SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
HỘI THỨ V
Phẩm 17: Tham hành
(QUYỂN 562 - 563)
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn, các Bồ-tát này thành tựu công đức lớn như thế. Thế Tôn có thể trải kiếp số như cát sông Hằng thuyết các hành trạng tướng không thoái chuyển. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các Bồ-tát an trụ trong đó, tu hạnh Bồ-đề mau được viên mãn.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Lành thay, lành thay! Ông nay có thể hỏi việc như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông.
Thiện Hiện nên biết, nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đó là không, vô tướng, vô nguyện, không tác, không sinh, không diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết-bàn, là sự biểu hiện của khái niệm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay là tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Tất cả các pháp khác cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.
Thiện Hiện, thế nào là sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa? Nghĩa là chân như sâu xa, nên sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa.
Thiện Hiện, hoặc là chỗ không có sắc cũng gọi là sắc sâu xa, nói rộng ra cho đến chỗ không có thức cũng gọi là thức sâu xa.
Thiện Hiện bạch Phật:
–Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn, đúng là phương tiện mầu nhiệm ngăn chận năm uẩn, hiển bày Niết-bàn.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Đúng vậy, đúng vậy! Nếu các Bồ-tát thường quán sát kỹ lưỡng nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì nên nghĩ như vầy: “Ta nên y như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã chỉ dạy, mà an trú. Ta nay nên y như Bát-nhã ba-lamật-đa đã giảng thuyết mà học.” Các Bồ-tát này do thường nương tựa nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành chỉ cần trong một ngày số phước đức đạt được vô lượng, vô biên. Ví như có người tham dục, lại nhiều suy tư, cùng với người con gái đẹp hẹn hò. Người con gái kia bị trở ngại, không đến nơi đúng hẹn. Tâm mong mỏi của người ấy mãnh liệt, tuôn tràn.
Thiện Hiện, ý ông thế nào? Tâm mong muốn của người kia hướng về nơi nào?
–Kính bạch Thế Tôn, tâm mong muốn của người này hướng về người con gái kia. Nghĩa là tâm ý luôn nghĩ: “Nàng ấy khi nào mới đến đây gặp nhau, để cùng ta đùa giỡn, vui chơi?”
Thiện Hiện, ý ông thế nào Người đó ngày đêm phát sinh bao nhiêu mong muốn?
–Kính bạch Thế Tôn, người đó ngày đêm phát sinh rất nhiều mong muốn.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành, cho đến một ngày thì vượt thoát kiếp số trôi lăn trong sinh tử bằng với số lượng mong muốn phát sinh trải qua một ngày đêm của người tham dục kia.
Thiện Hiện nên biết, các Bồ-tát này nương theo nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành; thì tùy theo đó mà có thể giải thoát bao nhiêu tội lỗi thường làm trở ngại quả vị Giác ngộ cao tột. Thế nên Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành, không lười nhác thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện nên biết, nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành; chỉ qua một ngày đêm thì công đức đạt được hơn công đức bố thí trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ lưỡng, tinh tấn tu hành; chỉ qua một ngày đêm thì công đức đạt được; hơn công đức bố thí của các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng cũng đem các đồ vật cúng dường các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, Ala-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã bala-mật-đa như đã nói mà an trú; trải qua một ngày đêm siêng năng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã thì công đức đạt được, hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, cũng siêng năng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như đã nói mà an trú; trải qua một ngày đêm, đem pháp vi diệu bố thí cho các loài hữu tình thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng cũng đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như đã nói mà an trú; trải qua một ngày đêm, tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và các căn lành khác thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng cũng tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và các căn lành khác đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như đã nói mà an trú; trải qua một ngày đêm tu các pháp tài thí, pháp thí; ở chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp đã tu trước kia, hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng cũng tu các pháp tài thí, pháp thí; cũng an trú chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện, nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa như đã nói mà an trú; trải qua một ngày đêm, duyên khắp công đức căn lành của ba đời chư Phật và các đệ tử, tập hợp đầy đủ, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được của các Bồ-tát này hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng, cũng duyên khắp căn lành công đức của ba đời chư Phật và các đệ tử tập hợp đầy đủ, cũng hiện tiền tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột đến vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện bạch Phật:
–Như Lai thường thuyết: “Các hành đều là do phân biệt tạo ra, đều chẳng phải có thật”, vì nhân duyên gì các Bồ-tát này đạt được công đức vô lượng, vô biên?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Các Bồ-tát ấy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng thường quán sát việc thiện đã làm là không, không sở hữu, hư vọng chẳng thật. Cứ như thế như thế quán sát việc thiện đã làm là không, không sở hữu, hư vọng, chẳng thật. Được như vậy thì chẳng có thể lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đúng như thật là chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, như vậy công đức đạt được ấy là vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nghĩa vô lượng, vô biên, có gì sai khác?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Nói vô lượng là ở trong đó lượng của nó dứt hẳn. Nói vô biên là số đó không thể đếm hết.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, có nhân duyên nào, sắc cho đến thức cũng vô lượng, vô biên chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Cũng có nhân duyên sắc cho đến thức vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên nào, sắc cho đến thức vô lượng, vô biên?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Vì sắc cho đến thức đều tánh không, nên vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, có phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức không, hay là tất cả pháp đều không?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ta nói, các pháp, không pháp nào là chẳng đều không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vô lượng, vô biên là khái niệm về pháp nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Vô lượng, vô biên là khái niệm về Không, Vô tướng, Vô nguyện.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, vô lượng, vô biên có phải chỉ là Không, Vô tướng, Vô nguyện hay là còn có nghĩa khác?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Ta đâu chẳng nói, tất cả pháp môn, không pháp môn nào chẳng đều là không?
Thiện Hiện thưa:
–Như Lai thường nói, tất cả pháp môn, không pháp môn nào là chẳng đều không.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Không, tức là vô tận. Không, tức là vô lượng. Không, tức là vô biên. Không, tức là nghĩa khác. Thế nên, Thiện Hiện, tất cả pháp môn mặc dù có vô số lời nói sai khác nhưng nghĩa không khác.
Thiện Hiện nên biết, lý không của các pháp, hoàn toàn không thể nói. Như Lai tìm cách nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là không tác, hoặc nói là không sinh, hoặc nói là không diệt, hoặc nói là chẳng phải có, hoặc nói là tịch tĩnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết-bàn... Vô lượng pháp môn như thế, nghĩa chân thật chẳng khác, đều là phương tiện của Như Lai diễn thuyết.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
–Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn, thật tánh của các pháp phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nói, nhưng vì hữu tình nên tìm cách chỉ ra. Như con hiểu nghĩa Phật dạy, thật tánh các pháp đều không thể nói.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Đúng vậy, đúng vậy! Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo không, không ai có thể tuyên nói về cái không rốt ráo ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Nghĩa chẳng thể nêu bày có tăng, có giảm chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Nghĩa chẳng thể nêu bày không tăng, không giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, nếu nghĩa chẳng thể nêu bày không tăng, không giảm, thì đáng ra Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không tăng, không giảm, thì Bồ-tát vì lẽ gì dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa không tăng, không giảm, cầu chứng quả vị Giác ngộ cao tột, luôn gần quả vị Giác ngộ cao tột? Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát mà tăng giảm thì chẳng thể gần quả vị Giác ngộ cao tột.