SỐ 220
KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

HỘI THỨ XI

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa
(QUYỂN 579 - 583)

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.

QUYỂN 579

QUYỂN 580

QUYỂN 581

QUYỂN 582

QUYỂN 583


QUYỂN 579

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa (1)

Như vầy tôi nghe:

Một thời, Đức Phật cùng với đông đủ một ngàn ba trăm đại Bí-sô có mặt tại vườn Cấp cô độc, rừng Thệ-đa, nước Thất-la-phiệt. Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Các bậc Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mậtđa trải qua thời gian bao lâu mới được viên mãn?

Ngài Xá-lợi Tử đáp:

–Bạch Thế Tôn, Phật là căn bản của chánh pháp vô thượng, Đức Phật là người dẫn đường là chỗ nương tựa. Xin nguyện Thế Tôn ban bố chỉ rõ cho chúng Bí-sô được nghe và thọ trì theo.

Khi đó, ba lần Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Bấy giờ, ông nên nói rõ pháp Bố thí ba-lamật-đa cho các Đại Bồ-tát.

Được Đức Phật ân cần khuyên bảo ba lần, nương theo thần lực của Phật, Cụ thọ Xá-lợi Tử đem pháp Bố thí ba-la-mật-đa trao lại cho các Đại Bồ-tát như sau:

–Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột thì nên nhờ vào trí Nhất thiết trí lấy tâm đại Bi làm Thượng thủ để tu hành Bố thí ba-la-mật-đa. Bồ-tát nào nhờ vào trí Nhất thiết trí đắt đại Bi làm Thượng thủ tu hành Bố thí ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy có thể giữ gìn được trí Nhất thiết trí, chứng quả vị Giác ngộ cao tột rất mau chóng.

Lại nữa, những Đại Bồ-tát thà thực hành bố thí với tâm vô ký hoặc là không thực hành bố thí chứ không bao giờ hành bố thí để hồi hướng bậc Nhị thừa. Vì sao? Vì những bậc Đại Bồ-tát sợ bị rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác.

Bấy giờ, Tôn giả Mãn Từ Tử hỏi Tôn giả Xálợi Tử:

–Do nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát sợ rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác? ” Tôn giả Xá-lợi Tử đáp:

–Không nên cho rằng các Đại Bồ-tát với trí Nhất thiết đồng đẳng với Nhị thừa, thế nên tôi bảo là sợ hãi.

Tôn giả Mãn Từ Tử lại hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Các Đại Bồ-tát và Thanh văn thực hành bố thí sai khác nhau thế nào?

Tôn giả Xá-lợi Tử đáp:

–Thanh văn thi hành bố thí để hồi hướng lên quả vị Niết-bàn của A-la-hán còn Bồ-tát thực hành bố thí để hồi hướng về trí Nhất thiết trí của Bồ-tát. Đây là những sự sai khác nhau.

Lại nữa, này Mãn Từ Tử thí như có hai người cùng thực hành bố thí, một người dựa vào địa vị vua chúa mà cầu kết quả tốt đẹp. Người ấy khi thực hành bố thí suy nghĩ:

–Mong sao ta do việc làm này mà được lên ngôi quốc vương thống lãnh tám phương có đầy đủ quyền lực.”

Như lời nguyện, về sau người này được làm vua cai trị thế gian được quyền lực tự tại an lạc.

Người còn lại hướng vào địa vị cận thần mà mong cầu kết quả tốt đẹp, người ấy khi thực hành bố thí với suy nghĩ: “Mong rằng ta nhờ việc làm này mà được làm quan đại thần được nhà vua yêu chuộng, giao cho sứ mệnh sai sử người dưới quyền, vua muốn gì đều có thể làm vừa ý.” Do ước muốn này, người ấy không làm vua.

Tuy hai người này đều thực hành bố thí nhưng theo sự mong cầu mà kết quả có sự hơn kém.

Bồ-tát, Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy: nghĩa là khi thực hành bố thí, Bồ-tát lấy tâm đại Bi làm đầu và nương vào trí Nhất thiết trí, đem sự tu hành của mình giáo hóa hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến địa vị quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây Bồ-tát đắc được trí Nhất thiết trí. Chúng Thanh văn khi thực hành bố thí thì hướng vào quả Thanh văn mong cầu giải thoát cho mình, không cầu quả vị Giác ngộ cao tột.

Bồ-tát và Thanh văn tuy cùng thực hành bố thí nhưng tùy theo ý nguyện mà đạt được kết quả hơn kém. Một bên nhờ bố thí mà đắc được trí Nhất thiết trí, một bên nhờ Bồ thí mà đạt quả vị Thanh văn. Đó là sự khác nhau.

Lại nữa này Mãn Từ Tử, thí như có người tu hành bố thí cầu được làm trưởng giả, hoặc làm cư sĩ, lại có người tu hành bố thí nguyện làm tôi tớ cho trưởng giả cư sĩ, do đây nên biết Bồ-tát và Thanh văn thực hành bố thí ý nguyện có hơn kém cũng như vậy.

Khi ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử khen ngợi Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Lời thí dụ của Tôn giả thật là hiếm có, khéo léo chỉ rõ sự sai khác của hai việc bố thí, tôi cũng sẽ nói đến hai thí dụ của sự bố thí.

Ví như có người đem trăm ngàn châu báu đến nhà người giàu có nổi tiếng và nói: “Tôi đem những vật báu này dâng lên Ngài, cúi xin Người hãy nhận tôi làm kẻ tôi tớ thân thuộc, tất cả mọi việc tôi đều hoàn tất.” Các chúng Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy, chỉ xin làm đệ tử thân cận Như Lai. Bồ-tát thì không phải thế. Đây gọi là sự sai khác.

Lại nữa này Xá-lợi Tử, giả như có người con gái nào từ bỏ sự khoái lạc ở cung vua, lén đem theo trăm ngàn châu báu đến nhà trưởng giả hoặc nhà chủ buôn và nói rằng:

–Nay đây, xin dâng ông những châu báu này, xin ông thương nhận tôi làm vợ, trọn đời nguyện xin phục vụ, không làm trái ý.” Như vậy, Thanh văn tu hành bố thí chỉ muốn cầu làm đệ tử Như Lai, Bồ-tát thì không như thế. Đây chính là sự khác biệt.

Lúc đó Tôn giả Xá-lợi Tử khen ngợi Tôn giả Mãn Từ Tử:

–Thật khéo léo thay khi biện luận về hai thí dụ bố thí! Thật hiếm có thay!

Nghĩa là các Thanh văn không có phương tiện thiện xảo nên thực hành bố thí chỉ đạt được quả Thanh văn, còn các bậc Bồ-tát có phương tiện thiện xảo nên khi thực hành bố thí, giúp đỡ tất cả hữu tình và đắc được trí Nhất thiết.

Này Mãn Từ Tử, bậc Đại Bồ-tát nào muốn chứng được quả vị Giác ngộ cao tột thì ngay trong tất cả hạnh trước tiên phải thực hành bố thí và nhớ nghĩ như sau:

–Sự nghiệp bố thí hôm nay của ta xin ban bố cho chúng sinh khắp trong mười phương làm cho họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sinh tử, nguyện cho những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì mau chóng phát tâm, những người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi thì mãi mai không lui sụt, những ai không thoái lui nơi địa vị quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ mau chóng viên mãn trí Nhất thiết trí. Như vậy Bồ-tát tư duy ngoại cảnh nhưng không lìa nội tâm, giữ gìn các căn lành làm cho nó tuần tự tăng trưởng. Các vị Bồ-tát thường thường bảo dưỡng căn lành, giữ gìn không để thoái lui; các vị Bồ-tát từng giờ từng giờ không rời xa trí Nhất thiết trí; các vị Bồ-tát ấy mọi lúc mọi khi làm cho căn lành đều viên mãn, hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi lạc cho tất cả mọi loài hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nữa Mãn Từ Tử, các bậc Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa tư duy: “mong sao bất cứ nơi nào mà hữu tình nhìn thấy đều nhận được những vật thực ăn uống của ta bố thí. Những hữu tình nào nhận được vật thực ăn uống của ta bố thí thì tùy theo nhu cầu nhận dùng nhiều ít, còn lại bố thí cho những hữu tình khác; những hữu tình này lại cũng lường xem mình cần dùng bao nhiêu còn dư lại đem cho những hữu tình khác nữa. Như vậy lần lượt tất cả cõi hữu tình đều nhận được phẩm vật của ta bố thí.

Do nhân duyên bố thí này ta sẽ bảo dưỡng căn lành không có bờ mé. Ta lại bố thí vô lượng căn lành này cho hữu tình khắp cả mười phương làm cho tất cả đều giải thoát khỏi đường ác sinh tử, người chưa phát tâm vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm Vô thượng Bồ-đề; người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi thì giúp cho họ mãi mãi không lùi sụt; nếu người nào đã không thoái chuyển nơi địa vị quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ nhanh chóng viên mãn trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này thường thường giữ gìn căn lành làm cho tăng trưởng dần dần. Các vị Bồ-tát này từng giờ từng giờ giữ gìn tất cả Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này từng lúc từng giờ giữ gìn tất cả Bala-mật-đa nên các vị Bồ-tát này từng giờ từng phút tiến gần đến trí Nhất thiết trí. Nên biết, các Bồ-tát như trên đã với phương tiện thiện xảo mặc dù bố thí ít ỏi nhưng gặt được vô lượng căn lành do bố thí. Vì sao vậy? Tôn giả Mãn Từ Tử, đó là do tâm và cảnh bố thí không có giới hạn luân hồi hướng đến chứng đắc trí Nhất thiết.

Lại nữa này Mãn Từ Tử, các vị Đại Bồ-tát tu hành bố thí thường phát khởi tâm như sau: “Ta bố thí căn lành chẳng cần nhận lấy quả báo nào khác ngoài việc cầu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến hết đời vị lai. Như vậy chỉ hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột chứ chẳng phải cầu quả báo nào khác mới gọi là Bố thí ba-la-mật-đa, làm cho tất cả Ba-la-mật-đa đều được viên mãn. Nếu không có tâm duyên vào trí Nhất thiết hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột thì dù thực hành bố thí nhưng chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa cũng không hay làm cho sự tu tập Ba-la-mật-đa khác được đầy đủ trọn vẹn, cũng không cách gì đắc được trí Nhất thiết trí.

Này Mãn Từ Tử, các vị Bồ-tát dù bố thí ít nhưng nếu hay hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã bố thí số lượng rất lớn, nhất định sẽ chứng được trí Nhất thiết trí. Các bậc Đại Bồ-tát dù bố thí rất nhiều nhưng nếu không hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, thì nên biết Bồ-tát này bố thí với số lượng rất ít, không thể chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Này Mãn Từ Tử, nếu Đại Bồ-tát tu hành bố thí nhưng không phát khởi tâm hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, cũng không duyên vào trí Nhất thiết trí thì bậc Đại Bồ-tát này dù có thực hành bố thí nhưng chẳng phải là Bố thí ba-la-mật-đa chỉ có thể nhận lấy sinh tử chứ không đắc được trí Nhất thiết. Nếu Đại Bồ-tát tu hạnh bố thí hay phát khởi tâm hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột cũng lại duyên vào trí Nhất thiết trí. Sự thực hành bố thí như vậy của Bồ-tát mới gọi là Bố thí ba-la-mật-đa không chọn sinh tử mà còn đắc được trí Nhất thiết. Lại nữa này Mãn Từ Tử, Đại Bồ-tát nào thực hành bố thí mà không chấp trước thì dù có hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột nhưng cũng không chấp trước. Đây là bậc Đại Bồ-tát vận dụng phương tiện khéo léo, tu hành Bố thí ba-la-mật-đa mau chóng được tròn đầy trọn vẹn cũng làm cho tất cả Ba-la-mật-đa rốt ráo tròn đầy, nhanh chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đem lợi ích an lạc vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Lúc ấy, Tôn giả Mãn Từ Tử hỏi Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Thưa Tôn giả, nhờ tài hùng biện hay do nương vào thần lực của Phật mà Tôn giả nói được giáo pháp quan trọng này?

Tôn giả Xá-lợi Tử đáp:

–Tôi nương vào thần lực của Phật nói ra chứ chẳng phải do tài biện bác của tôi.

Ngài Xá-lợi Tử, Phật lại nói với Cụ thọ Mãn Từ Tử:

–Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương vì muốn chứng quả A-la-hán nên đã trải qua hằng hà sa số kiếp bố thí tài vật cho vô số phàm phu hoặc cúng dường cho Thanh văn, hoặc cho vô lượng, vô số Độc giác thì những hữu tình này được vô lượng, vô biên phước đức, chẳng thể nghĩ bàn có vị Đại Bồ-tát duyên vào sự bố thí này nghĩ:

–Ta rất tùy hỷ với phước đức mà những hữu tình kia có được.” Đại Bồ-tát này tùy hỷ đem những căn lành có được do thực hành việc phước nghiệp bố thí cho những hữu tình trong mười phương mong cho những hữu tình ấy vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sinh tử, những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho mau chóng phát tâm, người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi thì làm cho họ vĩnh viễn không thoái lui, với những người không thoái lui nơi đạo vô thượng thì làm cho họ nhanh chóng đầy đủ trọn vẹn trí Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này nhờ sự tùy hỷ hồi hướng căn lành này mà trí Nhất thiết trí mau đầy đủ hoàn toàn. Bậc Đại Bồ-tát có tâm tùy hỷ hồi hướng căn lành rồi bố thí phước đức đó cho hữu tình thì được phước đức thù thắng gấp trăm lần ngàn lần, vô số lượng không tính được.

Tâm tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này siêu vượt hơn hẳn việc thực hành bố thí phước đức của các loài hữu tình trên thế gian. Đây gọi là Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo mặc dù dụng công ít nhưng phước đức thì vô lượng.

Này Mãn Từ Tử, giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới, trụ trong hằng hà sa số kiếp thường cúng dường vô lượng, vô biên phẩm vật cho chư Phật và Bí-sô Tăng. Nhờ duyên này, những hữu tình kia gặt được vô lượng phước đức.

Đại Bồ-tát nào duyên vào phước đức trên với thâm tâm tùy hỷ và nghĩ: “Các loài hữu tình trong mười phương cõi hay cung kính cúng dường ruộng phước điền chân tịnh, thân tâm không mỏi mệt” nên khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Ta rất tùy hỷ với phước đức này”, vị Đại Bồ-tát này do tâm tùy hỷ được phát sinh phước đức mà đối với phước đức của tất cả hữu tình trong mười phương cõi cúng dường Đức Phật và tăng thì công đức có được sẽ nhiều gấp trăm ngàn lần cho đến hơn hẳn vô số lượng không tính được.

Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ-tát vượt trội hơn phước đức thực hành bố thí của thế gian. Như ánh sáng của lửa, thuốc súng và châu báu trong bốn đại châu dù có thể chiếu sáng nhưng tất cả đều bị mờ khuất dưới ánh sáng của mặt trăng. Như vậy phước đức thực hành bố thí của hữu tình trong mười phương dù vô số, vô biên nhưng đều bị căn lành do tâm tùy hỷ của Bồ-tát làm lu mờ thí như ánh sáng ở trong bốn châu đều bị ánh sáng mặt trời che khuất như vậy phước đức thực hành bố thí của các hữu tình trong mười phương đều bị căn lành tùy hỷ của Bồ-tát che khuất.

Này Mãn Từ Tử, như trăm ngàn châu báu Cagiá-mạt-ni để chung một nơi dù có phát ra muôn loại ánh sáng đủ màu sắc nhưng khi đem một viên ngọc lưu ly báu đặt trên đống báu đó thì tất cả ánh sáng đủ màu sắc đều bị lu mờ dưới ánh sáng của viên ngọc kia. Như vậy các hữu tình trong mười phương dù trụ vô lượng hằng hà sa số kiếp thường dùng những loại dụng cụ âm nhạc thượng diệu bố thí cho hữu tình hay cúng dường Phật và Tăng nhưng so với một vị Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ với phước đức của hữu tình kia thì công đức của Bồtát hơn hẳn phước của hữu tình ấy gấp trăm ngàn lần cho đến gấp bội vô số lượng không tính được.

Lại này Mãn Từ Tử, như khi trăm ngàn con ngựa thường thế gian tập trung lại một nơi rồi đem ngựa báu của Luân vương đi vào trong đám ngựa ấy thì nó sẽ làm thế lực của đám ngựa kia mất cả. Như vậy các loài hữu tình trong mười phương dù trụ vô số kiếp tu hành bố thí tích tập căn lành nhưng so với một vị Bồ-tát khởi tâm sâu xa tùy hỷ với căn lành của họ thì công đức của Bồ-tát hơn hẳn căn lành của họ gấp trăm, ngàn lần cho đến gấp bội vô số lượng không tính được. Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ-tát che khuất tóm thâu việc phước nghiệp bố thí của các loài hữu tình trên thế gian. Thế nên, muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát phải thường tùy hỷ sâu sắc đối với công đức của các loài hữu tình tạo nên.

Lại này Mãn Từ Tử, các Đại Bồ-tát nên đem phước nghiệp, sự tương ưng với tâm tùy hỷ bố thí cho tất cả hữu tình trong các thế giới khắp mười phương và nguyện cho tất cả hữu tình trong mười phương ấy đều vĩnh viễn thoát khỏi sinh tử trong đường ác. Đối với những người chưa phát tâm quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ phát tâm, những người đã phát tâm rồi thì làm cho họ vĩnh viễn không thoái tâm. Đối với những người không thoái lui nơi quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ mau chóng viên mãn trí Nhất thiết trí.

