SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ I
Phẩm 48: BỒ-TÁT AN TRỤ
(QUYỂN 324 - 325)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì nên trụ ở đâu và trụ như thế nào? Phật dạy:
–Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đối với tất cả hữu tình nên trụ tâm bình đẳng, chẳng nên trụ tâm bất bình đẳng; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm bình đẳng, chẳng nên khởi tâm bất bình đẳng; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm bình đẳng mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm bất bình đẳng mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm đại Từ, chẳng nên khởi tâm giận dữ; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm đại Từ mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm giận dữ mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm đại Bi, chẳng nên khởi tâm não hại; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm đại Bi mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm não hại mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm đại Hỷ, chẳng nên khởi tâm ganh ghét; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm đại Hỷ mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm ganh ghét mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm đại Xả, chẳng nên khởi tâm phe nhóm lệch lạc; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm đại Xả mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm phe nhóm lệch lạc mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm cung kính, chẳng nên khởi tâm kiêu mạn; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm cung kính mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm kiêu mạn mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm ngay thẳng, thật thà, chẳng nên khởi tâm dối trá dua nịnh; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm ngay thẳng, thật thà mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm dối trá dua nịnh mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm mềm mỏng, chẳng nên khởi tâm ngang ngạnh; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm mềm mỏng mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm ngang ngạnh mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm lợi ích, chẳng nên khởi tâm chẳng lợi ích; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm lợi ích mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm chẳng lợi ích mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm an lạc, chẳng nên khởi tâm chẳng an lạc; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm an lạc mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm chẳng an lạc mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm không vướng mắc, chẳng nên khởi tâm có vướng mắc; đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm không vướng mắc mà nói với họ, chẳng nên dùng tâm có vướng mắc mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như cha mẹ, như anh em, như chị em, như con trai, con gái, như bà con, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như bạn bè, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như thầy dạy thân thuộc, như bậc thầy mẫu mực, như đệ tử, như bạn đồng học, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như bậc Đại Bồ-tát, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm xem như Bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm cứu giúp, thương yêu, che chở, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm rốt ráo không, không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, cũng dùng tâm này mà nói với họ; đối với tất cả hữu tình nên khởi tâm không, vô tướng, vô nguyện, cũng dùng tâm này mà nói với họ.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên an trú nơi đấy.
Lại nữa Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự xa lìa việc giết hại sinh mạng, cũng khuyên người khác xa lìa việc giết hại sinh mạng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa sự giết hại sinh mạng, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa giết hại sinh mạng; nên tự xa lìa việc không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, cũng khuyên người khác xa lìa việc không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa việc không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa việc không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự xa lìa lời nói hư dối, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói hư dối, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói hư dối, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói hư dối; nên tự xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, cũng khuyên người khác xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, hoan hỷ khen ngợi người xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu bậc Sơ thiền, cũng khuyên người khác tu Sơ thiền, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu Sơ thiền, hoan hỷ khen ngợi người tu Sơ thiền; nên tự tu đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, cũng khuyên người khác tu các bậc đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền, hoan hỷ khen ngợi người tu các bậc đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu Từ vô lượng, cũng khuyên người khác tu Từ vô lượng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu Từ vô lượng, hoan hỷ khen ngợi người tu Từ vô lượng; nên tự tu Bi, Hỷ, Xả vô lượng, cũng khuyên người khác tu Bi, Hỷ, Xả vô lượng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu Bi, Hỷ, Xả vô lượng, hoan hỷ khen ngợi người tu Bi, Hỷ, Xả vô lượng.