SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
PHẨM 45: CHÂN THIỆN HỮU
(QUYỂN 313 - 316)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát khi mới bắt đầu sự nghiệp, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học Tĩnh lự ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học Tinh tấn ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học An nhẫn ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học Tịnh giới ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học Bố thí bala-mật-đa như thế nào?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa, thì trước hết phải gần gũi, cung kính cúng dường bậc thiện tri thức chân chánh có khả năng thuyết giảng đúng đắn về Bát-nhã, Tĩnh lự, Tinh tấn, An nhẫn, Tịnh giới, Bố thí ba-la-mật-đa, nghĩa là khi giảng nói kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nêu giảng như vầy:
Thiện nam tử, hãy đến đây! Khi hành giả bố thí thì nên nghĩ thế này: Việc tu bố thí ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi hành giả trì giới, nên nghĩ thế này: Việc tu tịnh giới ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi hành giả tu nhẫn, nên nghĩ thế này: Việc tu nhẫn ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi hành giả tu tinh tấn, nên nghĩ thế này: Việc tu tinh tấn ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi hành giả tu định, nên nghĩ thế này: Việc tu tĩnh lự ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi hành giả tu tuệ, nên nghĩ thế này: Việc tu Bát-nhã ấy là nhằm ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào sắc để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thọ, tưởng, hành, thức để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ sắc mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ thọ, tưởng, hành, thức mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào nhãn xứ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ nhãn xứ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào sắc xứ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ sắc xứ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào nhãn giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ nhãn giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào nhĩ giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ nhĩ giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào tỷ giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ tỷ giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào thiệt giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ thiệt giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào thân giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ thân giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào ý giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ ý giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào địa giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thủy, hỏa, phong, không, thức giới để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ địa giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào vô minh để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ vô minh mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào Bố thí ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ Bố thí ba-la-mật-đa mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào pháp không bên trong để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ pháp không bên trong mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào chân như để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ chân như mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào Thánh đế khổ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào Thánh đế tập, diệt, đạo để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ Thánh đế khổ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ Thánh đế tập, diệt, đạo mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào bốn Tĩnh lự để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ bốn Tĩnh lự mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào tám Giải thoát để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ tám Giải thoát mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào bốn Niệm trụ để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ bốn Niệm trụ mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát Không để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ pháp môn giải thoát Không mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào mười địa Bồ-tát để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ mười địa Bồ-tát mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào năm loại mắt để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào sáu phép thần thông để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ năm loại mắt mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ sáu phép thần thông mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào mười lực của Phật để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ mười lực của Phật mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào pháp không quên mất để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào tánh luôn luôn xả để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ pháp không quên mất mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ tánh luôn luôn xả mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào trí Nhất thiết để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ trí Nhất thiết mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Đà-la-ni để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Tam-ma-địa tất cả pháp môn Tam-ma-địa để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ tất cả pháp môn Đà-la-ni mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào quả Dự lưu để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ quả Dự lưu mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng chấp giữ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào quả vị Độc giác để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ quả vị Độc giác mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào tất cả hạnh Đại Bồ-tát để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ tất cả hạnh Đại Bồ-tát mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, hành giả chẳng nên dựa vào quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật để thủ đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp giữ quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật mới chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện nam, đối với sắc hành giả chớ sinh tham ái; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với nhãn xứ hành giả chớ sinh tham ái; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với sắc xứ hành giả chớ sinh tham ái; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với nhãn giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với nhĩ giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với tỷ giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với thiệt giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với thân giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với ý giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với địa giới hành giả chớ sinh tham ái; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với vô minh hành giả chớ sinh tham ái; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với Bố thí ba-la-mật-đa hành giả chớ sinh tham ái; đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với pháp không bên trong hành giả chớ sinh tham ái; đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì pháp không bên trong cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với chân như hành giả chớ sinh tham ái; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì chân như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với Thánh đế khổ hành giả chớ sinh tham ái; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với bốn Tĩnh lự hành giả chớ sinh tham ái; đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với tám Giải thoát hành giả chớ sinh tham ái; đối với tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với bốn Niệm trụ hành giả chớ sinh tham ái; đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với pháp môn giải thoát Không hành giả chớ sinh tham ái; đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với mười địa Bồ-tát hành giả chớ sinh tham ái. Vì sao? Vì mười địa Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với năm loại mắt hành giả chớ sinh tham ái; đối với sáu phép thần thông cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với mười lực của Phật hành giả chớ sinh tham ái; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với pháp không quên mất hành giả chớ sinh tham ái; đối với tánh luôn luôn xả cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với trí Nhất thiết hành giả chớ sinh tham ái; đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với tất cả pháp môn Đà-lani hành giả chớ sinh tham ái; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với quả Dự lưu hành giả chớ sinh tham ái; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chớ nên sinh tham ái. Vì sao? Vì quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với quả vị Độc giác hành giả chớ sinh tham ái. Vì sao? Vì quả vị Độc giác chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát hành giả chớ sinh tham ái. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Này Thiện nam, đối với quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật hành giả chớ sinh tham ái. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp là không.
Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Đại Bồ-tát có khả năng làm được việc khó làm là ở trong tự tánh không của tất cả các pháp, mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột, muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Đúng vậy, đúng vậy! Này Thiện Hiện, như lời ông nói, các Đại Bồ-tát có khả năng làm được việc khó làm là ở trong tự tánh không của tất cả các pháp, mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột, muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, các Đại Bồ-tát tuy biết tất cả pháp là như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không nhưng vì nhằm đem lại nghĩa lợi cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì khiến cho thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì nhằm làm nơi nương tựa cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì nhằm làm nơi cư trú cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì dốc làm con đường rốt ráo cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì nhằm làm cồn bãi giữa biển khơi cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì dốc làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì nhằm làm đèn đuốc cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì dốc làm Bậc Đạo Sư cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì nhằm làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì dốc làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì nhằm khiến cho thế gian được nghĩa lợi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành bố thí, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành tịnh giới, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành an nhẫn, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành tinh tấn, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành tĩnh lự, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành Bát-nhã, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm cho thế gian được nghĩa lợi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì dốc khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì nhằm cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi nơi năm cõi, đặt họ ở bờ Niết-bàn vô úy kia mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì khiến cho thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì dốc cứu vớt hữu tình khỏi ưu sầu khổ não, đặt họ ở bờ Niết-bàn an ổn kia mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì khiến cho thế gian được an lạc mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì muốn cứu vớt các thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì muốn cứu vớt các khổ về sinh tử của hữu tình mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột mới có khả năng nói đúng như thật về pháp đoạn khổ; hữu tình nghe rồi, nương vào giáo pháp của ba thừa mà lần lượt tu hành để được giải thoát.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì muốn cứu vớt các thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì dốc làm chỗ nương tựa cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì nhằm khiến cho tất cả hữu tình đang bị các sự sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não giải thoát khỏi sự sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não an trú nơi cõi Niếtbàn vô dư mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì dốc làm chỗ nương tựa cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát vì làm chỗ cư trú cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát muốn vì hữu tình giảng nói tất cả các pháp đều chẳng hòa hợp mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm nơi cư trú cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện lại bạch:
–Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả các pháp đều chẳng hòa hợp?
Phật dạy:
Này Thiện Hiện, sắc chẳng hòa hợp tức là sắc chẳng hệ thuộc nhau; sắc chẳng hệ thuộc nhau tức là sắc không sinh; sắc không sinh tức là sắc không diệt; sắc không diệt tức là sắc chẳng hòa hợp; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa hợp tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ thuộc nhau; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hệ thuộc nhau tức là thọ, tưởng, hành, thức không sinh; thọ, tưởng, hành, thức không sinh tức là thọ, tưởng, hành, thức không diệt; thọ, tưởng, hành, thức không diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng hòa hợp tức là nhãn xứ chẳng hệ thuộc nhau; nhãn xứ chẳng hệ thuộc nhau tức là nhãn xứ không sinh; nhãn xứ không sinh tức là nhãn xứ không diệt; nhãn xứ không diệt tức là nhãn xứ chẳng hòa hợp; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hòa hợp tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hệ thuộc nhau; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hệ thuộc nhau tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sinh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sinh tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không diệt; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không diệt tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng hòa hợp tức là sắc xứ chẳng hệ thuộc nhau; sắc xứ chẳng hệ thuộc nhau tức là sắc xứ không sinh; sắc xứ không sinh tức là sắc xứ không diệt; sắc xứ không diệt tức là sắc xứ chẳng hòa hợp; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hòa hợp tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hệ thuộc nhau; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hệ thuộc nhau tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sinh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sinh tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không diệt; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không diệt tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng hòa hợp tức là nhãn giới chẳng hệ thuộc nhau; nhãn giới chẳng hệ thuộc nhau tức là nhãn giới không sinh; nhãn giới không sinh tức là nhãn giới không diệt; nhãn giới không diệt tức là nhãn giới chẳng hòa hợp; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không sinh; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không diệt; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, nhĩ giới chẳng hòa hợp tức là nhĩ giới chẳng hệ thuộc nhau; nhĩ giới chẳng hệ thuộc nhau tức là nhĩ giới không sinh; nhĩ giới không sinh tức là nhĩ giới không diệt; nhĩ giới không diệt tức là nhĩ giới chẳng hòa hợp; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không sinh; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không diệt; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, tỷ giới chẳng hòa hợp tức là tỷ giới chẳng hệ thuộc nhau; tỷ giới chẳng hệ thuộc nhau tức là tỷ giới không sinh; tỷ giới không sinh tức là tỷ giới không diệt; tỷ giới không diệt tức là tỷ giới chẳng hòa hợp; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không sinh; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không diệt; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, thiệt giới chẳng hòa hợp tức là thiệt giới chẳng hệ thuộc nhau; thiệt giới chẳng hệ thuộc nhau tức là thiệt giới không sinh; thiệt giới không sinh tức là thiệt giới không diệt; thiệt giới không diệt tức là thiệt giới chẳng hòa hợp; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không sinh; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không diệt; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, thân giới chẳng hòa hợp tức là thân giới chẳng hệ thuộc nhau; thân giới chẳng hệ thuộc nhau tức là thân giới không sinh; thân giới không sinh tức là thân giới không diệt; thân giới không diệt tức là thân giới chẳng hòa hợp; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không sinh; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không diệt; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, ý giới chẳng hòa hợp tức là ý giới chẳng hệ thuộc nhau; ý giới chẳng hệ thuộc nhau tức là ý giới không sinh; ý giới không sinh tức là ý giới không diệt; ý giới không diệt tức là ý giới chẳng hòa hợp; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không sinh; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không sinh tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không diệt; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra không diệt tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, địa giới chẳng hòa hợp tức là địa giới chẳng hệ thuộc nhau; địa giới chẳng hệ thuộc nhau tức là địa giới không sinh; địa giới không sinh tức là địa giới không diệt; địa giới không diệt tức là địa giới chẳng hòa hợp; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hòa hợp tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hệ thuộc nhau; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hệ thuộc nhau tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sinh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sinh tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới không diệt; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không diệt tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, vô minh chẳng hòa hợp tức là vô minh chẳng hệ thuộc nhau; vô minh chẳng hệ thuộc nhau tức là vô minh không sinh; vô minh không sinh tức là vô minh không diệt; vô minh không diệt tức là vô minh chẳng hòa hợp; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hòa hợp tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hệ thuộc nhau; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hệ thuộc nhau tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không sinh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không sinh tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không diệt; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não không diệt tức là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hòa hợp tức là Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hệ thuộc nhau; Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hệ thuộc nhau tức là Bố thí ba-la-mật-đa không sinh; Bố thí ba-lamật-đa không sinh tức là Bố thí ba-la-mật-đa không diệt; Bố thí ba-la-mật-đa không diệt tức là Bố thí ba-la-mật-đa chẳng hòa hợp; Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng hòa hợp tức là Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa chẳng hệ thuộc nhau; Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng hệ thuộc nhau tức là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không sinh; Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không sinh tức là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-lamật-đa không diệt; Tịnh giới cho đến Bát-nhã bala-mật-đa không diệt tức là Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng hòa hợp tức là pháp không bên trong chẳng hệ thuộc nhau; pháp không bên trong chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp không bên trong không sinh; pháp không bên trong không sinh tức là pháp không bên trong không diệt; pháp không bên trong không diệt tức là pháp không bên trong chẳng hòa hợp; pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng hòa hợp tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng hệ thuộc nhau; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không sinh; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không sinh tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không diệt; pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh không diệt tức là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng hòa hợp. Này Thiện Hiện, chân như chẳng hòa hợp tức là chân như chẳng hệ thuộc nhau; chân như chẳng hệ thuộc nhau tức là chân như không sinh; chân như không sinh tức là chân như không diệt; chân như không diệt tức là chân như chẳng hòa hợp; pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng hòa hợp tức là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng hệ thuộc nhau; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không sinh; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không sinh tức là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không diệt; pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không diệt tức là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng hòa hợp tức là Thánh đế khổ chẳng hệ thuộc nhau; Thánh đế khổ chẳng hệ thuộc nhau tức là Thánh đế khổ không sinh; Thánh đế khổ không sinh tức là Thánh đế khổ không diệt; Thánh đế khổ không diệt tức là Thánh đế khổ chẳng hòa hợp; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hòa hợp tức là Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hệ thuộc nhau; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hệ thuộc nhau tức là Thánh đế tập, diệt, đạo không sinh; Thánh đế tập, diệt, đạo không sinh tức là Thánh đế tập, diệt, đạo không diệt; Thánh đế tập, diệt, đạo không diệt tức là Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, bốn Tĩnh lự chẳng hòa hợp tức là bốn Tĩnh lự chẳng hệ thuộc nhau; bốn Tĩnh lự chẳng hệ thuộc nhau tức là bốn Tĩnh lự không sinh; bốn Tĩnh lự không sinh tức là bốn Tĩnh lự không diệt; bốn Tĩnh lự không diệt tức là bốn Tĩnh lự chẳng hòa hợp; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hòa hợp tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hệ thuộc nhau; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hệ thuộc nhau tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không sinh; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không sinh tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không diệt; bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không diệt tức là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng hòa hợp tức là tám Giải thoát chẳng hệ thuộc nhau; tám Giải thoát chẳng hệ thuộc nhau tức là tám Giải thoát không sinh; tám Giải thoát không sinh tức là tám Giải thoát không diệt; tám Giải thoát không diệt tức là tám Giải thoát chẳng hòa hợp; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hòa hợp tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hệ thuộc nhau; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hệ thuộc nhau tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không sinh; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không sinh tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không diệt; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ không diệt tức là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng hòa hợp tức là bốn Niệm trụ chẳng hệ thuộc nhau; bốn Niệm trụ chẳng hệ thuộc nhau tức là bốn Niệm trụ không sinh; bốn Niệm trụ không sinh tức là bốn Niệm trụ không diệt; bốn Niệm trụ không diệt tức là bốn Niệm trụ chẳng hòa hợp; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng hòa hợp tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng hệ thuộc nhau; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng hệ thuộc nhau tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không sinh; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không sinh tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không diệt; bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo không diệt tức là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng hòa hợp tức là pháp môn giải thoát Không chẳng hệ thuộc nhau; pháp môn giải thoát Không chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp môn giải thoát Không không sinh; pháp môn giải thoát Không không sinh tức là pháp môn giải thoát Không không diệt; pháp môn giải thoát Không không diệt tức là pháp môn giải thoát Không chẳng hòa hợp; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hòa hợp tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hệ thuộc nhau; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không sinh; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không sinh tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không diệt; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không diệt tức là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, mười địa Bồ-tát chẳng hòa hợp tức là mười địa Bồ-tát chẳng hệ thuộc nhau; mười địa Bồ-tát chẳng hệ thuộc nhau tức là mười địa Bồ-tát không sinh; mười địa Bồ-tát không sinh tức là mười địa Bồ-tát không diệt; mười địa Bồ-tát không diệt tức là mười địa Bồ-tát chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng hòa hợp tức là năm loại mắt chẳng hệ thuộc nhau; năm loại mắt chẳng hệ thuộc nhau tức là năm loại mắt không sinh; năm loại mắt không sinh tức là năm loại mắt không diệt; năm loại mắt không diệt tức là năm loại mắt chẳng hòa hợp; sáu phép thần thông chẳng hòa hợp tức là sáu phép thần thông chẳng hệ thuộc nhau; sáu phép thần thông chẳng hệ thuộc nhau tức là sáu phép thần thông không sinh; sáu phép thần thông không sinh tức là sáu phép thần thông không diệt; sáu phép thần thông không diệt tức là sáu phép thần thông chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng hòa hợp tức là mười lực của Phật chẳng hệ thuộc nhau; mười lực của Phật chẳng hệ thuộc nhau tức là mười lực của Phật không sinh; mười lực của Phật không sinh tức là mười lực của Phật không diệt; mười lực của Phật không diệt tức là mười lực của Phật chẳng hòa hợp; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hòa hợp tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hệ thuộc nhau; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hệ thuộc nhau tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sinh; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sinh tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không diệt; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không diệt tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng hòa hợp tức là pháp không quên mất chẳng hệ thuộc nhau; pháp không quên mất chẳng hệ thuộc nhau tức là pháp không quên mất không sinh; pháp không quên mất không sinh tức là pháp không quên mất không diệt; pháp không quên mất