Các vị Bồ-tát này, lúc nào lúc nào xả các căn lành bố thí cho các loài hữu tình thì các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy càng thân cận trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này khi nào khi nào đối với thiện của mình không chấp trước vào căn lành của mình thì các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy đem các căn lành bố thí lại cho các loài hữu tình nguyện cho họ được xa lìa đường khổ được an vui mãi mãi . Các vị Bồtát này khi nào khi nào xả bỏ căn lành của mình bố thí cho các loài hữu tình thì các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy dù không tu tập tư lương Bồ-đề nhưng luôn gần gũi trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này khi nào khi nào không chấp vào căn lành của mình có được và bố thí cho tất cả hữu tình trong các cõi khắp mười phương, nguyện cho họ đều xa lìa khổ đau và an vui vĩnh viễn thì các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy căn lành tăng trưởng, thân cận với quả vị Giác ngộ cao tột, nhanh chóng chứng được trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này khi nào khi nào không chấp vào ngã sở đối với căn lành của mình thì các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy thâu nhận vô lượng căn lành thù thắng. Vì sao? Này Mãn Từ Tử, vì các vị Bồ-tát này không phân chia tâm cảnh chỉ hồi hướng chứng đắc trí Nhất thiết trí mà thôi. Như vậy Bồ-tát đem tâm tùy hỷ tương ưng với phương tiện thiện xảo, tuy đem tâm tùy hỷ để dẫn các Căn lành bố thí lại cho hữu tình nhưng hoàn toàn không chấp trước vào căn lành và hữu tình; dù nguyện cho hữu tình được thoát khỏi đường ác và nỗi khổ sinh tử nhưng hoàn toàn không vướng mắc vào đường ác và khổ sinh tử; dù nguyện cứu độ các loài hữu tình làm cho họ phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột nhưng hoàn toàn không dính mắc vào việc phát tâm; tuy nguyện giúp đỡ các loài hữu tình làm cho họ vĩnh viễn không thoái chuyển đối với địa vị quả vị Giác ngộ cao tột nhưng hoàn toàn không chấp trước vào địa vị này, tuy nguyện giúp đỡ các loài hữu tình làm cho Bồ-tát hạnh chóng được viên mãn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí nhưng hoàn toàn không chấp vào địa vị này; tuy nguyện chứng đắc trí Nhất thiết trí nhưng cũng không chấp trước vào trí này. Như vậy, Bồ-tát không có tà kiến chấp trước. Nên biết, đây là phương tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ-tát với tâm tùy hỷ tương ưng với hồi hướng đều là năng lực phương tiện thiện xảo, khéo hộ trì các chúng Bồ-tát khác làm cho họ nhận được lợi ích an lạc thù thắng và tự thân thâm nhập trí Nhất thiết trí mau chứng được quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại nữa này Mãn Từ Tử, giả sử tất cả hữu tình trong mười phương cõi suốt cả vô số đại kiếp thường dùng các thứ cúng dường thượng diệu dâng cúng cho chư Phật và Bí-sô Tăng thì công đức cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen tu tập việc phước nghiệp này không bằng công đức của Bồ-tát cầm bát cơm dâng cúng Phật và Tăng, phước của Bồ-tát này hơn gấp trăm ngàn lần, cho đến gấp bội vô số không tính được. Vì sao? Vì Bồ-tát này không thấy người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí, mặc dù Bồ-tát quán thấy bản tánh các pháp đều không nhưng khi thực hành bố thí thường không xa rời hồi hướng phát nguyện. Nghĩa là Bồtát đem phước bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đạt đến quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện đồng nhau chứng được trí Nhất thiết trí. Vì thế, khi Bồ-tát thực hành bố thí thì được phước gấp trăm ngàn lần gấp bội Vô số không tính được phước đức hành bố thí của hữu tình. Nhờ vậy, nhất định Bồ-tát này sẽ chứng được quả vị Giác ngộ cao tột, đem lợi ích an vui cho tất cả các loài hữu tình.

Lại này Mãn Từ Tử, khi tu hành bố thí, bậc Đại Bồ-tát phải phát khởi tâm nguyện: “Ta xả bỏ những tài vật này nếu được căn lành nào đều đem ban bố cho các loài hữu tình khắp mười phương và nguyện cho những ai đang ở nơi địa ngục thì mau được thoát khỏi địa ngục, đang đọa vào bàng sinh thì mau ra khỏi bàng sinh, đang đọa trong loài ngạ quỷ thì chóng xa lìa ngạ quỷ, trong loài trời, người mà có buồn khổ thì nguyện cho các buồn khổ của họ đều được chấm dứt; những vị chán ghét sinh tử chóng ra khỏi ba cõi; trong vô số, vô biên các loài hữu tình ở mười phương, người nào chưa phát tâm vô thượng Bồ-đề thì làm cho họ chóng phát tâm vô thượng Bồ-đề; người đã phát tâm rồi thì làm cho họ mãi mãi không còn thoái chuyển; người đã không còn thoái chuyển nơi quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ nhanh chóng viên mãn trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này khi nào, khi nào xả bỏ các căn lành đem bố thí cho các loài hữu tình, khi ấy, khi ấy các vị Bồ-tát này thực hành Bố thí bala-mật-đa: Các vị Bồ-tát này khi nào khi nào Bố thí ba-la-mật-đa; các vị Bồ-tát này khi ấy, khi ấy tăng trưởng tất cả Ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này khi nào khi nào tăng trưởng tất cả Ba-la-mật-đa; các Bồ-tát này khi ấy, khi ấy giữ gìn vô lượng Căn lành thù thắng, các vị Bồ-tát này khi nào, khi nào giữ gìn vô lượng Căn lành thù thắng. Các Bồ-tát khi ấy, khi ấy dần dần thân cận trí Nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo mặc dù dụng công ít nhưng được phước đức rất nhiều. Thế nên muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát phải thường siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo.

Lại nữa này Mãn Từ Tử, các Bồ-tát khi nào khi nào không chấp trước ngã sở đối với các căn lành của mình; các vị Bồ-tát này khi ấy khi ấy tiếp nhận vô số, vô biên căn lành. Vì sao? Vì Bồ-tát muốn giúp cho vô số, vô biên hữu tình đều mau chứng được trí Nhất thiết trí. Như vậy, đối với các căn lành của người khác Bồ-tát còn luôn xả bỏ để hồi hướng, xả bỏ bố thí cho vô số, vô biên hữu tình khác, huống là căn lành của bản thân, mà lại không thể xả bỏ sao? Bồ-tát vẫn xả bỏ căn lành có được huống chi những tài vật khác mà không bỏ được sao?

Như vậy, Bồ-tát hay xả bỏ tất cả vật là sắc và vật chẳng phải sắc, thường hay xả bỏ căn lành thù thắng của mình và của người, cho đến hay xả bỏ trí Nhất thiết trí, bố thí cho các loài hữu tình làm cho họ cùng chứng đắc quả vị.

Như vậy, Bồ-tát rống lên tiếng sư tử: “Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với các pháp. Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với các vật có sắc, không sắc, các vật bên ngoài bên trong, tuy ta không có sự thấy nhưng đều thường hay xả bỏ.” Như vậy Bồ-tát nghĩ:

–Ta hoàn toàn không thấy có pháp, không thấy có vật nào mà không thể xả bỏ để bố thí cho các loài hữu tình.” Như vậy Bồ-tát chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột dùng trí Nhất thiết trí đã chứng đắc quan sát thế gian, rống lên tiếng sư tử. “Ta hoàn toàn không có sự thấy đối với các pháp! Ta cũng không có sự thấy đối với vật có sắc, không sắc, các vật bên ngoài bên trong, tuy không có sự thấy nhưng ta hay xả bỏ: Nghĩa là không chấp có pháp có vật để mà không hay bố thí cho các hữu tình.”

Như vậy, Bồ-tát thường nhớ nghĩ: “Đối với tất cả pháp ta hoàn toàn không còn sự thấy. Tuy không có sự thấy nhưng ta đều hiện chứng và biết khắp tất cả pháp.”

Do Bồ-tát hay xả bỏ tất cả nên khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát hay xả bỏ tận cùng tất cả pháp; do xả bỏ tận cùng tất cả pháp nên pháp nào. Bồ-tát cũng đều hiện chứng biết rõ tất cả, như như đối với các pháp, xả bỏ tất cả. Như vậy, như vậy! Đối với tất cả pháp hoàn toàn không thấy các pháp. Như vậy đối với các pháp hoàn toàn không có sự thấy. Như vậy, đối với các pháp đều hiện chứng, đều biến tri. Như vậy Bồ-tát đối với bên ngoài hay bên trong tất cả đều hay xả bỏ; vì hay xả bỏ bên ngoài bên trong nên hoàn toàn không còn sự thấy. Do không còn sự thấy các pháp nên khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột thì hoàn toàn hiện chứng hoàn toàn biết rõ khắp các pháp và hay làm lợi lạc an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nữa này Mãn Từ Tử, Bồ-tát nên học cách Bố thí ba-la-mật-đa thanh tịnh như vậy. Bồ-tát nào có khả năng học cách Bố thí ba-la-mật-đa thanh tịnh như vậy thì mới được gọi là Bồ-tát chân tịnh, thường không xa lìa tâm trí Nhất thiết. Khi nào Bồtát thường không xa lìa tâm trí Nhất thiết thì khi đó Bồ-tát không bị ác ma làm hại huống chi là loài Dược-xoa, Tất-xá-giá khác làm sao có khả năng tìm được chỗ sơ hở. Hữu tình nào tìm chỗ sơ hở của Bồ-tát này thì chắc chắn không thể được. Vì sao? Vì nếu ở địa phương nào có Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa luôn tư duy về trí Nhất thiết trí không phút nào rời bỏ thì người và phi nhân ở nơi địa phương đó không thể tìm được chỗ sơ hở của Bồ-tát. Vì sao? Này Mãn Từ Tử, nên thường tư duy trí Nhất thiết trí vì là tác ý sâu xa chẳng thể nghĩ bàn rộng lớn hiếm có trong đời, vì trí Nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn rộng lớn sâu xa khó đo lường.

Lại này Mãn Từ Tử, nếu các vị Bồ-tát hay học hạnh của đại Bồ-đề như vậy, thường có ân đức lớn với các loài hữu tình, có khả năng nuôi dưỡng dạy bảo tất cả loài hữu tình. Nghĩa là Bồ-tát hay giúp các loài hữu tình trong thế gian không bị tai nạn bỏ điều ác tu tập điều lành. Do nhân duyên này nên các chúng Bồ-tát an trụ nơi quả vị Bồ-tát, thường hay làm lợi lạc cho tất cả phàm phu, Thanh văn và Độc giác. Khi các vị Bồ-tát đang chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng đã có ân đức lớn đối với các loài hữu tình khéo nuôi dưỡng dạy bảo tất cả loài hữu tình nghĩa là hay giảng chánh pháp giúp cho hữu tình dứt hết phiền não. Nhờ vậy nên vô số, vô biên hữu tình đều đắc Niết-bàn được an lạc rốt ráo.

Vì thế, khi sắp chứng quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát đối với phàm phu, Thanh văn, Độc giác thì tài giỏi hơn, tốt đẹp hơn, là tôn quý, là cao tốt, là mầu nhiệm là vi diệu không thể nghĩ được, là trên hết, là không gì hơn, không gì bằng, không gì sánh bằng. Sau khi nhập Niết-bàn, Bồ-tát cũng có ân đức lớn đối với loài hữu tình hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình; nghĩa là đối với Tháp của Như Lai, hay cúng dường, cung kính tôn trọng ngợi khen, dâng cúng các thứ vòng hoa thượng diệu những thứ hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, cờ báu, lọng lụa, âm nhạc đèn sáng. Do nhân duyên này, các loài hữu tình đã gieo trồng vô số căn lành thù thắng, hoặc nghe giáo pháp Niết-bàn cốt yếu của Như Lai, siêng năng tu học chứng đắc Niết-bàn. Đối với tháp của Như Lai hữu tình nào dâng cúng một chút hương, một cành hoa thì Phật sẽ thọ ký cho hữu tình đó đều được xa lìa sự tham dục, rốt ráo được Niết-bàn. Như vậy, Bồ-tát ở nơi địa vị Bồ-tát có ân đức lớn đối với các loài hữu tình hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng có ân đức lớn đối với các loài hữu tình khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Sau khi vào Niết-bàn, Bồ-tát cũng có ân đức lớn đối với các loài hữu tình, khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Vì các Bồ-tát thường có ân đức lớn đối với các loài hữu tình cho nên khéo hay dưỡng dục tất cả hữu tình, là bậc tôn quý nhất, giỏi nhất, ngoài chư Phật ra không ai có thể sánh bằng.

Lại này Mãn Từ Tử, Bồ-tát nào thành tựu được công đức thù thắng như vậy thì vị ấy thường hay làm lợi ích cho tất cả loài hữu tình. Thí như vàng ròng có thể đem lại lợi ích cho hữu tình. Nghĩa là khi chưa được luyện hoặc khi đã luyện rồi, khi chưa được làm thành vật trang sức hoặc khi đã được làm thành vật trang sức khi chưa thay đổi hoặc khi đã thay đổi vàng đều có thể đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề ở địa vị Bồ-tát hay làm lợi ích lớn cho tất cả hữu tình; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình; sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Lại này Mãn Từ Tử, như mặt trăng, mặt trời xoay quanh bốn châu thiên hạ đem lại lợi ích lớn cho hữu tình. Nghĩa là tất cả hữu tình trong bốn châu nhờ có sáng của mặt trời mặt trăng chiếu ra mà có thể làm được mọi việc, giúp hữu tình biết rõ được sự khác nhau giữa ban ngày ban đêm, nửa tháng đầy tháng, mùa, thời tiết... các thứ hoa quả, lúa mạ, cỏ cây... nhờ ánh sáng của mặt trời mặt trăng mà được sinh trưởng tới chín để nuôi sống hữu tình.

Như vậy, Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề trụ nơi địa vị Bồ-tát, làm lợi ích lớn cho hữu tình; khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình; sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình.

Này Mãn Từ Tử, các chúng Bồ-tát thành tựu công đức rộng lớn như thế thường làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình. Thí như người chủ buôn có nhiều của cải báu, có thể làm cho trăm ngàn bạn bè buôn bán đều được đầy đủ các dụng cụ sinh sống, cho đến sau khi vị ấy chết, các loài hữu tình cũng nhờ những của cải quý báu này cũng được đầy đủ an vui. Như vậy Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-đề ở nơi địa vị Bồ-tát vẫn còn có thể làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình huống nữa là khi đắc được Bồ-đề và sau khi vào Niết-bàn được thế lực lớn mà không thể làm cho các đệ tử được lợi ích và an lạc sao?

Lại này Mãn Từ Tử, như vậy, Bồ-tát thường hay làm lợi ích an vui cho hữu tình, nghĩa là khi ở địa vị Bồ-tát hay khi thành Chánh giác hoặc lúc vào Niết-bàn, Bồ-tát thường chưa từng phút giây nào bỏ việc làm lợi ích lớn cho hữu tình. Như có bậc thiện sĩ và đầy đủ tướng của bậc Thiện sĩ nên có thể tìm an vui cho mình và cũng có thể đem an vui đến cho các loài hữu tình, khéo giữ gìn của cải, khéo phân chia nên gọi là Thiện sĩ.

Như vậy Bồ-tát khéo thu giữ của cải công đức quý báu, ngay nơi quả vị Bồ-tát có thể làm lợi ích an lạc cho vô số hữu tình; khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột cũng làm lợi lạc cho vô số hữu tình, sau khi Niết-bàn cũng làm lợi lạc cho vô số hữu tình. Nghĩa là sau Niết-bàn cũng đem năng lực công đức lợi lạc cho các đệ tử.

Này Mãn Từ Tử, như vậy khi ở địa vị Bồ-tát hay khi đắc được Bồ-đề hoặc sau khi Niết-bàn, Bồtát thường hay làm lợi lạc cho tất cả hữu tình không ngừng nghỉ phút giây nào. Giống như Thiện sĩ kia, đầy đủ tướng Thiện sĩ; Thiện sĩ có khả năng làm cho mình và người đều được an lạc, chóng xa lìa những việc không như ý. Các chúng Bồ-tát cũng như vậy hay làm cho mình và người thường được an lạc, xa lìa mọi loại nghiệp ác phiền não không đọa vào đường ác trôi lăn trong sinh tử, được vào Niết-bàn an lạc rốt ráo hoặc đắc thành Vô thượng Chánh giác làm lợi ích cho tất cả.

Này Mãn Từ Tử, như con vua Sát-đế-lợi quán đảnh sẽ lên nhận ngôi vua, ngay khi còn là thái tử hoặc lúc lên ngôi vua, đều đem an lạc cho tất cả Sa-môn, Phạm chí và hữu tình khác, hoặc sau khi băng hà cũng có thể làm cho đất nước và nhân dân an lạc làm cho không bị suy vi và bị quấy rối. Nghĩa là do năng lực công đức của nhà vua ấy mà đất nước giàu có thái bình không có giặc giã oán thù. Khi ở địa vị Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-đề, Bồtát đã hay đem an lạc cho tất cả hữu tình; khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột, Bồ-tát cũng hay đem an lạc cho tất cả hữu tình; sau khi Niết-bàn, Bồ-tát cũng hay đem an lạc cho tất cả hữu tình. Nghĩa là sau khi Bồ-tát Niết-bàn, có vô số hữu tình cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen tháp nên gặt được vô lượng phước, lắng nghe chánh pháp thọ trì đọc tụng, tư duy đúng như lý và vì người khác diễn nói chánh pháp cũng được vô lượng công đức thù thắng.