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Đúng vậy, đúng vậy! Nghĩa chẳng thể nêu bày của Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không thêm bớt, nhưng các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nghĩ như thế, mà cho là sáu pháp Ba-la-mật-đa này có tăng, có giảm và chỉ nghĩ: “Chỉ có danh tướng, nghĩa là Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Các Bồ-tát này tu hành Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đem sáu pháp này tác ý tương ưng và nương vào đó phát khởi tâm và căn lành, bình đẳng ban cho các hữu tình, để cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột; ví như quả vị Giác ngộ cao tột của Phật nhiệm mầu sâu xa, nếu mà phát khởi hồi hướng, thì do sự hồi hướng này, sẽ tăng thêm thế lực phương tiện thiện xảo, nên có thể chứng được quả vị Giác ngộ cao tột.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, thế nào là quả vị Giác ngộ cao tột?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Chân như các pháp, gọi đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Thiện Hiện nên biết, chân như các pháp không tăng, không giảm; nên quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không tăng, giảm. Nếu các Bồ-tát thường an trụ, tác ý tương ưng với chân như như thế, thì gần quả vị Giác ngộ cao tột. Như vậy, này Thiện Hiện, nghĩa chẳng thể nêu bày mặc dầu không thêm không bớt mà không lui mất tác ý chân như. Ba-la-mật-đa mặc dầu không tăng, không giảm mà không lui mất sở cầu quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu các Bồ-tát an trú tác ý chân như như thế, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa liền được gần quả vị Giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, các Bồ-tát này lấy tâm đầu tiên phát sinh để có thể gần Bồ-đề; hay là tâm sau phát sinh để có thể gần Bồ-đề? Nếu tâm đầu phát sinh gần Bồ-đề thì khi tâm đầu phát sinh, tâm sau chưa sinh. Như thế, không có nghĩa hòa hợp. Nếu tâm sau phát sinh, có thể gần Bồ-đề thì khi tâm sau phát sinh, tâm đầu đã diệt mất, không có nghĩa hòa hợp. Như vậy, pháp của tâm, tâm sở, trước sau tới lui gạn tìm, không có nghĩa hòa hợp. Như thế thì làm sao có thể tích tụ được căn lành? Nếu các căn lành chẳng thể tích tụ nhóm được, thì làm sao Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa đầu đốt cháy tim đèn, hay ngọn lửa sau đốt cháy tim đèn?
Thiện Hiện thưa:
–Bạch Thế Tôn, như ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa đầu có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu. Chẳng phải ngọn lửa sau có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Tim đèn có cháy chăng?
Thiện Hiện thưa:
–Bạch Thế Tôn, thế gian hiện thấy cái tim đèn thật có cháy.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Bồ-tát cũng thế, chẳng phải tâm đầu phát sinh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm đầu. Chẳng phải tâm sau phát sinh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm sau mà các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mậtđa sâu xa với phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành tăng trưởng viên mãn nên được gần Bồđề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, duyên khởi như thế, lý thú sâu xa. Chẳng phải ngay các tâm phát sinh trước, sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề. Chẳng phải lìa các tâm phát sinh trước, sau mà các Bồ-tát có thể được gần Bồ-đề.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Nếu tâm diệt rồi thì có sinh chăng?
Thiện Hiện thưa:
–Kính bạch Thế Tôn, không! Tâm đó đã diệt thì không thể sinh lại.
–Ý ông thế nào? Nếu tâm đã sinh thì pháp có diệt chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, đúng như vậy! Nếu tâm đã sinh thì nhất định có pháp diệt.
–Ý ông thế nào? Pháp có diệt, tâm chẳng phải sẽ diệt chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải vậy! Pháp có diệt, tâm nhất định sẽ diệt.
–Ý ông thế nào? Pháp không diệt, tâm có thể sinh chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng được! Pháp không diệt, tâm chẳng có nghĩa sinh.
–Ý ông thế nào? Pháp không sinh, tâm có thể diệt chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng được! Pháp không sinh, tâm không có nghĩa diệt.
–Ý ông thế nào? Pháp không sinh diệt, tâm có thể sinh diệt chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng được! Pháp không sinh diệt, tâm không có nghĩa sinh diệt.
–Ý ông thế nào? Nếu pháp đã diệt rồi, diệt nữa được chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng được! Nếu pháp diệt rồi thì chẳng thể diệt nữa.
–Ý ông thế nào? Nếu pháp sinh rồi, sinh nữa được chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng được! Nếu pháp sinh rồi, chẳng sinh nữa.
–Ý ông thế nào? Thật tánh các pháp, có sinh diệt chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng có! Thật tánh các pháp không sinh, không diệt.