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu định Không vô biên xứ, cũng khuyên người khác tu định Không vô biên xứ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu định Không vô biên xứ, hoan hỷ khen ngợi người tu định Không vô biên xứ; nên tự tu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, cũng khuyên người khác tu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoan hỷ khen ngợi người tu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người làm viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa; nên tự làm viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-lamật-đa, cũng khuyên người khác làm viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp làm viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người làm viên mãn Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự an trú nơi pháp không bên trong, cũng khuyên người khác an trú nơi pháp không bên trong, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú nơi pháp không bên trong, hoan hỷ khen ngợi người an trú nơi pháp không bên trong; nên tự an trú nơi pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng khuyên người khác an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh, hoan hỷ khen ngợi người an trú nơi pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự an trú nơi chân như, cũng khuyên người khác an trú nơi chân như, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú nơi chân như, hoan hỷ khen ngợi người an trú nơi chân như; nên tự an trú nơi pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, cũng khuyên người khác an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hoan hỷ khen ngợi người an trú nơi pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu bốn Niệm trụ, cũng khuyên người khác tu bốn Niệm trụ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu bốn Niệm trụ, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn Niệm trụ; nên tự tu bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo, cũng khuyên người khác tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự an trú Thánh đế khổ, cũng khuyên người khác an trú Thánh đế khổ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú Thánh đế khổ, hoan hỷ khen ngợi người an trú Thánh đế khổ; nên tự an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng khuyên người khác an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp an trú Thánh đế tập, diệt, đạo, hoan hỷ khen ngợi người an trú Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu bốn Tĩnh lự, cũng khuyên người khác tu bốn Tĩnh lự, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu bốn Tĩnh lự, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn Tĩnh lự; nên tự tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, cũng khuyên người khác tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, hoan hỷ khen ngợi người tu bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu tám Giải thoát, cũng khuyên người khác tu tám Giải thoát, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu tám Giải thoát, hoan hỷ khen ngợi người tu tám Giải thoát; nên tự tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, cũng khuyên người khác tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ, hoan hỷ khen ngợi người tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu pháp môn giải thoát Không, cũng khuyên người khác tu pháp môn giải thoát Không, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu pháp môn giải thoát Không, hoan hỷ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát Không; nên tự tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, cũng khuyên người khác tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện, hoan hỷ khen ngợi người tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự thực hiện viên mãn bậc Cực hỷ, cũng khuyên người khác thực hiện viên mãn bậc Cực hỷ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp thực hiện viên mãn bậc Cực hỷ, hoan hỷ khen ngợi người thực hiện viên mãn bậc Cực hỷ; nên tự thực hiện viên mãn bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng khuyên người khác thực hiện viên mãn bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp thực hiện viên mãn bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, hoan hỷ khen ngợi người thực hiện viên mãn bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự làm viên mãn năm loại mắt, cũng khuyên người khác làm viên mãn năm loại mắt, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp làm viên mãn năm loại mắt, hoan hỷ khen ngợi người làm viên mãn năm loại mắt; nên tự tu viên mãn sáu phép thần thông, cũng khuyên người khác tu viên mãn sáu phép thần thông, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu viên mãn sáu phép thần thông, hoan hỷ khen ngợi người tu viên mãn sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu viên mãn pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên người khác tu viên mãn pháp môn Tam-ma-địa, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu viên mãn pháp môn Tam-ma-địa, hoan hỷ khen ngợi người tu viên mãn pháp môn Tam-ma-địa; nên tự tu viên mãn pháp môn Đà-la-ni, cũng khuyên người khác tu viên mãn pháp môn Đà-la-ni, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu viên mãn pháp môn Đàla-ni, hoan hỷ khen ngợi người tu viên mãn pháp môn Đà-la-ni.