không diệt tức là pháp không quên mất chẳng hòa hợp; tánh luôn luôn xả chẳng hòa hợp tức là tánh luôn luôn xả chẳng hệ thuộc nhau; tánh luôn luôn xả chẳng hệ thuộc nhau tức là tánh luôn luôn xả không sinh; tánh luôn luôn xả không sinh tức là tánh luôn luôn xả không diệt; tánh luôn luôn xả không diệt tức là tánh luôn luôn xả chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng hòa hợp tức là trí Nhất thiết chẳng hệ thuộc nhau; trí Nhất thiết chẳng hệ thuộc nhau tức là trí Nhất thiết không sinh; trí Nhất thiết không sinh tức là trí Nhất thiết không diệt; trí Nhất thiết không diệt tức là trí Nhất thiết chẳng hòa hợp; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hòa hợp tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hệ thuộc nhau; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hệ thuộc nhau tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không sinh; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không sinh tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không diệt; trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không diệt tức là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng hòa hợp tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng hệ thuộc nhau; tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng hệ thuộc nhau tức là tất cả pháp môn Đà-lani không sinh; tất cả pháp môn Đà-la-ni không sinh tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni không diệt; tất cả pháp môn Đà-la-ni không diệt tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng hòa hợp; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng hòa hợp tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng hệ thuộc nhau; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng hệ thuộc nhau tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không sinh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không sinh tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa Không diệt; tất cả pháp môn Tam-mađịa Không diệt tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng hòa hợp tức là quả Dự lưu chẳng hệ thuộc nhau; quả Dự lưu chẳng hệ thuộc nhau tức là quả Dự lưu không sinh; quả Dự lưu không sinh tức là quả Dự lưu không diệt; quả Dự lưu không diệt tức là quả Dự lưu chẳng hòa hợp; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng hòa hợp tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán chẳng hệ thuộc nhau; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng hệ thuộc nhau tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không sinh; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không sinh tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không diệt; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không diệt tức là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, quả vị Độc giác chẳng hòa hợp tức là quả vị Độc giác chẳng hệ thuộc nhau; quả vị Độc giác chẳng hệ thuộc nhau tức là quả vị Độc giác không sinh; quả vị Độc giác không sinh tức là quả vị Độc giác không diệt; quả vị Độc giác không diệt tức là quả vị Độc giác chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hòa hợp tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hệ thuộc nhau; tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hệ thuộc nhau tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sinh; tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sinh tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát không diệt; tất cả hạnh Đại Bồ-tát không diệt tức là tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hòa hợp tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hệ thuộc nhau; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hệ thuộc nhau tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không sinh; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không sinh tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không diệt; quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không diệt tức là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hòa hợp.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát muốn vì các loài hữu tình giảng nói tất cả các pháp đều có tướng chẳng hòa hợp như vậy mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì sao Đại Bồ-tát muốn tạo con đường cứu cánh cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột muốn vì hữu tình giảng nói pháp thế này: cứu cánh của sắc tức chẳng phải là sắc; cứu cánh của thọ, tưởng, hành, thức tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức; cứu cánh của nhãn xứ tức chẳng phải là nhãn xứ; cứu cánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cứu cánh của sắc xứ tức chẳng phải là sắc xứ; cứu cánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cứu cánh của nhãn giới tức chẳng phải là nhãn giới; cứu cánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của nhĩ giới tức chẳng phải là nhĩ giới; cứu cánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của tỷ giới tức chẳng phải là tỷ giới; cứu cánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của thiệt giới tức chẳng phải là thiệt giới; cứu cánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của thân giới tức chẳng phải là thân giới; cứu cánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của ý giới tức chẳng phải là ý giới; cứu cánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra tức chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra; cứu cánh của địa giới tức chẳng phải là địa giới; cứu cánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cứu cánh của vô minh tức chẳng phải là vô minh; cứu cánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não tức chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não; cứu cánh của Bố thí ba-la-mật-đa tức chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; cứu cánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa tức chẳng phải là Tịnh giới cho đến Bátnhã ba-la-mật-đa; cứu cánh của pháp không bên trong tức chẳng phải là pháp không bên trong; cứu cánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tức chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh; cứu cánh của chân như tức chẳng phải là chân như; cứu cánh của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn tức chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; cứu cánh của Thánh đế khổ tức chẳng phải là Thánh đế khổ; cứu cánh của Thánh đế tập, diệt, đạo tức chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo; cứu cánh của bốn Tĩnh lự tức chẳng phải là bốn Tĩnh lự; cứu cánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc tức chẳng phải là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; cứu cánh của tám Giải thoát tức chẳng phải là tám Giải thoát; cứu cánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ tức chẳng phải là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ; cứu cánh của bốn Niệm trụ tức chẳng phải là bốn Niệm trụ; cứu cánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo tức chẳng phải là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo; cứu cánh của pháp môn giải thoát Không tức chẳng phải là pháp môn giải thoát Không; cứu cánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện tức chẳng phải là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; cứu cánh của mười địa Bồ-tát tức chẳng phải là mười địa Bồ-tát; cứu cánh của năm loại mắt tức chẳng phải là năm loại mắt; cứu cánh của sáu phép thần thông tức chẳng phải là sáu phép thần thông; cứu cánh của mười lực của Phật tức chẳng phải là mười lực của Phật; cứu cánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng tức chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cứu cánh của pháp không quên mất tức chẳng phải là pháp không quên mất; cứu cánh của tánh luôn luôn xả tức chẳng phải là tánh luôn luôn xả; cứu cánh của trí Nhất thiết tức chẳng phải là trí Nhất thiết; cứu cánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng tức chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; cứu cánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni tức chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; cứu cánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cứu cánh của quả Dự lưu tức chẳng phải là quả Dự lưu; cứu cánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán tức chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; cứu cánh của quả vị Độc giác tức chẳng phải là quả vị Độc giác; cứu cánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cứu cánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật tức chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Lại nữa Thiện Hiện, giống như tướng cứu cánh của các pháp này, tướng của tất cả các pháp cũng như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu tướng của tất cả các pháp cũng như tướng cứu cánh thì làm sao Đại Bồ-tát, đối với tất cả pháp, ứng hiện sự giác ngộ vô thượng? Vì sao?