–Ý ông thế nào? Tâm an trú có phải như là tâm chân như chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, đúng như vậy! Tâm an trú như thế đúng như là tâm chân như.
–Ý ông thế nào? Nếu tâm an trú như là tâm chân như, thì tâm chân như như thế là tánh thật tế, có thường trụ chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải! Tâm này chẳng giống chân như tánh thật tế, ấy thì thường trú.
–Ý ông thế nào? Có phải chân như các pháp rất sâu xa chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, đúng như thế! Chân như các pháp rất là sâu xa.
–Ý ông thế nào? Có phải chính chân như là tâm chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải!
–Ý ông thế nào? Có phải lìa chân như có tâm chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng có!
–Ý ông thế nào? Có phải chính tâm là chân như chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải!
–Ý ông thế nào? Có phải lìa tâm có chân như chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng có!
–Ý ông thế nào? Có phải chân như có thể thấy chân như chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng thấy!
–Ý ông thế nào? Ông thấy có thật là có chân như chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng thấy!
–Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát luôn hành như thế, có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chăng?
–Kính bạch Thế Tôn, đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát thường hành như thế thì chính là hành Bátnhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Nếu các Bồ-tát hành như thế là hành chỗ nào? Thiện Hiện bạch:
–Nếu các Bồ-tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp đang hành đều chẳng chuyển động vậy.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành nghĩa đế nào?
Thiện Hiện bạch:
–Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành Thắng nghĩa đế.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát hành Thắng nghĩa đế thì đối với Thắng nghĩa đế là giữ lấy tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
–Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế tuy chẳng giữ lấy tướng mà làm theo tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
–Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với tướng Thắng nghĩa đế đã chẳng làm theo tướng thì phá bỏ tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
–Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
–Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng phá bỏ tướng thì sai khiến tướng chăng?
Thiện Hiện bạch:
–Kính bạch Thế Tôn, không!
Phật bảo Thiện Hiện:
–Các Bồ-tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng phá bỏ, chẳng sai khiến thì làm sao có thể dứt được tưởng ông giữ lấy tướng?
Thiện Hiện bạch:
–Các Bồ-tát này chẳng nghĩ: “Ta nay dứt được tưởng tướng phá bỏ, tướng sai khiến, cũng chưa tu học được đạo dứt tưởng.” Nếu các Bồ-tát tinh tấn tu hành đạo dứt tưởng mà chưa đầy đủ Phật pháp, đúng ra phải rơi vào địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác. Nhưng các Bồ-tát này với phương tiện thiện xảo, nên mặc dù đối với các tướng và tưởng ôm giữ lấy tướng biết là rất lỗi lầm, nhưng chẳng phá bỏ hay sai khiến để mau dứt tưởng này, mà chứng được tướng không. Vì sao? Vì chưa viên mãn tất cả pháp Phật vậy.
Phật bảo Thiện Hiện:
–Đúng vậy, đúng vậy!
Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:
–Nếu các Bồ-tát, trong giấc mộng, tu hành ba môn giải thoát; thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có lợi ích chăng? Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành ba môn giải thoát, đối với Bát-nhã ba-lamật-đa sâu xa đã có lợi ích thì trong giấc mộng họ tu cũng có lợi ích. Vì sao? Vì Phật dạy: “Mộng thức không sai khác vậy.” Thiện Hiện thưa:
–Nếu khi các Bồ-tát thức, tu hành Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, đã được gọi là an trú Bát-nhã bala-mật-đa sâu xa, thì các Bồ-tát này trong giấc mộng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng được gọi là an trụ ba pháp môn giải thoát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể tăng lợi ích cũng như thế; hoặc mộng, hoặc thức, nghĩa không sai khác.
Xá-lợi Tử thưa:
–Trong giấc mộng tạo nghiệp có tăng lợi ích chăng?
Phật dạy:
–Các pháp chẳng thật, như mộng nên sự tạo ra các nghiệp ở trong mộng đúng ra không tăng lợi ích; cần phải đến lúc thức dậy, nhớ tưởng phân biệt mới tăng ích.