Sau khi Đức Phật Thế Tôn Niết-bàn các loài hữu tình nào nghĩ nhớ đến giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn và giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai thì nhờ nhân duyên này các hữu tình ấy sẽ không đọa vào đường ác được sinh trong cõi trời, người thường thọ hưởng khoái lạc hoặc chứng đắc Niết-bàn của ba thừa có thể làm cho người và mình được rốt ráo an lạc. Trong đời hiện tại, người và phi nhân không thể gây hại cho hữu tình này, các sự sợ hãi không thể quấy phá bức bách họ được. Vì sao?

Này Mãn Từ Tử, công đức niệm Phật có công năng diệt trừ các sự sợ hãi của người và phi nhân trên thế gian.

Khi ấy, Đức Phật khen ngợi Tôn giả Xá-lợi Tử: –Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, nếu loài hữu tình nào hay nhớ nghĩ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn và giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai thì loài hữu tình này có thể trừ diệt được các sự sợ hãi của người và phi nhân.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Thật là hiếm có! Bạch Thế Tôn, Như Lai đã thành tựu chánh pháp rộng lớn thanh tịnh như vậy. Thế Tôn dạy Tôn giả Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử, ông nên biết Bồ-tát cũng có thể thành tựu chánh pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh như vậy.

Tôn giả Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn, sự thành tựu chánh pháp mầu nhiệm rộng lớn thanh tịnh của Bồ-tát là những gì?

Phật dạy:

–Sự thành tựu chánh pháp mầu nhiệm, rộng lớn thanh tịnh của Bồ-tát là phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột không thoái lui. Vì sao? Này Xá-lợi Tử, chánh pháp mầu nhiệm rộng lớn thanh tịnh nhất là các pháp tánh: Tánh Như Lai, giác tánh tự nhiên và tánh quả vị Giác ngộ cao tột. Các vị Bồ-tát nào phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột không lui sụt thì nhất định sẽ thành tựu chánh pháp mầu nhiệm, rộng lớn thanh tịnh như vậy.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử lại nói với Cụ thọ Mãn Từ Tử:

–Các chúng Bồ-tát nên phát tâm này: “Các loài hữu tình nào đến chỗ ta cầu xin những vật dụng của cải để sinh sống thì ta sẽ phát tâm bố thí mãnh liệt, không phát tâm không cho vật dụng để sinh sống.” Giả sử ngay khi ấy không có vật dụng của cải, ta quyết sẽ tìm phương cách để bố thí chứ không phát khởi tâm như vậy: “Bấy giờ ta không có của cải vật dụng, không cần tìm phương cách bố thí.” Nếu có hữu tình nào bố thí cho người ấy ta sẽ tùy hỷ theo, nếu họ không muốn bố thí thì ta sẽ dùng mọi phương tiện khuyên bảo dạy bảo họ, quyết làm cho người mong cầu đều được mãn nguyện. Như vậy, Bồ-tát hoặc bố thí những của cải vật dụng cần dùng cho hữu tình, hoặc hầu thầy khi thầy bệnh đau nếu có chút ít phước nghiệp nào đều bình đẳng ban cho hữu tình và cùng hồi hướng lên ngôi quả vị Giác ngộ cao tột và muốn làm lợi lạc cho tất cả đến tận đời vị lai, làm cho tất cả thoát khỏi đường ác và sinh tử khổ đau, làm cho tất cả vào Niết-bàn hoặc đạt được trí Nhất thiết. Hữu tình nào tự thực hành bố thí tu tập các phước nghiệp khác, thì Bồ-tát khuyên họ hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột. Như vậy Bồ-tát gặt được phước đức nhiều hơn hữu tình khác gấp trăm lần ngàn lần, cho đến gấp bội hơn vô số không tính được. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm hồi hướng có năng lực làm cho mình và những hữu tình khác đều chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Lại này Mãn Từ Tử, các chúng Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa trước hết phải tu tập phương tiện thiện xảo tùy theo phương tiện thiện xảo tu tập được mà tu hành bố thí, tùy theo phước nghiệp tu hành bố thí đều đem hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột và nguyện cầu cho các loài hữu tình đều cùng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Như vậy Bồ-tát khéo tu phương tiện thiện xảo làm cho mình và người đều được lợi thù thắng. Nếu các Bồ-tát tu hành bố thí không tu tập phương tiện thiện xảo thì giả sử trải qua vô số kiếp tu hành bố thí cũng không thể cùng với hữu tình hồi hướng đến Bồ-đề, không thể giữ vững sự tu tập Bố thí ba-la-mật-đa, không thể chứng đắc được trí Nhất thiết trí như đã mong cầu.

Lại này Mãn Từ Tử, giả sử có hữu tình cầm bình bát lớn bằng thế giới ba lần ngàn đến chỗ Bồtát và nói rằng: Tôi cần xin đầy bình bát này xin người gấp gấp ban cho. Bồ-tát không khởi tâm khác đối với hữu tình ấy chỉ khởi tâm nhất quyết bố thí cho hữu tình ấy. Nghĩa là cuối cùng không sân hận cho rằng hữu tình khinh thường xúc phạm mình, cũng lại không khởi tâm không bố thí, nghĩa là nghĩ: “Làm sao ta có thể cho người kia nhiều phẩm vật được”, cũng không khởi tâm không có của cải, nghĩa là nghĩ: “Ta làm sao có thể cho đầy đủ vật báu như vậy đầy bát lớn đến thế giới ba lần ngàn của hữu tình kia? ” Mà Bồ-tát chỉ nên nghĩ: “Bây giờ vì hữu tình này ta phải tu tập thần thông thù thắng tu tập các phương tiện để gom góp các của cải quý báu, chắc chắn làm cho người mong cầu kia thỏa mãn ý muốn.” Khi đó Bồ-tát tinh tấn vượt bực siêng năng hành động cầu thần thông thù thắng muốn góp nhặt của cải quý báu để bố thí cho hữu tình đang cầu xin, giữ vững Tinh tấn ba-lamật-đa, đã đắc được thần thông tích góp được nhiều của cải quý báu, Bồ-tát ban cho người cầu xin làm cho được mãn nguyện. Bồ-tát giữ vững Bố thí ba-la-mật-đa, như vậy gọi là các chúng Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa phát tâm rộng lớn thường không nhàm chán mỏi mệt. Nhờ vậy Bồ-tát mau chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột có năng lực lợi lạc cho tất cả đến tận đời vị lai.

Lại này Mãn Từ Tử, các Đại Bồ-tát nên thương tưởng đến hữu tình mà thực hành bố thí nên trụ nơi tâm từ ban vui cho chúng sinh mà thực hành bố thí, nên trụ nơi tâm bi dẹp sạch khổ đau cho hữu tình mà thực hành bố thí, nên trụ nơi tâm hỷ, vui vẻ với các hữu tình xa lìa khổ đau được an vui mà thực hành bố thí, nên trụ nơi tâm xả bình đẳng làm lợi ích cho hữu tình mà thực hành bố thí.

Bố thí như vậy rồi nên phát sinh tâm: “Phước đức và việc lành ta đã tạo được, ta xin bố thí cho hữu tình trong mười phương làm cho họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sinh tử với những người chưa phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột ta làm cho họ phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, những người đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột rồi thì làm cho họ vĩnh viễn không thoái lui, đã không thoái lui nơi quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ mau chóng viên mãn trí Nhất thiết trí.”

Các vị Bồ-tát này khi nào xả bỏ phước đức và căn lành cho các loài hữu tình, thì khi ấy căn lành được tăng trưởng. Các vị Bồ-tát này khi nào lấy việc tu tập điều lành cùng hồi hướng cho các loài hữu tình đến quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện cùng nhau chứng được trí Nhất thiết trí, thì khi ấy căn lành của các vị Bồ-tát này tăng thêm.

Lại này Mãn Từ Tử, thí như vàng ròng khi nào được tôi luyện, được đốt, đập, thì khi ấy màu sắc sáng bóng càng tăng lên; khi nào, càng tăng lên, thì khi ấy vàng trở nên mềm dẻo có thể làm vật dụng.

Như vậy Bồ-tát khi nào đem điều lành đã tạo cho các chúng sinh cùng hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện cùng chứng đắc trí Nhất thiết trí, thì khi ấy căn lành càng tăng; khi nào căn lành càng phát triển, thì khi ấy lần lần thân gần trí Nhất thiết.

Này Mãn Từ Tử, như có người con gái chùi gương soi mặt khi nào gia công lau chùi gương, thì khi ấy gương càng trong sáng; khi nào gương đã trong sáng thì khi ấy mặt gương không còn bụi, mọi cảnh tượng đều hiện rõ trong gương. Như vậy Bồ-tát khi nào quyết chí đem phước đức và việc lành tạo được hồi hướng đến trí Nhất thiết trí, thì khi ấy Bồ-tát hay bố thí khắp tất cả hữu tình trong mười phương làm cho họ thoát đường ác sinh tử, với người chưa phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ phát tâm, người đã phát tâm Vô thượng rồi thì làm cho họ không còn thoái chuyển, người nào không còn thoái chuyển nơi quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ mau chóng viên mãn trí Nhất thiết trí. Các vị Bồ-tát này khi nào xả bỏ căn lành của mình bố thí cho các loài hữu tình thì khi ấy căn lành càng tăng thêm; khi nào căn lành tăng thêm, thì khi ấy đã gần gũi trí Nhất thiết trí.

Như vậy, Bồ-tát tu tập phương tiện thiện xảo hồi hướng mong cầu trí Nhất thiết trí làm cho các công đức dần dần tăng trưởng mau chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, hay làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Này Mãn Từ Tử, tại sao có Bồ-tát thực hành bố thí nhiều nhưng nhận phước rất ít? Tại sao có Bồtát ít thực hành bố thí lại nhận được nhiều phước? Tại sao có Bồ-tát ít thực hành bố thí và nhận được ít phước? Tại sao có Bồ-tát bố thí nhiều và được phước nhiều?

Các Bồ-tát nào tuy trải qua vô số đại kiếp thường xả bỏ vô lượng, vô số của cải quý báu rồi bố thí cho các hữu tình trong mười phương nhưng không hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột nguyện cùng với hữu tình đồng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Như vậy, dù Bồ-tát thực hành bố thí nhiều nhưng được phước ít. Ngược lại Bồ-tát nào mặc dù trải qua thời gian ngắn ngủi bố thí cho hữu tình ít của cải nhưng luôn hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, nguyện cùng với hữu tình đồng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Bồ-tát như thế ít bố thí nhưng thâu nhận nhiều phước đức.

Bồ-tát nào trải qua thời gian ngắn bố thí chút ít của cải cho hữu tình nhưng không hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, không nguyện cùng với hữu tình đều đồng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Bồtát như vậy thực hành bố thí ít và nhận phước cũng ít.

Bồ-tát nào trải qua vô số đại kiếp thường xả vô số tài sản quý báu và bố thí cho các hữu tình khắp mười phương, lại có thể hồi hướng Bồ-đề, nguyện cùng hữu tình đều đồng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát này thực hành bố thí nhiều và được nhiều phước.

Vì thế, bậc Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột phải đem căn lành cho hữu tình cùng hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột nguyện cùng với hữu tình đều đồng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bậc Đại Bồ-tát nào muốn có năng lực nhiếp thọ vô số phước uẩn làm lợi ích cho hữu tình nhanh chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí thì phải thường không xa lìa trí Nhất thiết trí và tương ưng với sự chú ý tu hành Bố thí ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát nào thường không xa lìa trí Nhất thiết trí tu hành Bố thí ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này liền có năng lực giữ vững vô lượng phước uẩn mau chóng chứng quả vị Giác ngộ cao tột làm nhiều lợi ích cho các loài hữu tình. Vì sao?

Này Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát thường không xa lìa trí Nhất thiết trí và tương ưng với chú ý tu hành Bố thí ba-la-mật-đa. Các vị Bồ-tát này trong mỗi một sát-na, căn lành và công đức dần dần được tăng trưởng, nhờ vậy mau đắc quả vị Giác ngộ cao tột hay làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận vị lai. Vì thế, Bồ-tát muốn thường đem lợi ích an vui cho hữu tình thì trong tất cả hành động thường phải siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo, hồi hướng lên quả vị Giác ngộ cao tột và nguyện làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

QUYỂN 580

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa (2)

Lại nữa Mãn Từ Tử, Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, trong tất cả các hạnh, đầu tiên là nên học Bố thí ba-la-mật-đa vô nhiễm. Vì sao? Mãn Từ Tử, nếu học Bố thí ba-la-mật-đa, thì thân tâm phải liên tục mau chóng xa lìa xan tham, keo bẩn đã huân tập từ vô thỉ kiếp đến nay, mới dần dần thân cận trí Nhất thiết trí. Vì vậy Bồ-tát khi nào, khi nào tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí hiện tiền liên tục; khi ấy, khi ấy dần dần thân cận trí Nhất thiết trí. Khi nào, khi nào dần dần thân cận trí Nhất thiết trí; khi ấy, khi ấy dần dần xa lìa bậc Thanh văn và Độc giác. Khi nào, khi nào dần dần xa lìa Thanh văn và Độc giác; khi ấy, khi ấy dần dần kề cận trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như khi trời mưa, để vò ở chỗ cao hứng nước mưa. Nước mưa dần dần đầy vò. Khi đầy như vậy là do giọt mưa rơi xuống liên tục chớ không bị gián đoạn trước hoặc sau. Bồ-tát cũng vậy, cầu trí Nhất thiết chẳng phải chỉ phát tâm ban đầu mà chứng đắc được, cũng chẳng phải sau khi ngồi tòa Bồ-đề phát khởi tâm hối hận mà chứng đắc được. Do phát tâm liên tục từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề phát khởi tâm tối hậu mà chứng đắc được. Do phát tâm liên tục từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề, khởi tâm tối hậu giúp nhau liên tục, nên cầu trí Nhất thiết, chứng trí Nhất thiết. Tâm ở chặn đầu, giữa, sau đều hướng đến trí Nhất thiết để chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột. Cốt yếu là do các tâm nối nhau liên tục, dứt trừ các pháp chướng ngại, mới thành tựu được.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát muốn mau chứng đắc Vô thượng Bồ-đề không nên để cho tâm bị điều khác xen tạp làm gián đoạn.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Lúc nào gọi là tâm các Bồ-tát không bị điều khác xen tạp làm gián đoạn?

Xá-lợi Tử đáp:

–Nếu các Bồ-tát suy nghĩ phi lý thì ngay hiện tại có thể tự quán sát đúng. Vị này tùy thuận với trí Nhất thiết trí không bị trái nghịch, các Bồ-tát này có thể như thật biết ta đang bị phát khởi suy nghĩ phi lý, nhưng có trí Nhất thiết làm bạn giúp đỡ nhau. Nghĩa là chỗ làm cho ta ngã phát khởi suy nghĩ phi lý, có khả năng dẫn ta vào trong sinh tử liên tục, an trụ lâu dài để làm lợi ích hữu tình. Nếu thân ta không suy nghĩ phi lý, giúp đỡ làm cho được trụ lại thì đoạt diệt ngay, tự mình không được viên mãn, làm sao lợi ích cho các hữu tình khác. Mức độ này gọi là tâm các Bồ-tát không bị xen tạp làm gián đoạn.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát quán sát sự thuận nghịch của các pháp, đều hỗ trợ nhau đến trí Nhất thiết trí. Các Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo quán sát tất cả pháp, đều tùy thuận sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột, không bị sự thuận nghịch để tâm bị điều khác xen tạp làm gián đoạn. Đối với cảnh nghịch, tâm không sinh sân hận, đối với cảnh thuận, trong tâm không sinh ái nhiễm. Nếu nghịch, hay thuận đều biết rõ thì nó hỗ trợ, làm duyên dẫn đến trí Nhất thiết. Bồ-tát như vậy thì trong tâm không bị xen tạp đối với tất cả thời gian, tất cả ngoại cảnh.

Lại nữa Mãn Từ Tử, ví như có người bị kẻ khác bắt giam, dẫn đến chỗ giết. Người kia run sợ không còn tưởng việc gì khác, chỉ nghĩ như: “Chẳng bao lâu nữa, nhất định ta sẽ bị chúng giết hại.” Các Bồtát cũng như vậy. Nếu thường suy nghĩ về trí Nhất thiết trí, trong thời gian đó không có suy nghĩ gì khác thì các Bồ-tát đó đối với tất cả thời gian, tâm không bị điều khác xen tạp làm gián đoạn.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như có người đem nhiều châu báu, vào đồng vắng, nơi có nhiều giặc cướp hung bạo. Bấy giờ, người kia không còn tưởng gì khác chỉ nghĩ: “Lúc nào ta sẽ ra khỏi chỗ hiểm nạn này để đến nước giàu sang yên ổn.” Các Bồ-tát cũng như vậy. Nếu thường suy nghĩ về trí Nhất thiết trí, thì những suy nghĩ khác không khởi lên được. Thân, ý của các Bồ-tát này thanh tịnh, tâm không bị điều khác xen tạp làm gián đoạn.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như có người từng làm trộm cướp, bị vua tìm bắt. Người kia sợ sệt, trốn vào trong chợ, núp chỗ ồn ào đông đảo để lẩn trốn. Chính ngay nơi đó, có đánh trống, thổi kèn, đọc sắc lệnh nhà vua muốn bắt y. Khi đó người kia không còn tưởng điều gì, chỉ nghĩ rằng: “Chớ để họ biết ta ở đây, nếu thấy thì sẽ bị bắt trói.” Các Bồ-tát cũng như vậy. Vì muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột nên thường suy nghĩ về trí Nhất thiết trí, không để khởi lên các suy nghĩ khác. Đối với việc tu hành, các Bồ-tát này không để tâm bị xen tạp.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như thợ vàng, có người đem trăm vàng đến trao tận tay ông ta và nói: “Vật này, vua bảo giao cho ngươi, ngươi hãy làm các đồ trang sức quý báu, đẹp đẽ. Phải hết lòng làm gấp trong một tháng là hoàn tất. Nếu như không hoàn thành hoặc làm xấu xí, đầu ngươi sẽ mất, nhất định không tha.” Người thợ vàng nghe rồi, thân tâm run sợ, ngày đêm siêng năng gắng sức làm việc, chưa từng nghĩ đến các điều khác, chỉ nghĩ: “Ta phải làm thế nào để đúng kỳ hạn vua giao và vật trang sức phải đẹp đẽ.” Người kia đến khi vật trang sức chưa hoàn thành, trong khoảng thời gian đó, tuy có ăn uống... nhưng hoàn toàn không nghĩ đến việc ăn uống... chỉ để tâm nơi cục vàng và liên tục suy nghĩ làm thế nào để sáng tạo các kiểu trang sức thật đẹp. Vì sao?

