.
14-Pháp-hành của Thầy dạy đối với đệ-tử.
Phần giải thích
1- Āgantukavatta: Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu khách đến chùa.
* Khi vào đến cổng chùa, nếu mang dép thì cởi dép, xếp dù, trên đầu trùm y phải dỡ xuống, xả y, mặc chừa vai phải nghiêm chỉnh, xung quanh trước sau đều đặn xong mới bước vào địa phận chùa.
* Khi vào chùa, rửa chân, lau chùi sạch sẽ, trước tiên vị sa-di, tỳ-khưu khách nên đến gặp vị tỳ-khưu chủ chùa, nếu vị tỳ-khưu chủ chùa có tuổi hạ cao hơn mình thì vị tỳ-khưu khách phải đảnh lễ vị tỳ-khưu chủ chùa, vấn an sức khỏe vị tỳ-khưu chủ chùa.
Nếu biết vị tỳ-khưu chủ chùa có tuổi hạ thấp hơn mình thì vị tỳ-khưu khách không nên đảnh lễ, mà chỉ cần vấn an sức khỏe vị tỳ-khưu chủ chùa mà thôi.
* Hỏi nhà tắm, nhà vệ sinh (chỗ đại tiện, tiểu tiện) chỗ ở nghỉ ngơi, để bát ở chỗ thấp có vật mềm lót dưới bát, đồ đạc cần dùng, dây phơi y, …
* Hỏi nơi xóm làng để đi khất thực, …
2- Āvāsikavatta: Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu chủ chùa.
Khi nhìn thấy vị tỳ-khưu khách đến chùa, vị tỳ-khưu chủ chùa đón rước tử tế, nhận y bát đồ dùng, … dâng nước rửa mặt, rửa chân, khăn lau mặt, lau chân, dâng dầu thoa chân, … xong, thỉnh vào ngồi phòng khách.
Nếu vị tỳ-khưu chủ chùa có tuổi hạ thấp hơn vị tỳ-khưu khách thì vị tỳ-khưu chủ chùa nên đảnh lễ vị tỳ-khưu khách, vấn an vị tỳ-khưu khách.
Nếu biết vị tỳ-khưu khách có tuổi hạ thấp hơn thì vị tỳ-khưu chủ chùa không nên đảnh lễ mà chỉ cần vấn an sức khỏe vị tỳ-khưu khách mà thôi.
Dâng nước uống, hoặc gọi học trò dâng nước uống, thuốc trị bệnh cho vị tỳ-khưu khách.
Sắp đặt phòng nghỉ ngơi, dâng thuốc trị bệnh, đồ dùng cần thiết đến vị tỳ-khưu khách một cách cung kính. Thỉnh vị tỳ-khưu đến chỉ nhà tắm, phòng vệ sinh.
Nếu vị sa-di, tỳ-khưu khách ở lâu ngày thì vị tỳ-khưu chủ chùa chỉ dẫn xóm làng đi khất thực, trình bày nội quy trong chùa, phong tục tập quán điạ phương, …
3- Gāmikavatta: Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu sắp đi xa
Những đồ đạc của chư Tăng mà mình dùng như chiếu, mùng, mền, gối và các đồ dùng, … phải giặt, rửa sạch phơi khô cất giữ cẩn thận.
Phải đóng cửa sổ, cửa ra vào cẩn thận chỗ ở riêng của mình, rồi giao lại cho một vị tỳ-khưu, hoặc vị sa-di khác.
Đến bạch cho vị tỳ-khưu trụ trì cùng các tỳ-khưu biết rõ sẽ đi đến nơi nào.
Nếu có phận sự trong chùa thì phải bàn giao cho vị tỳ-khưu khác thay thế công việc của mình, …
4-Anumodanāvatta: Pháp-hành của sa-di tỳ-khưu thuyết pháp làm cho thí-chủ hoan hỷ.
Thật ra, việc thuyết pháp là phận sự của Ngài Đại-Trưởng-lão cao hạ nhất, nếu Ngài Đại-Trưởng-lão không thuyết pháp thì Ngài chỉ định cho vị tỳ-khưu nào hoặc vị sa-di nào thuyết pháp. Khi ấy vị tỳ-khưu ấy hoặc vị sa-di ấy được phép thuyết pháp.
Vị tỳ-khưu hoặc vị sa-di nếu chưa được Ngài Đại-Trưởng-lão cho phép thì không được tự tiện thuyết pháp.
Nếu thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi vị tỳ-khưu nào, hoặc vị sa-di nào thì người thí-chủ đến bạch xin Ngài Đại-Trưởng-lão cho phép vị tỳ-khưu ấy, hoặc vị sa-di ấy thuyết-pháp.
5- Bhattaggavatta: Pháp-hành của sa-di, tỳ-khưu nơi trai đường.
Chư vị sa-di, chư vị tỳ-khưu mặc y chỉnh tề đúng theo sekhiyasikkhāpada dạy về điều giới mặc y.
Khi vào trai đường, Ngài Đại-Trưởng-lão cao hạ nhất đi trước, tiếp theo vị tỳ-khưu nhỏ hạ tuần tự theo sau cho đến chư vị sa-di tuần tự theo tuổi lớn nhỏ cuối cùng, đi một cách nghiêm chỉnh.
Thọ thực nghiêm chỉnh đúng theo sekhiyasikkhāpada dạy về điều giới thọ thực.
Khi thọ thực xong, Ngài Đại-Trưởng-lão cao hạ nhất đi trước, tiếp theo vị tỳ-khưu nhỏ hạ theo tuần tự theo sau cho đến chư vị sa-di tuần tự theo tuổi lớn nhỏ cuối cùng, đi một cách nghiêm chỉnh trở về chỗ ở của mình.
6- Piṇḍacārikavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu đi khất thực.
Trước khi đi khất thực, vị tỳ-khưu cần phải dọn dẹp đồ đạc trong cốc gọn gàng, mặc y nội và y vai trái nghiêm chỉnh đúng theo sekhiyasikkhāpada dạy về điều giới đi khất thực.
Khi đang đi khất thực, vị tỳ-khưu, vị sa-di không nên đi nhanh quá hoặc chậm quá. Khi đứng trước cửa mỗi nhà, vị tỳ-khưu, vị sa-di không nên đứng chờ lâu nếu không có thí-chủ thỉnh mời.
Khi thí-chủ để vật thực vào bát, vị tỳ-khưu, vị sa-di cần phải cẩn trọng, mắt nhìn xuống bát, cung kính thọ nhận vật thực, không nên nhìn mặt thí-chủ, khi nhận xong, từ từ đậy nắp bát rồi quay người bước đi sang nhà khác.
Khi trở về chùa trước, phải sắp đặt chỗ ngồi sẵn, chuẩn bị nước rửa chân, khăn lau chân, nước uống đầy đủ,… để vị tỳ-khưu, vị sa-di về sau có dùng.
7- Āraññikavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu sống ở trong rừng.
Phải lo nước dùng, nước uống để sẵn, khi có người xấu đang khát chạy đến thì có nước uống, nước dùng để cho họ uống, họ sẽ không gây tai hại, nguy hiểm đến tính mạng của vị tỳ-khưu, vị sa-di.
Phải chuẩn bị sẵn dụng cụ đá đánh lửa, hoặc hộp quẹt, khi cần lửa để nấu nước sôi, hoặc đốt sưởi thân mình khi bệnh hoạn ốm đau, phải có cây gậy để đi đường, phải biết xem sao để nhận biết phương hướng, mà không lạc đường và có thể hướng dẫn người khác đi không lạc đường, …
8- Senāsanavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu nơi chỗ ở
Hằng ngày vị sa-di, vị tỳ-khưu cần phải quét dọn, lau chùi bên trong chỗ ở của mình, các đồ dùng giường, chiếu, gối, y, … luôn luôn giữ gìn sạch sẽ gọn gàng, và bên ngoài quét dọn cho sạch sẽ.
Quét dọn lau chùi sạch sẽ chánh-điện, giảng-đường, trai-đường (nhà ăn), nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh (chỗ đại-tiện, tiểu-tiện).
Vị sa-di, vị tỳ-khưu cần phải có phận sự quét dọn lau chùi sạch sẽ chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão, nước dùng, nước uống luôn luôn có đầy đủ.
Nếu vị sa-di ở chung với vị tỳ-khưu thì nên xin phép vị tỳ-khưu trước khi quét dọn lau chùi, hoặc muốn học thuộc lòng bài kinh, v.v…
9- Jantāgharavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu trong nhà tắm hơi nóng.
Vị sa-di, vị tỳ-khưu vào nhà tắm hơi nóng trước, thấy tro nhiều nên hốt tro đổ ra ngoài, quét dọn lau chùi sạch sẽ xong, mới đốt lửa.
Nhiều vị sa-di, vị tỳ-khưu có thể vào nhà tắm hơi nóng cùng một lần, nhưng không nên ngồi gần chen lấn vị tỳ-khưu cao hạ và cũng không nên bắt nạt vị sa-di, vị tỳ-khưu nhỏ hạ.
Khi tắm hơi nóng xong, cần phải dập tắt lửa, hốt tro đổ ra ngoài, quét dọn sạch sẽ, đóng cửa sổ, cửa ra vào, …
10- Vaccakuṭivatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu nơi nhà vệ sinh
Trước khi vào nhà vệ sinh phải lên tiếng hay gõ cửa xem có người trong phòng vệ sinh hay không.
Vị sa-di nào hoặc vị tỳ-khưu nào đến trước thì vào trước, không theo tuần tự cao hạ, thấp hạ.
Trước khi vào phòng vệ sinh, vị sa-di, vị tỳ-khưu phải cởi y vai trái vắt lên dây bên ngoài, khi vào phòng vệ sinh phải cài cửa lại cẩn thận, khi đại tiện, tiểu tiện không nên rặn lên tiếng. Sau khi đại tiện, tiểu tiện xong, trước khi ra phải dội nhà vệ sinh sạch sẽ,
Phòng vệ sinh, luôn luôn có nước đầy đủ và sạch sẽ.
11- Upajjhāyavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu đối với Thầy tế độ.
“Upajhāyo me Bhante hohi.”
Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài làm Thầy tế độ của con.
Đối với vị sa-di, vị tỳ-khưu trong Phật-giáo, Ngài Đại-Trưởng-lão Thầy tế độ ở địa vị một người cha, và vị sa-di, vị tỳ-khưu đệ-tử ở địa vị người con. Cho nên, vị sa-di, vị tỳ-khưu có phận sự thực-hành như sau:
Khi Thầy tế độ thọ thực xong, dâng nước uống, tăm xỉa răng, … phục vụ hộ độ những gì cần thiết.
Xếp đặt gọn gàng chỗ nằm, quét dọn sạch sẽ căn phòng, có y dơ đem đi giặt.
Đến giờ Thầy tế độ đi khất thực, đem y bát dâng cho Thầy, nếu Thầy tế độ muốn đệ-tử theo sau, đệ-tử mặc y nghiêm chỉnh, mang bát đi theo sau.
Khi khất thực trở về, đệ-tử nên trở về trước, chuẩn bị nước rửa chân, khăn lau chân, sắp đặt chỗ ngồi sẵn.
Khi Thầy tế độ về đến chùa, đệ-tử ra đón nhận bát, đem nước rửa chân, lau chân, đem y sạch dâng cho Thầy thay, lấy y dơ đem đi giặt.
Khi Thầy tế độ thọ thực xong, dâng nước uống, tăm xỉa răng, đem bát rửa sạch, phơi nắng một lát, đem cất bát ở chỗ thấp, có vật mềm lót dưới bát.
Khi Thầy tế độ muốn tắm nước lạnh, đệ-tử lo nước lạnh cho thầy tắm, hoặc muốn tắm nước ấm, đệ-tử nấu nước ấm cho thầy tắm.
Khi Thầy tế độ muốn đi vào nhà tắm hơi nóng, đệ-tử vào trước đốt lửa, đem ghế đặt sẵn, thỉnh Thầy tế độ vào ngồi. Khi Thầy tế độ ra khỏi nhà tắm hơi, lấy khăn lau mình Thầy tế độ sạch sẽ, dâng y sạch Thầy thay, lấy y dơ đem đi giặt.
Khi Thầy tế độ bị bệnh, đệ-tử có phận sự hộ độ, nuôi Thầy tế độ cho đến khi khỏi hẳn bệnh. Đệ-tử luôn luôn cung kính Thầy tế độ, như người con cung kính đối với người cha của mình.
Khi Thầy tế độ phát sinh tâm dể duôi (thất niệm), đệ-tử tìm cách thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão đến thuyết pháp, để cho Thầy tế độ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tiếp tục thực-hành phạm hạnh cao thượng.
Khi Thầy tế độ phạm giới nặng, đệ-tử cố gắng thỉnh chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng sự cho Thầy tế độ làm lễ thọ parivāsakamma, thọ mānattakamma và cuối cùng thọ abbhānakamma, để cho Thầy tế độ có giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn như trước.
12- Siddhivihārikavatta: Pháp-hành của Thầy tế độ đối với đệ tử.
Tận tâm lo dạy dỗ pháp-học Phật-giáo: Tipiṭakapāḷi, Aṭṭhakathāpāḷi, Ṭīkāpāḷi, … và pháp-hành Phật-giáo: pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ cho đệ-tử của mình.