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của sắc có sự phân biệt thế này: Đây là sắc; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của thọ, tưởng, hành, thức có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của nhãn xứ có sự phân biệt thế này: Đây là nhãn xứ; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có sự phân biệt thế này: Đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của sắc xứ có sự phân biệt thế này: Đây là sắc xứ; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có sự phân biệt thế này: Đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của nhãn giới có sự phân biệt thế này: Đây là nhãn giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của nhĩ giới có sự phân biệt thế này: Đây là nhĩ giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của tỷ giới có sự phân biệt thế này: Đây là tỷ giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của thiệt giới có sự phân biệt thế này: Đây là thiệt giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của thân giới có sự phân biệt thế này: Đây là thân giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của ý giới có sự phân biệt thế này: Đây là ý giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra có sự phân biệt thế này: Đây là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của địa giới có sự phân biệt thế này: Đây là địa giới; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có sự phân biệt thế này: Đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của vô minh có sự phân biệt thế này: Đây là vô minh; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não có sự phân biệt thế này: Đây là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não. Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của Bố thí ba-la-mật-đa có sự phân biệt thế này: Đây là Bố thí ba-la-mật-đa; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có sự phân biệt thế này: Đây là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mậtđa.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp không bên trong có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không bên trong; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của chân như có sự phân biệt thế này: Đây là chân như; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có sự phân biệt thế này: Đây là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của Thánh đế khổ có sự phân biệt thế này: Đây là Thánh đế khổ; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của Thánh đế tập, diệt, đạo có sự phân biệt thế này: Đây là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của bốn Tĩnh lự có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Tĩnh lự; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của tám Giải thoát có sự phân biệt thế này: Đây là tám Giải thoát; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ có sự phân biệt thế này: Đây là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của bốn Niệm trụ có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Niệm trụ; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp môn giải thoát Không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp môn giải thoát Không; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện có sự phân biệt thế này: Đây là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của mười địa Bồ-tát có sự phân biệt thế này: Đây là mười địa Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của năm loại mắt có sự phân biệt thế này: Đây là năm loại mắt; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của sáu phép thần thông có sự phân biệt thế này:
Đây là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của mười lực của Phật có sự phân biệt thế này: Đây là mười lực của Phật; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng có sự phân biệt thế này: Đây là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của pháp không quên mất có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không quên mất; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của tánh luôn luôn xả có sự phân biệt thế này: Đây là tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của trí Nhất thiết có sự phân biệt thế này: Đây là trí Nhất thiết; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng có sự phân biệt thế này: Đây là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của tất cả pháp môn Tamma-địa có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của quả Dự lưu có sự phân biệt thế này: Đây là quả Dự lưu; cũng chẳng phải trong cái cứu cánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán có sự phân biệt thế này: Đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của quả vị Độc giác có sự phân biệt thế này: Đây là quả vị Độc giác.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát.