Mãn Từ Tử, vì người kia rất quý trọng thân mạng. Đúng kỳ hạn, người thợ vàng hoàn thành các vật trang sức đẹp đẽ, đem đến chỗ vua tâu:

–Tâu Bệ hạ, các vật trang sức quý báu mà vua sai tôi làm, nay đã hoàn tất.

Vua thấy rất vui mừng, an ủi người kia:

–Ngươi vâng theo sắc lệnh của ta có công rất lớn. Đáng lẽ phải làm mười hai tháng mới xong, ngươi chỉ làm trong vòng một tháng hoàn thành tất cả.

Vua liền đem nhiều vật quý báu ra ban thưởng. Các Bồ-tát cũng lại như vậy, tức lúc mới phát tâm cho đến khi tối hậu, định Kim cang dụ sắp hiện tiền, trong khoảng thời gian đó, tâm chưa hề xen tạp điều khác, chỉ cầu phát trí Nhất thiết trí. Như người thợ vàng kia tiếc thân mạng mình, bao lâu đồ trang sức chưa xong, trong khoảng thời gian đó, chưa từng để vọng tưởng xen tạp, chỉ dốc tâm chế tạo đồ trang sức. Bồ-tát cũng vậy, vì tôn trọng Bồđề, khi chưa đắc quả vị Giác ngộ cao tột, tâm thường suy nghĩ về trí Nhất thiết trí. Trong khoảng đó, không có một suy nghĩ nào khác. Đây gọi là tâm không bị điều khác xen tạp làm gián đoạn.

Nếu các Bồ-tát cầu trí Nhất thiết, có thể an trụ tâm như vậy không để xen tạp, tinh tấn tu hành hạnh Bồ-đề mau chóng viên mãn tư lương Bồ-đề. Các Bồ-tát khác vì tu hạnh Bồ-tát mà để tâm xen tạp nên phải trải qua vô số kiếp mới được viên mãn tư lương Vô thượng Đẳng chánh giác. Các Bồ-tát này không trải qua trăm kiếp, liền được viên mãn. Vì sao? Mãn Từ Tử, vì các Bồ-tát này cầu trí Nhất thiết nên không để ý nghĩ khác xen tạp trong tâm đại Bồ-đề. Vì thế, tâm không xen tạp việc tu hạnh Bồ-tát, không phải trải qua trăm kiếp, liền được viên mãn, chứng đắc tư lương Vô thượng Bồ-đề. Khi tâm bị xen tạp liên tục thì không thành tựu tư lương Bồ-đề. Nếu tâm xen tạp, ít nối tiếp nhau, liền thành tựu tư lương Bồ-đề vì thường tăng trưởng việc tinh tấn trong từng sát-na. Như vậy, Bồ-tát muốn cầu quả vị Giác ngộ cao tột dẫn đến việc viên mãn tư lương được mau chóng thì phải siêng năng dùng phương tiện không điên đảo để phát tâm không xen tạp. Nếu được tâm như vậy thì dễ chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

–Tâm không xen tạp thì lấy gì làm tánh? Những suy nghĩ gì làm tâm bị xen tạp? Do tâm có phân biệt nên gọi là xen tạp, chúng Bồ-tát phải xa lìa nó thế nào?

Xá-lợi Tử đáp:

–Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo chỉ cầu trí Nhất thiết, không suy nghĩ gì khác để bị xen tạp. Tâm không xen tạp thì lấy đây làm tánh. Nếu suy nghĩ tương ưng với Thanh văn thừa, suy nghĩ tương ưng với Độc giác thừa, đều có thể xen tạp tâm đại Bồ-đề, đều gọi là suy nghĩ Bồ-tát phi lý của. Vì sao? Vì suy nghĩ của Nhị thừa nên trái nghịch với quả vị Giác ngộ cao tột. Nếu ai khởi tâm kia ngay hiện tại thì không viên mãn tư lương Bồ-đề, vui mừng an lạc của Niết-bàn, nhàm chán sinh tử. Đối với điều đó, Bồ-tát phải nên xa lìa và tránh xa. Hãy suy nghĩ như vầy: “Suy nghĩ về Nhị thừa sẽ xa lìa trí Nhất thiết, thuận theo vào Niếtbàn, không nên để bị xen tạp điều đó trong tâm ta.” Vì vậy Bồ-tát phải nghĩ: “Tâm tương ưng với tham, sân, si đối với đại Bồ-đề tuy là chướng ngại nhưng lại tùy thuận tư lương Bồ-đề thì chẳng xen tạp lắm đối với tâm Bồ-tát. Tâm là như cầu tâm địa vị Độc giác, Thanh văn. Vì sao? Vì tham, sân, si có thể làm cho sinh tử tương tục trong các cõi, nhưng hộ trì các Bồ-tát đến trí Nhất thiết. Nghĩa là chúng Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, thọ thân đời sau chịu các phiền não để làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Y vào đó tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa làm cho được viên mãn. Y vào đó tu học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc làm cho được viên mãn. Y vào đó tu học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo làm cho được viên mãn. Y vào đó tu học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện làm cho được viên mãn. Y vào đó tu học vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa làm cho được viên mãn. Y vào đó tu học các địa vị Bồ-tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông cho được viên mãn. Y vào đó tu học mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả và mười tám pháp Phật bất cộng, vô lượng, vô biên công đức chư Phật cho được viên mãn. Phiền não như vậy có thể hộ trì Bồ-tát, làm cho chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng phải suy nghĩ của các Thanh văn, Độc giác, vì suy nghĩ kia làm ngăn cản đại Bồ-đề, làm trở ngại tư lương, không được viên mãn. Cho nên khi tâm của chúng Đại Bồ-tát bị xen tạp ý nghĩ kia thì bị cách xa Vô thượng Bồ-đề. Vì vậy, tâm các Bồ-tát không nên xen tạp suy nghĩ của Thanh văn, Độc giác. Các Bồtát vì cầu đại Bồ-đề nên phải tránh xa nó, đừng cho phát khởi. Thân ở nơi các cõi tuy phải tùy thuận suy nghĩ phiền não nhưng chẳng bị xen tạp lắm đối với tâm Bồ-tát. Vì sao? Mãn Từ Tử, vì các Bồ-tát cầu đại Bồ-đề chỉ vì muốn độ các hữu tình nên mặc giáp tinh tấn, an trú lâu dài trong sinh tử để làm lợi ích lớn, không nên mau chóng suy nghĩ chấm dứt phiền não. Do suy nghĩ này, nên ngay nơi hiện tại liền được thân tương tục lâu dài ở các cõi. Y vào đó mà giữ gìn Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác đều được viên mãn. Suy nghĩ tương ưng với phiền não như vậy sẽ tùy thuận hộ trì các Bồ-tát ở thân sau, đưa đến phát sinh quả vị Giác ngộ cao tột. Khi chưa chứng Bồ-đề cho đến chưa ngồi tòa Bồ-đề diệu pháp thì không mong cầu đoạn dứt. Đối với suy nghĩ ấy không nên diệt trừ hẳn.

Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát, nếu ngay khi hiện tại phát khởi phiền não, không nên đối với sinh tử mà nhàm chán. Vì sao? Mãn Từ Tử, vì các Bồ-tát đối với phiền não, nhớ nghĩ có ân, nên nghĩ rằng: “Do điều kia nên đưa cho ta phát các loại tư lương Bồđề, làm cho mau chóng viên mãn. Điều kia đối với ta có ân đức lớn. Vì sao? Vì cũng như thiện pháp khác đối với ta có lợi ích cho nên ta kính trọng. Phiền não cũng vậy, không nên chán ghét? Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy đối với các phiền não và cảnh giới đối nghịch cũng kính trọng sâu xa như kính Phật Thế Tôn. Vì sao? Vì các Bồtát này biết dùng phương tiện thiện xảo suy nghĩ: “Do các hữu kết sử chưa dứt hẳn, nên ta phải tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác cho được viên mãn.” Nhân điều này nên phát trí Nhất thiết trí. Khi nào, khi nào tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn, khi ấy, khi ấy làm cho kết sử các cõi lần lượt được bào mòn cho đến hoàn toàn chấm dứt, liền chứng quả vị Giác ngộ cao tột. Ví như người buôn dùng xe chở các vật quý báu rất nặng đến thành lớn rất xa. Khi nào, khi nào xe kia vận chuyển tiến dần, tiến dần về phía trước khi ấy, khi ấy các bộ phận trục, vành... nơi bánh xe hao mòn dần dần. Lần lượt như vậy được vào thành lớn. Một khi các bộ phận của xe bị hư hoại thì sự việc đã thành tựu, người chủ không hối tiếc. Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo cũng như vậy, dùng kết sử dựa vào thân để hộ trì. Khi nào, khi nào do kết sử tương tục hộ trì thân, khi ấy, khi ấy Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã bala-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Khi nào, khi nào Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Khi ấy, khi ấy làm cho kết sử các cõi dần dần suy giảm. Khi nào, khi nào làm cho kết sử các cõi hữu dần dần suy giảm. Khi ấy, khi ấy dần dần kề cận trí Nhất thiết trí. Nếu khi Bồ-tát chứng đại Bồđề bấy giờ các kết sử y vào thân đều chấm dứt. Những việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân kết sử. Như xe đã vào thành rồi, không cần dùng xe. Phiền não như vậy đối với đại Bồ-đề tuy là chướng ngại nhưng có sức hộ trì tư lương Bồđề. Vì vậy nên Bồ-tát cho đến chưa ngồi tòa Bồ-đề Diệu giác cũng chưa diệt trừ hẳn phiền não. Nếu được Bồ-đề thì tất cả phiền não đều chấm dứt. Nếu có hữu tình đến chỗ Bồ-tát, trước thì khinh chê, quở trách, sau cầu xin chánh pháp.

Bấy giờ, Bồ-tát hoan hỷ bố thí cho với ý nghĩ như vầy: “Hữu tình này đến chỗ ta, bố thí ân đức lớn làm cho ta thành tựu bố thí an nhẫn. Do đó ta chứng đắc trí Nhất thiết trí. Ta nhờ người kia nên phát tâm tăng thượng, đạt đến đại Bồ-đề thù thắng hơn cảnh giới khác. Vì vậy, trong các tác ý của Bồtát này chỉ trừ tác ý tương ưng với Nhị thừa. Không nên nhàm chán các tác ý khác. Vì đối với sự chứng đắc trí Nhất thiết trí đều có sức hộ trì này.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Chẳng lẽ Nhị thừa đối với trí Nhất thiết cũng có sức hộ trì sao? Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy bảo, khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Hoặc các Độc giác cũng làm phước điền, cúng dường y phục thức ăn cho các Bồ-tát mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vậy tại sao nói tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác không có sức hộ trì đối với trí Nhất thiết và tư lương này.

Xá-lợi Tử trả lời Cụ thọ Mãn Từ Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy! Thanh văn, Độc giác đều có sức hộ trì đối với trí Nhất thiết và tư lương này. Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng có thể dạy bảo răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồtát, làm cho họ siêng năng tu học tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám món bất cộng của Phật. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát làm cho họ siêng năng tu học trí Nhất thiết, trí Đạo tướng, trí Nhất thiết tướng. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học tất cả hạnh của Đại Bồ-tát. Cũng có thể dạy bảo khuyên răn Bồ-tát, làm cho họ siêng năng tu học quả vị Giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì vậy Thanh văn cũng có sức hộ trì đối với trí Nhất thiết và tư lương này. Hoặc các Độc giác cũng muốn làm phước điền, cúng dường cho Bồ-tát. Nghĩa là các Bồ-tát nhờ phước điền cúng dường đầy đủ vật dụng nơi thân, hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột. Cho nên Độc giác cũng có sức hộ trì đối với trí Nhất thiết và tư lương. Nhưng suy nghĩ của các Thanh văn, Độc giác hoàn toàn không có sức hộ trì trí Nhất thiết và tư lương này. Vì sao? Vì suy nghĩ tương ưng với Thanh văn, Độc giác có sức hộ trì thù thắng đối với bậc Nhị thừa nhưng không tùy thuận đối với sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột và tư lương này của các Bồ-tát. Nghĩa là ý nghĩ nhàm chán sinh tử, ưa thích nhập Niết-bàn, bỏ đại Bồ-đề và các loài hữu tình. Vì vậy, nhất định Bồ-tát không nên có suy nghĩ tương ưng với Độc giác, Thanh văn. Do suy nghĩ kia hoàn toàn không tùy thuận đối với sự cầu Phật quả và sự lợi ích hữu tình của chư Phật.

Lại nữa Mãn Từ Tử, các Thanh văn thừa có đại ân đức lớn đối với sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột của các Đại Bồ-tát. Nghĩa là chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết giáo pháp, dạy bảo khuyên răn tương ưng với tất cả Ba-la-mật-đa và thắng hạnh, làm cho siêng năng tu học mau chóng được viên mãn. Cũng đem phước điền thanh tịnh cúng dường cho Bồ-tát, làm cho các Bồ-tát mau chóng được viên mãn tư lương Bồ-đề. Do đó, Thanh văn này có ân đức lớn đối với các Bồ-tát. Vì vậy, Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo quán sát các hữu tình và tất cả pháp, đối với trí Nhất thiết và tư lương này đều có ân đức để tùy thuận. Tâm hay trí của các A-la-hán, đối với Bồ-tát thừa cũng có ân đức. Nghĩa là nếu không có tâm hay trí kia thì Bồ-tát không ngăn ngại.

Vì sao nói các Bồ-tát không nên phát khởi tâm A-la-hán, cũng không nên tu trí A-la-hán. Do điều kia ngăn ngại nên làm cho Bồ-tát phát khởi tư lương Bồ-đề mau được viên mãn, nhanh chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Cho nên tâm hay trí của A-la-hán đối với Bồ-tát thừa cũng có ân đức. Nghĩa là làm cho Bồ-tát đắc trí Nhất thiết, lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai. Tâm hay trí của tất cả Độc giác đối với Bồ-tát thừa cũng có ân đức. Nghĩa là không có tâm hay trí kia thì không có sự ngăn ngại. Tại sao nói các Bồ-tát không nên phát khởi tâm Độc giác cũng không nên tu trí Độc giác. Bởi tâm hay trí kia ngăn ngại nên làm cho Bồ-tát phát khởi tư lương Bồ-đề, mau được viên mãn, nhanh chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Cho nên tâm hay trí của các Độc giác đối với Bồ-tát thừa cũng có ân đức. Nghĩa là làm cho Bồ-tát đắc trí Nhất thiết làm lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai.

Lại nhờ quán tâm trí Nhị thừa thấp kém, Bồ-tát tu học tâm trí tăng thượng. Nếu không có tâm trí Nhị thừa thấp kém thì Bồ-tát không thể tu học tâm trí tăng thượng. Như vậy là tâm trí Bồ-tát hữu lậu, vô lậu chỉ trừ tâm trí Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp khác là tối, là thắng là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì vượt trên, không gì bằng, không gì sánh bằng. Cho nên tất cả tâm trí Thanh văn, Độc giác đối với trí Nhất thiết cũng có một phần nhỏ tùy thuận thế lực. Bồtát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, quán sát các hữu tình và tất cả pháp, đối với trí Nhất thiết và tư lương này đều tùy thuận thế lực, cho nên đối với tất cả không từ bỏ.

Lại nữa Mãn Từ Tử, các Đại Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa tuy có xả bỏ tiền tài, sự vật quý báu nhưng đối với sự việc kia không tưởng lấy tướng. Nghĩa là nếu xả bỏ tất cả tướng, của pháp để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, liền chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Nếu không bỏ tướng mà hồi hướng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình thì trọn đời không đắc trí Nhất thiết trí.

Nếu các Bồ-tát được nhiều vàng bạc... quý báu tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn. Nếu các Bồ-tát bỏ các vàng bạc... quý báu, có thể gọi là được lợi lớn.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi ích lớn cho các hữu tình mới gọi là được lợi ích hoàn hảo vô thượng. Nếu Bồ-tát làm vua cõi Dục, thống lĩnh cả Dục giới, được quyền lực lớn. Tuy gọi là lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ vương vị quyền lực ở cõi Dục mới được gọi là được lợi lớn. Nếu Bồ-tát xả bỏ các tướng để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới được lợi ích hoàn hảo vô thượng. Nếu các hữu tình xả bỏ các tướng, đắc quả Dự lưu hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn.