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự tu tập viên mãn mười lực của Phật, cũng khuyên người khác tu tập viên mãn mười lực của Phật, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu tập viên mãn mười lực của Phật, hoan hỷ khen ngợi người tu tập viên mãn mười lực của Phật; nên tự tu tập viên mãn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khuyên người khác tu tập viên mãn bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp tu tập viên mãn bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, hoan hỷ khen ngợi người tu tập viên mãn bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch, cũng khuyên người khác quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch, hoan hỷ khen ngợi người quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự thấu đạt chân lý về sự khổ, đoạn trừ nguyên nhân gây khổ, chứng đắc sự diệt tận khổ và tu tập theo con đường diệt trừ khổ, cũng khuyên người khác thấu đạt chân lý về sự khổ, đoạn trừ nguyên nhân gây khổ, chứng đắc sự diệt tận khổ và tu tập theo con đường diệt trừ khổ, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp thấu đạt chân lý về sự khổ, đoạn trừ nguyên nhân gây khổ, chứng đắc sự diệt tận khổ và tu tập theo con đường diệt trừ khổ, hoan hỷ khen ngợi người thấu đạt chân lý về sự khổ, đoạn trừ nguyên nhân gây khổ, chứng đắc sự diệt tận khổ và tu tập theo con đường diệt trừ khổ.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự khởi trí chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế đắc quả Dự lưu, cũng khuyên người khác khởi trí chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế đắc quả Dự lưu, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi trí chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế đắc quả Dự lưu, hoan hỷ khen ngợi người khởi trí chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế đắc quả Dự lưu; nên tự khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà chẳng chứng thật tế đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng khuyên người khác khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-lahán mà chẳng chứng thật tế đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà chẳng chứng thật tế đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoan hỷ khen ngợi người khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà chẳng chứng thật tế đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự nhập địa vị Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, cũng khuyên người khác nhập địa vị Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp nhập địa vị Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, hoan hỷ khen ngợi người nhập địa vị Chánh tánh ly sinh của Bồtát.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự làm nghiêm tịnh cõi Phật, cũng khuyên người khác làm nghiêm tịnh cõi Phật, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp làm nghiêm tịnh cõi Phật, hoan hỷ khen ngợi người làm nghiêm tịnh cõi Phật.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, cũng khuyên người khác đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình, hoan hỷ khen ngợi người đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự phát khởi thần thông Bồ-tát, cũng khuyên người khác phát khởi thần thông Bồ-tát, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp phát khởi thần thông Bồ-tát, hoan hỷ khen ngợi người phát khởi thần thông Bồtát.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự khởi trí Nhất thiết, cũng khuyên người khác khởi trí Nhất thiết, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi trí Nhất thiết, hoan hỷ khen ngợi người khởi trí Nhất thiết; nên tự khởi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, cũng khuyên người khác khởi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng, hoan hỷ khen ngợi người khởi trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục, cũng khuyên người khác đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục, hoan hỷ khen ngợi người đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự khởi pháp không quên mất, cũng khuyên người khác khởi pháp không quên mất, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi pháp không quên mất, hoan hỷ khen ngợi người khởi pháp không quên mất; nên tự khởi tánh luôn luôn xả, cũng khuyên người khác khởi tánh luôn luôn xả, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp khởi tánh luôn luôn xả, hoan hỷ khen ngợi người khởi tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự nhiếp thọ tuổi viên mãn, cũng khuyên người khác nhiếp thọ tuổi viên mãn, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp nhiếp thọ tuổi viên mãn, hoan hỷ khen ngợi người nhiếp thọ tuổi viên mãn.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự chuyển pháp luân, cũng khuyên người khác chuyển pháp luân, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp chuyển pháp luân, hoan hỷ khen ngợi người chuyển pháp luân.
Này Thiện Hiện, nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên tự nhiếp hộ khiến chánh pháp tồn tại, cũng khuyên người khác nhiếp hộ khiến chánh pháp tồn tại, thường xuyên chính thức tuyên dương pháp nhiếp hộ khiến chánh pháp tồn tại, hoan hỷ khen ngợi người nhiếp hộ khiến chánh pháp tồn tại.
Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nên học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế; nếu học như vậy thì mới có khả năng an trú nơi pháp an trú; nếu học như vậy, an trú như vậy, thì đối với sắc không bị chướng ngại, đối với thọ, tưởng, hành, thức không bị chướng ngại; đối với nhãn xứ không bị chướng ngại, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không bị chướng ngại; đối với sắc xứ không bị chướng ngại, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không bị chướng ngại; đối với nhãn giới không bị chướng ngại, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không bị chướng ngại; đối với sắc giới không bị chướng ngại, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không bị chướng ngại; đối với nhãn thức giới không bị chướng ngại, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không bị chướng ngại; đối với nhãn xúc không bị chướng ngại, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không bị chướng ngại; đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không bị chướng ngại, đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không bị chướng ngại; đối với địa giới không bị chướng ngại, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không bị chướng ngại; đối với vô minh không bị chướng ngại, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não không bị chướng ngại; đối với việc xa lìa sự sát hại sinh mạng không bị chướng ngại, đối với việc xa lìa sự không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, lời nói hư dối, lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, tham dục, sân giận, tà kiến không bị chướng ngại; đối với bốn Tĩnh lự không bị chướng ngại, đối với bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc không bị chướng ngại; đối với Bố thí ba-la-mật-đa không bị chướng ngại, đối với Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bátnhã ba-la-mật-đa không bị chướng ngại; đối với pháp không bên trong không bị chướng ngại, đối với pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không bị chướng ngại; đối với chân như không bị chướng ngại, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn không bị chướng ngại; đối với bốn Niệm trụ không bị chướng ngại, đối với bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo không bị chướng ngại; đối với Thánh đế khổ không bị chướng ngại, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không bị chướng ngại; đối với pháp môn giải thoát Không không bị chướng ngại, đối với pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện không bị chướng ngại; đối với bậc Cực hỷ không bị chướng ngại, đối với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không bị chướng ngại; đối với năm loại mắt không bị chướng ngại, đối với sáu phép thần thông không bị chướng ngại; đối với pháp môn Tam-ma-địa Không bị chướng ngại, đối với pháp môn Đà-la-ni không bị chướng ngại; đối với mười lực của Phật không bị chướng ngại, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng không bị chướng ngại; đối với việc quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch không bị chướng ngại, đối với việc biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo không bị chướng ngại; đối với quả Dự lưu không bị chướng ngại, đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không bị chướng ngại; đối với quả vị Độc giác không bị chướng ngại; đối với địa vị nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát không bị chướng ngại, đối với việc làm nghiêm tịnh cõi Phật không bị chướng ngại; đối với việc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình không bị chướng ngại, đối với việc khởi thần thông của Bồ-tát không bị chướng ngại; đối với trí Nhất thiết không bị chướng ngại, đối với trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng không bị chướng ngại; đối với tập khí phiền não tương tục không bị chướng ngại, đối với pháp không quên mất không bị chướng ngại; đối với tánh luôn luôn xả không bị chướng ngại, đối với tuổi thọ viên mãn không bị chướng ngại; đối với việc chuyển pháp luân không bị chướng ngại; đối với sự tồn tại của chánh pháp không bị chướng ngại. Vì sao?
Này Thiện Hiện, vì Đại Bồ-tát ấy từ đời trước đến nay chẳng nhiếp thọ sắc, chẳng nhiếp thọ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nhiếp thọ nhãn xứ, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nhiếp thọ sắc xứ, chẳng nhiếp thọ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nhiếp thọ nhãn giới, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nhiếp thọ sắc giới, chẳng nhiếp thọ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nhiếp thọ nhãn thức giới, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nhiếp thọ nhãn xúc, chẳng nhiếp thọ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nhiếp thọ các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra, chẳng nhiếp thọ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra; chẳng nhiếp thọ địa giới, chẳng nhiếp thọ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nhiếp thọ vô minh, chẳng nhiếp thọ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não; chẳng nhiếp thọ việc xa lìa sự sát hại sinh mạng, chẳng nhiếp thọ việc xa lìa sự không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh, lời nói hư dối, lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp, tham dục, sân giận, tà