SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ IV

Phẩm 6: Tùy hỷ hồi hướng
(QUYỂN 543 - 544)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 543

QUYỂN 544


QUYỂN 543

Phẩm 6: Tùy hỷ hồi hướng(1)

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị bảo với Cụ thọ Thiện Hiện rằng:

–Đại đức, các Đại Bồ-tát đã có sự tùy hỷ hồi hướng đều thực hiện các việc phước nghiệp, những việc phước nghiệp do bố thí, trì giới, tu tập đối với các hữu tình khác mà có được là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp, là không gì nhiệm mầu hơn, là hơn, là không gì hơn được, là không sánh bằng, là không gì so sánh được.

Cụ thọ Thiện Hiện hỏi Đại Bồ-tát Từ Thị:

–Các Đại Bồ-tát đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng duyên theo vô số, vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương không thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi thế giới không thể nghĩ bàn có vô số, vô lượng, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cắt đường qua lại các cõi, đoạn tuyệt đường hý luận, đã vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng được quả vị mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột; tuần tự như vậy cho đến khi vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, lần hồi cho đến khi Chánh pháp diệt rồi, trong khoảng thời gian giữa đã có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn; hoặc căn lành tương ưng sáu pháp Ba-la-mậtđa; hoặc căn lành tương ưng công đức viên mãn của Phật; hoặc căn lành tương ưng Lực vô úy; hoặc căn lành tương ưng Thần thông ba-la-mật-đa; hoặc căn lành tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; hoặc căn lành tương ưng Đại nguyện Ba-la-mậtđa; hoặc căn lành tương ưng trí Nhất thiết trí; hoặc vì lợi lạc tất cả hữu tình mà đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc vì vô lượng, vô số công đức của chư Phật; hoặc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột đã có diệu lạc; hoặc đã được Đại tự tại Ba-la-mật-đa đối với các pháp; hoặc đã được vô lượng diệu hạnh của thần thông cao tột để có thể chinh phục tất cả những gì không thể hàng phục; hoặc oai lực dũng mãnh như thật của Như Lai không còn chướng ngại, không đối địch, không gì sánh bằng, không gì ví dụ nổi, không giới hạn, hoặc tri kiến Phật; hoặc mười lực Ba-la-mật-đa của Phật; hoặc bốn điều không sợ cao tột viên mãn đã chứng Phật pháp; hoặc có thể phát khởi các pháp thắng nghĩa đã chứng Phật pháp; hoặc chuyển bánh xe pháp; hoặc cầm đuốc pháp; hoặc đánh trống pháp; hoặc thổi loa pháp; hoặc rưới mưa pháp; hoặc lập pháp hội; hoặc đem pháp vị cho các hữu tình tùy ý vui hưởng và đều được làm cho đầy đủ; hoặc đối với giáo pháp vô thượng này là pháp của chư Phật; hoặc pháp của Độc giác; hoặc pháp của Thanh văn đều đã có sự điều phục thắng giải, quyết định hướng tới Tam-bồ-đề; hoặc Phật, Thế Tôn thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột cho các Bồ-tát, nếu tất cả căn lành thù thắng kia, được gọi là căn lành tương ưng với Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc thọ ký Độc giác Bồ-đề cho bậc Độc giác nếu tất cả căn lành thù thắng kia, tương ưng với sự quan sát mười hai nhân duyên; hoặc thọ ký Thanh văn Bồđề cho hàng Thanh văn, nếu tất cả căn lành thù thắng kia tương ưng ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh; hoặc căn lành vô lậu của bậc học và vô học, hoặc các phàm phu đối với các pháp kia đã gieo trồng căn lành; hoặc bốn chúng đệ tử của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là Bí-sô, Bísô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca đã có ba việc phước nghiệp do thí tánh, giới tánh, tu tánh; hoặc đối với giáo pháp chư Phật đã thuyết cho Trời, Rồng, Dược-xoa… nói rộng cho đến Nhân phi nhân đã gieo trồng căn lành; hoặc đã gieo trồng căn lành sau khi Phật nhập Niết-bàn; hoặc các loài hữu tình thân tâm tin ưa, đã phát khởi các căn lành thù thắng đối với Phật, Pháp, Tăng và các thiện sĩ. Tập trung tất cả các căn lành này và công đức khác lại, xem xét và cân nhắc việc đang phát khởi tâm tùy hỷ này vì nó rất tôn quý, rất tối thắng, rất cao cả và nhiệm mầu. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp mà ban cho hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Nguyện đem căn lành này cùng loài hữu tình hướng đến việc mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Như vậy, việc khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đã phát sinh này đối với các việc phước nghiệp được phát sinh khác là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp nhiệm mầu, là cao hơn, là không gì cao hơn, là không gì cao hơn, là không sánh bằng, là không gì có thể so sánh được. Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát kia duyên theo việc như vậy mà khởi lên hành động tương ưng với tâm tùy hỷ hồi hướng, như vậy là có sở duyên, có thể nắm bắt, có giống như sự chấp tướng của Bồ-tát kia không?

Bồ-tát Từ Thị đáp:

–Cụ thọ Thiện Hiện, Đại Bồ-tát kia duyên theo sự việc như vậy mà khởi lên hành động tương ưng với tâm tùy hỷ hồi hướng này, thật không có sở duyên, có thể nắm bắt như thế, giống như tướng mà Bồ-tát đã chấp giữ.

Khi ấy Cụ thọ Thiện Hiện bảo Bồ-tát Từ Thị:

–Nếu không có các việc sở duyên như vậy thì giống như Bồ-tát kia đã chấp lấy tướng, các Bồ-tát kia tùy hỷ hồi hướng mà không thành tâm tưởng, đều thấy như điên đảo. Vì sao? Ví như có người tham đắm việc không sở hữu: Vô thường cho là thường, thật sự khổ lại cho là vui, vô ngã mà bảo là ngã, bất tịnh cho là tịnh; liền phát khởi tưởng, tâm và kiến điên đảo. Như việc sở duyên thật không sở hữu, Bồ-đề và tâm cũng lại như vậy. Tất cả pháp và tất cả cảnh giới cũng như vậy. Nếu tất cả chủng loại đều không sở hữu không sai không khác, thì những gì là việc sở duyên, những gì là tâm tùy hỷ, những gì là Bồ-đề, những gì là hồi hướng? Tại sao Đại Bồ-tát này duyên việc như vậy mà khởi tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?

