TẠNG
KINH
BỘ BẢO TÍCH (310 - 373)
BỘ BẢO TÍCH 4 – T045
SỐ 316 - PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA BỒ-TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP KINH
Hán dịch: Tam tạng Pháp Hộ.
PHẨM 1: TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ (PHẦN 1)
PHẨM 1: TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ (PHẦN 2)
PHẨM 1: TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ (PHẦN 3)
PHẨM 1: TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ (PHẦN 4)
PHẨM 3: BỒ-TÁT QUÁN SÁT (PHẦN 1)
PHẨM 3: BỒ-TÁT QUÁN SÁT (PHẦN 2)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 1)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 2)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 3)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 4)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 5)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 6)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 7)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 8)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 9)
PHẨM 4: NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN (PHẦN 10)
PHẨM 6: BỐ THÍ BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 6: BỐ THÍ BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 3)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 4)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 5)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 6)
PHẨM 7: TRÌ GIỚI BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 7)
PHẨM 8: NHẪN NHỤC BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 8: NHẪN NHỤC BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 3)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 4)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 5)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 6)
PHẨM 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 7)
PHẨM 10: THIỀN ĐỊNH BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 10: THIỀN ĐỊNH BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 10: THIỀN ĐỊNH BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 3)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 1)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 2)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 3)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 4)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 5)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 6)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 7)
PHẨM 11: TUỆ THÙ THẮNG BA-LA-MẬT-ĐA (PHẦN 8)
Tôi nghe như vầy:
Thuở nọ Đức Thế Tôn an cư tại nước Xá-vệ, vừa mãn ba tháng hạ liền đi thăm hỏi các vị Tỳkheo về việc cắt rọc vải may y phục. Cùng đi với Đức Thế Tôn gồm có chúng Bí-sô một ngàn hai trăm năm mươi vị; ngoài ra có các Bí-sô-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, Sa-môn, Bà-la-môn, trưởng giả và các ngoại đạo; cho đến các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Các chúng này luôn tôn trọng cung kính chí thành cúng dường Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận sự cúng dường ấy, làm ruộng phước cho đời. Các món cúng dường như đồ ăn, thức uống, y phục, bồ đoàn, ngọa cụ, thuốc thang và các món thọ dụng khác. Sở dĩ được sự cúng dường như thế, là vì danh tiếng của Đức Thế Tôn vang lừng thù thắng vượt hơn cả thế gian, đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong hàng Trời, Người, A-tu-la, Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Ma, hoặc Phạm và tất cả đại chúng thế gian, Đức Thế Tôn tự dùng thần lực mà chứng thánh quả. Trong lúc du hóa, chánh pháp của Đức Thế Tôn nói ra đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa sâu xa, thuần nhất không xen tạp, tướng mạo tròn đầy, phạm hạnh thanh tịnh.
Khi ấy, Đức Thế Tôn từ từ đi đến nước Ma-giàđà, rồi lần lượt đến đại thành Vương xá, đến rồi, dừng nghỉ ở núi Thứu phong.
Lúc đó trong thành Vương xá có một vị trưởng giả tên là Hiền Hộ đã từng làm rất nhiều Phật sự và gieo trồng căn lành từ đời Phật quá khứ. Ông ta của cải giàu có, thọ dụng không cùng, vàng bạc châu báu chất đầy kho, chứa nhóm ma-ni, trân châu, xa cừ, san hô, phệ lưu ly và các loại voi, ngựa, trâu, dê cùng với những người nô tỳ hầu hạ kinh doanh phục dịch.
Một hôm, trưởng giả Hiền Hộ nghe Sa-môn Cù-đàm vượt thành xuất gia với ý chí thanh tịnh, hiện nay đang cùng với đại chúng Bí-sô một ngàn hai trăm năm mươi vị đi qua nước Ma-già-đà, rồi lần lượt đến đại thành Vương xá, đang dừng nghỉ ở núi Thứu phong. Sa-môn Cù-đàm công đức to lớn sắc tướng đầy đủ, danh tiếng vang lừng hơn cả thế gian, thành quả Chánh giác, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Thế Tôn tùy theo căn cơ thích ứng tuyên nói chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa sâu xa, thuần nhất không xen tạp, tướng mạo tròn đầy, phạm hạnh thanh tịnh. Sau khi nghe được như thế, trưởng giả Hiền Hộ liền nghĩ: nay ta nên đến chỗ của Sa-môn Cù-đàm thân cận đảnh lễ Đức Phật Như Lai; Ứng Cúng, Chánh đẳng Chánh giác, công đức sắc tướng toàn thiện ấy. Nghĩ thế rồi, trưởng giả Hiền Hộ cùng với năm trăm trưởng giả rời khỏi thành Vương xá đến đảnh lễ Đức Thế Tôn.
Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn quấn y cầm bát cùng với chúng Bí-sô cung kính vây quanh đi vào đại thành Vương xá lần lượt khất thực. Đức Thế Tôn oai nghi nghiêm túc, bước đi nhẹ nhàng, ánh sáng thanh tịnh, chiếu khắp thế gian, mọi cử chỉ đều ngay thẳng thanh tịnh.
Lúc đó, Hiền Hộ cùng với năm trăm trưởng giả, từ xa trông thấy Đức Thế Tôn đang từ từ đi đến, oai dung tướng hảo thanh tịnh đoan nghiêm, các căn điều hòa nhu nhuyến, ý niệm vắng lặng, điều phục khéo léo, như Đại Long vương, như suối chảy trong sạch không nhơ bẩn, có vô số trời người đại chúng theo vây quanh, thân tướng uy nghi như sắc vàng ròng, thân trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Trời mưa các loại hoa to lớn thù thắng vi diệu, hoa mưa đó đầy khắp cả mọi nơi; lại có hoa sen bảy báu ngàn ức cánh nở theo bước chân. Đức Thế Tôn đầy đủ vô số trăm ngàn oai nghi công đức đang từ xa đi đến, các trưởng giả đứng phía bên trái đường thấy như vậy rồi sinh lòng tin thanh tịnh đem lòng tin thanh tịnh đến trước chỗ Phật, đến đảnh lễ sát chân cung kính đứng trước Đức Phật.
Lúc đó, Hiền Hộ và năm trăm trưởng giả đều bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn Cù-đàm! Thế Tôn ở trong đại chúng tướng tốt thù thắng; Thế Tôn Cù-đàm ở trong đại chúng oai đức thù thắng; Đức Tôn Cùđàm ở trong đại chúng danh tiếng thù thắng; Thế Tôn Cù-đàm ở trong đại chúng ánh sáng thù thắng; Thế Tôn Cù-đàm sắc tướng vàng rực tối thượng thù thắng; thân tướng Thế Tôn như Kim Tiên thuở xưa; thân tướng Thế Tôn vi diệu không ai bằng; các căn Thế Tôn đầy đủ pháp hy hữu; Thế Tôn Cùđàm hơn tất cả thế gian. Con thấy Thế Tôn đầy đủ oai tướng công đức như thế, vậy vì lý do gì mà bỏ thành xuất gia.
Trưởng giả Hiền Hộ liền dùng kệ tán thán:
Con xưa từng nghe Phật Thế Tôn
Danh tiếng tốt đẹp và oai đức
Tướng đẹp tối thượng con nay thấy
Ánh sáng thù thắng đủ như vậy
Thanh tịnh tốt đẹp tướng vàng ròng
Kim sắc cao vời mọi người thấy
Lìa trần không nhiễm ở trong chúng
Như trăng sáng ngời giữa các sao
Con xưa quy mạng Nhân Trung Tôn
Như núi Tu-di cao ngất trời
Như lộng chư Thiên đảnh trang nghiêm
Thứ lớp bao trùm mát tất cả
Tóc trên đỉnh đầu mềm lại bóng
Giống như sắc tướng của Đế Thanh
Cổ thì giống như Khổng Tước vương
Quay về phía phải lại mềm mại
Trán rộng bằng thẳng lại trắng sạch
Đôi mi cũng như cung Đế Thích
Lông giữa chặng mày sáng thanh tịnh
Như vì sao chúa sáng rạng ngời
Hai mắt rất đẹp tướng đáng yêu
Người thấy đều sinh tâm hoan hỷ
Nhìn mãi nhưng vẫn không biết chán
Đảnh lễ Thế Tôn mắt thanh tịnh
Con nhìn sóng mũi Nhân Trung Tôn
Cao ráo ngay thẳng như kim sơn
Môi như hổ phách loại Tần-bà
Thanh tịnh cũng như tịnh bảo châu
Răng thì bóng sáng lại trong sạch
Như sữa như ngẫu và như áp
Chắc chắn thanh tịnh khít bằng thẳng
Tùy chỗ động chuyển thật đáng yêu
Các răng nhỏ lớn khít không thô
Bốn răng nhọn bén nhưng không dơ
Cũng như nga vương trong bầy nga
Rạng ngời thanh tịnh trắng như tuyết
Mặt như sơ nhật sáng rạng ngời
Như Ưu-bát-la và màu đồng
Lưỡi luôn trong sạch rộng lại dài
Che khắp cả mặt rất thanh tịnh
Con ở trong trời người Phạm thế
Chưa từng thấy ai tướng như Phật
Vành tai cũng như Sư tử vương
Đủ tướng Sư tử bậc vô úy
Con thấy cổ Ngài đủ oai đức
Ăn thức ăn vào đều thanh tịnh
Cổ thì ngay thẳng không cong vẹo
Thường được các vị ngon thượng diệu
Dung nghi đôn hậu lại thù thắng
Bảy chỗ bằng thẳng ai cũng nghe
Tối thắng tốt đẹp Đấng Nhân Trung
Như mặt trời sáng chiếu đảnh núi
Bảy chỗ bằng thẳng ấy đó là
Hai tay, bàn chân và hai vai
Cổ thì bằng thẳng đó là bảy
Tròn đầy thanh tịnh lại sáng ngời
Hai tay tròn trịa dài suôn sẻ
Cũng như Long vương rất thanh tịnh
Không cao không thấp hai tay bằng
Hai tay duỗi xuống dài quá gối
Nửa thân trên như Sư tử vương
Như Ni-câu-đà thân tròn đầy
Như Na-la-diên thân không hoại
Đại lực nhẫn lực đều đầy đủ
Lông trên thân mình mịn nhu nhuyến
Tất cả lông ấy đều quay phải
Không nhiễm bụi trần thân thanh tịnh
Thí như hoa sen không dính nước
Âm tàng ẩn phú rất kín đáo
Cũng như mã vương được điều thiện
Hai vế cũng như cỏ mềm mại
Hai ống quyển đứng rất vững chãi
Gót chân tròn trịa bàn cân xứng
Tay chân đều có màng da mỏng
Lại như nga vương ngón nhỏ dài
Tay chân đầy đủ hai mươi ngón
Ngón tay thon dài móng đỏ hồng
Các lông ngón tay nằm xếp xuống
Dưới lòng chân tướng thiên bức luân
Mắt cá không thô cũng không lộ
Bước đi bằng thẳng không cao thấp
Bước đi cách đất bốn ngón tay
Tướng mạo thù thắng hơn thế gian
Hoa sen đỏ dưới chân Ngài bước
Thế Tôn cất bước không sợ gì
Như Sư tử vương không cao thấp
Không nhanh không chậm mức trung bình
Dạo đi tự tại không sợ hãi
Chư Thiên mưa xuống hoa vi diệu
Trong không tranh nhau trổi âm nhạc
Phi nhân cung kính khởi cúng dường
Đức Phật thần thông tướng hy hữu
Sắc tướng hơn cả Tỳ-sa-môn
Ánh sáng hơn trăm ngàn mặt trời
Công đức Thế Tôn hơn tất cả
Trời, người, ma, phạm và các chúng
Nay trong tâm con có điều nghi
Thần thông của Phật rất tối thượng
Vì thấy những môn công đức gì
Mà đi xuất gia thành Thánh quả.
Lúc đó, Đức Phật bảo Hiền Hộ và các trưởng giả:
– Này các trưởng giả! Ta thấy mười pháp tích tập lại nhiễu loạn thế gian, khổ này rất lớn. Mười pháp đó là:
1. Sinh nhiễu loạn.
2. Già nhiễu loạn.
3. Bệnh nhiễu loạn.
4. Chết nhiễu loạn.
5. Lo nhiễu loạn.
6. Buồn nhiễu loạn.
7. Khổ nhiễu loạn.
8. Phiền não nhiễu loạn.
9. Sầu than nhiễu loạn.
10. Luân hồi nhiễu loạn.
Mười pháp này tích tập lại nhiễu loạn thế gian. Ta thấy vậy, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Những kẻ ngu dị sinh
Mắc trong lưới luân hồi
Sinh, sầu than nhiễu loạn
Già, bệnh luôn theo đuổi
Lo, buồn nên khổ não
Chết đến cướp mạng sống
Nếu mong cầu xuất ly
Thoát khỏi lưới ba cõi.
Lại nữa, này trưởng giả! Sân tích tập lại làm tổn hại thế gian, khổ này rất lớn. Tổn hại có mười:
1. Do tâm của ta, quá khứ đã làm các việc tổn hại.
2. Khởi lên suy nghĩ, hiện tại làm các việc tổn hại.
3. Khởi lên suy nghĩ vị lai làm các việc tổn hại.
4. Vì ngã sở ái khởi lên suy nghĩ, quá khứ chưa làm các việc tổn hại.
5. Vì ngã sở ái khởi lên suy nghĩ, hiện tại chưa làm các việc tổn hại.
6. Vì ngã sở ái khởi lên suy nghĩ, vị lai chưa làm các việc tổn hại.
7. Không phải ngã ái khởi lên suy nghĩ, quá khứ đã từng làm các việc tổn hại.
8. Không phải ngã ái khởi lên suy nghĩ, hiện tại làm các việc tổn hại.
9. Không phải ngã ái khởi lên suy nghĩ, vị lai sẽ làm các việc tổn hại.
10. Khởi suy nghĩ làm các việc vô nghĩa, gây ra mọi lỗi lầm tổn hại.
Mười việc tổn hại này tích tập lại làm tổn hại thế gian. Ta thấy việc đó, vì muốn khiến chúng sinh lìa các tổn hại này, nên phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên nói kệ rằng:
Chúng sinh nhiều sân hận
Làm tổn hại lẫn nhau
Đã hiện sẽ tổn hại
Thành mười việc tổn hại
Người yêu không sinh hại
Đã làm và sẽ làm
Đang làm cũng như thế
Không thành pháp tổn hại
Ngã không phải bạn yêu
Làm các việc tổn hại
Đã, hiện, sẽ cũng vậy
Sinh tội nghiệp tổn hại
Và lỗi lầm vô nghĩa
Mười tổn hại trói buộc
Ta thấy pháp tổn hại
Mới tịnh tín xuất gia.
Lại nữa, này trưởng giả! Trong mọi thứ kiến, các hiểm ác kiến tích tập lại trong thế gian, khổ này rất lớn. Hiểm ác kiến có mười thứ:
1. Đối với ngã kiến khởi lên hiểm ác kiến.
2. Đối với chúng sinh kiến khởi lên hiểm ác kiến.
3. Đối với thọ giả kiến khởi lên hiểm ác kiến.
4. Đối với nhân kiến khởi lên hiểm ác kiến.
5. Đối với đoạn kiến khởi lên hiểm ác kiến.
6. Đối với thường kiến khởi lên hiểm ác kiến.
7. Đối với vô tác kiến khởi lên hiểm ác kiến.
8. Đối với vô nhân kiến khởi lên hiểm ác kiến.
9. Đối với bất bình đẳng kiến khởi lên hiểm ác kiến.
10. Đối với tà kiến khởi lên hiểm ác kiến.
Ta thấy được mười thứ hiểm ác kiến này rồi, vì muốn chúng sinh phá tất cả các kiến ấy, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Ngã, nhân, chúng sinh kiến
Thọ giả kiến cũng thế
Các kẻ ngu dị sinh
Hiểm ác kiến che lấp
Đoạn, thường và vô tác
Tà vô nhân bất bình
Khiến an trụ chánh kiến
Vì thế ta xuất gia
Ta ở trong tăng-kỳ
Na-do-tha trăm ngàn
Vô số câu-chi kiếp
Vì lợi lạc chúng sinh.
Lại nữa, này trưởng giả! Có mũi tên bệnh nặng bắn vào thế gian, khổ này rất lớn. Có mười mũi tên bệnh nặng:
1. Mũi tên ái.
2. Mũi tên vô minh.
3. Mũi tên dục.
4. Mũi tên tham.
5. Mũi tên sân.
6. Mũi tên si.
7. Mũi tên mạn. 8. Mũi tên kiến.
9. Mũi tên thành. 10. Mũi tên hoại.
Ta muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều nhổ sạch mười mũi tên bệnh nặng này, nên ta mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Tên ái chứa tham lam
Vô trí nên tối tăm
Vô minh si che lấp
Quay tròn trong khổ uẩn
Tên dục theo đó bắn
Tên tham luôn đeo đuổi
Tên sân khởi hôn mê
Tên si phủ che lấp
Tên kiến khởi trái ngược
Mạn, thành, hoại cũng thế
Những kẻ ngu dị sinh
Mới hủy báng lẫn nhau
Hư vọng mất chân thật
Dấy lên sự tranh cãi
Phá tên bệnh thế gian
Chỉ pháp vô sinh Phật
Các chúng sinh thế gian
Thường bị tên bắn vào
Vì cứu hộ dứt trừ
Khiến tất cả lìa khổ.
Lại nữa, này trưởng giả! Các pháp ái, các pháp tích tập kiến lập căn bản ở thế gian, khổ này rất lớn. Nền tảng của ái có mười thứ:
1. Do ái duyên cho nên khởi lên tìm cầu.
2. Do tìm cầu, cho nên sinh tham trước.
3. Do tham trước, cho nên nổi lên ngã kiến.
4. Do ngã kiến, cho nên chấp quyết định.
5. Do chấp quyết định, cho nên sinh tham dục.
6. Do tham dục, cho nên khởi chấp trước.
7. Do chấp trước, cho nên sinh xan lận.
8. Do xan lận, cho nên chấp thủ.
9. Do chấp thủ, cho nên không phòng hộ.
10. Do không phòng hộ, nên sinh các khổ.
Do không phòng hộ nên mới cầm dao gậy chiến đấu tranh cãi. Vì lý do đó cho nên nói hai lưỡi gây nhiều tội lỗi bất thiện. Ta do thấy được mười thứ nền tảng ái hợp tập thế gian, muốn khiến cho chúng sinh an lập pháp không nền tảng, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chúng sinh bởi vì ái
Cho nên khởi tìm cầu
Được lợi tham ngã kiến
Vì thọ nên quyết định
Việc này ta sẽ làm
Tham dục càng tăng trưởng
Tham dục tăng trưởng rồi
Chấp trước sinh xan lận
Lỗi xan tham thế gian
Kiên cố lại chấp trước
Do chấp nên không hộ
Tội lỗi cứ khởi mãi
Người ngu do không hộ
Cầm đao gậy tổn hại
Gây ra nhiều tội nghiệp
Về sau khổ càng tăng
Ái duyên tăng trưởng rồi
Mới sinh ra các khổ
Ta chứng quả Bồ-đề
Khiến trụ không căn bản.
Lại nữa, này trưởng giả! Tụ pháp tà định tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn. Tà pháp có mười:
1. Nhận thức tà vạy.
2. Suy nghĩ tà vạy.
3. Lời nói tà vạy. 4. Nghiệp tà vạy.
5. Mạng tà vạy.
6. Tinh tấn tà vạy.
7. Niệm tà vạy.
8. Định tà vạy.
9. Giải thoát tà vạy.
10. Trí tà vạy.
Ta thấy được mười thứ tà định tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi tà pháp, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chất chứa các tà kiến
Cảnh giới suy nghĩ tà
Toàn nói lời tà ngụy
Làm các việc tà nghiệp
Tà mạng và tà cần
Tà niệm cùng tà định
Nỗi lên tà giải thoát
Hướng thẳng đến tà trí
Các tụ tà định này
Kẻ ngu si gầy dựng
Khiến chuyển tà theo chánh
Thế nên ta xuất gia.
Lại nữa, này trưởng giả! Đường ác hiểm sâu, tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn, dần dần hướng đến nẻo ác, tăng trưởng nẻo ác và làm lớn nẻo ác.
Đó là mười nghiệp bất thiện:
1. Giết hại.
2. Trộm cắp.
3. Tà nhiễm.
4. Nói dối.
5. Nói thêu dệt.
6. Nói hai lưỡi.
7. Nói ác.
8. Tham lam.
9. Sân hận.
10. Tà kiến.
Mười thứ nghiệp bất thiện này dần dần hướng đến nẻo ác, tăng trưởng nẻo ác và mở rộng nẻo ác. Ta thấy vậy rồi, muốn khiến chúng sinh lìa mọi đường hiểm, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chúng sinh khởi giết hại
Cướp đoạt của người khác
Dục, tà hạnh, biến hành
Mau đọa vào địa ngục
Hai lưỡi và nói ác
Nói dối không quyết định
Người ngu nói thêu dệt
Dị sinh phiền não trói
Tâm tham thích của giàu
Sân gây các lỗi lầm
Tà kiến phá hoại nhiều
Sẽ đọa vào đường ác
Thân có ba nghiệp tội
Miệng bốn nghiệp nên biết
Ý ba nghiệp cũng vậy
Người làm đọa đường ác
Nếu ai tạo các tội
Nhất định đọa đường ác
Nếu lìa ba tội này
Thì không đọa đường ác.
Lại nữa, này trưởng giả! Phiền não, tùy phiền não, các nhơ bẩn tạp nhiễm tích tập thế gian, khổ này rất lớn. Tạp nhiễm có mười:
1. Nhơ bẩn keo kiệt tạp nhiễm.
2. Nhơ bẩn phá giới tạp nhiễm.
3. Nhơ bẩn sân nhuế tạp nhiễm.
4. Nhơ bẩn biếng nhác tạp nhiễm.
5. Nhơ bẩn tán loạn tạp nhiễm.
6. Nhơ bẩn ác tuệ tạp nhiễm.
7. Nhơ bẩn vô văn tạp nhiễm.
8. Nhơ bẩn si hoặc tạp nhiễm.
9. Nhơ bẩn không tin hiểu tạp nhiễm.
10. Nhơ bẩn không tôn trọng tạp nhiễm.
Mười thứ nhơ bẩn tạp nhiễm như vậy tích tập ở thế gian. Ta thấy vậy rồi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh an trụ pháp vô nhiễm, cho nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Pháp thế gian liên tục
Mười tạp nhiễm bức bách
Đắm tạp nhiễm hữu vi
Tạm thời không mệt mỏi
Các kẻ ngu dị sinh
Bị nhơ bẩn tham nhiễm
Giới học nhiếp chúng sinh
Nhưng lại hủy giới ấy
Kẻ ngu trái nhẫn nhục
Biếng nhác ít siêng năng
Tâm không thể an định
Ác tuệ thêm đần độn
Xa lìa cả cha mẹ
Tôn trưởng và thầy tổ
Không thấy được ánh sáng
Ác tuệ khởi niệm si
Phật nói pháp thậm thâm
Mà lại sinh hủy báng
Bị si ám che lấp
Không tôn trọng Thánh pháp
Thấy pháp tạp nhiễm rồi
Không còn đắm hữu vi
Không nhiễm ô vô vi
Khiến chúng sinh vắng lặng.
Lại nữa, này trưởng giả! Sợ hãi sinh tử tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn. Nó có mười loại:
1. Xan tham tật đố, che lấp trói buộc, khổ này rất lớn.
2. Pháp phần vô minh luôn luôn vây quanh, khổ này rất lớn.
3. Biển dục lan tràn, khổ này rất lớn.
4. Trong cái dục ấy, khổ sở gian nan tan hoại, khổ này rất lớn.
5. Thân ái trói buộc, tên dục bắn vào, khổ này rất lớn.
6. Khói trần phẫn hận bay mù mịt phát ra lửa dữ, khổ này rất lớn.
7. Lửa tham thiêu đốt, khổ này rất lớn.
8. Sân độc che lấp, khổ này rất lớn.
9. Si chướng như gai nhọn, khổ này rất lớn.
10. Đồng hoang sinh tử, hiểm nạn ghê sợ, luôn theo đuổi trói buộc, khổ này rất lớn.
Ta thấy được mười thứ khổ này rồi, muốn khiến chúng sinh trừ đoạn, cho nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm lược nghĩa trên bằng kệ rằng:
Sinh, trẻ, già luôn luôn theo đuổi
Sắc tướng hoại là phi sắc tướng
Không niệm không tuệ làm tổn giảm
Pháp này hay hoại tướng thế gian
Bệnh làm giảm mất cả sắc lực
Cướp đi sức mạnh của tinh tấn
Lại còn tổn giảm nơi các căn
Sức lực kém dần nương vào đâu
Sợ chết cũng như La-sát rống
Luôn luôn theo đuổi loài quần sinh
Thời đến mạng hết tâm không yên
Hoại diệt thế gian các thọ mạng
Pháp già, bệnh, chết rất mãnh liệt
Nhiễu loạn các chúng sinh thế gian
Không già, không chết môn an lạc
Ta xuất gia vì siêng cần cầu
Ba lửa thiêu đốt khắp thế gian
Không thấy ai cứu hộ thế gian
Ta khởi lên tâm cứu thế gian
Nguyện rưới cam lồ dập lửa dữ
Chánh đạo thế gian bị phá hoại
Tối tăm mờ mịt lại si ám
Nguyện khai mắt sáng cho chúng sinh
Xuất gia làm sáng lên chánh đạo
Chúng sinh khởi lên tâm si hoặc
Nên bị các chướng nó che lấp
Ta nguyện dứt trừ tâm ác tác
Nên xuất gia rồi nói chánh pháp
Chúng sinh khởi lên chống trái nhau
Tìm cầu lỗi lầm mà đoạn hoại
Nên ta xuất gia lợi thế gian
Nguyện hết chúng sinh dứt sân nhuế
Thế gian cha mẹ rất thân yêu
Chúng sinh mạn tâm không tôn trọng
Muốn khiến bẻ gãy cờ ngã mạn
Nên ta xuất gia vì cứu hộ
Ta thấy chúng sinh tham che lấp
Bởi do của cải nên đọa lạc
Nếu ai hộ trì bảy Thánh tài
Sẽ làm thế gian lìa nghèo khổ
Chúng sinh nổi lên hại lẫn nhau
Vì vô nghĩa lợi nuôi riêng mình
Nhất định phá hoại chính tự thân
Vì thế ta khiến lìa ba cõi
Kẻ ngu không rõ việc nghĩa lợi
Như vậy khắp cả trong ba cõi
Ta muốn lợi ích nên xuất gia
Chỉ cho thế gian pháp chính nghĩa
Chúng sinh chìm đắm trong địa ngục
Thấy chúng chịu khổ não vô cùng
Đủ mọi ác độc không kể hết
Ta xuất gia khiến chúng giải thoát
Chúng sinh nổi lên giết hại nhau
Cứ xoay tròn mãi trong súc sinh
Ta khởi Bi nguyện nên xuất gia
Làm chỗ nương tựa cho chúng sinh
Ta thấy chúng sinh thân ngạ quỷ
Chịu nổi đói khát rất cực khổ
Ta chứng Vô thượng đại Bồ-đề
Thí món cam lồ rất tối thượng
Con người tìm cầu là khổ lớn
Chư Thiên phước hết khổ càng tăng
Biết rõ cực khổ trong ba cõi
Nên ta xuất gia vì cứu vớt
Thế gian có kẻ không tàm quý
Vì muốn mê loạn chúng sinh ác
Không kể quyến thuộc và tôn thân
Muốn ăn nuốt nhau như heo chó
Đắm dục trói buộc vào nữ sắc
Ta thấy chúng sinh bị trói buộc
Khởi không nghĩa lợi tâm kiêu mạn
Nên ta xuất gia vì cứu hộ
Chúng sinh phá hoại không tự tại
Sợ hãi chết đến không giải thoát
Ta xuất gia rồi chứng Bồ-đề
Đều khiến giác ngộ được tự tại
Cư sĩ tại gia không nghĩa lợi
Ta thấy trăm ngàn thứ lỗi lầm
Ta nay muốn chuyển các cõi này
Thảy đều xa lìa nguồn sinh tử.
Lúc đó, Hiền Hộ cùng với năm trăm trưởng giả, nghe Đức Phật dạy thế, đều phát tâm hy hữu, đồng nói như vầy:
– Giác ngộ của Phật thật to lớn, chúng con nay mới biết Ngài là Bậc Chân Giác.
Các trưởng giả đồng thanh nói kệ rằng:
Chúng con gồm năm trăm trưởng giả
Vì sợ già nên đến theo Phật
Xin Phật tuyên nói pháp Vô thượng
Xa lìa nguồn khổ của sinh tử
Thế Tôn viên tịch tướng thanh tịnh
Đã lìa ba cõi được giải thoát
Cứu độ ba cõi môn thành hoại
Lìa nhà ba cõi được tự tại
Lìa tham giải thoát không sợ gì
Lìa trần vô cấu tâm thanh tịnh
Vô thượng thiện điều Đại Đạo Sư
Khai sáng pháp cam lồ vô thượng
Trượng phu vô thượng tướng tối thắng
Trời người thế gian không ai bằng
Bậc Vô Đẳng Đẳng Thế Gian Tôn
Diễn pháp đại Bi thật tối thượng
Dứt các lỗi lầm đoạn ba cấu
Mắt hết tối tăm được thanh tịnh
Cắt đứt lưới si trần ám độn
Tuyên nói pháp ly trần vô biên
Thương xót thế gian không chỗ nương
Cứu vớt người trôi nổi ba cõi
Trong Bi tâm khởi tâm đại Bi
Mau chóng ra khỏi khéo an trụ
Biển sinh tử si ác kiêu mạn
Bệnh khổ làm hại như nước chảy
Chúng sinh chìm đắm không ai cứu
Phật vì thương xót mà cứu độ
Thân Phật thanh tịnh như núi vàng
Đầy đủ trăm tướng sáng rạng ngời
Cam lồ tối thượng đại phạm âm
Lời Ngài diệu bảo nói thắng pháp
Tự tánh các pháp đều thanh tịnh
Xưa nay trong sáng cũng như thế
Không làm, không nhận cũng không mất
Vì kẻ vô văn khéo khai thị
Danh tiếng vô biên làm các thiện
Mười lực vô úy trí tự nhiên
Ý bằng hư không trí vô biên
Khéo nói pháp thệ nguyện Sa-môn.
Lúc đó, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Năm trăm trưởng giả này thiện căn đã thành thục, vậy nay ta sẽ nói chánh pháp cho họ, làm cho Cư sĩ nơi đây đều trở thành xuất gia, hết các hữu lậu, chứng thành Thánh quả”.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ngồi kiết già trên hư không, đồng thời năm trăm trưởng giả sinh tâm ngưỡng mộ sâu xa, phát lòng tin thanh tịnh tôn trọng, cúng dường các món, thân cận Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn bảo năm trăm trưởng giả:
– Này các trưởng giả! Thế gian có các nạn sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não, sầu than, luân hồi. Vậy các ông có muốn giải thoát các pháp nhiễu loạn đó không?
Lại nữa, thế gian đã làm, đang làm và sẽ làm, ái hay không phải ái, khởi lên việc vô nghĩa, mười việc tổn hại. Như vậy các ông có muốn cầu giải thoát không?
Lại nữa, thế gian trong các kiến có các hiểm ác kiến là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, đoạn, thường, vô tác, vô nhân, bất bình và tà kiến. Các ông có muốn cầu giải thoát khỏi mười thứ hiểm ác kiến đó không?
Lại nữa, thế gian có mười mũi tên bệnh nặng là ái, vô minh, dục, tham, sân, si, mạn, kiến và thành hoại. Vậy các ông có muốn cầu giải thoát khỏi mười mũi tên bệnh nặng đó không?
Lại nữa, thế gian pháp ái căn bản do ái cho nên tìm cầu; tìm cầu cho nên tham; do tham cho nên có ngã kiến; do ngã kiến cho nên quyết định; do quyết định cho nên tham dục; do tham dục cho nên chấp trước; do chấp trước cho nên xan lận; do xan lận cho nên chấp thủ; do chấp thủ cho nên không phòng hộ; do không phòng hộ nên sinh khổ. Vậy các ông có muốn cầu giải thoát mười pháp căn bản ái đó không?
Lại nữa, thế gian có pháp tụ tà định là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định, tà giải thoát và tà trí. Vậy các ông có muốn giải thoát khỏi mười pháp tà định đó không?
Lại nữa, này trưởng giả! Thế gian có mười nghiệp bất thiện là sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác, tham lam, sân hận, tà kiến. Vậy các ông có muốn thoát khỏi mười nghiệp bất thiện đó không?
Lại nữa, thế gian có mười pháp tạp nhiễm: xan lận tạp nhiễm; hủy giới tạp nhiễm; sân nhuế tạp nhiễm; biếng nhác tạp nhiễm; tán loạn tạp nhiễm; ác tuệ tạp nhiễm; vô văn tạp nhiễm; nghi hoặc tạp nhiễm; không tin hiểu tạp nhiễm; không tôn trọng tạp nhiễm. Vậy các ông có muốn thoát khỏi mười thứ tạp nhiễm ấy không?
Lại nữa, thế gian có mười thứ sinh tử sợ hãi: xan tham tật đố che lấp; vô minh trói buộc; biển dục thênh thang; ở trong dục ấy là khổ nạn; tên dục bắn vào; khói phẩn hận bay mù mịt; lửa tham thiêu đốt; biển sân vùi lấp; si chướng như gai nhọn; đồng hoang sinh tử nguy hiểm sợ hãi. Vậy các ông có muốn thoát khỏi mười thứ sinh tử sợ hãi đó không? Khi Đức Phật vừa hỏi xong, năm trăm trưởng giả đồng thanh bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con đều muốn giải thoát mười thứ nhiễu loạn cho đến mười thứ sinh tử sợ hãi, chúng con đều muốn cầu giải thoát.
Đức Thế Tôn bảo năm trăm trưởng giả:
– Này các trưởng giả! Các ông đều mong cầu giải thoát, nhưng giải thoát ấy cầu từ đâu?
Này các trưởng giả! Mắt không thể giải thoát. Vì sao? Vì mắt vốn không chuyển lại cũng không tạo tác, mắt không suy nghĩ cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, mắt không kiến lập từ ngã.
Này các trưởng giả! Tai, mũi, lưỡi, thân, ý không thể giải thoát. Vì sao? Vì tai, mũi, lưỡi, thân, ý vốn không chuyển cũng lại không tạo tác, ý không suy nghĩ cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, Ý vốn không kiến lập từ ngã.
Sắc không thể giải thoát. Vì sao? Vì sắc không chuyển cũng lại không tạo tác; sắc không suy nghĩ, cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, sắc vốn không kiến lập từ ngã.
Thanh, hương, vị, xúc, pháp không thể giải thoát. Vì sao? Vì pháp không sở chuyển cũng lại không tạo tác; pháp không suy nghĩ cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, pháp vốn không kiến lập từ ngã.
Lại nữa, này trưởng giả! Sắc uẩn không thể giải thoát. Vì sao? Vì sắc uẩn không chuyển, cũng lại không tạo tác; sắc uẩn không suy nghĩ, cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết sắc uẩn không kiến lập từ ngã.
Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn không thể giải thoát. Vì sao? Vì thức uẩn không chuyển cũng không tạo tác; thức uẩn không suy nghĩ, cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, thức uẩn không kiến lập từ ngã.
Lại nữa, này trưởng giả! Địa giới không thể giải thoát. Vì sao? Vì địa giới không chuyển, lại cũng không tạo tác; địa giới không suy nghĩ, cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, địa giới không kiến lập từ ngã.
Thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể giải thoát. Vì sao? Vì thức giới không chuyển, cũng không tạo tác, thức giới không suy nghĩ, cũng không hiểu biết. Vì thế nên biết, thức giới không kiến lập từ ngã.
Này các trưởng giả! Nên biết, tất cả các pháp đều khởi lên từ hư vọng phân biệt, lệ thuộc vào duyên yếu kém không có sức lực, từ duyên mà chuyển. Nếu có duyên pháp thì các pháp ấy mới có ra, còn duyên pháp nếu không thì các pháp cũng không. Nhưng trong tất cả pháp có ra đó không có một pháp nhỏ nào có thể hiểu biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận. Lại không có một pháp riêng nào là đoạn là thường.
Này các trưởng giả! Vì lý do đó cho nên biết, tất cả các pháp đều từ hư vọng phân biệt mà khởi, trói buộc vào duyên không có sức lực, từ duyên mà chuyển. Nếu duyên có thì các pháp mới có; nếu duyên pháp không thì các pháp cũng không. Nhưng trong tất cả pháp có ra đó, không có một pháp nhỏ nào có thể biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận; lại không có một pháp riêng nào là đoạn là thường. Vì thế các ông nên biết, nếu có phân biệt hư vọng, tác ý không đúng lý thì các pháp có ra; còn nếu không phân biệt hư vọng, tác ý đúng lý thì các pháp không có. Nếu tác ý không đúng lý thì vô minh kia có thể hiện diện; nếu tác ý đúng lý thì vô minh không hiện hữu. Do vô minh có cho nên hành có; vô minh không cho nên hành không. Các hành có, cho nên thức có; các hành không cho nên thức không. Thức có cho nên danh sắc có; thức không cho nên danh sắc không. Danh sắc có, cho nên lục xứ có; danh sắc không cho nên lục xứ không. Lục xứ có, cho nên xúc có; lục xứ không, cho nên xúc không. Xúc pháp có, cho nên thọ có; xúc pháp không, cho nên thọ không. Thọ có, cho nên ái có; thọ không cho nên ái không. Ái có, cho nên thủ có; ái không cho nên thủ không. Thủ có, cho nên hữu có; thủ không, cho nên hữu không. Hữu có, cho nên sinh có, hữu không, cho nên sinh không. Sinh có, cho nên lão tử có; sinh không cho nên lão tử không.
Như vậy cái gì gọi là già? Đó là trạng thái suy biến, ho hen, lụm khụm, đi đứng phải chống gậy, các căn thay đổi, mạng sống giảm dần, hành tướng khô gầy. Đó gọi là già.
Sao gọi là chết? Đến lúc chết, các uẩn tan hoại, thân này chôn vào lòng đất, các bộ phận chi tiết bị biến đổi rả ra. Đó gọi là chết. Đây là tướng già; đây là tướng chết, gọi chung là già chết. Pháp sinh có, cho nên già chết có; pháp sinh không cho nên già chết cũng không.
Sao gọi là sinh? Khi thai nhi được sinh ra khỏi bào thai, năm uẩn hòa hợp, lục xứ đầy đủ, các chi tiết đồng phần lần lượt hợp tập. Đó gọi là sinh. Pháp hữu có, cho nên pháp sinh có; pháp hữu không, cho nên pháp sinh không.
Sao gọi là hữu? Ấy là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. Đó gọi là hữu. Pháp thủ có, cho nên pháp hữu có; pháp thủ không, cho nên pháp hữu không. Sao gọi là thủ? Là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Đó gọi là thủ. Pháp ái có, cho nên thủ có; pháp ái không, cho nên pháp thủ không. Sao gọi là ái? Là sắc ái, tham ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Đó gọi là ái. Pháp thọ có, cho nên ái có; pháp thọ không, cho nên pháp ái cũng không.
Sao gọi là thọ? Là nhãn xúc làm duyên, sinh ra các thọ; Nhĩ xúc làm duyên, sinh ra các thọ; Tỷ xúc làm duyên, sinh ra các thọ; Thiệt xúc làm duyên, sinh ra các thọ; Thân xúc làm duyên, sinh ra các thọ; Ý xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Đó gọi là thọ. Pháp xúc có cho nên pháp thọ có; pháp xúc không, cho nên pháp thọ cũng không.
Sao gọi là xúc? Là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Đó gọi là xúc. Lục xứ có, cho nên xúc có; lục xứ không cho nên xúc pháp cũng không.
Sao gọi là lục xứ? Là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Đó gọi là lục xứ. Danh sắc có, cho nên lục xứ có; danh sắc không cho nên lục xứ không.
Sao gọi là danh sắc? Là thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là danh. Thọ xúc tác ý với bốn đại, bốn đại sở tạo gọi là sắc, nói chung lại là danh sắc. Thức pháp có, cho nên danh sắc có; thức pháp không, cho nên danh sắc không.
Sao gọi là thức? Là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Đó gọi là thức. Hành pháp có, cho nên thức có; hành pháp không, cho nên thức pháp không.
Sao gọi là hành? Là sắc biến tư, thanh biến tư, hương biến tư, vị biến tư, xúc biến tư, pháp biến tư. Đó gọi là hành. Vô minh có, cho nên hành có; vô minh không, cho nên hành không.
Sao gọi là vô minh? Không biết đời trước; không biết đời sau; không biết đời trước sau; không biết trong; không biết ngoài; không biết giữa; không biết bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không biết duyên; không biết trong pháp duyên sinh hoặc hắc hoặc bạch; không biết duyên cùng với không phải duyên; không biết đối ngại hay không phải đối ngại; không biết có tội, không tội, không biết chỗ ứng thân gần; không biết thân gần; đối với các pháp không biết không thấy; không có khả năng giác liễu Tam-muội hiện tiền. Đó gọi là vô minh. Vì có tác ý không đúng lý, cho nên có vô minh; không có tác ý không như lý cho nên không có vô minh.
Sao gọi là tác ý không đúng lý? Nghĩa là ta ở đời trước là có hay là không? Ta ở đời trước đã quá khứ hay chưa quá khứ? Ta ở đời trước thuộc vào loài nào? Ta ở đời vị lai là có hay là không? Đời vị lai sẽ ở nơi đâu? Đời vị lai ta thuộc loài nào? Trong nội pháp, cái gì gọi là có ngã, không ngã? Lại sinh nghi hoặc là có hay là không? Cái gì sinh? Cái gì không sinh? Nếu có sinh thì thuộc loài nào? Do tác ý không đúng lý như vậy, cho nên đối với sáu kiến và các kiến khác mà khởi lên. Từ đó khởi lên kiến chấp có ngã, kiến chấp không ngã. Đối với ngã, ngã sở không có khả năng quán đúng lý bình đẳng. Do không quán đúng lý bình đẳng, cho nên mới có sinh khởi các kiến như vậy. Thế nên, có ngã, có thế gian thì là có duyên pháp. Duyên pháp ấy không thường, không sức lực, không chắc chắn, cuối cùng biến hoại. Trong pháp rốt ráo chấp là chánh trụ và chánh an lập. Khi kiến chấp này thành rồi thì gọi là tác ý không đúng lý. Do phân biệt hư vọng mà có, cho nên có tác ý không đúng lý.
Sao gọi là phân biệt hư vọng? Nghĩa là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, Bổ-đặc-già-la, nho đồng ý sinh, tác giả, thọ giả. Đây gọi là người hư vọng ngu si dị sinh, vô văn, đối với ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả... lại sinh chấp trước. Đây gọi là phân biệt, nói chung là hư vọng phân biệt. Do có hư vọng phân biệt cho nên có tác ý không đúng lý. Phân biệt hư vọng không, nên tác ý không đúng lý cũng không. Do có hư vọng phân biệt và tác ý không đúng lý, cho nên có vô minh. Nếu cả hai pháp này không thì vô minh cũng không. Do vô minh có cho nên các hành mới có; vô minh không thì các hành cũng không. Nói tóm lại, do sinh pháp có cho nên lão tử mới có, do sinh pháp không nên lão tử cũng không.
Này các trưởng giả! Nên biết, tất cả các pháp đều là phân biệt hư vọng, khởi lên rồi trói buộc vào duyên. Các duyên pháp ấy không thường, không sức lực, không chắc chắn, từ duyên chuyển. Do duyên pháp có, cho nên các pháp mới có; do duyên pháp không nên các pháp cũng không. Nhưng đối với các pháp có đó không có một pháp nhỏ nào có thể hiểu biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận; cũng không có một pháp riêng nào là thường là đoạn.
Này các trưởng giả! Ví như trong ao lớn nước chảy, có các loại trùng cá sinh sống, ý các ông nghĩ sao? Các loài trùng cá ấy, nương vào sức nào?
Các trưởng giả bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Các loài ấy nương vào sức nước.
Đức Phật hỏi:
– Này các trưởng giả! Các ông nghĩ sao? Nước thật có sức không?
Các trưởng giả bạch Phật:
– Không có, thưa Thế Tôn! Không có, thưa Thiện Thệ!
Đức Phật hỏi các trưởng giả:
– Này các trưởng giả! Nước không có suy nghĩ thì làm gì có sức?
Các trưởng giả bạch Phật:
– Không có sức, thưa Thế Tôn! Không có sức, thưa Thiện Thệ!
Đức Phật bảo các trưởng giả:
Này các trưởng giả! Hư vọng phân biệt khởi lên các pháp cũng như vậy, không có sức lực, không chắc chắn từ duyên chuyển. Do duyên pháp có, cho nên các pháp mới có; nếu duyên pháp không, thì các pháp cũng không. Nhưng đối với các pháp có đó không một pháp nhỏ nào có thể hiểu biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận; lại không có một pháp riêng nào là thường là đoạn.
Này các trưởng giả! Nếu suy xét tìm cầu duyên pháp ấy đúng như lý thì thật không thể tin, không thể nào tin, từ đó sinh ra sợ hãi. Do sợ hãi nên dong ruổi bốn phương. Nếu tìm cầu suy xét như lý chắc chắn, thì cái gì là pháp này, cái gì là pháp kia. Khi quán sát được như vậy rồi thì không còn sợ hãi hay dong ruổi nữa. Lại một khi quán sát đúng như lý thì không thấy có một pháp. Do không có pháp nên không dong ruổi. Vì sao? Vì tất cả pháp không có sở đắc, tất cả tâm ý cũng không sở đắc.
Lại nữa, này các trưởng giả! Tất cả pháp vô ngã là vì lìa trần cấu; tất cả pháp không chúng sinh là vì lìa ngã; tất cả pháp không có thọ giả, là vì vượt khỏi tất cả pháp sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não, sầu than. Tất cả pháp không nhân là vì đoạn ba đời; tất cả pháp không có văn tự, vì lìa tất cả âm thanh ngôn ngữ; tất cả pháp xưa nay không có mảy trần, vì không có sở duyên; tất cả pháp vắng lặng là vì tướng cận tịch; tất cả pháp thông đạt nhất thiết xứ là vì tự tánh như hư không; tất cả pháp nương vào không là vì không quyết định đối hiện; tất cả pháp không lay động là vì không nương tựa; tất cả pháp an trụ thật tế là vì tương ưng với không động không trụ; tất cả pháp không ngôn thuyết là vì lìa sóng ngôn ngữ; tất cả pháp là không sắc tướng là vì lìa hình bóng, hiển sắc và đối ngại sở hành; tất cả pháp là vô đẳng là vì lìa ngã tướng; tất cả pháp không chỗ hiểu biết là vì lìa tâm ý thức; tất cả pháp không hàm tàng vì vượt khỏi cảnh giới của mắt; tất cả pháp không thể tin, vì vượt khỏi cảnh giới tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Đức Phật bảo:
– Này các trưởng giả! Tất cả các pháp không quán, không phải không quán. Vì sao? Vì lìa sinh, trụ, diệt. Tất cả pháp không chuyển không tạo tác, vì là lìa tâm ý thức. Tất cả pháp trói buộc vào duyên, là vì tự tánh không sức lực.