Bạch Thế Tôn, chẳng phải trong cái cứu cánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật có sự phân biệt thế này: Đây là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của sắc không có sự phân biệt thế này: Đây là sắc; trong cái cứu cánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của nhãn xứ không có sự phân biệt thế này: Đây là nhãn xứ; trong cái cứu cánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của sắc xứ không có sự phân biệt thế này: Đây là sắc xứ; trong cái cứu cánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của nhãn giới không có sự phân biệt thế này: Đây là nhãn giới; trong cái cứu cánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của nhĩ giới không có sự phân biệt thế này: Đây là nhĩ giới; trong cái cứu cánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra. Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của tỷ giới không có sự phân biệt thế này: Đây là tỷ giới; trong cái cứu cánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của thiệt giới không có sự phân biệt thế này: Đây là thiệt giới; trong cái cứu cánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của thân giới không có sự phân biệt thế này: Đây là thân giới; trong cái cứu cánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của ý giới không có sự phân biệt thế này: Đây là ý giới; trong cái cứu cánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của địa giới không có sự phân biệt thế này: Đây là địa giới; trong cái cứu cánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của vô minh không có sự phân biệt thế này: Đây là vô minh; trong cái cứu cánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của Bố thí ba-la-mật-đa không có sự phân biệt thế này: Đây là Bố thí ba-la-mật-đa; trong cái cứu cánh của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của pháp không bên trong không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không bên trong; trong cái cứu cánh của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của chân như không có sự phân biệt thế này: Đây là chân như; trong cái cứu cánh của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của Thánh đế khổ không có sự phân biệt thế này: Đây là Thánh đế khổ; trong cái cứu cánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không có sự phân biệt thế này:
Đây là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của bốn Tĩnh lự không có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Tĩnh lự; trong cái cứu cánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của tám Giải thoát không có sự phân biệt thế này: Đây là tám Giải thoát; trong cái cứu cánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của bốn Niệm trụ không có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Niệm trụ; trong cái cứu cánh của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của pháp môn giải thoát Không không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp môn giải thoát Không; trong cái cứu cánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của mười địa Bồ-tát không có sự phân biệt thế này: Đây là mười địa Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của năm loại mắt không có sự phân biệt thế này: Đây là năm loại mắt; trong cái cứu cánh của sáu phép thần thông cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của mười lực của Phật không có sự phân biệt thế này: Đây là mười lực của Phật; trong cái cứu cánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của pháp không quên mất không có sự phân biệt thế này: Đây là pháp không quên mất; trong cái cứu cánh của tánh luôn luôn xả cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của trí Nhất thiết không có sự phân biệt thế này: Đây là trí Nhất thiết; trong cái cứu cánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni; trong cái cứu cánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của quả Dự lưu không có sự phân biệt thế này: Đây là quả Dự lưu; trong cái cứu cánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng không có sự phân biệt thế này: Đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của quả vị Độc giác không có sự phân biệt thế này: Đây là quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không có sự phân biệt thế này: Đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, trong cái cứu cánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật không có sự phân biệt thế này: Đây là quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện, đây là việc khó làm của Đại Bồ-tát, đó là tuy quán tất cả các pháp đều là tướng tịch diệt, nhưng tâm không hề vướng đắm, suy nghĩ thế này: Ta đối với pháp ấy, hiện rõ sự giác ngộ rồi, chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ-đề, vì các loài hữu tình thuyết giảng, khai thị pháp tịch diệt vi diệu như vậy.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì muốn tạo con đường cứu cánh cho thế gian nên phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì muốn tạo ra những cồn bãi nơi biển khơi cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, thí như ở trong biển cả, hay các sông ngòi lớn nhỏ, có các chỗ nhô cao lên khỏi mặt nước, có thể cư trú sinh sống được thì gọi đó là cồn bãi.
Này Thiện Hiện, cũng vậy, khoảng trước, sau của sắc đều dứt, khoảng trước, sau của thọ, tưởng, hành, thức đều dứt; khoảng trước, sau của nhãn xứ đều dứt, khoảng trước, sau của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều dứt; khoảng trước, sau của sắc xứ đều dứt, khoảng trước, sau của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều dứt; khoảng trước, sau của nhãn giới đều dứt, khoảng trước, sau của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của nhĩ giới đều dứt, khoảng trước, sau của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của tỷ giới đều dứt, khoảng trước, sau của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của thiệt giới đều dứt, khoảng trước, sau của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của thân giới đều dứt, khoảng trước, sau của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của ý giới đều dứt, khoảng trước, sau của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều dứt; khoảng trước, sau của địa giới đều dứt, khoảng trước, sau của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều dứt; khoảng trước, sau của vô minh đều dứt, khoảng trước, sau của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não đều dứt; khoảng trước, sau của Bố thí ba-lamật-đa đều dứt, khoảng trước, sau của Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa đều dứt; khoảng trước, sau của pháp không bên trong đều dứt, khoảng trước, sau của pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đều dứt; khoảng trước, sau của chân như đều dứt, khoảng trước, sau của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đều dứt; khoảng trước, sau của Thánh đế khổ đều dứt, khoảng trước, sau của Thánh đế tập, diệt, đạo đều dứt; khoảng trước, sau của bốn Tĩnh lự đều dứt, khoảng trước, sau của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc đều dứt; khoảng trước, sau của tám Giải thoát đều dứt, khoảng trước, sau của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ đều dứt; khoảng trước, sau của bốn Niệm trụ đều dứt, khoảng trước, sau của bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo đều dứt; khoảng trước, sau của pháp môn giải thoát Không đều dứt, khoảng trước, sau của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện đều dứt; khoảng trước, sau của mười địa Bồ-tát đều dứt; khoảng trước, sau của năm loại mắt đều dứt, khoảng trước, sau của sáu phép thần thông đều dứt; khoảng trước, sau của mười lực của Phật đều dứt, khoảng trước, sau của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều dứt; khoảng trước, sau của pháp không quên mất đều dứt, khoảng trước, sau của tánh luôn luôn xả đều dứt; khoảng trước, sau của trí Nhất thiết đều dứt, khoảng trước, sau của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng đều dứt; khoảng trước, sau của tất cả pháp môn Đà-la-ni đều dứt, khoảng trước, sau của tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều dứt; khoảng trước, sau của quả Dự lưu đều dứt, khoảng trước, sau của quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán đều dứt; khoảng trước, sau của quả vị Độc giác đều dứt; khoảng trước, sau của tất cả hạnh Đại Bồ-tát đều dứt; khoảng trước, sau của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật đều dứt.
Này Thiện Hiện, do khoảng trước, sau này đều dứt nên tất cả các pháp đều dứt.