Nếu các hữu tình xả bỏ các tướng để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới gọi là được lợi ích hoàn hảo vô thượng. Nếu đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các lợi, đó là tối thượng, tối thắng. Vì sao? Vì sự cầu quả vị Giác ngộ cao tột của các Bồ-tát, làm lợi ích lớn cho hữu tình thì Thanh văn, Độc giác và các phàm phu không có điều này. Nếu các Bồ-tát tưởng đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở khắp mười phương, làm các đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men, trị bệnh, phòng xá thượng diệu, tài sản hương hoa thuộc cá nhân đều dâng lên cúng dường tất cả các vật ấy. Tuy gọi là được lợi nhưng chưa được lợi vô thượng.

Nếu các Bồ-tát xả bỏ các tướng để hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới gọi là được lợi ích hoàn hảo vô thượng. Vì sao? Vì ăn uống… các vật đều có nhiều tướng. Các pháp có tướng đều có số lượng. Pháp có số lượng thì có phân hạn. Tùy thuộc vào điều ấy thí không chứng trí Nhất thiết không phân hạn. Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, nhờ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử mà đầy đủ vô lượng công đức hy hữu, nhưng không chấp lấy tướng. Tuy tưởng thức ăn, uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá thượng diệu, tài sản hương hoa thuộc cá nhân. Dâng các vật đó đều lên cúng dường nhưng không chấp lấy tướng. Tuy hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột, làm lợi ích lớn cho các hữu tình nhưng không chấp lấy tướng. Do chứng đắc trí Nhất thiết trí này, nên làm lợi ích cho các hữu tình đến tận đời vị lai. Nên biết, đây gọi là được lợi vô thượng, đối với tất cả pháp lợi là đệ nhất.

Nếu các Bồ-tát có phương tiện thiện xảo như vậy mà tu hành bố thí mới được gọi là Bồ-tát ở trên cùng, nhất định sẽ đắc trí Nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí Nhất thiết trí rất khó có thể chứng đắc. Bồ-tát như vậy có thể xả bỏ tất cả tướng trong ngoài, tâm không dính mắc, cầu chứng trí Nhất thiết trí như vậy, đối với các Bồ-tát là Thượng thủ nên đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Bồ-tát ở quá khứ, vị lai, hiện tại đã, đang và sẽ chứng đắc trí Nhất thiết trí, đều do sự phát khởi phương tiện thiện xảo như vậy mà chứng đắc.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Làm sao Bồ-tát được nhập vào số Bồ-tát ở trên cùng?

Xá-lợi Tử đáp:

–Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, không chấp lấy pháp tướng thì các Bồ-tát này nhập vào số Bồ-tát ở trên cùng.

Mãn Từ Tử hỏi:

–Các Bồ-tát này đối với những pháp gì không chấp lấy tướng nào?

Xá-lợi Tử đáp:

–Các Bồ-tát này đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với sắc uẩn không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với nhãn xứ không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với sắc xứ không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa. Đối với sắc xứ không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa. Đối với nhãn giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với sắc giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với sắc giới không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với sắc giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với sắc giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với sắc giới không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với sắc giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với nhãn thức giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với nhãn xúc không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với địa giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với địa giới không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với địa giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với địa giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với địa giới không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với địa giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với thủy, hỏa, phong, không thức giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với nhân duyên không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa. Đối với nhân duyên không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh; đối với vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, không tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với vô minh không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với vô minh không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với vô minh không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với vô minh không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với vô minh không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng xa lìa, không xa lìa. Đối với vô minh không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Các Bồ-tát này đối với Dục giới không chấp lấy tướng thường, vô thường; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng thường, vô thường. Đối với Dục giới không chấp lấy tướng lạc, không lạc; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng lạc, không lạc. Đối với Dục giới không chấp lấy tướng ngã, vô ngã; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng ngã, vô ngã. Đối với Dục giới không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng tịnh, bất tịnh. Đối với Dục giới không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng xa lìa, chẳng xa lìa. Đối với Dục giới không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh; đối với Sắc giới, Vô sắc giới cũng không chấp lấy tướng tịch tĩnh, chẳng tịch tĩnh.

Nếu các Bồ-tát nào dùng phương tiện thiện xảo như vậy mà không chấp lấy pháp tướng tu hành Bố thí ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này được nhập vào số Bồ-tát trên cùng của các Bồ-tát, có thể đắc trí Nhất thiết trí trên cùng.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát biết tất cả pháp đều chẳng phải thật có, xa lìa các tướng mà hành Bố thí ba-la-mật-đa thì các Bồ-tát này được nhập vào số Bồ-tát ở trên cùng của các Bồ-tát, có thể đắc trí Nhất thiết trí trên cùng, cũng có thể giáo hóa tất cả hữu tình làm cho họ y vào trí Nhất thiết trí như vậy, phát nguyện cầu đều chứng đắc.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các hữu tình đối với pháp không tướng mà không phát khởi sự xác định, thì không thể phát tâm trí Nhất thiết. Nếu không thể phát tâm trí Nhất thiết, thì không thể tu các hạnh Bồ-tát. Nếu không tu các hạnh Bồ-tát thì không thể đắc trí Nhất thiết trí. Nếu các hữu tình đối với pháp không tướng, có thể phát khởi sự xác định thì phát khởi tâm trí Nhất thiết. Nếu phát khởi tâm trí Nhất thiết thì tu hành các hạnh Bồ-tát. Nếu tu hành các hạnh Bồ-tát thì chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát phát tâm cầu trí Nhất thiết rồi, tùy theo sự xả bỏ đều biết rõ không, không thật có mà hành Bố thí ba-la-mật-đa. Nghĩa là như thật biết các sự xả bỏ đều như huyễn hóa. Chẳng phải như chúng ta từ vô thỉ đến nay đã chấp lấy các tướng. Do biết như vậy, nên đối với các sở hữu đều xả bỏ không chấp lấy các tướng. Các hữu tình không như thật biết các pháp chẳng phải có đều như huyễn hóa nên đối với các sự việc khởi tâm kiên trì chấp trước. Do kiên trì chấp trước nên không xả bỏ. Do không xả bỏ nên giữ gìn keo kiệt. Do keo kiệt nên khi qua đời, đọa vào các đường ác chịu bần cùng khổ cực. Tùy theo có sở đắc không chịu xả bỏ. Lại đối với trong đó, keo kiệt lâu dài. Do đó lại đọa vào các đường ác chịu nhiều khổ đau. Thọ khổ như vậy đều do chấp tướng. Nếu các Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo biết pháp chẳng có đều như huyễn hóa, đã như huyễn hóa thì phải nên xả bỏ. Huyễn hóa chẳng phải ngã và ngã sở. Đối với tất cả việc đều xả bỏ. Vì sao? Vì việc ngã, ngã sở đã chẳng thể nắm bắt được, không nên chấp trước; không chấp trước nên xả bỏ được. Do xả bỏ được nên đối với chánh pháp mà Phật Thế Tôn đã thuyết thì sinh lòng kính trọng sâu xa. Nghĩa là suy nghĩ rằng: “Hy hữu thay Thế Tôn! Khéo thuyết các pháp đều như huyễn. Con dựa vào lời dạy của Phật nên xả bỏ tất cả. Nghĩa là xả bỏ pháp như huyễn hóa, làm cho con sẽ được Vô thượng Bồ-đề như huyễn vô tướng.”

Các Bồ-tát này lại nghĩ: “Chư Phật Thế Tôn làm việc khó làm. Nghĩa là dạy Bồ-tát biết như thật các pháp chẳng có đều như huyễn hóa. Do biết rõ nên không sinh chấp trước, ít dụng công sức mà xả bỏ tất cả, mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột.” Thế nên Bồ-tát này muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột nên biết như vậy, các pháp chẳng có, đều như huyễn hóa, xả bỏ xa lìa các tướng. Dùng tâm vô tướng siêng năng cầu trí Nhất thiết trí tối thượng. Tôn giả Mãn Từ Tử, chớ bảo tôi thuyết pháp như vậy là do tài biện luận của mình. Đây đều do sức oai thần của Như Lai.

Bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà:

–Những gì Xá-lợi Tử đã thuyết đều nhờ thần lực của Phật. Ông nên thọ trì. Sau khi Ta Niết-bàn, nên lưu truyền cùng khắp.

QUYỂN 581

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa (3)

Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu tất cả pháp đều chẳng có, khi các Bồ-tát hành bố thí là xả cái gì?

Phật dạy:

–Nếu khi Bồ-tát hành bố thí hoàn toàn không xả gì cả.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu khi các Bồ-tát hành bố thí hoàn toàn không xả gì cả thì khi các Bồ-tát này sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột là đắc cái gì?

Phật dạy:

–Bồ-tát khi bố thí như vậy, đối với tất cả pháp hoàn toàn không xả điều gì, nên khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột đối với tất cả pháp cũng không có đắc điều gì. Khi các Bồ-tát hành bố thí đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự tổn hoại. Như vậy, khi Bồ-tát sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đối với tất cả pháp cũng không có sự lợi ích. Hai mặt tổn giảm và lợi ích chỉ là tướng đối đãi nhau nên thành lập vậy.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu khi Bồ-tát hành bố thí, biết tất cả pháp đều như huyễn hóa không thật có thể xả thì khi Bồ-tát này chứng quả vị Giác ngộ cao tột, biết tất cả pháp cũng như huyễn hóa không thật, có thể đắc. Nếu khi các Bồ-tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật có sự xả bỏ, thì khi các Bồ-tát này chứng quả vị Giác ngộ cao tột, cũng phải đối với pháp thật có sự chứng đắc. Tuy nhiên khi các Bồ-tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật, không có sự xả bỏ thì khi Bồ-tát này chứng quả vị Giác ngộ cao tột, đối với tất cả pháp thật không có sự chứng đắc.

Lại nữa Mãn Từ Tử, ví như hai nhà huyễn thuật chơi giỡn làm trao đổi. Một bên giả làm tiền tệ, một bên hóa làm vật đẹp. Cả hai việc này đều chẳng thật có. Bồ-tát khi hành bố thí cũng như vậy, chẳng thật có vật xả bỏ như huyễn hóa nên khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột chẳng thật có pháp đắc như huyễn hóa. Khi các Bồ-tát này bố thí như vậy, thật không có sự hao tổn, khi sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột cũng thật không có sự lợi ích. Các Bồ-tát này khi hành bố thí, tuy dường như có hao tổn nhưng thật sự không hao tổn, nên khi sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột dường như có lợi ích nhưng thật ra không lợi ích. Cũng như nhà huyễn thuật kia, xả bỏ tiền tệ huyễn, dường như có hao tổn nhưng thật ra không hao tổn. Bồ-tát khi hành bố thí cũng như vậy, xả bỏ vật chẳng thật, dường như có hao tổn nhưng thật ra không hao tổn. Như nhà huyễn thuật kia hóa được vật đẹp, dường như có lợi ích nhưng thật ra không lợi ích. Khi Bồ-tát sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột cũng như vậy, dường như có lợi ích nhưng thật ra không lợi ích. Pháp dụ như vậy, nhân quả tương xứng, các vị có trí nên biết rõ.

Lại nữa Mãn Từ Tử, ví như nhà huyễn thuật giỏi hoặc đệ tử ông ta, ở ngã tư đường hóa làm người con gái bỗng nhiên mang thai và ngay đó thấy sinh con, đứa trẻ chỉ sống trong chốc lát lại chết. Ý ông thế nào? Người con gái kia đối với đứa con có vui mừng khi sinh, có đau buồn khi nó chết không?

Mãn Từ Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nàng kia và con của cô ta đều là huyễn có thật không có sinh tử thì ai đối với ai mà có thể sinh buồn vui.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Bồ-tát cũng như vậy, khi hành bố thí không có xả bỏ không có tổn hoại; cho nên khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột không có chứng đắc không có lợi ích. Cho nên, khi Bồ-tát hành bố thí, tuy có sự xả bỏ nhưng không có sinh ưu phiền; nên khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột, tuy có sự chứng đắc nhưng không có hoan hỷ, vì biết sự xả bỏ chứng đắc như huyễn hóa.

Lại nữa Mãn Từ Tử, ý ông thế nào? Ông có cho rằng Như Lai đối với các thiện pháp có lòng mong muốn nhiều không?

Mãn Từ Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn, không có! Bạch Thiện Thệ, không có! Vì sao? Vì sự chứng các pháp của Như Lai đều không. Như Lai có chứng các pháp cũng là không, vì trong không hoàn toàn không có mong muốn và sự mong muốn.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Như Lai quán sát tất cả pháp đều không nên đối với thiện pháp cũng không có mong muốn lớn. Như Ta ngày nay đối với tất cả pháp hoàn toàn không có lòng mong muốn. Ngày xưa, khi làm Bồtát, tuy hành bố thí nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có sự xả bỏ, thấu rõ các pháp không một cách rốt ráo. Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả pháp không yêu không ghét. Vì sao? Vì thông đạt các pháp đều chẳng thật có, bản tánh tịch tĩnh không, nên chấm dứt yêu ghét.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Các Đại Bồ-tát như như đối với pháp nên có sự xả bỏ. Hiểu rõ như vậy đều không hư vọng, chẳng có thật tánh, không vững chắc, không có hoạt động tự tại nên không có sự chấp trước. Như con hiểu nghĩa lời Phật đã thuyết cho các Đại Bồ-tát, tuy đem châu báu bố thí cho các hữu tình khắp hằng hà sa thế giới, nhưng trong đó không nghĩ rằng: “Ta đã bố thí châu báu. Đối với việc ấy không có sự chấp trước nên làm cho Bố thí ba-lamật-đa mau chóng được viên mãn. Bồ-tát như vậy là dùng bố thí tu tập căn lành, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Giác ngộ cao tột.” Nghĩ điều ấy rồi, lại nghĩ như vầy: “Pháp của Bồ-tát là nên xả tất cả. Ta bây giờ tuy xả vật đáng xả, nhưng vật đã xả đều như huyễn hóa.” Nếu Đại Bồ-tát biết như vậy, thì Đại Bồ-tát này nhập vào số Bồ-tát. Tuy xả tất cả nhưng không có sự xả bỏ. Tuy đắc tất cả nhưng không sự chứng đắc. Nếu các Bồ-tát không biết rõ như thật điều đó thì chẳng phải Bồ-tát thật, đối với các pháp và tài không xả bỏ, bố thí thì đối với đại Bồ-đề không chứng đắc.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:

–Các Đại Bồ-tát nên dùng những tâm gì để thi hành bố thí?

Mãn Từ Tử đáp:

–Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử, trước hết vì chúng, tôi giải thích nghĩa này. Sau đó tôi sẽ nói về một phần nhỏ ý nghĩa ấy.

Xá-lợi Tử liền hỏi Cụ thọ Mãn Từ Tử:

–Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột, thì Đại Bồ-tát này trước hết phải nên suy nghĩ tánh tất cả pháp hoàn toàn không, tịch tĩnh. Kế đến nên suy nghĩ trí Nhất thiết trí công đức thù thắng. Sau nữa, nên thương mến tất cả hữu tình nghèo thiếu của cải, chịu nhiều đau khổ. Nghĩ như vậy rồi, liền xả tất cả, hoặc bên trong thân, hoặc ngoại thân. Tiền tài châu báu trong hay ngoài đều bố thí cho các hữu tình, tâm không chấp trước. Cũng dùng chánh pháp bố thí cho các hữu tình. Cũng dùng vô biên vật cúng dường thượng diệu, cung kính dâng lên Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Đại Bồ-tát như vậy khi hành bố thí, nhờ trí Nhất thiết, tâm không chấp trước, nên hành bố thí. Bố thí như vậy là tùy thuận Bồ-đề, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột nên quán pháp không, duyên với trí Nhất thiết đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình mà hành bố thí, tâm không sự chấp trước. Nếu tu hành bố thí như vậy thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa Xá-lợi Tử, có phải bây giờ ông muốn thấy Bồ-tát ở mười phương thế giới không?

–Cúi xin Thế Tôn, con muốn thấy!

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy ở phương Đông, qua trăm thế giới có rất đông Thanh văn, Bồ-tát, đại chúng vây quanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác để nghe Ngài tuyên thuyết Bố thí ba-la-mật-đa, đầy đủ công đức thù thắng, đạt được quả báo lớn. Cõi kia có Bồ-tát tên là Vô Ngại, tuy ở tại nhà nhưng không chấp trước điều gì, xả bỏ các vật sở hữu, bố thí tất cả. Của cải châu báu của vị ấy chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí, khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi lại đem cho người khác mà tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự chấp trước, vị ấy ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi tùy theo các hữu tình cần dùng vật gì đều đem cho. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, lại đem cho người khác, mà tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy, không có sự chấp trước ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng, đều thấy Bồtát Vô Ngại có trăm ngàn xe vàng làm bằng bảy báu. Mỗi một xe này chở một bảo nữ, hình mạo đoan trang đầy đủ vẻ đẹp. Mỗi một bảo nữ có một trăm thị nữ theo hầu, đều ngồi một xe, trang hoàng các vật báu. Trên mỗi mỗi xe để trăm ngàn vàng và đầy đủ các vật dụng cá nhân đem đến chợ, cất tiếng:

–Ai cần vật gì, cứ tùy ý lấy.