Có tâm từ cung cấp 4 thứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh cho đệ-tử của mình.
Buổi sáng, đem nước rửa mặt, cháo, thuốc trị bệnh cho đệ-tử. Khi đệ-tử muốn tắm nước ấm, thầy tế độ nấu nước ấm đem cho đệ-tử tắm, đem y sạch thay. Thầy tế độ đem y dơ đi giặt, … nuôi dưỡng săn sóc đệ-tử cho đến khi khỏi hẳn bệnh, hoặc nhờ người khác lo săn sóc đệ-tử cho đến khi khỏi bệnh.
Thầy tế độ có tâm từ, tâm bi đối với đệ-tử, như người cha đối với đứa con một của mình.
Khi đệ-tử phát sinh tâm dể duôi trong thiện-pháp, muốn hoàn tục, Thầy tế độ cố gắng thuyết pháp khuyên dạy đệ-tử phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tiếp tục thực-hành phạm-hạnh cao thượng.
Khi đệ-tử phạm giới nặng, Thầy tế độ thỉnh chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng sự cho đệ-tử làm lễ thọ parivāsakamma, thọ mānattakamma, và cuối cùng thọ abbhānakamma, để cho đệ-tử có giới trong sạch đầy đủ trọn vẹn như trước.
13- Ācariyavatta: Pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu đối với Thầy dạy.
“Ācariyo me Bhante hohi, āyasmato nissāya vacchāmi.” (3 lần)
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con kính xin Ngài làm Thầy của con, con xin nương nhờ nơi Ngài Đại-Trưởng-lão. (3 lần)
Ācariya có 4 hạng:
- Pabbajjācariya: Vị Thầy truyền phép thọ quy-y Tam-bảo cho giới tử để trở thành vị sa-di.
- Upasampadācariya: Vị Thầy tụng Ñatticatuttha-kammavācā, khi hành Tăng-sự để trở thành vị tỳ-khưu.
- Dhammācariya: Vị Thầy dạy pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo.
- Nissayācariya: Vị Thầy cho đệ-tử nương nhờ.
14- Antevāsikavatta: Pháp-hành của vị Thầy dạy đối với đệ-tử.
Antevāsika có 4 hạng:
- Pabbajjantevāsika: Đệ-tử thọ phép quy-y Tam-bảo để trở thành vị sa-di.
- Upasampadantevāsika: Đệ-tử trong lễ thọ tỳ-khưu.
- Dhammantevāsika: Đệ-tử theo học pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo.
- Nissayantevāsika: Đệ-tử đến nương nhờ nơi vị Thầy.
Đó là 14 pháp-hành mà Đức-Phật đã truyền dạy đến tất cả vị sa-di, vị tỳ-khưu. Mỗi vị sa-di, mỗi vị tỳ-khưu nên luôn luôn nghiêm chỉnh thực hành tùy theo từng trường hợp, từng thời.
Nếu vị sa-di, vị tỳ-khưu nào không thực-hành nghiêm chỉnh và đầy đủ thì vị sa-di ấy phải bị phạm pháp-hành phạt, còn vị tỳ-khưu ấy phạm giới nhẹ, giới không trong sạch và trọn vẹn.
Trên đây chỉ tóm lược 14 pháp-hành của vị sa-di, vị tỳ-khưu. Vị sa-di, vị tỳ-khưu nào muốn học hỏi nghiên cứu đầy đủ thì học trong Tạng-Luật, bộ Cūḷavagga Pāḷi, phần Vattakkhandhaka.
“Vattaṃ aparipūrento, na sīlaṃ paripūrati. Asuddhasīlo duppañño, cittekaggaṃ na vindati….” Ý nghĩa
Tỳ-khưu, sa-di trong giáo-pháp của Đức-Phật, thực-hành các pháp-hành không đầy đủ, thì giữ gìn giới không đầy đủ,
Người có giới không đầy đủ, tâm không thanh-tịnh, là người không có trí.
Người có phóng-tâm, không có định-tâm, không chứng
đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.
Người không có Thánh-đạo, Thánh-quả thì không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Tỳ-khưu hoặc sa-di trong giáo-pháp của Đức-Phật, thực-hành đầy đủ các pháp-hành thì có giới-hạnh đầy đủ trọn vẹn.
Hành-giả có giới-hạnh đầy đủ trọn vẹn, có tâm trí thanh-tịnh là bậc thiện-trí có định-tâm vững vàng. Hành-giả có định-tâm vững vàng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.
Hành-giả chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả thì giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Vì vậy, chư tỳ-khưu, sa-di là thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, có trí-tuệ sáng suốt nên thực-hành nghiêm chỉnh đầy đủ các pháp-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật cao thượng.
Do thực hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật sẽ chứng đắc Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Bốn thứ vật dụng (Catupaccaya)
Đời sống của vị tỳ-khưu, vị sa-di hoàn toàn tùy thuộc vào 4 thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh của thí-chủ. Thí-chủ phần nhiều là những người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh (anuttaraṃ puññakhettaṃ lokassa), để gieo duyên lành, tạo phước-thiện cao quý, là đại-thiện-nghiệp cao quý cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo phân loại có 4 cách sử dụng (paribhoga) đối với vị tỳ-khưu, vị sa-di.
Paribhoga có 4 cách là:
- Theyya paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người trộm cắp.
- Iṇa paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người mang nợ.
- Dāyajja paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người thừa kế.
- Sāmi paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người chủ.
1-Theyya paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người trộm cắp như thế nào?
Nếu vị tỳ-khưu, vị sa-di nào phạm giới, không có giới (dussīla) sử dụng 4 thứ vật dụng ấy thì vị tỳ-khưu ấy, vị sa-di ấy sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người trộm cắp.
2- Iṇa paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người mang nợ như thế nào?
Vị tỳ-khưu, vị sa-di nào là người có giới, nhưng nếu mỗi khi sử dụng thứ vật dụng nào (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh) không suy xét mỗi thứ vật dụng ấy đúng theo lời dạy của Đức-Phật thì vị tỳ-khưu, vị sa-di ấy sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người mang nợ.
3- Dāyajja paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người thừa kế như thế nào?
Ba bậc Thánh-nhân: bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai là những người con thật sự của Đức-Phật, nên có quyền thừa hưởng 4 thứ vật dụng mà thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, đem đến cúng dường.
Cho nên, ba bậc Thánh-nhân này sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người thừa kế.
Ngoài ba bậc Thánh-nhân ra, những vị tỳ-khưu, vị sa-di nào có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, đang thực-hành 2 phận sự học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo: thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
4- Sāmi paribhoga: Sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người chủ như thế nào?
Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn là tôi tớ của tham-ái, là chủ nhân thật sự, nên bậc Thánh A-ra-hán sử dụng 4 thứ vật dụng như hạng người chủ nhân thật sự.