Này Thiện Hiện, khoảng trước, sau của tất cả các pháp này đều dứt tức là tịch diệt, tức là vi diệu, tức là như thật, đó là không, là không có sở đắc, là dứt mọi nẻo đường, là ái dứt hết, lìa nhiễm, không còn gì, là Niết bàn hoàn toàn vắng lặng.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột, muốn vì các loài hữu tình, thuyết giảng khai thị pháp tịch diệt vi diệu như thế.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm tạo ra các cồn bãi cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì dốc làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì dốc phá tan đêm dài vô minh, vì dốc đập vỡ cái vỏ bọc gồm nhiều lớp đen tối luôn phủ che các loài hữu tình; vì nhằm cha trị đôi mắt nhặm do vô tri của các loài hữu tình, khiến được trong sáng, vì tất cả các loài hữu tình ngu tối dốc làm ánh sáng chiếu soi mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì dốc làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì nhằm làm đèn đuốc cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát muốn vì các hữu tình thuyết giảng rõ về sáu pháp Ba-la-mật-đa, và bốn nhiếp pháp tương hợp với kinh điển, nghĩa lý chân thật, dùng các phương tiện để giáo hóa dẫn dắt, khuyên họ tu học mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm đèn đuốc cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì nhằm làm bậc đạo sư cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát vì muốn khiến cho các hữu tình đang bị lôi cuốn theo tà đạo bỏ làm bốn việc chẳng nên làm, vì họ giảng nói rõ về con đường duy nhất để quay trở về nẻo chánh, vì muốn cho kẻ bị cấu nhiễm được thanh tịnh; vì muốn cho kẻ lo sầu được vui vẻ; vì muốn cho người khổ não được an lạc; vì muốn cho các loài hữu tình theo nẻo nhận thức lầm lạc, chứng pháp như thật; vì muốn cho các loài hữu tình mãi bị trôi nổi trong sinh tử được nhập Niết-bàn mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm bậc đạo sư cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì nhằm làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột là muốn vì các loài hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, thọ, tưởng, hành, thức là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn xứ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc xứ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhĩ giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tỷ giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thiệt giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thân giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ ý giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ địa giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ vô minh là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Bố thí ba-la-mật-đa là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không bên trong là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ chân như là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Thánh đế khổ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, Thánh đế tập, diệt, đạo là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Tĩnh lự là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tám Giải thoát là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Niệm trụ là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp môn giải thoát Không là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười địa Bồ-tát là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ năm loại mắt là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, sáu phép thần thông là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười lực của Phật là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không quên mất là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tánh luôn luôn xả là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ trí Nhất thiết là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả Dự lưu là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Độc giác là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, tại sao Đại Bồ-tát vì nhằm làm nơi hướng tới cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột, muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc lấy hư không làm chỗ hướng đến, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn xứ lấy hư không làm chỗ hướng đến, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc xứ lấy hư không làm chỗ hướng đến, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhĩ giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tỷ giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thiệt giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thân giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ ý giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ địa giới lấy hư không làm chỗ hướng đến, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ vô minh lấy hư không làm chỗ hướng đến, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Bố thí ba-la-mật-đa lấy hư không làm chỗ hướng đến, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự,
Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không bên trong lấy hư không làm chỗ hướng đến, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ chân như lấy hư không làm chỗ hướng đến, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Thánh đế khổ lấy hư không làm chỗ hướng đến, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Tĩnh lự lấy hư không làm chỗ hướng đến, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tám Giải thoát lấy hư không làm chỗ hướng đến, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Niệm trụ lấy hư không làm chỗ hướng đến, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp môn giải thoát Không lấy hư không làm chỗ hướng đến, pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười địa Bồ-tát cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ năm loại mắt lấy hư không làm chỗ hướng đến, sáu phép thần thông cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười lực của Phật lấy hư không làm chỗ hướng đến, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không quên mất lấy hư không làm chỗ hướng đến, tánh luôn luôn xả cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ trí Nhất thiết lấy hư không làm chỗ hướng đến, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni lấy hư không làm chỗ hướng đến, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả Dự lưu lấy hư không làm chỗ hướng đến, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Độc giác cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật lấy hư không làm chỗ hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn xứ chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ sắc xứ chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhãn giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ nhĩ giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tỷ giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thiệt giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ thân giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thân giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ ý giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của ý giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ địa giới chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của địa giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ vô minh chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của vô minh là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Bố thí ba-lamật-đa chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Bố thí bala-mật-đa là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không bên trong chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp không bên trong là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ chân như chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của chân như là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ Thánh đế khổ chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Tĩnh lự chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của bốn Tĩnh lự là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tám Giải thoát chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tám Giải thoát là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ bốn Niệm trụ chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của bốn Niệm trụ là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp môn giải thoát Không chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát Không là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười địa Bồtát chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của mười địa Bồ-tát là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ năm loại mắt chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Sáu phép thần thông cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ mười lực của Phật chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của mười lực của Phật là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ pháp không quên mất chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ trí Nhất thiết chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của trí Nhất thiết là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả Dự lưu chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của quả Dự lưu là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Độc giác chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của quả vị Độc giác là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến. Vì các hữu tình nêu giảng, chỉ rõ quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ chẳng hướng đến. Vì sao? Vì tánh của quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật là không; trong tánh không, không có chỗ hướng đến, không có chỗ chẳng hướng đến.
Này Thiện Hiện, đó là Đại Bồ-tát vì nhằm làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột.