Lại nữa, này các trưởng giả! Mắt là do bốn đại tạo thành, không thường, không có sức mạnh, lại không rốt ráo, là pháp không chắc chắn, không sức lực, là pháp mau chóng mục nát, cho nên không thể tin, nhiều khổ não, tập hợp nhiều thứ bệnh tật. Thế nên, này các trưởng giả! Ý không có nương tựa, cũng không tạo tác; tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Do bốn đại tạo thành không thường, không sức lực, nên không rốt ráo, không chắc chắn, không sức lực; là pháp mau chóng mục nát, cho nên không thể tin, nhiều khổ não tập hợp, nhiều bệnh tật. Thế nên, này các trưởng giả! Ý không có nương tựa cũng không tạo tác.
Này các trưởng giả! Các pháp này nên học như vậy: Mắt này như bọt nước, không có bền chắc; mắt như bong bóng nước không có lâu dài; mắt như sóng nắng, sinh từ nghiệp phiền não khát ái; mắt như cây chuối, tự thể không thật; mắt như huyễn hóa, khởi từ điên đảo; mắt như giấc mộng, thấy từ hư vọng; mắt như tiếng vang, bị trói buộc vào duyên; mắt như hình bóng, do nghiệp đối hiện; mắt như mây nổi, tan trong chốc lát; mắt như điện chớp, biến diệt trong khoảnh khắc; mắt này không chủ, cũng như đất; mắt này vô ngã, cũng như nước; mắt này không chúng sinh, cũng như lửa; mắt này không thọ, cũng như gió; mắt này không nhân, cũng như hư không; mắt này không thật, bốn đại là nhà; mắt này là tánh không, lìa ngã và ngã sở; mắt này vô tri, như cỏ, cây, ngói, đá; mắt này không tạo tác, bị sức gió chuyển động; mắt này là không, đầy dẫy bất tịnh; mắt này hư ngụy, tuy được lau rửa trang sức, nhưng rốt cuộc cũng bị tan hoại; mắt này như gò, như giếng, bị già bức bách; mắt này rốt ráo không biên tế, sau đều quy về chỗ chết.
Này các trưởng giả! Các ông nên biết, mắt đã như vậy, nên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Nói tóm lại, nên biết tất cả pháp cũng như vậy. Các kẻ ngu dị sinh, đối với tất cả pháp dục liền sinh chấp trước; khiến mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đắm trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Lại nữa, đối với sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, chúng sinh do đắm trước vào các pháp này, cho đến đắm trước vào danh tướng hữu vi, vô vi. Thế nên, này các trưởng giả! Các ông chớ sinh ái trước vào các pháp dục ấy, chớ sinh tham đắm chấp trước vào vợ con, nhà cửa, tiền tài, châu báu mà phải phát lòng tin thanh tịnh xuất gia. Khi đã xuất gia rồi thì không còn sinh dục lạc nữa. Do không còn dục lạc đó, cho nên được đầy đủ tịnh giới, tu trì ba la đề mộc xoa thanh tịnh, viên mãn tất cả các phép tắc oai nghi, cho đến tội nhỏ cũng phải sợ.
Này các trưởng giả! Nếu học như vậy thì sẽ được đầy đủ giới uẩn. Khi được đầy đủ giới uẩn rồi thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nữa.
Không chấp vào sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn; không chấp vào nhãn giới, thức giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới.
Không chấp vào địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, không giới, thức giới. Nói tóm lại, không chấp vào tất cả các pháp. Do không chấp trước cho nên không bị giảm mất. Pháp nào không bị giảm mất? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không bị giảm mất. Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn không giảm mất. Nhãn giới, thức giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới không giảm mất. Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới không bị giảm mất.
Nếu các pháp này không giảm mất thì không có nhiễm ô. Do không nhiễm ô, cho nên mau chóng được khinh an. Pháp nào là khinh an? Là không sở kiến. Nếu không sở kiến thì hướng đến tất cả, không có một pháp nhỏ nào làm chướng ngại. Nếu không chướng ngại thì không hại chính mình, không hại người khác, không hại mình và người. Do không hại cho nên tâm không bị hoại. Vì thế nên có khả năng nhập vào vô dư y thanh tịnh Niếtbàn.
Lại nữa, này các trưởng giả! Nói nhập, vậy nhập vào cái gì? Là không phải mắt sở nhập, không phải tai, mũi, lưỡi, thân, ý sở nhập.
Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu chấp rằng mắt thành từ duyên, thì là chấp vào ngã và ngã sở. Do vậy lìa xa Niết-bàn.
Sao gọi là lìa xa Niết-bàn? Vì tham cho nên lìa xa Niết-bàn; vì sân cho nên lìa xa Niết-bàn; vì si cho nên lìa xa Niết-bàn; vì Vô trí cho nên lìa xa Niết-bàn.
Này các trưởng giả! Người vô trí không lìa quá khứ, không lìa vị lai, không lìa hiện tại, vô trí quyết định lìa trí sở sinh.
Sao gọi là trí? Là vô tận trí. Sao gọi là tận trí? Là quá khứ vô tận trí, vị lai vô tận trí, hiện tại vô tận trí, duyên pháp vô trí lìa trí sở sinh. Vô trí lìa trí ấy tức là mắt từ duyên lìa trí sở sinh, nên mắt là vô ngã. Nếu vô ngã thì không có chấp thủ. Nếu không chấp thủ thì là không xả. Nếu không xả thì là giải thoát.
Sao gọi là giải thoát? Là giải thoát ngã chấp, giải thoát chúng sinh chấp, giải thoát thọ giả chấp, giải thoát nhân chấp, giải thoát đoạn, thường chấp, giải thoát tất cả chấp, giải thoát phân biệt chấp. Khi đã không còn phân biệt thì không còn năng phân biệt và sở phân biệt. Pháp không phân biệt cũng không lìa phân biệt.
Sao gọi là không phân biệt? Là không còn phân biệt ngã và ngã sở. Nếu không còn phân biệt ngã thì không còn lấy bỏ. Nếu không còn lấy bỏ thì là nhập vào giải thoát, lìa pháp, lìa trói buộc, hoặc pháp không phải lìa trói buộc, cả hai đều được xuất ly.
Sao gọi là lìa? Là lìa tất cả khổ.
Này các trưởng giả! Các ông nên cầu pháp xuất ly như vậy. Nhưng đối với pháp ấy không có pháp nào có thể chấp thủ. Vì sao? Vì còn chấp thủ thì còn sinh sợ hãi.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên bèn lập lại kệ rằng:
Nếu còn chấp pháp thì còn sợ
Do sợ nên đọa vào đường ác
Nếu thấy nhân sợ hãi như vậy
Do biết pháp có nên chấp thủ
Nếu đúng như lý quán chánh đạo
Ánh sáng trí tuệ phá tối tăm
Do thấy được trí tuệ thù thắng
Nên biết dị tánh không thể được
Phải nên quán kỹ các không xứ
Vận động hư giả lại không thật
Trong đó chớ chấp môn an lạc
Thế gian hư cuồng vì khát ái
Biết rõ như thật đối pháp không
Biết các pháp không đều không thật
Ta được an lạc lìa khổ não
Cũng được không động vui tối thượng
Nếu hay hiểu rõ đúng như vậy
Thì biết tất cả pháp đều không
Do vậy thoát khỏi các nhân khổ
Tranh cãi từ đâu mà xảy ra
Bởi do dục vọng sinh chấp trước
Vì chấp nên sinh các phiền não
Chấp đó chính là tên của thủ
Do thủ cho nên sinh ba hữu
Vì hữu có sinh nên luân chuyển
Chấm dứt ba hữu tức không sinh
Pháp già, bệnh, chết cũng không có
Rốt ráo không thọ khổ vô thường
Nên biết không dục thì không thủ
Do không thủ nên không ba hữu
Nếu như hữu dứt tức không sinh
Khổ, già, bệnh, chết đều không thọ
Thế nên, này trưởng giả các ông
Đồng phát xả ly tâm chấp trước
Bỏ các quyến thuộc nhân thương yêu
Mau chóng thành tựu tướng Bí-sô
Biết rằng tài lợi các mong muốn
Phải cần sinh tâm biết vừa đủ
Tùy chỗ khiêm cung khởi hạ tâm
Hướng đến mọi người tăng thiện lợi
Chớ khởi ý chấp ta giữ giới
Chớ xem người là kẻ phá giới
Đối với giới tướng trì phạm ấy
Chớ khinh chê người là phạm giới
Ví như nai rừng bị mắc bẩy
Nên biết chính nó tự tổn hại
Quỷ trói buộc tâm hại cũng thế
Hủy người, bị hại cũng như vậy
Người ngu sinh các ý tổn hại
Khen mình chê người tội rất lớn
Người phá giới còn không hủy báng
Huống là người trì giới phạm hạnh
Người học trên chúng đủ dũng trí
Thường tu hạnh tịch tĩnh viễn ly
Lìa bỏ thân mạng không luyến tiếc
Cần cầu pháp giải thoát tịch tĩnh
Các kẻ ngoại đạo và điển chương
Căn bản không lợi đều xa lìa
Ham thích chánh pháp rất thậm thâm
Tuyên nói pháp ấy lý chơn không
Nếu biết tâm căn bản xứ này
Đó là trong ngoài mười hai xứ
Từ đó sinh khởi các nghiệp nhân
Nghiệp xứ cửu trụ gọi tư pháp
Nhãn căn, sắc cảnh hai thứ duyên
Nhãn thức sinh duyên là ba việc
Nếu không hòa hợp thì phá tan
Như không củi, lửa nghĩa như vậy
Như vậy chỗ sinh tất cả pháp
Hòa hợp lẫn nhau nên có sinh
Người tạo, người nhận thảy đều không
Chánh đạo thường hiện các tạo tác
Các pháp trong ngoài được thành thân
Trong đó nên biết pháp ngã không
Người ngu điên đảo tâm chấp trước
Đối ngã, ngã sở không biết gì
Trong mắt không pháp mà lại có
Bên ngoài cũng lại không sở đắc
Vô ngã, vô tác, vô thọ giả
Nên biết các pháp cũng như vậy
Không mắt, biến tư, dục giải thoát
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy
Sắc không chuyển vào không tạo tác
Nên quán các pháp cũng như vậy
Như nước biển cả nổi cơn sóng
Tạm nổi bọt nước nhưng không thật
Hãy quán kỹ mắt cũng như thế
Không chắc, không lực, như bọt nước
Tự tánh năm uẩn giả hòa hợp
Như bọt nước kia không chắc chắn
Giải thoát tất cả các phiền não
Và sinh, già cùng các ưu não
Ta dạy các ông xuất gia rồi
Hiểu rõ tất cả pháp như huyễn
Không có lừa gạt tâm tín thí
Lại hay cúng khắp mười phương Phật.
Nghe Đức Phật nói chánh pháp thậm thâm, năm trăm trưởng giả được Pháp nhãn tịnh, xa lìa trần cấu ngay ở giữa đường. Ví như áo trắng dễ dính các màu khác, năm trăm trưởng giả này, ở nơi đây xa lìa trần cấu được Pháp nhãn tịnh cũng lại như vậy.
Lúc đó, Đức Thế Tôn lại vì năm trăm trưởng giả tuyên nói pháp yếu, chỉ dạy làm cho lợi ích an vui. Đức Phật dạy:
– Này các trưởng giả! Mắt rất hừng hẫy. Sao gọi là hừng hẫy? Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy; lửa sinh già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý hừng hẫy cũng vậy. Sao gọi là hừng hẫy? Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy, lửa sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.
Sắc trần hừng hẫy. Sao gọi là hừng hẫy? Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Các loại lửa thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng lại như vậy.
Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn hừng hẫy. Sao gọi là hừng hẫy? Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Các loại lửa thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hừng hẫy cũng lại như vậy. Nghĩa của mười tám giới pháp cũng thế.
Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới hừng hẫy, lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới hừng hẫy cũng lại như vậy. Lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy cũng vậy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.
Lại nữa, này các trưởng giả! Mắt không chấp thủ, nên học như vậy. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng không chấp thủ. Sắc không chấp thủ; thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không chấp thủ. Phải nên học như vậy.
Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn không chấp thủ. Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và mười tám giới đều không chấp thủ. Phải nên học như vậy.
Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới không chấp thủ. Thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng không chấp thủ. Phải nên học như vậy.
Lại nữa, này các trưởng giả! Giới này không chấp thủ, giới kia không chấp thủ. Phải nên học như vậy.
Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không chấp thủ, thì không có nương tựa. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không chấp thủ, cho nên đối với các xứ không có nương tựa.
Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và mười tám giới không chấp thủ, cho nên đối với uẩn giới ấy không có nương tựa.
Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, vốn không chấp thủ, cho nên đối với sáu giới không có nương tựa.
Lại nữa, này các trưởng giả! Giới này, giới kia không chấp thủ, cho nên đối với tất cả thế giới không có nương tựa.
Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu tất cả pháp không chấp thủ, thì đối với tất cả pháp không có nương tựa.
Này các trưởng giả! Tất cả pháp không sở đắc, cũng không phải không sở đắc. Nếu có khả năng hiểu rõ không sở đắc, không phải không sở đắc thì có khả năng giải thoát sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ, não. Ta nói pháp này là giải thoát các khổ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:
Các thế gian này rất hừng hẫy
Hai lửa sinh tử đốt rụi sạch
Kẻ ngu nhiễu não không ai cứu
Đạo pháp Thánh Tôn thường bất diệt
Pháp nào làm ánh sáng thế gian
Có Phật Như Lai nay xuất hiện
Sát-na khéo quán môn chánh đạo
Phát khởi tinh tấn thường kiên cố
Thường quán các pháp không nương tựa
Ánh sáng trí tuệ phá tối tăm
Do thấy nên được tuệ thù thắng
Nên biết dị tánh không thể được
Nếu hay quán sát không nương tựa
Biết rõ tất cả pháp đều không
Biết rõ pháp môn không như vậy
Tâm Bồ-đề không, không sở hữu
Nên biết các pháp tham, sân, si
Ba ngọn lửa này rất mãnh liệt
Đốt sạch thọ mạng cả thế gian
Thùy miên ngủ mãi ngu không biết
Tất cả sinh già và bệnh, chết
Lo buồn khổ não luôn bức bách
Nên biết nhiễu não các thế gian
Tất cả pháp ấy không nương tựa.
Nghe Đức Thế Tôn nói chánh pháp như vậy, năm trăm trưởng giả tâm ý được sáng ra, liền bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con quyết được thiện lợi, đối với pháp Phật phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, lại ở ngay chỗ Phật đầy đủ tịnh giới.
Khi ấy, Đức Phật khen:
– Lành thay, các Bí-sô!
Đức Phật vừa khen xong, râu tóc của các trưởng giả liền rụng, thân mặc ca-sa, thành tướng Bí-sô.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Các ông thọ trì y ca-sa
Râu tóc tự rụng đều thanh tịnh
Tay cầm bình bát tướng tròn đầy
Tất cả đều thành A-la-hán
Đã chứng quả rồi nương Pháp sư
Đều nói Ốt-đà-nam thanh tịnh
Ở trước hàng trời, người đại chúng
Viên mãn thanh tịnh tướng Bí-sô
Thuở xưa từng ở chỗ chư Phật
Đều tu hạnh bố thí rộng lớn
Một lời lành thay sinh hoan hỷ
Mọi nơi đều tu các thiện pháp
Nay được thấy ta xuất thế gian
Phát tâm thanh tịnh càng tối thắng
Do tâm thanh tịnh tối thắng ấy
Nên được nghe pháp tịnh tối thượng
Nghe Phật dạy rồi chứng Thánh quả
Xa lìa ngã kiến các chấp trước
Hiện tiền pháp không, ngộ viên thành
Đời này đã hết đều giải thoát.
Khi hóa độ năm trăm trưởng giả ở giữa đường xong, ngay nơi ấy, Đức Thế Tôn an nhiên suy xét rồi mới vào đại thành Vương xá.
Lúc đó, các Hiền thánh trong đại thành Vương xá có đại Dạ-xoa tên là Vô Bố nghĩ như vầy: “Gặp Đức Thế Tôn rất là khó, nay ta nên đem các món ăn ngon dâng cúng Thế Tôn”. Nghĩ thế rồi, Dạ-xoa Vô Bố đem thức ăn sắc, hương, vị, xúc thanh tịnh đầy đủ dâng cúng Thế Tôn.
Vì lòng thương xót Dạ-xoa Vô Bố, nên Đức Thế Tôn nhận sự cúng dường ấy. Khi Đức Thế Tôn thọ trai xong, tức thời trong hư không có sáu vạn tám ngàn các chúng Dạ-xoa tán thán: “Hay thay, hay thay!” Tiếng tán thán tùy hỷ ấy vang khắp cả hư không giới.
Lúc đó, Dạ-xoa Vô Bố bảo các Dạ-xoa trong chúng hội mình rằng:
– Ta đã đem các món ăn ngon thượng diệu dâng cúng Đức Thế Tôn rồi, vậy nay các ông nên dâng cúng thức ăn thanh tịnh lên chúng Bí-sô. Nhờ công đức cúng dường ấy, trong nhiều kiếp các ông sẽ được lợi ích an lạc.
Nghe Dạ-xoa Vô Bố nói thế, các chúng Dạ-xoa đều dâng cúng các món ăn ngon lên chúng Bí-sô.
Vì lòng thương xót chúng Dạ-xoa, nên chúng Bí-sô liền thọ nhận các món ăn ấy.
Sau khi Đức Thế Tôn và chúng Bí-sô thọ trai xong, lần lượt đi vào đại thành Vương xá. Đồng thời có vô số Thiên chúng chư Thiên, vô số chúng Long vương, vô số chúng Càn-thát-bà, chúng Atu-la, chúng Ca-lâu-la, chúng Khẩn-na-la, chúng Ma-hầu-la-già, chúng nhân, chúng phi nhân và vô số trăm ngàn vạn ức chúng sinh vây quanh đi theo Đức Thế Tôn.
Khi chưa đến đại thành Vương xá, Đức Thế Tôn trước đến một chỗ rộng lớn, trải tòa thù thắng vi diệu, rồi ngồi lên tòa ấy.
Lúc đó, Dạ-xoa Vô Bố đem hoa Mạn-đà-la vi diệu của chư Thiên, hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nộtma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca và bột hương Chiên-đàn vi diệu rải lên cúng dường Đức Phật. Hoa rải đó được rải khắp, rải đều và rải tung ra mọi nơi. Rải rồi đứng chấp tay trước Đức Phật.
Biết được thâm tâm của Dạ-xoa Vô Bố và các chúng Dạ-xoa, tức thời Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn thù thắng vi diệu. Pháp thường của chư Phật từ xưa đến nay, hễ phóng ánh sáng là có đầy đủ vô số các loại màu sắc, từ miệng phóng ra xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc. Ánh sáng chiếu khắp vô biên thế giới, che cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ánh sáng ấy, dưới chiếu thấu địa ngục, trên chiếu tận Phạm thế. Ánh sáng chiếu khắp các nơi rồi trở lại nhiễu quanh bên phải Đức Phật bảy vòng, rồi nhập vào đảnh, hoặc nhập vào vai, hoặc nhập vào đầu gối. Pháp thường của chư Phật Thế Tôn từ xưa đến nay, nếu thọ ký chúng sinh ở địa ngục, thì ánh sáng nhập vào hai chân của Phật; nếu thọ ký cho loài bàng sinh, thì ánh sáng nhập vào sau lưng; nếu thọ ký cho loài ngạ quỷ, thì ánh sáng nhập vào phía trước; nếu thọ ký cho loài người, thì ánh sáng nhập vào phía bên trái; nếu thọ ký cho chư thiên, thì ánh sáng nhập vào phía bên phải; nếu thọ ký cho hàng Thanh văn, thì ánh sáng nhập vào đầu gối; nếu thọ ký cho Duyên giác, thì ánh sáng nhập vào vai; nếu chư Phật Thế Tôn thọ ký Chánh đẳng Chánh giác cho hàng Bồ-tát thì ánh sáng nhập vào đỉnh đầu.
Thấy Đức Thế Tôn phóng ánh sáng thanh tịnh rộng lớn, Tôn giả A-nan bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng lên Đức Phật nói kệ rằng:
Hôm nay Thế Tôn vì nhân gì
Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp nơi
Muốn làm lợi ích cho thế gian
Hiện ánh sáng này vì lý gì?
Ai người hôm nay trồng giống Thánh
Nghe nhân Bồ-đề lớn của Phật
Người nào hôm nay được thọ ký
Người nào an trụ quả giải thoát
Đại trí phóng quang chắc có nhân
Vì muốn điều phục hiện ánh sáng
Phóng ra hào quang để khai sáng
Vì sao Thánh Tôn hiện ánh sáng?
Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Có một Dạ-xoa tên Vô Bố
Vì lòng tin Phật cúng thức ăn
Phát tâm thanh tịnh thật tối thắng
Thế nên nay ta hiện ánh sáng
Sau khi Dạ-xoa này mạng chung
Liền được vãng sinh trời Đao-lợi
Khi thọ mạng cõi trời đó hết
Sau sẽ sinh vào Dạ-ma thiên
Dạ-ma diệt rồi sinh Đâu-suất
Vì du dục trần tạo nhiễm nghiệp
Trở lại sinh vào cõi nhân gian
Sẽ được làm vua đủ thần lực
Làm Chuyển luân vương chúa mọi người
Nhiếp bốn đại châu được tự tại
Thọ mạng hết rồi sinh trở lại
Ở trong Phạm thế thọ thắng báo
Trải qua hai mươi câu-chi kiếp
Thường được tất cả sự tín kính
Ở trên cõi trời hay cõi người
Tới lui qua lại hưởng các vui
Về sau xả bỏ ngôi vương vị
Với lòng thanh tịnh tin xuất gia
Đối với Duyên giác diệu Bồ-đề
Đạt được quả rốt ráo như vậy
Đã trải qua ba mươi ngàn đời
Bỏ thân Dạ-xoa ấy vô số
Sau sinh trở lại trời Đao-lợi
Cung kính chư Phật làm Phật sự
Sẽ được diện kiến Phật Di-lặc
Lúc đó Dạ-xoa liền đạt được
Quả A-la-hán chứng viên thành
Cúng dường thanh tịnh Phật đạo sư
Sau mãn một ngàn đời Dạ-xoa
An lập vô thượng đại Bồ-đề
Do đã từng sinh các thiện căn
Vĩnh viễn không còn đọa đường ác
Hoặc lại gặp được ngàn Đức Phật
Tôn trọng cung kính Nhân Trung Tôn
Vì cầu vô thượng đại Bồ-đề
Lợi ích tất cả các chúng sinh
Hoặc hai, ba ngàn đời Dạ-xoa
Dùng tràng hoa dâng lên cúng dường
Vì Phật Bồ-đề nhân tối thượng
Ngàn câu-chi kiếp cúng dường Phật
Thứ đến thanh tịnh quán thân mình
Sau lại tôn kính Phật Bồ-đề
Dạ-xoa có con tên Đại Sơn
Thọ thân Dạ-xoa đủ thần lực
Dạ-xoa Đại Sơn phát tịnh tâm
Con nguyện sẽ thành được quả Phật
Sau thường cung kính Phật Thế Tôn
Dù ở nơi nào phát nguyện lớn
Nay thấy ta rồi khởi cúng dường
Phát sinh tâm Bồ-đề tối thắng
Sẽ dùng vào các căn lành này
Xa lìa ba đường các nẻo ác
Sẽ thấy Phật Thế Tôn Di-lặc
Cúng Phật trăm ngàn bảo cái đẹp
Cúng bảo cái rồi lại tịnh tâm
Cúng Phật trăm ngàn y phục đẹp
Cúng dường rộng lớn như vậy rồi
Sau lại phát tâm cầu xuất gia
Trong năm trăm năm khởi tinh tấn
Thanh tịnh tu trì các phạm hạnh
Vì cầu vô thượng đại Bồ-đề
Lợi ích tất cả các chúng sinh
Nhờ duyên tối thượng như thế đó
Rộng tu bố thí hạnh trì giới
Lượng như hằng hà sa số ấy
Trong bao nhiêu kiếp rộng tu hành
Qua bao nhiêu kiếp ta đã biết
Nói ra những gì ta thấy biết
Sau đó tu hành trải kiếp số
Ngoài ta ra không ai nói được
Như trước đã nói trong thí dụ
Số lượng như là hằng hà sa
Đã thấy vô số Phật Thế Tôn
Và luôn tôn kính chư Phật ấy
Lạ thay, bậc đại trí thắng trí
Tâm rộng lớn không có ai bằng
Rộng tu cúng dường các Đức Phật
Lợi ích chúng sinh số rất nhiều
Sau sẽ thành Phật đại Thánh tôn
Tất cả thế gian không ai bằng
Dạ-xoa Đại Sơn sẽ thành Phật
Hiệu Ngài là Dang Xưng Y Vương
Trải qua bảy mươi câu-chi năm
Khắp vì chúng sinh tuyên chánh pháp
Trong hội Phật Danh Xưng Y Vương
Có hai mươi câu-chi chúng hội
Trong chúng hội ấy đã phát tâm
Tất cả sẽ tu hạnh bố thí
Sau tăng thêm số chúng Bí-sô
Số đủ hai mươi mốt câu-chi
Ở trong đại chúng hội lớn này
Có đủ vô lượng chúng Thanh văn
Các chúng Thanh văn ở hội ấy
Thảy đều hướng đến đại Bồ-đề
Phật ấy lợi ích các chúng sinh
Hóa sự châu viên sẽ nhập diệt
Lúc đó chánh pháp trụ thế gian
Tồn tại mãi trong trăm ngàn năm
Trong năm trăm kiếp được đầy đủ
Có Phật và cả chúng Bí-sô
Sau đó lại trải qua một kiếp
Hoặc là trải qua một ngàn kiếp
Bậc trí xuất hiện độ thế gian
Khiến họ thân cận nơi pháp Phật
Nói về điều thiện ý ham thích
Đa văn kiên cố là tối thượng
Trừ tất cả tâm không kiên cố
Thường luôn bền vững khéo quán sát
Tuyên nói những vị có đa văn
Vị ấy hay tăng trưởng thắng tuệ
Bốn pháp căn bản môn chánh nghĩa
Là chỗ quy hướng của Bồ-tát
Đó là thí, giới, văn và xả
Đối Bồ-tát đạo rất hiền thiện
Tuyên nói Bồ-đề môn chánh đạo
Trong tối thắng thừa càng vô thượng
Đã có tuyên nói đạo Thanh văn
Trừ đoạn lưới nghi được hiền thiện
Rộng làm lợi ích các chúng sinh
Ta phóng ánh sáng chiếu khắp nơi
Phật xuất thế là ánh sáng lớn
Nên biết tối thượng rất khó được
Tuyên nói diệu pháp thật thậm thâm
Lợi ích khắp tất cả thế gian.
Lúc đó, Dạ-xoa Đại Sơn suy nghĩ: “Hôm nay Đức Thế Tôn đến núi Thứu phong trong đại thành Vương xá, vậy nay ta nên đến chỗ Đức Thế Tôn gieo trồng chút ít căn lành”. Nghĩ thế rồi, Đại Sơn liền bảo các Dạ-xoa trong chúng hội mình rằng:
– Này các nhân giả! Các vị nên biết, Đức Thế Tôn sắp đến núi Thứu phong, trong đại thành Vương xá. Các vị nên phát tâm siêng năng dũng mãnh tùy theo khả năng cúng dường Đức Thế Tôn.
Nói rồi, Dạ-xoa Đại Sơn cùng với quyến thuộc từ đại thành Vương xá đi đến núi Thứu phong. Trên đường đi đều được dọn dẹp đất, đá, ngói, gạch sạch như tấm gương sáng, còn ở giữa đường được rảy nước hương thơm thanh tịnh. Lại dùng y vi diệu trải nối nhau liên tục trên con đường ấy. Lại cũng trên con đường ấy, được sắp xếp mọi người tung rải hoa vi diệu, trang nghiêm; đủ loại tràng phan, bảo cái. Lại đặt các bình báu đựng nước hương thơm thù thắng vi diệu. Các lưới báu giăng dài, các mắc lưới được cài các hoa anh lạc. Lại ở trên hư không trổi lên các loại âm nhạc vi diệu. Rải thẳng một đường dài bằng các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca. Ở giữa đường lại có các loại chim ca vỗ cánh hót vang, dây vàng giăng dài đan chéo nhau, có lưới bảy báu và dùng lưới vàng phủ kín trên đường.
Khi Dạ-xoa Đại Sơn trang nghiêm khắp mặt đường rồi, liền tự hóa thân và chúng hội ấy, thân vui, tâm vui, ý vui thanh tịnh, phát tâm hoan hỷ, thiện tâm thuần nhất, tâm nhu nhuyến, tâm thanh tịnh, tâm không chướng ngại, tâm vui thích, tâm hướng về Phật, tâm hướng về Pháp, tâm hướng về Tăng, tâm Bồ-đề không lay động, tâm không sợ hãi, tâm vô đẳng đẳng, tâm tối thắng tất cả ba cõi, tâm thương xót tất cả chúng sinh, tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả, tâm thành tựu đại pháp khí của chư Phật, tâm chân thật, tâm kiên cố, tâm không phá hoại, tâm tăng trưởng tối thắng, tâm xả bỏ địa vị Thanh văn, Duyên giác, tâm phát khởi thành tựu địa vị Bồ-tát. Dạ-xoa Đại Sơn cùng các Dạ-xoa phát các tâm thanh tịnh như vậy đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh phải ba vòng, rồi đứng qua một bên chắp tay hướng lên Phật nói kệ rằng:
Nay con cúng dường lên Đức Phật
Các món cúng dường thật tối thượng
Con nguyện sẽ được quả Phật Thánh
Tuyên nói pháp vi diệu tối thắng
Con nguyện sẽ viên mãn mười lực
Hoan hỷ khéo trụ bốn vô úy
Lợi ích khắp cả các chúng sinh
Như Phật Thế Tôn đã từng làm
Đủ ba mươi hai tướng thù thắng
Tám mươi vẻ đẹp các trang nghiêm
Sẽ làm ánh sáng cho thế gian
Như Phật Thế Tôn chiếu khắp cả
Và chuyển diệu pháp luân thanh tịnh
Mười hai hành tướng rất tối thắng
Tuyên nói môn chánh pháp cam lồ
Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh
Hiện các pháp thần thông biến hóa
Như Phật Thế Tôn hiện cũng thế
Khéo làm lợi ích các quần sinh
Cho đến vô số câu-chi chúng
Thế Tôn xuất hiện như ánh sáng
Như đại Long vương không sợ gì
Như vậy chánh đạo tuyên dương khắp
Khai thị giác ngộ càng vô thượng
Là nhà cũng là chỗ quy hướng
Là chỗ nhiếp hóa các chúng sinh
Con nguyện sẽ được như thế ấy
Lợi ích chúng sinh đều viên mãn
Chúng sinh rơi vào nơi năm nẻo
Con nguyện làm chủ các chỗ ấy
Khiến cho giải thoát các nhân khổ
Như Phật Thế Tôn đã giải thoát
Con xin cúng dường Đấng Lưỡng Túc
Oai đức vô biên ánh sáng ngời
Thiên chủ, rồng và A-tu-la
Cúng khắp thế gian không ai bằng
Con làm các sự nghiệp tối thượng
Con nguyện sẽ như Đại Pháp Chủ
Được ba mươi hai tướng thù thắng
Là Bậc tối thượng trong trời, người.
Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Dạ-xoa Đại Sơn nói kệ:
Như Phật Thế Tôn đã chỉ dạy
Tu hành nhân chánh pháp vô thượng
Chúng sinh sẽ được môn thắng pháp
Bồ-đề vô thượng rất dễ được
Thánh chúa là ánh sáng thế gian
Cúng dường rồi, Phật phóng ánh sáng
Trong các trời, rồng, thần, nhân chúng
Thế Tôn thọ nhận cúng dường ấy
Chứng thành vô thượng đại Bồ-đề
Ngồi cội Bồ-đề chúng tập hội
Nhiếp phục các ma quân đại ác
Rộng vì chúng sinh nói chánh pháp.
Lúc đó, Đức Thế Tôn được vô số trăm ngàn Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâula, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân và vô số trăm ngàn câu-chi na-do-đa các loại chúng sinh khác cung kính vây quanh. Trong số chúng ấy, Đức Thế Tôn đủ đại oai đức, có đại thần lực, khởi đại Biến hóa, thi tác quảng đại, phóng đại oai quang, các cõi chấn động, mưa hoa sen lớn, trổi trăm ngàn thứ âm nhạc thù thắng vi diệu, có hoa sen lớn như bánh xe nở theo bước chân Phật đi. Từ trên con đường đã được Dạ-xoa Đại Sơn trang nghiêm đó, Đức Thế Tôn đi đến núi Thứu Phong. Đến rồi, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:
– A-nan hãy thiết tòa vi diệu thù thắng cho Thế Tôn, pháp tòa tối thượng, tòa tối thắng trong ba cõi và tòa báu vi diệu. Như Lai sẽ lên tòa ấy, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, xưng dương chánh pháp thậm thâm của Bồ-tát, thành tựu tất cả hạnh của Bồ-tát, khử trừ tất cả mọi nghi hoặc của tất cả chúng sinh, khai sáng chánh tuệ, cắt đứt lưới nghi. Như Lai nói kinh điển thậm thâm này là vì thương xót lợi ích an lạc cho các hàng trời người và tất cả chúng sinh trong thế gian.
Nhận lời Phật dạy, Tôn giả A-nan liền thiết tòa thù thắng cho Đức Thế Tôn. Đồng thời cũng có sáu mươi tám câu-chi Thiên chúng đều thiết tòa báu dâng cúng Đức Thế Tôn, thỉnh Đức Thế Tôn lên tòa ấy rồi, cùng ở trước Phật đồng thanh nói kệ rằng:
Hôm nay chúng con thiết tòa cao
Và y phục đẹp hiến cúng Phật
Xin Phật thương xót hàng trời người
Theo như sở ứng lên tòa ấy
Nếu Phật Thế Tôn lên tòa rồi
Tuyên nói Chánh pháp đến bờ giác
Sáu thứ chấn động ở thế gian
Tất cả đều rất sinh hoan hỷ
Ánh sáng của Phật chiếu đại chúng
Chiếu sáng cõi Phật và núi chúa
Tất cả thấy Phật đại Thánh Tôn
Phát sinh tâm muốn pháp thanh tịnh
Có các trời, rồng và nhân chúng
Tám bộ tất cả các phẩm loại
Tất cả đều được thấy thân ấy
Trong đó không có gì chướng ngại
Có đến câu-chi na-do-đa
Trăm ngàn trời người các đại chúng
Đều được thấy Phật đại Thánh Tôn
Tuyên nói diệu pháp cú khó được
Lúc đó vua Tần-bà-sa-la
Cùng các quần thần và quyến thuộc
Trong khoảng sát-na đến hội Phật
Thân cận Thánh Tôn vì nghe pháp
Phật biết chúng ngồi đã ổn định
Ngài quán sát khắp cả bốn phương
Tất cả chúng hội và trời người
Làm lợi ích tất cả chúng sinh
Thế Tôn bảo khắp các đại chúng
Ai nghi nên hỏi đấng Lưỡng Túc
Tùy câu hỏi đó ta trả lời
Khiến cho tất cả đoạn nghi hoặc.
Lúc đó, tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trời, người, thế gian và các chúng hội đều chiêm ngưỡng cung kính Đức Thế Tôn, khởi tâm thanh tịnh, dứt các ngoại duyên, chuyên chú lắng nghe Đức Như Lai tuyên nói Chánh pháp thậm thâm.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mụckiền-liên:
– Đại đức khoan ngồi vào tòa, mà hãy nên quán sát các chúng Bí-sô có ai còn chưa đến hội này.
Hãy đến chỗ của đại Ca-diếp ở phía nam núi Tuyết và mời Ca-diếp về hội.
Vâng lời Đức Phật dạy, Tôn giả Đại Mục-kiềnliên liền vận thần thông đến chỗ Ca-diếp ở phía nam núi Tuyết. Đến rồi thưa:
– Tôn giả nên biết! Đức Thế Tôn hiện nay đang ở núi Thứu phong, cùng với Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người, đại chúng tập hội nói pháp. Đức Thế Tôn sai tôi đến mời Tôn giả. Vậy nay Tôn giả hãy vâng lệnh Như Lai mà mau đến hội Phật. Nếu Tôn giả không vâng lệnh thì là mắc tội ẩn pháp.
Tôn giả đại Ca-diếp nói với Tôn giả Đại Mụckiền-liên:
– Tôn giả hãy về trước đi! Tôi sẽ đến chỗ Đức Phật.
Lúc đó, Tôn giả Đại Ca-diếp ở ngay nơi tòa, tự vận thần thông biến hóa, bốn chúng vây quanh, trong khoảng sát-na liền đến chỗ Đức Phật trong núi Thứu phong. Đến rồi, đảnh lễ sát chân Đức Thế Tôn, rồi ngồi sang một bên cách Thế Tôn không xa.
Khi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên dùng thần lực quay trở về chỗ Phật, thì đã thấy Tôn giả Ca-diếp có mặt ngồi một bên trong hội Phật. Thấy rồi thưa:
– Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp! Tôn giả đầy đủ thần lực, nên đã đến hội Phật trước. Làm thế nào mà đi nhanh thế?
Tôn giả Đại Ca-diếp bảo Tôn giả Đại Mục- kiền-liên:
– Như Đức Thế Tôn đã nói Tôn giả là thần thông đệ nhất, sao hôm nay lại về chậm thế?
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng lên Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con có những điều nghi muốn thỉnh hỏi, cúi xin Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thương con mà tuyên nói. Nếu Thế Tôn cho phép thì con mới dám thưa hỏi.
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Tùy ý ngươi hỏi, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác tùy theo lời ngươi hỏi mà giải đáp và cũng để cho mọi người được sáng tỏ, dứt tâm nghi ngờ.
Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp, thì thân nghiệp không có các lỗi lầm, ngữ nghiệp không có các lỗi lầm, ý nghiệp không có các lỗi lầm; thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh; thân nghiệp không động, ngữ nghiệp không động, ý nghiệp không động; thiên ma ngoại đạo không thể chế ngự, rồi sau phát tâm Nhất thiết trí, lần lượt thành tựu các địa vị thiện, có khả năng làm chỗ quy hướng cho tất cả chúng sinh, làm ánh sáng cho chúng sinh, làm sông lớn cho chúng sinh, làm chiếc cầu chắc chắn cho chúng sinh, làm thuyền bè đưa tất cả chúng sinh đến bờ giác, làm nhà cửa, làm nơi cứu hộ, làm chỗ thú hướng cho tất cả chúng sinh, đối với Nhất thiết trí không có động chuyển?
Lúc đó, Tôn giả Xá-lợi Tử vì muốn xưng dương nghĩa trên nên dùng kệ thỉnh vấn Phật:
Vì nghĩa gì các vị dũng trí
Hay an trụ vào đại Bồ-đề
Tuyên dương công đức pháp vi diệu
Chứng thành quả Vô thượng Bồ-đề
Các bậc dũng trí làm những gì
Lợi ích tất cả các quần sinh
Lại còn quán sát pháp môn nào
Mà hay thành Phật đạo vô thượng
Lại dùng pháp gì hàng chúng ma
Ngồi yên Bồ-đề đại đạo tràng
Chấn động cả câu-chi cõi nước
Viên chứng quả Bồ-đề thù thắng
Vì nghĩa gì gọi là Bồ-tát
Nếu câu như vậy gọi thế nào?
Điều này xin nói môn Bồ-đề
Tất cả pháp Phật đều tối thượng
Đối các thế gian làm những gì
Mà có thể lợi ích chúng sinh
Lìa các nhiễm trước như hoa sen
Giải thoát vô số các chúng sinh
Làm sao thọ nhận cúng dường ấy
Các hàng trời, rồng và người trí
Cho đến tất cả nhân, phi nhân
Nay hỏi nghĩa này xin tuyên nói.
Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Nay ông nên biết, nếu Bồ-tát có thể thành tựu một pháp, dù ở một chỗ hay nhiều chỗ, cũng có thể nhiếp thọ vô lượng pháp Phật. Pháp ấy là gì? Là phát khởi tâm đại Bồ-đề sâu xa, kiên cố. Đó là Bồ-tát thành tựu một pháp, dù ở một chỗ hay nhiều chỗ cũng đều nhiếp thọ vô lượng pháp Phật.
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là kiên cố? Thế nào gọi là tâm Bồ-đề?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Kiên cố sâu xa là chân thật không thể phá hoại, chắc chắn không lay động. Không lay động tức là không thoái lui hay khuất phục. Không thoái lui hay khuất phục tức là khéo an trụ. Khéo an trụ tức là không thoái chuyển. Không thoái chuyển tức là khéo quán sát chúng sinh. Khéo quán sát chúng sinh tức là căn bản của đại Bi. Căn bản đại Bi chính là tâm rộng lớn. Tâm rộng lớn là khéo biết pháp thức thành thục chúng sinh. Khéo biết pháp thức thành thục chúng sinh tức là tự tại vi diệu an lạc. Tự tại vi diệu an lạc là không có chủng loại. Không có chủng loại nên không có luyến ái đắm trước. Không luyến ái đắm trước cho nên có khả năng nhiếp thọ chúng sinh. Nhiếp thọ chúng sinh tức là hay quán sát chúng sinh yếu kém. Khéo quán sát chúng sinh yếu kém tức là hay cứu hộ, làm chỗ quy hướng, không khởi tâm sân nhuế. Không khởi tâm sân nhuế tức là khéo quán sát. Khéo quán sát tức là không sở đắc. Không sở đắc cho nên thiện ý vui. Thiện ý vui cho nên không sở hữu. Không sở hữu cho nên thiện thanh tịnh. Thiện thanh tịnh cho nên tự trong sạch thanh khiết. Tự trong sạch thanh khiết cho nên bên trong không cấu bẩn. Bên trong không cấu bẩn nên bên ngoài thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp này là chân thật không thể phá hoại, cho đến bên trong không cấu bẩn, bên ngoài thanh tịnh. Các pháp này gọi là kiên cố sâu xa.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tâm Bồ-đề là tâm không có các lỗi lầm, tất cả phiền não không thể đeo bám; tâm ấy không thích các thừa khác; tâm ấy không bị các ngôn ngữ tà thuyết của ngoại đạo làm hoại loạn; tâm ấy không thể phá, tất cả ma chúng không thể làm lay động; tâm ấy quyết định, nuôi lớn tất cả bản hạnh thiện căn; tâm ấy không động, hâm mộ pháp Phật; tâm ấy khéo trụ, bước lên địa vị Bồ-tát; tâm ấy vô thượng không có đối trị; tâm ấy như kim cang, khéo lựa chọn tất cả pháp Phật; tâm ấy bình đẳng không có cao thấp; tâm ấy đối với tất cả chúng sinh ý vui thanh tịnh, tự tánh không nhiễm; tâm ấy không cấu bẩn, tuệ quang chiếu sáng; tâm ấy rộng lớn, dung thọ hết tất cả chúng sinh; tâm ấy không nhiễm như hư không; tâm ấy không chướng ngại quán vô ngại trí; tâm ấy đối với tất cả chỗ tùy sự thích ứng mà hiểu biết, đại Bi không bao giờ cùng tận; tâm ấy hiện chứng, khen ngợi thanh tịnh; tâm ấy thành tựu chủng tử Nhất thiết trí, viên mãn tất cả pháp Phật; tâm ấy an trụ ban bố mọi niềm vui, thệ nguyện tối thắng; tâm ấy đầy đủ tịnh giới không có khiếm khuyết sai phạm; tâm ấy tu trì nhẫn nhục, lìa mọi sân nhuế; tâm ấy tinh tấn không có biếng nhác; tâm ấy thiền định cận tịch vắng lặng; tâm ấy không hại, đầy đủ tuệ hạnh.
Lại nữa, tâm ấy là căn bản chân thật thành tựu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai; tâm ấy là căn bản chân thật, viên mãn mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thành tựu tâm Bồ-đề gọi là tâm Bồ-đề. Nhưng vì Tát-đỏa cầu tâm Bồ-đề kiên cố đầy đủ, nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Đó cũng gọi là chúng sinh quảng đại, chúng sinh tối thượng, chúng sinh tối thắng trong ba cõi. Đây là thân nghiệp không có lỗi lầm, ngữ nghiệp không có lỗi lầm, ý nghiệp không có lỗi lầm; thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh; thân nghiệp không động, ngữ nghiệp không động, ý nghiệp không động, không bị tất cả thiên ma ngoại đạo làm động chuyển, phát tâm Nhất thiết trí sâu xa, lần lượt chứng đắc địa vị các thiện, tất cả thế pháp không thể nhiễm ô, có khả năng điều phục tất cả chúng sinh, điều phục tất cả, làm chỗ quy hướng, làm ánh sáng lớn, làm con sông lớn, bắt chiếc cầu lớn, làm chuyến thuyền lớn đưa tất cả chúng sinh lên bờ giác; làm nhà cửa, làm trung tâm cứu hộ và chỗ thú hướng, phát tâm Nhất thiết trí sâu xa, không bị trời ma ngoại đạo làm lay động. Đây là Bồ-tát đối với tâm Chánh đẳng Chánh giác tịnh tín kiên cố, thanh tịnh vô cùng, thích diện kiến các bậc Thánh, ưa nghe pháp sâu xa, tâm không xan lận, bố thí rộng rãi, luôn muốn xuất ly, tâm không chướng ngại, đối với tất cả chúng sinh không có tâm tạp loạn, không có tâm thoái lui, không có tâm lưu tán, không có nghiệp báo, niềm tin thanh tịnh không có nghi ngờ, mọi việc làm đều xa lìa nghi hoặc, đối với pháp thiện ác không hoại quả báo. Biết được các pháp như thế rồi, đối với thân mạng Bồ-tát không tạo tội nghiệp, xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác, tham sân, tà kiến, sẵn sàng cắt đứt mười nghiệp bất thiện ấy. Trái với mười điều bất thiện đó là mười nghiệp thiện Bồ-tát luôn trau dồi, tu tập, tịnh tín đế lý. Đối với Sa-môn, Bà-la-môn Bồ-tát luôn tu chánh đạo, đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, học hỏi lãnh thọ tất cả thiện pháp.