Bồ-tát Từ Thị trả lời Thiện Hiện:

–Đã khởi sự tùy hỷ hồi hướng như thế thì không nên đối trước các Bồ-tát mới học Đại thừa kia mà nói. Vì sao? Vì người kia nghe sự tùy hỷ hồi hướng như thế thì tâm tin ưa, cung kính đã có, sẽ mất ngay. Như vậy, pháp tùy hỷ hồi hướng nên vì Đại Bồ-tát không thoái chuyển hoặc người đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã phát nguyện lớn gieo trồng căn lành lâu dài, đã được nhiều bạn lành hộ trì mà khai thị phân biệt. Vì sao? Vì những người kia nghe được sự tùy hỷ hồi hướng này tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lùi, chẳng mất. Các Đại Bồ-tát nên đem sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng với các việc phước nghiệp như thế nào hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Chính lúc bấy giờ nên nghĩ: “Chỗ cho sự dụng tâm tùy hỷ hồi hướng, thì sự dụng tâm này đã tận, diệt, ly, biến. Việc sở duyên này và các căn lành cũng đều như tâm tận, diệt, ly, biến. Trong đấy, những gì là chỗ dụng tâm? Và lấy những gì làm việc sở duyên và các căn lành mà nói tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột? Đúng lý, thì tâm này đối với tâm là không thể có sự tùy hỷ hồi hướng, vì không có hai tâm đồng thời khởi lên. Tâm cũng không thể tùy hỷ hồi hướng tự tánh tâm. Vì thế nên tâm tùy hỷ hồi hướng và việc sở duyên đều chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy Thiên đế Thích thưa với Thiện Hiện:

–Các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa nghe việc này, tâm họ sẽ không kinh sợ lui mất. Làm sao chúng Đại Bồ-tát đối với việc sở duyên mà khởi tâm tùy hỷ? Làm sao hộ trì sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột mà chẳng trái lý?

Bấy giờ, Thiện Hiện nương oai lực Bồ-tát Từ Thị bảo Đế Thích:

–Các Đại Bồ-tát duyên theo tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong vô số, vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương không thể nghĩ bàn; để cắt đứt đường qua lại các cõi, đoạn tuyệt sự hý luận, quét sạch mây mù, dọn sạch chông gai, bỏ các gánh nặng, đạt được tự lợi, hết sự trói buộc các cõi, chánh trí được giải thoát, tâm được tự tại đạt đến cứu cánh đệ nhất, vào được cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi chứng được quả vị mong cầu là quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu mà cứu độ chúng hữu tình. Sau khi nhập Niết-bàn cho đến chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian giữa, đã gieo trồng căn lành công đức. Đối với giáo pháp của chư Phật, chúng đệ tử đã gieo trồng căn lành đã khởi lên các công đức khác. Tất cả tập hợp lại xem xét đầy đủ và cân nhắc việc đang phát khởi tâm tùy hỷ này. Vì nó rất cao quý, rất thù thắng, rất cao cả và nhiệm mầu. Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng tâm tùy hỷ này, ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Lúc bấy giờ, nhờ vào phương tiện thiện xảo nên chẳng rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị bảo với Cụ thọ Thiện Hiện:

–Đại Bồ-tát nào tự mình khởi lên tâm tương ưng với sự tùy hỷ hồi hướng nhưng chẳng khởi lên vọng tưởng về tâm tùy hỷ hồi hướng ấy; đối với công đức do niệm Phật cùng các đệ tử nhưng không khởi lên vọng tưởng về công đức của chư Phật cùng các đệ tử; đối với căn lành mà có Trời, Người, A-tố-lạc đã gieo trồng nhưng chẳng khởi lên vọng tưởng về căn lành đối với các Trời, Người, A-tố-lạc để có thể tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì sự phát sinh tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-tát ấy chẳng rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Đại Bồ-tát nào đối với tâm khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng mà tự dấy lên vọng tưởng về tâm tùy hỷ hồi hướng; đối với sự nhớ nghĩ về công đức niệm Phật cùng các đệ tử đã có, lại tự khởi lên vọng tưởng về công đức của niệm Phật cùng các đệ tử; đối với căn lành mà Trời, Người, A-tố-lạc đã gieo trồng, lại khởi lên vọng tưởng về căn lành đó thì mới có thể tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Sự khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-tát như vậy, thì rơi ngay vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Các Đại Bồtát đem tâm như vậy, nhớ nghĩ về tất cả căn lành công đức của chư Phật và các đệ tử; biết đúng đắn rằng tâm này đã tận, diệt, ly, biến, chẳng phải sự tùy hỷ; biết đúng đắn rằng pháp kia tánh nó cũng vậy, chẳng phải sự tùy hỷ. Và hiểu một cách đúng đắn là tâm hồi hướng và pháp tánh cũng vậy; chẳng phải hồi hướng. Phải hiểu cho rõ là pháp được hồi hướng, tánh nó cũng như vậy, chẳng phải được hồi hướng. Nếu có thể dựa vào sự trình bày như vậy, để tùy hỷ và hồi hướng là chánh, chẳng phải tà thì các Đại Bồ-tát đều phải khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng này, để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện, đối với chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát trong quá khứ mà cắt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho khi chứng được quả vị mong cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tiến dần đến lúc nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, cứ như vậy cho đến khi Chánh pháp diệt rồi, trong khoảng thời gian đó đã có bao nhiêu căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa của chư Phật; hoặc căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa mà chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát; hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởi mà chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho bậc Độc giác; hoặc căn lành do đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn; hoặc tất cả căn lành hữu lậu, vô lậu của bậc Hữu học; hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học, hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn; hoặc vì lợi lạc cho tất cả hữu tình nên đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác; hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết chánh pháp; hoặc đối với chánh pháp siêng năng tu học, các căn lành kia được an trụ thắng giải; hoặc các loại phàm phu đã gieo trồng căn lành đối với chánh pháp; hoặc các Trời, Rồng, A-tố-lạc... lắng nghe chánh pháp và sau khi nghe pháp đã gieo trồng căn lành, cho đến loài bàng sinh lắng nghe chánh pháp và nghe pháp rồi đã gieo trồng căn lành; hoặc sau khi chư Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn các trời, người... đã gieo trồng căn lành. Như vậy tập hợp đầy đủ lại tất cả và cân nhắc việc đang phát khởi tâm tùy hỷ này, vì nó rất cao quý, rất thù thắng, rất cao cả và nhiệm mầu. Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng với sự tùy hỷ này, ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Trong lúc này, nên chân chánh mà hiểu rõ các pháp tùy hỷ hồi hướng đã được tận, diệt, ly, biến. Các pháp tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều là không. Mặc dù biết như vậy mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vả lại trong lúc này, nên chân chánh mà hiểu rõ rằng: “Đối với pháp, hoàn toàn không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng.” Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là không. Trong cái không ấy, hoàn toàn không có pháp được và bị tùy hỷ hồi hướng; nên dù biết như vậy, mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo. Vì sao? Vì đối với tâm tùy hỷ và căn lành công đức đã tùy hỷ, Đại Bồ-tát này chẳng sinh chấp trước. Đối với tâm hồi hướng và quả vị Giác ngộ cao tột đã hồi hướng cũng chẳng chấp trước. Do không chấp trước, nên không đọa vào cảnh điên đảo. Như vậy, Bồ-tát đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chân chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt. Đại Bồ-tát nào đối với pháp tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp tùy hỷ hồi hướng, đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng, rồi phát khởi lên tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; Đại Bồ-tát đã khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng như thế sẽ rơi ngay vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo, vì sự khởi lên tùy hỷ hồi hướng như vậy đều là sai, Bồ-tát nên biết và tìm cách tránh xa.