Suy xét 4 thứ vật dụng
Nếu suy xét mỗi thứ vật dụng bằng tiếng Pāḷi thì cần phải hiểu rõ nghĩa từng chữ, từng câu Pāḷi, hoặc suy xét ý nghĩa của mỗi thứ vật dụng bằng tiếng Việt cũng được.
Điều quan trọng của sự suy xét 4 thứ vật dụng là để hiểu rõ sự lợi ích của mỗi thứ vật dụng ấy, không để cho phiền-não phát sinh do nương nhờ mỗi thứ vật dụng ấy.
Suy xét 4 thứ vật dụng là tứ-đại đáng nhờm
(Dhātupaṭikūlapaccavekkhana)
Mỗi khi thọ nhận thứ vật dụng nào, vị tỳ-khưu, vị sa-di nên có trí tuệ sáng suốt suy xét thứ vật dụng ấy chỉ là tứ-đại (dhātu) có thật-tánh-pháp mà thôi. Và ngay cả người thọ nhận 4 thứ vật dụng cũng chỉ là ngũ-uẩn sắc-pháp, danh-pháp thuộc về thật-tánh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi, không phải là ta, không phải là người, không phải là chúng-sinh, mà chỉ là thật-tánh-pháp mà thôi.
Tỳ-khưu, sa-di có trí tuệ sáng suốt suy xét khi thọ nhận mỗi thứ vật dụng bằng tiếng Pāḷi như sau:
1- Cīvara Paccavekkhana
Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumattamevetaṃ yadidaṃ cīvaraṃ tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijīvo suñño.
Sabbāni pana imāni cīvarāni ajigucchanīyāni imaṃ pūtikāyaṃ patvā, ativiya jigucchanīyāni jāyanti.
2- Piṇḍapāta Paccavekkhana
Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumattamevetaṃ yadidaṃ piṇḍapāto tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijīvo suñño.
Sabbo panāyaṃ piṇḍapāto ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā, ativiya jigucchanīyo jāyati.
3- Senāsana Paccavekkhana
Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumattamevetaṃ yadidaṃ senāsanaṃ tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijīvo suñño.
Sabbāni pana imāni senāsanāni ajigucchanīyāni imaṃ pūtikāyaṃ patvā, ativiya jigucchanīyāni jāyanti.
4- Bhesajja Paccavekkhana
Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumattamevetaṃ yadidaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāro tadupabhuñ-jako ca puggalo dhātumattako nissatto nijīvo suñño.
Sabbo panāyaṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāro ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā, ativiya jigucchanīyo jāyati.
1- Suy xét về y phục
Khi tỳ-khưu, sa-di thọ nhận y phục, nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ rằng:
“Y phục này chỉ là tứ-đại, diễn biến theo tứ-đại của chính nó mà thôi, và người thọ nhận y phục này cũng chỉ là ngũ-uẩn (thật-tánh-pháp) không phải là chúng-sinh, không có bản mạng vĩnh cửu, chỉ là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi.
Và những y phục này không phải vật đáng nhờm, nhưng khi tiếp xúc với sắc thân ô trọc (trược) này rồi, liền trở nên vật vô cùng đáng nhờm.”
2- Suy xét về vật thực
Khi tỳ-khưu, sa-di thọ nhận vật thực, nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ rằng:
“Món vật thực này chỉ là tứ-đại, diễn biến theo tứ-đại của chính nó mà thôi, và người thọ nhận món vật-thực này cũng chỉ là ngũ-uẩn (thật-tánh-pháp) không phải là chúng-sinh, không có bản mạng vĩnh cửu, chỉ là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi.
Và những món vật-thực này không phải vật đáng nhờm, nhưng khi tiếp xúc với sắc thân ô trọc (trược) này rồi, liền trở nên vật vô cùng đáng nhờm.”
3- Suy xét về chỗ ở
Khi tỳ-khưu, sa-di thọ nhận chỗ ở, nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ rằng:
“Chỗ ở này chỉ là tứ-đại, diễn biến theo tứ-đại của chính nó mà thôi, và người thọ nhận chỗ ở này cũng chỉ là ngũ-uẩn (thật-tánh-pháp) không phải là chúng-sinh, không có bản mạng vĩnh cửu, chỉ là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi.
Và chỗ ở này không phải vật đáng nhờm, nhưng khi tiếp xúc với sắc thân ô trọc (trược) này rồi, liền trở nên vật vô cùng đáng nhờm.”
4- Suy xét về thuốc trị bệnh
Khi tỳ-khưu, sa-di thọ nhận thứ thuốc trị bệnh bảo vệ sinh-mạng, nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ rằng:
“Thứ thuốc trị bệnh bảo vệ sinh-mạng này chỉ là tứ-đại, diễn biến theo tứ-đại của chính nó mà thôi, và người thọ nhận thứ thuốc trị bệnh bảo vệ sinh-mạng này cũng chỉ là ngũ-uẩn (thật-tánh-pháp) không phải là chúng-sinh, không có bản mạng vĩnh cửu, chỉ là pháp-vô-ngã (anattā) mà thôi.
Và thứ thuốc trị bệnh bảo vệ sinh-mạng này không phải vật đáng nhờm, nhưng khi tiếp xúc với sắc thân ô trọc này rồi, liền trở nên vật vô cùng đáng nhờm.”
* Suy xét 4 thứ vật dụng khi đang dùng
1- Cīvara Paccavekkhana
Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa pāṭighātāya, uṇhassa pāṭighātāya, daṃsa-makasa-vātātapa-sarīsapa-samphassānaṃ pāṭighātāya, yāvadeva hiriko pīnappaṭicchādanatthaṃ.
2- Piṇḍapāta Paccavekkhana
Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihankhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
3- Senāsana Paccavekkhana
Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvadeva sītassa pāṭighātāya, uṇhassa pāṭighātāya, daṃsa-makasa-vātātapa-sarīsapa-samphassānaṃ pāṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodanapaṭisallānāmatthaṃ.
4- Bhesajja Paccavekkhana
Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajjaparik-khāraṃ paṭisevāmi, yāvadeva uppannānaṃ veyyā-bādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya, abyāpajjha-paramatāya.
1- Suy xét về y phục khi đang dùng
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Tôi đã suy xét bằng trí-tuệ rồi mới mặc y phục này chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít, ...
Và cũng chỉ để che kín phần đáng hổ thẹn trong thân thể mà thôi.”
2- Suy xét về vật thực khi đang dùng
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Tôi đã suy xét bằng trí-tuệ rồi mới dùng vật thực này, không phải để vui chơi như trẻ con, cũng không phải để tăng cường sức mạnh như người lực sĩ, cũng không phải để làm đẹp thân thể như đàn bà, cũng không phải để bồi dưỡng thân thể cho xinh đẹp như kỹ nữ.