Hành bố thí như vậy nhưng không tham đắm điều gì, ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy Bồ-tát Vô Ngại ở phương Đông, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề, đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Bồ-tát Vô Ngại bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Bồ-tát Vô Ngại bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Nếu có Bồ-tát quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng thương mến hữu tình, tùy theo ý thích của họ mà bố thí so với Bồ-tát Vô Ngại ở phương Đông kia thì phước báu bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, hơn gấp ngàn lần, cho đến hơn gấp muôn ức lần.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, lại đem cho người khác với tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm điều gì, ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Cũng vậy, các vị ấy tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... đầy như núi, tùy theo các hữu tình cần dùng vật gì, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, lại đem cho người khác với tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không nhiễm trước điều gì. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích của họ mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Đông kia, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, thì phước báu bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng, nương thần lực của Phật lại thấy hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy, không có tham đắm, ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Cũng vậy, các vị ấy tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem cho bố thí cho người khác, tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán. Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Ông thấy hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Nếu có Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích của họ mà bố thí. So với phước báo của các Bồ-tát ở hằng hà sa thế giới chư Phật ở phương Đông thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy giống như mười hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác, tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác với tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy mười hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích của họ mà bố thí, so với mười phương hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát, thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy giống như trăm hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia, bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng nơi trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng với trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy vô số hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồtát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy vô số hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng nơi trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với vô số hằng hà sa thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí.

Khuyên dạy hữu tình tự nhận dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây như vậy, cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Tây như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không có sự nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Đông nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây nam. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Tây nam như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây nam, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Tây bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Tây bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Tây bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông bắc. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương Đông bắc như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông bắc, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương dưới. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới. Mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương dưới như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không tham đắm mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương dưới như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương dưới, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương trên. Như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát đều xả bỏ vật sở hữu đem bố thí tất cả. Của cải, châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự nhận dụng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Tập trung các vật như y phục, ngọa cụ, ẩm thực... nhiều như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình, đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dùng rồi, đem bố thí cho người khác tâm không có sự chướng ngại. Hành bố thí như vậy không tham đắm. Ngày đêm tinh cần thường không nhàm chán.

Khi ấy Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Ông thấy trăm ngàn thế giới ở phương trên như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?

Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Bạch Thiện Thệ, con đã thấy!

Phật dạy:

–Bồ-tát cầu đại Bồ-đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia, bố thí có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Các Bồ-tát kia bố thí vô lượng, vô biên căn lành.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu các Bồ-tát nào quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, so với trăm ngàn thế giới ở phương trên như vậy cho đến lại thấy vô số hằng hà sa số thế giới ở phương trên, mỗi một thế giới có vô lượng Bồ-tát thì phước báo bố thí đạt được hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp muôn ức lần.

Lại nữa Xá-lợi Tử, nếu Đại Bồ-tát nào muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí làm lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai, phải nên quán pháp không, tương ưng trí Nhất thiết, đầy đủ công đức thù thắng, thương mến hữu tình chịu nhiều đau khổ thiếu thốn nên hành Bố thí ba-la-mật-đa. Đem căn lành này bố thí khắp tất cả, làm cho họ thoát khỏi đường ác và các nỗi khổ sinh tử. Lập nguyện rằng: “Các hữu tình ở mười phương thế giới do nhờ oai lực công đức thiện căn của ta, ai chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì mau chóng phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì làm cho vĩnh viễn không thoái chuyển. Nếu đối với quả vị Giác ngộ cao tột đã không thoái chuyển thì mau viên mãn trí Nhất thiết trí.”

QUYỂN 582

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa (4)

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ-tát phát tâm đầu tiên? Thế nào là Bồ-tát phát tâm lần thứ hai? Thế nào là Bồ-tát trụ bậc không thoái chuyển? Thế nào là Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề? Cúi xin Thế Tôn thương xót thuyết giảng cho con.

Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Nếu các Bồ-tát phát tâm đầu tiên thì vượt hẳn A-la-hán, đáng nhận sự cúng dường thượng diệu của tất cả thế gian, Trời, Người, A-tố-lạc...

–Nếu các Bồ-tát phát tâm lần thứ hai thì vượt hẳn bậc Độc giác, hiểu rõ tất cả ngã không pháp không, nên hiển lộ pháp giới bình đẳng chân thật.

Nếu các Bồ-tát trụ bậc không thoái chuyển thì vượt hẳn Bồ-tát bất định, chưa thọ ký, nhất định sẽ chứng đắc đại Bồ-đề, tâm không bị phiền não xen tạp.

Nếu các Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề không rời, thì chắc chắn được trí Nhất thiết trí, vì các Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, nếu chưa chứng đắc trí Nhất thiết trí thì không có trường hợp nào và không có lý do nào rời tòa Bồ-đề.

Lại nữa Xá-lợi Tử, ở quá khứ, vị lai, hiện tại. Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề khi chưa đắc trí Nhất thiết trí, trong khoảng thời gian đó không rời khỏi tòa này.

Lại nữa Xá-lợi Tử, các ông nên biết, nếu khi Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề tức là ngồi tòa Bồ-đề của Như Lai. Vì sao? Vì Bồ-tát như vậy, nhất định chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, hiệu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như thật lợi lạc các hữu tình.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, vô số Bồ-tát chứng đại Bồ-đề, vô số Bồ-tát với tâm chánh tín, thoát cảnh gia đình tu hạnh Bồ-tát, vô số Bồ-tát với tâm không nhiễm trước, ở tại gia tu hạnh Bồ-tát.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát xả bỏ những điều khó xả, đem của cải châu báu cho các hữu tình, vô số Bồ-tát tự chém đầu mình bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát cắt mũi, tai cho các hữu tình, vô số Bồ-tát chặt tay chân bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát chích thân lấy máu bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát rút xương tủy bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát phân chia lóng đốt bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem vợ con yêu quý cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem ruộng nhà tốt bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem voi ngựa... các loại cầm thú bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem các người hầu nam và nữ bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ-tát đem thức ăn, nước uống, y phục, ngọa cụ thượng diệu và nhiều loài tiền tài vật chất bố thí cho các hữu tình, vô số Bồtát.

Nhờ thần lực của Phật lại thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông có vô số Bồ-tát làm Chuyển luân vương, hành đạo Bồ-tát, vô số Bồ-tát làm Thiên đế Thích hành đạo Bồ-tát, vô số Bồ-tát sinh trời Đổ-sử-đa vì các Thiên chúng thuyết các pháp vi diệu, vô số Bồ-tát từ cõi trời kia vào đến thai mẹ giáo hóa hữu tình, vô số Bồ-tát lúc mới sinh ra liền vì các hữu tình thuyết pháp vi diệu, vô số Bồ-tát vì muốn cứu giúp các hữu tình nên chịu nhiều sự khổ.

Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình mà dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất hoặc dùng chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các phương tiện ân cần khuyến hóa phần ít hữu tình làm cho họ dần dần thọ trì mười nẻo nghiệp thiện.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ dần dần quy y Phật, Pháp, Tăng bảo.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ dần dần thọ trì tám giới cận trụ.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ dần dần thọ trì năm giới cận sự.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ dần dần thọ trì các giới xuất gia.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ phát tâm hướng đến quả Thanh văn, tinh cần tu học hạnh Thanh văn thừa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ phát tâm hướng đến quả Độc giác, tinh cần tu học hạnh Độc giác thừa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình dùng chân đi trên trăm du-thiện-na đất, hoặc chân đi trên hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm cho đến ngàn du-thiện-na đất hoặc hơn nữa, tùy ý đến đó, dùng các loại phương tiện ân cần khuyến hóa một ít hữu tình làm cho họ phát tâm hướng đến quả Vô thượng, tinh cần tu học hạnh Vô thượng thừa.

Nhờ thần lực của Phật, nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bốn Tĩnh lự, bốn Vô lượng, bốn Định vô sắc.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ tu học bốn Niệm trụ, bốn Chánh đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy chi Đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học pháp không bên trong, pháp không bên ngoài, pháp không cả trong ngoài, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không nơi tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông đi qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sinh, tánh pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới chẳng nghĩ bàn.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông đi qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông đi qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học tám Giải thoát, tám Thắng xứ, chín Định thứ đệ, mười Biến xứ.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, bậc Như Lai.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông đi qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông đi qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Vô số Bồ-tát vì muốn hóa độ một ít hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn cho đến qua vô lượng thế giới, tùy ý đến chỗ đó, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy bảo, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, vô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Nhờ thần lực của Phật, chúng hội lại thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông, vô số Bồ-tát xuất gia tu hành trong pháp ngoại đạo, không nghe, không thấy pháp tương ưng với Bala-mật-đa, hơn trăm ngàn kiếp lưu chuyển trong vòng sinh tử, không chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vô số Bồ-tát xuất gia tu hành trong pháp Phật thường nghe, thường thấy pháp tương ưng Bát-nhã ba-lamật-đa nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thuyết giảng cho người, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí. Vô số Bồ-tát tuy siêng năng, tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa không gián đoạn, nhưng không dùng phương tiện nên không chứng đắc. Vô số Bồ-tát tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, có dùng phương tiện, nên tuy dụng công ít nhưng mau chứng đắc. Vô số Bồ-tát tu hành các hạnh khổ khó hành. Vô số Bồ-tát xả bỏ hạnh khổ tu hành trung đạo. Vô số Bồ-tát đến cội Bồ-đề. Vô số Bồ-tát ngồi tòa Kim cang. Vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, để chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật, chúng hội lại thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xứ hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc xứ hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng sắc giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn thức giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhãn xúc hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thường, vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng địa giới hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng địa giới hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng địa giới hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng địa giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng địa giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng địa giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng nhân duyên hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng vô minh hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng vô minh hoặc lạc, hoặc vô lạc chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc lạc, hoặc vô lạc cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng vô minh hoặc ngã, hoặc vô ngã chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc ngã, hoặc vô ngã cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng vô minh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc tịnh, hoặc bất tịnh cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng vô minh hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa cũng chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng vô minh hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử hoặc tịch tĩnh, hoặc chẳng tịch tĩnh cũng chẳng thể nắm bắt được.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết nhiều loại pháp môn sai biệt có, không có.

Nhờ thần lực của Phật, chúng hội lại thấy hằng hà sa thế giới ở phương Đông, vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Bồ-tát nên hơn nhiều vô số kiếp không nhập Niết-bàn, ai chưa phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột thì làm cho họ phát tâm. Ai đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột rồi thì làm cho vĩnh viễn không thoái chuyển. Nếu ai đối với quả vị Giác ngộ cao tột không thoái chuyển thì làm cho họ viên mãn trí Nhất thiết trí.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Thanh văn trải qua nhiều kiếp dùng phương tiện làm cho thành thục. Ai chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi thì làm cho họ mau chứng quả A-la-hán.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Độc giác nên trải qua nhiều kiếp dùng phương tiện làm cho thành thục. Ai chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi làm cho họ chứng đắc Bồ-đề Độc giác.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích các hữu tình, nên trải qua nhiều kiếp dùng phương tiện làm cho thành thục, làm cho vô lượng hằng hà sa các hữu tình, tùy theo chủng tánh của họ được nhập Niết-bàn, hoặc vô lượng hằng hà sa các hữu tình, thoát hẳn nỗi khổ nơi đường ác được hưởng vui ở cõi trời, người.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông vô lượng, vô biên thế giới khác, bằng phương tiện thiện xảo làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy khiến cho chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông có vô số chúng Đại Bồtát hành Bồ-tát hạnh vời nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình.

Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn làm cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành diệu pháp rộng lớn của chư Phật đã thành tựu. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn có thể làm Bồ-tát phát tâm cầu diệu pháp rộng lớn của chư Phật đã thành tựu. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Nam vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật họ nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Nam vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Nam, vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh, nhiều loại khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây, vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh nhiều loại khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực của Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Bắc vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Bắc vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Bắc có vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật.

Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực của Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông nam có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồđề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông nam, vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông nam có vô số chúng Đại Bồtát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây nam, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây nam, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Khi ấy, thấy việc như vậy Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây nam vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây bắc vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây bắc vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Tây bắc vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông bắc vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông bắc vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương Đông bắc vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương hạ, vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma thù oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương hạ vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương hạ vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồtát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật.

Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, nên thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương thượng, có vô số Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề, cho đến vô số Bồ-tát thu phục vô lượng Thiên ma oán, khiến chúng thoái lui, tan rã, chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột.

Nhờ thần lực Phật nên họ thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương thượng vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn hoặc thường, hoặc vô thường chẳng thể nắm bắt được; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc thường, hoặc vô thường cũng chẳng thể nắm bắt được. Cho đến vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông đến vô lượng, vô biên thế giới, bằng phương tiện khéo léo làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Thấy việc như vậy, Xá-lợi Tử lộ vẻ vui mừng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa thế giới ở phương thượng vô số chúng Đại Bồ-tát hành Bồ-tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các loại phương tiện, lợi ích hữu tình. Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu đến sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật.

Đó là quả vị Giác ngộ cao tột.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn khiến cho Bồ-tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Giác ngộ cao tột. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc trí Nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, nếu có ai muốn được bậc tăng thượng không động chuyển ở cõi người nên tu thiện nghiệp, thù thắng đưa đến quả kia như vua Chuyển luân. Nếu có ai muốn được bậc tăng thượng không động chuyển ở cõi trời nên tu căn lành thù thắng đưa đến quả kia như Thiên đế Thích. Nếu ai muốn tuổi thọ lâu dài, không động chuyển, nên tu định thù thắng kia, như sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chúng Đại Bồ-tát như vậy, nếu muốn làm ruộng phước chân tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại Pháp sư ở thế giới ba lần ngàn và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì nên nhất định phát tâm cầu trí Nhất thiết.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Nếu ai nhất định phát tâm cầu trí Nhất thiết, thì người đó chắc chắn sẽ làm ruộng phước chân tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại Pháp sư ở thế giới ba lần ngàn và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lợi ích an lạc tất cả hữu tình.

QUYỂN 583

Phẩm Bố Thí Ba-La-Mật-Đa (5)

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, có trường hợp nào sự phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn sự phát tâm sau không?

Thế Tôn dạy:

–Lành thay, lành thay! Ông khéo hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như vậy. Ông nên lắng nghe. Vì ông Ta sẽ thuyết giảng ý nghĩa sự phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn sự phát tâm sau. Nghĩa là, các A-la-hán với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không thể hóa độ vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ-tát mới phát tâm đại Bồ-đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình, đều phát tâm xả bỏ các phiền não, dần dần đem lại lợi ích cho vô lượng hữu tình. Đây gọi là ý nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Lại có các Độc giác với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ-tát mới phát tâm đại Bồ-đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não, dần dần đem lại lợi ích cho vô lượng hữu tình. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn phát tâm sau.

Lại nữa Xá-lợi Tử, sự phát tâm đại Bồ-đề của Bồ-tát, hoặc tu hoặc tập, hoặc làm nhiều việc đều dẫn đến Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, mau chứng đắc trí Nhất thiết trí. Do đó, hóa độ vô lượng hữu tình đắc quả Thanh văn, Độc giác thừa, hoặc chứng quả vị Giác ngộ cao tột, hoặc tu thiện nghiệp tốt đẹp ở trời, người, được an vui ở cõi trời, người, thoát khỏi khổ nơi đường ác. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn phát tâm sau.

Lại nữa Xá-lợi Tử, sự phát tâm đại Bồ-đề của Bồ-tát, oai lực thật đặc biệt tốt đẹp. Nếu khéo tu tập, thì mau chứng quả vị Giác ngộ cao tột, thọ ký không điên đảo cho hữu tình. Nghĩa là thọ ký hữu tình như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sinh tử tu hạnh Bồ-tát, sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sinh tử tu hạnh Độc giác, ở cõi trời, người gặp duyên chứng đắc Độc giác Bồ-đề, đầy đủ sáu phép thần thông, tự tại an lạc. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sinh tử tu hạnh Thanh văn đắc quả Thanh văn ở cõi trời, người. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp làm các nghiệp thiện, ác, sinh ở cõi trời, người, hoặc đọa đường ác, trôi lăn theo dòng sinh tử. Ngược lại các Độc giác chẳng có thể thọ ký không điên đảo cho các hữu tình. Nghĩa là không thọ ký như lời các Bồ-tát. Ông ở đời vị lai, trải qua bấy nhiêu kiếp sẽ được làm Phật hiệu A, tên gì đó... cũng không thọ ký hữu tình như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, nhất định sẽ đắc Độc giác Bồ-đề, hoặc quả Thanh văn, hoặc ở các cõi thiện ác chịu các khổ, vui. Cũng vậy, Thanh văn không thể thọ ký cho người khác, nếu có đều nghe từ Phật. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn phát tâm sau.

Lại nữa Xá-lợi Tử, Bồ-tát đã phát tâm đại Bồđề, muốn lợi ích tất cả hữu tình đến đời vị lai. Bấy giờ đại địa, các núi, biển cả biến động sáu cách. Ma vương kinh hãi sợ sệt. Các Trời, Rồng, Thần đều rất vui mừng nói rằng:

–Bồ-tát sẽ chứng quả vị Giác ngộ cao tột, cứu vớt chúng ta thoát khổ lớn sinh tử, được an lạc. Thanh văn, Độc giác khi an trụ tâm vô lậu tối hậu, thì không có việc như thế. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn phát tâm sau.