Này Thiện Hiện, đối với tất cả chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát ở đời vị lai cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm đến khi chứng được quả vị mong cầu là Giác ngộ cao tột, tiến dần đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn; như vậy cho đến khi chánh pháp đã diệt rồi, trong khoảng thời gian đó, đã có bao nhiêu căn lành tương ưng Ba-la-mật-đa của chư Phật; hoặc Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát; hoặc căn lành tương ưng sự quán sát duyên khởi mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho bậc Độc giác; hoặc căn lành do phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn, hoặc tất cả căn lành hữu lậu, vô lậu của bậc Hữu học; hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn và giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn; hoặc vì lợi lạc tất cả hữu tình nên đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác; hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết chánh pháp; hoặc đối với chánh pháp siêng năng tu học nên các căn lành kia được an trú thắng giải; hoặc các loài phàm phu đã gieo trồng căn lành đối với chánh pháp; hoặc các Trời, Rồng, A-tố-lạc... lắng nghe chánh pháp và sau khi nghe xong đã gieo trồng căn lành, cho đến bàng sinh cũng lắng nghe chánh pháp và khi nghe xong đã gieo trồng căn lành; hoặc sau khi Đức Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn, các trời, người... đã gieo trồng căn lành. Tất cả những căn lành này tập trung lại đầy đủ và cân nhắc việc đang phát khởi đang phát khởi tâm tùy hỷ này, vì nó rất tôn quý, rất cao cả, rất nhiệm mầu, rất cao siêu. Rồi lại đem các việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Trong lúc này, nên chân chánh để hiểu cho rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng đều tận, diệt, ly, biến. Các pháp bị tùy hỷ hồi hướng thì tự tánh đều là không. Dù biết như vậy, mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vả lại trong lúc ấy nên chân chánh hiểu cho rõ rằng: “Đối với pháp hoàn toàn không có pháp nào là có thể tùy hỷ hồi hướng.” Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là không. Trong không ấy, hoàn toàn không có pháp được và bị tùy hỷ hồi hướng. Dù biết như vậy mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này không thể rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo. Vì sao? Vì đối với căn lành công đức của tâm tùy hỷ và sự tùy hỷ, Đại Bồtát này chẳng sinh chấp trước; đối với tâm hồi hướng và sự hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột cũng chẳng chấp trước. Do không chấp trước, nên không rơi vào chỗ điên đảo. Đại Bồ-tát đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy được gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chân chánh vô thượng, xa lìa tất cả phân biệt hư vọng. Còn Đại Bồ-tát nào, đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp bị tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp bị tùy hỷ hồi hướng; rồi cùng khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát đã khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy thì liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Sự tùy hỷ hồi hướng như vậy là không đúng. Bồ-tát nên biết mà tìm cách lánh xa.

Này Thiện Hiện, đối với chư Phật Thế Tôn trong hiện tại, nếu Đại Bồ-tát đã cắt đứt đường qua lại ở các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm đến khi chứng được sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tiến dần đến lúc nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn; cứ như vậy cho đến khi chánh pháp đã diệt rồi. Trong thời gian đó, có được bao nhiêu căn lành tương ưng Ba-la-mật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng Ba-la-mật-đa mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát; hoặc căn lành tương ưng sự quán sát duyên khởi mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho bậc Độc giác; hoặc căn lành do phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn; hoặc tất cả căn lành hữu lậu và vô lậu của bậc Hữu học; hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Đức Phật Thế Tôn; hoặc vì lợi lạc tất cả hữu tình mà đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác; hoặc Đức Phật Thế Tôn đã tuyên thuyết chánh pháp; hoặc đối với chánh pháp siêng năng tu hành nên các căn lành kia được an trú thắng giải; hoặc các loài phàm phu đã gieo trồng căn lành đối với chánh pháp; hoặc các Trời, Rồng, A-tố-lạc... lắng nghe chánh pháp và khi nghe xong đã gieo trồng căn lành, cho đến loài bàng sinh cũng lắng nghe chánh pháp và khi nghe rồi đã gieo trồng căn lành; hoặc sau khi Đức Phật Thế Tôn nhập diệt, các trời, người... đã gieo trồng căn lành. Tất cả căn lành này tập hợp lại một cách đầy đủ và cân nhắc việc đang phát khởi tâm tùy hỷ này, vì nó rất tôn quý, rất cao cả, rất nhiệm mầu, rất cao siêu. Rồi lại đem các việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Trong lúc này, nên chân chánh hiểu cho rõ các pháp tùy hỷ hồi hướng đã tận, diệt, ly, biến. Các pháp được tùy hỷ hồi hướng, tự tánh đều là không. Dù biết như vậy mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Và cũng trong lúc ấy, nên chân chánh hiểu cho rõ rằng: “Đối với pháp hoàn toàn không có pháp nào là pháp có thể tùy hỷ hồi hướng.” Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là không. Trong cái không ấy, hoàn toàn không có pháp được và bị tùy hỷ hồi hướng. Dù biết như vậy mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồtát này không thể rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Vì sao? Vì đối với căn lành công đức của tâm tùy hỷ và sự tùy hỷ, Đại Bồ-tát này chẳng sinh chấp trước; cũng chẳng chấp trước tâm hồi hướng và sự hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Do không chấp trước, nên không rơi vào cảnh điên đảo. Đại Bồ-tát đã khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy, gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chân chánh vô thượng, xa lìa tất cả phân biệt, hư vọng. Còn Đại Bồ-tát nào; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp bị tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp bị tùy hỷ hồi hướng, rồi cùng khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát đã khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy thì liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như thế là không đúng. Bồ-tát nên biết mà tìm cách lánh xa.