Sự thật, tôi dùng vật thực này để nuôi dưỡng duy trì sắc thân, để làm giảm bớt sự khổ thân, chỉ để thực-hành phạm hạnh cao thượng mà thôi.
Do nhờ sự dùng vật thực này, tôi có thể làm giảm được sự khổ cũ đang đói và sẽ làm cho sự khổ mới không phát sinh.
Sự dùng vật thực như vậy không có lỗi, để điều hòa được tứ-đại, các oai-nghi, sự sống an-lạc sẽ phát sinh lên đối với tôi.”
3- Suy xét về chỗ ở khi đang dùng
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Tôi đã suy xét bằng trí-tuệ rồi mới sử dụng chỗ ở này chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít, ...
Và cũng chỉ để tránh sự tai hại do thời tiết, được an-lạc nơi thanh vắng, để hành phạm hạnh cao thượng.”
4- Suy xét về thuốc trị bệnh khi đang dùng
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Tôi đã suy xét bằng trí-tuệ rồi mới dùng thuốc trị bệnh để bảo vệ sinh-mạng này, để điều trị bệnh đã và đang phát sinh, để không còn khổ do bệnh ấy nữa.”
* Suy xét 4 thứ vật dụng đã dùng trong ngày
Nếu vị tỳ-khưu, vị sa-di nào không suy xét lại cho đến lúc rạng đông (aruṇa), trước khi mặt trời mọc thì vị tỳ-khưu, vị sa-di ấy đã dùng 4 thứ vật dụng ấy như người mang nợ.
1- Cīvara Paccavekkhana
Ajja mayā apaccavekkhitvā yaṃ cīvaraṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa pāṭighātāya, uṇhassa pāṭighātāya, daṃsa-makasa-vātātapa-sarīsapa-samphassānaṃ pāṭi-ghātāya, yāvadeva hiriko pīnappaṭicchādanatthaṃ.
2- Piṇḍapāta Paccavekkhana
Ajja mayā apaccavekkhitvā yo piṇḍapāto paribhutto, so neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihankhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
3- Senāsana Paccavekkhana
Ajja mayā apaccavekkhitvā yaṃ cīvaraṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa pāṭighātāya, uṇhassa pāṭighātāya, daṃsa-makasa-vātātapa-sarīsapa-samphassānaṃ pāṭi-ghātāya, yāvadeva utuparissayavinodanapaṭisal-lānāmatthaṃ.
4- Bhesajja Paccavekkhana
Ajja mayā apaccavekkhitvā yo gilānappaccaya-bhesajjaparikkhāro paribhutto, so yāvadeva uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya, abyāpajjha-paramatāya.
1- Suy xét về y phục đã dùng trong ngày
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Hôm nay, tôi không suy xét mà đã mặc y phục nào, y phục ấy chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít, ...
Và cũng chỉ để che kín phần đáng hổ-thẹn trong thân thể mà thôi.”
2- Suy xét về vật thực đã dùng trong ngày
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Hôm nay, tôi không suy xét mà đã dùng vật thực nào, vật thực ấy không phải để vui chơi như trẻ con, cũng không phải để tăng cường sức mạnh như người lực sĩ, cũng không phải để làm đẹp thân thể như đàn bà, cũng không phải để bồi dưỡng thân thể cho xinh đẹp như kỹ nữ.
Sự thật, tôi dùng vật thực ấy để nuôi dưỡng duy trì sắc thân, để làm giảm sự khổ thân, chỉ để thực hành phạm hạnh cao thượng mà thôi.
Do nhờ sự dùng vật thực ấy, tôi có thể làm giảm được sự đói khổ cũ và sẽ làm cho sự khổ mới không phát sinh.
Sự dùng vật thực ấy như vậy không có lỗi, để điều hòa được tứ đại, các oai-nghi, sự sống an-lạc sẽ phát sinh lên đối với tôi.”
3- Suy xét về chỗ ở đã dùng trong ngày
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Hôm nay, tôi không suy xét mà đã sử dụng chỗ nào, chỗ ở ấy chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự tiếp xúc ruồi, muỗi, gió, nắng, rắn rít, ... mà thôi.
Và cũng chỉ để tránh sự tai hại do thời tiết, được an-lạc nơi thanh vắng, để hành phạm hạnh cao thượng.”
4- Suy xét về thuốc trị bệnh đã dùng trong ngày
Tỳ-khưu, sa-di nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét đúng theo sự thật rằng:
“Hôm nay, tôi không suy xét mà đã dùng thuốc trị bệnh nào để bảo vệ sinh-mạng, thuốc trị bệnh ấy để điều trị khổ bệnh đã và đang phát sinh, để không khổ do bệnh ấy nữa.”
Cho nên, nếu vị tỳ-khưu, vị sa-di nào sử dụng thứ vật dụng nào mà không suy xét thứ vật dụng ấy thì vị tỳ-khưu, vị sa-di ấy nên có trí-tuệ sáng suốt suy xét lại 4 thứ vật dụng một lần nữa, trước khi trời rạng đông (aruṇa), để không phải là vị tỳ-khưu, vị sa-di dùng thứ vật dụng như người mang nợ.
Bậc Tỳ-Khưu (Bhikkhu)
Ý nghĩa danh từ Bhikkhu: Tỳ-khưu
Bhikkhu có rất nhiều ý nghĩa:
Nghĩa Bhikkhu theo văn phạm Pāḷi
Bhikkhati sīlenā’ti bhikkhu: Bậc có thói quen thường đi khất thực để nuôi mạng gọi là bhikkhu: tỳ-khưu.
Saṃsāre bhayaṃ ikkhatī’ti bhikkhu: Bậc thấy rõ sự tai họa trong vòng tử sinh luân-hồi gọi là bhikkhu: tỳ-khưu.
Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Kinh
Trong Chú-giải kinh Đại-Tứ-niệm-xứ dạy:
“Yo ca imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati, so bhikkhu nāma hotī’ti paṭipattiyā bhikkhubhāvadassanato pi “bhikkhu.”[2]
Hành-giả nào thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ này, hành-giả ấy được gọi là tỳ-khưu. Tỳ-khưu chính là hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.
“Paṭipannako hi devo vā hotu manusso vā bhikkhū’ti saṅkhyaṃ gacchatiyeva.” [3]
Hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ, dù là chư-thiên hoặc nhân loại cũng đều được xem là tỳ-khưu cả thảy.