Thiện Hiện thưa:
–Bạch Thế Tôn, nếu các hữu tình trong giấc mộng thấy giết hại sinh mạng, chưa đến khi thức dậy, mà ngay khi ấy, nhớ tưởng phân biệt, rất vui mừng, thì sự tạo nghiệp của người đó chẳng tăng ích ư?
Xá-lợi Tử thưa:
–Việc không sở duyên, hoặc nghĩ, hoặc buộc lòng tin, nghiệp chẳng thể phát sinh, cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sinh. Nghiệp suy nghĩ trong giấc mộng duyên đâu mà sinh?
Thiện Hiện thưa:
–Đúng vậy, đúng vậy! Hoặc mộng, hoặc thức, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sinh. Cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới sinh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, vì cần phải có các tướng thấy, nghe, hiểu, biết, vì đó là tác động của sự hiểu biết, thì mới phát sinh nhiễm hoặc phát sinh tịnh. Nếu không có các tướng: thấy, nghe, hiểu biết thì không có tác dụng của sự hiểu biết, nên cũng không nhiễm tịnh. Do đó nên biết, hoặc mộng, hoặc thức, có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp mới sinh, nếu không sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sinh.
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
–Phật dạy sở duyên đều lìa tự tánh. Như thế thì làm sao có thể nói: Có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sinh, không sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sinh?
Thiện Hiện đáp:
–Mặc dù các nghiệp suy nghĩ và sở duyên đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm ôm giữ lấy tướng phân biệt, nên thế tục đặt bày nói là có sở duyên phát sinh các nghiệp suy nghĩ, chẳng phải sở duyên này lìa tâm mà riêng có được!
Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
–Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng làm việc bố thí. Bố thí xong, hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì các Bồ-tát này có phải là thật đem bố thí hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật chăng?
Thiện Hiện đáp:
–Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký quả đại Bồ-đề, nên có thể thưa hỏi, nhất định Ngài sẽ đáp.
Khi ấy, Xá-lợi Tử theo lời Thiện Hiện, cung kính thưa hỏi Bồ-tát Từ Thị.
Bồ-tát Từ Thị bảo Xá-lợi Tử:
–Những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị, mà bảo có thể đáp lời Tôn giả hỏi? Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là sắc không chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức không chăng?
Vả lại, sắc chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị, nên cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bồ-tát Từ Thị nên cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi.
Không của sắc, chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bồ-tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi.
Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ-tát Từ Thị, cũng hoàn toàn chẳng thấy có pháp được đáp, có pháp bị đáp, nới chốn đáp, thời gian đáp và do đấy đáp cũng đều chẳng thấy.
Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp được thọ ký, có pháp bị thọ ký, nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký và do đấy thọ ký cũng đều chẳng thấy. Vì sao? Xálợi Tử, vì bản tánh tất cả pháp đều không. Suy tìm rốt ráo chẳng thể nắm bắt vậy.
Xá-lợi Tử hỏi Từ Thị:
–Pháp mà Tôn giả nói có phải là như chỗ đã chứng chăng?
Từ Thị đáp:
–Pháp tôi nói, chẳng phải như chỗ đã chứng. Vì sao? Vì pháp tôi đã chứng thì chẳng thể nói vậy.
Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ: “Bồ-tát Từ Thị trí tuệ sâu xa, từ lâu tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mới có thể nói như thế.”
Khi ấy Thế Tôn biết ý nghĩ của Xá-lợi Tử, liền bảo:
–Ý ông thế nào? Ông do pháp này thành A-lahán, thì có thể thấy pháp này là có thể nói chăng?
Xá-lợi Tử bạch:
–Kính bạch Thế Tôn, chẳng thể.
Phật dạy:
–Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng giống như thế, chẳng thể tuyên thuyết. Các Bồ-tát này với phương tiện thiện xảo, chẳng thể nghĩ: “Ta do pháp này đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký đại Bồ-đề.” Chẳng thể nghĩ: “Ta do pháp này sẽ chứng Bồ-đề.” Các Bồ-tát có thể hành như thế là hành Bát-nhã bala-mật-đa, đối với việc đắc Bồ-đề cũng không sợ hãi, quyết định tự biết: “Ta sẽ chứng”; nên các Bồtát này, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm.