Này Thiện Hiện, đối với tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai, hiện tại; nếu Đại Bồ-tát đã cắt đứt đường qua lại ở các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng được sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tiến dần cho đến lúc nhập vào cõi Vô dư y Niết-bàn, như vậy cho đến khi chánh pháp đã diệt rồi. Trong khoảng thời gian đó, có được bao nhiêu căn lành tương ưng Ba-lamật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng Bala-mật-đa mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồtát; hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởi mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho bậc Độc giác; hoặc căn lành do phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Thanh văn; hoặc tất cả căn lành hữu lậu và vô lậu của bậc Hữu học; hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Đức Phật Thế Tôn; hoặc vì lợi lạc tất cả hữu tình mà đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả; hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác; hoặc Đức Phật Thế Tôn tuyên thuyết chánh pháp; hoặc đối với chánh pháp, siêng năng tu học nên các căn lành kia được an trú thắng giải; hoặc các loài phàm phu đã gieo trồng căn lành đối với chánh pháp; hoặc các Trời, Rồng, A-tố-lạc... lắng nghe chánh pháp và khi nghe xong đã gieo trồng căn lành, cho đến loài bàng sinh cũng lắng nghe chánh pháp và khi nghe rồi đã gieo trồng căn lành; hoặc sau khi Đức Phật Thế Tôn nhập diệt, các trời, người... đã gieo trồng căn lành. Tất cả căn lành này tập hợp lại một cách đầy đủ và cân nhắc việc đang phát khởi tâm tùy hỷ này, vì nó rất cao cả, rất tôn quý, rất mầu nhiệm, rất cao siêu. Rồi lại đem các việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Trong lúc này, nên chân chánh hiểu cho rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng đã tận, diệt, ly, biến. Các pháp bị tùy hỷ hồi hướng, tự tánh đều là không. Dù biết như vậy mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Và cũng trong lúc ấy, nên chân chánh để hiểu rõ rằng: “Đối với pháp hoàn toàn không có pháp nào là pháp có thể tùy hỷ hồi hướng.” Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là không. Trong cái không ấy, hoàn toàn không có pháp được và bị tùy hỷ hồi hướng. Dù biết như vậy, mà vẫn thường tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này không thể rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Vì sao? Vì đối với căn lành công đức của tâm tùy hỷ và sự tùy hỷ, Đại Bồtát này chẳng sinh chấp trước; cũng chẳng chấp trước tâm hồi hướng và sự hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Do không chấp trước, nên không rơi vào cảnh điên đảo. Đại Bồ-tát này đã khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng được gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chân chánh vô thượng, vì đã xa lìa tất cả sự phân biệt hư vọng. Còn Đại Bồ-tát nào, đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng, đối với pháp bị tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp bị tùy hỷ hồi hướng, rồi cùng khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy thì liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như thế là hoàn toàn không đúng. Bồtát nên biết mà tìm cách lánh xa.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào đối với sự tu hành, làm các việc phước nghiệp phải hiểu rõ như thật, mọi xa lìa, vắng lặng; đối với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng hiểu rõ như thật, mọi xa lìa, vắng lặng; biết như vậy rồi, hành Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa; đối với các pháp hoàn toàn không có thủ trước, mà khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng ấy, nên không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Còn Đại Bồ-tát nào, đối với sự tu hành, làm các việc phước nghiệp nhưng chẳng biết như thật sự xa lìa, sự vắng lặng; đối với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng không thể biết được sự xa lìa, sự vắng lặng; đối với tất cả pháp thì chấp trước các tướng mà khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Này Thiện Hiện, Đại Bồ-tát nào đối với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ, nếu muốn phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột ấy, nên nghĩ rằng: “Như Đức Phật Thế Tôn và các đệ tử đều đã diệt đô, tự tánh chẳng phải có, công đức thiện căn cũng như vậy. Ta đã phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột và sự hồi hướng Vô thượng giác, tánh tướng cũng vậy, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.” Biết như vậy rồi, đối với các căn lành mà phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột thì không thể sinh tưởng, tâm, kiến điên đảo, gọi đó là sự tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề chân chánh. Còn Đại Bồ-tát nào lấy sự chấp tướng làm phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; đối với căn lành công đức của Đức Phật và đệ tử đã diệt độ, chấp tướng mà phát khởi tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề. Đấy chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Do đó liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Còn Đại Bồ-tát nào, chẳng lấy tướng làm phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; đối với công đức thiện căn của Đức Phật và đệ tử đã diệt độ, lìa tướng mà phát khởi tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Đấy gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Do vậy nên chẳng rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị hỏi Cụ thọ Thiện Hiện:

–Đại đức, vì sao đối với căn lành công đức của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử, Đại Bồ-tát tùy hỷ tương ưng việc phước nghiệp đều không chấp tướng mà có thể tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột?

Thiện Hiện đáp:

–Nên biết Đại Bồ-tát đã học Bát-nhã ba-la-mậtđa và có những phương tiện thiện xảo như vậy, tuy chẳng chấp tướng nhưng hoàn thành được việc làm, chẳng phải lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có được sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng chân chánh. Vì thế chúng Đại Bồ-tát muốn thành tựu những việc mình làm thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát Từ Thị nói:

–Đại đức Thiện Hiện, chớ nói lời ấy. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chư Phật Thế Tôn cùng chúng đệ tử và căn lành công đức được thành tựu đều không sở hữu và hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Sự tùy hỷ đối với các việc phước nghiệp đã tạo thành và phát tâm hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột cũng không sở hữu và hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Trong đấy, khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phải quán như vầy: “Bản tánh căn lành công đức của chư Phật và chúng đệ tử đời quá khứ đều đã diệt. Sự tùy hỷ đối với các việc phước nghiệp và phát tâm hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột tánh đều vắng lặng. Đối với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và chúng đệ tử, nếu ta chấp lấy tướng phân biệt, đối với sự tạo thành tâm tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp và sự phát tâm hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột mà chấp lấy tướng phân biệt. Dùng sự chấp giữ tướng phân biệt này làm phương tiện để phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột thì chư Phật Thế Tôn đều chẳng chấp nhận. Vì sao? Vì chấp lấy tướng phân biệt của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ để tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột thì gọi là có sở hữu to lớn; vì quá khứ đã diệt nên không sở hữu. Vị lai, hiện tại Đức Phật và các đệ tử chưa đến, chẳng trụ nên cũng chẳng thể nắm bắt được. Nếu chẳng thể nắm bắt được thì chẳng phải cảnh chấp giữ tướng. Nếu chấp giữ tướng như vậy rồi phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng thì liền rơi vào chỗ điên đảo. Nếu có sự sai lầm trong suy nghĩ mà chấp giữ tướng thì nên biết chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Phải không chấp giữ tướng; phải không có sự phân biệt thì mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Vì thế chúng Đại Bồ-tát nên học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhờ năng lực của phương tiện thiện xảo này mới có thể chân chánh phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng. Nếu Đại Bồ-tát muốn học phương tiện thiện xảo như vậy phải luôn luôn lắng nghe thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mậtđa khiến cho thông suốt hoàn toàn, suy nghĩ đúng như lý, siêng năng thỉnh hỏi thầy những nghĩa lý thâm sâu. Vì sao? Nếu chẳng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì rốt cuộc không thể được phương tiện thiện xảo. Nếu không có phương tiện thiện xảo này mà có thể chân chánh phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng thì không có lẽ đó. Vì sao? Vì đối với các công đức của chư Phật và chúng đệ tử ở quá khứ, mà chấp lấy tướng phân biệt, rồi tùy hỷ hồi hướng, thì chư Phật Thế Tôn đều chẳng tùy hỷ. Thế nên chúng Đại Bồ-tát muốn chân chánh phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột đối với căn lành công đức của chư Phật và các đệ tử thì không nên ở trong đó thấy có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt mà phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng. Nếu ở trong đó mà khởi lên có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt, rồi tùy hỷ hồi hướng thì Đức Phật nói việc đó chẳng có ý nghĩa và lợi ích gì cả. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là vọng tưởng phân biệt, gọi là sự lẫn lộn độc hại.

Giống như thức ăn, nước uống với đầy đủ mỹ vị thơm ngon, màu sắc hảo hạng nhưng lẫn chất độc. Người ngu trí cạn lại ham ăn uống nên nuốt vào. Ban đầu tuy có thích thú vui mừng vừa ý, nhưng sau khi thức ăn tiêu hóa phải chuốc lấy các khổ, hoặc đến chết, hoặc gần đến mất mạng. Cũng như vậy, có một loại hữu tình hoàn toàn không giỏi thọ trì, không giỏi quan sát về câu văn, nghĩa lý của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không giỏi đọc tụng, chẳng giỏi thông suốt nghĩa lý thâm sâu nhưng lại bảo người có chủng tánh Đại thừa rằng: “Thiện nam, hãy đến đây! Ngươi đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai và vô lượng, vô biên công đức khác; hoặc đệ tử Phật ở chỗ chư Phật gieo trồng các căn lành; hoặc Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký quả vị Giác ngộ cao tột cho các Bồ-tát và các Bồ-tát ấy đã gieo trồng căn lành; hoặc Đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Thanh văn và Độc giác, loài hữu tình kia đã gieo trồng căn lành; hoặc các Trời, Người, A-tố-lạc ở chỗ chư Phật đã gieo trồng căn lành cho đến khi chánh pháp chưa diệt hết; hoặc các thiện nam, thiện nữ đã gieo trồng căn lành và đã có sự thành tựu công đức do phát sinh căn lành tùy hỷ hồi hướng. Tất cả căn lành này tập hợp lại đầy đủ và đang tùy hỷ ban cho các hữu tình một cách bình đẳng để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.” Sự tùy hỷ hồi hướng như đã nói này là dùng hữu sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt làm phương tiện. Thí như đồ ăn, thức uống của thế gian có lẫn chất độc, nên trước ngon sau hại. Đấy chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng hoàn hảo. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc và chấp giữ tướng phân biệt để phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng đều làm lẫn lộn độc hại. Những người thuộc chủng tánh Bồ-tát, không nên tùy theo những điều đã nói trên mà tu học. Vì vậy Đại đức nên nói thế nào, để các thiện nam trụ Bồtát thừa, phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng, đối với các căn lành công đức của chư Phật và hàng đệ tử trong mười phương ba đời, để đáng gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn, tốt đẹp không độc hại?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Từ Thị:

–Các thiện nam trụ Bồ-tát thừa, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, muốn không hủy báng Phật mà phát tâm tùy hỷ hồi hướng, thì nên nghĩ thế này: “Như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, với Phật nhãn thông suốt không có sự chướng ngại, biết tất cả căn lành công đức, có tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như vậy mà nên tùy hỷ. Nay ta cũng nên tùy hỷ như vậy. Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, với Phật nhãn thông suốt biết khắp, không có chướng ngại, phải đem các việc phước nghiệp hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, nay ta cũng nên hồi hướng như thế.” Các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa, nên khởi sự tùy hỷ hồi hướng như vậy đối với căn lành công đức của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và hàng đệ tử. Nếu khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, thời chẳng hủy báng Phật, mà lại được chư Phật Thế Tôn đồng lòng vui theo. Tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy của Đại Bồ-tát này chẳng lẫn các chất độc, xa lìa các lầm lỗi, nên được gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chân chánh, tốt đẹp, xứng chân pháp giới, ý vui thắng giải, cùng với sự viên mãn tốt đẹp. Này Đại sĩ, các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồtát thừa hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với căn lành công đức của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử; nên khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vầy: “Như giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn và các pháp khác của Phật không rơi vào ba cõi, chẳng phải bó buộc ba đời. Sự tùy hỷ hồi hướng cũng nên như vậy.” Vì sao? Ví như các pháp kia, tự tánh là không, nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời; sự tùy hỷ hồi hướng cũng lại như thế. Nghĩa là các Như Lai, tự tánh là không, nên không rơi ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Công đức của chư Phật, tự tánh cũng là không, nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Thanh văn, Độc giác và các trời, người, tự tánh cũng là không, nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Các căn lành kia, tự tánh là không, nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Đối với sự tùy hỷ kia, tự tánh là không, nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Pháp được hồi hướng tự tánh là không; nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Người hồi hướng tự tánh là không; nên không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Khi hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát phải biết thật rõ và dứt khoát về tánh, tướng các pháp, thì không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời. Nếu không rơi vào ba cõi, chẳng bó buộc ba đời, tức không thể lấy có tướng làm phương tiện, lấy có sở đắc làm phương tiện để phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tất cả pháp, tự tánh không sinh. Nếu pháp chẳng sinh thì không sở hữu. Không thể lấy pháp không sở hữu kia để tùy hỷ hồi hướng, vì không sở hữu. Sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột như vậy của Đại Bồ-tát này không xen lẫn chất độc, không bị mất và hư hoại, gọi là Đại hồi hướng, không đọa, không bó buộc, xứng chân pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nếu các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa, lấy có tướng làm phương tiện hoặc lấy có sở đắc làm phương tiện để phát sinh tâm tùy hỷ hồi hướng đối với căn lành công đức của các Như Lai và hàng đệ tử, thì phải biết đấy là sự tùy hỷ hồi hướng phi pháp. Tâm tùy hỷ hồi hướng phi pháp này chẳng được chư Phật Thế Tôn khen ngợi. Khi hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: “Nhờ căn lành công đức mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới biết rõ như thật rằng có pháp như thế, có thể dựa vào pháp này để phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng mà không sợ trái ngược. Nay ta cũng nên dựa vào pháp này để phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.” Đấy là sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng chân chánh. Do đấy mà chắc chắn sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, làm lợi ích cho tất cả hữu tình.