Lại nữa Xá-lợi Tử, giả sử giáo hóa tất cả hữu tình đều trụ quả Độc giác, A-la-hán thì không thể hộ trì Ba-la-mật-đa và trí Nhất thiết. Nếu có dạy bảo răn dè Bồ-tát, làm cho họ phát tâm cầu quả vị Giác ngộ cao tột, tức là hộ trì Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí Nhất thiết. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác không thành tựu quả vị Giác ngộ cao tột được, bởi vì phát tâm rất yếu ớt, chỉ có các Bồ-tát mới thành tựu quả vị Giác ngộ cao tột. Đó gọi là ý nghĩa phát tâm ban đầu tốt đẹp hơn phát tâm sau. Do đó muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột đều nên phát tâm cầu trí Nhất thiết.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm sao biết được tướng các Bồ-tát tu những hạnh gì mà được gọi là Bồ-tát?

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Nếu có ai phát tâm đại Bồ-đề siêng năng tu hành Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không mệt mỏi, tuy gặp nhiều bạn xấu làm thoái duyên nhưng không khuất phục. Đây là tướng Bồ-tát. Ai đầy đủ tướng này gọi là Bồ-tát.

Lại nữa Xá-lợi Tử, nếu các hữu tình tu nhiều thiện pháp, tâm không nhàm chán, thọ trì tịnh giới, không bao giờ hủy phạm, thường ưa làm lợi ích cho tất cả hữu tình, tuy gặp khổ duyên nhưng không khiếp nhược, tùy theo sự tu học, nguyện cùng hữu tình đồng chứng Bồ-đề rốt ráo an lạc. Đây gọi là tướng Đại Bồ-tát. Đầy đủ tướng này gọi là Bồ-tát.

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, làm sao hiểu được nghĩa sâu xa Phật đã thuyết? Đó là tâm Bồ-tát đặc biệt hơn tâm vô lậu của các Độc giác và A-la-hán. Cúi xin Thế Tôn vì con mà giải thích ý nghĩa đó, làm cho chúng con hiểu rõ để thọ trì không sai trái.

Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Ông cho rằng tâm Bồ-tát còn có tham, còn có sân, còn có si, còn có mạn... các phiền não tùy theo không?

Xá-lợi Tử bạch:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy! Con cho rằng tâm Bồ-tát còn có tham còn có sân, còn có si và còn có mạn... các phiền não tùy theo.

Thế Tôn lại dạy Xá-lợi Tử:

–Ông cho rằng tâm Độc giác và A-la-hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn... các phiền não tùy theo không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy! Con cho rằng tâm Độc giác và A-la-hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn... các phiền não tùy theo.

Thế Tôn lại dạy Xá-lợi Tử:

–Ông cho rằng Độc giác và A-la-hán đã dứt hẳn các lậu, khi muốn nhập vào vô lượng Từ bi, hóa độ vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho họ được an lạc và xa lìa các khổ thì những vị ấy có làm cho các hữu tình thật sự được an lạc và xa lìa các khổ không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, chẳng phải vậy! Bạch Thiện Thệ, chẳng phải vậy! Các Độc giác và A-la-hán kia, tâm họ hoàn toàn không có phương tiện thiện xảo, làm sao nhập vào vô lượng Từ bi, hóa độ vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho hữu tình thật sự được an lạc, xa lìa các khổ, chỉ nhờ vào tưởng để quán sát như thật: Chúng Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, quyết định cầu trí Nhất thiết trí, vì muốn tất cả hữu tình được lợi lạc đến tận đời vị lai, thường không gián đoạn. Cho nên Bồ-tát nhập định Từ bi, khiến cho vô lượng, vô biên hữu tình đều được an lạc và xa lìa các khổ. Ai nghiệp chướng không nặng thì chỉ trong sát-na này thật sự được an lạc và xa lìa các khổ. Huống chi khi đắc quả vị Giác ngộ cao tột, mà không làm cho các hữu tình thật sự đều được an lạc và xa lìa các khổ ư? Do nhân duyên này nếu nói Bồ-tát thật sự lợi lạc tất cả hữu tình, thường không gián đoạn, điều này có lý. Còn nếu nói Độc giác và A-la-hán đầy châu Thiệm-bộ, đủ tám Giải thoát, đồng thời nhập vô lượng định Từ Bi, muốn lợi lạc vô lượng, vô biên hữu tình. Trong đó nếu có một người thật sự được lợi lạc, thì điều này không có lý.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Do nhân duyên này nên tâm các Bồ-tát đối với tâm vô lậu của các Độc giác và A-la-hán là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Lại nữa Xá-lợi Tử, giả sử tất cả hữu tình ở mười phương đều dứt các lậu thành A-la-hán đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức. Tất cả đều hóa ra trăm ức quân ma. Các quân ma đây có nhiều không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều! Số các A-la-hán kia đã rất nhiều, huống chi tất cả đều hóa ra trăm ức quân ma. Các quân ma này đâu có thể lường biết được.

Thế Tôn lại dạy Xá-lợi Tử:

–Như vậy, vô biên các A-la-hán đã hóa ra vô lượng, vô số quân ma có năng lực làm cho tâm một vị Bồ-tát không thoái chuyển, bị biến chuyển tạm thời không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, không thể được! Bạch Thiện Thệ, không thể được! Vô lượng, vô số quân ma như vậy không thể làm cho tâm một Bồ-tát không thoái chuyển bị biến chuyển được.

Thế Tôn lại dạy Xá-lợi Tử:

–Ý ông thế nào? Như vậy, tất cả A-la-hán tâm dứt hẳn các lậu cùng với tâm một Bồ-tát không thoái chuyển, thì thế lực oai thần vị nào thù thắng hơn?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, theo con hiểu nghĩa lời Phật thuyết, thì tâm vị không thoái chuyển, thế lực thù thắng hơn, chẳng phải tâm của vô số, vô lượng vị A-la-hán.

Phật dạy:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Ông nên quán như vầy, vô lượng tâm vô lậu các Ala-hán lìa hẳn tham dục, sân nhuế, ngu si và kiêu mạn... Tất cả lại hóa ra trăm ức quân ma mạnh mẽ. Các quân ma này dùng hết thần lực của mình, cũng không thể làm cho tâm Bồ-tát còn tham, sân, si mạn... phiền não bị biến chuyển được. Do đây, nên biết thế lực tâm Bồ-tát thù thắng hơn tâm vô lậu các A-la-hán.

Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Ai đối với tâm A-la-hán lìa tham, sân, si, mạn... phiền não như thế nhưng lại là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, tâm các Bồ-tát không thoái chuyển, tuy còn tham dục sân nhuế, ngu si, kiêu mạn... phiền não nhưng đối với tâm vô lậu A-la- hán là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên. Vì sao? Vì tâm vô lượng, vô biên vô lậu A-la-hán như vậy và người được hóa ra, đem hết thần lực đó cũng không thể làm cho tâm một Bồ-tát không thoái chuyển đầy đủ tham, sân, si, mạn... phiền não bị biến chuyển được.

Lúc bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Nay ta hỏi ông, cứ tùy theo ý ông mà trả lời. Ý ông thế nào? Nếu trong đống ngọc Ca-giá-mạtni đặt một viên ngọc Phệ-lưu-ly thì ánh sáng và giá trị của Ca-giá-mạt-ni có thể hút mất ánh sáng giá trị của Phệ-lưu-ly không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, không thể được! Bạch Thiện Thệ, không thể được! Ánh sáng giá trị của một hạt Phệ-lưu-ly che mất ánh sáng của một đống ngọc Ca-giá-mạt-ni. Vì sao? Vì ngọc Phệ-lưu-ly sáng suốt từ trong ra ngoài, Ca-giá-mạt-ni thì không như vậy. Ánh sáng ngọc Phệ-lưu-ly tươi mát, Ca-giámạt-ni thì không như vậy. Ngọc Phệ-lưu-ly bản sắc xanh biếc, Ca-giá-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Phệ-lưu-ly oai đức rộng lớn, Ca-giá-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Phệ-lưu-ly giá trị vô lượng, Ca-giá-mạt-ni thì không như vậy. Ngọc Phệ-lưu-ly là vật trang sức của người tôn quý do sức nghiệp tăng thượng nên sinh nơi bãi biển lớn, Ca-giá-mạtni thì sang hèn đều dùng được, vì có người tạo thành nên ánh sáng giá trị của Phệ-lưu-ly che mất tất cả Ca-giá-mạt-ni.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử:

–Tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển cũng lại như vậy, che khắp tâm tất cả Độc giác, Thanh văn giống như ngọc Phệ-lưu-ly che mất ánh sáng ngọc Ca-giá-mạt-ni. Ta quán nghĩa này nên thuyết như vầy: “Tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển đối với tâm vô lậu các Thanh văn và Độc giác đã chấm dứt xa lìa phiền não là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên. Tâm Bồtát không thoái chuyển đầy đủ Từ bi, có thể làm cho hữu tình được an lạc xa lìa các khổ. Tâm Thanh văn, Độc giác đầy đủ Từ bi, chỉ nhờ vào tưởng mà không thật dụng.”

Lại nữa Xá-lợi Tử, có A-la-hán dứt hẳn các lậu đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức, có thể dùng thần lực đem thế giới này để ở các phương, nhưng không thể làm cho tâm Bồtát không thoái chuyển bị biến chuyển.

Lại nữa Xá-lợi Tử, có A-la-hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức, có thể dùng thần lực làm khô nước biển lớn nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát không thoái chuyển bị biến chuyển.

Lại nữa Xá-lợi Tử, có A-la-hán dứt hẳn các lậu đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức, có thể dùng thần lực thổi nát hằng hà sa thế giới, trong ấy, tất cả núi Diệu cao đều như tro bụi; nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát không thoái chuyển bị biến chuyển.

Lại nữa Xá-lợi Tử, có A-la-hán dứt hẳn các lậu đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức dùng sức thần thông thổi đống lửa đại kiếp hằng hà sa thế giới đang bốc cháy dữ dội đều tắt; nhưng không thể làm cho tâm Bồ-tát không thoái chuyển có biến chuyển.

Do nhân duyên này nên ta nói như vầy: Đối với tâm vô lậu các Độc giác và các Thanh văn vĩnh viễn xa lìa phiền não thì tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ, thật hy hữu! Tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển đầy đủ đại oai thần lực như vậy. Thanh văn, Độc giác không thể làm biến chuyển được.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Vì sao? Xá-lợi Tử, lời nói của chư Phật Thế Tôn không hai. Nghĩa Phật đã thuyết đều thật không dối. Ông nên thọ trì, thuyết rộng cho người khác.

Lại nữa Xá-lợi Tử, có vô lượng, vô biên các loài hữu tình ở các thế giới khắp mười phương thế giới. Giả sử trong vô lượng, vô biên hằng hà sa các thế giới ở mười phương. Mỗi một hạt cát trong sông Hằng trong các thế giới ấy lại biến thành bấy nhiêu loại hữu tình như ở trên. Giả sử đất, nước, lửa, gió ở vô số, vô biên thế giới khắp mười phương vô lượng đều nát làm vi trần. Tất cả đều biến làm bấy nhiêu hữu tình. Các hữu tình này có nhiều không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch Thiện Thệ, rất nhiều!

Phật dạy:

–Giả sử tất cả hữu tình như vậy. Đồng thời thành A-la-hán, dứt hẳn các lậu, đầy đủ sáu phép thần thông, tám Giải thoát... các công đức, thành tựu thần thông tự tại rộng lớn tất cả đều nhiều như các loại đậu. Tất cả đại A-la-hán ấy đều hóa ra bấy nhiêu quân ma. Mỗi ác ma lại hóa ra bấy nhiêu quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ dũng mãnh. Các quân như thế có thể biết được số lượng bao nhiêu không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, không thể biết được! Bạch Thiện Thệ, không thể biết được!

Phật dạy:

–Giả sử có số lượng thiện nam, thiện nữ bằng thế giới ba lần ngàn biết được số lượng đó. Họ dùng sức thần thông phá tan các quân ma. Ý ông thế nào? Thần thông oai lực của thiện nam, thiện nữ này có rộng lớn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, rộng lớn! Bạch Thiện Thệ, rộng lớn! Thần thông oai lực của thiện nam, thiện nữ này không ai có thể địch nổi, chẳng thể nghĩ bàn.

Phật dạy:

–Giả sử như đã nói như trên, nam nữ đã nói như trên, số các hữu tình như trên. Tất cả nam nữ ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới, hằng hà sa đại kiếp mà trụ. Từng niệm, niệm hóa thành vô lượng ác ma như đã nói ở trên. Mỗi ác ma lại hóa làm vô lượng quân ngựa, các quân dũng mãnh như đã nói ở trên. Cũng không thể làm cho tâm Bồ-tát không thoái chuyển bị biến chuyển.

Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Có bấy nhiêu hữu tình thành A-la-hán. Tất cả lại hóa ra bấy nhiêu ác ma. Mỗi ác ma đầy đủ thần lực lớn. Thần lực như thế so với thần lực của tâm một Bồ-tát không thoái chuyển, cái nào thù thắng hơn?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, thần lực của tâm một Đại Bồtát không thoái chuyển đối với thần lực kia thù thắng hơn. Vì sao? Vì thần lực của tâm một Đại Bồ-tát không thoái chuyển vô lượng, vô số, chẳng thể nghĩ bàn, không thể tuyên thuyết.

Thế Tôn lại dạy Xá-lợi Tử:

–Ý ông thế nào? Thần lực của tâm một Đại Bồtát không thoái chuyển đối với thần lực vô lượng, vô biên các A-la-hán đầy đủ đại thần thông, như đã nói ở trên thì ai có thể nói kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, theo như con hiểu nghĩa lời Phật đã thuyết thì chỉ có Phật Thế Tôn mới thuyết thần lực của tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển kia đối với thần lực của vô lượng, vô biên các Ala-hán đầy đủ đại thần thông như đã nói ở trên là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên. Vì sao? Vì thần lực của tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển không ai sánh bằng trừ thần lực của tâm tương ưng với trí Nhất thiết. Do nhân duyên này nên thần lực của tâm Đại Bồtát không thoái chuyển, chỉ có Phật mới biết được, chỉ có Phật mới thuyết được, đối với các thần lực khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói! Vì sao? Xá-lợi Tử, vì tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển không có hữu tình nào khác làm biến chuyển được, cũng không có người biết người thuyết đúng như thật. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tâm Bồ-tát không thoái chuyển kia, vì các hữu tình tuyên thuyết như thật.

Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

–Do nhân duyên gì mà tâm Đại Bồ-tát không thoái chuyển, không bị biến chuyển?

Xá-lợi Tử đáp:

–Khi các Bồ-tát hành bố thí đều duyên nơi trí Nhất thiết trí, tâm kia vững chắc không thể lay động. Khi chứng đắc không thoái chuyển như vậy tâm không tùy duyên mà bị biến chuyển.

Lại nữa Mãn Từ Tử, ví như có người khéo giải quyết, xử đoán mọi việc từng ở giữa vô lượng trưởng giả, cư sĩ, nhà buôn, xử đoán nhiều việc. Nhưng có khi bị túng thiếu đến trưởng giả, cử sĩ... vay mượn tiền tài vật chất. Vì sợ những người kia đến đòi mà không đủ sức trả nợ, người ấy bèn dựa vào vua để khỏi bị bắt. Các chủ nợ vì sợ lệnh vua nên không dám lôi kéo sỉ nhục người ấy. Vì sao? Vì người ấy dựa vào thế lực rất lớn, khó đương đầu nổi của vua. Bồ-tát cũng vậy, hoặc mới phát tâm hoặc không thoái chuyển đều y vào đại thần lực của trí Nhất thiết trí, nên tất cả Độc giác và A-lahán đều không thể làm cho tâm kia bị biến động.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như người dựa vào vua, tuy rất nghèo thiếu nhưng không bị nhục. Bồ-tát cũng vậy dựa vào trí Nhất thiết trí, ác ma và Nhị thừa không thể lay động mà lại chiến thắng tất cả ác ma. Đối với Nhị thừa, vị kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên. Vì vậy Bồ-tát muốn đừng thoái chuyển thì thường nên nương tựa vào trí Nhất thiết trí, tu hạnh Bồ-tát, chớ ưa thích thừa nào khác.

Mãn Từ Tử hỏi:

–Những gì Bồ-tát bị các Độc giác, Thanh văn thắng hơn?

Xá-lợi Tử đáp:

–Nếu các Bồ-tát nghe nói thắng sự của Độc giác, Thanh văn nên ưa mến, nghĩ như vầy: “Ta phải làm sao được pháp như vậy, cũng rất thích khen ngợi giáo lý Nhị thừa. Các Bồ-tát này do khởi tác ý phi lý như vậy, liền bị tất cả Độc giác, Thanh văn thắng hơn.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi Cụ thọ Xá-lợi Tử:

–Do duyên gì mà nói tác ý của Bồ-tát này là phi lý?

Xá-lợi Tử đáp:

–Vì điều này chướng ngại trí Nhất thiết trí, có thể làm cho sự phát tâm trí Nhất thiết càng yếu dần, xa dần, nên gọi là Bồ-tát tác ý phi lý. Giống như vị thầy Du-già muốn chứng thật tế, vui mừng nhập vào Chánh tánh ly sinh, nếu tham, sân, si gặp duyên khởi lên thì làm cho sự phát tâm A-la-hán có chướng có ngại, bị yếu dần, xa dần. Cho nên nói là tác ý phi lý. Bồ-tát cầu đại Bồ-đề cũng như vậy, nếu khởi tác ý tương ưng Nhị thừa thì chướng ngại trí Nhất thiết, tổn hại tâm Bồ-đề. Cho nên gọi là tác ý phi lý. Nếu các Bồ-tát có tác ý này liền bị Nhị thừa chiến thắng.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền bảo Cụ thọ Xá-lợi Tử: –Nếu các Bồ-tát phát khởi tác ý tương ưng Nhị thừa, liền bị Nhị thừa thu phục, nên biết, không dự vào hàng Bồ-tát. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì Bồ-tát chỉ cầu quả vị Giác ngộ cao tột, nếu khởi tác ý tương ưng với Nhị thừa, trái với bản nguyện, không thể chứng đắc trí Nhất thiết. Như bậc Dự lưu còn có phiền não hiện hành, liền trái với sự cầu, là trí hoặc đoạn. Vì siêng năng cầu trí và đoạn nên gọi là Dự lưu. Chẳng phải phiền não hiện hành là có nghĩa siêng năng cầu đâu. Vì sao? Xá-lợi Tử, vì bậc Dự lưu thì cầu cả hai biến tri: Một là trí biến tri; hai là đoạn biến tri.