Vì sao? Này Thiện Hiện, vì tất cả các pháp đều lấy không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong vô tướng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô nguyện làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong vô nguyện, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không sinh khởi, không tạo tác, làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không sinh khởi, không tạo tác, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không sinh, không diệt làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không sinh, không diệt, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không nhiễm, không tịnh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không nhiễm, không tịnh, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không sở hữu làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không sở hữu, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy huyễn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong huyễn, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy mộng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong mộng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tiếng vang làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tiếng vang, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy ảnh tượng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong ảnh tượng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bóng sáng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong bóng sáng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy dợn nắng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong dợn nắng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy việc biến hóa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong việc biến hóa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thành ảo làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong thành ảo, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô lượng, vô biên làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy việc chẳng cho, chẳng lấy làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong việc chẳng cho, chẳng lấy, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy chẳng nâng cao, chẳng hạ thấp làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong chẳng nâng cao, chẳng hạ thấp, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không đến, không đi làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không đến, không đi, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy không tăng, không giảm làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong không tăng, không giảm, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy chẳng vào chẳng ra làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong chẳng vào chẳng ra, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự chẳng tụ, chẳng tán làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong sự chẳng tụ, chẳng tán, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự chẳng hợp, chẳng lìa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chúng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong sự chẳng hợp, chẳng lìa, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy ngã làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì ngã rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy hữu tình làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì hữu tình rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy dòng sinh mạng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì dòng sinh mạng rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng sinh khởi làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự sinh rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự nuôi dưỡng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự nuôi dưỡng rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự trưởng thành làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự trưởng thành rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy chủ thể luân hồi làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì chủ thể luân hồi rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy ý sinh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì ý sinh rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nho đồng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì ngã tối thắng rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng làm việc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khả năng làm việc rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng khiến người làm việc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khả năng khiến người làm việc rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng thọ quả báo làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khả năng thọ quả báo rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng khiến người thọ nghiệp làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khả năng khiến người thọ nghiệp rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng tạo nghiệp làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự tự thọ quả báo rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khả năng khiến người tạo nghiệp làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khả năng khiến người tạo nghiệp rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự hiểu biết làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự hiểu biết rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự nhận thức làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự nhận thức rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Thường làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Thường rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Lạc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Lạc rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Ngã làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Ngã rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Tịnh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Tịnh rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô thường làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì vô thường rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy khổ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì khổ rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô ngã làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì vô ngã rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bất tịnh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bất tịnh rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự tham làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự tham rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự sân làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự sân rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự si làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự si rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự nhận thức về đối tượng tạo tác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sự nhận thức về đối tượng tạo tác rốt ráo còn không có sở hữu, huống là có chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến, có thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy chân như làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong chân như, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong pháp giới, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp tánh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong pháp tánh, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tánh không hư vọng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh không hư vọng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tánh chẳng đổi khác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh chẳng đổi khác, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tánh bình đẳng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh bình đẳng, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tánh ly sinh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh ly sinh, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp định làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong pháp định, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp trụ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong pháp trụ, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thật tế làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong thật tế, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy cảnh giới hư không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong cảnh giới hư không, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sự bất động làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong sự bất động, chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến, rốt ráo đều chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sắc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sắc, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thọ, tưởng, hành, thức làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhãn xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhãn xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sắc xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sắc xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhãn giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhãn giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sắc giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sắc giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhãn thức giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhãn thức giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhãn xúc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhãn xúc, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy địa giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì địa giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy vô minh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì vô minh, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Bố thí ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Bố thí ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Tịnh giới ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Tịnh giới ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy An nhẫn ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì An nhẫn ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Tinh tấn ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Tinh tấn ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Tĩnh lự ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Tĩnh lự ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Bátnhã ba-la-mật-đa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Bátnhã ba-la-mật-đa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không bên trong làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không bên trong, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không bên ngoài làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không bên ngoài, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không cả trong ngoài làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không cả trong ngoài, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không không, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không lớn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không lớn, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không thắng nghĩa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không thắng nghĩa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không hữu vi làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không hữu vi, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không vô vi làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không vô vi, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không rốt ráo làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không rốt ráo, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không không biên giới làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không không biên giới, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không tản mạn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không tản mạn, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không không đổi khác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không không đổi khác, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không bản tánh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không bản tánh, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không tự tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không tự tướng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không cộng tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không cộng tướng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không nơi tất cả pháp làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không nơi tất cả pháp, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không chẳng thể nắm bắt được làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không không tánh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không không tánh, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không tự tánh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không tự tánh, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp không không tánh tự tánh làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp không không tánh tự tánh, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Niệm trụ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Niệm trụ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Chánh đoạn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Chánh đoạn, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Thần túc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Thần túc, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy năm Căn làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì năm Căn, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy năm Lực làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì năm Lực, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bảy chi Đẳng giác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bảy chi Đẳng giác, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tám chi Thánh đạo làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tám chi Thánh đạo, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Thánh đế khổ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Thánh đế tập làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Thánh đế tập, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Thánh đế diệt làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Thánh đế diệt, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Thánh đế đạo làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Thánh đế đạo, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Tĩnh lự làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Tĩnh lự, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Vô lượng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Vô lượng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn Định vô sắc làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn Định vô sắc, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tám Giải thoát làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tám Giải thoát, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tám Thắng xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tám Thắng xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy chín Định thứ đệ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì chín Định thứ đệ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy mười Biến xứ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì mười Biến xứ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp môn giải thoát Không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Không, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy năm loại mắt làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì năm loại mắt, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy sáu phép thần thông làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì sáu phép thần thông, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tất cả pháp môn Đà-la-ni làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy mười lực của Phật làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì mười lực của Phật, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn điều không sợ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn điều không sợ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy bốn sự hiểu biết thông suốt làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì bốn sự hiểu biết thông suốt, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy đại Từ làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì đại Từ, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy đại Bi, đại Hỷ, đại Xả làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy mười tám pháp Phật bất cộng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì mười tám pháp Phật bất cộng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy quả Dự lưu làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì quả Dự lưu, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy quả vị Độc giác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì quả vị Độc giác, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy Đại Bồ-tát làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy trí Nhất thiết làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trí Nhất thiết, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy trí Đạo tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trí Đạo tướng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, tất cả các pháp đều lấy trí Nhất thiết tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trí Nhất thiết tướng, rốt ráo còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có chỗ hướng đến, chẳng phải chỗ hướng đến.
Này Thiện Hiện, như thế là Đại Bồ-tát do quyết lòng làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]