Bấy giờ, Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện rằng:

–Lành thay, lành thay! Nay ông đã có thể vì các Đại Bồ-tát làm Phật sự lớn. Vì sao? Vì ông đã vì các Đại Bồ-tát mà tuyên nói sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Nhờ những căn lành mà các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết rõ như thật rằng có tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như vậy và phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là xứng chân pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nay chính ông mới là người tuyên thuyết đúng như thật.

Thiện Hiện nên biết, nếu các thiện nam, thiện nữ dùng phương tiện để giáo hóa hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn, đều làm cho họ được an trú mười nẻo nghiệp thiện, thì sẽ được công đức. Đối với công đức ấy, các Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược cho nên nó là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp nhiệm mầu, là hơn, là không có gì hơn được, là không sánh bằng, là không có gì có thể so sánh bằng.

Này Thiện Hiện, ngoài việc làm cho họ trụ mười nẻo nghiệp thiện, nếu các thiện nam, thiện nữ dùng phương tiện để giáo hóa hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đều làm cho họ được an trụ bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc, năm Thần thông thì sẽ được công đức. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược đối với công đức ấy cho nên nó là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp nhiệm mầu, là hơn, là không có gì hơn được, là không sánh bằng và không có gì có thể so sánh bằng.

Này Thiện Hiện, ngoài việc làm cho họ trụ bốn Tĩnh lự..., nếu các thiện nam, thiện nữ dùng phương tiện giáo hóa hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đều làm cho họ được an trú quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề thì sẽ được công đức. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược đối với công đức ấy cho nên nó là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp nhiệm mầu, là hơn, là không có gì hơn được, là không sánh bằng và không có gì có thể so sánh bằng..

Này Thiện Hiện, ngoài việc khiến họ trụ quả Dự lưu; giả sử hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Độc giác Bồđề. Đại Bồ-tát này đã khởi sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược đối với công đức đó nên gọi là cao tột hơn hết, là tôn quý cao cả, là tốt đẹp nhiệm mầu, là hơn, là không gì hơn được, là không sánh bằng và là không có gì có thể so sánh bằng.

Này Thiện Hiện, ngoài việc họ đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu... giả sử hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, nếu hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương này đến chỗ các Bồ-tát kia, mỗi mỗi đều đem đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc men và vô số những dụng cụ vui chơi hảo hạng, trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Ý ông nghĩ sao? Do nguyên nhân đây, các hữu tình có được nhiều phước không?

Thiện Hiện thưa:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Những phước này nếu có hình tướng thì hằng hà sa số thế giới khắp mười phương không thể chứa hết.

Phật bảo Thiện Hiện:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Đối với căn lành công đức của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, nếu các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa mà phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, thì sẽ đạt được công đức hơn trước rất nhiều vô lượng, vô số, tính đếm thí dụ không thể đạt tới được. Vì sao? Vì các thiện nam trụ Bồ-tát thừa này, đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, lại được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, nên xứng chân pháp giới, cao tột không gì so sánh hơn được. Các hữu tình đó đã tích được nhiều phước, nhưng nếu dùng hữu sở đắc làm phương tiện để khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng, thì đối với phước lành, trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến số vô cực cũng chẳng bằng một.

Bấy giờ, bốn Đại thiên vương cùng với quyến thuộc hai vạn Thiên tử đến đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính đồng thưa:

–Bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, nên oai lực rộng lớn, xứng chân pháp giới, mau chứng được trí Nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc như trước đã nói, vô lượng, gấp bội lần không thể sánh được. Khi ấy, Thiên đế Thích cho đến vua trời Tha hóa tự tại, đều cùng quyến thuộc mười vạn Thiên tử mang các thứ quý đẹp của cõi trời như tràng hoa, hương xoa, hương bột... y phục, chuỗi anh lạc, cờ phướn, lọng báu và nhiều thứ ngọc quý lạ, thổi nhạc trời để dâng lên Phật, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, đảnh lễ sát chân và chắp tay thưa:

–Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, oai lực quảng đại, xứng chân pháp giới, mau chứng được trí Nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc mà trước đã nói vô lượng gấp bội lần không thể nào sánh được. Khi ấy, từ trời Đại phạm rộng cho đến trời Sắc cứu cánh đều cùng vô lượng trăm ngàn chúng trời, đến trước chỗ Phật, đảnh lễ sát chân ngài, đồng chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn, thật hiếm có! Bạch Thiện Thệ, thật kỳ lạ!

Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì bằng phương tiện thiện xảo, nên oai đức rộng lớn xứng chân pháp giới, mau chứng được trí Nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp bội lần, vô lượng không thể sánh được.