Nếu phiền não hiện hành thì hai sự cầu kia đều hoại, cho nên bậc Dự lưu thường nên tinh cần diệt trừ các phiền não cầu trí biến tri. Bồ-tát nếu khởi tác ý tương ưng với Nhị thừa như vậy, liền trái với bản nguyện mong cầu trí Nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát xa lìa tâm và tâm sở mong cầu trí Nhất thiết trí, thì không gọi là chân thật Bồ-tát. Vì sao? Xálợi Tử, vì điều cốt yếu của Bồ-tát là thường mong cầu tâm trí Nhất thiết trí, không gián đoạn. Nếu các Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát, thì các ác ma, Nhị thừa không thể thu phục được, mà còn chiến thắng được ác ma Nhị thừa. Như người bắn cung giỏi đứng đúng tư thế, không bị thua tất cả oán địch, mà chinh phục được oán địch, xa lìa các sự sợ hãi. Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát như vậy, tất cả ác duyên không thể phá hoại được, mà phá hoại tất cả sự nghiệp của chúng ma. Nếu nghe tuyên thuyết giáo pháp Nhị thừa, liền nghĩ như vầy: “Ta sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, cũng nên tuyên thuyết giáo pháp như vậy cho các hữu tình, giống như ngày nay Thế Tôn Năng Nhân Tịch Tịnh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết giáo pháp tương ưng Nhị thừa cho các vị chủng tánh Độc giác, Thanh văn. Đời vị lai, khi ta được làm Phật, cũng vì các hữu tình như vậy mà tuyên thuyết giáo pháp như thế để họ được lợi lạc.” Bồ-tát như vậy trụ tâm Bồ-tát, dùng phương tiện khéo léo, tuy nghe giáo pháp tương ưng với Nhị thừa nhưng không bị tổn giảm. Nghĩa là tuy nghe giáo pháp tương ưng kia, nhưng đối với Nhị thừa không có sự tham nhiễm. Bồ-tát trụ tâm Bồ-tát như vậy, không bị ác ma Nhị thừa chinh phục, mà chinh phục được ác ma Nhị thừa. Như vị thầy Du-già đối với cảnh không bị thu hút vì đã hoàn toàn thiện xảo về định. Vì sao? Vì tâm đối với cảnh, định đã khéo điều trị nên được tự tại. Bồtát trụ tâm Bồ-tát như vậy, ác ma Nhị thừa không thể thu phục. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường không xa lìa tâm Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:

–Tất cả Bồ-tát, hoặc mới phát tâm, hoặc đã được không thoái chuyển, hoặc ngồi tòa Bồ-đề đều không thể bị chinh phục được sao?

Mãn Từ Tử đáp:

–Tất cả Bồ-tát hoặc mới phát tâm, hoặc đã được không thoái chuyển, hoặc ngồi tòa Bồ-đề nên biết tất cả không thể bị chinh phục được. Vì sao? Xálợi Tử, vì các Bồ-tát này đối với tất cả ác duyên, không bị làm cho xả bỏ bản thệ nguyện. Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm Bồ-tát, đối với các hữu tình chỉ vì muốn thường làm lợi ích. Giữ vững hai điều thệ nguyện như thế thì tất cả ác duyên không lay động được. Nếu các Bồ-tát an trụ tâm này thì ác ma, Nhị thừa không thể chinh phục.

Lại nữa Xá-lợi Tử, cũng như các Như Lai, hoặc mới thành Phật, hoặc đã thành Phật, trụ trăm ngàn năm đều không lìa bỏ tâm trí Nhất thiết, đối với tất cả thời thành trí Nhất thiết. Bồ-tát cũng vậy hoặc mới phát tâm, hoặc đã được không thoái chuyển, hoặc ngồi tòa Bồ-đề, trong tất cả thời gian đều duyên vời trí Nhất thiết, suy nghĩ cầu chứng, chưa từng tạm bỏ.

Xá-lợi Tử hỏi:

–Nếu như thế thì các ngôi vị Bồ-tát đâu có gì sai khác?

Mãn Từ Tử đáp:

–Các ngôi vị Bồ-tát, tâm không khác biệt chỉ có thành Phật thì mau chậm không đồng. Nghĩa là tâm Bồ-tát trước, sau, giữa đều cầu đến Vô thượng Bồ-đề, an trụ tâm này thường không thoái chuyển.

Lại nữa Xá-lợi Tử, như A-la-hán quyết không thoái lui tâm A-la-hán. Nghĩa là tâm vô lậu chắc chắn không thoái chuyển. Bồ-tát cũng vậy, quyết không thoái thất tâm đại Bồ-đề.

Lại nữa Xá-lợi Tử, ý ông thế nào? Nếu tâm Ala-hán có thoái thất thì có phải chân thật A-la-hán không?

Xá-lợi Tử đáp:

–Cụ thọ, không phải! Nếu tâm A-la-hán có thoái thất, nên biết vị kia là tăng thượng mạn, nhất định chưa đắc quả A-la-hán.

Mãn Từ Tử, Bồ-tát cũng vậy, nếu Bồ-tát thoái tâm Bồ-đề nên biết trước kia tự xưng Bồ-tát, chẳng phải Bồ-tát thật, là tăng thượng mạn, làm nhiễm ô chúng Bồ-tát, như ốc sên làm dơ nước sạch, chẳng thể uống được.

Xá-lợi Tử, đúng vậy, đúng vậy! Nên biết vị kia bị vô trí che lấp tâm, tự xưng là Bồ-tát, thật sự chưa được vào hàng Bồ-tát chân thật, chỉ có giả danh. Ví như đàn ông, nam căn phải đầy đủ. Có người thiếu căn cũng tự xưng là đàn ông, chỉ có lời nói hư vọng nhưng không có nghĩa thật. Bồ-tát thoái tâm Bồ-đề cũng vậy, chỉ có giả danh, chẳng thật Bồ-tát. Như người thiếu căn gọi là nhị hình; Bồ-tát thoái tâm gọi là Bồ-tát hư ngụy. Cho nên Bồ-tát ở đầu, giữa, sau nhất định không thoái tâm đại Bồđề; nếu thoái tâm này thì chẳng phải Bồ-tát.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá-lợi Tử:

–Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột phải khởi tác ý tương ưng với những gì?

Xá-lợi Tử đáp:

–Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột nên phát khởi tác ý tương ưng với trí Nhất thiết trí. Tất cả pháp của Bồ-tát là cần phải an trụ tác ý như vậy. Nếu các Bồ-tát trụ tác ý này tu hành bố thí thì các Bồ-tát này có thể hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát hồi hướng về trí Nhất thiết trí như vậy thì các Bồ-tát này giữ gìn Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát không hồi hướng về trí Nhất thiết trí thì sự tu hành bố thí của các Bồtát này không gọi là Bố thí ba-la-mật-đa.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu khi các Bồ-tát hành bố thí, lại suy nghĩ rằng: “Ta xả phần ít, hay không xả phần ít. Ta xả vật này, hay không xả vật này. Ta bố thí loài kia, hay không bố thí loài kia.” Các Bồtát này do sự suy nghĩ đó làm chướng ngại trí Nhất thiết, phải trải qua thời gian lâu mới được trí Nhất thiết, cần nhiều thời gian Bố thí ba-la-mật-đa mới được viên mãn. Vì vậy, Bồ-tát muốn trí Nhất thiết trí không bị chướng ngại, muốn mau chứng đắc trí Nhất thiết trí, muốn làm cho Bố thí ba-la-mật-đa mau được viên mãn, nên xa lìa suy nghĩ phân biệt như vậy. Nên xả bỏ tất cả phân biệt, nên bố thí tất cả vật, đối với tất cả loài nên bố thí bình đẳng.

Lại nữa Mãn Từ Tử, nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Giác ngộ cao tột nên trụ Bố thí ba-lamật-đa, nên đối với Bố thí ba-la-mật-đa mà trụ như vậy. Nếu các Bồ-tát vào buổi sáng trong ngày đem các loại thức ăn thượng diệu bố thí cho hằng hà sa số hữu tình. Đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu. Vào buổi trưa trong ngày cũng dùng các loại thức ăn thượng diệu bố thí hằng hà sa hữu tình. Đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu. Vào buổi chiều trong ngày cũng đem các loại thức ăn thượng diệu bố thí cho hằng hà sa hữu tình. Đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu tiếp đối với ba thời của ban đêm cũng lại như vậy. Bố thí như vậy trải qua hằng hà sa số đại kiếp thường không gián đoạn. Các Bồ-tát này bố thí như vậy rồi, nếu không hồi hướng cầu trí Nhất thiết trí, tuy gọi bố thí nhưng chẳng phải Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu hồi hướng cầu trí Nhất thiết trí mới gọi Bố thí ba-la-mật-đa. Nghĩa là sau khi bố thí không khởi sự phân biệt, tùy nhiều ít mà phát tâm rộng lớn, nhờ hữu tình bố thí tất cả. Khi Bồ-tát này hành bố thí, tuy không xả nhiều để bố thí tất cả nhưng thành tựu Bố thí ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì muốn chứng đắc vô lượng Phật pháp mà hành Bố thí ba-la-mật-đa. Nếu khi bố thí tâm có hạn lượng, nhất định không chứng vô lượng Phật pháp. Nếu tâm các Bồ-tát có hạn lượng mà hành bố thí thì các Bồ-tát này nhất định không chứng trí Nhất thiết trí, chắc chắn đối với Bố thí ba-la-mậtđa không được viên mãn. Vì vậy Bồ-tát muốn chứng vô lượng trí Nhất thiết trí phải nên phát khởi tâm không hạn lượng mà hành bố thí. Nếu các Bồtát có tâm hạn lượng mà hành bố thí thì các Bồ-tát này còn giữ gìn xan tham không muốn dứt bỏ, không thể hộ trì trí Nhất thiết trí, chống trái với tướng này, làm sao chứng đắc trí Nhất thiết trí, viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa.

Lại nữa Mãn Từ Tử, chúng Bồ-tát muốn hành bố thí nên khởi tâm này: “Ta nên tu hành bố thí không hạn lượng khi chưa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các hữu tình nên hành tài thí. Nếu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột rồi, đối với các hữu tình phải hành pháp thí. Nghĩa là nếu chưa chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột đối với hữu tình nên cho tiền tài, khiến họ xa lìa nghèo khổ, được an lạc ở thế gian. Nếu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, đối với các hữu tình phải đem cho chánh pháp để họ xa lìa phiền não, được an lạc xuất thế gian. Như người phụng sự vua, trước thì được y phục, nuôi sống vợ con; sau được lòng vua thì được hưởng nhiều tiền của châu báu. Bản thân mình và vợ con đều thọ hưởng sự phú quý an ổn khoái lạc. Bồ-tát cầu chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột cũng vậy, tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, trước thì dùng tiền tài bố thí cho các hữu tình để họ xa lìa sự nghèo khổ ở thế gian, về sau khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, dùng pháp không nhiễm ô dạy bảo răn dè các hữu tình, để họ thoát khỏi các khổ sinh tử.

Lại nữa Mãn Từ Tử, như hơn trăm ngàn các hữu tình siêng năng phụng sự vương tử suốt cả ngày đêm. Bấy giờ, vương tử trợ cấp y phục, vật ăn uống, ngọa cụ... Sau khi lên ngôi vua tùy theo công lao xưa, khả năng trách nhiệm mà ban quyền cao tước lộc; hoặc là chủ sự nghiệp, hoặc chủ núi sông, hoặc chủ thành lớn, hoặc chủ của cải, hoặc chủ làng xóm, hoặc chủ quân lính. Bồ-tát cầu trí Nhất thiết cũng như vậy. Khi chưa chứng quả vị Giác ngộ cao tột, trước hết phải đem của cải cho hữu tình. Sau khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột tùy theo sự hiểu biết khác nhau của các hữu tình, dùng giáo pháp vô thượng dạy bảo răn dè, làm cho họ an trụ quả A-la-hán, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Dự lưu, hoặc mười đường lành, hoặc địa vị Bồ-tát thù thắng.

Lại nữa Mãn Từ Tử, các Bồ-tát này cầu đại Bồđề, hành Bồ-tát hạnh. Khi chưa chứng quả vị Giác ngộ cao tột, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột, cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình sau Niết-bàn, cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Ví như vương tử chưa nối ngôi vua, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu nối ngôi vua cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi băng hà cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Lại nữa Mãn Từ Tử, như người phụng sự vua, tinh tấn đúng mực, trải qua thời gian lâu; bổng lộc cứ thế cứ thế tăng dần. Bồ-tát cầu trí Nhất thiết cũng như vậy; tinh tấn đúng mực trải qua thời gian lâu dài, công đức cứ thế cứ thế dần dần tăng trưởng.

Lại nữa Mãn Từ Tử, các Bồ-tát này khi chưa chứng quả vị Giác ngộ cao tột đem tiền của cho các hữu tình. Nghĩa là dùng các loại y phục, vật ăn uống, ngọa cụ, thuốc men và các tài vật khác, dùng phương tiện khéo léo hộ trì, lợi ích hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột dùng chánh pháp hộ trì các hữu tình. Nghĩa là dùng các pháp như Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác hộ trì lợi ích. Hoặc dùng các pháp như Niệm trụ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi và vô lượng, vô biên Phật pháp khác hộ trì lợi ích. Hoặc dùng các việc phước nghiệp của bố thí, việc phước nghiệp của trì giới, việc phước nghiệp của tu tập và vô lượng, vô biên thiện pháp thế gian hộ trì lợi ích. Sau khi vào Niết-bàn cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Nghĩa là cúng dường xá-lợi Phật. Hoặc đối với chánh pháp vô thượng của Như Lai thọ trì, đọc tụng, tu hành như đã thuyết đều được lợi ích rộng lớn vô biên. Nghĩa là được an lạc ở cõi trời, người, hoặc nhập Niếtbàn, hoặc đắc đại Bồ-đề an lạc rốt ráo.

Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử bảo Xá-lợi Tử:

–Đúng vậy, đúng vậy! Thật đúng như lời ông đã nói. Tôn giả đã thuyết đều đúng nghĩa. Cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói Tôn giả là bậc trí tuệ biện tài đệ nhất trong hàng Thanh văn.

Lại nữa Xá-lợi Tử, ví như vàng ròng thường lợi ích lớn cho hữu tình. Nghĩa là chưa ra khỏi quặng hoặc khi đã ra, hoặc chuyển thành các vật trang sức, hoặc đem ra bán đổi để mua vật khác, đều lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình. Tùy theo sự ứng dụng của họ mà làm lợi ích lớn. Như vậy, Bồtát tu hạnh Bồ-tát, khi chưa chứng quả vị Giác ngộ cao tột làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nghĩa là dùng tài pháp, tùy theo sự thích ứng của họ mà dùng phương tiện thiện xảo hộ trì lợi ích. Nếu khi chứng quả vị Giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích lớn. Nghĩa là tuyên thuyết sắc uẩn thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhãn xứ thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được.

Tuyên thuyết sắc xứ thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhãn giới thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết sắc giới thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhãn thức giới thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhãn xúc thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết các thọ do nhãn xúc làm duyên sinh ra thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết địa giới thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết nhân duyên thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết vô minh thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết ngã thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết hữu tình người sinh, người sống, người nuôi, người làm, người thọ, người biết, người thấy thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết Dục giới thường, vô thường... chẳng thể nắm bắt được. Tuyên thuyết Sắc giới, Vô sắc giới thường, vô thường... cũng chẳng thể nắm bắt được.

Tuyên thuyết các pháp môn như vậy làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Sau khi nhập Niết-bàn, chánh pháp, tượng pháp và xá-lợi cũng làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Thanh văn, Độc giác không có việc như vậy. Cho nên chúng Đại Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát thường làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Do đây nên nói các Bồ-tát đối với Nhị thừa kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là trên, là không gì trên.

Lúc bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà:

–Ông nên thọ trì những gì Xá-lợi Tử đã thuyết. Chúng Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện, đến đại Bồ-đề, đầy đủ khéo léo thù thắng, ý muốn thăng thượng, tu hành Bố thí ba-la-mật-đa xả bỏ pháp, xả bỏ tiền tài, không nhiễm, không đắm trước.

Khi Đức Thế Tôn đã thuyết kinh này, Cụ thọ Xá-lợi Tử, Cụ thọ Mãn Từ Tử, Cụ thọ A-nan-đà và các Thanh văn, chúng Bồ-tát cùng với thế gian, Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Nhân phi nhân... tất cả đại chúng, nghe lời Phật thuyết đều sinh lòng tin hoan hỷ lớn và thọ trì phụng hành.


Trước

[Đầu trang][Mục lục Kinh Đại Bát Nhã]

Tiếp theo


[Mục lục bộ Bát-nhã][220][221][222][223][224][225][226][227][228][229][230][231][232][233][234][235][236][237][238][239][240][241][242][243][244][245][246][247][248][249][250][251][252][253][254][255][256][257][258][259][260][261]


[Mục lục tổng quát]