Các Bồ-tát này, nếu ở nơi đồng hoang, chỗ có thú dữ cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này, muốn đem lợi ích cho các hữu tình; nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, thường suy nghĩ: “Các thú dữ... muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ bố thí, làm cho chúng được no đủ. Nhờ căn lành này khiến cho ta tu Bố thí ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế để khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trong cõi Phật của ta không có tất cả súc sinh, ngạ quỷ đều không có.”
Các Bồ-tát này nếu ở đồng hoang, chỗ có giặc ác, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đem lợi ích cho các hữu tình, nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, ưa tu các việc lành; đối với thân mạng, tài sản, không chút luyến tiếc; thường hay nghĩ: “Nếu các hữu tình đến tranh giành, cướp đoạt các của cải của ta, hoặc do vậy mà có lỡ hại thân mạng của ta, thì ta chẳng sân giận họ. Nhờ nhân duyên này làm cho ta tu An nhẫn ba-la-mậtđa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế để khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trong cõi Phật của ta không có các oán tặc cướp hại. Do cõi Phật của ta rất thanh tịnh nên cũng không có các thứ xấu khác.”
Các Bồ-tát này, nếu ở đồng hoang, chỗ không có nước cũng không sợ hãi; thường nghĩ rằng: “Ta sẽ tuyên thuyết diệu pháp vô thượng, dứt bệnh thèm khát nước của các hữu tình. Giả sử ta do cơn khát này bức ngặt mà chết, đối với các loài hữu tình quyết chẳng rời bỏ ý đại Bi, bố thí cho họ nước diệu pháp. Kỳ lạ thay! Các hữu tình này bạc phước nên mới ở tại thế giới không có nước như thế. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế để khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột; trong cõi Phật của ta không có những đồng hoang... thiếu nước, cháy khát như thế. Ta sẽ tìm cách khuyên các hữu tình tu nghiệp thắng phước, tùy ở chỗ nào cũng đều có đầy đủ nước tám công đức.”
Các Bồ-tát này, ở chỗ đói kém cũng không sợ hãi; thường nghĩ rằng: “Ta sẽ tinh tấn nghiêm tịnh cõi Phật, để khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trong cõi Phật của ta hoàn toàn không có sự đói kém như thế. Các loài hữu tình đầy đủ sự vui sướng, tùy ý cần dùng gì, nghĩ đến liền có ngay, như chư Thiên nghĩ gì liền được. Ta sẽ phát khởi tinh tấn bền vững, làm cho nguyện ước của các hữu tình được đầy đủ. Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải sẽ không thiếu thốn.” Nếu các Bồ-tát không lo sợ việc này, thì nhất định chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
Các Bồ-tát này khi gặp bệnh dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường tư duy kỹ rằng: “Không có pháp gọi là bệnh, thì cũng không có người bệnh; tất cả đều không, chẳng nên sợ hãi. Ta sẽ siêng năng tu chánh hạnh như thế để khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình... không có ba thứ bệnh; tinh tấn tu hành pháp lành thù thắng như Phật đã dạy, thường không lười biếng bỏ bê.
Các Bồ-tát này, nếu nghĩ Bồ-đề, trải qua thời gian lâu mới đắc, cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn kiếp số đời trước tuy có vô lượng, nhưng trong một niệm nhớ nghĩ phân biệt chứa nhóm là thành. Giới hạn kiếp số đời sau nên biết cũng như thế. Thế nên Bồ-tát chẳng nên ở trong đó, khởi tưởng lâu xa mà sinh sợ hãi. Vì sao? Vì giới hạn trước, giới hạn sau của kiếp số dài ngắn, đều trong một sát-na tương ưng với tâm vậy. Bồ-tát đối với những việc đáng sợ như thế, luôn tư duy kỹ lưỡng, chẳng sinh sợ hãi, thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.
[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]