QUYỂN 544

Phẩm 6: Tùy hỷ hồi hướng(2)

Đức Phật bảo trời Tịnh cư và các chúng trời:

–Ngoài việc hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Giả sử tất cả hữu tình ở vô biên thế giới khắp mười phương đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu có tất cả hữu tình trong vô biên thế giới khắp mười phương, ở chỗ các Bồ-tát kia, mỗi mỗi đều đem y phục, giường nằm, thuốc thang, đồ ăn, nước uống hảo hạng cùng vô lượng thứ dụng cụ vui chơi tốt đẹp, trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng vô sở đắc làm phương tiện cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Nếu các thiện nam, thiện nữ trụ nơi Bồ-tát thừa phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược đối với căn lành công đức của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và hàng đệ tử thì sẽ được công đức rất nhiều, hơn trước vô lượng, vô số tính đếm thí dụ không thể sánh kịp. Vì sao? Vì các thiện nam trụ Bồ-tát thừa đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì bằng phương tiện thiện xảo nên xứng chân pháp giới, tối thắng không gì bằng. Các hữu tình đó sẽ được nhiều phước, nhưng nếu dùng hữu sở đắc làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đối với pháp này thì phước có được không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn cho đến không bằng một phần rất cực nhỏ. Các vị trời nên biết, ngoài việc này, giả sử hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai và vô lượng, vô biên Phật pháp; hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã tập hợp, đang tập hợp và sẽ tập hợp. Tất cả căn lành này tập hợp lại cân lường, dùng có tướng và có sở đắc làm phương tiện rồi phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu có các thiện nam trụ Bồ-tát thừa, phát khởi quả vị Giác ngộ cao tột đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai và vô lượng, vô biên Phật pháp, hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã tập hợp, đang tập hợp và sẽ tập hợp. Tất cả căn lành như vậy tập hợp lại cân lường, rồi phát khởi sự tùy hỷ tối tôn tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì cao tột hơn, không gì sánh bằng, tương ưng với các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này cho các hữu tình cùng bình đẳng chung hưởng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này so với sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng trước nó trội hơn gấp trăm ngàn cho đến vô cực lần cũng không hơn được. Vì sao? Vì sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này lấy không tướng và không sở đắc làm phương tiện, còn sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng trước kia lấy có tướng và có sở đắc làm phương tiện.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

–Như lời Thế Tôn dạy, nếu các thiện nam trụ Bồ-tát thừa, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, đối với căn lành công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và hàng đệ tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Tất cả căn lành như vậy tập hợp lại cho đầy đủ, rồi tùy hỷ hồi hướng tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì cao tột hơn, không gì sánh bằng, tương ưng với việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng này trội hơn sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng trước vô số lần.

Bạch Thế Tôn, ngang đâu mà nói sự phát khởi tâm tùy hỷ ở sau hơn sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng ở trước đến vô số lần trội hơn?

Phật bảo Thiện Hiện:

–Các thiện nam trụ Bồ-tát thừa này, đối với pháp ba đời, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng trọng, chẳng khinh, chẳng có sở đắc, chẳng phải không có sở đắc, không có chỗ phân biệt, không có sự phân biệt sai khác, không có chỗ để xem xét, không có sự tùy theo để xem xét. Thấy pháp này đều là tích tụ phân biệt. Biết được tất cả pháp không sinh, không diệt, không đến, không đi, không ra, không vào, không họp, không tan. Trong đấy không có pháp đã, đang, sẽ sinh, cũng không có pháp đã, đang, sẽ diệt. Ta nên theo đúng như pháp chân như, pháp giới, dùng vô sở đắc làm phương tiện, phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, ngang đấy sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng này sẽ hơn sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng có tưởng sở đắc và có kiến sở đắc ở trước trội hơn đến vô số lần.

Lại nữa Thiện Hiện, đối với chư Phật Thế Tôn và hàng đệ tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai, các thiện nam trụ Bồ-tát thừa muốn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với căn lành để, phát sinh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, thì nên nghĩ rằng: “Như chân giải thoát bố thí cũng vậy; như chân giải thoát tịnh giới cũng vậy, như chân giải thoát an nhẫn cũng vậy; như chân giải thoát tinh tấn cũng vậy; như chân giải thoát tĩnh lự cũng vậy; như chân giải thoát Bát-nhã cũng vậy; như chân giải thoát giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn cũng như vậy; như chân giải thoát, sự tùy hỷ cũng vậy; như chân giải thoát, sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp cũng vậy; như chân giải thoát chư Phật Thế Tôn và bậc Độc giác cũng vậy; như chân giải thoát, Thanh văn đã nhập Niếtbàn cũng vậy; như chân giải thoát, các pháp quá khứ đã diệt cũng vậy; như chân giải thoát, các pháp vị lai chưa sinh cũng vậy; như chân giải thoát, các pháp hiện tại đang truyền bá cũng vậy; như chân giải thoát các đệ tử Phật trong quá khứ cũng vậy; như chân giải thoát, các đệ tử Phật đời vị lai cũng vậy; như chân giải thoát, hiện tại các đệ tử Phật trong vô số, vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương cũng vậy; như chân giải thoát, tất cả căn lành công đức cũng vậy. Như tánh các pháp không trói buộc, không cởi mở, không ô nhiễm, không thanh tịnh, không phát khởi, không chấm dứt, không sinh, không diệt, không chấp giữ, không xả bỏ. Đối với công đức thiện căn này, ta đang tùy hỷ, đem căn lành này cùng các hữu tình chung hưởng một cách bình đẳng, dùng sự không dời chuyển và không hư hoại, không tướng trạng, không chứng đắc mà làm phương tiện để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Sự tùy hỷ hồi hướng như vậy chẳng phải thường tùy hỷ hồi hướng, vì không có sự tùy hỷ, sự hồi hướng. Đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì chẳng phải lưu chuyển, chẳng phải chặn dứt, vì không sinh, không diệt.