Một khi Bồ-tát đã nghe pháp rồi, phải siêng năng thực hành, để ý chắc chắn, khéo léo điều phục biến tịch, cận tịch, lìa mọi tranh cãi, luôn nói lời thương yêu, tâm ý thuần thiện, không một ý nghĩ nào là không thiện, siêng năng hành trì thiện pháp, lìa các pháp bất thiện, không cao không thấp cũng không khinh động, lìa mọi khen chê, an trụ chánh niệm, tâm luôn chánh định, cắt đứt sự trói buộc của ba cõi, nhổ sạch tên độc, trút mọi gánh nặng, thích sống vắng lặng, vượt mọi nghi hối, không thọ thân sau, thường ở chỗ chư Phật Thế Tôn, Đại Bồ-tát, Sa-môn, Bà-la-môn để thân cận cung kính, tùy thuận phụng sự, không có sai trái, luôn luôn gần Thiện tri thức, nhiếp thọ chánh pháp, tuyên nói chánh pháp, chỉ dạy cho mọi người được lợi ích an vui. Bồ-tát nên dạy: Bố thí thì được giàu có, trì giới thì được sinh thiên, đa văn thì được đại tuệ, tu tập tương ứng, nên dạy họ như vậy. Bố thí thì được quả bố thí, keo kiệt chịu quả keo kiệt, trì giới được quả trì giới, phạm giới mắc quả phạm giới, tinh tấn được quả tinh tấn, biếng nhác chịu quả biếng nhác, thiền định được quả thiền định, tán loạn chịu quả tán loạn, trí tuệ được quả trí tuệ, ngu si chịu quả ngu si, thân làm thiện được quả thân làm thiện, thân làm ác chịu quả thân làm ác, miệng nói thiện được quả miệng nói thiện, miệng nói ác chịu quả miệng nói ác, ý nghĩ thiện được quả ý nghĩ thiện, ý nghĩ ác chịu quả ý nghĩ ác, đây là thiện, đây là bất thiện, việc này nên làm, việc này không nên làm. Nếu làm việc này thì lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh trong nhiều kiếp; làm việc này không lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh trong nhiều kiếp. Các pháp như thế, ở chỗ Thiện tri thức, Bồtát tuyên nói chánh pháp chỉ dạy cho mọi người được lợi ích an vui. Bồ-tát cũng phải biết rằng, người này là đại pháp khí thì nên tuyên nói pháp môn thậm thâm như: Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn, Vô nguyện giải thoát môn, không tạo tác, không sinh, không khởi, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả và nói pháp duyên sinh thậm thâm, như nói: Vì có hữu cho nên có sinh, tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Đó chính là một đại khổ uẩn tập. Vì không có hữu cho nên không có sinh, không sinh tức là diệt. Đó là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục xứ diệt, lục xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt. Như vậy thì một đại khổ uẩn diệt. Nhưng trong đó không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh hoặc diệt thật có thể được. Vì sao? Vì tất cả pháp là duyên sinh, không có chủ tể, không có tác giả, không có thọ giả, từ nhân duyên chuyển. Thế nên trong đó không có pháp có thể chuyển, cũng không phải không chuyển, cũng không phải tùy chuyển, sinh ra và hiện hữu trong ba cõi nhưng lại không thật. Do từ phiền chuyển, từ phiền não chuyển cho nên mới có hiện hữu, tất cả có sinh ra nhưng đều không thật. Nếu quán sát kỹ như thật thì không có một pháp nhỏ nào là tác giả. Nếu không có tác giả thì không có cái làm ra, trong thắng nghĩa đế hoàn toàn không sở đắc. Nói như vậy thì không có pháp nào có thể chuyển, cũng không phải không chuyển. Đại Bồ-tát với các pháp thậm thâm như vậy, nghe rồi tin hiểu không sinh nghi hối, thâm nhập tất cả pháp trí môn vô ngại. Thế nên không đắm trước vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không đắm trước nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không đắm trước vào nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Phải tin hiểu như vầy: Tự tánh của tất cả pháp đều không.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát trụ như vậy thì lòng tin hiểu không bị giảm mất, thường thấy chư Phật cũng không giảm mất, thường nghe chánh pháp lại cũng không giảm mất, luôn luôn thừa sự chúng, đời đời sinh ra đều được thấy Phật, luôn luôn nghe pháp, luôn luôn thừa sự chúng thanh tịnh, hiện tại được Phật xuất thế, dù sinh ra nơi nào cũng phát đại tâm tinh tấn, không làm các việc không có nghĩa lợi. Các việc vô nghĩa như nhà cửa, chỗ ở, vợ con, quyến thuộc, của cải, châu báu và các thứ thọ dụng khác như nô tỳ tất cả dục lạc, chơi bời, chấp trước vào lỗi lầm đều là việc vô nghĩa, phải nên tránh xa. Đối với chánh pháp của Phật Như Lai phải phát lòng tin thanh tịnh xuất gia. Với tâm xuất gia thanh tịnh ấy nên được gần gũi Thiện tri thức, không bao giờ bị hoại. Suy nghĩ thiện pháp, làm cho ý vui, ưa nghe thiện pháp, tu hành chân thật, không chấp trước vào văn tự, thành tựu tuệ thù thắng, thâm tâm đầy đủ, ham thích chánh pháp không biết nhàm chán, siêng năng cần cầu đa văn, như pháp đã được nghe, rồi đem tuyên nói rộng rãi cho mọi người. Tuy nói thế nhưng tâm không đắm trước, cũng không vì sự mong cầu danh văn lợi dưỡng. Bồ-tát nói pháp cho người khác nghe trái với tự ngữ, nói pháp cho người khác như những gì mà mình đã nghe, những gì mình hiểu, mỗi mỗi đều tùy theo sự thích ứng mà nói. Như pháp đã nghe, Bồ-tát phát khởi tâm đại Từ, đại Bi không bỏ rơi tất cả chúng sinh. Vì sự nghiệp đa văn nên không tiếc thân mạng, thiểu dục tri túc, ưa chỗ vắng lặng, tránh xa những chỗ ồn ào và biết cách nuôi dưỡng chính mình. Bồ-tát nghe pháp luôn quán sát nghĩa của nó, nắm bắt chánh nghĩa, không đắm trước vào văn tự, tùy chỗ mà nhiếp thọ, ở trong tất cả chúng thế gian, Trời, Người, A-tu-la, không riêng cầu việc tự lợi cho bản thân mà phải siêng cầu Đại thừa vô thượng và làm lợi lạc tất cả chúng sinh. Đó chính là Phật trí vô đẳng đẳng trí, trí tối thắng trong ba cõi Bồ-tát, làm vì mọi người nhưng không có tâm buông lung.
Đức Phật lại bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Thế nào là pháp không buông lung? Tức là pháp luôn nhiếp hộ các căn.
Thế nào là nhiếp hộ các căn? Là khi mắt thấy sắc không chấp vào tướng của nó, cũng không chấp hình tướng tốt đẹp, cũng không đắm trước sắc các vị, biết rõ pháp xuất ly một cách như thật. Như vậy tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý biết pháp, đều không chấp tướng, cũng không chấp hình thể tốt đẹp, cũng không đắm trước các pháp các vị, biết rõ pháp xuất ly một cách như thật. Như vậy gọi là không buông lung.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Không buông lung là tự điều phục tâm mình, rồi điều phục tâm người khác, xua tan phiền não, hiện chứng pháp lạc, không có suy xét; dục tầm, sân tầm, hại tầm, không có suy xét; tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn không có suy xét; thân làm nghiệp ác, miệng nói nghiệp ác, ý nghĩ nghiệp ác không có suy xét; không có tác ý sâu sắc không có suy xét. Nói tóm lại, cho đến tất cả tội nghiệp, các pháp bất thiện đều không tìm cầu suy xét. Như vậy gọi là không buông lung.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Không phóng dật là Bồ-tát tác ý kiên cố siêng năng tương ưng. Nếu pháp là có thì như thật biết có; nếu pháp là không như thật biết không.
Sao gọi là có? Sao gọi là không? Siêng thực hành chánh đạo, sinh lòng tin hiểu tức là có. Siêng làm tà đạo mà sinh lòng tin hiểu tức là không. Các nghiệp có quả báo tức là có, các nghiệp không quả báo tức là không. Mắt là có; thật tánh của mắt là không. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý là có; thật tánh của tai mũi, lưỡi, thân, ý là không. Sắc là vô thường là khổ, là không rốt ráo, không chắc chắn là pháp tan hoại, tức là có; chấp rằng sắc là thường, là vui, là pháp rốt ráo chắc chắn là pháp không tan hoại, tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, là khổ, là không rốt ráo, không chắc chắn, là pháp tan hoại, tức là có; chấp rằng thọ, tưởng, hành, thức là thường, là vui, là rốt ráo, là chắc chắn là pháp không tan hoại, đó tức là không.
Lại nữa, vô minh duyên hành trong các pháp, không thật vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử là có; chấp rằng thật vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử, tức là không.
Người làm việc bố thí cảm quả giàu có là có; người làm việc bố thí mà lại chịu nghèo hèn tức là không. Trì giới sinh Thiên tức là có; phá giới sinh thiên tức là không. Đa văn đại tuệ tức là có; ngu si đại tuệ tức là không. Tu tập tương ưng tức là có; tu tập không tương ưng tức là không. Tác ý sâu xa kiên cố tương ưng tức là có; tác ý không sâu xa kiên cố tương ưng tức là không. Bồ-tát phát tâm siêng năng tinh tấn được quả Bồ-đề tức là có; Bồ-tát biếng nhác mà được quả Bồ-đề tức là không. Người không có tâm tăng thượng mạn làm việc của người xuất gia tức là có; người có tâm tăng thượng mạn mà chứng Niết-bàn tức là không. Đối với tất cả trường hợp đều thông đạt tánh không tức là có; chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức là không.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Vì thế nên biết, Bồ-tát không buông lung có khả năng tác ý kiên cố sâu xa cần hành tương ưng tức là hiện diện khắp tất cả thế gian, khai thị rộng rãi cho các bậc trí giả, hiện diện khắp thế gian, nếu không có bậc trí giả thì không khai thị. Còn đối với thế tục đế, không biết cái có ấy, không biết cái không ấy, thì làm sao tùy thuận được thật nghĩa mà chư Phật Thế Tôn đã nói.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai tổng lược gồm bốn pháp ấn, thâu nhiếp hết tất cả pháp:
1. Các hành vô thường.
2. Các hành là khổ.
3. Các pháp là vô ngã.
4. Niết-bàn tịch tĩnh.
Nhưng vì tất cả chúng sinh chấp các hành vô thường này là thường; nếu các chúng sinh cắt đứt cái tưởng thường ấy, thì đó là lời Như Lai nói. Lại vì các chúng sinh chấp các hành khổ là vui; nếu chúng sinh cắt đứt cái tưởng vui ấy, thì đó là lời nói của Như Lai. Lại vì các chúng sinh chấp các pháp vô ngã là ngã; nếu các chúng sinh cắt đứt cái tưởng ngã ấy thì đó là lời nói của Như Lai. Lại vì các chúng sinh khởi tâm sở đắc điên đảo đối với lý Niết-bàn tịch tĩnh; nếu chúng sinh cắt đứt tâm sở đắc điên đảo ấy, thì đó là lời nói của Như Lai. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu biết rõ các hành là vô thường thì là hiểu rõ tánh không vô thường.
Nếu biết rõ các hành là khổ, thì là lìa các nguyện cầu. Nếu biết rõ các pháp là vô ngã thì là có khả năng quán tưởng pháp môn không Tam-ma-địa giải thoát. Nếu biết rõ Niết-bàn tịch tĩnh, thì đối với các tướng có sự tu tập, cũng không phải phi thời thủ chứng thực tế.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy, nếu các Bồtát cần hành tương ưng, thì tất cả các thiện pháp không bị giảm mất, mau chóng viên mãn tất cả pháp Phật.
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín tâm đối với mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tin hiểu thanh tịnh, vượt khỏi sự phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui, tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu. Những gì là mười?
1. Đối với thân tướng tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến biểu hiện tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu.
2. Đối với âm thanh hay vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
3. Đối với đại trí tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
4. Đối với ánh sáng vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
5. Đối với giới định viên mãn chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
6. Đối với Thần túc to lớn chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
7. Đối với mười Trí lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai; tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
8. Đối với bốn Vô sở úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
9. Đối với tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
10. Đối với pháp Bất cộng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
Đó là mười pháp hy hữu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồtát trụ tín phải siêng năng tinh tấn cần cầu, không có tâm sợ hãi biếng nhác, không có lay động; dẫu thân, da, gân, thịt, cốt, tủy, máu mạch có khô cằn tiều tụy đi nữa, nếu chưa đạt được mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, thì trong khoảng thời gian đó không được biếng nhác, phải siêng năng tinh tấn cần cầu, nhất định đạt được.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với mười pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, phải nên tin hiểu thanh tịnh như vậy, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:
Thân tướng Như Lai chẳng nghĩ bàn
Nên quán Pháp thân tịnh vi diệu
Không tướng cũng không môn đối ngại
Bồ-tát hay sinh tâm tin hiểu
Cho đến các nẻo rộng phân biệt
Chỉ âm thanh Phật chẳng nghĩ bàn
Đối Nhất thiết xứ pháp môn báu
Phải nên tin hiểu cảnh giới Phật
Hiện diện tất cả loại chúng sinh
Căn thượng, trung, hạ có sai khác
Chỉ thắng trí Phật mới biết hết
Tin hiểu trí lực chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng chư Phật chiếu vô biên
Lưới sáng thanh tịnh chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng rạng ngời chiếu mười pháp
Vô biên sát hải đều thấu triệt
Mâu-ni xuất thế giới thanh tịnh
Nhưng không nương tựa pháp thế gian
Bồ-tát trụ tín tâm tịnh tín
Tin thần túc Phật chẳng nghĩ bàn
Cảnh giới thần thông của chư Phật
Các Bồ-tát không thể biết được
Chư Phật tâm thường trụ thiền định
Phật môn giải thoát chẳng nghĩ bàn
Pháp giới rộng lớn không phân biệt
Chỉ thắng lực Phật mới biết được
Đầy đủ trí lực đại Thánh Tôn
Không bờ không bến bằng hư không
Giả sử tất cả loại chúng sinh
Cùng đặt câu hỏi nhiều như biển
Đáp theo câu hỏi tâm vui vẻ
Như Lai vô úy chẳng nghĩ bàn
Vì một chúng sinh làm lợi ích
Vô biên chúng sinh cũng như thế
Khiến cho an trụ tâm điều phục
Như Lai đại Bi chẳng nghĩ bàn
Các tướng Như Lai đều đầy đủ
Khả năng biết rõ tất cả pháp
Pháp môn Bất cộng Phật công đức
Trí sáng hiển bày khắp mọi nơi
Mười pháp chẳng nghĩ bàn như vậy
Nhiếp pháp chư Phật nhập pháp tánh
Nếu hay khởi lên tâm tin hiểu
Bồ-tát khéo trụ tâm tịnh tín.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với thân tướng tối thắng của Như Lai tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu? Bởi vì thân thanh tịnh của Như Lai có khả năng đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, nhưng lại đầy đủ tất cả pháp thiện. Thân Như Lai đã lìa tất cả bất tịnh uế ác, gân, cốt, máu, thịt và các pháp nhiễm ô. Thân Như Lai là tự tánh sáng lạn thanh tịnh, vĩnh viễn lìa tất cả cấu nhiễm phiền não, vượt khỏi thế gian, không bị tất cả pháp thế gian làm nhiễm. Thân Như Lai tích tập vô lượng phước trí diệu hạnh, trưởng dưỡng chúng sinh, tu tập vô lượng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến các thiện pháp, trang nghiêm đầy đủ tất cả hoa công đức thù thắng, như tấm gương sáng lớn hiện rõ các sắc tướng; lại như mặt nước trong in rõ bóng trăng.
Lại nữa, thân Như Lai như hư không giới nhiếp hết tất cả, lại như pháp giới tối thượng tối thắng. Thân Phật vô lậu, đã dứt hết các lậu. Thân Phật vô vi, không còn rơi vào các nẻo, thân như hư không, thân vô đẳng đẳng, thân tối thắng trong tất cả ba cõi.
Lại nữa, thân Như Lai không thể thí dụ, thanh tịnh không dơ, lìa mọi nhiễm ô, tự tánh sáng suốt, không phải đời trước có thể quán, không phải đời sau có thể quán, không phải hiện tại có thể quán, không phải chủng tộc có thể quán, không phải sắc có thể quán, không phải tướng có thể quán, không phải tùy hình tốt đẹp có thể quán, không phải tâm có thể quán, không phải ý có thể quán, không phải thức có thể quán, không phải kiến có thể quán, không phải nghe có thể quán, không phải niệm có thể quán, không phải biểu liễu có thể quán, không phải uẩn có thể quán, không phải xứ có thể quán, không phải giới có thể quán, không phải sinh có thể quán, không phải trụ có thể quán, không phải diệt có thể quán, không phải thủ có thể quán, không phải xả có thể quán, không phải xuất ly có thể quán, không phải hành có thể quán, không phải hiển sắc có thể quán, không phải tướng trạng có thể quán, không phải hình sắc có thể quán, không phải đến có thể quán, không phải đi có thể quán, không phải giới có thể quán, không phải định có thể quán, không phải tuệ có thể quán, không phải giải thoát có thể quán, không phải giải thoát tri kiến có thể quán, không phải hữu tướng có thể quán, không phải lìa tướng có thể quán, không phải pháp tướng có thể quán, không phải các tướng thành tựu có thể quán, không phải vô sở úy có thể quán, không phải vô ngại giải có thể quán, không phải thần thông có thể quán, không phải đại Bi có thể quán, không phải thành tựu pháp bất cộng Phật có thể quán.
Chư Phật xuất hiện như huyễn, như sóng nắng, như bóng trăng in nước. Thân tự tánh vi diệu. Thân Không, Vô tướng, Vô nguyện, không bờ bến. Thân không chủng loại. Thân không tích tụ. Thân không phân biệt. Thân không nương tựa. Thân không biến đổi. Thân được thiện trụ không còn lay động. Thân tự tánh không sắc, không phải không sắc. Thân tự tánh không thọ, không phải không thọ; không tưởng, không phải không tưởng; không hành, không phải không hành; không thức không phải không thức. Thân không thật, không sinh, không phải đại chủng. Thân chưa từng có, chưa từng có nghiệp. Thân không phải mắt sinh, không từ trong sắc mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải ta nương tựa từ trong sắc mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải mũi ngửi, không từ mùi hương mà có, cũng không phải bên ngoài; không phải lưỡi liễu biệt, không từ vị mà có, cũng không phải từ bên ngoài; không phải thân hòa hợp không từ xúc mà có, cũng không phải từ bên ngoài; không phải tâm sở chuyển, không phải ý sở chuyển, không phải thức sở chuyển, cũng không phải không chuyển, cũng không phải tùy chuyển, được an trụ không lay động, ngang bằng với hư không, pháp giới tối thượng lưu nhập vào hư không giới.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy, Bồ-tát trụ tín đối với thân tướng vi diệu thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, không có phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên lập lại kệ rằng:
Vô lượng câu-chi na-do-đa
Nhiều kiếp rộng tu hạnh Bồ-tát
Thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh
Cần cầu thân vô đẳng Thiện Thệ
Mười phương thế giới khởi ý từ
Đem hết thân mạng hành bố thí
Tâm thường lìa dục hạnh tà nhiễm
Cần cầu thân hư không vô thượng
Y phục trang sức tịnh vi diệu
Trong vô lượng kiếp hành bố thí
Thí ba-la-mật diệu hạnh viên
Các Phật tử rộng thí tối thượng
Hộ giới như trâu mao mến đuôi
Hay xả thân mạng nhẫn không oán
Nguyện cầu thân Phật tâm không nhác
Tu mọi Tinh tấn ba-la-mật
Ưa quán cảnh giới định chư Phật
Trong tâm thích khởi tuệ phương tiện
Pháp giới tối thượng thân Thiện Thệ
Con nguyện sẽ được thân như thế
Chư Phật đã từng hành thiện hạnh
Được quả Bồ-đề không ai bằng
Sẽ được thân rộng lớn hư không
Khéo lìa trần nhiễm tịnh không nhiễm
Lìa tướng ngã, nhân tự tánh không
Không tướng, không lời, không sở đắc
Vượt qua các cảnh giới của mắt
Thân đại Mâu-ni được như vậy
Lìa sắc, lìa tiếng ý thanh tịnh
Vô sinh, vô tác xưa nay không
Sẽ được thân không động Như Lai
Mười Lực Thiện Thệ cũng như vậy
Thân như huyễn hóa vượt tất cả
Các loại voi, ngựa và nhân tướng
Ngu si hư vọng tâm điên đảo
Thấy mười Lực tôn sắc tướng Phật
Quá khứ vô lượng các Thiện Thệ
Chư Phật vị lai cũng như thế
Đồng thân pháp tánh không gì khác
Pháp giới tối thượng bằng hư không.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với âm thanh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu?
Này Xá-lợi Tử! Như Lai ở trong tất cả chúng hội, âm thanh nói ra đều là điều phục, tùy thuận làm các thiện lợi, làm cho ý của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới đều vui thích. Tuy vậy, nhưng Như Lai không nghĩ rằng: Ta có thể vì chúng hội Bí-sô tuyên nói các pháp, vì chúng hội Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Sát-đếlợi, Trưởng giả, Cư sĩ, Phạm chúng… mà nói pháp ấy.
Lại nữa, Như Lai tùy nghi tuyên nói Khế kinh, Phúng tụng, Ký biệt, Ứng tụng, Tự thuyết, Thí dụ, Duyên khởi, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy pháp, Luận nghị. Các pháp như thế, vì tất cả chúng hội cho đến Phạm chúng Như Lai tùy theo trình độ căn cơ mà nói. Các chúng sinh có thượng, trung, hạ căn, mỗi mỗi sai khác đều nghe pháp cú. Nhưng pháp cú ấy đều từ miệng Như Lai nói ra, tùy theo các căn tánh đều được hiểu rõ. Trong khoảng thời gian đó cũng không có lời nói nào trái ngược nhau, mỗi mỗi đối với pháp ấy đều hiểu một cách rõ ràng. Đó chính là các phước đời trước của Như Lai nên mới được quả báo hiện tại phát ra âm thanh vi diệu như thế, khiến các chúng sinh tùy theo pháp đó mà hiểu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tiếng nói của Như Lai phát ra nhỏ nhẹ, ôn tồn, thanh tịnh không có cấu bẩn, làm cho người nghe vui ham thích. Lại nữa, tiếng của Như Lai rõ ràng không thô ác, người nghe càng thêm vui, tâm không nhàm chán mỏi mệt. Người nghe tâm vui phát sinh niềm vui, hiểu biết rõ ràng, sinh tâm ham thích, tâm ý điều hòa. Tiếng của Như Lai như tiếng sư tử, như tiếng sấm sét, như tiếng của hải triều âm, như tiếng Ca-lăngtần-già vi diệu, như tiếng thanh Phạm, tiếng thái cổ, tiếng cát tường, tiếng nhu nhuyến, tiếng vang dội, tiếng thanh tịnh vi diệu, khiến các căn của chúng sinh vui thích điều phục; tiếng làm cho chúng hội vui thích, tiếng các tướng đầy đủ tối thắng, tiếng của chư Phật Như Lai hoặc đây hoặc kia đều đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Các âm thanh như thế là vì các Bồ-tát trụ tín đối với âm thanh vi diệu chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:
Tiếng Phạm âm vi diệu Như Lai
Lời nói phát ra khéo điều phục
Phạm chúng không bằng âm thanh Phật
Các pháp như vậy đều đầy đủ
Tiếng Phật tương ưng với lòng Từ
Tâm Bi rộng lớn lại thù thắng
Tương ưng Hỷ, Xả cũng như thế
Mâu-ni Thánh Tôn tiếng vi diệu
Chúng sinh nghe tiếng dứt tất cả
Lửa tham, sân độc các bất thiện
Ngu si tối tăm cũng tiêu trừ
Âm thanh như vậy đều đầy đủ
Mọi người ở khắp các phương xứ
Cùng khắp tất cả trong nhân loại
Cho đến giáp tận Diêm-phù-đề
Tất cả ngôn ngữ Phật hiểu rõ
Chúng sinh tùy loại nghe tiếng Phật
Địa cư, không cư các Thiên chúng
Nghe tiếng vi diệu của Mâu-ni
Tùy âm thanh Phật được hiểu rõ
Hai chân, bốn chân và nhiều chân
Các loại không chân nghe tiếng Phật
Tùy xúc tùy nghe sinh tịch ý
Tất cả chỗ ấy tùy tiếng chuyển
Trong tam thiên đại thiên thế giới
Khai sáng điều phục loài chúng sinh
Nhiếp hết các căn thượng trung hạ
Tùy âm thanh Phật mà khéo chuyển
Người đáng điều phục nghe giải thoát
Lìa mọi phân biệt không phân biệt
Tâm chánh định nói môn Thánh đế
Trong đó không chấp cũng không trói
Vô biên chúng sinh nghe tiếng Phật
Nghe rồi dứt trừ các phiền não
Chí thành quy mạng Phật, Pháp, Tăng
Nghe rồi giới nhẫn đều đầy đủ
Âm thanh Như Lai diệu tối thượng
Tiếng ấy sâu xa lượng vô biên
Âm thanh vô biên trí vô biên
Bồ-tát trí tín không nghi hối.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với đại trí tối thượng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh vượt lên trên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân vui, tâm vui, tướng vui, khởi ý tưởng hy hữu?
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai dùng tri kiến vô ngại chuyển tất cả pháp.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta thí dụ tuyên nói làm sáng tỏ về Trí ba-la-mật-đa của Như Lai cho ông nghe và cũng khiến cho Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
Này Xá-lợi Tử! Ví như tất cả cành, nhánh, cỏ, cây trong hằng hà sa số các thế giới, chất cao đến bốn ngón tay. Có người mới đem số cành nhánh đó gom lại thành một đống lớn, rồi châm lửa đốt, đốt xong tất cả đều thành tro tàn, rồi đem tro tàn ấy rải ngoài biển cả trong hằng hà sa số tất cả thế giới, tro ấy tan đều trong biển cả, trải qua trăm ngàn năm.
Tro đó chỉ có trí lực đầy đủ viên mãn của Như Lai mới có khả năng lấy nó lên từ biển cả, rồi rải đều trong tất cả thế giới, hễ bao nhiêu tro thì bao nhiêu thế giới, bao nhiêu gốc rễ, bao nhiêu uẩn tụ, bao nhiêu nhành lá rải đều ra bao nhiêu phương xứ mà không bị giảm mất. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai ở trong pháp khéo hiểu rõ, do hiểu rõ cho nên có khả năng biết tất cả. Như vậy, tất cả thế giới to lớn như thế, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đủ đại oai đức, có đại thần thông, danh tiếng vang lừng.
Thế gian nếu có các thiện nam, thiện nữ, đối với đại trí tối thượng của Như Lai tin hiểu thanh tịnh, lìa phân biệt, đều là tâm Từ của Như Lai kiến lập, hiện chứng tất cả biên tế thiện căn, dứt trừ tận gốc khổ não. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai khéo hiểu biết rõ. Nếu ai có khả năng đối với Như Lai mà phát sinh một niệm tin hiểu thì sẽ được công đức mà không bị hoại diệt.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này, nếu có người trí nào nhân nơi thí dụ ta nói đó mà hiểu rõ.
Ví như có người sống đến trăm tuổi, hôm nọ, người này lấy sợi lông chẻ ra trăm phần, rồi lấy một phần chấm lấy một giọt nước đem đến chỗ của Thế Tôn thưa:
– Thưa Thế Tôn! Nay con gởi giọt nước này cho Thế Tôn, sau này con sẽ đến lấy lại.
Đức Phật nhận rồi đem giọt nước ấy thả xuống sông Khắc-già, giọt nước ấy trôi theo dòng nước chảy ra biển.
Khi người này hơn trăm tuổi đến chỗ Phật thưa:
– Thưa Thế Tôn! Xưa con có gửi giọt nước cho Thế Tôn, hôm nay xin lấy lại.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đại trí tối thượng đầy đủ viên mãn liền lấy giọt nước đã được gởi trước kia từ trong biển ra trả lại cho ông già ấy, giọt nước ấy không bị biển làm giảm mất.
Này Xá-lợi Tử! Ta đã nói thí dụ biểu thị rõ ràng, huống lại có người thấy được nghĩa này, như là giọt nước trải qua thời gian lâu, nhưng nhờ trí lực của Như Lai nên không bị tổn hoại. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng như vậy. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với đại trí của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, hết các phân biệt, thì đó là nhờ tâm Từ của Như Lai kiến lập. Duyên vào công đức của Đức Phật, trong hư không mưa xuống các loại hoa, hiện chứng hết tất cả thiện căn, dứt sạch tận nguồn gốc đau khổ. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai ở trong pháp giới đã hiểu biết được. Nếu có người nào có khả năng đối với Đức Như Lai phát sinh một niềm tin hiểu, thì được công đức không thể phá hoại.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu như chư Phật Như Lai lìa trí Như Lai thì còn có khả năng chuyển các pháp nữa không?
Đức Phật dạy:
– Không thể được, Xá-lợi Tử!
Xá-lợi Tử lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là trí? Sao gọi là thức? Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Nến biết, thức nó trụ vào bốn chỗ:
1. Thức tùy sắc trụ, sắc duyên sắc trụ, nó luôn luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
2. Thức tùy thọ trụ, thọ duyên thọ trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
3. Thức tùy tưởng trụ, tưởng duyên tưởng trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
4. Thức tùy hành trụ, hành duyên hành trụ, thường luôn thân cận, tăng trưởng chắc chắn rộng lớn mà thành.
Đó gọi là thức.
Sao gọi là trí? Là trụ vào năm thủ uẩn trí uẩn biết rõ. Đó gọi là trí. Nếu thức biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, trụ vào thức giới, thì đó gọi là thức. Nếu thức còn sự phân biệt đối với pháp giới, thì gọi là trí. Nếu mắt thấy sắc mà phân biệt được sắc, tai nghe tiếng biết rõ tiếng, mũi ngửi hương biết rõ hương, lưỡi nếm vị biết rõ vị, thân xúc chạm biết cảm giác, ý biết pháp nhận thức rõ, thì đó gọi là thức. Nếu trong tâm vắng lặng, bên ngoài không sở hành, dùng trí thâu nhiếp, không phân biệt một pháp nhỏ nào, cũng không lìa phân biệt, thì đó gọi là trí. Nếu lại sở duyên thức sinh, tác ý thức sinh, phân biệt thức sinh, thì gọi là thức. Nếu lại không chấp, không giữ, không duyên, không biểu hiện, thì gọi là trí. Nếu đối với pháp hữu vi sở hành, thức có sở trụ, thức đối với hữu vi mà hành, thì đó gọi là thức. Nếu đối với pháp vô vi, thức không thể hoạt động, nếu là trí vô vi, thì gọi là trí. Nếu là thức ở trong pháp sinh, trụ, diệt mà phân biệt rõ ràng không sinh, không diệt, không trụ, thì gọi là thức.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy gọi là thức, gọi là trí. Vì thế nên biết, đại trí của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:
Tất cả cây cỏ trong mười phương
Hằng hà sa số các thế giới
Có người đốt củi ấy thành tro
Rải vào trong biển trăm ngàn năm
Thế Tôn mười lực trí vi diệu
Sau lại lấy tro trong biển cả
Bao nhiêu gốc rễ và các phương
Phân bố đầy đủ không giảm mất
Tâm trì mười phương chúng sinh giới
Nghiệp tham, sân, si đều biết rõ
Tất cả ý vui và sở hành
Không tăng, không giảm đều biết được
Đại trí mười Lực thế gian tôn
Mười phương cho đến khắp pháp giới
Điều Ngự không sinh tâm phân biệt
Tất cả Phật tử đều tin hiểu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là ánh sáng vi diệu của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu?
Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có khả năng biết rõ pháp giới, Như Lai có ánh sáng rộng lớn vi diệu, thâu nhiếp tất cả tam thiên đại thiên thế giới này. Ánh sáng rạng ngời chiếu khắp tất cả, như mặt trời không bị mây che, nó tỏa ra ánh sáng. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, trong tam thiên đại thiên thế giới, ánh sáng to lớn chiếu tỏa rạng ngời, che cả các vì sao, đá, núi, cây cỏ, thảo dược, đèn đuốc và cả đống lửa lớn ở đại địa này, siêu xuất tối thắng, to lớn vi diệu, chiếu sáng rạng ngời. Không những thế, ánh sáng còn vượt hơn cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ánh sáng các cung điện được hóa ra của bốn đại Thiên vương thân trang nghiêm đầy đủ; ánh sáng cung điện hóa ra của Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, thân trang nghiêm đầy đủ; ánh sáng các cung điện được hóa ra của Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm hội thiên, Đại phạm thiên, thân trang nghiêm đầy đủ. Các ánh sáng của các cung điện ấy rạng ngời to lớn siêu xuất tối thượng. Ánh sáng các cung điện được hóa ra của Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Vô vân thiên, Phước sinh thiên, Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên, Vô phiền thiên, Vô nhiệt thiên, Thiện kiến thiên, Thiện hiện thiên, Sắc cứu cánh thiên, thân trang nghiêm đầy đủ bằng các ánh sáng. Ánh sáng thanh tịnh của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác vi diệu rạng ngời siêu xuất tối thắng hơn thế nữa. Vì sao? Vì Như Lai viên mãn rộng lớn vô lượng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Này Xá-lợi Tử! Nếu đem tất cả ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới so với ánh sáng của Như Lai trăm phần không bằng một, cho đến ôba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Ví như đem vàng thường ở thế gian để vào đống vàng ròng trong Diêm-phù-đàn, thì số vàng thường ấy không có ánh sáng, cũng không rực lên, không phát ánh sáng. Tất cả ánh sáng trong tam thiên đại thiên thế giới đối với ánh sáng tối thượng của Như Lai không thể lóe ánh sáng lên được. Ánh sáng của Như Lai rộng lớn tối thắng không có gì bằng, cũng không có phần hạn; nghiệp báo cực thiện hiện tiền tùy chuyển, chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế giới, sáng hơn cả ánh sáng mặt trời mặt trăng ngày đêm. Như Lai thương xót tất cả chúng sinh ở thế gian và khiến họ an trụ trong ánh sáng viên mãn thanh tịnh. Chỉ có ánh sáng to lớn của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác mới chiếu sáng khắp cả a-tăng-kỳ thế giới. Vì sao? Vì Như Lai đã được Ba-la-mật-đa và Bát-nhã ba-lamật-đa tối thượng.
Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Ví như có người lấy các loại đất trong tam thiên đại thiên thế giới, nghiền nát thành vi trần, rồi đi đến phương Đông qua một thế giới bỏ một bụi trần, qua thế giới thứ hai lại bỏ một bụi trần, cứ như vậy cho đến phương Nam, Tây, Bắc, qua mỗi thế giới đều bỏ bụi trần.
– Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Bụi trần ấy bỏ hết các thế giới có hết không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Không hết, thưa Thế Tôn! Không hết, thưa Thiện Thệ!
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy, dùng ánh sáng to lớn vi diệu chiếu sáng tất cả thế giới. Các ánh sáng so với ánh sáng của Phật trăm phần không bằng một, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa và Bát-nhã ba-la-mật-đa tối thượng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả cỏ, cây, vườn rừng trong đại địa, các núi Thiết vi, cho đến núi chúa Tu-di, ánh sáng của Như Lai đều chiếu đến. Không những thế, ánh sáng của Như Lai còn chiếu sáng cả tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chúng sinh hạ liệt không tin hiểu. Hoặc có chúng sinh không thể nhìn thấy ánh sáng của Như Lai, hoặc có chúng sinh nhìn thấy ánh sáng rộng lớn tròn đầy của Như Lai, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai một câu-lô-xá, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai một do-tuần, hoặc có chúng sinh thấy ánh sáng của Như Lai trong tam thiên đại thiên thế giới.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ai là người có khả năng thấy được ánh sáng của Phật trong trăm ngàn thế giới? Đó là các Bồ-tát đăng địa, có khả năng ở trong vô biên tất cả thế giới thấy được ánh sáng của Phật. Như Lai thương xót tất cả chúng sinh tận cả hư không giới và chúng sinh giới, dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp mọi nơi. Bồ-tát trụ tín nghe vậy rồi, tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, khởi ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:
Các ánh sáng mặt trời, mặt trăng
Và ánh sáng Đế Thích, Phạm vương
Đến ánh sáng Sắc cứu cánh thiên
Đều không bằng ánh sáng Đức Phật
Các ánh sáng Sắc cứu cánh thiên
Cho đến tam thiên đại thiên giới
So với ánh sáng chân lông Phật
Trong mười sáu phần không bằng một
Ánh sáng hư không là to lớn
Chúng sinh to lớn cũng như thế
Nếu thấy ánh sáng của Như Lai
Vô biên vô tận bằng hư không
Người đáng độ thấy ánh sáng Phật
Các chúng sinh mù ở thế gian
Không thấy ánh sáng của mặt trời
Trở lại nói rằng không ánh sáng
Chúng sinh hạ liệt cũng như thế
Phật phóng hào quang thường chiếu sáng
Nhưng không thấy được ánh sáng đó
Trở lại cho là không ánh sáng
Có chúng sinh thấy ánh sáng Phật
Hoặc câu-lô-xá hoặc do-tuần
Hoặc ở trong ba ngàn thế giới
Người thấy được ánh sáng Đức Phật
Chỉ có Bồ-tát đã đăng địa
Bát địa, Cửu địa và Thập địa
Thảy đều an trụ trong đại địa
Thấy ánh sáng Phật đủ đại tuệ
Bồ-tát hướng đến đại tuệ Phật
Nương vào ánh sáng vô biên ấy
Làm các Phật sự lợi chúng sinh
Các cõi nước Phật chẳng nghĩ bàn
Chư Phật Như Lai chẳng nghĩ bàn
Ánh sáng chẳng nghĩ bàn cũng thế
Chẳng nghĩ bàn khai tâm tịnh tín
Các môn phước uẩn chẳng nghĩ bàn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là giới định viên mãn chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, Bồ-tát trụ tín tin hiểu thanh tịnh, vượt lên mọi phân biệt lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và khởi ý tưởng hy hữu?
Này Xá-lợi Tử! Lời nói chân thật của Như Lai nói ra như vầy: Tất cả chúng sinh ở thế gian, nếu giới uẩn thanh tịnh, thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, thì các chúng sinh ấy đối với thế gian sinh, đối với thế gian già không nhiễm pháp thế gian, được pháp lìa tội của Bà-la-môn, được pháp quán tưởng Tam-mađịa tịch tĩnh của Sa-môn, sẽ được Ba-la-mật-đa tối thượng. Như Lai lại dùng lời nói chân thật nói ra như vầy: Ta không thấy thế gian tất cả Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la… mà có thể được giới uẩn, định uẩn thanh tịnh đồng với giới, định uẩn thanh tịnh vô lượng của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng, đã được Giới định ba-la-mật-đa.
– Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này, vậy ông có thích nghe không?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc xin Thế Tôn nói, nếu các Bí-sô có ai được nghe giới, định thanh tịnh Ba-la-mật-đa của Như Lai rồi thì sẽ tín thọ phụng hành.
Đức Phật lại hỏi Xá-lợi Tử:
– Ý ông nghĩ sao? Địa giới cùng với chúng sinh giới, giới nào nhiều?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng sinh giới nhiều hơn địa giới.
Đức Phật khen:
– Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy, đúng vậy, chúng sinh giới nhiều hơn.
Này Xá-lợi Tử! Giả sử tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, hoặc noãn sinh, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, hoặc hóa sinh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, hoặc không phải không tưởng, cho đến hết cả hữu tình giới trong một sát-na, một lạp-phược, một khoảnh khắc, không trước, không sau, đều được thân người. Tất cả loài chúng sinh trên đều được thân người trong một sát-na, một lạp-phược, một khoảnh khắc đều chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đều thành chư Phật Như Lai. Mỗi một Đức Như Lai hóa ra ngàn đầu, mỗi một đầu có ngàn mặt, mỗi một mặt đều có ngàn lưỡi, các Đức Như Lai này đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô ngại giải, Vô ngại biện tài của Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Các Đức Như Lai này trải qua câu-chi na-do-đa kiếp đồng xưng tán giới Ba-lamật-đa và công đức giới uẩn của Như Lai cũng không thể hết được.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Công đức giới uẩn của một Đức Phật Như Lai không có biên tế. Như vậy công đức giới uẩn của chư Phật Như Lai, biện tài trí tuệ hiểu rõ vô thượng, cho đến nhập đại Niếtbàn, trong khoảng thời gian đó đều bằng nhau. Vì sao? Vì trong cái không tánh mà khởi lên suy nghĩ có tánh. Thế nên công đức giới uẩn của Như Lai đại tuệ vô thượng, biện tài tối thắng vô lượng vô số không có biên tế, bằng với hư không.
Này Xá-lợi Tử! Như trên đã nói, tam thiên đại thiên thế giới, cho đến Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới khắp tất cả mười phương hằng hà sa số các thế giới, tất cả chúng sinh trong một sát-na, một lạp-phược, trong khoảnh khắc đều được thân người, cho đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, nói hẹp nói rộng cho đến ở trong tánh không mà khởi lên tánh có có thể nghĩ bàn. Thế nên, công đức giới uẩn của Như Lai, đại tuệ tối thắng, biện tài tối thượng, vô lượng vô số không có cùng tận, ngang bằng với hư không. Vì sao? Vì Như Lai đã được tối thượng Ba-la-mật-đa, giới thanh tịnh viên mãn Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại làm sáng tỏ sự tướng, tuyên nói định Ba-la-mật-đa của Như Lai, vậy ông có muốn nghe không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, khiến cho các Bí-sô nghe những lời chỉ dạy ấy rồi, tin theo thọ trì.
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Về sau sẽ có bảy mặt trời xuất hiện ở thế gian, lúc đó tam thiên đại thiên thế giới đều bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy rực lên và cháy tràn lan cả, kết thành một khối lửa lớn. Khi ấy, Đức Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, có đủ mười pháp hy hữu hiện ra nơi đó:
1. Đất bằng phẳng như lòng bàn tay; đó là pháp hy hữu thứ nhất.
2. Trong lúc đó tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy lan tràn kết thành một khối. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy đất không có gai gốc, trái lại, có vàng báu vọt lên; đó là pháp hy hữu thứ hai.
3. Trong tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy rực lên, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất ấy rộng rãi, Như Lai thọ dụng; đó là pháp hy hữu thứ ba.
4. Lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên mọc lên loại cỏ lạ xanh tươi, mượt mà, mềm mại đều quay qua phía bên phải, như là Bảo-ca-tức-lânna, có hương thơm vi diệu; đó là pháp hy hữu thứ tư.
5. Lúc ấy tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên phun lên nước tám công đức: Một là lạnh, hai là nhẹ, ba là mịn, bốn là thơm, năm là đẹp, sáu là sạch, bảy là uống không chán, tám là uống nhiều không bệnh hoạn, nên gọi là đầy đủ tám thứ nước công đức; đó là pháp hy hữu thứ năm.
6. Lúc ấy tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy có gió mát mẻ tự nhiên thổi đến. Này Xá-lợi Tử! Ví như tháng mùa hạ nóng bức, ai nấy cũng mệt mỏi, hoặc có người đến bên sông Khắc già bơi vào dòng nước mát, tắm rửa thân thể, bớt đi sự nóng bức, dần dần được nhẹ nhàng khoái thích, tắm xong lên bờ kinh hành. Cách sông không xa có một cây lớn mát mẻ, cành nhánh xum xuê che mát cả một vùng, cây ấy đẹp đẽ lạ thường giống như châu báu trang nghiêm xen nhau; thấy thế, anh ta đến dưới cây ấy ngồi nghỉ thoải mái, bốn phía có gió mát thổi đến. Này Xá-lợi Tử! Như Lai cũng như vậy, nhờ quả báo thiện nghiệp đời trước thanh tịnh sáng suốt, gió mát tự nhiên thổi đến; đó là pháp hy hữu thứ sáu.
7. Lúc đó, tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên trong nước mọc lên các loại hoa như: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca đây là pháp hy hữu thứ bảy.
8. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy hừng hực, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy tự nhiên có các loại hoa mọc trên đất liền như hoa Ađế-mục-ngật-đa, hoa Chiêm-ba-ca, hoa Tô-ma-na, hoa Phược-lợi-thi-ca, hoa A-du-ca, hoa Ba-sất-la, hoa Ca-lan-ni-ca, hoa La-ni, các loại hoa này đầy đủ sắc hương; đó là pháp hy hữu thứ tám.
9. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy dữ dội, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Thế Tôn hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, đất nơi ấy như là kim cang kiên cố chắc thật, không thể phá hoại; đó là pháp hy hữu thứ chín.
10. Lúc đó tam thiên đại thiên thế giới bị lửa cháy, cháy bùng lên, cháy dữ dội, cháy lan tràn kết thành một khối lớn. Lúc đó, Như Lai hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, nơi ấy thấy có tháp báu vi diệu xuất hiện, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn đến chiêm ngưỡng đảnh lễ cúng dường, đó là pháp hy hữu thứ mười.
Này Xá-lợi Tử! Mười pháp hy hữu này lần lượt xuất hiện ở nơi ấy. Do Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ được tánh của pháp giới, tùy theo sắc tướng mà nhập Tam-ma-địa, tâm trụ vào thiền định hưởng vui pháp lạc, trải qua hằng hà sa số kiếp như khoảng bữa ăn, Như Lai ở trong Tam-ma-địa không bị hại mất.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai tại định, trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, một câu-chi kiếp, trăm câu-chi kiếp, ngàn câu-chi kiếp, trăm ngàn câu-chi kiếp, trăm ngàn câu-chi na-dođa kiếp, sau đó xả định. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mậtđa tối thượng. Ba-la-mật-đa tối thượng ấy đầy đủ thần thông, có đại oai đức, được đại tự tại, thế nên Như Lai viên mãn đầy đủ.
Này Xá-lợi Tử! Như Thiên tử trong Phi tưởng, Phi phi tưởng Thiên, sinh rồi duyên vào một cảnh, đó là thức sở duyên, trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, thức ấy không bị các thức khác chuyển, cho đến lúc tuổi thọ hết liền diệt.
Này Xá-lợi Tử! Đầu đêm Như Lai chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Về sau, nửa đêm nhập đại Niết-bàn, trong khoảng thời gian đó không hoại diệt pháp Tam-ma-địa. Như Lai tại định không tâm có thể chuyển, không tâm sở hành, không tâm tìm xét, không tâm biến hành, không tâm có thể tăng, không tâm có thể giảm, không tâm tán loạn, không có tâm cao, không có tâm thấp, không có tâm nhiếp hộ, không tâm ẩn mật, không tâm tùy thuận, không tâm trái nghịch, không tâm chìm đắm, không tâm động chuyển, không tâm vui thích, không tâm ái trước, không tâm phân biệt, không tâm lìa phân biệt, không tâm tính toán, không tâm theo thức lưu chuyển, không tâm nương vào tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý; không tâm nương vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tâm hành theo pháp ấy, không tâm hành theo trí ấy, không tâm quán sát quá khứ, không tâm quán sát vị lai, không tâm quán sát hiện tại. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác an trụ trong Tam-ma-địa như vậy, tâm không sinh khởi một pháp nhỏ nào, nhưng đối với tất cả pháp dùng tri kiến vô ngại để tùy chuyển, mà không có chấp trước. Như Lai lìa tâm ý thức, ở trong định cũng không bị giảm mất, lại thường làm các Phật sự, nhưng không có chấp trước.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền nói kệ rằng:
Phật trong vô lượng trăm ngàn kiếp
Khắp cả ba cõi tu đạo hạnh
Giới văn định nhẫn tâm không tán
Viên thành quả Bồ-đề vô thượng
Quả báo thiện nghiệp Phật như vậy
Thoát khỏi thế gian giới thanh tịnh
Không cấu hý luận tịnh như không
Mười lực tịnh giới bằng hư không
Đầu đêm Như Lai thành Chánh giác
Về sau, nửa đêm vào Niết-bàn
Phật không tâm hành, không biến hành
Đối các tịch định không giảm mất
Mười lực giới uẩn cũng không giảm
Thần lực giải thoát cũng như thế
Trong trăm ngàn kiếp trụ nhất tâm
Phật không phân biệt, lìa phân biệt
Phật đối cảnh giới định như không
Phật trí vô ngại chuyển ba nghĩa
Tâm ý suy xét không dời đổi
Phật tử tin hiểu mười lực Phật.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy, Bồ-tát trụ tín đối với giới định của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, không còn phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui sinh khởi ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát trụ tín đối với sức thần túc thông của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến khởi ý tưởng hy hữu.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thường nói: Tôn giả Đại Mụckiền-liên thần thông đệ nhất trong chúng Bí-sô Thanh văn, nhưng đem thần thông ấy so với thần thông của Bồ-tát, ta không thấy có thần thông Thanh văn bằng với thần thông của Bồ-tát. Nếu đem thần thông của Bồ-tát so lường thần thông của Đức Phật, ta không thấy có thần thông của Bồ-tát nào ngang bằng với thần thông của Phật. Các Bồtát thường nghĩ như vầy: Thần thông của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, chúng con phát tâm siêng năng tinh tấn quyết cầu thành tựu thần lực của Như Lai. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lại dùng thí dụ để làm sáng tỏ trí lực thần thông của Như Lai, vậy ông có muốn nghe không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Nay đã đúng lúc, xin Thế Tôn nói, khiến cho các Bí-sô sau khi nghe rồi, tin hiểu thọ trì.