Như vậy, tỳ-khưu theo ý nghĩa Tạng Kinh chính là hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ, hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Nghĩa Bhikkhu theo Tạng Luật
Theo Tạng Luật, bhikkhu: tỳ-khưu được thành tựu do chư tỳ-khưu-Tăng ít nhất có đủ 5 vị tỳ-khưu thật hội họp tại nơi sīmā làm lễ upasampadā, Ngài Trưởng-lão luật sư tụng ñatticatutthakammavācāpāḷi tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn), nâng đỡ vị giới tử sa-di lên trở thành bhikkhu: tỳ-khưu đúng theo luật của Đức-Phật đã ban hành đến chư tỳ-khưu.
2- Ñattisampatti: Ngài Trưởng-lão luật sư tụng 1 lần ñatti (tuyên ngôn) từng chữ, từng câu hoàn toàn đúng ṭhāna, karaṇa, payatana và 10 byañjanabuddhi theo văn phạm Pāḷi.
3- Anusāsanasampatti: Ngài Trưởng-lão luật sư tụng 3 lần kammavācā (thành sự ngôn) từng chữ, từng câu hoàn toàn đúng ṭhāna, karaṇa, payatana và 10 byañjana-buddhi theo văn phạm Pāḷi.
4- Sīmāsampatti: Chỗ ranh giới của sīmā hoàn toàn đúng theo Luật của Đức-Phật đã chế định.
5- Purisasampatti: Chư tỳ-khưu-Tăng hội họp tại sīmā cần phải có đủ số lượng. Ngoài Trung xứ Ấn-Độ ra, các vùng biên địa hoặc đất nước khác (như nước Việt-Nam) chư tỳ-khưu-Tăng cần phải có ít nhất 5 vị tỳ-khưu thật trở lên.
Khi chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng sự, tụng ñatti-catutthakammavācāpāḷi: tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn) vừa chấm dứt, đồng thời giới tử sa-di trở thành bhikkhu: tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. [4]
1- Bhikkhupātimokkhasaṃvarasīla: Giới bổn của tỳ-khưu gồm có 227 điều-giới mà vị tỳ-khưu cần phải giữ gìn cẩn trọng trong sạch trọn vẹn suốt đời tỳ-khưu bằng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, và tin nghiệp và quả của nghiệp của mình.
2- Indriyasaṃvarasīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải giữ gìn cẩn trọng 6 môn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) không cho mọi ác-tâm phát sinh bằng chánh-niệm.
3- Ājīvaparisuddhisīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải nuôi mạng chân chánh thanh-tịnh bằng pháp tinh-tấn.
4- Paccayasannissitasīla: Giới mà vị tỳ-khưu nương nhờ 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh). Vị tỳ-khưu khi thọ nhận, khi sử dụng mỗi thứ vật ấy bằng trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ, biết rõ thật-tánh và sự lợi ích của mỗi thứ vật dụng ấy.
Phần giảng giải
Trong bhikkhupātimokkha gồm có 227 điều-giới phân chia làm 7 loại giới:
1-Giới pārājika: Giới bại hoại tỳ-khưu có 4 điều-giới. 2-Giới Saṃghādisesa: Giới hành phạt vẫn còn phẩm-hạnh tỳ-khưu có 13 điều-giới.
3- Giới Aniyata: Giới bất định có 2 điều-giới.
4- Giới Nissaggiya pācittiya: Giới xả rồi sám hối có 30 điều-giới.
5- Giới Suddha pācittiya: Giới sám hối được có 92 điều-giới.
6- Giới Pāṭidesanīya: Giới sám hối riêng rẽ có 4 điều-giới.
7- Giới Sekhiya: Giới hành có 75 điều-giới.
8- Điều Adhikaraṇasamatha: Điều giảng hoà.
1- Pārājika āpatti: Phạm giới pārājika bại hoại không còn phẩm-hạnh tỳ-khưu nữa.
2- Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới saṃghādisesa hành phạt vẫn còn phẩm-hạnh tỳ-khưu, nhưng không sám hối được.
3- Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng kém thua 2 loại giới trên mà có thể sám hối được.
4- Pācittiya āpatti: Phạm giới pācittiya sám hối được.
5- Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới pāṭidesanīya sám hối riêng rẽ.
6- Dukkaṭa āpatti: Phạm giới dukkaṭa làm bậy, sám hối được.
7- Dubbhāsita āpatti: Phạm giới dubbhāsita nói bậy, sám hối được.
- Phạm điều-giới nặng có 2 loại 4 điều-giới pārājika āpatti và 13 điều-giới saṃghādisesa āpatti.
- Phạm điều-giới nhẹ có 5 loại là thullaccaya āpatti, pācittiya āpatti, pāṭidesanīya āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti.
1- Tỳ-khưu phạm điều-giới nặng thì không thể làm lễ sám hối được.
* Nếu vị tỳ-khưu nào phạm 1 trong 4 điều-giới pārājika āpatti thì vị tỳ-khưu ấy mất hẳn phẩm-hạnh tỳ-khưu trong kiếp hiện-tại này.
* Nếu vị tỳ-khưu nào phạm 1 trong 13 điều-giới saṃghādisesa āpatti thì vị tỳ-khưu ấy vẫn còn là tỳ-khưu, nhưng là vị tỳ-khưu phạm giới, cần phải chịu hành phạt theo luật của Đức-Phật ban hành theo tuần tự, hành parivāsakamma, hành mānattakamma, hành abhāna-kamma như sau:
- Nếu vị tỳ-khưu nào phạm điều-giới saṃghādisesa āpatti nào, rồi giấu phạm điều-giới của mình lâu bao nhiêu đêm thì vị tỳ-khưu ấy cần phải xin chư tỳ-khưu-tăng hành tăng sự cho hành phạt parivāsakamma trong thời gian lâu bấy nhiêu đêm. Sau khi chịu hành phạt parivāsakamma đúng theo luật của Đức-Phật ban hành xong, vị tỳ-khưu ấy tiếp tục xin chư tỳ-khưu tăng hành tăng sự cho hành phạt mānattakamma suốt 6 đêm xong, rồi thỉnh chư tỳ-khưu-Tăng ít nhất 21 vị tỳ-khưu thật trở lên hội tại sīmā để hành tăng sự abhānakamma. Ngài Trưởng-lão luật-sư tụng abhāna ñattikammavācā xong, vị tỳ-khưu ấy mới có giới trở lại như trước.
2- Tỳ-khưu phạm điều-giới nhẹ thì có thể làm lễ sám hối được.
- Nếu vị tỳ-khưu nào phạm điều-giới nhẹ trong 5 loại là thullaccaya āpatti, pācittiya āpatti, pāṭidesanīya āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti thì vị tỳ-khưu ấy nên tìm đến vị tỳ-khưu khác không phạm cùng giới với mình, xin làm lễ sám hối āpatti với vị tỳ-khưu khác, sau khi làm lễ sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại như trước.