Thiện Hiện nên biết, các thiện nam trụ Bồ-tát thừa, đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, như vậy thì hơn hẳn sự tùy hỷ hồi hướng có tướng, có chứng đắc ở trước, cho đến vô số lần trội hơn. Đại Bồ-tát nào thành tựu sự tùy hỷ hồi hướng như thế sẽ mau chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện, giả sử hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, có phương tiện thiện xảo tu Bồ-tát hạnh. Lại có hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, đều hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột. Đối với chúng Bồ-tát kia, các Bồ-tát này mỗi mỗi đều mang y phục, giường nằm, thuốc thang, đồ ăn, nước uống hảo hạng và vô số thứ dụng cụ vui chơi tốt đẹp nhất trải qua hằng hà sa đại kiếp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Nếu Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, hộ trì, đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn; hoặc việc phước nghiệp do bố thí, trì giới, tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả tập hợp lại đầy đủ rồi cân nhắc mà phát khởi sự tùy hỷ rất cao quý, rất thù thắng, rất cao cả, rất nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn, không thể do lường, không gì hơn, không gì sánh bằng, tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, như vậy là Đại Bồ-tát này đã tùy hỷ hồi hướng tương ưng việc phước nghiệp nhiều hơn như đã nói ở trước. Còn so với các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện bố thí tương ưng các việc phước nghiệp thì trội hơn trăm lần, ngàn lần cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồtát kia, Bố thí tương ưng các việc phước nghiệp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này thì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện, ngoài việc hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, còn có các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, Bố thí tương ưng với các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, mà các Đại Bồtát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp, tu thân diệu hạnh, tu ngữ diệu hạnh và tu ý diệu hạnh, dùng hữu sở đắc làm phương tiện thọ trì Tịnh giới. Còn đối với Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, hoặc đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các bậc Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn, hoặc việc phước nghiệp do bố thí, trì giới và tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả đều tập hợp lại đầy đủ và cân nhắc, để trước mắt là phát khởi sự tùy hỷ vốn rất cao quý, rất thù thắng, rất cao cả, rất nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không có gì hơn, không gì sánh bằng, tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, như vậy là các Bồ-tát này đã tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp nhiều hơn như trước đã nói. Nếu so với các chúng Bồ-tát, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu Tịnh giới tương ưng với các việc phước nghiệp thì trội hơn trăm ngàn lần cho đến vô cực lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu Tịnh giới tương ưng các việc phước nghiệp dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này thì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện, ngoài việc hằng hà sa số hữu tình trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột và hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, còn có các chúng Bồtát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu tịnh giới tương ưng với các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột mà các Bồ-tát này đã trụ hằng hà sa số đại kiếp, thường bị hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, mắng chửi, hủy nhục, dùng dao gậy gây hại, Bồ-tát này lại dùng hữu sở đắc làm phương tiện, thọ trì hạnh An nhẫn. Còn các Đại Bồ-tát, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, với phương tiện thiện xảo, hoặc đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các bậc Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn; hoặc các việc phước nghiệp có được do bố thí, trì giới, tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả tập hợp lại đầy đủ và cân nhắc để trước hết phát khởi sự tùy hỷ vô cùng cao quý, vô cùng thù thắng, vô cùng cao cả, vô cùng nhiệm mầu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì hơn không gì sánh bằng, tương ưng với các việc phước nghiệp. Rồi đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp ấy mà ban cho các hữu tình một cách bình đẳng để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thì Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp nhiều hơn như trước đã nói, nếu so với các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu An nhẫn tương ưng các việc phước nghiệp thì trội hơn trăm ngàn lần cho đến vô cực lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu An nhẫn tương ưng với các việc phước nghiệp, để dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện, ngoài việc hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, còn có các chúng Bồtát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu An nhẫn tương ưng với các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột mà các Bồ-tát này đã trụ hằng hà sa số đại kiếp, chẳng ngồi, chẳng nằm, thường không ngủ nghỉ, lại dùng hữu sở đắc làm phương tiện tu hành tinh tấn. Còn các Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các bậc Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn; hoặc các việc phước nghiệp có được do bố thí, trì giới, tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả tập hợp lại đầy đủ và cân nhắc để trước hết phát khởi sự tùy hỷ vô cùng cao quý, vô cùng thù thắng, vô cùng cao cả, vô cùng nhiệm mầu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì hơn, không gì sánh bằng, tương ưng với các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này, ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này đã tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp nhiều hơn như trước đã nói; nếu so với các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện tu Tinh tấn tương ưng các việc phước nghiệp thì trăm ngàn lần trội hơn cho đến vô cực lần trội hơn. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu Tinh tấn tương ưng với các việc phước nghiệp, lại dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện, ngoài việc hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột; còn có các chúng Bồtát, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu Tinh tấn tương ưng với các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột và hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, mà các Bồ-tát này đã trụ hằng hà sa số đại kiếp, xa lìa tâm loạn động, trụ vào một duyên, dùng hữu sở đắc làm phương tiện tu hành Tĩnh lự. Còn các Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa hộ trì, đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các bậc Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn; hoặc các việc phước nghiệp có được do bố thí, trì giới, tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả tập hợp lại đầy đủ và cân nhắc để trước hết phát khởi sự tùy hỷ vô cùng cao quý, vô cùng thù thắng, vô cùng cao cả, vô cùng nhiệm mầu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì hơn, không gì sánh bằng, tương ưng với các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này cùng các hữu tình chung hưởng một cách bình đẳng, hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này đã tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp nhiều hơn như trước đã nói; nếu so với các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu Tĩnh lự tương ưng các việc phước nghiệp thì trăm ngàn lần trội hơn cho đến số vô cực lần trội hơn. Vì sao? Vì các Bồtát kia tu Tĩnh lự tương ưng các việc phước nghiệp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Này Thiện Hiện, ngoài việc hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột, còn có các chúng Bồtát, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu Tĩnh lự tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số hữu tình, trong thế giới ba lần ngàn khắp mười phương, đều phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, hướng tới quả vị Giác ngộ cao tột mà các Bồ-tát này đã trụ hằng hà sa số đại kiếp, suy nghĩ, quán sát tánh tướng các pháp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát-nhã và các căn lành khác. Còn Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các bậc Độc giác; hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của hàng Thanh văn; hoặc các việc phước nghiệp có được do bố thí, trì giới, tu tập của các hữu tình. Như vậy tất cả tập hợp lại đầy đủ và cân nhắc để trước hết phát khởi sự tùy hỷ vô cùng cao quý, vô cùng thù thắng, vô cùng cao cả, vô cùng nhiệm mầu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, không gì hơn, không gì sánh bằng, tương ưng với các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này, cùng các hữu tình chung hưởng một cách bình đẳng và hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.

Thì Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này đã tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp nhiều hơn như trước đã nói; nếu so với các chúng Bồ-tát dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu Bát-nhã và các căn lành tương ưng các việc phước nghiệp thì trăm ngàn lần trội hơn cho đến vô cực lần trội hơn. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu Bát-nhã và các căn lành tương ưng các việc phước nghiệp, mà dùng hữu sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này thì dùng vô sở đắc làm phương tiện.

 


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]