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao, Đại Mụckiền-liên có đại thần thông không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Bạch Thế Tôn! Con đích thân nghe Thế Tôn nói và đích thân ghi nhận Đại Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất trong chúng Bí-sô.
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Giả sử khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, tất cả thần lực của các Thanh văn đều ngang bằng với thần lực của Đại Mục-kiềnliên, cũng như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng, bằng nhau như vậy. Sắc tướng như vậy, tất cả công đức, oai thế và sức tinh tấn, thần thông biến hóa của Thanh văn tùy theo xứ sở mà thị hiện, nhưng so với Như Lai trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, một câu-chi phần không bằng một, trăm câu-chi phần không bằng một, ngàn câu-chi phần không bằng một, trăm ngàn câu-chi phần không bằng một, toán phần, số phần và thí dụ phần, cho đến ôba-ni-sát-đàm phần đều không bằng một. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai dùng sức thần thông, đặt hạt cải lên mặt đất, do sức gia trì của Như Lai, nên các Thanh văn dùng tất cả oai thần, nhưng không thể nâng hạt cải lên được, lại cũng không thể lay động, dù chỉ bằng đầu sợi lông. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng và thần thông Ba-lamật-đa.
Này Xá-lợi Tử! Như trên đã nói, tam thiên đại thiên thế giới này, cho đến Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới, khắp cả mười phương hằng hà sa số tất cả thế giới, có tất cả loài chúng sinh, hoặc noãn sinh, hoặc thai sinh, hoặc thấp sinh, hoặc hóa sinh, hoặc có sắc, hoặc không sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc không phải có tưởng, không phải không tưởng, các chúng sinh ấy, cùng lúc đều được quả Thanh văn, đầy đủ đại thần thông bằng với Đại Mục-kiền-liên. Các Thanh văn ấy cùng dùng thần thông, oai lực thần thông biến hóa, nhưng không thể nâng hạt cải dù chỉ bằng đầu sợi lông. Vì sao? Vì Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Ba-la-mật-đa tối thượng và Thần thông ba-la-mật-đa, đầy đủ đại oai đức, đại thần thông, được đại tự tại.
Đức Phật hỏi:
– Này Xá-lợi Tử! Xưa ngươi đã từng nghe kiếp phong tai có gió lớn nổi lên tên là Tỳ-lam-bà, gió ấy thổi dữ dội, làm cho tam thiên đại thiên thế giới, núi chúa Tu-di, các núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, bốn đại châu, đến tám vạn châu, kể cả biển lớn, gió thổi sóng dâng cao, nước chảy lan tràn đến một dotuần?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Xưa con đích thân nghe Thế Tôn nói các việc như vậy.
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Lúc kiếp phong tai, gió lớn thổi cuộn lên, làm cho tam thiên đại thiên thế giới, núi chúa Tu-di và các núi khác, biển cả nước dâng lên vỡ tan lan tràn khắp tất cả, cho đến vô số trăm ngàn do-tuần, địa cư chư Thiên cũng đều bị gió thổi bay khắp tất cả, thổi đến nổi mảy trần còn không thấy huống là núi đá. Các cung điện của Dạma thiên bị gió thổi tan nát bay khắp tất cả, thổi đến nổi mảy trần còn không thấy huống là cung điện. Đến cả Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm hội thiên, Đại phạm thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang âm thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên, các cung điện của các cõi trời ấy đều bị gió thổi tan nát, bay tán khắp cả, thổi đến nổi mảy trần còn không thấy huống là cung điện.
Này Xá-lợi Tử! Dù lúc đó gió lớn thổi như vậy, nhưng y vi diệu của Như Lai không thể lay động, dù chỉ bằng đầu sợi lông, huống là chéo y. Vì sao? Vì Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, thần lực chẳng thể nghĩ bàn, duyên chẳng thể nghĩ bàn, sở hành chẳng thể nghĩ bàn, đại Bi đều đầy đủ.
Này Xá-lợi Tử! Lúc gió lớn thổi lên, Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía trên dưới khắp cả mười phương hằng hà sa số tất cả thế giới làm cho gió lớn cứ thổi mãi không ngừng. Lúc đó, Như Lai dùng ngón tay chặn đứng gió lại, tức thời gió lớn dừng lại. Như vậy, thần thông trí lực của Như Lai không bị giảm mất là vì chẳng thể nghĩ bàn.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với thần thông trí lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hối, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Tất cả chúng sinh trong ba cõi
Đều làm Thanh văn đủ trí tuệ
Trí ấy ngang bằng với Mục-liên
Đầy đủ thần thông Ba-la-mật
Như Lai ở tại nơi đất ấy
Bỏ một hạt cải rất là nhỏ
Tất cả Thanh văn dùng thần thông
Nhưng không thể nâng hạt cải lên
Sở hữu hằng hà sa số đẳng
Mười phương tất cả các thế giới
Lúc gió Tỳ-lam-bà thổi lên
Khắp cả các phương đều lay chuyển
Khi gió lớn kia thổi như vậy
Phật dùng y vi diệu chận lại
Gió không lay nổi đầu sợi lông
Nhờ thần lực Phật chẳng nghĩ bàn
Gió lớn thổi động rất mãnh liệt
Như Lai chỉ dùng một sợi lông
Thần lực chặn đứng cơn gió dữ
Rộng lớn vô biên bằng hư không.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với thần lực của Như Lai, tin hiểu thanh tịnh, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trụ tín đối với mười trí lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu. Như Lai do đầy đủ mười trí lực, cho nên hiểu biết thù thắng, hơn cả các hàng trời, người, thế gian; rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả Trời, Người, Ma, Phạm không thể chuyển được, không đồng với pháp của Như Lai.
Mười lực là gì?
1. Xứ phi xứ trí lực.
2. Nghiệp báo trí lực.
3. Chủng chủng tín giải trí lự.
4. Chủng chủng giới trí lực.
5. Căn thắng liệt trí lực.
6. Chí xứ đạo trí lực.
7. Thiền định giải thoát Đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh trí lực.
8. Túc trụ tùy niệm tác chứng trí lực.
9. Thiên nhãn tác chứng trí lực.
10. Lậu tận tác chứng trí lực.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy gọi là mười trí lực của Như Lai. Như Lai do đầy đủ mười trí lực nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng có khả năng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, cho đến tất cả thế gian không có pháp nào bằng Phật.
Sao gọi là Xứ phi xứ trí lực của Như Lai? Vì Như Lai dùng trí lực vô thượng tối thắng đối với xứ phi xứ biết rõ như thật.
Thế nào là Thị xứ? Thế nào là Phi xứ?
Này Xá-lợi Tử! Phi xứ nghĩa là không dung thọ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Nếu ba nghiệp hành động như vậy mà chiêu cảm quả báo tốt đẹp thì không thể có. Còn nói dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm ác, không chiêu cảm quả báo tốt đẹp, việc này là đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là thân, miệng, ý nghiệp làm các việc thiện, mà chiêu cảm quả báo không tốt đẹp, điều đó không thể có. Còn dung thọ nghĩa là thân, miệng, ý làm các việc thiện, chiêu cảm quả báo tốt đẹp, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ tức là nếu người keo kiệt mà chiêu cảm quả báo giàu có, điều đó không thể có.
Nếu người keo kiệt chịu quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người bố thí mà chiêu cảm quả báo nghèo cùng, thì không thể có. Nếu người bố thí mà được quả báo giàu có, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người phá giới mà được sinh lên cõi trời, thì không thể có. Nếu người phá giới mà đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người trì giới mà lại đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, thì không thể có. Nếu người trì giới được sinh thiên, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người sân hận mà chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì không thể có. Nếu người sân hận mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhẫn nhục mà chịu quả báo thô lỗ xấu xa, thì không thể có. Nếu người nhẫn nhục chiêu cảm quả báo đoan chánh, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người biếng nhác mà được Tam-muội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người biếng nhác không được Tam-muội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tinh tấn mà không được Tam-muội hiện tiền, thì không thể có. Nếu người tinh tấn mà được Tam-muội hiện tiền, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tán loạn mà được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tán loạn không được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà không được đạo xuất ly, thì không thể có. Nếu người tâm tánh hay an trụ vào một cảnh mà được đạo xuất ly, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người không có trí tuệ mà có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen chủng tử, thì không thể có. Nếu người không có trí tuệ, thì không có khả năng đoạn trừ thói quen của chủng tử, đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người có trí tuệ mà không có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì không thể có. Nếu người có trí tuệ, có khả năng đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người sát sinh khởi lên nhân giết hại, mà chiêu cảm quả sống lâu, thì không thể có. Nếu người sát sinh mà chịu lấy sự chết yểu, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả chết yểu, thì không thể có. Nếu người lìa sát sinh mà chiêu cảm quả sống lâu, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì không thể có. Nếu người trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả nghèo hèn, thì không thể có. Nếu người lìa trộm cắp mà chiêu cảm quả giàu sang, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà nhiễm mà được nhà cửa con cái thì không thể có. Nếu người tà nhiễm mà không được nhà cửa con cái, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tà nhiễm mà không được nhà cửa vợ con thì không thể có. Nếu người lìa tà nhiễm mà được nhà cửa vợ con, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người vọng ngữ mà không chiêu cảm sự chửi bới hủy báng thì không thể có; còn chiêu cảm sự chửi bới, hủy báng, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa vọng ngữ mà lại chịu sự hủy báng chửi bới, thì không thể có; còn không chịu sự hủy báng chửi bới, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói hai lưỡi, mà quyến thuộc không chia lìa, thì không thể có; còn như quyến thuộc chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên. Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói hai lưỡi mà quyến thuộc chia lìa, thì không thể có; còn quyến thuộc không chia lìa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người ác khẩu mà thường được nghe những lời vừa ý, thì không thể có; còn nghe những lời không vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa ác khẩu mà không nghe những lời vừa ý, thì không thể có; còn nghe những lời vừa ý, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nói thêu dệt mà được biện tài quyết định, thì không thể có; còn không được biện tài quyết định, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa nói thêu dệt mà không được biện tài quyết định, thì không thể có; còn như được, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người nhiều tham lam mà được giàu sang, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tham lam mà sự giàu sang không được tồn tại lâu dài, thì không thể có; còn được giàu sang mãi mãi, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tâm sân nhuế mà không đọa vào địa ngục, thì không thể có, còn nếu đọa thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người lìa tâm sân nhuế mà không sinh lên cõi trời, thì không thể có; còn nếu sinh lên cõi trời thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà được Thánh đạo, thì không thể có. Người tà kiến, tích tập nhân tà kiến mà không được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến, mà không được Thánh đạo, thì không thể có. Nếu người chánh kiến tích tập nhân chánh kiến lại được Thánh đạo, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người tu hạnh bố thí mà tâm không được thanh tịnh, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người trì tịnh giới mà không được tịnh tâm, thì không thể có, còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người khởi lên kiến chấp có sở đắc mà được thuận nhẫn, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người chứng Không giải thoát mà không được thuận nhẫn, thì không thể có; còn nếu được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm việc ác mà tâm được khinh an, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người làm ác mà tâm được điều phục và khinh an, thì không thể có; còn không được thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ mà thành Chuyển luân thánh vương, thì không thể có. Nếu người nam được thành, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm chủ cõi trời Đế Thích, thì không thể có. Nếu người nam làm chủ thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ làm Phạm vương, thì không thể có. Nếu các người nam làm, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các người nữ hiện thành quả Phật, thì không thể có; còn nếu vào Bát nhân địa, lần lượt được quả, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Tu-đà-hoàn hiện chuyển chứng vị thứ tám, thì không thể có; còn nếu ở trong uẩn đó thú chứng Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu Tư-đà-hàm hiện chuyển vị thứ ba, thì không thể có; còn nếu trong uẩn đó hướng đến Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu A-na-hàm mà còn trở lại nhân gian, thì không thể có; còn nếu ở trong uẩn đó hướng đến Niết-bàn, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu A-la-hán mà còn kết phược tập khí, thì không thể có; nếu không còn thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các bậc Thánh nhân mà hướng cầu các thầy ngoại đạo chỉ dạy về pháp tà dị, thì không thể có; nếu không như vậy thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu người được Vô sinh pháp nhẫn mà còn bị thoái chuyển, thì không thể có; còn nếu đạt đến chứng quả Bồ-đề, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu các Bồ-tát ngồi Bồ-đề đạo tràng rồi, mà không chứng quả Bồ-đề, thì không thể có. Nếu các Bồ-tát ngồi Bồ-đề tràng rồi, quyết định chứng quả Chánh đẳng Chánh giác sau lại rời tòa, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn biểu hiện thói quen của chủng tử thì không thể có. Nếu chư Phật đoạn trừ tất cả thói quen của chủng tử, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu trí của chư Phật mà còn có chướng ngại, thì không thể có. Nếu trí của chư Phật không có chướng ngại, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng quán thấy đảnh tướng tối thắng của chư Phật, thì không thể có; còn không thấy được đảnh tướng của chư Phật thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu ai có khả năng biết được tâm sở hành của Như Lai, thì không thể có; còn không biết được tâm sở hành của Như Lai, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật trụ tâm thiền định mà còn có tướng sở đắc, thì không thể có. Chư Phật tâm thường trụ thiền định, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn nói dối không quyết định, thì không thể có. Chư Phật nói năng không hư vọng, thì đó là lẽ đương nhiên.
Lại nữa, Phi xứ là nếu chư Phật mà còn có các lỗi lầm, thì không thể có. Chư Phật lìa các lỗi lầm thì đó là lẽ đương nhiên.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói rộng các pháp bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chư Phật Như Lai ở trong đời hiện tại hoặc biết, hoặc thấy mà còn có sự chướng ngại, thì không thể có. Nếu chư Phật Như Lai ở trong hiện tại hoặc biết, hoặc thấy không bị chướng ngại thì đó là lẽ đương nhiên.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói về trí lực Xứ phi xứ không biến tế của Như Lai. Nếu ai muốn biết được biên tế ấy, cũng giống như hư không, thì làm sao biết được. Nếu không biết được biên tế của hư không, thì cái biên tế trí lực xứ Phi xứ của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Các Bồ-tát trụ tín nghe được trí lực Xứ phi xứ chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, sinh lòng tin thanh tịnh vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Mười phương hư không không cùng tận
Trí lực Xứ phi xứ cũng thế
Trí lực chân thật khắp thế gian
Nói rộng pháp chân thật tối thượng
Nếu người đầy đủ nhân giải thoát
Biết được sở hành vì nói pháp
Các chúng sinh, viên mãn pháp khí
Biết xứ phi xứ hạnh trụ xả
Hư không đại địa còn thể động
Phật nói quả báo không hư dối
Trí xứ phi xứ nếu viên thành
Thì đủ mười Lực thế xuất thế.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ nhất của Như Lai. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác do đầy đủ trí lực thù thắng như vậy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống lên tiếng rống sư tử, chuyển phạm âm vi diệu, thế gian không có pháp nào bằng với pháp Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực Nghiệp báo của Như Lai? Đức Như Lai dùng trí vô thượng biết rõ tất cả chúng sinh, tạo ra các nghiệp, tích tập nhân xứ trong quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nhân thân căn thông phần vị nhãn căn, như vậy nhân các căn và phần vị, Như Lai đều biết một cách như thật. Nếu các chúng sinh có căn tánh bố thí, tu trì giới hạnh, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền tuyên nói pháp bố thí. Nếu các chúng sinh có căn tánh trì giới, tu hạnh bố thí, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp trì giới. Nếu các chúng sinh có căn tánh nhẫn nhục, tu hạnh tinh tấn, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì nói pháp nhẫn nhục. Nếu các chúng sinh có căn tánh tinh tấn, tu hạnh nhẫn nhục, Như Lai biết rõ căn tánh mình và người khác, liền vì nói pháp tinh tấn. Nếu các chúng sinh có căn tánh thiền định, tu hạnh tuệ thù thắng, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì nói pháp thiền định. Nếu các chúng sinh có căn tánh tuệ thù thắng, tu hạnh thiền định, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì nói pháp tuệ thù thắng.
Tóm lại, cho đến các pháp Bồ-đề phần cũng như vậy. Nếu các chúng sinh đủ căn tánh Thanh văn, tu hạnh Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Thanh văn thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ tánh
Duyên giác, tu hạnh Thanh văn thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Duyên giác thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Đại thừa, mà tu hạnh Thanh văn, Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn của mình và người khác, liền vì tuyên nói pháp Đại thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh tối thượng thừa, tu hạnh Đại thừa, Như Lai biết rõ, biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân vui trong đời hiện tại, mà đời vị lai lại chịu quả khổ, Như Lai nhất định biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân khổ trong đời hiện tại, vị lai, chịu quả khổ, Như Lai nhất định biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân vui trong đời hiện tại, vị lai hưởng quả báo vui, Như Lai nhất định biết rõ như thật.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ tất cả chúng sinh có các nghiệp, hoặc nhân hoặc quả trong quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai chân thật không sai không khác, mỗi mỗi quyết định biết rõ như thật. Biết rồi, Như Lai tùy theo căn tánh đó mà vì nói pháp.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, biết rõ như thật về các nghiệp quả báo của tất cả chúng sinh tích tập nhân xứ trong quá khứ, vị lai và hiện tại. Trí lực của Như Lai không có cùng tận. Nếu ai muốn biết cái cùng tận đó, thì cũng như hư không liệu có thể biết được chăng? Nếu không biết được cái cùng tận của hư không, thì trí lực nghiệp báo của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng lại như vậy. Các Bồ-tát trụ tín được nghe trí lực Nghiệp báo chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Phật khéo biết rõ các nhân quả
Mắt trí hay quán về nghiệp pháp
Trí vô ngại khắp trong ba đời
Thấu rõ các nghiệp của chúng sinh
Các nhân khổ vui và sở nguyện
Các chúng sinh ở trong năm nẻo
Tất cả luân chuyển các nhân khổ
Nhất định Thiện Thệ đều biết rõ
Tất cả các nghiệp báo hắc bạch
Nhân quả nguyện cầu cũng như vậy
Năng Nhân đều biết rõ chân thật
Như xem báu như ý trong tay
Nếu các nghiệp báo tu nhân ít
Quả báo đương lai được vô lượng
Nếu nhân vô lượng quả lại nhỏ
Thiện Thệ chân thật đều hiểu rõ
Tu hạnh Thanh văn quả như nguyện
Duyên giác Bồ-đề nhân nguyện đồng
Trí vô thượng quả nguyện cũng vậy
Thiện Thệ đều hiểu rõ như thật
Nếu nghiệp đời trước tu nhân khổ
Đời sau chiêu cảm quả báo vui
Đối với các nghiệp tu nhân vui
Đời sau chiêu cảm quả báo khổ
Nhân khổ quả khổ pháp như vậy
Nhân vui quả vui cũng như thế
Tự nghiệp tự quả nhân hòa hợp
Thiện Thệ đều hiểu rõ như thật
Pháp khổ các cõi chuyển ba đời
Các chúng sinh khắp trong năm nẻo
Môn chân thật không đoạn không khác
Phật trí vô thượng đều hiểu rõ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ hai của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả thế gian, trời, người, ma, Phạm đều không thể chuyển, cho đến không có pháp nào bằng pháp Như Lai.
Các quả báo khác Như Lai cũng đều biết rõ như thật. Sao gọi là biết rõ? Này Xá-lợi Tử! Nghĩa là các Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ như thật về các nghiệp quá khứ và tích tập nhân lành, lìa các bất thiện được quả báo thiện trong đời vị lai của các chúng sinh. Nếu các chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, tích tập nhân bất thiện, lìa các thiện pháp, đến đời vị lai chịu quả bất thiện, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, đến đời vị lai chiêu cảm quả hạ liệt, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, đời hiện tại chiêu cảm quả thù thắng, đến đời vị lai cũng chiêu cảm quả thù thắng, nhất định Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân, ở đời quá khứ làm hạnh hạ liệt, đến đời vị lai khởi lên đại hạnh, nhất định Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân ít, sẽ chiêu cảm quả to lớn thù thắng, nhất định Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nghiệp nhân to lớn, sẽ chiêu cảm quả ít thù thắng, nhất định Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh Thanh văn, cảm quả Thanh văn, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh Duyên giác, cảm quả Duyên giác, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu nhân Phật trí, cảm quả Phật trí, nhất định Như Lai biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tích tập nhân khổ trong đời hiện tại, đến đời vị lai chiêu cảm quả vui nhất định Như Lai biết rõ như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực mỗi mỗi tin hiểu của Như Lai? Nghĩa là, chư Phật Như Lai đối với các chúng sinh, các Bổ-đặc-già-la, mỗi mỗi tin hiểu sai khác, Như Lai biết rõ mỗi mỗi như thật. Nếu các chúng sinh vốn có lòng tham ái, đối với sân khởi lên hiểu biết, như trong kinh đã nói rộng. Nếu các chúng sinh vốn là si mê, đối với sân khởi lên hiểu biết, Như Lai mỗi mỗi biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh vốn tạo pháp bất thiện, đối với pháp bất thiện khởi lên hiểu biết, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh vốn tạo thiện pháp, hiểu rõ thiện pháp, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thấp kém, đối với pháp thù thắng khởi lên sự tin hiểu, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thù thắng, nhưng lại hiểu rõ pháp hạ liệt, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thấp kém, nhưng lại tin hiểu phần vị thù thắng, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh thù thắng, mà lại tin hiểu thấp kém, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu tà định, rồi chấp vào pháp định ấy, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu chánh định và tham khảo thực hành pháp định ấy, Như Lai đều biết rõ như thật. Nếu các chúng sinh tu giải thoát về môn chánh định, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Dục giới rồi vào Dục giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Sắc giới, rồi vào Sắc giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp của Vô sắc giới, rồi nhập vào Vô sắc giới ấy, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu định pháp ba cõi, rồi vào khắp ba cõi, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh vốn trụ phần vị thấp kém, mà lại được pháp thù thắng, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh vốn trụ phần vị thù thắng mà lại được pháp thấp kém, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh khởi lên mỗi mỗi tin hiểu, mỗi mỗi sắc tướng, mỗi mỗi thọ dụng, mỗi mỗi lãnh nạp, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu nghiệp đời trước, nên chiêu cảm đọa lạc, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tin hiểu pháp giải thoát, rồi hành trì pháp giải thoát ấy, Như Lai đều biết như thật. Như Lai biết như thật rồi, tùy theo căn cơ thích ứng mà nói pháp.
Này Xá-lợi Tử! Trí lực tin hiểu của Như Lai không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực tin hiểu tối thắng của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thế gian mỗi mỗi pháp tin hiểu
Quá, vị, hiện tại không hạn lượng
Rồi lại suy nghĩ theo tin hiểu
Phật Nhân Trung Tôn đều hiểu rõ
Nếu đối pháp tham khởi tin hiểu
Mà vốn trụ vào bản chất sân
Hoặc sân hoặc si nghĩa cũng thế
Phật tùy tín giải đều hiểu rõ
Trụ tham trụ si và các pháp
Tùy tâm sở trì khó đo lường
Nghiệp hành liên tục không gián đoạn
Thắng Trí Năng Nhân đều biết rõ
Nếu các chúng sinh hạnh thấp kém
Trở lại tin hiểu pháp rộng lớn
Hạnh lớn hiểu thấp nghĩa cũng thế
Phật Điều Ngự Tôn đều hiểu rõ
Nếu các chúng sinh chấp tà định
Trở lại khởi lên cũng như thế
Môn giải thoát khắp trong ba cõi
Phật tùy tin hiểu đều biết rõ
Chỗ sinh sắc tướng mỗi mỗi khác
Thọ dụng sai biệt cũng như thế
Tùy theo nghiệp trước quả không sai
Lưỡng Túc Thắng Tôn đều hiểu rõ
Tùy theo tin hiểu biết rõ rồi
Hợp với căn cơ mà nói pháp
Môn thắng giải trí lực thứ ba
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Trí lực tin hiểu thứ ba của Như Lai như vậy. Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác do đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ; ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Tất cả thế gian, Trời, Người, Ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào ngang bằng với pháp Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai biết rõ như thật về mỗi mỗi giới. Nếu các chúng sinh ở trong các thế gian, trưởng dưỡng bằng các phước hạnh, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh trưởng dưỡng không phải bằng phước hạnh, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh trưởng dưỡng bằng hạnh bất động, Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh xuất ly, Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới như thật.
Sao gọi là năng tri? Nghĩa là Phật biết rõ trong không, ngoài không và trong ngoài đều không, cho đến biết rõ như thật về ý giới, pháp giới và ý thức giới.
Sao gọi là năng tri? Nghĩa là Phật biết rõ trong không, ngoài không và trong ngoài đều không.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới và hư không giới.
Sao gọi là năng tri? Vì như hư không, cho nên biết rõ cũng như vậy. Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới phân biệt khởi lên; biết hữu vi giới là tướng tạo tác, biết vô vi giới là tướng không tạo tác; biết tạp nhiễm giới là tướng khách trần phiền não, biết thanh tịnh giới là tướng tự tánh xán lạn; biết cảnh giới các hành là tướng vô minh tác ý không như lý, biết cảnh giới Niết-bàn là tướng sáng suốt tác ý như lý.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu các giới nương vào các giới an trụ, các giới tùy thuận, các giới kiến lập, các giới tác dụng, các giới ý thú, các giới tịch định, các giới trụ trước, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật, tùy theo cái hiểu biết đó mà vì nói pháp.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai, trí lực thù thắng như vậy không có biên tế. Nếu các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực của Như
Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Tất cả chúng sinh ở thế gian
Đều nương vào tất cả cảnh giới
Cảnh giới hướng đến cũng như vậy
Phật Vô Thượng Tôn đều biết rõ
Phước, không phước và hạnh bất động
Các giới xuất ly nghĩa như vậy
Hướng đến các giới tâm an trụ
Niết-bàn không động tâm vắng lặng
Tất cả nhãn giới và sắc giới
Nhãn thức giới kia cũng như vậy
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý giới
Như Lai đều biết rõ như thật
Đối pháp giới ấy biết rõ rồi
Ý thức giới kia cũng như vậy
Biết rõ các pháp trong ngoài không
Là đại trí lực của Năng Nhân
Địa giới, thủy giới và hỏa giới
Cùng với phong giới cũng như vậy
Biết rõ các giới cũng như thế
Cũng như hư không không khác gì
Tất cả Dục giới và Sắc giới
Vô sắc giới kia cũng như vậy
Như Lai biết rõ hết tất cả
Và sự phân biệt nó khởi lên
Nhưng hư không kia không biên tế
Các giới vô biên cũng như vậy
Tuy Phật biết hết khắp tất cả
Không khởi ngã tâm hay hiểu rõ
Biết rõ các giới không sở sinh
Cũng biết các giới không sở diệt
Các giới như vậy tâm vắng lặng
Trượng Phu Vô Thượng đều biết rõ
Như hư không không có biên tế
Trí Phật vô biên cũng như thế
Dùng trí vô ngại đều biết rõ
Mỗi mỗi tin hiểu đều giải thoát
Biết tâm khởi lên tin hiểu rồi
Vô số chúng sinh đều điều phục
Như Lai viên thành lực thứ tư
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ tư của Như Lai, nói rộng cho đến không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực thắng liệt căn của Như Lai? Nghĩa là các chúng sinh có căn tánh hoặc thù thắng, hoặc thấp kém, Như Lai đều biết rõ một cách như thật.
Sao gọi là năng tri? Nghĩa là hạ căn, trung căn và lợi căn, cũng lại biết hết các căn thù thắng. Cho đến tích tập, phân biệt từ tham mà khởi lên các căn tánh nghiệp; từ sân mà khởi lên các căn tánh nghiệp; từ si mà khởi lên các căn tánh nghiệp, Như Lai đều biết rõ như thật. Như vậy, do phân biệt các nghiệp hư vọng mà khởi lên tham, sân, si tất cả Như Lai đều biết rõ như thật. Như vậy, phân biệt các căn từ tham, sân, si ít mà khởi lên, Như Lai đều biết như thật. Phân biệt các căn từ tham, sân, si nhiều mà khởi lên, Như Lai cũng đều biết như thật. Phân biệt các căn từ tham, sân, si, chấp trước mà khởi lên, Như Lai cũng biết như thật. Hoặc thiện nhân căn tánh, hoặc không thiện nhân căn tánh, hoặc bất động nhân căn tánh, hoặc xuất ly nhân căn tánh, Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết hết tất cả nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn của chúng sinh; nữ căn, nam căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn, hai mươi hai căn như vậy, Như Lai đều biết rõ như thật.
Lại nữa, trong các căn, hoặc nhãn căn nhân thông với phần vị nhĩ căn, không phải tỷ căn, thiệt căn, thân căn, Như Lai đều biết như thật. Hoặc nhĩ căn nhân thông phần vị tỷ căn; hoặc tỷ căn nhân thông phần vị thiệt căn; hoặc thiệt căn nhân thông phần vị thân căn; hoặc thân căn nhân thông phần vị nhãn căn. Như vậy, các căn nhân và phần vị Như Lai đều biết như thật. Nếu các chúng sinh có căn tánh bố thí, tu trì giới hạnh, Như Lai đều biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp bố thí. Nếu các chúng sinh có căn tánh trì giới, tu hạnh bố thí, Như Lai biết rõ căn tánh người ấy, liền vì nói pháp trì giới. Nếu các chúng sinh có căn tánh nhẫn nhục, tu hạnh tinh tấn, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp nhẫn nhục. Nếu các chúng sinh có căn tánh tinh tấn, tu hạnh nhẫn nhục, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp tinh tấn. Nếu các chúng sinh có căn tánh thiền định, tu hạnh tuệ thù thắng, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy liền nói pháp thiền định. Nếu các chúng sinh có căn tánh tuệ thù thắng, tu hạnh thiền định, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp tuệ thù thắng.
Tóm lại, cho đến các pháp Bồ-đề cũng nói như vậy. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Thanh văn, tu hạnh Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Thanh văn thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Duyên giác, tu hạnh Thanh văn thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Duyên giác thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Đại thừa, tu hạnh Thanh văn, Duyên giác thừa, Như Lai biết rõ như thật, liền vì nói pháp Đại thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Tối thượng thừa, tu hạnh Đại thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Tối thượng thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh không kham nhậm phi pháp, Như Lai biết rõ người ấy không thể kham nhậm phi pháp, liền khuyên bỏ pháp đó đi. Nếu các chúng sinh có thể kham nhậm, là bậc pháp khí, Như Lai liền vì nói chánh pháp.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với tất cả chúng sinh, hoặc quán sát các căn mà biết rõ, hoặc không quán sát các căn cũng biết rõ; hoặc người có căn xuất ly, Như Lai đều biết rõ, người không có căn xuất ly, Như Lai cũng biết rõ. Sau khi biết rõ như vậy rồi, tùy theo các chúng sinh có những căn tánh gì, hoặc các hành pháp hoặc ý thích nhân, hoặc duyên, hoặc chướng, hoặc chỗ rốt ráo, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Các căn tánh hướng đến bờ kia
Biết tánh chúng sinh và ý vui
Các căn thế gian đều biết hết
Nhân Trung Sư tử nói chánh pháp
Quán khắp hạ, trung và thượng căn
Trí chưa từng có chuyển khắp cả
Biết các chúng sinh căn giải thoát
Trí nói thắng pháp khiến hiểu rõ
Quyết định phiền não nó khởi lên
Tùy căn chúng sinh nhiều hay ít
Biết rõ các căn tánh như vậy
Tùy thuận tuyên nói pháp trí hành
Nếu các chúng sinh đủ thiện căn
Hoặc người đủ căn tánh bất thiện
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn
Căn tánh khổ, vui, buồn, hỷ xả
Và căn tín, tấn, niệm, định, tuệ
Nam, nữ mạng căn cũng như vậy
Vì họ tuyên nói tín căn ấy
Các căn khác thắng nghĩa cũng vậy
Căn tánh sở hành và các tướng
Tùy ý chúng sinh mà cảm hóa
Ứng căn tuyên nói pháp thù thắng
Trí khéo biết rõ các pháp khổ
Thanh văn các căn khó giải thoát
Chỉ Phật Bồ-đề mới xuất ly
Thanh văn không biết nhân Phật trí
Vì nói Bồ-đề lực tối thắng.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ năm của Như Lai, cho đến rộng nói thì không có pháp nào bằng Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực chí xứ đạo của Như Lai? Nghĩa là, con đường hướng đến Biến nhất thiết xứ của Như Lai, Như Lai đều biết như thật.
Sao gọi là năng tri? Nếu các chúng sinh giới trụ Chánh định tụ, trụ Bất định tụ, trụ Tà định tụ, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ. Nếu chúng sinh giới trụ Chánh định tụ, đã có nhân lực và nghiệp đời trước, lợi căn thông minh sáng suốt, Như Lai biết chúng sinh ấy có khả năng kham nhậm, là pháp khí giải thoát, tùy theo nhân lực đời xưa mà vì nói pháp.
Nếu chúng sinh giới trụ Bất định tụ, do duyên lực đã thành thục, tùy theo căn cơ thích ứng của chúng sinh đó, Như Lai nói pháp dạy dỗ liền được giải thoát. Nếu duyên lực chưa thành thục, thì không được giải thoát, Như Lai đợi đến khi nhân duyên hòa hợp, gặp Phật ra đời, liền vì nói pháp. Chúng sinh ấy nghe Phật nói pháp rồi, siêng năng thực hành kiên cố mới được quả thù thắng. Nếu chúng sinh giới trụ Tà định tụ, không tu chánh nghiệp, căn tánh tối tăm, không phải là chánh khí, Như Lai không nói pháp cho người ấy, vì người ấy không có khả năng kham nhậm, không phải là pháp khí giải thoát, Như Lai biết rồi liền bỏ. Thế nên, các Bồ-tát phải siêng năng tu hành mặc giáp tinh tấn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ ba thứ tham: Có thứ tham khởi lên tướng thiện, lại có loại tham khởi lên tướng biên tế, lại có thứ tham khởi lên nhân đời trước. Như Lai biết rõ ba loại sân: Có loại sân khởi lên tướng não hại, lại có loại sân khởi lên ý tham không biết đủ, lại có loại sân khởi lên tập nghiệp đời trước. Như Lai biết rõ ba thứ si: Có thứ si khởi lên nhân vô minh, lại có thứ si khởi lên nhân hữu thân kiến, lại có thứ si khởi lên nhân nghi hoặc, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với các khổ, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì lợi căn; hoặc đối với khổ dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyến.
Lại nữa, Như Lai đối với các thứ vui, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vị lợi căn; hoặc đối với các thứ vui dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyến. Lại đối với chỗ chậm rãi, dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì chướng đạo; đối với chỗ chậm rãi dùng thần thông nhanh chóng để biết khiến được khinh an. Đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông chậm rãi để biết, vì không có rốt ráo an ổn; đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì không có sai khác. Lại có chỗ được sức quyết trạch không phải sức tu tập; hoặc có sức tu tập viên mãn, nhưng không phải sức quyết trạch; cả sức tu tập và sức quyết trạch đều được viên mãn; sức tu tập và sức quyết trạch cả hai không viên mãn, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, có chỗ ý vui đầy đủ, hạnh không đầy đủ, có hạnh đầy đủ, ý vui không đầy đủ; có ý vui đầy đủ, hạnh cũng đầy đủ, ý vui không đầy đủ, hạnh cũng không đầy đủ, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, có chỗ thân nghiệp thanh tịnh mà ngữ nghiệp và ý nghiệp không thanh tịnh. Lại có chỗ ý nghiệp thanh tịnh mà thân, ngữ không thanh tịnh. Lại có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều không thanh tịnh. Lại nữa, có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.
Này Xá-lợi Tử! Tất cả chúng sinh đối với tất cả chỗ, tạo ra nghiệp nhân, hoặc động, hoặc tịnh, Như Lai dùng trí vô ngại tùy theo chúng sinh mà hóa độ.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy, trí lực chí xứ đạo của Như Lai không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Phật khéo biết rõ lực Chí xứ
Biết rõ nhân các Chánh định tụ
Và các chúng sinh Bất định tụ
Tướng thành thục kia đều biết rõ
Ba loại tham Phật đều biết cả
Sân, si ba loại Phật cũng biết
Ba thứ phiền não có sai khác
Phật đều biết rõ nhân duyên xứ
Biết rõ khổ xứ, tánh lợi căn
Thần thông chậm rãi căn nhu nhuyến
Lại xứ lợi căn cũng như vậy
Phật đều biết rõ tướng chậm rãi
Có chỗ chậm rãi sức chậm rãi
Hoặc chỗ chậm rãi tánh lợi căn
Hoặc chậm, hoặc nhanh căn chậm chạp
Thần thông nhanh chóng tướng không khác
Có sức quyết trạch không sức tu
Hoặc có sức tu không quyết trạch
Sức quyết trạch, tu đều đầy đủ
Cả hai đều không, đều biết rõ
Có chỗ ý vui hoặc đầy đủ
Nhưng mà hành nghiệp chưa đầy đủ
Đều có, đều không cả hai thứ
Phật quán sát khắp đều biết rõ
Có chỗ thân nghiệp được thanh tịnh
Không phải ngữ, ý tịnh cũng vậy
Hoặc lại ngữ, thân đều thanh tịnh
Ý không thanh tịnh nghĩa cũng thế
Hoặc là ý nghiệp được thanh tịnh
Ngữ, thân không thanh tịnh cũng thế.
Hoặc lại ngữ, ý đều thanh tịnh
Thân không thanh tịnh nghĩa cũng vậy
Thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh
Phật quán sát khắp đều biết rõ
Như vậy thành tựu môn vắng lặng
Thắng trí lực thứ sáu của Phật.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực Chí xứ đạo thứ sáu của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến thế gian không có pháp nào bằng Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực khởi Thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai đối với mình, đối với người có thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí các pháp nhiễm tịnh, đều biết như thật.
Sao gọi là năng tri? Tất cả pháp tạp nhiễm của chúng sinh, hoặc nhân, hoặc duyên, Như Lai đều biết như thật và các pháp thanh tịnh của chúng sinh ấy, hoặc nhân hoặc duyên, Như Lai cũng đều biết như thật.
Sao gọi là nhân? Sao gọi là duyên? Trong các pháp tạp nhiễm của tất cả chúng sinh, tác ý không như lý là nhân, vô minh là duyên. Vô minh là nhân, hành là duyên. Hành là nhân, thức là duyên. Thức là nhân, danh sắc là duyên. Danh sắc là nhân, lục xứ là duyên. Lục xứ là nhân, xúc là duyên. Xúc là nhân, thọ là duyên. Thọ là nhân, ái là duyên. Ái là nhân, thủ là duyên. Thủ là nhân, hữu là duyên. Hữu là nhân, sinh là duyên. Sinh là nhân, sở duyên là duyên. Phiền não là nhân, nghiệp là duyên. Kiến là nhân, ái là duyên. Thùy miên là nhân, sở khởi là duyên. Các tạp nhiễm của tất cả chúng sinh như vậy là nhân, như vậy là duyên, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, nhân duyên là tất cả chúng sinh đối với pháp thanh tịnh có hai nhân và hai duyên. Nếu các chúng sinh nghe lời tùy thuận từ người khác, liền tác ý chắc chắn, đối với Tam-ma-địa khéo quán tưởng, khéo trụ tâm vào một cảnh tánh.
Lại nói về hai nhân hai duyên là đã khởi trí và chưa khởi trí. Hai nhân hai duyên là suy xét sinh pháp, không chứng Niết-bàn. Hai nhân hai duyên là đầy đủ minh hạnh, thủ chứng giải thoát. Hai nhân hai duyên là tu tập môn giải thoát, trí tự tánh giải thoát. Hai nhân hai duyên là tận trí, vô sinh trí. Hai nhân hai duyên là biết rõ chân thật, sở đắc chân thật. Như vậy tất cả chúng sinh, đối với pháp thanh tịnh có nhân như vậy, có duyên như vậy, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả chúng sinh có nhiều loại, thanh tịnh sở duyên, tạp nhiễm sở duyên. Có người giữ thanh tịnh sở duyên, suy xét như thật. Có người giữ tạp nhiễm sở duyên, suy xét như thật. Có người trong tạp nhiễm sở duyên lại giữ thanh tịnh sở duyên, suy xét như thật. Có người trong thanh tịnh sở duyên lại giữ tạp nhiễm sở duyên, là vì chấp chặt vào tăng thượng mạn.
Xá-lợi Tử! Trí thù thắng của Như Lai rộng lớn vô biên, có khả năng chuyển khắp, biết tất cả như thật. Nghĩa là xa lìa các tội nghiệp, thu thập thiện pháp, nhập vào Sơ thiền định môn Ly sinh hỷ lạc, từ định Sơ thiền nhập vào Diệt thọ tưởng định, rồi xả. Cho đến từ Diệt thọ tưởng định nhập trở lại Sơ thiền rồi xả.
Tám giải thoát nghĩa là thuận nhập, nghịch nhập và nghịch thuận nhập. Những gì là tám?
1. Có sắc quán các sắc giải thoát.
2. Bên trong không sắc tưởng quán các sắc bên ngoài giải thoát.
3. Thân thanh tịnh giải thoát tác chứng trụ cụ túc.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô biên xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8. Diệt thọ tưởng giải thoát.
Tám giải thoát này, hoặc thuận, hoặc nghịch, đẳng trì đẳng chí và Tam-muội da đều hay quán tưởng. Nhưng Phật Như Lai đối với Tam-ma-địa đều không phân biệt cũng không sở duyên và bỉ sở nhập. Như Lai trụ trong một Tam-ma-địa biến nhập tất cả Tam-ma-địa, xả một định thì các định khác cũng vậy. Như Lai đối với tâm Đẳng dẫn không có chuyển liên tục, không có tâm sở đắc, không có tâm năng quán. Tất cả Tam-ma-địa của Duyên giác hơn Tam-ma-địa của Thanh văn. Tamma-địa của Bồ-tát hơn Tam-ma-địa Duyên giác. Tam-ma-địa chư Phật hơn Tam-ma-địa Bồ-tát. Vì sao? Vì trí thù thắng tăng thượng của Như Lai biến chuyển khắp tất cả. Nếu người phát tâm Thanh văn có nói ra điều gì, hay giảng dạy giáo pháp, Như Lai đều biết. Nếu người phát tâm Duyên giác, hoặc người phát tâm Bồ-tát, Như Lai cũng biết như thật, rồi tùy theo trình độ thích ứng mà nói pháp dạy dỗ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực khởi lên Thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí nhiễm tịnh thứ bảy của Như Lai, không có cùng tận, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập bằng kệ rằng:
Có các chúng sinh tánh tạp nhiễm
Và các chúng sinh nhân thanh tịnh
Bậc Đại Vô Úy đều biết rõ
Biết rồi tùy ứng mà nói pháp
Nhưng các phiền não từ đâu có?
Từ duyên vô minh mà sinh ra
Vô minh là nhân, hành là duyên
Cho đến chi hữu sinh các khổ
Tất cả phiền não các căn bản
Nguyên do tác ý không như lý
Từ nhân duyên ấy sinh chi hữu
Phật biết rõ rồi vì khai sáng
Các nghiệp căn bản gọi là hành
Vô minh và thức lại làm duyên
Cho đến các khổ chi hữu sinh
Theo âm thanh khác khởi các pháp
Tác ý sâu xa nhưng nội quán
Biết rõ hai nhân và hai duyên
Biết rõ nhân chúng sinh như thật
Vì khi nhân kia vắng lặng rồi
Chúng sinh nếu cầu nhân giải thoát
Phải nên quán sát pháp các duyên
Điều Ngự Thánh Tôn đều biết rõ
An trụ vững chắc giới thanh tịnh
Như ứng quán sát kỹ pháp không
Rồi khéo tu tập môn giải thoát
Giải thoát nạn khổ trong ba cõi
Thanh tịnh như thật khéo khai sáng
Chúng sinh tin pháp Phật thanh tịnh
Không, vô tướng, nguyện giải thoát môn
Tam-ma-bát-để lại tuyên bày
Thanh văn, Duyên giác các thiền định
Chúng sinh đủ cả các phiền não
Phật nói thiền định giải thoát môn
Viên thành lực thứ bảy không nhiễm
Điều phục, khó điều Phật khéo nói
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ bảy của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến hết thảy không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực nhớ nghĩ việc đời trước của Như Lai? Đức Như Lai dùng trí vô thượng, tùy theo nhớ nghĩ mà biết rõ việc chính mình, hoặc người khác. Vô số nhiều loại các việc đời trước, hoặc một đời, hoặc hai đời, ba, bốn, năm đời; hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, cho đến việc từ vô số câu-chi na-do-đa trăm ngàn đời, tùy theo nhớ nghĩ Như Lai đều biết. Hoặc kiếp thành, hoặc kiếp hoại, hoặc kiếp thành hoại, cho đến vô số kiếp thành hoại, ở nơi nào, chỗ nào, đời xa xưa có các chúng sinh có tên như vậy, dòng họ như vậy, chủng tộc như vậy, tướng như vậy, sắc tướng như vậy, hình thể như vậy, tuổi thọ như vậy, sống lâu như vậy, chịu khổ như vậy, hưởng vui như vậy, chết ở nơi nào, sinh ở nơi nào, lại chết ở nơi này rồi lại sinh nơi khác, hoặc có biểu hiện, hoặc không biểu hiện, hoặc mình, hoặc người, Như Lai đều nhớ nghĩ vô số các việc đời trước. Nếu các chúng sinh có nhân như vậy, do nhân đó, cho nên mới có ra như vậy, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật, biết rồi lại nói pháp yếu. Các tâm hạnh quá khứ của tất cả chúng sinh Như Lai đều biết rõ chắc chắn, hoặc tâm liên tục, hoặc tâm sở duyên, hoặc tâm sinh khởi, đối với tâm sở duyên không hoại không diệt.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về tâm tương tục, cho đến có những tâm tương tục gì của tất cả chúng sinh. Như Lai cũng biết rõ như thật về tâm khởi từ đâu, dù trải qua hằng hà sa số kiếp nói không thể hết được, nhưng Như Lai đều biết như thật. Vì thế nên biết, chư Phật Như Lai biết rõ tâm hạnh của tất cả chúng sinh không có biên tế, trải qua câu-chi kiếp nói cũng không hết, trí vô thượng tối thắng của Như Lai cũng không có biên tế.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy, trí lực tác chứng nhớ nghĩ việc đời trước của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, không có gì so sánh, không có hạn lượng, không thể tính đếm, không thể nói hết. Đối với cái không biên tế của chúng sinh, chỉ có trí lực thần thông nhớ nghĩ của Như Lai mới có thể biết được. Nếu các chúng sinh, sinh các thiện căn, hoặc Phật thừa, hoặc Duyên giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, hoặc các thiện pháp, Như Lai tùy niệm đều biết hết. Như Lai dùng đại oai lực, tùy theo thiện căn sở duyên của các chúng sinh mà vì nói pháp, khiến các chúng sinh ấy không còn thoái chuyển đối với quả Chánh đẳng Chánh giác, tin hiểu như vậy đều được xuất ly, hoặc phát tâm Thanh văn thừa, hoặc phát tâm Duyên giác thừa, hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực tác chứng nhớ nghĩ việc đời trước thứ tám của Như Lai, không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại bằng kệ rằng:
Trăm câu-chi kiếp không biên tế
Phật chiếu thấu tận việc đời trước
Biết rõ tâm tự tha năm loại
Như xem trái Am-ma trong tay
Thọ lượng kiếp số và sắc tướng
Chúng sinh sinh diệt tạo nghiệp nhân
Người đủ pháp khí cũng đều biết
Quá khứ vô biên không cùng tận
Thế gian chúng sinh tâm, tâm sở
Cứ sinh liên tục không gián đoạn
Đại trí Thánh Tôn biết hết cả
Quá khứ vô lượng các tâm pháp
Phật biết một tâm chúng sinh rồi
Hằng hà sa số tâm cũng vậy
Ba cõi vô tế, lại vô biên
Cho đến hậu tế không thể tận
Như vậy trí sở hành vô tận
Vô số cũng lại không hạn lượng
Biển trí Thế Tôn rộng vô biên
Đều biết chúng sinh thiện ý vui
Tôn trọng Năng Nhân đủ vô lượng
Thần thông trí lực đều rộng lớn
Như xưa đã tu nhân thiện pháp
Dùng oai thần lực để nhớ nghĩ
Vô lượng việc phước lớn như vậy
Ba thứ trí thông khéo nhớ nghĩ
Đại tâm an trụ không thoái chuyển
Đã tu thắng hạnh đạo giải thoát
Chánh trí Thiện Thệ lượng vô biên
Hay biết tất cả tâm chúng sinh
Trí lực thứ tám rộng vô biên
Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ tám của Như Lai. Do Như Lai có đầy đủ trí lực thù thắng, cho nên biết rõ thắng xứ, cho đến không có một pháp nào ngang bằng với Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực Thiên nhãn tùy niệm tác chứng của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai dùng trí vô thượng, thiên nhãn thanh tịnh, hơn cả Nhục nhãn, quán thấy tất cả chúng sinh thế gian, lúc sinh lúc diệt, giàu sang, nghèo hèn, thiện tướng ác tướng, hướng đến đường lành, rơi vào nẻo ác, tất cả đều tùy theo nghiệp báo của chúng sinh nào chịu quả báo ấy. Như Lai đều biết.