kiến; chẳng nhiếp thọ bốn Tĩnh lự, chẳng nhiếp thọ bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc; chẳng nhiếp thọ Bố thí ba-la-mật-đa, chẳng nhiếp thọ Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng nhiếp thọ pháp không bên trong, chẳng nhiếp thọ pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nhiếp thọ chân như, chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; chẳng nhiếp thọ bốn Niệm trụ, chẳng nhiếp thọ bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo; chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát Không, chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện; chẳng nhiếp thọ bậc Cực hỷ, chẳng nhiếp thọ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; chẳng nhiếp thọ pháp môn Tam-mađịa, chẳng nhiếp thọ pháp môn Đà-la-ni; chẳng nhiếp thọ mười lực của Phật, chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nhiếp thọ việc quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch, chẳng nhiếp thọ việc biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo; chẳng nhiếp thọ quả Dự lưu, chẳng nhiếp thọ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng nhiếp thọ quả vị Độc; chẳng nhiếp thọ địa vị nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát, chẳng nhiếp thọ việc làm nghiêm tịnh cõi Phật; chẳng nhiếp thọ việc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các hữu tình, chẳng nhiếp thọ việc khởi thần thông của Bồ-tát; chẳng nhiếp thọ trí Nhất thiết, chẳng nhiếp thọ trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng; chẳng nhiếp thọ tập khí phiền não tương tục, chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất; chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả, chẳng nhiếp thọ tuổi thọ viên mãn; chẳng nhiếp thọ việc chuyển pháp luân; chẳng nhiếp thọ sự tồn tại của chánh pháp không bị chướng ngại. Vì sao?
Này Thiện Hiện, sắc chẳng thể nhiếp thọ; nếu sắc chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nhiếp thọ; nếu thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện, nhãn xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhãn xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện, sắc xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu sắc xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện, nhãn giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhãn giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhãn giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Này Thiện Hiện, sắc giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu sắc giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là sắc giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Này Thiện Hiện, nhãn thức giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhãn thức giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhãn thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Này Thiện Hiện, nhãn xúc chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhãn xúc chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhãn xúc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng thể nhiếp thọ; nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Này Thiện Hiện, các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nhiếp thọ; nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nhiếp thọ; nếu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra.
Này Thiện Hiện, địa giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu địa giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nhiếp thọ; nếu thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện, vô minh chẳng thể nhiếp thọ; nếu vô minh chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nhiếp thọ; nếu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu bi khổ ưu não.
Này Thiện Hiện, việc xa lìa giết hại sinh mạng chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa giết hại sinh mạng chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là xa lìa việc giết hại sinh mạng; vì việc xa lìa không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là xa lìa việc không cho mà lấy, dâm dục, tà hạnh.
Này Thiện Hiện, việc xa lìa lời nói hư dối chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa lời nói hư dối chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là việc xa lìa lời nói hư dối; vì xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là việc xa lìa lời nói thô ác, lời nói chia rẽ, lời nói hỗn tạp.
Này Thiện Hiện, việc xa lìa tham dục chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa tham dục chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là việc xa lìa tham dục; vì xa lìa sân giận, tà kiến chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc xa lìa sân giận, tà kiến chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là việc xa lìa sân giận, tà kiến.
Này Thiện Hiện, Sơ thiền chẳng thể nhiếp thọ; nếu Sơ thiền chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu Sơ thiền; đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền chẳng thể nhiếp thọ; nếu các bậc đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền.
Này Thiện Hiện, Từ vô lượng chẳng thể nhiếp thọ; nếu Từ vô lượng chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu Từ vô lượng; Bi, Hỷ, Xả vô lượng chẳng thể nhiếp thọ; nếu Bi, Hỷ, Xả vô lượng chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu Bi, Hỷ, Xả vô lượng.