Giới của tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkha có 227 điều-giới, nhưng trong Tạng Luật, giới của tỳ-khưu gồm có cả thảy 91.805.036.000 điều-giới [5] mà tỳ-khưu cần phải giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn.
* Indriyasaṃvarasīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải giữ gìn cẩn trọng 6 môn:
* 6 môn: nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn là nơi tiếp xúc với 6 đối-tượng.
* 6 đối-tượng: đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc, đối-tượng pháp. 6 đối-tượng tiếp xúc với 6 môn phát sinh 6 loại tâm.
* 6 loại tâm: nhãn-thức-tâm, nhĩ-thức-tâm, tỷ-thức-tâm, thiệt-thức-tâm, thân-thức-tâm, ý-thức-tâm trong 6 lộ-trình-tâm.
* 6 lộ-trình-tâm: nhãn-môn lộ-trình-tâm, nhĩ-môn lộ-trình-tâm, tỷ-môn lộ-trình-tâm, thiệt-môn lộ-trình-tâm, thân-môn lộ-trình-tâm, ý-môn lộ-trình-tâm.
- Khi đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-môn (nhãn-tịnh-sắc) phát sinh nhãn-thức-tâm thấy đối-tượng sắc trong nhãn-môn lộ-trình-tâm, tỳ-khưu hành-giả có chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ nhãn-thức-tâm thuộc về danh-pháp, và đối-tượng sắc với nhãn-tịnh-sắc thuộc về sắc-pháp thuộc về pháp-vô-ngã (anattā) không phải là ta thấy đối-tượng đàn ông, đàn bà, v.v… nên diệt được tà-kiến thấy sai chấp lầm, diệt phiền-não tham, sân, si không cho phát sinh.
Tương tự như vậy,
- Khi đối-tượng thanh (âm-thanh) tiếp xúc với nhĩ-môn (nhĩ-tịnh-sắc) phát sinh nhĩ-thức-tâm nghe đối-tượng âm-thanh trong nhĩ-môn lộ-trình-tâm, tỳ-khưu hành-giả có chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ nhĩ-thức-tâm thuộc về danh-pháp, và đối-tượng âm-thanh với nhĩ-tịnh-sắc thuộc về sắc-pháp thuộc về pháp-vô-ngã (anattā) không phải là ta nghe đối-tượng tiếng người đàn ông, tiếng người đàn bà, v.v… nên diệt được tà-kiến thấy sai chấp lầm, diệt phiền-não tham, sân, si
Như vậy, vị tỳ-khưu hành-giả giữ gìn giới cần phải giữ gìn cẩn trọng 6 môn như vậy.
* Ājīvaparisuddhisīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải nuôi mạng chân-chánh thanh-tịnh bằng pháp tinh-tấn.
* Y phục: Vị tỳ-khưu đi tìm lượm vải dơ giặt sạch rồi may y để mặc. Nếu có thí-chủ dâng y thì được phép thọ nhận y để mặc.
* Vật thực: Hằng ngày, vị tỳ-khưu đi khất thực từng nhà để nuôi mạng. Nếu có thí-chủ dâng cúng dường vật thực thì được phép thọ nhận vật thực để dùng buổi ngọ (không quá 12 giờ trưa).
* Chỗ ở: Vị tỳ-khưu ở cội cây, trong động để thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ hầu mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài. Nếu có thí-chủ dâng chỗ ở (cốc) thì được phép thọ nhận để ở, che nắng, che mưa, …
* Thuốc trị bệnh: Khi vị tỳ-khưu bị lâm bệnh, nên dùng nước tiểu ngâm với 2 loại trái cây rừng gọi là agadāmalaka và agadaharītaka mà Đức-Phật cho phép để làm thuốc trị bệnh. Nếu có thí-chủ dâng cúng dường thuốc trị bệnh thì được phép thọ nhận thuốc ấy để dùng trị bệnh.
* Paccayasannissitasīla: Giới mà vị tỳ-khưu nương nhờ 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh), vị tỳ-khưu khi thọ nhận, khi sử dụng mỗi thứ vật ấy bằng trí-tuệ sáng suốt suy xét thấy rõ, biết rõ thật-tánh và sự lợi ích của mỗi thứ vật dụng ấy.
- Khi thọ nhận thứ vật dụng nào, vị tỳ-khưu có trí-tuệ sáng suốt suy xét rõ thật-tánh của thứ vật dụng ấy chỉ là tứ-đại mà thôi và tính chất đáng nhờm của thứ vật dụng ấy khi tiếp xúc với sắc thân ô trọc (trược) này.
- Khi đang dùng thứ vật dụng nào, vị tỳ-khưu có trí-tuệ sáng suốt suy xét biết rõ sự lợi ích của thứ vật dụng ấy, để ngăn ngừa không cho phiền-não nương nhờ nơi thứ vật dụng ấy mà phát sinh.
Tóm lại, 4 giới của tỳ-khưu trong sạch thanh-tịnh.
1- Bhikkhupātimokkhasaṃvarasīla: Giới bổn của tỳ-khưu có 227 điều-giới được giữ gìn cẩn trọng trong sạch trọn vẹn bằng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp.
2- Indriyasaṃvarasīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải giữ gìn cẩn trọng 6 môn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) không cho mọi ác-tâm phát sinh bằng chánh-niệm.
3- Ājīvaparisuddhisīla: Giới mà vị tỳ-khưu cần phải nuôi mạng thanh-tịnh bằng pháp tinh-tấn.
4- Paccayasannissitasīla: Giới mà vị tỳ-khưu nương nhờ 4 thứ vật dụng được trong sạch thanh-tịnh bằng trí-tuệ suy xét mỗi thứ vật dụng.
(Xong phần giới của bậc xuất-gia.)
Bố-thí cầu nguyện
Thí-chủ sau khi làm phước-thiện bố-thí xong rồi, thường có lời cầu nguyện rằng:
“Do nhờ phước-thiện bố-thí này, xin cho tôi được giàu sang phú quý, được chức trọng quyền cao, được sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, v.v… cho được thành-tựu như ý nguyện.”
Lời cầu nguyện của thí-chủ được thành tựu như ý nguyện thật sự thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn. Còn nếu thí-chủ là người phạm giới, không có giới thì lời cầu nguyện khó có thể thành-tựu được như ý, bởi vì thí-chủ là người phạm giới, không có giới, nên phước-thiện bố-thí không có cơ hội cho quả được như ý nguyện.
Thật vậy, trong bài kinh Dānūpapattisutta [7] Đức-Phật thuyết dạy với ý nghĩa rằng:
-Này chư tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp. 8 pháp ấy như thế nào?
1- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn thắp sáng,… đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nhìn thấy hoàng tộc cao thượng, dòng bà-la-môn cao quý, những phú hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trong hoàng tộc cao thượng, hoặc trong dòng bà-la-môn cao quý, hoặc trong gia đình phú hộ đầy đủ 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng hài lòng trong đời.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai trong hoàng tộc, hoặc trong dòng bà-la-môn, hoặc trong gia đình phú hộ.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.”
-Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, sự cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
2- Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước,… đèn thắp sáng,… đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương có tuổi thọ sống lâu (500 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tứ-đại-thiên-vương bằng 50 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời, an-lạc vi-tế, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tứ-đại-thiên-vương ấy.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.
- Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
3 đến 7-Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, vải, … đèn thắp sáng, … đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
- Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên có tuổi thọ sống lâu (1.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 36 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên bằng 100 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
- Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Dạ-ma-thiên có tuổi thọ sống lâu (2.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 144 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Dạ-ma-thiên bằng 200 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
- Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên có tuổi thọ sống lâu (4.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 576 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên bằng 400 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
-Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Hóa-lạc-thiên có tuổi thọ sống lâu (8.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 2.304 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Hóa-lạc-thiên bằng 800 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng: …
- Chư vị thiên-nam, vị thiên-nữ trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên có tuổi thọ sống lâu (16.000 năm cõi trời, nếu so số năm ở cõi người thì bằng 9.216 triệu năm, bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên bằng 1.600 năm ở cõi người), có sắc đẹp tuyệt vời hơn nữa, an-lạc vi-tế hơn nữa, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Sau khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng bậc thấp, không hướng lên bậc cao các bậc thiền…
Sau khi thí-chủ chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên ấy.
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới.
-Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành tựu như ý, nhờ có đại-thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
8-Này chư tỳ-khưu! Có số thí-chủ trong đời này, làm phước-thiện bố-thí như cơm, nước, … đèn thắp sáng, … đến sa-môn, bà-la-môn.
Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, rồi cầu mong quả của phước-thiện bố-thí ấy.
Thí-chủ nghe nói rằng:
Chư phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên có tuổi thọ sống lâu hơn chư-thiên cõi dục-giới, có sắc thân hào quang sáng ngời, an-lạc vô cùng vi-tế, nên thí-chủ cầu mong rằng:
“Quý báu biết dường nào! Trước khi tôi chết, cầu xin phước-thiện bố-thí này làm duyên phát sinh sắc-giới thiện-tâm có sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy.”
Thí-chủ hướng tâm cầu mong, luôn luôn niệm tưởng như vậỵ. Tâm của thí-chủ hướng đến bậc thấp trong bậc thiền sắc-giới, không hướng lên bậc cao Thánh-đạo, Thánh-quả, và Niết-bàn.
Thí-chủ sau khi chết, sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm phạm-thiên trên cõi sắc-giới phạm-thiên ấy, (tùy theo sắc-giới quả-tâm).
Như-lai dạy rằng: “Kiếp sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, có sắc-giới thiện-tâm không có tham-ái trong cõi dục-giới, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới,
- Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ có sắc-giới thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh.
- Này chư tỳ-khưu! Sự sinh của phước-thiện bố-thí có 8 pháp như vậy.
Nhận xét bài Kinh Dānūpapattisutta
“Tâm của thí-chủ cầu mong hưởng quả bậc thấp trong 7 cõi thiện dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, cho đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên, không tiến triển lên bậc cao là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Sau khi thí-chủ chết, tâm cầu mong cõi nào thì thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ấy (Tassa taṃ cittaṃ hīne vimuttaṃ, uttari abhāvitaṃ. Tatrūpapattiyā saṃvattati).
Như-lai dạy rằng: Kiếp-sau của thí-chủ được thành tựu như ý thì thí-chủ phải là người có giới trong sạch và trọn vẹn, thí-chủ không phải là người phạm giới, không có giới (Tañca kho sīlavato vadāmi, no dussīlassa).
-Này chư tỳ-khưu! Người thí-chủ có giới trong sạch và trọn vẹn, cầu mong được thành-tựu như ý, nhờ thiện-tâm trong sạch thanh-tịnh (Ijjhati bhikkhave, sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā.[8]).”
Như vậy, người thí-chủ nào có giới trong sạch và trọn vẹn, làm phước-thiện bố-thí thuộc về đại-thiện-nghiệp bố-thí. Sau khi người thí-chủ ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới theo ý nguyện của thí-chủ.
Nếu thí-chủ nào đã phạm giới, không có giới, dù có làm phước-thiện bố-thí thuộc về đại-thiện-nghiệp bố-thí thì sau khi thí-chủ ấy chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí cũng không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục-giới, mà ác-nghiệp phạm giới có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh). Còn dục-giới đại-thiện-nghiệp bố-thí chờ cơ hội khác cho quả.
* Trong Phật-giáo này, các hàng thanh-văn đệ-tử sau khi đã làm phước-thiện bố-thí dù lớn dù nhỏ, cũng nên nguyện cầu bậc cao cứu cánh Niết-bàn đó là A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
“Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”[9]
Phước-thiện bố-thí này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
“Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.”
Phước-thiện này của con xin làm nhân-duyên dẫn dắt con đến chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Đó là lời cầu nguyện bậc cao cứu cánh Niết-bàn của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, nên phước-thiện bố-thí ấy trở thành pháp-hạnh ba-la-mật, làm nền tảng hỗ trợ cho các pháp-hạnh ba-la-mật còn lại được thuận lợi thành tựu đầy đủ.
Trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử có pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật hỗ trợ được thành tựu quả báu ở cõi người (manussasampatti) dù giàu sang phú quý như thế nào cũng không đắm say trong cõi người, hoặc được thành-tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) dù hưởng mọi sự an-lạc trên cõi trời như thế nào cũng không đắm say trong cõi trời ấy, bởi vì mục đích cứu cánh của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử là nguyện cầu sớm được thành tựu đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, để hỗ trợ hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, đạt đến mục đích cứu cánh thành-tựu quả báu Niết-bàn (Nibbāna-sampatti) giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
(Xong Pháp-Hành Giới)
[1] Tìm hiểu rõ trong quyển “Gương Bậc Xuất Gia” cùng soạn giả.
[2] Chú-giải bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇā.
[3] Chú-giải bộ Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇā.
[4] Tìm hiểu lễ xuất-gia trở thành tỳ-khưu trong quyển Gương Bậc Xuất-Gia, cùng soạn-giả.
[5] Bộ Visuddhimagga, phấn Sīlaniddesa, Paṭhamasīlapañcaka.
[6] Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn giả.
[7] Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.
[8] Aṅguttaranikāya, AṭṭhakanipātaPāḷi, Dānūpapattisutta.
[9] Aṅg. Ekakanipātaṭṭhakathā, Paṇihita acchavaggavaṇṇanā.
Mục lục quyển 3 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10