Lại nữa, nếu chúng sinh, thân, miệng, ý tạo các bất thiện, hủy báng các Hiền thánh, khởi các từ kiến; do tích tập nhân tà kiến đó, cho nên khi mạng chung đọa vào đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu các chúng sinh, thân, miệng, ý nghiệp làm các việc lành, không hủy báng Hiền thánh, khởi lên chánh kiến; do tích tập nhân chánh kiến đó, cho nên khi mạng chung, được sinh lên cõi trời. Lại nữa, Thiên nhãn Như Lai thanh tịnh, nhìn khắp mười phương tất cả cõi Phật, như hư không giới không có biên tế, cũng như pháp giới không có hạn lượng, không thể nói được. Tất cả mười phương hằng hà sa số cõi Phật, trí sáng của Như Lai thảy đều chiếu hiện, hoặc thấy tất cả lửa lớn cháy, hoặc thấy các tướng thành hoại, hoặc thấy chúng sinh từ trong ánh sáng đến, hoặc thấy chúng sinh lúc sinh, lúc diệt; hoặc thấy Bồ-tát hiện trong ánh sáng, hoặc thấy Bồ-tát từ Đâu-suất Thiên diệt rồi lại sinh xuống nhân gian, giáng thần thai mẹ, Bồ-tát sinh rồi bước đi bảy bước, các việc Bồ-tát trụ thai, vào thai đều quán thấy cả. Hoặc thấy chư Phật Thế Tôn hiện trong ánh sáng, hoặc thấy Bồtát thành quả Chánh giác, hoặc thấy chư Phật chuyển đại pháp luân, hoặc thấy chư Phật xả thọ mạng duyên hành, nhập đại Niết-bàn; hoặc thấy các Thanh văn hiện trong các ánh sáng, lại thấy Thanh văn hướng chứng Niết-bàn; hoặc thấy các Duyên giác hiện trong các ánh sáng, lại thấy Duyên giác hiện các thần thông tạo sự thanh tịnh lớn; hoặc có chúng sinh không thể nương vào ánh sáng của Phật để đến. Hoặc thấy chúng ngoại đạo và chúng Tiên ngũ thông không thể bằng với Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, thế nên không thể nương vào ánh sáng mà đến, nhưng lại nhờ vào ánh sáng trí lực Thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai, nên cũng đều nương vào ánh sáng mà đến. Hoặc lại Như Lai hiện xa luân bằng với ánh sáng rộng lớn, có các chúng sinh nương ánh sáng mà đến. Như vậy, cho đến tam thiên đại thiên thế giới, vô lượng vô biên chúng sinh giới, tất cả trời, người đều hiện trong ánh sáng trí của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai nhìn khắp các chúng sinh giới trong tất cả cõi Phật. Sau khi quán sát thấy chúng sinh nào thích ứng hóa độ, thì tùy theo trình độ thích ứng đó mà Như Lai hiện ra trước để hóa độ. Chúng sinh ấy tuy được hóa độ rồi, nhưng các chúng sinh khác không thể biết.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực Thiên nhãn tác chứng thứ chín của Như Lai, không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ-tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thiên nhãn Thiện Thệ sạch không nhơ
Tích tập thiện nhân vô số kiếp
Phật nhãn quán chiếu khắp mười phương
Cõi Phật rộng lớn không thể bàn
Hoặc thành hoặc hoại các sự tướng
Hoặc thấy lửa dữ bùng cháy lên
Hoặc thấy nhiều cõi trống rỗng cả
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Chúng sinh giới rộng lớn khó bàn
Hoặc sắc, vô sắc cũng như vậy
Hoặc sinh ác thú hay thiện thú
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Hiện tại câu-chi các Như Lai
Cho đến các Thánh Tôn Niết-bàn
Và các Duyên giác cùng Thanh văn
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Bồ-tát vì muốn lợi chúng sinh
Các vị tu hành hạnh Bồ-đề
Giác trí minh đạt không nhiếp tạng
Trí tự nhiên Phật đều chiếu sáng
Như vậy Thiện Thệ mắt không nhơ
Vi tế chúng sinh đều quán thấy
Trí nhãn lực thứ chín khó bàn
Phật tử phải nên sinh tịnh tín.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ chín của Như Lai. Như Lai do đầy đủ trí lực thù thắng cho nên biết rõ thắng xứ cho đến không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là trí lực lậu tận tác chứng của Như Lai? Nghĩa là, Như Lai dùng trí lực vô thượng, tận sạch các lậu, không phải lậu tùy tăng, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát, tự chứng thông rồi tùy theo các sở hành, ngã sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Như Lai dùng trí lực lậu tận thanh tịnh xán lạn này, đoạn tất cả thói quen chủng tử, tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể sánh kịp.
Thanh văn lậu tận là còn có hạn lượng, không đoạn tập khí. Duyên giác lậu tận cũng còn có hạn lượng, xả đại Bi và biện tài.
Như Lai lậu tận là đầy đủ các tướng, đoạn trừ tất cả thói quen chủng tử, đại Bi nhiếp thọ, biện tài vô úy sâu xa, quán sát khéo léo, tất cả thế gian không có ai hơn Ngài, trụ tướng nhất tâm hòa hợp mà thành. Vì sao? Vì Như Lai không còn nghiệp chủng tử, không còn chủng tử phiền não, oai nghi không có lỗi lầm. Cũng như hư không trong sáng quang đãng, mây mờ trần cấu không thể nhiễm. Trí lực lậu tận của Như Lai cũng lại như vậy, tất cả chủng tử phiền não không thể nhiễm. Như Lai an trụ trí lực lậu tận thanh tịnh như vậy, đã hết các lậu hoặc, nói pháp lậu tận, cũng nói pháp đoạn thủ chấp trước, khiến các chúng sinh biết rõ tất cả không khởi phân biệt hư vọng và chấp trước, khiến các chúng sinh suy xét như thật. Như Lai dùng phương tiện khéo léo nói pháp, thí dụ, khiến các chúng sinh biết được như thật về các lậu không thật, đối với tất cả các pháp không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, đối với mọi chấp trước đều được vắng lặng.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ các lậu tập của tất cả chúng sinh, các pháp lậu diệt, các lậu hướng đến đạo diệt, Như Lai biết như thật rồi, tùy theo trình độ thích ứng mà nói pháp yếu. Các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực lậu tận tác chứng của Như Lai, nghe rồi sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Trí lực lậu tận Phật đầy đủ
Rộng lớn vô lượng tịnh không chướng
Đầy đủ mười Lực trí thù thắng
Hướng chứng quả Bồ-đề vô thượng
Không đồng trí lậu tận Thanh văn
Chủng tập hạn lượng chướng trói buộc
Nhân Trung tối thượng bậc tối thắng
Dứt sạch chủng tập và hạn lượng
Các trí lậu tận của Duyên giác
Chưa đủ đại Bi và Biện tài
Thế Tôn viên thành trí lậu tận
Đại Bi, Biện tài đều vô lượng
Phật khéo an trụ trí lậu tận
Biết rõ thế gian lậu không thật
Tất cả các pháp đều hư vọng
Lý này như ứng đều biết rõ
Thương nghĩ thế gian rất khổ não
Thuyết pháp vô ngã, không, vô thường
Các tướng hư giả không có thật
Nên quán vị vắng lặng tối thượng
Không ngã, không nhân, không chúng sinh
Tác giả, thọ giả cũng đều không
Đối với tất cả pháp hư vọng
Tâm Phật từ bi quán giải thoát
Như Lai lìa hết các mệt mỏi
Pháp thật trí cũng không quên mất
Năng Nhân thường trụ môn tương ưng
Rộng lợi thế gian nói chánh pháp
Mười Lực bẻ gãy các tà pháp
Mười Lực vô biên bằng hư không
Khéo hay an trụ mười lực tôn
Chuyển luân vô thượng không gì bằng.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ mười của Như Lai. Như Lai do đầy đủ mười Trí lực như vậy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong hàng trời người hay rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, tất cả trời, người, ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào bằng với Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực tối thắng chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là bốn pháp Vô sở úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, mà các Bồ-tát trụ tín phải nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu?
Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sở úy của Như Lai có bốn thứ, do Như Lai có đầy đủ bốn Vô sở úy này, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu, ngoài ra các Sa-môn, Bà-la-môn khác đều không thể chuyển. Tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Bốn Vô sở úy là gì?
Một là, Nhất thiết trí vô úy. Nghĩa là Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, pháp này chỉ có Phật mới tự chứng biết, ngoài ra các hàng trời, người, thế gian không có pháp nào bằng với pháp Phật nói. Như Lai nhờ pháp này cho nên thành Chánh đẳng giác”. Sao gọi là Như Lai thành Chánh đẳng giác? Vì tất cả pháp bình đẳng, cho nên Phật Như Lai thành Chánh đẳng giác. Đối với các pháp không cao, không thấp, hoặc pháp dị sinh, hoặc pháp Thánh nhân, hoặc pháp chư Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp Duyên giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp có tội, hoặc pháp không tội, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, đối với các pháp như vậy, Như Lai đều bình đẳng. Đây gọi là Như Lai hiện thành Chánh giác.
Trong đó, sao gọi là bình đẳng? Nghĩa là, Không bình đẳng, vì thấy được tự tánh; vô tướng bình đẳng, ấy là tướng tự tánh; vô nguyện bình đẳng, ấy là tam giới tự tánh; vô sinh bình đẳng, ấy là sinh tự tánh; vô tác bình đẳng, ấy là tác tự tánh; vô khởi bình đẳng, tức là khởi tự tánh; vô hàm tàng bình đẳng, tức là hàm tàng tự tánh; như đã nói bình đẳng, tức ba đời tự tánh; minh giải thoát bình đẳng, tức vô minh hữu ái tự tánh; Niết-bàn bình đẳng, tức các hành tự tánh.
Này Xá-lợi Tử! Vì các pháp bình đẳng như vậy, cho nên Như Lai hiện thành Chánh giác. Như Lai ở trong đại chúng được vô sở úy, đem pháp này chỉ dạy chúng hội, khiến các chúng hội được sinh hoan hỷ, vì thân được vui, cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ khoái thích. Như Lai đại Bi, tương ưng đầy đủ chân thật, tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh vô sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy, nhưng thật không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng. Đối với các pháp bình đẳng này, bao gồm tất cả pháp giới, pháp như thật của Như Lai thênh thang vô ngại, thậm thâm vi diệu, khó hiểu khó biết. Như Lai khởi tâm đại Bi dùng pháp này bày các phương tiện, vì các chúng sinh, rộng tuyên nói pháp xuất ly của Thánh Tôn. Pháp này có khả năng chấm dứt các khổ. Tất cả chúng sinh không sư phạm, vì đại nguyện lực, Như Lai làm sư phạm; người chưa thành Chánh giác, khiến thành Chánh giác; tất cả chúng sinh chạy theo các cảnh đoạn kiến, Như Lai dùng pháp vô úy khiến được thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sở úy của Như Lai vô cùng vô tận, ngang bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không, thì biết được cái Cùng tận vô sở úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây gọi là Vô úy thứ nhất của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lậu tận vô úy thứ hai của Như Lai là Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta đã hết các lậu, được Vô sở úy. Tất cả thế gian trời, người không có pháp nào ngang bằng với pháp Phật nói”.
Sao gọi là Như Lai đã tận các lậu? Phật Như Lai đã hết dục lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử tham lam. Như Lai đã hết hữu lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử sân hận. Như Lai đã hết vô minh lậu, tâm được giải thoát, đoạn diệt tất cả chủng tử si mê. Như Lai đã hết kiến lậu, đoạn diệt hết tất cả chủng tử phiền não. Đây gọi là Như Lai đoạn tận các lậu. Nói như thế chỉ là dựa theo thế tục, chứ không phải Thắng nghĩa đế.
Thắng nghĩa đế là trí tuệ tối thượng của bậc Thánh, hoặc biết, hoặc đoạn, hoặc tu, hoặc chứng. Tuy vậy, nhưng không dính mắc vào một pháp nhỏ nào. Vì sao? Vì như đã nói, tận biết đúng như thật. Nếu các chúng sinh tu hạnh xuất ly, Như Lai đều biết như thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết như thật nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới.
Sao gọi là năng tri? Vì Đức Phật biết rõ trong không, ngoài không, trong ngoài đều không, cho đến biết như thật về ý giới, pháp giới, ý thức giới.
Sao gọi là năng tri? Nghĩa là, Đức Phật biết rõ trong không, ngoài không, trong ngoài đều không.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai biết rõ như thật về địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới và hư không giới.
Sao gọi là năng tri? Như hư không, biết rõ cũng như vậy. Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới đều khởi từ phân biệt; biết hữu vi giới là tướng tạo tác; biết vô vi giới là tướng không tạo tác; biết tạp nhiễm giới là tướng khách trần phiền não; biết thanh tịnh giới là tướng tự tánh xán lạn; biết các hành giới là tướng vô minh tác ý không như lý; biết Niết-bàn giới là tướng trí sáng suốt tác ý như lý.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu nương vào các giới, an trụ các giới, tùy thuận các giới, kiến lập các giới, tác dụng các giới, ý thú các giới, tịch định các giới, trụ trước các giới, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật. Như Lai tùy theo đối tượng biết đó rồi vì nói pháp.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là trí lực mỗi mỗi giới của Như Lai. Lực thù thắng như vậy không có biên tế. Nếu các Bồ-tát trụ tín đối với trí lực thù thắng của Như Lai, nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp vô úy biên tế của Như Lai rồi, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây là pháp vô uy thứ hai của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ vô sở úy, cho nên tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ba là, Thuyết chướng đạo vô úy. Nghĩa là, chư Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói lên như vầy: “Ta nói các pháp chướng đạo hay chướng Thánh đạo, cho đến tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai”.
Sao gọi là pháp chướng đạo? Có một pháp hay chướng Thánh đạo là tâm của các chúng sinh không thanh tịnh. Hai pháp hay chướng Thánh đạo là không biết tàm, không biết quý. Ba pháp hay chướng Thánh đạo là thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Bốn pháp hay chướng Thánh đạo, bốn pháp ấy đều làm cho chúng sinh đọa vào đường ác. Đó là tham dục sẽ đọa vào đường ác, sân nhuế sẽ đọa đường ác, ngu si sẽ đọa vào đường ác, sợ hãi sẽ đọa vào đường ác. Năm pháp hay chướng Thánh đạo là sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, uống rượu. Sáu pháp hay chướng Thánh đạo là không tôn trọng Phật, không tôn trọng pháp, không tôn trọng Tăng, không tôn trọng giới học, không tôn trọng định học, không tôn trọng người tu hạnh đầu đà. Bảy pháp hay chướng Thánh đạo là mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn, ty mạn. Tám pháp hay chướng Thánh đạo là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định. Chín pháp hay chướng Thánh đạo là đối với ngã thân làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã làm, đang làm, sẽ làm; đối với cái gì ngã thích, làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã làm, đang làm và sẽ làm; đối với cái gì ngã không thích, làm việc không nghĩa lợi, sinh tâm tổn hại, đã làm, đang làm và sẽ làm. Mười pháp hay chướng Thánh đạo là sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác, tham sân, tà kiến.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như trên hay chướng Thánh đạo, cho đến tác ý không như lý, tương ưng sinh ra kết sử, pháp này vô vị, không nên quán, không nên làm. Do tham lam và điên đảo, cho nên không xuất ly, sinh khởi mọi ái kiến, chấp trước vào thân, miệng, ý nghiệp, ái trước càng tăng. Như Lai biết rõ các pháp chướng Thánh đạo, biết như thật rồi, vì các chúng sinh nói rõ pháp chướng đạo, khiến các chúng sinh tịch chỉ, cận chỉ, nói pháp trừ đoạn, chỉ dạy tất cả, khiến các chúng hội đều được hoan hỷ, thân được vui vẻ, tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội khoái thích. Như Lai đại Bi tương ưng chân thật đầy đủ, tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không chấp thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy, nhưng lại không dính mắc một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, vì bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng, pháp bình đẳng ấy bao trùm tất cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng vô số. Như Lai đầy đủ pháp đó rồi, tâm đại Bi thôi thúc vì các chúng sinh nói pháp đoạn trừ chướng đạo, khiến tất cả được tịch chỉ cận chỉ.
Này Xá-lợi Tử! Pháp Vô sở úy của Như Lai vô biên vô tận, bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không, thì biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Đây là pháp vô úy thứ ba của Như Lai. Như Lai do đầy đủ vô úy cho nên tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bốn là, Vô úy dứt trừ con đường khổ. Phật Như Lai đầy đủ trí thù thắng vô thượng, ở trong đại chúng nói như vầy: “Ta nói pháp xuất ly của bậc Thánh, nó có khả năng dứt sạch đường khổ, cho đến tất cả trời, người, thế gian không có pháp nào bằng pháp Phật nói”.
Sao gọi là pháp xuất ly của bậc Thánh hay chấm dứt con đường khổ? Pháp ấy có một, là con đường xuất ly của bậc Thánh. Những gì là một? Là tâm của các chúng sinh đều thanh tịnh. Hai pháp xuất ly của bậc Thánh là Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xána. Ba pháp xuất ly của bậc Thánh là Không, Vô tướng và Vô nguyện. Bốn pháp xuất ly của bậc Thánh là Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ và Pháp niệm xứ. Năm pháp xuất ly của bậc Thánh là Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. Sáu pháp xuất ly của bậc Thánh là niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. Bảy pháp xuất ly của bậc Thánh là Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi, Xả giác chi, Niệm giác chi, Định giác chi. Tám pháp xuất ly của bậc Thánh là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Chín pháp hoan hỷ căn bản là con đường xuất ly của bậc Thánh là hoan hỷ, khoái thích, khinh an, vui vẻ, đẳng trì, tri kiến, như thật, tịch tĩnh, ly nhiễm. Mười pháp xuất ly của bậc Thánh là xa lìa sát sinh, xa lìa trộm cắp, xa lìa tà nhiễm, xa lìa nói dối, xa lìa nói thêu dệt, xa lìa nói hai lưỡi, xa lìa ác khẩu, xa lìa tham dục, xa lìa sân nhuế, đầy đủ chánh kiến.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói các pháp xuất ly của bậc Thánh. Pháp ấy có khả năng chấm dứt con đường khổ, cho đến các thiện pháp Bồ-đề phần, tương ưng giới uẩn, tương ưng định uẩn, tương ưng tuệ uẩn, tương ưng giải thoát uẩn, tương ưng giải thoát tri kiến uẩn, tương ưng bốn pháp Thánh đế. Các pháp này đều là con đường xuất ly của bậc Thánh.
Lại có con đường xuất ly của bậc Thánh, đó là sở hành chân chánh. Sở hành chân chánh này không có pháp nào có thể hành, cũng không phải không hành, không vào, không ra, không lấy, không bỏ. Vì sao? Vì nếu đã hành hoặc sẽ hành, cả hai đều lìa. Tất cả các pháp không hai cũng vậy. Điều này nên thấy biết như thật vì đó là con đường xuất ly của bậc Thánh Như Lai biết rõ con đường xuất ly của bậc Thánh rồi, đem triển khai thuyết giảng cho các chúng sinh, khiến các chúng hội đều sinh hoan hỷ. Do thân vui cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ thích thú. Đại Bi Như Lai tương ưng chân thật đầy đủ, là vì tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy như vậy, nhưng không dính mắc vào một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp Vô sở úy của Như Lai không có dối gạt, là vì bình đẳng như thật. Pháp giới bình đẳng, pháp bình đẳng ấy bao trùm tất cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đầy đủ pháp ấy rồi, với tâm đại Bi thôi thúc, vì các chúng sinh khai triển tuyên nói pháp xuất ly của bậc Thánh, khiến các chúng sinh đều giác ngộ, dứt sạch tận gốc khổ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là pháp Vô sở úy thứ tư của Như Lai. Do Như Lai đầy đủ bốn Vô sở úy, cho nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Các Sa-môn, Bà-la-môn khác không thể chuyển được; cho đến tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Bốn pháp Vô sở úy của Như Lai vô biên vô tận, bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe được pháp vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Tất cả các pháp đều bình đẳng
Trí Tự Nhiên Phật tùy biết rõ
Do vậy hiện chứng Phật Bồ-đề
Như Lai bình đẳng quán sát khắp
Thế gian tất cả pháp dị sinh
Cùng pháp chư Phật đều bình đẳng
Hữu học, Vô học các pháp môn
Và pháp Duyên giác cũng như vậy
Tất cả các pháp ở thế gian
Và pháp môn tối thắng xuất thế
Pháp thiện ác không động cũng vậy
Cùng đạo Niết-bàn đều bằng nhau
Kể cả pháp không, pháp không tướng
Pháp vô nguyện ấy cũng như vậy
Trong các pháp vô sinh vô tác
Như Lai bình đẳng đồng quán chiếu
Biết rõ pháp bình đẳng này rồi
Phật vì chúng sinh rộng tuyên nói
Giáo hóa chúng sinh về giải thoát
Vô úy đệ nhất của Mâu-ni
Ba pháp giải thoát ở thế gian
Nói môn giải thoát cho chúng sinh
Phật đại vô úy Nhân Trung Tôn
Đây là pháp vô úy thứ hai
Tuy biết chư Phật diễn chánh pháp
Cớ gì thân cận không giải thoát
Tâm không thanh tịnh, không tàm quý
Bởi các nghiệp này làm chướng ngại
Lại do ba nghiệp thân, miệng, ý
Không tuân giới pháp lại làm ác
Tham, sân, si, bố khởi bốn tội
Năm tội giết hại và trộm cắp
Tà nhiễm, vọng ngôn cùng uống rượu
Sáu không tôn trọng, bảy mạn sinh
Tám thứ tà pháp bùng nổi lên
Chín thứ não xứ nhiều lỗi lầm
Sau khởi mười thứ nghiệp bất thiện
Nó làm chướng ngại đạo giải thoát
Tác ý quá lắm không biết rõ
Vì bị si ám nó che lấp
Chấp trước hư vọng và say mê
Siêng làm điên đảo biết rõ rồi
Rồi lại thân cận với chánh pháp
Đây là pháp vô úy thứ ba
Pháp môn thanh tịnh, không hạn lượng
Vì gần chánh pháp chứng Bồ-đề
Chỉ trí của Phật biết tịch tĩnh
Biết rồi rộng thí pháp cam lồ
Phật rất khen ngợi Bồ-đề phần
Cho đến rất nhiều thiện pháp khác
Quen gần là pháp môn giải thoát
Phật, Đấng Thập Lực khéo tuyên nói
Siêng năng kiên cố lìa các nhiễm
Đối với thiện pháp đều tương ưng
Pháp này phi pháp tâm không chấp
Tịch tĩnh giải thoát lìa sợ hãi
Biết rõ như thật các thiện pháp
Như hư không thênh thang không ngại
Không chấp trước pháp cũng như vậy
Có thể xuất ly biển ba cõi
Trong biển ba cõi người mê đắm
Đấng Thập Lực Tôn nói nghiệp ấy
Phật khiến giải thoát tâm thương xót
Bốn pháp vô úy bằng hư không.
Này Xá-lợi Tử! Ta đã nói bốn pháp Vô úy chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Vô sinh tức là vô tận, ở trong cái rốt ráo tận không có cái để đối trị, đây gọi là tận. Như đã nói tận, cũng lại không có pháp tận có thể tận. Đó là vô vi. Vô vi tức là không diệt, không trụ. Nếu nói có sinh thì Như Lai không sinh, pháp tánh thường trụ, pháp giới thường trụ, các pháp cũng lại tùy theo trí sở hành. Nhưng sở hành đó đều không sở hành, cũng không phải không sở hành, cũng có thể được pháp vô lậu. Tuy lại như vậy, Như Lai an trụ tâm đại Bi cũng vì chúng sinh tuyên nói rộng rãi, đoạn trừ các pháp lậu. Như Lai ở trong đại chúng được sự không sợ sệt, rồi đem pháp này chỉ dạy chúng hội, khiến các chúng hội đều được hoan hỷ; do thân được hoan hỷ cho nên tâm rất tín thuận, lại khiến chúng hội vui vẻ khoái thích. Như Lai đại Bi tương ưng đầy đủ chân thật, là tánh bình đẳng, tánh như thật, tánh không sai khác, tánh không chủng loại, tánh không sở quán, tánh không sinh, tánh không lìa, tánh không sở thủ. Tuy Như Lai đầy đủ pháp vô úy như vậy, nhưng không dính mắc một pháp nhỏ nào, cũng không phải không dính mắc. Pháp vô úy của Như Lai không có hư dối, vì là bình đẳng như thật, pháp giới bình đẳng; pháp bình đẳng ấy bao trùm cả thế giới, thênh thang vô ngại. Chánh pháp thậm thâm này vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đầy đủ pháp vô úy rồi, với tâm đại Bi thôi thúc, truyền đạt rộng rãi pháp này cho các chúng sinh.
Này Xá-lợi Tử! Pháp vô úy của Như Lai vô biên vô tận bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết được cái cùng tận vô úy của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, các các Bồ-tát trụ tín nghe nói pháp này rồi, thì nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu?
Này Xá-lợi Tử! Tâm đại Bi của Như Lai là không bỏ tất cả chúng sinh, thường hành bi mẫn là vì thành thục, do chuyển hóa với tâm đại Bi cho nên không chỗ nào là không chuyển. Vì thế nên biết, tâm đại Bi của Như Lai không có hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn, không thể so sánh, cũng không có số lượng, không thể nói hết, thật là thậm thâm, như vậy ngữ nghiệp không thể tuyên nói. Vì sao? Vì tùy theo sở chứng của Như Lai nên Bồ-đề cũng vậy. Như vậy khởi tâm đại Bi là vì các chúng sinh, tùy theo Bồ-đề như vậy nên đại Bi cũng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Như Lai chứng đắc
Bồ-đề? Vì Như Lai không có căn bản, không có chỗ trụ, cho nên mới chứng Bồ-đề.
Sao gọi là căn bản? Sao gọi là trụ? Nghĩa là, có thân kiến làm căn bản, nương vào phân biệt hư vọng mà trụ. Do Bồ-đề của Như Lai bình đẳng cho nên hiểu biết bình đẳng, cả hai pháp cũng đều bình đẳng. Đây gọi là không trụ, không căn bản. Nhờ đó mà Như Lai hiện thành Chánh đẳng Bồ-đề. Nhưng các chúng sinh đối với pháp không trụ, không căn bản đó không thể biết được. Vì muốn khiến tất cả chúng sinh biết rõ, cho nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là tịch tĩnh cận tịch, do vậy nên ta thành Chánh giác.
Sao gọi là tịch tĩnh? Sao gọi là cận tịch? Bên trong gọi là tịch tĩnh, bên ngoài gọi là cận tịch. Vì sao? Vì mắt vốn Không, cho nên ngã và ngã sở đều không có tự tánh. Đây gọi là tịch tĩnh. Như vậy, vì tai, mũi, lưỡi, thân, ý vốn Không, nên ngã và ngã sở đều không có tự tánh. Đây gọi là cận tịch. Biết mắt vốn Không rồi, nên sắc không sở thủ. Đây gọi là tịch tĩnh. Cho đến biết ý vốn Không rồi, thì pháp không sở thủ. Đây gọi là cận tịch. Nhưng các chúng sinh đối với pháp Bồ-đề tịch tĩnh này không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là tự tánh xán lạn, do vậy cho nên ta thành chánh giác.
Sao gọi là tự tánh xán lạn? Nghĩa là tự tánh không bị nhiễm, ngang bằng với hư không, tự tánh của hư không trải khắp tất cả. Vì hư không bình đẳng, cho nên tất cả pháp bình đẳng, tự tánh sáng suốt như vậy, tánh sáng suốt này tùy theo sở ứng mà biết rõ. Các kẻ ngu dị sinh do bị khách trần phiền não làm nhiễm, cho nên không biết được pháp tự tánh sáng suốt. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, cho nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không ra không vào, do vậy nên ta thành Chánh giác.
Sao gọi là không ra? Là vì vô tướng cho nên không ra. Lại không ra là vì tất cả pháp không xả.
Không vào là không dính mắc tất cả pháp. Như Lai đối với pháp không ra không vào này quán chiếu bình đẳng. Như Lai không thử không bỉ, tất cả pháp lìa bỉ thử. Vì thế Như Lai hiện thành Chánh giác. Các chúng sinh không thể hiểu nổi pháp không ra không vào này. Vì muốn khiến tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không tướng, không sở duyên, do vậy nên ta thành Chánh giác.
Sao gọi là không tướng? Sao gọi là không sở duyên? Nghĩa là, nhãn thức không sở đắc, đó là không tướng. Sắc không sở quán, đó là không sở duyên. Cho đến ý thức không sở đắc, tức là vô tướng. Pháp không sở quán, tức là không sở duyên. Này Xá-lợi Tử! Pháp không tướng, không sở duyên này là cảnh giới của bậc Thánh.
Sao gọi là cảnh giới của bậc Thánh? Ba cõi là cảnh giới của bậc Thánh. Các cảnh giới của bậc Thánh tức là không phải cảnh giới. Kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại; ba đời bình đẳng, ba luân thanh tịnh, do vậy nên ta thành Chánh giác.
Sao gọi là ba luân thanh tịnh? Nghĩa là, tâm quá khứ không chuyển, thức vị lai không hay biết, ý hiện tại không lay động. Nhưng tâm, ý và thức đều không chỗ trụ; quá khứ không phân biệt, vị lai không lãnh nạp, hiện tại không hý luận. Các chúng sinh không thể hiểu nổi ba pháp bình đẳng, ba luân thanh tịnh này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, cho nên Đức Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là vô vi, do vậy nên ta thành Chánh giác. Có nghĩa là không phải nhãn thức sở tri, cho đến cũng không phải ý thức sở tri, nên gọi là vô vi. Vô vi tức là không, nhưng đối với pháp hữu vi cũng đều hiểu rõ. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không tánh, không tánh tức là không hai. Pháp vô vi không phải là thân chứng, các chúng sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là câu không sai biệt, do vậy nên ta thành Chánh giác.
Sao gọi là không sai biệt? Sao lại gọi là câu? Như sở thuyết gọi là câu, không trụ gọi là không sai biệt; pháp giới gọi là câu, không chủng chủng tánh gọi là không sai biệt; thật tế gọi là câu, tánh không động gọi là không sai biệt; không gọi là câu, không sở đắc gọi là không sai biệt; vô tướng gọi là câu, không tầm từ gọi là không sai biệt; vô nguyện gọi là câu, không phần vị gọi là không sai biệt; không chúng sinh gọi là câu, chúng sinh không tự tánh gọi là không sai biệt; hư không gọi là câu, không sở đắc gọi là không sai biệt; không sinh gọi là câu, không diệt gọi là không sai biệt; vô vi gọi là câu, không sở hành gọi là không sai biệt; Bồ-đề gọi là câu, cận tịch gọi là không sai biệt; Niết-bàn gọi là câu, không sở chuyển gọi là không sai biệt.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp này các chúng sinh không thể hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không thể đem thân tâm để chứng. Vì sao? Vì thân này là vô tri, vô tác, vô chuyển, như cỏ, cây, ngói, đá. Tâm này như huyễn hóa, như bóng trăng in nước, như bóng nắng, cần nên biết rõ như vậy. Nếu thân tâm như vậy thì là Bồ-đề. Nói như thế là tùy theo sở hành của thế tục, chứ Bồ-đề không có một pháp nhỏ nào để nói. Hoặc thân, hoặc tâm, hoặc pháp, hoặc phi pháp, hoặc chân thật, hoặc không chân thật, hoặc thành thật, hoặc hư vọng đều không ngôn thuyết. Vì sao? Vì Bồ-đề không ngôn thuyết, tất cả pháp ấy cũng không có phần vị để dung chứa ngôn thuyết. Cũng như hư không thật không có phần vị, không ngôn thuyết, Bồ-đề cũng vậy, không có phần vị, cũng không có ngôn thuyết.
Này Xá-lợi Tử! Nếu quán sát điều đó như thật thì tất cả pháp vốn không có ngôn thuyết. Pháp không có ngôn thuyết cũng không phải không thuyết, các chúng sinh không thể hiểu nổi lý của các pháp này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề không dính mắc cũng không hàm tàng.
Sao gọi là không dính mắc? Sao gọi là không hàm tàng? Nghĩa là, do biết nhãn cho nên gọi là không dính mắc. Sắc không sở quán nên gọi là không hàm tàng. Cho đến biết rõ ý thì gọi là không dính mắc. Pháp không sở đắc gọi là không hàm tàng.
Này Xá-lợi Tử! Do Như Lai không dính mắc, không hàm tàng, cho nên hiện thành Chánh giác.
Lại nữa, nhãn không dính mắc, sắc không hàm tàng, thức không chỗ trụ. Cho đến ý không dính mắc, pháp không hàm tàng, thức không chỗ trụ. Thức không trụ kia không trụ vào tâm của tất cả chúng sinh. Đây sao gọi là biết? Vì có bốn pháp trụ vào tâm của chúng sinh. Những gì là bốn? Là trụ vào sắc, thọ, tưởng, hành thức của tất cả chúng sinh. Bốn pháp này trụ vào tâm chúng sinh, nhưng chỗ trụ ấy cũng không trụ. Như Lai biết rõ tận gốc chân thật của pháp không trụ ấy, nhưng các chúng sinh lại không hiểu nổi. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là không khái niệm. Do Không ấy cho nên Bồ-đề cũng Không, các pháp cũng Không. Vì các pháp Không ấy, cho nên Như Lai hiện thành Chánh giác, cũng không phải Không, không có sở chứng, hoặc Không, hoặc Bồ-đề đồng một lý trí không có hai. Vì Không và Bồ-đề vốn không hai cho nên pháp không có chủng loại. Do các pháp không hai, không có chủng loại, cho nên không có danh, không có tướng, không hành, rốt ráo không hành không có trong pháp tập. Đây gọi là Không. Trong đó lìa chấp trước kiến thủ, nhưng trong Thắng nghĩa đế không có một pháp nhỏ nào có thể được. Vì lý do đó cho nên gọi là Không. Nói cái Không này cũng như Không, vậy cái Không này muốn nhấn mạnh là Không, cũng không có ngôn ngữ để nói là Không, cái không đó cũng Không có ngôn ngữ để nói. Đối với cái Không ấy, nếu có người hiểu thì tất cả pháp ấy chỉ là mượn danh tự để đặt ra. Nhưng danh tự ấy không tại địa phương, mà cũng không rời địa phương, như mượn danh tự ấy không tại địa phương mà cũng không lìa địa phương. Do vậy các pháp đều mượn danh mà có ra. Tất cả các pháp cũng vậy, không tại địa phương, cũng không lìa địa phương. Như Lai biết rõ như thật, xưa nay như vậy, không sinh, không khởi, biết như thật rồi, tự tánh giải thoát, không trói, không mở, nhưng kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi pháp này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề như hư không nhưng đều bình đẳng, không cao, không thấp. Nếu ai biết các pháp rốt ráo đều Không thì cũng có thể nói không cao không thấp.
Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả các pháp không cao không thấp, nên Như Lai hiện thành Chánh giác. Tuy có thành nhưng không có một pháp nhỏ vi trần nào hoặc cao, hoặc thấp mà có thể thi tác, trí như thật biết được các pháp không có bỉ thử.
Sao gọi là trí như thật? Nghĩa là không có pháp căn bản, tuy là có sở sinh, nhưng không nhiếp thọ, cũng không chủ tể. Do không chủ tể, không nhiếp thọ, hoặc sinh, không sinh, tùy duyên mà chuyển. Nhưng ở trong đó không có pháp có thể chuyển, cũng không phải không chuyển. Như Lai đối với pháp này cũng không nói tướng đoạn diệt, các chúng sinh lại không thể hiểu nổi pháp đoạn diệt này. Vì muốn tất cả chúng sinh đều giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là như sở thuyết cú. Sao gọi là như sở thuyết cú? Như Bồ-đề ấy, sắc pháp cũng vậy, nhưng không lìa chân như. Như Bồ-đề ấy, thọ, tưởng, hành, thức cũng thế, cũng không lìa chân như. Như Bồ-đề ấy, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới cũng thế, cũng không lìa chân như. Như Bồ-đề ấy, nhãn giới, sắc giới, thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng vậy, không lìa chân như. Do vậy mà có ra các pháp môn của bậc Thánh như uẩn, xứ, giới... Vì pháp như thật, cho nên Như Lai hiện chứng Bồ-đề. Vì pháp không điên đảo nên hiện chứng Bồ-đề. Như trước đã nói, sau cũng như vậy, tiền tế không sinh, hậu tế không đến, trung tế lìa tánh. Như vậy, như sở thuyết cú. Như nói một pháp, nhiều pháp cũng vậy; như nói nhiều pháp, một pháp cũng thế. Như đã nói hoặc một hoặc nhiều đều không sở đắc, nhưng các chúng sinh lại không thể hiểu nổi như sở thuyết cú. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là nhập tướng, nhập vô tướng.
Sao gọi là tướng? Sao gọi là vô tướng? Đây nói tướng tức là sinh khởi tất cả thiện pháp. Vô tướng nghĩa là tất cả pháp đều không sở đắc.
Lại nữa, tướng là tâm vô sở trụ phần vị; vô tướng là pháp vô tướng Tam-ma-địa.
Lại nữa, tướng tức là suy nghĩ, so lường, tính đếm, tìm xét; vô tướng là vượt qua xưng lường.
Sao gọi là vượt qua xưng lường? Nghĩa là thức nghiệp là không.
Lại nữa, tướng là tìm xét hữu vi; vô tướng tức là tác chứng vô vi. Tướng này là pháp vô tướng, kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi, cũng không thể biết. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề là vô lậu, vô thủ. Sao gọi là vô lậu? Sao gọi là vô thủ? Vô lậu là lìa bốn pháp lậu. Một là lìa dục lậu; hai là lìa hữu lậu; ba là lìa vô minh lậu; bốn là lìa kiến lậu.
Vô thủ là lìa bốn thủ. Một là lìa dục thủ; hai là lìa ngã ngữ thủ; ba la lìa kiến thủ; bốn là lìa giới cấm thủ. Bốn thủ này, tất cả đều do vô minh che lấp, nước ái tưới tươi tốt pháp ngã kiến chấp thủ uẩn, xứ, giới. Như Lai đều biết rõ ngã ngữ thủ ấy là căn bản, được ngã thanh tịnh rồi, tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh. Pháp thanh tịnh ấy không có phân biệt một pháp nhỏ nào. Nếu không phân biệt tức là tác ý kiên cố sâu xa. Nếu tác ý kiến cố tương ưng thì vô minh không thể khởi lên; do vô minh không khởi, cho nên mười hai chi hữu cũng không khởi. Như vậy tức là vô sinh, tức là quyết định. Nếu quyết định tức là nghĩa điều phục. Đó chính là Thắng nghĩa. Trong Thắng nghĩa đế không có Bổ-đặc-già-la. Nếu không có Bổ-đặcgià-la, thì nghĩa không thể nói. Nếu nghĩa không thể nói thì là nghĩa duyên sinh. Nếu là nghĩa duyên sinh thì là nghĩa chánh pháp. Nếu là nghĩa chánh pháp thì là nghĩa Như Lai. Do vậy nên quán các pháp đều từ duyên sinh. Nếu có thể thấy pháp thì là thấy Như Lai, như những gì đã thấy, thì phải như thật suy xét, rốt cuộc không có một pháp nhỏ nào để thấy. Nếu không có pháp để thấy thì là thấy vô tướng và vô sở duyên, nếu thấy như vậy tức là thấy chân thật. Do pháp này nên Như Lai hiện thành Chánh giác, vì bình đẳng cho nên bình đẳng, kẻ ngu dị sinh không thể hiểu nổi pháp vô lậu vô thủ này. Vì muốn tất cả chúng sinh giác ngộ, nên Như Lai mới chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-đề vốn thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước.
Sao gọi là thanh tịnh? Sao gọi là không nhơ? Sao gọi là không nhiễm trước? Có nghĩa là, Không là thanh tịnh, vô tướng là không nhơ, vô nguyện là không nhiễm trước. Vô sinh là thanh tịnh, vô tác là không nhơ, vô khởi là không nhiễm trước. Tự tánh là thanh tịnh, viên tịnh là không nhơ, sáng suốt là không nhiễm trước. Không hý luận là thanh tịnh, lìa hý luận là không nhơ, hý luận cận tịch là không nhiễm trước. Chân như là thanh tịnh, pháp giới là không nhơ, thật tế là không nhiễm trước. Hư không là thanh tịnh, thênh thang là không nhơ, rộng lớn là không nhiễm trước. Biết bên trong là thanh tịnh, bên ngoài không sở hành là không nhơ; trong và ngoài không sở đắc là không nhiễm trước. Biết uẩn là thanh tịnh, tự tánh giới là không nhơ, xứ lìa các nghiệp là không nhiễm trước. Quá khứ tận trí là thanh tịnh, vị lai vô sinh trí là không nhơ, hiện tại pháp giới an trụ trí là không nhiễm trước.
Này Xá-lợi Tử! Thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước này có một pháp có khả năng nhiếp tất cả, pháp đó là tịch tĩnh câu. Nếu tịch tĩnh thì là biến tịch. Nếu biến tịch thì là cận tịch. Nếu cận tịch thì là không tịch. Đây chính là điều Mâu-ni Thánh Tôn đã nói.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như hư không, Bồ-đề cũng vậy; như Bồ-đề các pháp cũng thế; như các pháp, chúng sinh cũng vậy, sát độ cũng vậy, Niếtbàn cũng vậy. Đây gọi là Niết-bàn bình đẳng, là chánh nhân của tất cả pháp, biên tế rốt ráo thanh tịnh, không có đối trị, lìa nhân đối trị, xưa nay thanh tịnh, xưa nay không nhơ, xưa nay không nhiễm trước. Vì biết tất cả pháp hoặc sắc, vô sắc vốn như vậy, nên Như Lai hiện thành Chánh giác, quán các chúng sinh giới thanh tịnh, không nhơ, không nhiễm trước, liền khởi thần thông du hý, chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Xá-lợi Tử nên biết! Tâm đại Bi của Như Lai thanh tịnh, không dơ, không nhiễm trước thường vận hành đối với chúng sinh, nhưng lại không chấp trước, không sinh khởi, không quán sát, khắp cả mười phương, tất cả thế giới, thênh thang vô ngại.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bi của Như Lai vô biên vô tận, ngang bằng với hư không. Nếu ai biết cái cùng tận của hư không thì là biết cùng tận đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tin nghe tâm đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai rồi nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền nói kệ rằng:
Vì không căn bản không trụ pháp
Hiện chứng Bồ-đề Phật đã nói
Như đã biết rõ cũng như vậy
Vì các chúng sinh tuyên chỉ dạy
Biết nội nhãn căn gọi là Không
Biết ngoại sắc pháp Không cũng vậy
Tịch tĩnh cận tịch diệu pháp môn
Phật chứng Bồ-đề nói như vậy
Các chúng sinh ấy không hiểu biết
Tỳ-bát-xá-na, Xa-ma-tha
Khai giác cú nghĩa vì chúng sinh
Tâm Phật đại Bi phương tiện chuyển
Tự tánh các pháp vốn sáng suốt
Bồ-đề thanh tịnh bằng hư không
Do các chúng sinh không biết rõ
Tâm Phật đại Bi phương tiện chuyển
Tất cả chúng sinh nhiều chấp thủ
Không thể tương ưng với như lý
Không vào, không ra môn diệu pháp
Phật chứng Bồ-đề nói như vậy
Do các chúng sinh không hiểu biết
Như Lai mới khởi tâm đại Bi
Các pháp không tướng, không sở duyên
Đây là cảnh giới của các Thánh
Không phải cảnh giới của kẻ ngu
Phật chứng Bồ-đề phương tiện nói
Nhưng các dị sinh không hiểu biết
Muốn chúng giác ngộ Phật nói ra
Như Lai vì các chúng sinh đó
Tùy theo trình độ khởi đại Bi
Tự tánh vô vi pháp vi diệu
Xưa nay không sinh cũng không diệt
Nên biết pháp ấy không chỗ trụ
Trong đó tương ưng với ba tướng
Nhưng các kẻ ngu không hiểu biết
Về tự tánh các pháp hữu vi
Tùy theo trình độ khởi đại Bi
Khiến chúng sinh rõ lý pháp này
Bồ-đề không phải thân giác tri
Không phải tâm giác cũng như vậy
Tự tánh của thân vốn không biết
Tâm như pháp huyễn cũng như vậy
Nhưng kẻ ngu si không thể biết
Tự tánh thân tâm là như vậy
Tùy sự thích ứng khởi đại Bi
Khiến chúng sinh biết lý pháp này
Phật chứng Bồ-đề thật tối thắng
Bậc trí tự nhiên ngồi Bồ-đề
Ngồi rồi quán khắp chúng sinh giới
Tất cả quay tròn trong nẻo ác
Thấy vậy Phật sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Chấp trước vào các pháp kiêu mạn
Lưới khổ trói buộc chấp là vui
Vô thường, bất tịnh, ngã, chúng sinh
Điên đảo chấp vào các thứ ấy
Phật thấy vậy rồi sinh thương xót
Đối kẻ chấp trước chuyển đại Bi
Si mê bao phủ cả ba cõi
Tối tăm không được ánh sáng chiếu
Như mặt trời sáng bị mây che
Trí sáng vô cấu đều che khuất
Phật thấy vậy sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Tham ái nên sinh các nẻo ác
Phá hoại chánh đạo bị tàn hại
Địa ngục, bàng sinh cùng ngạ quỷ
Chúng sinh tạo nghiệp nên đọa lạc
Như trước Phật nói các chánh đạo
Khai sáng chỉ bày các chúng sinh
Thấy vậy Phật sinh tâm thương xót
Trong vòng sinh tử chuyển đại Bi
Biết rõ các pháp tánh như thật
Bỗng nhiên chiếu sáng bằng hư không
Như Phật đã nói các thế gian
Không biết pháp thanh tịnh tối thượng.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói pháp đại Bi chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Các Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và phát sinh ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai có mười tám pháp Bất cộng. Các Bồ-tát trụ tín nghe lời này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, không còn phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, cho đến sinh ý tưởng hy hữu. Như Lai do đầy đủ mười tám pháp này, nên biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Các Sa-môn, Bà-la-môn khác không thể chuyển; tất cả thế gian, Trời, Người, Ma, Phạm không có pháp nào bằng với pháp của Như Lai.