Này Thiện Hiện, Không vô biên xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu Không vô biên xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu định Không vô biên xứ; định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Này Thiện Hiện, Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ; nếu Bố thí ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa; vì Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ; nếu Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện, pháp không bên trong chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp không bên trong chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là pháp không bên trong; vì pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là pháp không bên ngoài cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện, chân như chẳng thể nhiếp thọ; nếu chân như chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là chân như; vì pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Này Thiện Hiện, bốn Niệm trụ chẳng thể nhiếp thọ; nếu bốn Niệm trụ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu bốn Niệm trụ; bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo chẳng thể nhiếp thọ; nếu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu bốn Chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Này Thiện Hiện, Thánh đế khổ chẳng thể nhiếp thọ; nếu Thánh đế khổ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là Thánh đế khổ; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nhiếp thọ; nếu Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện, tám Giải thoát chẳng thể nhiếp thọ; nếu tám Giải thoát chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu tám Giải thoát; tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nhiếp thọ; nếu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.
Này Thiện Hiện, pháp môn giải thoát Không chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp môn giải thoát Không chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu pháp môn giải thoát Không; pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu pháp môn giải thoát Vô tướng, Vô nguyện.
Này Thiện Hiện, bậc Cực hỷ chẳng thể nhiếp thọ; nếu bậc Cực hỷ chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là bậc Cực hỷ; vì bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng thể nhiếp thọ; nếu bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.
Này Thiện Hiện, năm loại mắt chẳng thể nhiếp thọ; nếu năm loại mắt chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là năm loại mắt; viên mãn sáu phép thần thông chẳng thể nhiếp thọ; nếu viên mãn sáu phép thần thông chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu viên mãn sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện, pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu pháp môn Tam-ma-địa; pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu pháp môn Đà-la-ni.
Này Thiện Hiện, mười lực của Phật chẳng thể nhiếp thọ; nếu mười lực của Phật chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tu tập mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nhiếp thọ; nếu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện, mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch chẳng thể nhiếp thọ; nếu mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận, nghịch.
Này Thiện Hiện, biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo chẳng thể nhiếp thọ; nếu khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo.
Này Thiện Hiện, quả Dự lưu chẳng thể nhiếp thọ; nếu quả Dự lưu chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là quả Dự lưu; vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nhiếp thọ; nếu quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Này Thiện Hiện, quả vị Độc giác chẳng thể nhiếp thọ; nếu quả vị Độc giác chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện, địa vị nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát chẳng thể nhiếp thọ; nếu địa vị nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là địa vị nhập Chánh tánh ly sinh của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, việc làm nghiêm tịnh cõi Phật chẳng thể nhiếp thọ; nếu làm nghiêm tịnh cõi Phật chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là làm nghiêm tịnh cõi Phật.
Này Thiện Hiện, việc đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình chẳng thể nhiếp thọ; nếu đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là đem lại sự thành tựu đầy đủ cho hữu tình.
Này Thiện Hiện, thần thông Bồ-tát chẳng thể nhiếp thọ; nếu thần thông Bồ-tát chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là thần thông Bồ-tát.
Này Thiện Hiện, trí Nhất thiết chẳng thể nhiếp thọ; nếu trí Nhất thiết chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là trí Nhất thiết; vì trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nhiếp thọ; nếu trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Này Thiện Hiện, việc đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục chẳng thể nhiếp thọ; nếu đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục.
Này Thiện Hiện, pháp không quên mất chẳng thể nhiếp thọ; nếu pháp không quên mất chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nhiếp thọ; nếu tánh luôn luôn xả chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện, tuổi thọ viên mãn chẳng thể nhiếp thọ; nếu tuổi thọ viên mãn chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là tuổi thọ viên mãn.
Này Thiện Hiện, việc chuyển pháp luân chẳng thể nhiếp thọ; nếu việc chuyển pháp luân chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là việc chuyển pháp luân.
Này Thiện Hiện, chánh pháp tồn tại chẳng thể nhiếp thọ; nếu chánh pháp tồn tại chẳng thể nhiếp thọ thì đó chẳng phải là chánh pháp tồn tại.
Khi Thế Tôn giảng nói phẩm Bồ-tát an trú ấy thì có một vạn hai ngàn vị Đại Bồ-tát đắc Vô sinh pháp nhẫn.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]