Sao gọi là mười pháp của Như Lai? Một là, ba nghiệp của Như Lai không có các lỗi lầm.
Thân Như Lai không có lỗi lầm, dù người trí, hay người ngu không có ai bằng pháp của Như Lai nói. Vì sao? Vì thân nghiệp của Thế Tôn thanh tịnh không có các lỗi lầm, thân tướng Như Lai ngay thẳng, các cử chỉ oai nghi đáng chiêm ngưỡng; hoặc cúi, hoặc ngửa, hoặc co, hoặc duỗi, mỗi mỗi cử chỉ không có khiếm khuyết sai lầm; mặc Tănggià-lê, tay cầm bình bát, y Tăng-già-lê cách đất bốn ngón tay, gió Tỳ-lam-bà không thể thổi lay động; bước chân, hạ chân, đi, đứng, ngồi, nằm, oai nghi như pháp; ở trong thành ấp, xóm, làng, hoặc vào, hoặc ra, mỗi bước chân không tổn hại tướng Thiên bức luân, trong hư không mưa các loại hoa sen và các nước hương thơm. Lại nữa, khi Như Lai bước đi, các chúng sinh trong đường bàng sinh được vui sướng trong bảy đêm, sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Thân Phật sáng chói chiếu sáng tất cả, dưới đến địa ngục A-tỳ, các chúng sinh ở trong địa ngục nhờ tiếp xúc ánh sáng đều được thọ vui. Đây gọi là thân Như Lai không có các lỗi lầm.
Lại nữa, lời của Như Lai không có các lỗi lầm. Lời nói không có lỗi lầm này dù người trí hay người ngu, không có ai bằng pháp Phật nói. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Như Lai nói ra đều biết thời. Đây là lời nói chân thật, lời nói thành tín chắc chắn, lời nói bình đẳng, lời nói như với việc làm, lời nói không xen tạp, lời nói làm cho chúng sinh vui, lời nói không trùng lập, lời nói văn hay nghĩa tốt trang nghiêm vi diệu. Như Lai chỉ dùng một tiếng, tùy ý các chúng sinh mỗi mỗi đều vui, lời nói đều sinh hoan hỷ. Đây gọi là lời nói của Như Lai không có các lỗi lầm.
Lại nữa, tâm Như Lai không có các lỗi lầm. Tâm không có lỗi lầm này dù người trí hay kẻ ngu, không có ai bằng pháp ngữ của Như Lai. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tâm Như Lai thường trụ thiền định, nhưng không bỏ các Phật sự, tuy luôn thi tác, nhưng tâm không sở quán, đối với tất cả pháp tri kiến vô ngại thường vận chuyển. Đây gọi là tâm Như Lai không có lỗi lầm. Với tâm như vậy, Như Lai dùng pháp không lỗi lầm vì các chúng sinh tuyên nói cũng vậy, khiến tất cả đoạn trừ các lỗi lầm. Đó là pháp Bất cộng thứ nhất của Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Tâm Như Lai không có ái trước; tất cả ma, chúng ma và các tà dị ngoại đạo khác không thể tìm thấy sơ hở của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai đã xa lìa sự thuận nghịch, tôn trọng hay tổn hại. Tất cả chúng sinh nếu khởi lên tâm tôn trọng thì tâm Như Lai cũng không cao; nếu không tôn trọng thì tâm ấy cũng không giận. Tất cả việc Như Lai làm hoặc thấy đều không lưu tán, không khởi ái trước, nhưng lại không trái với thế gian. Do tâm Như Lai không ái trước, nên tu hạnh không tranh cãi. Như Lai không ngã, không chấp, không dính mắc, lìa mọi trói buộc, thế nên Như Lai không ái trước. Do không ái trước đó, cho nên mới vì chúng sinh tuyên nói pháp đoạn ái trước. Đây là pháp Bất cộng thứ hai của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai không thất niệm. Nếu có thất niệm thì có si ám. Do Như Lai không có si ám, nên đối với thiền định, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không có chướng ngại. Như Lai quán sát tất cả tâm hạnh động chuyển của chúng sinh rồi, tùy theo trình độ thích ứng tuyên nói pháp yếu. Do không quên mất, cho nên đối với nghĩa các pháp biện tài thuyết giảng, nhưng lại không quên mất Vô ngại giải. Như Lai ở trong quá khứ, vị lai, hiện tại đầy đủ tri kiến Vô ngại, tự hiểu rồi liền vì chúng sinh khai triển tuyên nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại tri kiến Vô ngại giải không quên mất. Đây là pháp Bất cộng thứ ba của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai thường trụ Tam-ma-hê-đa, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ăn, ăn rồi hoặc im lặng, tâm không sở đắc. Như Lai đã được pháp Tam-ma-địa thậm thâm và Ba-la-mật-đa tối thượng; năng quán, sở quán đều không chướng ngại. Tất cả chúng sinh và chúng sinh tụ đều không thể quán tâm của Như Lai, chỉ trừ khi nhờ sức gia trì của Như Lai. Tâm Như Lai thường trụ Tam-ma-hê-đa rồi, liền vì chúng sinh tùy theo thích ứng tuyên nói pháp xả thanh tịnh trong Tam-ma-địa. Đây là pháp Bất cộng thứ tư của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai không có các tưởng, không đối với các tưởng và các cảnh giới mà trụ tâm. Vì sao? Vì Như Lai ở trong cõi nước không có các tưởng, cõi nước như hư không, không có cùng tận, đối với các chúng sinh không có các tưởng. Vì tự tánh của chúng sinh không có các thứ, nên đối với chư Phật không có các tưởng.
Pháp giới không sai biệt là vì trí bình đẳng, nên đối với các pháp không có các tưởng là vì lìa tham lam. Như Lai đối với các chúng sinh giữ giới đầy đủ không khởi kính tâm, thấy người hủy giới không khởi mạn tâm; người không nhiêu ích hiện khởi nhiêu ích, không đâu không nhiêu ích, nhiêu ích khắp tất cả; người không điều phục, điều phục bình đẳng; người tà định cũng không khinh mạn, đối với tất cả pháp Như Lai khởi hạnh bình đẳng. Đó là Như Lai không có các tưởng. Như Lai dùng pháp này vì các chúng sinh tuyên nói đoạn trừ các tưởng. Đây là pháp Bất cộng thứ năm của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với pháp xả đều phải lựa chọn. Vì sao? Vì Như Lai đối với người tu đạo cũng hành xả pháp, người không tu đạo cũng không xả bỏ; đối với người có tâm tu cũng hành xả pháp, người không có tâm tu cũng không xả bỏ; đối với người thọ trì giới cũng hành xả pháp, người không trì giới cũng không xả bỏ; đối với người tu tuệ cũng hành xả pháp, người không tu tuệ cũng không xả bỏ; đối với trí hành xả không bỏ ngu si, xả xuất thế gian chứ không bỏ thế gian; đối với bậc Thánh xuất ly lại hành xả pháp, không phải Thánh xuất ly cũng không xả bỏ. Như Lai chuyển phạm luân vi diệu lại hành xả pháp, đối với chúng sinh không xả tâm đại Bi. Như Lai tự chứng pháp bình đẳng xả, không mượn đối trị, nhưng có thể tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, Như Lai đối với pháp xả không cao không thấp, cũng không chỗ trụ, đạt được bất động, lìa hai pháp, không ra không vào, dựa thời mà xả, không vượt qua thời, không lay động, không sai khác, không phân biệt, không sở quán, không hòa hợp, không biểu thị, không thật, không hư, không thành, không vọng cũng không lãnh nạp. Như vậy, Như Lai đầy đủ xả pháp. Như Lai dùng pháp này vì các chúng sinh triển khai rộng rãi, khiến cho ai nấy đều đầy đủ xả pháp. Đây là pháp Bất cộng thứ sáu của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sở dục của Như Lai không giảm. Sao gọi là dục? Là thiện pháp dục. Sao gọi là không giảm? Là đại Bi tâm dục của Như Lai không giảm, đại Bi tâm dục không giảm, thuyết pháp dục không giảm, hóa độ chúng sinh dục không giảm, thành thục chúng sinh dục không giảm, quán sát dục không giảm, chỉ dạy Bồ-tát dục không giảm, khiến hạt giống Tam bảo không đoạn dục không giảm. Sở dục của Như Lai hướng đến trí tuệ là con đường trước nhất. Như vậy sở dục của Như Lai đều vì khiến tất cả chúng sinh viên mãn quả Nhất thiết trí vô thượng, tùy theo trình độ thích ứng tuyên nói pháp yếu. Đây là pháp Bất cộng thứ bảy của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tinh tấn của Như Lai không giảm. Như Lai dùng sức tinh tấn hóa độ tất cả chúng sinh, không bỏ tinh tấn, khiến người nghe pháp không biết mệt mỏi. Đối với người chấp nhận nghe pháp, Như Lai cũng không coi họ có phải là pháp khí hay không, tùy theo trình độ thích ứng mà Như Lai nói pháp yếu, không sinh mệt mỏi, không có gián đoạn. Lúc thuyết pháp không nghĩ đến ăn uống, trong khoảng thời đó không bỏ chúng sinh. Như Lai qua hằng hà sa số các cõi Phật, trong đó nếu có một chúng sinh chưa được hóa độ thì thân, miệng, tâm của Như Lai không biết mệt mỏi, ba nghiệp khinh an, phát khởi tinh tấn, cần hành như lý, khiến các chúng sinh được giải thoát của bậc Thánh. Đó là Như Lai vì các chúng sinh phát đại tinh tấn. Đây là pháp Bất cộng thứ tám của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai đối với nhất thiết xứ, nhất thiết chủng, nhưng các niệm không giảm, chánh niệm của Như Lai đều không quên mất. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai liên tục hiện chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Các tâm của tất cả chúng sinh trong quá khứ, hiện tại, vị lai Như Lai đều có khả năng nắm giữ quán sát, rốt ráo không có quên mất, tùy theo tất cả tâm hạnh của các chúng sinh mà biết rõ. Như Lai không suy nghĩ quán sát, chánh niệm không giảm, trụ ba tụ pháp, rõ căn chúng sinh, hiểu tất cả ý vui của chúng sinh, quán hạnh chúng sinh, nhưng Như Lai cũng không suy nghĩ quán sát, thuyết pháp không gián đoạn. Vì sao? Vì tùy theo đó niệm của Như Lai không giảm, niệm liền tịch tĩnh, không có quên mất. Như Lai dùng pháp này triển khai rộng rãi cho các chúng sinh. Đây là pháp Bất cộng thứ chín của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đẳng trì của Như Lai không giảm. Pháp Đẳng trì của Như Lai tức là tất cả pháp bình đẳng. Như Lai đã nói các pháp bình đẳng.
Sao gọi là Đẳng trì của Như Lai không giảm? Nếu chân như bình đẳng thì Đẳng trì bình đẳng; nếu Đẳng trì bình đẳng thì các Đức Như Lai bình đẳng. Nếu nhập vào pháp môn bình đẳng này thì gọi là Tam-ma-hê-đa. Nếu tham tế bình đẳng thì lìa tham tế bình đẳng. Nếu sân tế bình đẳng thì lìa sân tế bình đẳng. Nếu si tế bình đẳng thì lìa si tế bình đẳng. Nếu hữu vi tế bình đẳng thì vô vi tế bình đẳng. Nếu sinh tử tế bình đẳng thì Niết-bàn tế bình đẳng. Nếu nhập pháp môn bình đẳng này thì gọi là Đẳng trì của Như Lai không giảm. Vì sao? Vì Đẳng trì không giảm, cho nên rốt ráo không giảm.
Lại nữa, pháp Đẳng trì của Như Lai chẳng phải mắt tương ưng, chẳng phải tai, mũi, lưỡi, thân ý tương ưng. Như Lai đối với các căn ấy không có khiếm khuyết phá hoại, không nương vào địa giới, cũng không nương thủy, hỏa, phong giới; không nương Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; không nương vào giới này hay giới khác. Vì không nương tựa cho nên không giảm. Đó là rốt ráo không giảm.
Do Đẳng trì của Như Lai không giảm, cho nên Như Lai dùng pháp này tuyên nói rộng rãi cho các chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh được pháp môn Đẳng trì của Như Lai. Đây là pháp Bất cộng thứ mười của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tuệ Như Lai không giảm. Thắng tuệ của Như Lai sao gọi là năng tri? Nghĩa là, trí của Như Lai đối với tất cả pháp không tin từ nơi người khác; trí sở đắc của Như Lai đối với tất cả pháp không có chúng sinh, thọ giả, Bổđặc-già-la; trí thiện xảo của Như Lai vô tận vô ngại; trí của Như Lai phân biệt cú nghĩa; trí của Như Lai, trong một câu, gia trì tuyên nói tám trăm ngàn kiếp; trí của Như Lai tùy theo các câu hỏi mỗi mỗi giải nói đoạn trừ nghi hoặc; trí của Như Lai không có chướng ngại, đối với nhất thiết xứ; trí của Như Lai khéo tuyên nói kiến lập ba thừa; trí của Như Lai khéo biết rõ tám vạn bốn ngàn tâm hạnh; trí của Như Lai tùy ứng tuyên nói tám vạn bốn ngàn pháp uẩn. Như vậy, tuệ thù thắng tối thượng của Như Lai vô biên vô tận, nói không thể hết. Tuệ thù thắng không giảm của Như Lai vì chúng sinh rộng tuyên nói pháp tuệ không cùng tận. Đây là pháp Bất cộng thứ mười một của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Giải thoát của Như Lai không giảm. Sao gọi là giải thoát của Như Lai không giảm? Nghĩa là, tùy theo sự thích ứng, Như Lai đều khiến giải thoát. Các chúng Thanh văn nghe tiếng mà được giải thoát. Các chúng Duyên giác, giác ngộ duyên sinh mà được giải thoát. Chư Phật Thế Tôn lìa các chướng ngại hai thủ mà được giải thoát.
Đây nói giải thoát nghĩa là: chư Phật đời trước đã qua, chư Phật đời sau chưa đến, chư Phật hiện tại không trụ. Do vậy, nhãn sắc, hai thủ giải thoát. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm hai thủ giải thoát; không chấp thủ, không dính mắc, không nương tựa giải thoát. Vì tâm tự tánh sáng suốt, trí cũng như vậy. Đây gọi là tướng nhất tâm tương ưng tuệ thù thắng. Như Lai do đó mà hiện chứng quả Chánh đẳng Chánh giác. Khi đã chứng ngộ rồi, Như Lai dùng pháp này tuyên nói rộng rãi cho các chúng sinh. Đây là pháp Bất cộng thứ mười hai của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả thân nghiệp của Như Lai, trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí. Do vì thân nghiệp của Như Lai đầy đủ, cho nên tất cả chúng sinh thấy thân Phật đều được điều phục, nghe Phật nói pháp đều được điều phục, quán Phật im lặng đều được điều phục, thấy Phật thọ thực đều được điều phục, thấy oai nghi Phật đều được điều phục, chiêm ngưỡng các tướng Phật đều được điều phục, quán vẻ đẹp Phật đều được điều phục, chiêm ngưỡng đảnh tướng không thể thấy của Phật và phóng hào quang đều được điều phục, thấy Phật bước chân, hạ chân trong thành ấp xóm làng, hoặc vào, hoặc ra đều được điều phục. Trong bốn oai nghi của chư Phật Như Lai đều là điều phục chúng sinh. Đó là thân nghiệp của Như Lai, trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười ba của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả ngữ nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, thực hành bằng trí tuệ. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai không nói pháp hư dối, nói pháp không đoạn, ham thích nói pháp. Lời nói của Như Lai khiến người chưa biết được biết; không cao, không thấp, không phiền toái, không quanh co, không thô lỗ, không ác độc, không nham hiểm, nói lời nhu nhuyến, không có lời hủ bại, không có lời khinh động, không có lời nhiễu não, không nói gấp gáp, không nói trì trệ, nói lời rõ ràng, khéo nói lời diễn thuyết, khéo nói lời để người biết rõ; lời nói vi diệu, âm thanh vi diệu, không khiếm khuyết phá hoại, không sai lầm, lời nói ngọt ngào to lớn thù thắng vi diệu, không trần lìa trần, không dơ bẩn, không tối tăm, rõ ràng vô ngại, hòa hợp sáng suốt, thần thông mạnh mẽ, tiếng vang không phá hoại, có khả năng sinh niềm vui vi diệu, thân được hoan hỷ, tâm rất tín thuận, dứt trừ tham ái, dứt trừ sân nhuế, dứt trừ ngu si, nhiếp phục ác ma, chận các tội nghiệp, dứt trừ lời nói tà dị, chận đứng lời nói không rõ ràng; tiếng nói như tiếng trống, tiếng như Ca-lăng-tần-già, tiếng như Đế Thích, tiếng như Phạm vương, tiếng như hải triều, tiếng như sấm chớp, tiếng như động đất, tiếng như Nhạn vương, tiếng như Khổng tước vương du hý, tiếng như Câu-chỉ-la, tiếng như chim mệnh mệnh, tiếng như nai chúa, tiếng như sáo; tiếng rõ ràng dễ thể nhập, tiếng làm cho ý vui thích nghe, tiếng trong sáng sâu xa không ú ớ, tiếng sinh niềm vui vi diệu, tiếng sinh thiện căn, tiếng văn cú không gián đoạn, tiếng thích nói văn cú, tiếng nghĩa cú hòa hợp, tiếng pháp cú hòa, hợp tiếng biết thời, tiếng thuận thời, tiếng không vượt quá thời, tiếng biết được căn tánh của mình và người khéo diễn nói, tiếng bố thí trang nghiêm, tiếng trì giới thanh tịnh, tiếng nhẫn nhục nhu hòa, tiếng tinh tấn dũng mãnh, tiếng thích thiền định vi diệu, tiếng trí tuệ rốt ráo, tiếng đại Từ hòa hợp, tiếng đại Bi không mệt mỏi, tiếng đại Hỷ sáng suốt, tiếng đại Xả rốt ráo, tiếng kiến lấp ba thừa, tiếng khiến hạt giống Tam bảo không gián đoạn, tiếng an lập phần vị ba tụ, tiếng ba giải thoát môn thanh tịnh, tiếng quán bốn Đế, tiếng quán sát trí, tiếng không hủy báng người trí, tiếng các Thánh khen ngợi, tiếng biết hư không vô lượng, tiếng các tướng đầy đủ.
Này Xá-lợi Tử! Các tiếng như vậy gọi là tất cả ngữ nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, hành động bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười bốn của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ý nghiệp của Như Lai trí là con đường trước nhất, mọi việc làm đều bằng trí tuệ. Vì sao? Vì tâm pháp của Như Lai không thể nói; ý pháp, thức pháp của Như Lai không thể đem trí tuệ biện tài mà đo lường. Trí tuệ của Như Lai tùy theo trình độ mà biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, tùy theo trình độ mà biết rõ ý tất cả chúng sinh, thông đạt trí của tất cả chúng sinh, quyết định được các pháp. Các pháp đẳng trì cũng không tin từ nơi người khác, vượt khỏi sở duyên, lìa các duyên sinh, dứt trừ ba cõi và các nẻo ác, thoát khỏi các pháp ma, các dị đoan của ma, giải thoát pháp quanh co huyễn hoặc, xả bỏ ngã và ngã sở, khử trừ vô minh si ám che lấp, tu Bát chánh đạo, lìa mọi nghi hoặc, bằng với hư không, pháp giới bình đẳng không sai biệt.
Này Xá-lợi Tử! Các pháp như vậy với ý nghiệp của Như Lai trí là trước nhất, mọi việc làm đều bằng trí tuệ. Đây là pháp Bất cộng thứ mười lăm của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ Như Lai dùng tri kiến vô trước vô ngại tùy chuyển để chuyển. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ trong các cõi Phật, tất cả các việc hoặc thành hoặc hoại, Như Lai dùng phương tiện đếm biết hết tất cả. Lại trong cõi Phật, có tất cả cây cối cỏ thuốc, Như Lai cũng đều biết rõ. Lại trong cõi Phật, có tất cả loại chúng sinh và việc làm của chúng sinh, Như Lai đều biết rõ. Lại trong cõi Phật, tất cả chúng sinh có các tánh hạnh, các sắc tướng, cho đến khắp cả, Như Lai đều biết. Lại trong cõi Phật, chư Phật xuất thế hóa độ, cho đến mỗi mỗi vì các chúng sinh tuyên nói chánh pháp. Hoặc có chúng sinh dùng pháp Thanh văn để hóa độ, hoặc có chúng sinh đem pháp Duyên giác để hóa độ, hoặc có chúng sinh dùng pháp Đại thừa để hóa độ, cho đến cõi Phật rộng lớn, các chúng Bí-sô rất đông, tuổi thọ lâu dài, chánh pháp trụ thế lâu dài, gần gũi chúng sinh, ăn uống thọ dụng các việc, cho đến chúng sinh thở ra thở vào. Như vậy, tất cả chúng sinh ở đời quá khứ có các tướng, hoặc sinh, hoặc diệt, thọ sinh các nẻo, mỗi mỗi căn tánh, mỗi mỗi ý vui, Đức Phật đều biết rõ. Do tâm Như Lai không đắm trước, cho nên biết rõ tất cả pháp. Các tâm vô biên, các tâm khởi lên, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ tất cả. Như Lai dùng trí hiện lượng quán sát như thật tâm của các chúng sinh trong đời quá khứ. Trí tối thắng của Như Lai chưa từng gián đoạn, vì trình độ thích ứng chúng sinh tuyên nói chánh pháp.
Xá-lợi Tử, đây là pháp Bất cộng thứ mười sáu của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời vị lai Như Lai dùng tri kiến vô trước vô ngại tùy chuyển mà chuyển. Thế nào đời vị lai chư Phật Như Lai sẽ xuất hiện ở thế gian, Phật đều biết rõ? Cho đến đời vị lai kiếp thiêu, lửa cháy rụi sạch, nước lớn dâng lên, gió mạnh thổi dữ dội, nhưng các cõi Phật vẫn an nhiên không lay động, cho đến các địa giới trong các cõi Phật nát như vi trần và tất cả cỏ thuốc cây rừng, cho đến tướng trạng của tất cả tinh tú, đến khắp cả các cõi Phật. Chư Phật xuất thế, Duyên giác xuất thế, Thanh văn xuất thế, Bồ-tát chứng quả, cho đến chúng sinh thở ra, thở vào, ăn uống thọ dụng hoặc đi, hoặc đứng, cho đến khắp hết tất cả chúng sinh, mỗi mỗi chúng sinh đều hướng đến giải thoát, hoặc Thanh văn thừa, hoặc Duyên giác thừa, hoặc người tu Đại thừa được giải thoát. Tất cả việc đó Như Lai đều biết rõ.
Lại nữa, khắp tất cả các cõi Phật, chỗ sinh ra của mỗi mỗi chúng sinh và tâm tâm sở sinh khởi, các việc đó Như Lai đều biết rõ. Tuy biết như vậy, nhưng Như Lai đối với các chúng sinh đời vị lai không có chấp trước, chỉ ở đời vị lai như ứng quán sát, vì các chúng sinh tuyên nói chánh pháp. Này Xá-lợi Tử! Đây là pháp Bất cộng thứ mười bảy của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời vị lai Như Lai dùng tri kiến vô trước vô ngại tùy chuyển mà chuyển. Hiện tại mười phương tất cả các cõi Phật, Như Lai dùng ba thứ phương tiện tính đếm biết rõ tất cả. Hiện tại tất cả chư Phật, tất cả Bồ-tát, tất cả Duyên giác, tất cả Thanh văn, Như Lai đều biết rõ? Cho đến hiện tại tất cả tướng trạng của tinh tú Như Lai cũng đều biết rõ và hiện tại tất cả cỏ thuốc cây cối Như Lai cũng biết rõ; cho đến địa giới trong tất cả mười phương, nát vụn như vi trần Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ số vi trần đó.
Lại nữa, tất cả thủy giới trong mười phương, nước phun lên nhỏ như đầu sợi lông. Lại nữa, tất cả hỏa giới trong mười phương sinh diệt nhanh chóng. Lại tất cả phong giới trong mười phương thổi dữ dội theo nhiều cách khác nhau, thổi giáp tất cả, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết hết tất cả.
Lại nữa, giả sử tất cả không giới trong mười phương tụ lại, nhỏ li ti như đầu sợi lông, Như Lai dùng phương tiện tính đếm biết rõ tất cả. Lại nữa, hiện tại ba loại chúng sinh giới, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại địa ngục có tất cả chúng giới, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại có tất cả súc sinh giới, nguyên nhân sinh, nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại có tất cả ngạ quỷ giới, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ, Như Lai đều biết.
Lại nữa, hiện tại tất cả cõi người, nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ Như Lai đều biết rõ. Lại nữa, hiện tại các cõi trời nguyên nhân sinh và nguyên nhân diệt của họ Như Lai đều biết rõ.
Lại nữa, hiện tại tất cả chúng sinh và tâm sở ứng nhậm trì của chúng sinh, hoặc có phiền não, hoặc lìa phiền não, Như Lai đều biết. Lại nữa, hiện tại tất cả chúng sinh, tùy theo căn tánh của họ, người nên hóa độ hoặc không nên hóa độ, Như Lai đều biết. Nhưng Phật Như Lai không có hai thứ tùy lưu thức chuyển. Như Lai đem diệu lý pháp môn tối thượng không hai tuyên nói cho chúng sinh. Này Xá-lợi Tử! Đây là pháp Bất cộng thứ mười tám của Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như Lai do đầy đủ mười tám pháp Bất cộng này, nên sáng chói trong đại chúng và khắp cả mười phương tất cả thế giới, đầy đủ mọi oai quang, danh xưng tối thượng tốt đẹp hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Mười tám pháp Bất cộng của Như Lai cũng như hư không không có ngằn mé. Nếu ai biết được ngằn mé của hư không thì biết được ngằn mé pháp Bất cộng của Như Lai. Các Đại Bồ-tát trụ tín nghe pháp này rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và phát sinh ý tưởng hy hữu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Điều phục Thánh giả không lỗi lầm
Thân, ngữ, ý nghiệp đều không động
Như ứng nói pháp lợi chúng sinh
Đây là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm Phật không cao cũng không thấp
Chấm dứt tất cả mọi trái thuận
Tu hạnh không tranh tâm giải thoát
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật, Đấng Điều Phục không thất niệm
Giải thoát hành pháp đều biết rõ
Bốn Vô ngại giải đã viên minh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai đi đứng và ngồi nằm
Tất cả đều trụ tâm thiền định
Không chúng sinh tưởng tâm không loạn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai không có các thứ tưởng
Đối với cõi Phật và chúng sinh
Khởi hạnh bình đẳng danh tiếng lớn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm Phật đều hay quyết trạch xả
Chánh đạo quyết định khéo quán sát
Không có phân biệt lìa phân biệt
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Năng Nhân không giảm thiện pháp dục
Luôn luôn thực hành bi phương tiện
Điều phục vô lượng các quần sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tinh tấn chưa từng có giảm thiếu
Điều phục các kiến rộng vô biên
Khéo điều thân, miệng, ý cũng vậy
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai không giảm mất chánh niệm
Giác ngộ Bồ-đề đến đạo tràng
Đối pháp giác ngộ tâm không giác
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật không phân biệt lìa phân biệt
Bình đẳng an trụ tâm thiền định
Các pháp quyết định không chỗ nương
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật tuệ sát-na đều biết rõ
Các hạnh chúng sinh cũng đều biết
Tùy theo ý vui nói pháp môn
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Nghe tiếng giác ngộ là Thanh văn
Tưởng pháp duyên sinh gọi Duyên giác
Lìa trước không dơ bằng hư không
Tâm đại Xả này chẳng nghĩ bàn.
Thuở xưa an trụ tâm không giác
Tự tánh giải thoát tâm nhậm trì
Pháp giải thoát ấy tùy ứng nói
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Hiện tướng oai nghi chúng chiêm ngưỡng
Thân thẳng nhìn ngay vào thành ấp
Tướng tốt trang nghiêm các ánh sáng
Chúng sinh nhìn thấy đều điều phục
Chúng sinh thấy được ánh sáng Phật
Vô số chúng sinh được diệu lạc
Nhờ tiếp ánh sáng điều phục sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Phật dùng một âm diễn nói pháp
Tùy ý chúng sinh nghe hiểu được
Như vang theo tiếng lý tương ưng
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tâm nghiệp Thiện Thệ vốn không có
Trí tạo tác nghiệp đều không quên
Thánh trí tùy nhập tâm chúng sinh
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Thiền định đẳng trì khéo tương ưng
Chấm dứt tất cả mọi hý luận
Hành pháp bình đẳng bằng hư không
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai biết rõ đời quá khứ
Chuyển tất cả pháp không chướng ngại
Trí giải thoát biết rõ các nẻo
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Tất cả pháp vị lai thế gian
Hoặc là có được hoặc không được
Chúng sinh cõi nước và Như Lai
Phật đều biết rõ không mệt mỏi,
Tâm Phật chưa từng có tán loạn
Quán sát căn cơ đời vị lai
Biết chúng sinh và pháp cũng vậy
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Các chỗ chuyển trong đời hiện tại
Như Lai đều biết không đắm trước
Phật, Đấng Điều Ngự bằng hư không
Là pháp Bất cộng của Thắng Tôn.
Như Lai đã có pháp Bất cộng
Là mười tám pháp chẳng nghĩ bàn
Như thật khai sáng như hư không
Bồ-tát nên sinh lòng tịnh tín.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai do đầy đủ mười tám pháp Bất cộng như vậy, cho nên Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết rõ thắng xứ, ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, chuyển phạm luân vi diệu. Ngoài ra, các Sa-môn, Bà-lamôn, Trời, Người, Ma, Phạm đều không thể chuyển, không có pháp nào bằng pháp Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Các bố thí trụ tín được nghe pháp chẳng nghĩ bàn của Như Lai rồi, nên sinh lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui, sinh ý tưởng hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chư Phật Thế Tôn xét biết Bồ-tát trụ tín ấy là bậc Pháp khí, có khả năng nắm giữ chánh pháp Bồ-tát tạng, là pháp khí của chư Phật. Biết như vậy rồi, Thế Tôn liền đến nơi ấy, tùy căn cơ thích ứng nói pháp Bồ-đề. Này Xálợi Tử! Vì lý do đó cho nên biết Bồ-tát trụ tín là đại pháp khí. Này Xá-lợi Tử! Ta nhớ đời quá khứ, ở kiếp a-tăng-kỳ, lại quá vô lượng vô số a-tăngkỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Đức Phật xuất hiện thế gian, với danh hiệu là Đại Uẩn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy ở trong thế gian, Trời, Người, A-tu-la, Sa-môn, Bà-la-môn, các đại chúng, tự dùng thông lực chứng quả Thánh viên mãn, tuyên nói chánh pháp cho đại chúng; đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa sâu xa, thuần nhất không xen tạp, tướng viên mãn phạm hạnh thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Đức Đại Uẩn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có bảy mươi hai na-do-đa đại chúng Thanh văn. Trong các chúng hội đều là A-la-hán, đã dứt sạch các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đã đến bờ giác. Lúc đó, có nước tên là Tối thắng tràng, có đại quốc vương tên là Tối Thắng Thọ, đem chánh pháp trị hóa nhân dân, quốc độ rộng lớn, giàu có sung sướng an ổn, nhân dân đông đúc. Vua ấy có con tên là Tinh Tấn Hạnh, sắc tướng đoan nghiêm, ai cũng muốn ngắm nhìn. Thái tử này đời trước đã trồng căn lành, từng thân cận trăm ngàn na-do-tha câu-chi chư Phật, cung kính cúng dường.
Lúc đó, thái tử cùng với các quan trong dòng tộc nghỉ ở một vườn lớn đẹp đẽ. Khi ấy, đức Đại Uẩn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết thái tử Tinh Tấn Hạnh là pháp khí của Phật, có khả năng nắm giữ chánh pháp Bồ-tát tạng. Biết như vậy rồi, Thế Tôn liền đến vườn ấy, đến rồi, nhưng lại ở trên hư không nói pháp Bồ-đề đạo cho thái tử. Đức Phật Đại Uẩn bảo:
– Này thái tử! Pháp này sao gọi là Bồ-đề đạo? Nghĩa là, đối với chúng sinh khởi Từ ba-la-mật-đa, tùy chuyển nhiếp pháp. Đây gọi là Bồ-đề đạo.
Sao gọi là đối với chúng sinh khởi Từ ba-lamật-đa? Này thái tử! Bồ-tát đối với chúng sinh giới hành Từ rộng lớn, chúng sinh giới ấy như hư không giới. Ví như hư không rộng lớn thênh thang, tâm Từ của Bồ-tát cũng lại như vậy, đối với chúng sinh giới và chúng sinh tự tâm đại Từ bao trùm tất cả.
Thái tử nên biết! Như chúng sinh giới không có hạn lượng, từ quán của Bồ-tát cũng như vậy. Lại như hư không không có biên tế, chúng sinh giới cũng không có biên tế. Do chúng sinh không có biên tế, cho nên tâm Từ cũng không có biên tế.
Thái tử nên biết! Số chúng sinh giới ấy rất nhiều, không đồng địa giới, thủy giới, phong giới. Nay ta nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này và cũng rõ được chúng sinh giới nhiều vô lượng.
Này thái tử! Ví như phương Đông hằng hà sa số các thế giới, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía, trên dưới khắp cả mười phương hằng hà sa số các thế giới, nhưng tất cả đều cùng một biển cả, nước lớn đầy tràn cùng một nguồn nước. Các chúng sinh tụ trong mười phương hằng hà sa số các thế giới, đem một sợi lông chẻ thành trăm phần, rồi lấy một phần chấm lấy một giọt nước. Cứ lại như trước số lượng chúng sinh hằng hà sa số, lấy một đầu sợi lông trong nửa trăm phần chấm lấy giọt nước.
Lại nữa, như trước hằng hà sa số chúng sinh, lại chẻ sợi lông ra nửa trăm phần cho đến như đầu sợi lông kia. Này thái tử! Như trước đã nói, đại thủy uẩn, dùng phương tiện tính đếm không thể so sánh số chúng sinh giới vô lượng vô biên. Vì chúng sinh giới vô lượng vô biên, cho nên tâm Từ của Bồ-tát cũng lại như vậy.
Này thái tử! Ý thái tử nghĩ sao? Có thể biết được thiện căn từ quán của Bồ-tát không?
Thái tử thưa:
– Không thể biết, thưa Thế Tôn! Không thể biết, thưa Thiện Thệ!
Đức Phật Đại Uẩn bảo:
– Này thái tử! Thiện căn từ quán của Đại Bồtát cũng lại như vậy. Lại nữa, này thái tử! Từ tâm có khả năng hộ vệ chính mình và làm lợi ích cho người khác. Do có lòng từ cho nên không sân hận đối với người khác, cũng không biết mệt mỏi, lìa các giận dữ, dứt mọi lỗi lầm, không thấy trái thuận, biểu hiện thanh tịnh, diệt mọi cấu uế; thân, miệng, tâm thường sinh niềm vui vi diệu, trừ bỏ tạp nhiễm, dứt mọi sợ hãi, khéo phòng hộ nhuế ác, khởi ý thanh tịnh, diệt mọi đấu tranh, không cầm dao gậy, hướng đến giải thoát, lìa các tổn hại, xa lìa mọi tâm ý quanh co, từ cú tạp loạn, lời lẽ hư dối, nuôi dưỡng thân mạng bằng tài lợi tốt đẹp, thường được Đế Thích, Phạm vương cung kính, oai đức trang nghiêm, bậc trí khen ngợi, bảo hộ các người ngu, hộ trì phạm hạnh, không nhiễm trước dục giới, phát sinh tất cả đường giải thoát và khéo nhiếp thọ, không ham thích phước hạnh hữu vi, cũng không tích tập tất cả phước hạnh hữu vi tối thắng, nhưng lại thường tăng trưởng trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, trừ bỏ tất cả các căn yếu kém khuyết tật, hướng thẳng đến nẻo thiện Niết-bàn. Phải nhanh chóng chấm dứt tất cả nẻo ác, tự vui với tất cả pháp ái, không nhiễm trước mọi thọ dụng dục lạc giàu sang sung sướng vui thích của vương vị. Đối với các chúng sinh khởi tâm bình đẳng thường hành bố thí, lìa các tưởng tà vạy sai khác, tùy thuận tu tập tất cả giới học, khéo bảo hộ cho những người hủy giới, hiện sức nhẫn nhục xa lìa ác ma và các việc kiêu mạn, siêng năng tinh tấn, chánh hạnh xuất ly, thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí, dùng tâm quyết định cầu xuất ly phiền não căn bản, thắng tuệ tịnh nhân phát sinh tất cả từ văn tổng trì, tự phần tha phần đều không trái nghịch xâm hại, dứt trừ tất cả phiền não ma; đi, đứng, nằm, ngồi tăng trưởng tất cả niềm vui vi diệu hòa hợp, trừ khử tất cả tự tánh bất thiện và các tác ý, luôn luôn trang sức bằng hương thơm tàm quý, tiêu diệt tất cả ác thú chướng nạn và các phiền não, thường khởi tâm Từ, cứu hộ thế gian, dùng tâm đại Bi bỏ đi cái vui ích kỷ riêng mình mà phải vui theo cái vui của người khác.
Lại nữa, này thái tử! Các vị Thanh văn khởi tâm Từ chỉ vì lợi ích cho riêng mình. Tâm từ của Bồtát thường lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Lại nữa, nên biết Bồ-tát mới phát tâm thực hành chúng sinh duyên từ, tu hành hạnh Bồ-tát pháp duyên từ, được hạnh nhẫn, Bồ-tát vô duyên từ.
Này thái tử! Như trên đã nói đều là Đại Bồ-tát tu đại Từ tâm. Nếu các Bồ-tát trụ tâm Từ thì có khả năng hành tâm Từ rộng lớn đối với chúng sinh.
Lại nữa, Đức Đại Uẩn Như Lai bảo thái tử Tinh Tấn Hạnh:
– Sao gọi là tâm đại Bi của Bồ-tát? Là vì khi Bồ-tát cầu quả Chánh đẳng Chánh giác với tâm đại Bi là trước nhất. Thí như sĩ phu có mạng căn là lấy hơi thở ra vào là trước hết. Bồ-tát tích tập Đại thừa lấy tâm đại Bi làm đầu cũng lại như vậy. Lại như Chuyển luân thánh vương dùng luân bảo là trước hết thì mới có thể được các báu khác. Bồ-tát viên mãn lấy đại Bi làm đầu thì mới có khả năng đạt được tất cả pháp Phật. Vì thế nên biết, Bồ-tát đại Bi không bao giờ rời bỏ tất cả chúng sinh.
Lại nữa, này thái tử! Sao gọi là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh? Vì Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian chấp chặt vào các hữu thân kiến. Không những thế, lại còn bám theo các kiến rồi bị nó trói buộc. Bồ-tát vì nói pháp đoạn trừ chấp trước, cho nên đối với chúng sinh chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian sống trong điên đảo, vô thường lại tưởng là thường, khổ tưởng là vui, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh. Bồ-tát vì nói pháp đoạn trừ điên đảo, cho nên đối với các chúng sinh chuyển tâm đại Bi.
Lại nữa, các Bồ-tát quán thấy các chúng sinh ở thế gian điên đảo, chấp trước các việc nhiễm dục, đối với mẹ và các chị em lại khởi tâm tham nhiễm. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: “Quái thay! Chúng sinh tội nghiệp thế gian ái trước cảnh dục, không phải việc làm của bậc Thánh, tà hạnh lan tràn, nguyên do đầu thai vào thai mẹ, sau mẹ sinh ra, sao hôm nay trở lại sinh dục ý, chị em cùng thể đồng sinh một thai mẹ lẽ nào vì nhiễm duyên mà cùng hòa hợp? Hoại cực phá hoại, tối cực phá hoại; tham, sân, si nổi lên phá hoại thân tâm, vô trí phá hoại hủy diệt chánh pháp, kiến lập phi pháp, thực hành pháp hiểm nạn, rơi vào cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh”.
Ví như đêm tối, bầy chồn đi vào nghĩa địa, khởi tướng hung ác, tìm kiếm thức ăn. Chúng sinh thế gian nhiễm trước điên đảo cũng lại như vậy.
Ví như người mù ở thế gian, không thấy được các sắc tướng rơi vào đường hiểm ác. Chúng sinh nhiễm trước cũng lại như vậy.
Ví như bầy heo ăn các thức ăn bất tịnh dư thừa. Chúng sinh nhiễm trước cũng lại như vậy. Vì nhiễm duyên điên đảo, nên bị ô nhiễm làm hại, rơi vào cảnh giới ma, bị dây ma trói buộc, rơi vào bùn dục. Bồ-tát vì nói pháp đoạn trừ nhiễm ái, nên khởi tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị năm triền cái che lấp, tên dục bắn vào, đắm trước các cảnh, mắt thấy sắc rồi đắm trước vào cảnh ái, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, tùy theo cảm hứng yêu thích mà sinh ra chấp trước. Khổ thay! Chúng sinh làm tổn hại quá lắm, gần gũi bạn ác, mưu cầu tài lợi lẫn nhau, nhận thức theo lối của bạn ác, được cái lợi vô nghĩa, làm tổn hại khổ não cho nhau, chứa đầy ác pháp hôn trầm, thùy miên, biếng nhác, mê muội, vô trí cứ đuổi mãi theo các việc làm ác. Các chúng sinh này là khách trần phiền não, làm nhiễm ô tâm, khởi các nghi hoặc; các chúng sinh này nhất định không thể được pháp Phật thậm thâm tối thượng, Bồ-tát vì thế mà nói pháp để đoạn trừ ngăn che. Đây là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh thế gian khởi tâm kiêu mạn như: Mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty mạn, tà mạn. Đó là bảy mạn:
1. Đối với thấp kém mà chấp là tối thắng.
2. Đối với tối thắng mà chấp là bằng.
3. Đối với tối thắng chấp là tối thắng.
4. Nương cậy chấp ngã.
5. Chấp mình nhiều đức, đối với pháp công đức tăng thượng khởi tâm kiêu mạn.
6. Chấp người khác không bằng mình.
7. Cho mình có đức.
Vì tâm kiêu mạn, cho nên việc đáng xưng tán lại không xứng tán, đáng được đảnh lễ cung phụng lại không lễ phụng, không kính bậc Lão túc, không ghi nhận những gì Tôn sư dạy, không thỉnh hỏi bậc Trí giả về cái gì là thiện, cái gì là bất thiện, nên thân cận ai và không nên thân cận ai, điều nào nên làm và điều nào không nên làm, việc nào có tội, việc nào không có tội, cái gì là chánh đạo, cái gì là Tam-ma-địa, cái gì là giải thoát. Các pháp như vậy không chịu thỉnh hỏi. Bồ-tát vì nói pháp đoạn trừ tất cả ma chướng, cho đến chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị dây ái trói buộc, tham ái đắm vào trai, gái, thê thiếp, tài lợi. Vì tham ái cho nên đắm vào ba đường ác hiểm nạn sinh tử ba cõi trói buộc, câu thúc thân tâm, không được tự tại. Do không tự tại, cho nên tạo ra các tội nghiệp. Bồ-tát vì muốn khiến chúng sinh đều hướng đến Thánh đạo Niết-bàn nên nói chánh pháp. Đó là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian, xa lìa Thiện tri thức, gần gũi ác tri thức. Do gần ác, cho nên nhiễm trước mười pháp bất thiện. Đó là sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, tham dục, sân nhuế, tà kiến. Bồ-tát muốn khiến tất cả chúng sinh được Thiện tri thức nhiếp thọ, dứt trừ tất cả nghiệp bất thiện, tích tập mười thiện nghiệp thanh tịnh, tuyên nói chánh pháp. Đó là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian bị si che lấp, vô minh đen tối luôn theo đuổi, chấp trước ngã, nhân, chúng sinh thọ giả, Bổđắc-già-la, tác giả, thọ giả, ngã, ngã sở. Bồ-tát vì muốn khiến tất cả chúng sinh như vậy được tuệ nhãn thanh tịnh, đoạn diệt các kiến, nên tuyên nói chánh pháp. Đó là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với tất cả chúng sinh.
Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh ở thế gian, chìm đắm sinh tử không thể giải thoát, thường bị năm uẩn giết hại. Bồ-tát vì khiến giải thoát năm uẩn, vượt khỏi đồng hoang hiểm nạn luân hồi, thoát khỏi ba cõi, tuyên nói chánh pháp. Đó là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh. Lại nữa, Bồ-tát quán thấy tất cả chúng sinh trong thế gian, làm các việc bất thiện, như cây gai nhọn, tuy có mọc nhưng không ai dùng. Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện cũng lại như vậy, đời này, đời khác luân hồi năm nẻo, không thể thuận hướng đến Thánh đạo Niết-bàn. Bồ-tát vì muốn mở cửa Niết-bàn để chúng sinh bước vào, cho nên tuyên nói chánh pháp. Đó là Bồ-tát chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh.
Lại nữa, này thái tử! Bồ-tát quán sát chúng sinh trong thế gian như vậy, nên dùng mười tướng chuyển tâm đại Bi:
1. Tâm không dối trá chuyển, xuất ly hư dối trống rỗng.
2. Tâm sâu xa, kiên cố chuyển, có khả năng xuất ly.
3. Thần thông không hư dối chuyển, chánh đạo xuất ly.
4. Tâm không quanh co chuyển, chấm dứt các tâm quanh co khéo xuất ly.
5. Tâm chân thật chuyển, đối với các chúng sinh đều không cao thấp bình đẳng xuất ly.
6. Tùy hộ tha chuyển, tự tâm thanh tịnh khéo xuất ly.
7. Tâm tuệ kiên cố chuyển, lìa tâm động tĩnh, luôn luôn an trụ khéo xuất ly.
8. Xả bỏ cái vui riêng mình chuyển, xuất ly đắm trước.
9. Vui với cái vui người khác chuyển, lợi tha xuất ly.
10. Gánh vác sự nặng nhọc của chúng sinh chuyển, tinh tấn kiên cố khéo xuất ly.
Đại Bồ-tát đem mười tướng thù thắng như vậy chuyển tâm đại Bi đối với chúng sinh. Hoặc có chúng sinh đáng dùng pháp Đại thừa để được xuất ly Bồ-tát liền khởi tâm đại Bi vì độ xuất ly. Đây là đại Bi của Bồ-tát.
Lại nữa, nếu có chúng sinh đáng dùng pháp tu Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Tuệ thù thắng, Bồ-tát liền khởi tâm đại Bi tùy theo trình độ thích ứng mà độ xuất ly. Đó là đại Bi của Bồtát.
Lại nữa, nếu có chúng sinh đáng dùng tu Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác, Đạo, hoan hỷ, căn bản, sự nghiệp tối thắng, kế đến là các định, cho đến mười thiện nghiệp đạo chương cú rộng lớn. Bồ-tát tùy theo trình độ thích ứng mà chuyển, từ tâm đại Bi khởi trí tự nhiên của Phật, ăn uống là vì để nuôi dưỡng tuệ mạng. Đó là đại Bi của Bồ-tát.
Lại nữa, Bồ-tát từ nơi các việc làm cực thiện mà khởi tâm đại Bi, tùy các chúng sinh nên làm việc gì, tất cả Bồ-tát đều nhắm vào làm sao cho chúng sinh được ý vui trọn vẹn. Đó là đại Bi của Bồ-tát.
Nếu các Bồ-tát đầy đủ tâm đại Bi như vậy thì có khả năng quán sát chúng sinh, đều khiến được các pháp như vậy. Đây là Bồ-tát khởi tâm đại Bi suy nghĩ thương nhớ chúng sinh.
Lại nữa, này thái tử! Sao gọi là Hỷ tâm của Bồtát? Là vì Bồ-tát đối với các thiện pháp tùy theo suy nghĩ hoan hỷ vui thích, nghe các pháp thiện không kinh sợ, không sinh mệt mỏi, trừ khử tất cả tâm sai khác an nhiên hâm mộ tất cả pháp lạc, tâm vui vẻ, thân tùy thuận, tự tâm thanh tịnh, ý sinh hoan hỷ, thấy được thân tướng tốt đẹp trang nghiêm của Như Lai, cần cầu ái mộ, càng tăng vui vẻ, nghe pháp không chán, y pháp tu hành, hoan hỷ vui thích, hoan hỷ nhẫn chịu những lời ác độc đưa đến. Từ đó sinh khởi các pháp hoan hỷ, khởi tâm vô ngại đối với tất cả chúng sinh, tuyên nói triển khai để mọi người được hiểu, không có tâm keo kiệt, nhiếp phục xan lận, tùy người mong cầu mà hoan hỷ bố thí, nét mặt luôn vui vẻ, nhiếp hộ người hủy giới, tôn kính người trì giới, thường sinh thanh tịnh, tự tu hành được thanh tịnh rồi, vượt khỏi mọi sợ hãi ác thú, hoan hỷ an ủi tất cả chúng sinh, hoan hỷ nhẫn chịu những lời ác độc quấy nhiễu. Khi Bồ-tát bố thí mắt và các chi tiết trên thân phần nên sinh hoan hỷ cam nhận, tâm không gián đoạn, luôn sinh vui thích, khởi tâm hoan hỷ; tôn kính sư trưởng, tôn trọng kỷ linh, không sinh khinh mạn, mặt luôn vui vẻ và nở nụ cười trước khi muốn nói điều gì, lìa mọi tâm ý quanh co ganh ghét, hoan hỷ trừ khử lời lẽ tạp loạn, hỷ tâm vui thích các pháp xuất ly; cung kính Tôn sư như cung kính các vị Bồ-tát, kính trọng chánh pháp cũng như bảo hộ thân mình, tôn trọng cung phụng Như Lai như tiếc mạng mình, vâng giữ sư phạm như là cha mẹ, thương nhớ tất cả chúng sinh như con đẻ, tuân theo phép tắc như bảo hộ tròng mắt, tôn kính người tu hành như bảo hộ đảnh đầu, tin thọ các Ba-lamật-đa như tay chân kiên cố, lập lại lời của Pháp sư như thích báu vi diệu, cần cầu chánh pháp như trọng thuốc hay, tán thán cung phụng y vương như nước trên đầu nguồn.
Này thái tử! Như vậy là ta đã nói tâm Hỷ của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát trụ tâm Hỷ, thì lúc nào cũng được hoan hỷ, cần cầu chánh pháp chưa từng mệt mỏi, khởi tâm hoan hỷ tu hạnh Bồ-tát.
Lại nữa, này thái tử! Sao gọi là tâm Xả của Bồtát? Xả có ba thứ:
1. Xả phiền não.
2. Xả tự tha tùy hộ.
3. Xả thời tùy thời.
Sao gọi là xả phiền não? Là cung kính không cao, cung kính không thấp, được lợi không lãnh nạp, mất lợi không nổi cáu, thấy người trì giới và người hủy giới tâm luôn bình đẳng, được khen không mừng, bị chê không giận, an nhiên trước mọi sỉ nhục, không lay động trước lời tán dương, đối với các pháp khổ khéo biết lực chọn, đối với các pháp vui thường hay suy xét, không đắm trước tùy thuận, không đoạn trái nghịch tàn hại, đối với bạn tốt bạn xấu luôn giữ tâm bình đẳng, đối với người làm thiện làm ác lại cũng không hai, đối với cảnh thích không thích bình đẳng mà xả, đa văn vô văn đều không lãnh thọ, nói thiện nói ác đều không trái thuận, an ủi, hay lỗi lầm cả hai đều bình đẳng, tâm bình đẳng thương nhớ tự, tha chúng sinh không tiếc thân mạng; đối với tất cả chúng sinh thượng, trung, hạ đều chiếu sáng bình đẳng, đối với tướng đẹp xấu đều trụ pháp bình đẳng, đối với chơn vọng tự thật thanh tịnh.
Này thái tử! Như vậy là ta đã nói Bồ-tát không có phân biệt chủng loại, xả tâm thanh tịnh. Đó là xả các phiền não.
Sao gọi là tự tha tùy hộ xả? Nghĩa là khi Bồ-tát cắt thịt thân mình bố thí cho người khác thì luôn trụ xả tâm, không có sự mong cầu, thân không làm gì khác, miệng không nói gì khác, không bao giờ lay động, không nhãn tướng, không sắc tướng, cho đến không có ý tướng, không có pháp tướng, tất cả đều không lay động, đây gọi là xả. Làm ác không thể hại cũng gọi là xả, làm thiện không lay động cũng gọi là xả, tự tha đều nhẫn cũng gọi là xả, trụ tâm bình đẳng trước việc nhiêu ích và không nhiêu ích cũng gọi là xả, không có các việc tranh cãi, đây là xả tối thượng. Tự tâm quyết định cũng gọi là xả, suy xét mình, người đều không bị hại. Bồ-tát trụ tâm thiền định mà hành xả. Nhưng hành xả của Bồtát không giống với pháp hành xả của Như Lai. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với pháp xả ấy hiện tiền biết rõ, luôn luôn tu tập thực hành, đối với các thiện pháp luôn cần cầu, biết thời tùy thời mà hành xả.
Sao gọi là thời tùy thời xả? Nghĩa là, Bồ-tát quán thấy chúng sinh không phải là pháp khí, là kẻ vô văn, xả trụ tâm xả. Lại đối với suy, hủy, cơ, khổ, tất cả chúng sinh cũng trụ xả tâm. Lại đối với pháp Thanh văn thừa quyết định vượt qua, vượt nhưng xả. Khi bố thí, hành trì giới xả; khi nhẫn nhục, hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn xả; lúc tinh tấn, hành trì giới xả; lúc thiền định hành bố thí xả, đối với trí tuệ, hành năm Ba-la-mật-đa, đều viên mãn xả. Đây gọi là thời tùy thời xả. Các việc nên làm và không nên làm, tất cả pháp đó đều trụ bình đẳng cũng gọi là xả. Các Đại Bồ-tát trụ xả hạnh, cho đến đối với các thiện pháp cũng đều gọi là xả.
Này thái tử! Các điều đã nói trên đều gọi là Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh khởi tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Khi ấy, Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai bảo Xá-lợi Tử:
– Lúc Đại Uẩn Như Lai nói pháp Từ, Bi, Hỷ, Xả cho thái tử Tinh Tấn Hạnh rồi, lại nói sáu Bala-mật-đa như: Bố thí ba-la-mật-đa, Trì giới ba-la- mật-đa, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Tinh tấn ba-la- mật-đa, Thiền định ba-la-mật-đa, Thắng tuệ ba-la- mật-đa. Đức Đại Uẩn Như Lai nói sáu Ba-la-mậtđa này khiến thái tử Tinh Tấn Hạnh siêng năng tinh tấn như lý tu hành.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là đối với Bala-mật-đa siêng năng tinh tấn?
Này Xá-lợi Tử! Nếu người nào đối với sáu Bala-mật-đa này mà siêng năng tinh tấn, thì gọi là Bồtát hạnh. Sáu Ba-la-mật-đa đó là:
1. Bố thí ba-la-mật-đa
2. Trì giới ba-la-mật-đa.
3. Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. 4. Tinh tấn ba-la-mật-đa.
5. Thiền định ba-la-mật-đa.
6. Thắng tuệ ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát thấy Sa-môn, Bà-la-môn nghèo cùng một mình đứng xin giữa đường, tùy theo những gì họ mong muốn đều ban cho. Hoặc xin đồ ăn, thức uống, y phục, hương xoa, tràng hoa và chỗ ở, hoặc xin thuốc thang, đèn đuốc, âm nhạc, vợ con, nô tỳ, vườn rừng, đài quán, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ma- ni, trân châu và các loại báu khác như voi, ngựa, xe cộ, tiền tài, lúa thóc, kho chứa, cho đến ngôi vị chủ luân vương trong bốn đại châu giàu có vui thích sung sướng, kể cả tay chân tai, mũi, mắt, thân phần máu thịt, xương tủy, những gì có ở thế gian đều cho hết.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Có mười pháp, Bồ-tát nếu thực hành đầy đủ mười pháp ấy thì mới có thể thanh tịnh đầy đủ, thường hành bố thí.
1. Bồ-tát thọ dụng thí không sợ gian nan.
2. Bồ-tát không ép bức chúng sinh thí.
3. Bồ-tát không kinh sợ người khác thí.
4. Bồ-tát luôn xả sự thỉnh thí.
5. Bồ-tát không hiện tướng thí.
6. Bồ-tát đối với các chúng sinh không có dị tưởng thí.
7. Bồ-tát không tổn hại thí.
8. Bồ-tát không phân biệt quốc độ hoàn cảnh thí.
9. Bồ-tát thí chúng sinh nhưng không tác ý.
10. (*)
(*) Pháp thứ mười nguyên trong bản Phạm đã thiếu.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát nếu có khả năng thanh tịnh được mười pháp này thì mới có thể bố thí.
Lại nữa, có mười pháp, nếu Bồ-tát có thể thanh tịnh đầy đủ thì mới có khả năng thực hành bố thí.
1. Bồ-tát không trái nghiệp báo thí.
2. Bồ-tát không tà ý vui thí.
3. Bồ-tát đều hiểu biết thù thắng thí.
4. Bồ-tát không mệt mỏi thí.
5. Bồ-tát thí nhưng không mong người khác biết đến.
6. Bồ-tát thí không não hại.
7. Bồ-tát thí không thoái lui.
8. Bồ-tát không vì khen ngợi trì giới mà thí.
9. Bồ-tát không khinh mạn phá giới mà thí.
10. Bồ-tát thí không mong cầu quả báo.
Bồ-tát nếu có khả năng thanh tịnh được mười pháp như vậy thì mới có thể thực hành bố thí.
Lại có mười pháp, Bồ-tát nếu có khả năng thanh tịnh đầy đủ thì mới có thể thực hành bố thí.
1. Bồ-tát thí không hủy báng.
2. Bồ-tát thí không trái nghịch.
3. Bồ-tát thí không tỳ vết.
4. Bồ-tát thí không giận dữ.
5. Bồ-tát thí không ganh ghét.
6. Bồ-tát thí không có sân nhuế.
7. Bồ-tát thí một cách cung kính.
8. Bồ-tát tự tay thí.
9. Bồ-tát tùy sự thích ứng với tâm lượng rộng mở.
10. Bồ-tát đối với chỗ sinh ra thí không mong cầu.
Bồ-tát nếu có khả năng thanh tịnh được mười pháp như vậy thì mới có thể thực hành bố thí.
Lại có mười pháp, nếu Bồ-tát có khả năng thanh tịnh đầy đủ thì mới có thể thực hành bố thí.
1. Bồ-tát bền vững thí.
2. Bồ-tát thí không cùng tận.
3. Bồ-tát thí không phần đoạn.
4. Bồ-tát thí không vì tin người khác.
5. Bồ-tát thí không đắm trước tâm hạ liệt.
6. Bồ-tát hoan hỷ thí chư không mong cầu sắc tướng thọ dụng giàu có.
7. Bồ-tát thí không phải vì mong cầu Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, chư Thiên...
8. Bồ-tát thí không mong cầu địa vị Thanh văn, Duyên giác.
9. Bồ-tát thí không hủy báng trí giả.
10. Bồ-tát thí những việc làm thiện lợi đều hồi hướng nhất thiết trí.
Bồ-tát nếu có khả năng thanh tịnh được mười pháp như vậy thì mới có thể thực hành bố thí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Có mười pháp khen ngợi, nếu Bồ-tát thanh tịnh đầy đủ thì mới có thể thực hành bố thí. Pháp khen ngợi này vì là hữu vi xuất ly, cho nên được quả hữu vi. Bồ-tát nên bố thí như vậy thì được mười pháp khen ngợi:
1. Bố thí thức ăn thì được sống lâu.
2. Bố thí thức uống thì dứt trừ tất cả phiền não khát ái.
3. Thí các loại xe cộ thì sẽ được các việc lợi lạc.
4. Thí y phục đẹp liền khởi lên tàm quý như được lọng vàng.
5. Thí các loại hương xoa, tràng hoa, liền được trang sức bằng hương giới, văn đẳng trì vi diệu.
6. Thí hương thơm bột hương thì thân được mềm mại thoảng hương thơm phức.
7. Thí các loại ngon thì được vị ngon trung thượng và đầy đủ tướng đẹp.
8. Thí chỗ ở liền được khả năng làm nhà, làm sông, làm nơi cứu giúp, làm chỗ thú hướng cho tất cả chúng sinh.
9. Thí thuốc thang cho người bệnh liền được không già không chết, đầy đủ cam lồ thơm ngọt.
10. Thí các đồ cần dùng liền được pháp phần Bồ-đề thù thắng vi diệu, vật dụng đầy đủ.
Đó là mười pháp khen ngợi bố thí, khi Bồ-tát cầu Bồ-đề sẽ được nhiếp thọ tất cả khen ngợi.
Lại có mười pháp khen ngợi, nếu Bồ-tát có khả năng thanh tịnh thì mới có thể hành bố thí:
1. Nếu bố thí đèn sáng thì được ngũ nhãn thanh tịnh của Như Lai.
2. Nếu thí tiếng ca hay thì được Thiên nhĩ thanh tịnh.
3. Nếu thí vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, ma-ni, trân châu và các thứ báu khác thì được ba mươi hai tướng đại trượng phu của Như Lai.
4. Nếu thí các món báu quý, các loại hoa đẹp thì được tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.
5. Nếu thí voi, ngựa, xe cộ thì được đông người vây quanh.
6. Nếu thí vườn rừng đẹp thì được thiền định giải thoát đẳng trì đẳng chí viên mãn đầy đủ.
7. Nếu thí tiền tài, lúa thóc, kho chứa thì được viên mãn đầy đủ các pháp bảo tạng.
8. Nếu thí nô tỳ và các người phục dịch thì được tự tại đầy đủ trí tự nhiên viên mãn của Phật.
9. Nếu thí vợ con quyến thuộc thì được Chánh đẳng Chánh giác viên mãn tối thắng khả ái.
10. Nếu thí vương vị giàu có làm chủ bốn đại châu, thì được tất cả thiện pháp, thành tựu đầy đủ nhất thiết trí của Bồ-tát.
Nếu Bồ-tát thực hành đầy đủ viên mãn mười pháp khen ngợi này thì khi cầu Bồ-đề sẽ được nhiếp thọ tất cả khen ngợi.
Lại có mười pháp khen ngợi, nếu Bồ-tát có khả năng thanh tịnh thì mới có thể thực hành bố thí.
1. Nếu thí cái vui của năm dục thì được giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, các uẩn thanh tịnh, cho đến các việc vui chơi thích thú đều được như ý.
2. Nếu thí hai chân thì được đầy đủ pháp thiện, đến Bồ-đề tràng.
3. Nếu thí hai tay thì được pháp thủ, thường hay trao truyền cho người khác viên mãn trọn vẹn.
4. Nếu thí tai thì các căn được đầy đủ không có khiếm khuyết.
5. Nếu thí mũi cũng được các căn đầy đủ.
6. Nếu thí các chi phần trên thân thì thân không có các khiếm khuyết thanh tịnh như thân Phật.
7. Nếu thí mắt thì được Pháp nhãn thanh tịnh.
8. Nếu thí máu thịt thì được thân mạng chân thật của tất cả chúng sinh, nuôi dưỡng mạng sống bằng sự bố thí chân thật.
9. Nếu thí tủy thì được thân kim cang kiên cố bất hoại.
10. Nếu Đại Bồ-tát thí đảnh đầu thì được an trú ba cõi tối thắng vô thượng, hiện chứng viên mãn Nhất thiết trí.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát cầu Bồ-đề thì nên bố thí như vậy, các tướng như thế mới có khả năng viên mãn tất cả pháp Phật, nhiếp thọ khen ngợi.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trí tuệ dùng tuệ thù thắng thậm thâm, không vui với cái vui vật chất tầm thường thế gian, mà chỉ cần cầu Chánh đẳng Chánh giác, cầu pháp cam lồ, cầu trí đại giác, cầu Niết-bàn vắng lặng, Bồ-tát luôn xả mọi thú vui và các thứ âm nhạc hay ở thế gian, tất cả đều hướng về nương tựa Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Ví như người nông phu cày cấy trồng trọt ở thế gian, mỗi khi muốn cày ruộng, trước hết phải chọn cày cho chắc, thứ đến là lắp ráp các dụng cụ, móc trâu vào đầu cày rồi mới cày ruộng, có lao nhọc mới có vật dụng nuôi dưỡng mạng sống. Người cày cấy trồng trọt kia vì muốn tồn tại mạng sống cũng có thể làm ra vàng, bạc các loại châu báu, cho đến lúa thóc, y phục, các vật. Vì sao? Vì tiền tài không bằng lúa thóc, lúa thóc là chính. Đại Bồ-tát cũng như vậy, nếu y thời y xứ, dùng cái vui vật chất tiền tài ở thế gian mà bố thí, thì có thể nương vào Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Ví như bầy trâu trước ăn cỏ xanh rồi uống nước trong mát. Nước và thức ăn quân bình thì mới có sữa, rồi mới thành tô, sau thành sinh tô, kế nữa thành thục tô, như vậy lần lượt đều được đầy đủ. Đại Bồ-tát cũng như vậy, trước đem cái vui vật chất tiền tài ở thế gian ra bố thí thì phải nương vào Chánh đẳng Chánh giác, tùy theo sự vui thích mong muốn đều được thành tựu; hoặc làm Chuyển luân thánh vương, hoặc thành tựu ba tướng thù thắng là Thập địa Bồ-tát, mười Lực, bốn Vô sở úy của Như Lai.
Lại nữa, sẽ được thành tựu ngàn sự nghiệp, đạt được mười tám pháp Bất cộng Phật. Lại nữa, được thành tựu ngàn sự nghiệp, đạt được sáu mươi âm thanh vi diệu thanh tịnh của Phật. Lại nữa, được thành tựu trăm sự nghiệp thì được một đại nhân tướng của Như Lai. Lại nữa, nếu thành tựu hai trăm sự nghiệp thì được đảnh tướng Ô-sắc-nị-sa thanh tịnh tối thượng của Như Lai. Lại nữa, nếu thành tựu trăm thứ công đức diệu tướng thì có khả năng viên mãn âm thanh đại pháp loa của Như Lai. Lại nữa, nếu thành tựu trăm thứ câu-chi diệu tướng công đức thì được răng bằng khít, trắng tinh vi diệu tối thượng.
Này Xá-lợi Tử! Vì thế nên biết, nghiệp quả báo thù thắng của Như Lai, Bồ-tát đều có thể thành tựu. Nếu có thể phát khởi một niệm Từ tâm, bố thí những gì mong muốn cho những người hành khất, thì đồng với những ai phát tâm hằng hà sa số không khác, như vậy mới có thể thành tựu Tam-ma-địa phất. Nên biết, chư Phật khi xả Tam-ma-địa, trong mỗi sợi lông của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đều có thể hóa hiện hàng trăm Tamma-địa hóa hiện tự tại.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai đã có tất cả pháp Phật sự nghiệp thần thông tướng thù thắng như vậy, đều là đại hạnh mà Bồ-tát đã tu từ trước. Đem cái vui vật chất tiền tài ở thế gian phụng cúng Như Lai, là vì nhiếp thọ, cần pháp cam lồ, cầu Niết-bàn vắng lặng. Này Xá-lợi Tử! Vì lý do đó cho nên Đại Bồtát đem cái vui vật chất ở thế gian mà hành bố thí thì nên nương tựa quả Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta nhớ đời quá khứ trước vào kiếp a-tăng-kỳ, lại quá vô lượng vô biên kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Đức Phật ra đời tên là Phước Sinh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy sống đến ngàn năm, trong hội Phật có trăm ngàn đại chúng Bí-sô, đều là đại A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Lúc đó có một người đánh sợi, sắc tướng đoan nghiêm, ai nấy đều thích ngắm nhìn. Chỗ người ấy ở cách chỗ du hóa của Đức Thế Tôn không xa. Người ấy khi làm xong công việc của mình rồi, liền đến chỗ của Đức Thế Tôn Phước Sinh Như Lai, đến rồi, phát tâm thanh tịnh dâng cúng Thế Tôn một sợi chỉ, thưa rằng: “Nay con dâng cúng Thế Tôn một sợi chỉ này, cúi xin Đức Thế Tôn thương xót con mà thọ nhận, con nguyện đem thiện căn này đến đời vị lai được các nhiếp pháp”.
Lúc đó Đức Thế Tôn liền tiếp nhận. Người đánh sợi này từ đó về sau cho đến khi thành Phật, như vậy lần lượt đã cúng dường năm trăm sợi chỉ cho Thế Tôn, nhờ đó mà trong mười làm kiếp không đọa đường ác. Lại nữa, nhờ thiện căn này mà trong ngàn câu-chi kiếp được làm Chuyển luân thánh vương. Lại nhờ thiện căn này mà trong ngàn câu-chi kiếp, người ấy được làm Thiên chủ Đế Thích. Lại nhờ thiện căn này mà thân được mềm mại, tướng rất thương yêu. Người này sớm tu hành sự nghiệp tối thắng, thân cận cúng dường ngàn câu-chi Đức Phật, tôn trọng cung kính, cúng dường hương hoa, đèn, đuốc, đồ ăn thức uống, y phục, tràng phan, bảo cái, thuốc thang và các vật dụng khác. Cúng dường rồi, về sau lại quá a-tăng-kỳ kiếp sẽ chứng quả Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Thiện Nhiếp Thọ Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy sống đến hai mươi câu-chi tuổi, trong hội Phật có hai mươi câuchi na-do-tha chúng đại Bí-sô, đều là đại A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ; có năm câu-chi chúng Đại Bồtát đều an trụ Chánh đẳng Chánh giác tuyên nói chánh pháp, hóa độ vô lượng chúng sinh, làm lợi lạc rồi nhập đại Niết-bàn. Sau khi Đức Thế Tôn ấy nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế trọn một ngàn năm, rộng làm Phật sự, như ta hiện nay sẽ nhập Niết-bàn không khác.
Này Xá-lợi Tử! Ngươi thấy người dệt sợi phát tâm thanh tịnh như vậy, dùng một sợi chỉ dâng cúng Như Lai, như vậy lần lượt thành tựu pháp Phật, đều là do tâm thanh tịnh rộng lớn.
Này Xá-lợi Tử! Vì thế nên biết, nếu tâm không rộng lớn, lại không siêng năng thì không được quả báo thù thắng. Nếu tâm thanh tịnh đem cái vui vật chất ở thế gian, tùy theo khả năng dù cúng ít, nhưng lại được tất cả quả vui đáng quý.
Lại nữa, Bồ-tát trí tuệ đem trí lực tăng thượng làm nhiều việc lợi ích thù thắng. Vì sao? Vì lực rộng lớn sức hồi hướng vô lượng.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Bố thí không cầu nơi sắc tướng
Không cầu thọ dụng hay giàu có
Chỉ cầu Vô thượng Phật Bồ-đề
Dù là thí ít được lợi lớn
Không cầu danh tiếng và tiếng khen
Cái vui thế gian cũng không cầu
Dứt luôn hy vọng về sinh diệt
Cầu Phật đại quả không gì khác
Ăn uống y phục và vật dụng
Đối nhất thiết xứ không mong cầu
Phát tâm thí như đầu sợi lông
Cầu cửa cam lồ luôn mở rộng
Phát tâm bố thí không cao thấp
Cũng không quanh co hay xan lận
Trừ khử tất cả mọi biếng nhác
Mạnh mẽ làm lợi khắp thế gian
Hoặc tiền hoặc thóc nuôi thân mạng
Và mọi thứ khác đều bố thí
Thí rồi sinh niềm vui phấn khởi.
Bồ-đề giải thoát rất dễ được
Cha, mẹ, con, cùng người yêu nhất
Nhưng ai đến xin đều ban cho
Ai thí cũng không tâm ganh ghét
Nhờ tu hạnh Bồ-đề tối thượng
Những gì thấy được không giận dữ
Bạn ác, bạn thiện xem như nhau
An ủi những ai hay sợ hãi
Không chấp trước vào các sự pháp
Không cầu vương vị sinh pháp dục
Tuyên nói chánh pháp môn xuất ly
Pháp thí phổ cập các chúng sinh
Lợi ích thế gian thường không xả
Không cầu vui thích ở chư Thiên
Chỉ cầu Vô thượng Phật Bồ-đề
Bố thí không mong danh tiếng lớn
Xả bỏ thân mạng và các pháp
Nhưng mà không xả Phật Bồ-đề
Không phải cầu nhãn thức sắc tướng
Cũng lại không cầu sinh chư Thiên
Chỉ cầu Niết-bàn vui tối thượng
Không chấp vào những gì mình thí.
Hoặc thành hoặc hoại đều không cầu
Người trí thường sinh tâm chánh trí
Hiểu rõ tất cả pháp chánh đạo.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Vì thế nên biết, các Đại
Bồ-tát siêng năng thực hành tu tập Bố thí ba-lamật-đa như vậy chính là tu hạnh thù thắng của Bồtát.
21 Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là các Đại Bồ23 tát tu tập Trì giới ba-la-mật-đa, tức là rộng tu hạnh 24 thù thắng của Bồ-tát?
25 Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát có ba pháp hành thiện là 26 thân, miệng, ý đều hành thiện.
Sao gọi là thân hành thiện? Nghĩa là, Bồ-tát xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm. Đây gọi là thân nghiệp hành thiện.
Lại nữa, Bồ-tát xa lìa nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác. Đây là ngữ nghiệp hành thiện.
Lại nữa, Bồ-tát không tham, không sân, chánh kiến. Đây là ý nghiệp hành thiện.
Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Làm sao thân, miệng, ý thường làm thiện? Nếu thân không tạo nghiệp thì không có sát sinh, trộm cắp, tà nhiễm. Đây là thân hành thiện. Nếu miệng không tạo nghiệp thì không nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác. Đây là miệng hành thiện. Nếu ý không tạo nghiệp thì không có tham, sân si, tà kiến. Đây là ý hành thiện. Lại nữa, Bồ-tát quán sát như thật. Nếu thân, miệng, ý không tạo nghiệp thì đối với các pháp làm gì có biểu hiện; đối với thân, miệng, ý làm gì có tạo tội. Nếu các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, biếc, lục sẽ biểu hiện thế nào, thì không có nhãn thức biểu hiện, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức biểu hiện. Vì sao? Vì không có năng sinh hay sở sinh, năng khởi và sở khởi. Nếu nó đã không thì làm gì có tạo nghiệp. Bồ-tát nghĩ như vậy rồi, biết rõ giới tướng hiện tiền không có sở tác. Nếu không sở tác thì làm gì có biểu hiện. Nếu không biểu hiện thì làm gì có chấp trước. Như vậy mới gọi là Bồtát hành thiện đối với giới tướng cũng không có sở quán. Nếu đối với giới tướng không có thú hướng thì không có sở quán. Nếu quán như vậy thì không khởi hữu thân kiến. Nếu không khởi hữu thân kiến thì đối với trì giới, phá giới như lý suy xét đều không thấy. Nếu quán như vậy đối với cảnh giới giới pháp, phép tắc không có liễu tri. Như vậy, trì giới đối với mình, đối với người đều không sở đắc, cũng không sở hành. Nếu đối với mình và người không sở hành thì đối với giới không hủy phạm khiếm khuyết, cũng không chấp thủ, hoặc mình hoặc người đều không sở đắc, giới không sở đắc. Nếu giới không sở đắc thì giới học không hủy phạm. Nếu giới học không hủy phạm thì giới cũng không hủy phạm. Như vậy tức là giới không sở thủ. Cớ gì không thủ? Vì tất cả pháp đều không sở thủ. Thế nên tất cả pháp không tự cũng không tha, đối với vô ngã nên thủ thế nào?
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thân nghiệp thanh tịnh miệng cũng vậy
Ý thường thanh tịnh tu tịnh hạnh
Cấm giới thanh tịnh lại thường hành
Đây là Bồ-tát trì tịnh giới
Mười thiện nghiệp đạo rất thù thắng
Bồ-tát trí tuệ khéo quán sát
Đối thân, miệng, ý đều không tu
Đây là người trí trì tịnh giới
Không tu không thắng cũng không thọ
Hình sắc hiển sắc cũng lại không
Nếu quán không hình hiển sắc tướng
Làm sao thấy rõ được các cảnh
Nếu giới vô vi không tu tập
Mắt đối sắc cảnh không thể quán
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy
Các cảnh không thể làm biểu thị
Căn thức nếu không tướng có ra
Bi tâm nên quán sát như vậy
Đối với thanh tịnh giới cũng không
Giới không sở đắc lại không trụ
Hiểu rõ như vậy không ngã tưởng
Giới không sở hộ khéo hộ giới
Không tưởng giới lại không tu giới
Trọng hạnh Bồ-đề lìa các kiến
Nếu đối các kiến không sở quán
Không thấy, cũng lại không hiểu biết
Đây là không thấy, xứ cũng không
Trong đó trì phạm không lãnh thọ
Nếu rõ không hộ lý chánh pháp
Pháp tắc của giới chẳng nghĩ bàn
Khéo hay biết rõ môn chơn hộ
Không giới, cũng lại không sở đắc
Vì không ngã tưởng giới không đắc
Không ngã, cũng lại không có giới
Đã nói thường sinh tâm lìa sợ
Tịnh giới chính là lời vô ngã
Giới không lãnh thọ là vô ngã
Giới lại cũng không có y chỉ
Không giới, không cầu, không ngã ngôn
Không trì không phạm không sở thủ
Vì giới không ngã nên không khởi
Không ngã tức là không giới tưởng
Hạnh Bồ-đề là tuệ sâu xa
Như vậy giới tướng được vô úy
Những ai khuyết phạm cũng không được
Người trì đều nhờ sức thánh hộ
Các pháp không được cũng như vậy
Vì kẻ ngu si nói trì phạm
Lành thay, người khéo hộ tịnh giới
Đối giới thắng quả không trói mở
Vì đoạn các kiến tội không sinh
Cho nên không đọa ba đường ác
Giới không sở trì, không sở thọ
Ngã kiến không sinh tức không đọa
Như vậy đã biết rõ về giới
Đó là không trì cũng không phạm
Nếu đối ngã pháp không thể thấy
Đối với ba cõi cũng không quán
Huống lại trì phạm có sở hành
Như vậy người thấy khéo trì giới.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Mười thiện pháp của Bồ-tát có ra đều là từ tâm ý thanh tịnh, từ hạnh tinh tấn thù thắng, từ tin hiểu nghiệp báo dục rộng lớn thiện tối thắng. Đối với bậc Thánh luôn thân cận thừa sự, đối với Tôn sư không khởi phân biệt; hoặc
Thánh hoặc sư đều lãnh thọ chánh pháp, cần cầu không đắm trước, chí cầu Bồ-đề không tiếc thân mạng.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát trì giới, mười pháp thù thắng như vậy đều từ trong tâm Bồ-tát mà có. Nếu ai có khả năng an trụ mười pháp này thì có thể tích tập các thiện pháp.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là thiện pháp? Nên biết, thiện pháp có ba, đó là thân, miệng, ý hành thiện. Nếu các Đại Bồ-tát an trụ thiện hạnh như vậy, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng cần cầu tu tập thì được Bồ-đề.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thân nghiệp luôn luôn tu thiện hạnh
Là lời chư Phật thường nói thế
Tùy chỗ thân cận A-xà-lê
Thì được đa văn cảnh giới thiện
Bổ-đặc-già-la nghĩa thù thắng
Nên khởi tâm Từ lợi chúng sinh
Lời nói diệu hòa không yêu ghét
Người nghe lời nói sinh vui thích
Tùy các pháp tướng không nhuế ác
Ý vui cực thiện đều bình đẳng
Tu tập không sinh tội dục tâm
Từ tâm quán sát thường tôn trọng
Được nghe lời thanh tịnh Như Lai
Phải nên tôn trọng đối chánh pháp
Do nhân tôn trọng với chánh pháp
Cho nên chóng được quả Bồ-đề.
Nếu Bồ-tát có thể an trú mười pháp này rồi, thì đối với chánh pháp Bồ-tát tạng siêng năng cần cầu tu tập, thân cận hầu hạ các bậc A-xà-lê, làm những việc cần làm, cho đến dâng trà nước.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát có mười thứ phát tâm.
Một là, Bồ-tát phát tâm như vầy: “Đau đớn thay! Thân của tất cả chúng sinh bệnh tật sầu khổ áo não, bốn con rắn độc thay nhau làm hại, tích tập các khổ, sinh nhiều tội lỗi, nhiều thứ bệnh trạng xảy ra như ung thư, ghẻ lở, bệnh nhọt, đờm giải, ngứa ngáy. Khi chịu các căn bệnh như vậy, phải trải qua nhiều gian khổ, càng ngày càng gay gắt, do vậy mà mau chóng tổn hoại, thật là không chắc chắn, ốm yếu gầy mòn, mau đưa đến tử vong, rồi đem vứt xác ngoài nghĩa địa không có một chút vui nào, vậy ta nên làm cho tất cả chúng sinh nhàm chán cái thân giả tạm không chắc chắn này, mà nên mong cầu cái thân chắc chắn chân thật”.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ nhất của Bồ-tát. Do phát tâm này, nên Bồ-tát có khả năng cần cầu tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, thân cận hầu hạ các bậc A-xà-lê, làm những việc cần làm, cho đến dâng trà nước.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Các cõi như rắn độc dữ tợn
Bốn thứ làm chỗ nương cho nhau
Mỗi mỗi khởi lên nhiều nhuế hại
Thân này mang nhiều bệnh khổ não
Mắt, tai hai chỗ sinh các bệnh
Mũi, lưỡi sinh bệnh cũng như vậy
Môi, răng sinh bệnh khổ quá nhiều
Khắp thân mang đủ các căn bệnh
Ung thư mới phát sinh đau khổ
Ghẻ lở lan tràn càng nhức nhối
Còn các bệnh khác lại quá nhiều
Do đó buộc trói khắp toàn thân
Thân này sinh các bệnh khổ não
Tích tập các khổ trên thân này
Không nghĩa, không lợi tổn hại nhiều
Mau chóng tiêu vong thân này diệt
Ném vào nghĩa địa có gì vui
Vô thường mau chóng không chắc chắn
Quán kỹ thân này thối như vậy
Lại thêm chứa nhóm các bệnh khổ
Nên tu hiền thiện các sự nghiệp
Làm nhân thân Phật ở đương lai
Vứt bỏ các thân ác như vậy
Phá hủy suy tàn lại mau chóng
Thành tựu thân Phật đủ các đức
Chẳng thể nghĩ bàn Đại Pháp thân
Nhìn lại thân chịu khổ như vậy
Đầy cả các lậu không thể vui
Nên biết không có lậu pháp khác
Tức lấy thân này làm nhân lậu
Tạm ở chỗ nóng muốn mát mẻ
Hoặc ở lạnh buốt muốn che chở
Thương thay! Thân này có gì vui
Già chết thường trói tổn hại nhiều
Chán lạnh sợ nóng làm khổ tâm
Tất cả đọa lạc đều phá hoại
Người trí nên tu nghiệp sĩ phu
Nguyện được thân chân thật tối thượng
Kham nhận thân cận A-xà-lê
Nhàm chán thân này thể hư huyễn.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ nhất của Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Hai là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Thương thay! Thân của tất cả chúng sinh ở thế gian không chắc thật, đoạn diệt hủy hoại ly tán.
Này Xá-lợi Tử! Ví như người thợ gốm tay nghề khéo léo, làm ra các loại bình tùy cỡ lớn nhỏ, tuy thấy có thành đó, nhưng đều quy về phá hoại. Thân của chúng sinh ở thế gian từ hư huyễn mà thành, không chắc thật cũng như vậy. Như cây đại thọ, cành nhánh hoa quả sum xuê, tuy được mọi người chăm sóc yêu thích, nhưng lại quy về rơi rớt. Thân không chắc thật của chúng sinh ở thế gian như quả chín mùi cũng như vậy. Như trời đêm thanh, các ngọn cỏ đọng từng giọt sương long lanh, sáng ra, mặt trời chiếu vào làm tan mất tất cả. Thân không chắc thật của chúng sinh ở thế gian không có lâu dài cũng như vậy. Lại như biển cả, sông ngòi, kênh rạch, dòng nước cứ chảy mãi; trong nước lại nổi lên những bọt nước, nhưng bọt nước đó có rồi lại không. Thân của chúng sinh ở thế gian như là bọt nước không có bền lâu cũng như vậy. Lại như trời đổ cơn mưa, nước nổi lên bong bóng, cứ diệt rồi sinh, không thể tụ lâu. Thân không chắc thật của chúng sinh ở thế gian tự tánh yếu kém cũng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát muốn khiến tất cả chúng sinh nhàm chán thân không chắc chắn như vậy, mà mong cầu thân chắc chắn chân thật. Đây là phát tâm thứ hai của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Như người thợ gốm muốn làm bình
Trộn đất vào khuôn làm thành bình
Tất cả đều quy về hoại diệt
Thọ mạng chúng sinh cũng như vậy.
Lại như đại thọ cành rễ tốt
Nhành lá sum suê hoa trái nhiều
Tất cả đều quy về rơi rụng
Thọ mạng chúng sinh cũng như vậy.
Ví như sương mai đọng ngọn cỏ
Mặt trời chiếu vào hóa ra không
Nhãn, cảnh không dừng trong chốc lát
Thọ mạng chúng sinh cũng như vậy.
Lại như nước biển cả sông hồ
Bọt nước nổi lên mềm không cứng
Thân chúng sinh như huyễn yếu kém
Giống như bọt nước đều không thật
Ví như trời mưa nước lan tràn
Trong nước nổi lên nhiều bong bóng
Sát-na quán cảnh có liền không
Thân không chắc chắn cũng như vậy.
Thân không chắc thật lại tưởng thật
Trong thật lại khởi tâm không thật
Người này không vào môn chân thật
Suy nghĩ tà vạy cảnh giới vọng
Trong thật nếu khởi tưởng chân thật
Không thật sẽ sinh tâm không thật
Người này được vào môn chân thật
Suy nghĩ chân chánh cảnh giới chơn
Nếu khởi tâm tướng chân thật rồi
Hầu hạ Tôn sư dâng trà nước
Nhìn lại thân huyễn không thật này
Thường được thể chắc chắn chân thật.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ hai của Bồtát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ba là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Thương thay! Tất cả chúng sinh trong thế gian không thể suy nghĩ như vầy: Ta ở trong nhiều kiếp sinh tử, xa lìa Thiện tri thức, thân cận ác tri thức, nổi lên biếng nhác, tinh tấn yếu mòn, tà kiến che lấp, đầy dẫy ngu si, không bố thí, không thương yêu, không làm các việc thiện, chỉ tạo ác nghiệp, quả báo thành thục, thân tướng cảm lấy các bất thiện, tham ái càng tăng, ốm o tiều tụy; hoặc sinh vào ngạ quỷ, không thể nuôi sống, lấy lửa làm thức ăn, trải qua trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm, không bao giờ nghe đến tiếng nước, huống nữa là được uống. Nay ta lại phát tâm này, nguyện thân cận tu tập thực hành thiện pháp, gần Thiện tri thức. Nhờ thế nên mới được thân người, sống bằng điều thiện, hành các bố thí, cho đến bỏ cả thân mạng, thân cận hầu hạ các bậc A-xà-lê, siêng năng tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, làm những gì cần làm, cho đến dâng trà nước. Đây là phát tâm thứ ba của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thế gian có các Thiện tri thức
Phải nên đến đó luôn thân cận
Không thể tính đếm nhân cận thiện
Do đó không sinh các thiện hạnh
Bởi do thân cận các bạn ác
Cho nên xa lìa người hiền thiện
Tâm hay biếng nhác ít siêng năng
Ganh ghét dối gạt sinh lỗi lầm
Không hành bố thí, không thương yêu
Không thể thực hành các thiện pháp
Quả chín chịu lấy thân ốm gầy
Hoặc sinh các cảnh giới ngạ quỷ
Nhiều kiếp chìm mãi trong sinh tử
Chịu báo tối tăm nhiều sợ hãi
Không được ăn uống đói khát tăng
Phải chịu trọn đủ các khổ não
Trải qua như vậy trăm ngàn năm
Chịu khát không nghe đến tiếng nước
Bố thí điều thiện lại không quán
Không được các thiện tướng thế gian
Ta nay lại phát tâm như vậy
Làm được thân người rất là khó
Thệ nguyện thân cận A-xà-lê
Mau được viên mãn các thiện hạnh
Phải nên xa lìa ác tri thức
Thường luôn thân cận người hiền thiện
Bỏ thân mạng này có khó gì
Điều chính yếu nguyện được Bồ-đề
Khởi lòng tôn trọng A-xà-lê
Cung kính phát sinh tâm thanh tịnh
Đảnh lễ hầu hạ làm các việc
Nguyện được Bồ-đề thật tối thắng.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ ba của Bồ tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bốn là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chúng sinh trong thế gian nên nghĩ rằng: Ta trong nhiều kiếp xa lìa Thiện tri thức, thân cận ác tri thức, sinh ra biếng nhác, tinh tấn mòn dần, ngu si tối tăm, không biết nhẫn nhục thương yêu, không có các tướng tốt, tâm bị khốn đốn, thân luôn mệt mỏi, như bị đánh đập, các khổ bức bách, nhiễu loạn chúng sinh, nếu không có duyên ấy thì thà chịu lấy tội báo, do đó tạo ra các nghiệp bất thiện. Từ nghiệp bất thiện đó quả báo thành thục, cho nên phải đọa vào súc sinh làm trâu, lừa, lạc đà, không thể tự nuôi sống, chỉ ăn toàn cỏ cây, gặm nhấm luôn mồm, sợ hãi sự đánh đập, chở nặng khốn khổ, xa lìa tất cả thiện tướng bố thí. Nay ta lại phát tâm này, thân cận bạn tốt, nên được thân người, không tiếc thân mạng, bố thí rộng rãi, làm các nghiệp thiện, thân cận hầu hạ các bậc A-xà-lê, siêng năng cần cầu tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng làm những việc cần làm, cho đến dâng trà nước. Đây là phát tâm thứ tư của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền lập lại bằng kệ rằng:
Chúng sinh nhiều kiếp trong đường ác
Không biết gì về các Thánh đạo
Sinh vào súc sinh lừa, lạc đà
Chịu đủ mọi hình thức khổ não
Đương lai nếu được làm thân người
Làm các sự nghiệp mọi hiền thiện
Hướng đến Bồ-đề môn chánh đạo
Là tướng thù thắng của người trí
Ta nên phát khởi tâm tôn trọng
Khéo hay an trụ vào pháp Phật
Vâng lời chỉ dạy của Xà-lê
Nguyện được Bồ-đề thật thù thắng
Trong kiếp quá khứ chẳng nghĩ bàn
Trôi lăn mãi mãi trong sinh tử
Luôn làm các việc không nghĩa lợi
Không thể tu tập hạnh bố thí
Ở đời không thể tự nuôi sống
Biếng nhác xa lìa Thiện tri thức
Mà cứ vâng lời của bạn ác
Do đó trôi dần theo dòng ác
Lạc đà, lừa luôn chịu gông cùm
Trói buộc đánh đập thân chịu khổ
Xa lìa bạn tốt bị quả báo
Trong loài ngưu súc nghiệp không mất
Loài lừa, lạc đà thọ sinh rồi
Cứ mãi chịu trói khổ ác sâu
Lại mang gông ách chở càng nặng
Lúc đó, khó thân cận bạn lành
Làm được thân người rất là khó
Thân cận bạn lành càng khó hơn
Sát-na thân cận bạn hiền thiện
Nhổ sạch khổ não trong nhiều kiếp
Nếu hay tu thiện thân, ngữ nghiệp
Tinh tấn tránh xa các lỗi lầm
Tâm an, mạng sống làm các việc
Ta nhờ thân cận Thiện tri thức
Thờ A-xà-lê không dối trá.
Từ đó ta phát tâm Bồ-đề
Bồ-đề Thánh đạo tuyên dương mãi
Tôn ngưỡng Tôn sư luôn kính trọng
Hương xoa và các hương thơm khác
Các y phục đẹp và hương bột
Trang nghiêm vật lạ tràng hoa báu
Cúng dường Đấng Lưỡng Túc Thánh Tôn
Mười phương hiện trụ tất cả Phật
Khai thị thắng nghĩa lợi chúng sinh
Phóng ánh sáng vàng khắp tất cả
Vô biên sắc tướng vì cúng dường
Đã phóng ánh sáng như Phật rồi
Cúng dường Đấng Nhân Trung Điều Ngự
Bồ-đề chánh đạo nhân thanh tịnh
Đến Bồ-đề tràng nguyện chứng quả.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ tư của Bồtát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Năm là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chúng sinh trong thế gian nên nghĩ như vầy: Ta trong nhiều kiếp xa lìa Thiện tri thức, thân cận ác tri thức, tinh tấn mòn dần, sinh ra biếng nhác, ngu si tối tăm, không biết nhẫn nhục thương yêu, không có các tướng tốt, không biết suy nghĩ. Thương thay! Tất cả chúng sinh trong thế gian không biết suy nghĩ rằng tất cả mạng sống của muôn vật đồng là xác thịt của một thân, hoặc còn, hoặc hoại, thì thịt ấy không khác, ăn thịt chúng sinh lại cho rằng không có tội, cũng không tướng tội, không phước cũng không có tướng phước, cho đến tận mé biển xa thâm thẳm vời vợi, cái thấy của các chúng sinh ấy cũng không khác, không tội, không phước. Vì lý đó cho nên không biết gì về tội hay phước. Do không biết, cho nên gần gũi kẻ ác kiến, càng thêm ngu si tối tăm, không biết đường tốt, chỉ tạo tội nghiệp. Do tạo quá nhiều nghiệp bất thiện, cho nên khi quả báo thành thục phải chịu thân tướng thấp hèn, cho đến đọa vào địa ngục, chịu khổ địa ngục, nuốt hòn sắc nóng, tra khảo đánh đập, trói buộc, treo lên, làm cho chết đi sống lại, trải qua trăm ngàn năm không nghe đến tiếng vui, có đâu được hưởng vui. Đó đều là do không biết tội phước, không tạo nhân bố thí. Người trí nên suy nghĩ: Ta nay phát tâm này, thân cận bạn lành nên được thân người, không tiếc thân mạng, bố thí rộng rãi, làm các nghiệp thiện, thân cận hầu hạ A-xà-lê, siêng năng cần cầu tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, làm những việc cần làm, cho đến hầu hạ trà nước A-xà-lê. Đây là phát tâm thứ năm của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Vì do thân cận các bạn ác
Tâm xấu khinh khi dối người khác
Sống trong tội nghiệp và tà kiến
Từ đó tội nghiệp ta càng nhiều
Các loại chúng sinh tận xa thẳm
Ăn uống thỏa thích không biết đủ
Cho rằng tội phước đều không nhân
Cũng không khổ sở các báo ứng
Thấy các tội nghiệp như thế đó
Mỗi mỗi thân cận với bạn ác
Hướng đến gian ác tội càng sâu
Do đó mau đọa vào địa ngục
Dẫu được thân người trải nhiều kiếp
Cứ mãi đọa vào ba đường ác
Không thấy Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác
Xuất hiện thế gian xin quy hướng
Cũng không nghe đến Thiện tri thức
Tiếng tốt vang lừng cả thế gian
Nếu ta đương lai được thân người
Rộng tu hiền thiện các sự nghiệp
Thế gian thân người rất khó được
Thọ mạng chúng sinh cũng lại khó
Chánh pháp Như Lai khó được nghe
Chư Phật xuất thế thật khó gặp
Làm được thân người rất là khó
Mau được Thánh đạo càng khó hơn
Nếu ta gặp Phật ở thế gian
Vâng lời Nhất thiết trí thanh tịnh
Ba nghiệp của thân, ngữ và ý
Tạo ra tất cả các tội lỗi
Đối với quả khổ không rốt ráo
Thệ nguyện tu hành không trở lại
Nếu như trong tâm thanh tịnh rồi
Thì tội nghiệp nhân quả cũng vậy
Đối với quả khổ không rốt ráo
Như trong tâm ấy đều thanh tịnh
Ba nghiệp thân, miệng, ý các thiện
Vô trí thế gian thật khó làm
Chỉ trừ thân cận A-xà-lê
Nguyện được Bồ-đề quả thù thắng
Nên biết chánh đạo là Thánh đạo
Ý vui khó tuyên nói như vậy
Vào cửa tinh tấn không dối gạt
Thành Phật Bồ-đề quả thù thắng
Bồ-tát phát tâm như vậy rồi
Tôn trọng Tôn sư hầu trà nước
Trí tuệ phương tiện được viên thành
Đó là đại hạnh của Bồ-tát.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ năm của Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sáu là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chúng sinh ở thế gian nên nghĩ như vầy: Ta trong nhiều kiếp xa lìa Thiện tri thức, gần gũi ác tri thức, không ham thích thiện, đối với bậc Tôn sư trí giả không có tâm khiêm hạ cung kính, tin theo, khen ngợi, thân cận, đảnh lễ cung phụng, chấp tay, làm các nghiệp thiện, chỉ nuôi lớn tâm kiêu mạn, tạo nhiều bất thiện. Do tạo nghiệp bất thiện này, đến khi quả báo thành thục, dù được thân người, nhưng lại bị ốm yếu gầy mòn, không tự nuôi sống, không thể làm việc bố thí, tuy sinh trong loài người nhưng tánh còn xan tham keo kiệt, như vậy càng thêm nghèo cùng khốn đốn, hoặc làm kẻ nô tỳ, đầy tớ, bị người khác sai sử trói buộc. Như loài phi cầm đam mê dục lạc mà bay vào hư không, tùy theo chỗ nó đậu nguy hiểm mà kinh sợ. Chúng sinh tà kiến cũng như vậy, phá hủy tịnh giới, ba căn quen làm bất thiện, ở trong bốn nẻo, năm cái che lấp, thường làm sáu thứ không tôn trọng pháp của sư trưởng, không tuân theo bảy chánh pháp vi diệu, khởi tám tà pháp, nhập tụ tà định, đối với chín phiền não thường khởi lên não hại, thường làm mười nghiệp bất thiện điên dại đi vào đường phi đạo, hướng đến cửa địa ngục, quay lưng với đường thiện, xa Thiện tri thức, gần kẻ ác tri thức, thuận theo ý ma, xả bỏ thiện pháp, làm điều bất thiện, đánh đập sợ hãi, gian khổ sinh ra làm các việc không nhiêu ích, vì lý do đó cho nên không vui với việc làm bố thí. Nay ta lại phát tâm này: Thân cận bạn lành, sẽ được làm thân người, không tiếc thân mạng, bố thí rộng rãi, làm các thiện nghiệp, siêng năng cần cầu tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, làm những việc cần làm, cho đến hầu hạ trà nước. Đây là phát tâm thứ sáu của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Gần bạn ác càng thêm kiêu mạn
Thân cận như vậy trăm ngàn kiếp
Sinh vào loài người làm nô bộc
Luân hồi nhiều kiếp trong ba cõi
Làm được thân người rất là khó
Thân tướng tối thượng càng khó hơn
Sắc tướng tốt đẹp cũng lại khó
Chư Phật ra đời rất khó gặp
Ta nên thân cận bạn hiền thiện
Hiển bày chánh hạnh của Bồ-tát
Tâm Bồ-đề rất là rộng lớn
Nhiều câu-chi kiếp nguyện đạt được
Thân không chắc chắn như bọt nước
Lại như huyễn hóa nô đùa giỡn
Như những gì thấy ở trong mộng
Biết rõ không thật đều hư dối
Tuổi thọ sắp hết mạng rất ngắn
Cũng như điện chớp có gì lâu
Sát-na mạng diệt nên uẩn chuyển
Bỏ thân không thật cầu thể thật
Thời phần chuyển đổi trụ mau chóng
Phải nên xô đổ núi kiêu mạn
Hư giả hòa hợp trong ba đời
Trôi nổi mãi mãi không biết được
Xả bỏ thân này lìa các ái
Cũng không luyến tiếc thân mạng này
Diệt trừ ngông cuồng tâm ngã mạn
Tôn trọng Tôn sư luôn hầu hạ
Thế gian Tôn sư rất tối thắng
Bằng với cha mẹ không khác gì
Dứt trừ ngông cuồng tâm kiêu mạn
Tôn trọng siêng năng làm các việc
Bồ-đề vô thượng của Bồ-tát
Hạnh thù thắng đồng phần Bồ-tát
Ham thích tôn trọng tâm kiên cố
Nguyện làm các việc đều dũng mãnh
Khi hành mạn ái mạn tăng trưởng
Trừ đoạn pháp mạn không thể biết
Nhờ trí kim cang phá không còn
Núi đại kiêu mạn đều xô gãy
Khiến người tu Bồ-đề thù thắng
An trụ Bồ-đề tràng tối thượng
Chánh pháp xô ngã các quân ma
Cứu độ tứ sinh các phiền não
Mười phương tất cả người bệnh khổ
Không chán thân bất tịnh chính mình
Ta nên phát khởi tâm Từ bi
Làm chỗ quy hướng cho ba đời
Bố thí rộng rãi Ba-la-mật
Lại hay học Phật giới công đức
Quán sát nhẫn nhục hành tròn đầy
Ta phát tinh tấn đạo tối thượng
Thiền định đầy đủ Ba-la-mật
Tùy tâm khởi lên khéo an trụ
Phương tiện thắng tuệ cũng như vậy
Nguyện thờ Tôn sư hành bố thí
Tăng trưởng các phước oai lực này
Chẳng thể nghĩ bàn trí tuệ thiện
Mình người ý vui càng thêm cao
Tu học viên thành chân pháp khí.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ sáu của Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bảy là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chúng sinh trong thế gian nên nghĩ: Ta trong nhiều kiếp xa lìa Thiện tri thức, gần ác tri thức, sinh ra biếng nhác, tinh tấn mòn dần, ngu si tối tăm. Như người câm ngọng, không có kiến thức, không biết nhẫn nhục, cũng không thương yêu, không biết ác nghiệp ác báo, không biết thiện nghiệp thiện báo, không tạp nghiệp tạp báo. Tự mình đã không biết mà lại không chịu học hỏi Samôn, Bà-la-môn, các bậc A-xà-lê về những điều gì là thiện, điều gì là bất thiện, việc nào có tội, việc nào không tội, người nào nên thân cận, người nào không nên thân cận, việc nào nên làm, việc nào không nên làm, làm việc gì rồi trong nhiều kiếp không có nghĩa lợi, sinh các khổ não. Do đó ngã mạn càng thêm tăng trưởng, không thể nhận thức được thiện nghiệp căn bản, chỉ tạo ra bao nhiêu nghiệp bất thiện. Dù được thân người nhưng các căn tàn tật, lại ở trong loài người không thể tự nuôi sống, không thể thực hành bố thí, lại làm người đui, điếc, câm, ngọng không có các sắc tướng, không thể biết được lời nào thiện, lời nào ác, vì lý do đó cho nên không ưa bố thí. Nay ta trở lại phát tâm này: Thân cận Thiện tri thức, nếu được làm thân người các căn trọn vẹn, có khả năng tự nuôi sống tập hạnh bố thí, không tiếc thân mạng, đầy đủ các sắc lực, biết rõ ràng về lời ác lời thiện, lại hay thỉnh hỏi Tôn sư trí giả về những gì là thiện, những gì là bất thiện, cái nào có tội, cái nào không có tội, người nào nên thân cận, người nào không nên thân cận, làm những việc nào là trái với pháp Thanh văn, Duyên giác, mà lại thuận hướng với nghĩa Bồ-tát tạng, thân cận hầu hạ A-xà-lê, làm những việc cần làm, nhàm chán cái thân không chân thật này, mong cầu thân kiên cố chân thật, cho đến dâng trà nước. Đây là phát tâm thứ bảy của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền lập lại bằng kệ rằng:
Muốn gần bạn hiền làm lợi ích
Ta phải xa lìa trăm ngàn kiếp
Không nên thỉnh hỏi môn thiện ác
Có tội không bị các quả báo
Tâm tăng thượng mạn đọa địa ngục
Bàng sinh, ngạ quỷ trong các nẻo
Thân cận bạn bè tạo tội nghiệp
Chịu khổ nhiều kiếp không cùng tận
Dù được thân người, căn tàn tật
Phải chịu luân hồi trong nhiều kiếp
Không nhận xét được môn thiện ác
Có tội không tội và quả báo
Nếu được thân người lìa gian khổ
Các căn trọn vẹn đủ tướng tốt
Nhân tướng đầy đủ lìa các nạn
Như rùa chột mắt gặp cây nổi
Được thấy đèn sáng chiếu thế gian
Nghe lời Phật dạy pháp vô nhiễm
Lúc đó thỉnh hỏi thế gian tôn
Các quả báo thiện và bất thiện
Những kẻ keo kiệt hướng về đâu
Người không keo kiệt hay bố thí
Tham dối, phá giới như thế nào
Người không phá giới lại ra sao
Tại sao nhuế ác tâm không động
Tại sao biếng nhác tâm tán loạn
Tinh tấn thiền định vui thế nào
Ác tuệ ngu si sẽ ra sao
Làm sao để được tuệ chân thật
Làm sao Bồ-đề hành phương tiện
Sáu thứ hiền hạnh rồi ra sao
Từ tâm rộng lớn hơn thế gian
Chúng sinh nẻo ác làm sao cứu
Làm sao vui pháp tâm không chán
Hành tàng Bồ-đề siêng năng cầu
Trong mười phương cõi khéo an trụ
Làm sao đích thân đến chỗ Phật
Làm sao lễ phụng tạo các phước
Phổ Hiền hạnh môn lại ra sao
Như ta ngày nay khéo thân cận
Làm sao thỉnh hỏi A-xà-lê
Nguyện nghe Tôn sư tôn trọng thờ
Sinh tâm hoan hỷ A-xà-lê
Tâm này sinh rồi chơn Phật tử
Phước lực, trí lực càng thêm tăng
Từ đó thành tựu trí to lớn
Trí lực mạnh mẽ phát thắng tâm
Hầu hạ trà nước sinh hoan hỷ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là trí lực thứ bảy của Bồtát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tám là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Chúng sinh trong thế gian nên nghĩ thế này: Ta trong nhiều kiếp xa lìa Thiện tri thức, gần kẻ ác tri thức, ít có siêng năng, sinh ra biếng nhác, ngu si tối tăm như người câm ngọng. Tất cả văn cú ở thế gian cùng với nghĩa cú hợp, pháp cú hợp. Vì pháp cú hợp cho nên trụ vào vắng lặng, cùng với lìa tham hợp, chánh trí tịch diệt, cùng với Sa-môn, Bà-la-môn đồng trụ Niết-bàn. Vì chấp ngã cho nên đối với tất cả xứ sở không thể hiểu biết văn nghĩa cú hợp, cho đến đồng trụ Niết-bàn, cũng lại không thọ trì đọc tụng, cũng lại không có sức lực, không có tinh tấn, không có lực dụng của Sĩ phu, không có thế của Sĩ phu, không có siêng năng dũng mãnh của Sĩ phu. Không có tinh tấn tối thượng không nhân, không duyên, các phiền não của chúng sinh cũng không nhân không duyên; chúng sinh tạp nhiễm không nhân không duyên. Chúng sinh thanh tịnh không nhân không duyên, các nhân này dựa vào các kiến không thể biết rõ những nghiệp thiện đã làm, chỉ tạo ác nghiệp, dầu được thân người, nhưng các căn bị tàn tật khiếm khuyết, chính bản thân không thể tự nuôi sống, không thể thực hành bố thí, si mê che lấp, đui điếc câm ngọng, không có sắc lực, không thể hiểu văn nghĩa cú hợp, cho đến không đồng trụ Niết-bàn, cũng không thể thọ trì đọc tụng. Vì lý do đó, cho nên không thể thân cận học tập thực hành thiện pháp. Ta nay lại phát tâm này, tiếp xúc thiện pháp, cho đến không tiếc thân mạng, biết rõ văn nghĩa cú hợp, đồng trụ Niết-bàn xuất ly, cần cầu tu tập, thọ trì đọc tụng chánh pháp Bồ-tát tạng siêng năng tinh tấn, thân cận hầu hạ A-xà-lê, thọ trì đọc tụng Chánh pháp Bồ-tát tạng, nhàm chán thân không chân thật này, mong được thân chắc chắn chân thật, đầy đủ phước trí thắng lực. Do phước trí thắng lực được đầy đủ cho nên mọi thao tác tu tập được ràn rẽ, có khả năng tích tập chánh pháp Bồ-tát tạng, thân cận hầu hạ các bậc A-xà-lê, làm những việc cần làm, cho đến dâng trà nước. Đây là phát tâm thứ tám của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Bởi do pháp nghĩa ấy tương ưng
Đối với chánh đạo tu đạo hạnh
Trong lý tịch diệt được tu chứng
Đạt được chân thật đạo Niết-bàn
Nếu ai xa lìa các pháp này
Thì đối các pháp không được lợi
Nếu tương ưng với không nghĩa lợi
Thì không gần được với chánh pháp
Không lực, cũng lại không tinh tấn
Thế dụng sĩ phu cũng đều không
Không người dũng mãnh cũng như vậy
Đối nhất thiết xứ không được gì
Nên thấy không Phật cũng không pháp
Không cha, không mẹ và tông thân
Do đó thiện ác nghiệp đều không
Tất cả đều không các báo ứng
Thấy các tội nghiệp như thế đó
Mỗi mỗi thân cận tội căn sâu
Hướng đến gian ác ngày càng nhiều
Đọa vào địa ngục qua nhiều kiếp
Địa ngục hết, chịu báo bàng sinh
Trong loài ngạ quỷ tội càng nhiều
Về sau nếu được làm thân người
Tai điếc, ngu si lại không lưỡi
Ngoài ra còn chịu báo câm ngọng
Ngu si khuyết lậu khổ càng tăng
Trở lại chịu tai ương địa ngục
Bởi do không hiểu nên đọa lạc
Trải qua nhiều kiếp sau mới được
Thân người trọn vẹn đủ tướng tốt
Các căn đầy đủ sức thù thắng
Nương thời tịnh trụ lại suy nghĩ
Nếu đối các pháp nghĩa tương ưng
Liền được đồng về đạo xuất ly
Tu đạo Bồ-đề chứng Bồ-đề
Ta nên suy nghĩ việc như vậy
Tất cả các Đại Bồ-tát tạng
Chánh pháp hòa hợp nghĩa thậm thâm
Trải qua câu-chi trăm ngàn kiếp
Phát sinh tịnh tín thật khó được
Nếu còn nhiều thứ các khổ khác
Diệu pháp chư Phật chẳng nghĩ bàn
Tùy theo tu tập hay thọ trì
Vì Phật Bồ-đề quả thù thắng
Ta nên thân cận và vâng theo
Tôn trọng tín phụng A-xà-lê
Chư Phật Bồ-tát cũng như vây
Liền được tín thanh tịnh tối thượng
Phát sinh tịnh tâm như vậy rồi
Đó là tâm Bồ-đề rộng lớn
Thắng tuệ phương tiện đều viên thành
Hầu hạ trà nước thường tinh tấn.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ tám của Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chín là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Thương thay! Tất cả chúng sinh trong thế gian, bởi do chấp trước luyến ái thân mạng, thường làm tất cả hạnh không nghĩa lợi, chạy theo điên đảo.
Cái gì là hạnh không nghĩa lợi? Đó là chúng sinh luyến tiếc chấp trước vào thân mạng, không ham thích pháp phần Bồ-đề. Đó là do ngã kiến dẫn dắt, tâm chấp trước ngu si che lấp, chạy theo các việc suy đồi phá hoại. Đây gọi là hạnh không nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh luyến tiếc thân mạng là do ngã kiến dắt dẫn, luyến ái vợ, con, trai, gái, tri thức. Do tâm luyến ái chấp trước che lấp, ngu si tối tăm, xa lìa các việc nhiêu ích. Đây là hạnh không nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh luyến tiếc chấp trước thân mạng, bởi do ngã kiến dẫn dắt, thích làm người nô tỳ để làm các việc, coi ngó giữ gìn. Đây là làm việc không nghĩa lợi.
Lại nữa, tất cả chúng sinh trong thế gian luôn đeo đuổi hạnh nghĩa lợi, hoặc có chúng sinh không tiếc thân mạng, ham thích pháp phần Bồ-đề, với tâm Bồ-đề là trước hết, khéo tu ba nghiệp thân, miệng, ý. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh không tiếc thân mạng luôn ham thích pháp phần Bồ-đề, tâm Bồ-đề là trước hết, tích tập Bố thí ba-la-mật-đa. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh không tiếc thân mạng, thường ham thích pháp phần Bồ-đề với tâm Bồ-đề là trước hết, thực hành bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, nhiếp hóa hết tất cả chúng sinh. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh không tiếc thân mạng, thường ham thích pháp phần Bồ-đề, với tâm Bồ-đề là trước hết, tu tập Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn lực, Giác đạo, Bồ-đề phần thù thắng. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh không tiếc thân mạng, thường ham thích pháp phần Bồ-đề, với tâm Bồ-đề là trước hết, lắng nghe vâng lời dạy bảo của cha mẹ và các bậc A-xà-lê; lễ bái, khen ngợi, cung kính, chấp tay, phụng hành các việc. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh không tiếc thân mạng, thường ham thích pháp phần Bồ-đề, với tâm Bồ-đề là trước hết, thường đem tâm thanh tịnh làm việc Tam bảo. Đây gọi là hạnh có nghĩa lợi.
Lại nữa, chúng sinh nghĩ như vầy: Ta vì tiếc thân mạng, cho nên việc không nghĩa lợi luôn theo đuổi ta; vậy ta nên siêng năng tinh tấn, thân cận hầu hạ A-xà-lê, không tiếc thân mạng, làm những việc cần làm, nhàm chán thân không chân thật này mong cầu thân chắc chắn chân thật, phước trí thắng lực sẽ được đầy đủ. Do đầy đủ cho nên mọi thao tác tu tập đều được thành tựu, đến Bồ-đề tràng, sẽ chứng Thánh quả.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ chín của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Nếu người còn luyến tiếc thân mạng
Pháp phần Bồ-đề không ham thích
Ba nghiệp bất thiện đều tạo đủ
Đó là kẻ ngu si dị sinh
Luyến ái thân mình và vợ con
Và các trai gái cùng quyến thuộc
Tâm chấp trước này không nghĩa lợi
Kẻ ngu si xoay chuyển ba cõi
Lại làm nô tỳ làm mọi việc
Bởi tâm bất giác thường luyến tiếc
Dính mắc vào việc không nghĩa lợi
Nuôi sống cho các loài bốn chân
Chứa nhóm tiền của lúa thóc nhiều
Mình không thọ dụng không cho ai
Không nghĩa lợi này ái trước sâu
Che dấu âm thầm không lộ ra
Nhiễm trước vào không nghĩa lợi này
Tâm kẻ ngu si thường ái tiếc
Ngược lại với thiện ý Bồ-tát
Xả bỏ không thể sinh yêu thích
Nếu người không tiếc cả thân mạng
Ham thích Bồ-đề phần thù thắng
Ba pháp thiện nghiệp tạo đầy đủ
Điều này gọi là có nghĩa lợi
Thí, giới, nhẫn nhục và tinh tấn
Thiền định, thắng tuệ cũng như vậy
Cùng với phương tiện hạnh tương ưng
Điều này gọi là có nghĩa lợi
Phụng thờ cha mẹ là trước hết
Vâng lời Tôn sư cũng như vậy
Suy nghĩ kỹ lưỡng môn Tam bảo
Điều này gọi là có nghĩa lợi
Các Đại Bồ-tát tạng thậm thâm
Nhiếp hết tất cả pháp thù thắng
Thọ trì đọc tụng rộng tuyên dương
Điều này gọi là có nghĩa lợi
Các thắng hạnh có nghĩa lợi này
Chính là chư Phật đã tuyên nói
Như trên đã nói nghĩa tương ưng
Đây là Phật tử hạnh to lớn
Phát sinh đại tâm như vậy rồi
Lại phát tâm thanh tịnh chắc chắn
Thân cận hầu hạ A-xà-lê
Cung phụng trà nước làm các việc.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ chín của Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Mười là, Bồ-tát phát tâm như vầy: Thương thay! Tất cả chúng sinh trong thế gian không thể điều phục tâm ý như lý, trái nghịch với lời dạy của A-xà-lê, những người này sẽ không được Thánh tài của A-xà-lê. Những gì gọi là thánh tài của A-xà-lê? Đó là tín tài, giới tài, văn tài, xả tài, tuệ tài, tàm tài, quý tài. Bảy pháp này là Thánh tài của A-xà-lê. Do không được thánh tài như vậy, cho nên phải chịu nghèo cùng bức bách tâm ý. Người trí nên khéo điều phục tâm, tùy thuận với lời dạy của A-xà-lê tập hạnh bố thí, làm các việc thiện. Vì sao? Vì nếu có khả năng điều phục tâm, tùy thuận lời dạy, tu hạnh bố thí, người này liền được Thánh tài của A-xà-lê. Sao gọi là Thánh tài của A-xà-lê? Đó là chánh pháp Bồ-tát tạng, nhiếp hết tất cả pháp khéo điều phục của Bồtát. Biết như vậy rồi siêng năng tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, tuyên nói rộng rãi cho mọi người. Nếu ai có khả năng an trụ Bồ-tát tạng thì đoạn trừ được nghèo khổ rốt ráo, hướng đến Chánh đẳng Chánh giác. Phát tâm như vậy rồi thì có khả năng tùy thuận của A-xà-lê, hành bố thí, nhàm chán thân không chân thật này, mong cầu thân chắc chắn chân thật, thân cận hầu hạ A-xà-lê, cho đến dâng trà nước.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ mười của Bồ-tát.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Tất cả chúng sinh khó điều phục
Trong lòng dối trá lại hiểm ác
Trái với lời dạy của Tôn sư
Không thể kham nhận và nhẫn nhục
Biết được khó điều phục này rồi
Phải nên tùy thuận lời thầy dạy
Đem lời chỉ dạy để tuyên dương
Liền được Thánh tài của Như Lai
Đó là tín tài và giới tài
Văn tài, xả tài cũng như vậy
Trong đó tối thắng là tuệ tài
Tàm quý Thánh tài là bảy pháp
Biết rõ Thánh tài như vậy rồi
Bảy thứ phục tàng dùng không hết
Nếu như không biết rõ như vậy
Thì đó không phải là pháp khí
Nếu chúng sinh này là pháp khí
Thì được đầy đủ pháp chư Phật
Không dối, khéo điều phục xưng dương
Siêng năng tinh tấn tu thí hạnh
Dục tâm tôn trọng pháp vi diệu
Vứt bỏ thân mạng không khó gì
Tu Bồ-đề Phật thành pháp khí
Biết rồi tu trì không gián đoạn
Pháp giới bình đẳng không sai biệt
Phật Điều Ngự Tôn đã tuyên nói
Môn chánh pháp Bồ-tát tạng này
Hay khéo an trụ trong Bồ-đề
Như trên đã nói pháp rộng lớn
Đó là chân thật tài chư Phật
Vì tất cả pháp là vô ngã
Không tướng, cũng lại không không tướng
Không có thọ mạng, không tác giả
Cũng không hý luận, không hàm tàng
Đối với tự tánh tất cả pháp
Không sinh, không tướng vốn như vậy
Các pháp không thành cũng không hoại
Quán kỹ các pháp vốn không tướng
Người khéo điều phục vâng lời dạy
Tùy theo lời dạy khéo tu tập
Nếu được thấy Phật trí tự nhiên
Tùy tự cảnh vào cửa giải thoát
Như là tín tài và giới tài
Văn, xả, tàm quý, tuệ bảy tài
Thánh tài vô thượng báu như vậy
Đầy đủ bảy pháp dùng không hết
Nghe pháp tạng ấy rộng bố thí
Khéo điều tâm ý đều tùy thuận
Luôn luôn thân cận các bạn lành
Và thường tu tập các thiện hạnh
Tôn trọng đại Bồ-đề vô thượng
Siêng hành các pháp cũng như vậy
Phát sinh tâm thù thắng như vậy
Như khát nhớ nước không biết mệt
Nước sạch chứa đầy trong bình sạch
Tâm rộng lớn ham thích hiến dâng.
Này Xá-lợi Tử! Đây là phát tâm thứ mười của Bồ-tát. Do phát tâm rồi cho nên siêng năng tu tập chánh pháp Bồ-tát tạng, thân cận phụng thờ A-xàlê, làm các việc cần làm cho đến hầu hạ trà nước. Nhờ sức thiện căn tối thắng này, cho nên người tu tập hạnh Bồ-tát đạt được bốn pháp:
1. Như A-xà-lê đã dạy, mau chóng đạt được tất cả thiện pháp.
2. Vâng lời dạy của A-xà-lê.
3. Tu hành mau chóng được thành tựu.
4. Tu hành nhân chánh pháp đầy đủ.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Người tu hạnh Bồ-tát sinh vào nhân gian, đạt được bốn pháp:
1. Dạy dỗ nhiều người, tất cả thiện pháp tùy theo khả năng mà an trụ.
2. Ở trong núi sâu, được nhiều người hoan hỷ.
3. Vì tâm rộng lớn cho nên cả ngày lẫn đêm được nhiều người đến.
4. Không có chỗ sinh ra, đến khi mạng chung được sinh lên cõi trời.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Người tu hạnh Bồ-tát sinh lên cõi trời đạt được bốn pháp:
1. Được Thiên chúng dâng cúng tòa tối thượng.
2. Mọi chỗ đi đến được Thiên chúng chiêm ngưỡng tướng đẹp vi diệu.
3. Tùy theo lời nói ra mọi người đều lãnh thọ rõ ràng.
4. Chỉ đến chỗ chúa trời Đế Thích thưa hỏi những điều nghi, chứ không đến chỗ của các trời khác, được thọ dụng cung điện ở trong cõi trời.
Này Xá-lợi Tử! Người tu hạnh Bồ-tát sinh lên cõi trời được bốn pháp như vậy, nếu sinh vào cõi người được vô lượng trăm ngàn pháp môn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Được tòa tối thắng trong cõi trời
Lại được Thiên chúng luôn cung kính
Tất cả Thiên chúng đều chiêm ngưỡng
Thường nghe nói thiện pháp như vậy
Tất cả việc làm đều là trí
Hỏi pháp Đế Thích tâm không tiếc
Được cung điện thù thắng ở cõi trời
Diệt ở cõi trời sinh cõi người
Lại được sinh vào chỗ tối thắng
Làm Chuyển luân vương nhiếp bốn châu
Sau khi chết rồi sinh trở lại
Ở trên cõi trời hưởng vui sướng
Cõi trời không có các khổ não
Tôn trọng Tôn sư gieo nhân này
Bốn môn thù thắng vi diệu này
Thường được việc rộng lớn như vậy
Do tâm không khởi lên chấp trước
Tôn trọng Tôn sư khéo tu tập
Với tâm thanh tịnh dâng trà nước
Ham thích tôn trọng thường không chán
Thường được các hàng trời, người, rồng
Tôn trọng cung kính và cúng dường
Khi được sinh lên cõi trời kia
Cũng lại được bốn thứ pháp ấy
Tại sao gọi là bốn thứ pháp?
Biết rõ những nghiệp trước đã làm
Tích tập hạnh thiện và nhân thiện
Việc làm hiện tại thường không giảm
Lại nữa vì do thiện pháp này
Cho nên biết rõ chỗ sinh diệt
Hiện sinh không động cũng biết rõ
Thế nên biết rõ các pháp hành
Tuyên nói rộng rãi cho chư thiên
Y pháp hiển bày và dạy dỗ
Rộng làm lợi ích hạnh thù thắng
Rồi sau diệt độ từ cõi trời.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Người tu hạnh Bồ-tát được bốn pháp:
1. Sau khi diệt độ từ cõi trời rồi, sinh vào nhân gian, cùng cấm giới, cùng phần sinh.
2. Sinh vào cõi người rồi, hiện tại được năm loại Bi pháp:
a) Hiện tại được sinh trong thiện pháp.
b) Hiện tại đầy đủ tướng oai nghi.
c) Hiện tại được đầy đủ tịnh giới.
d) Hiện tại quyến thuộc đông nhiều.
e) Hiện tại khởi tâm Từ quán đối với chúng sinh.
3 + 4. (*)
(*) Trong văn này nêu lên bốn pháp, nhưng chỉ có pháp một và hai, còn pháp ba và bốn nguyên bản Phạm không có.
Lại nữa, sẽ được năm pháp không phá hoại:
1. Thiện hữu tri thức thường không phá hoại.
2. Thân lâu hoại.
3. Thọ dụng giàu có sung sướng, nhưng không phá hoại.
4. Phát tâm Bồ-đề chắc chắn không thể phá hoại.
5. Đối với lúc đói khát liền được pháp lạc sung túc no đủ.
Lại nữa, sẽ được năm pháp hy hữu:
1. Đem bình không để nơi một chỗ, tự nhiên có đầy nước thanh tịnh, trong nước đó lại chứa đầy các loại trân báu vi diệu.
2. Lúc khát cần đến nước thì tự nhiên có nước tám công đức hiện ra trước.
3. Thân lìa các nạn nhiệt não như độc, đao, lửa, nước, ẩm phục oai quan, ăn nuốt sợ hãi.
4. Hoặc gặp lúc đao binh, kiếp tật dịch, kiếp đói khát, kiếp hỏa tai, kiếp thủy tai, kiếp phong tai, kiếp nghèo thiếu, kiếp nóng bức, nạn Dạ-xoa, hiện sinh trong cõi Diêm-phù-đề, liền được sinh lên cõi trời thọ mọi sự sung sướng khoái lạc, hưởng thọ vui vi diệu như Kim cang du hý. Đây là pháp hy hữu.
(*)5. Người tu hạnh Bồ-tát, nhờ căn lành này nên lìa mọi chướng nạn trong hiện tại; hiện tại không đọa đường ác, ác tác không thể nhiễu loạn động tâm, mau chóng được xuất ly.
(*) Đoạn này theo bản Hán thuộc đầu quyển 21, nay đưa vào cuối quyển 20 để đoạn văn được rõ hơn.
Năm pháp hy hữu như vậy, người tu hạnh Bồtát, nhờ sức thiện căn đó cho nên đều được viên mãn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nhờ sức thiện căn này cho nên được bốn pháp không lìa Đẳng dẫn (thiền định):
1. Bồ-tát đồng thấy điều đó, khởi tâm đại Bi đối với các chúng sinh khổ não.
2. Quyến thuộc nam nữ đều sinh tâm tôn trọng mến mộ.
3. Tướng già ập đến, càng thêm suy yếu, nhưng nhờ sức thiện căn này làm cho sức lực càng tăng.
4. Được tài lợi trăm lần, càng tăng thêm từ một cho đến gấp ba lần.
Lại nữa, được ba pháp không tổn hại:
1. Tham không tổn hại.
2. Sân không tổn hại.
3. Si không tổn hại.
Lại nữa, được bốn pháp an lạc:
1. Lớn lên lìa các bệnh khổ não.
2. Thân thể không khô gầy.
3. Thọ dụng được đầy đủ.
4. Không bị nạn vua, nạn giặc cướp và các nạn khác đến bức bách.
Lại nữa, được bốn pháp tôn trọng:
1. Làm Chuyển luân vương thống lãnh bốn đại châu, đem chánh pháp cai trị hóa độ, đầy đủ bảy báu. Bảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ tạng thần báu, chủ binh thần báu, được ngàn người con vây quanh, người nào cũng đều dũng mãnh mạnh mẽ, đầy đủ vô úy, sắc tướng tối thượng, có khả năng nhiếp phục quân địch; mọi việc làm và hành động của chúng sinh trong bốn đại châu đều thuận vương hóa; tể tướng đại thần và các tiểu vương cho đến quốc thành dân thứ đều tôn trọng tin theo.
2. Không bị chìm đắm trong bảy thứ dục lạc. Năm dục là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, thọ năm cảnh này nhưng không đắm trước, phát tâm tinh tấn, hâm mộ xuất gia, mau chóng đạt được năm thứ thần thông, được nhân và phi nhân tôn trọng.
3. Dù sinh ra nơi nào, tất cả đều tối thắng, trí tối thắng, tuệ tối thắng, năm thần thông tối thắng. Những kết quả như vậy đều là do đời quá khứ đã tu tập các thiện hạnh, đầy đủ danh tiếng, được vương vị Chuyển luân vương tối thượng, được tể tướng, quan lại, quốc thành, dân chúng tôn trọng.
4. Cho đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác Tối tôn Tối thượng, tối thắng hơn tất cả các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, đại chúng… Tu tập giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, trong các pháp này cũng đều được tối thắng. Lại còn có khả năng thành tựu pháp tối thắng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Bốn pháp tôn trọng này là do tôn trọng phụng thờ A-xà-lê, sư trưởng, làm các việc cần làm, hầu hạ trà nước, tích tập vô lượng công đức, đem pháp nhiếp thọ để thành tựu pháp lợi ích, hoặc đến, hoặc đi, như trên đã nói, không sinh trái nghịch.
Lại nữa, nhờ căn lành này nên được bốn pháp duyên đầy đủ:
1. Đầy đủ duyên làm vua, đầy đủ duyên làm vua tức là đầy đủ duyên làm tiên.
2. Vứt bỏ dục lạc, phát sinh lòng tin thanh tịnh, ham thích xuất gia, đây tức là pháp duyên đầy đủ.
3. Người tu hạnh Bồ-tát, sinh ra nơi nào, hoặc sinh nơi này, hoặc sinh nơi khác và sinh bất cứ nơi nào cũng đều được túc mạng trí thông, không xả bỏ tâm đại Bồ-đề, đây tức là đầy đủ niệm duyên.
4. Cho đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, được bốn chúng vây quanh tôn trọng, cung kính tin theo cho đến tất cả Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… thường vây quanh tôn trọng cung kính.
Lại nữa, người tu hạnh Bồ-tát, ở chỗ của A-xàlê, cho đến ghi nhận từ một cho đến bốn câu kệ, phải vâng lời A-xà-lê chỉ dạy, bảo đến là đến, bảo đi là đi, điều này là thiện căn, điều này không thiện căn, việc này có tội, việc này không có tội, người này nên thân cận, người này không nên thân cận, nếu làm việc này thì không có nghĩa lợi, sinh các nẻo khổ, nếu làm việc này thì được lợi ích an lạc. Như lời đã dạy không nên làm điều bất thiện, nên làm thiện pháp không có các chướng ngại, cũng không có trái nghịch. Nhờ thiện này nên được đầy đủ bốn pháp thù thắng:
1. Tịnh giới thù thắng.
2. Thân tướng thù thắng.
3. Thân tướng đầy đủ.
4. Được đại tuệ căn, được tuệ nhanh chóng, tuệ mạnh mẽ lanh lợi, tuệ rất nhanh chóng, tuệ thậm thâm, tuệ khéo lựa chọn, khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi trời.
Lại nữa, được bốn pháp không thể thấy:
1. Được bí mật nội tạng.
2. Nhờ thiện căn này cho nên cha mẹ và các bậc tri thức, cho đến Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân v.v… với tâm thanh tịnh nhưng đều không thể quán thấy đảnh tướng của người tu hạnh Bồ-tát.
3. Nhờ sức thiện căn này, cho nên tùy theo các việc làm, cha mẹ, Thiện tri thức, cho đến Nhân phi nhân dùng tâm thanh tịnh hoặc tâm không thanh tịnh đều không quán thấy được mặt và hai chân của người tu hạnh Bồ-tát. Vì sao? Vì họ không đủ sức để quán tướng hy hữu của Bồ-tát, đầy đủ tướng sĩ phu, lời nói sĩ phu.
4. Người tu hạnh Bồ-tát, do đầy đủ sức thiện căn, cho nên khi Bồ-tát sinh ra không nhờ người đỡ bồng nhưng vẫn đứng vững trên đất, nhìn khắp bốn phương, được trí tối thắng. Vì sao? Vì đời trước Bồ-tát đã trải qua sự tu hành không dối trá, đa văn Thánh đạo, được nhãn căn không siểm khúc, nhãn cảnh không siểm khúc cho đến nhìn khắp tam thiên đại thiên thế giới không có chướng ngại, Thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn mắt thường. Bồ-tát đã được đại trí nhanh chóng, do đầy đủ đại trí cho nên đối với tâm yêu thích của chúng sinh, Bồ-tát đều biết rõ. Vì sao? Vì Bồ-tát đã từng làm các việc thiện, cho nên có thể nhiếp thọ tất cả tâm, tôn trọng cũng như tưởng thuốc Thánh vi diệu, tưởng các trân báu, tưởng rất khó được. Như đã nói đường thiện, các chúng sinh tưởng, chánh pháp xuất hiện, phải khéo lắng nghe và giữ gìn.
Thế nên Bồ-tát đạt được trí thiện quyết trạch như vậy, do đầy đủ trí quyết trạch cho nên Bồ-tát cùng với các chúng sinh đồng tịnh giới, cho đến đồng với văn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến; đồng với giới hòa hợp, cho đến đồng với giới, văn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hòa hợp; đồng với giới không lay động của tất cả chúng sinh, cho đến đồng với văn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến không động. Vì đồng với giới không động của tất cả chúng sinh, cho nên giới không động của tất cả chúng sinh tăng trưởng cũng lại đồng nhau, cho đến đồng nhau với văn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến không động tăng trưởng; đồng nhau với oai nghi đạo hạnh, tu hành tinh tấn của tất cả chúng sinh, tức là tất cả chúng sinh cùng nhau tìm cầu, nhưng giới, văn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, hòa hợp của tất cả chúng sinh, giới… không động của tất cả chúng sinh, giới… không động tăng trưởng của tất cả chúng sinh, oai nghi đạo hạnh tu hành tinh tấn của tất cả chúng sinh nhiếp hết tất cả phước uẩn đối với nhất thiết xứ tìm cầu bình đẳng, bình đẳng cũng không thể thấy bình đẳng.
Lại nữa, đối với tất cả căn bản cùng cực tất cả chúng sinh cùng nhau tìm cầu chỗ có ngã tướng bình đẳng, bình đẳng cũng không có thể thấy bình đẳng. Do vậy, người tu hạnh bình đẳng trong khoảng sát-na mau chóng được tất cả nghiệp báo, thành tựu trí sinh, trong khoảng khảy móng tay biết rõ ngàn thứ tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Như vậy tất cả tìm cầu ngã tướng đều bình đẳng, bình đẳng cũng không thể thấy bình đẳng, trụ ở chỗ tối thượng biết rõ ngã không. Thế nên Bồ-tát như sư tử, như đại long, vừa mới sinh ra bước đi bảy bước, phát khởi Bồ-đề tràng, quả báo thù thắng, nhất tâm thanh tịnh, đứng ngay ngắn rồi nói lời như vầy: “Ta là bậc tối thắng tối thượng trong hàng trời người, ta có khả năng nói về sự sinh, già bệnh, chết khổ não bức bách của chúng sinh”.
Này Xá-lợi Tử! Về sau hoặc các Bồ-tát, hoặc các Đức Như Lai, ở trong tam thiên đại thiên thế giới, nói ra âm thanh vi diệu thanh tịnh, chỉ bày tất cả. Lúc đó, đại địa chấn động, đều sinh kinh sợ, lông trên thân dựng đứng, âm nhạc của chư Thiên tự nhiên trổi lên liên tục, nhưng chỗ của Bồ-tát đứng, Bồ-tát đi thảy đều chấn động, phát ra ánh sáng, màu sắc thân tướng vi diệu. Bồ-tát vẫn an nhiên không lay động, tại nơi ấy tất cả đều nhìn thấy, cho đến chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, tất cả chúng sinh đều không thể thấy. Đây là pháp không thể thấy thứ tư.
Bốn pháp không thể thấy như vậy đều do đời trước Bồ-tát lắng nghe lời chỉ dạy của A-xà-lê, hoặc đến hoặc đi, làm những việc cần làm. Nhờ sức thiện căn đó cho nên đạt được bốn pháp mau chóng của Như Lai:
1. Tùy thuận lắng nghe ghi nhận lời không hư dối tuyên nói chánh pháp của Như Lai.
2. Nhờ sức thiện căn Phật tự tuyên nói: “Lành thay, Bí-sô đã đến!”, tức thời râu tóc liền rụng, thân mặc ca-sa, tay cầm bình bát, thành tướng Bí-sô.
3. Nhờ sức thiện căn, Như Lai ở trong ba thời biết rõ tâm ý của tất cả chúng sinh.
4. Ý khởi thiện giải phương dược thù thắng vi diệu, diệt sạch bệnh khổ cho tất cả chúng sinh.
Lại nữa, nhờ sức thiện căn cho nên đạt được bốn pháp không lỗi lầm. Nếu có người cho rằng Như Lai bị bốn nạn lửa, gió, đao, độc, thì điều này là không thể có.
Lại nữa, đạt được bốn pháp không lỗi lầm:
1. Nếu có người cho rằng Như Lai có thể khiến chúng sinh vô văn nghe chánh pháp, chúng sinh ngu si thọ pháp cú thì điều này không thể có.
2. Người không trụ tâm Đẳng dẫn, Như Lai khiến nhất niệm phát tâm, điều này không thể có.
3. Như Lai thường trụ tâm Đẳng dẫn, nếu nói rằng Như Lai không có hạnh Từ, Bi, Hỷ, Xả thì không thể có.
4. Nếu có người cho rằng Như Lai nhiếp hết thân sắc tướng của tất cả chúng sinh, điều đó không thể có.
Lại nữa, đạt được năm pháp thù thắng vô lượng của Như Lai:
1. Như Lai giới văn vô lượng.
2. Định vô lượng.
3. Tuệ vô lượng.
4. Giải thoát vô lượng.
5. Giải thoát tri kiến vô lượng.
Lại nữa, đạt được bốn pháp trí nguyện:
1. Được tri kiến tùy chuyển không đắm trước không chướng ngại của chư Phật quá khứ.
2. Được tri kiến tùy chuyển không đắm trước không chướng ngại của chư Phật vị lai.
3. Được tri kiến tùy chuyển không đắm trước, không chướng ngại của chư Phật hiện tại.
4. Thành tựu môn chẳng thể nghĩ bàn này nên đầy đủ trí Chánh đẳng Chánh giác bình đẳng ba đời. Nhưng trí Chánh đẳng Chánh giác ấy không lệ thuộc vào người khác. Nhờ trí chẳng thể nghĩ bàn này nên Như Lai biết rõ các pháp. Nếu đầy đủ trí chẳng thể nghĩ bàn như vậy thì có thể biết rõ tất cả việc mưa gió ở thế gian.
Thế gian có gió tên là Thuận thứ, thổi chúng sinh thế gian, gió này thổi cuộn cao đến ba câu-lôxá, quay tròn trên hư không.
Lại nữa, có gió tên là Như vân thổi thế gian, gió này thổi cuộn cao đến năm câu-lô-xá quay tròn trên hư không.
Lại nữa, có gió tên là Si minh, thổi ập thế gian, gió này thổi cuộn cao đến mười du-thiện-na, quay tròn trên hư không.
Lại nữa, có gió tên là Hư không tướng, thổi ập thế gian, gió này thổi cuộn cao đến ba mươi duthiện-na, quay tròn trên hư không.
Lại nữa, có gió tên là Như Lai thổi ập thế gian, gió này thổi cuộn cao đến bốn mươi du-thiện-na, quay tròn trên hư không.
Này Xá-lợi Tử! Trí tuệ sở nhiếp của Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có thể biết rõ sáu mươi tám ngàn câu-chi sự tướng của gió xoáy. Phương Tây có gió tên là Châu quảng, thổi ập vào thế gian, gió này thổi quật cao đến sáu mươi tám ngàn du-thiện-na, rồi dừng lại ở đại địa thủy luân, từ thủy luân thổi lên cao đến sáu mươi tám ngàn du-thiện-na.
Này Xá-lợi Tử! Như trước đã nói quá hơn sự tính đếm trong tam thiên đại thiên thế giới, Đức Đại Uẩn Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác hiện tại nói pháp giáo hóa chúng sinh. Tuổi thọ của Đức Phật ấy đến ba mươi câu-chi năm, có ba mươi câuchi na-do-đa chúng đại Thanh văn, đều là A-lahán, đã hết các lậu, không còn phiền não, cho đến tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Có trăm câu-chi chúng Đại Bồ-tát đều đã trụ Bồ-tát tạng hiểu nghĩa quyết định, tuyên nói pháp hải đa văn thậm thâm, khéo tu hạnh thù thắng Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đức Phật ấy trụ thế một ngàn năm rồi nhập Niết-bàn. Sau khi Đức Phật ấy nhập Niết-bàn, chánh pháp tồn tại ở thế gian trải qua trăm ngàn năm, sau đó Xá-lợi của Như Lai ấy được lưu bố rộng rãi. Như ta hiện nay, sau khi Niết-bàn Xá-lợi lưu bố cũng lại như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Thánh trí vô ngại của Như Lai tối thượng vô lượng, trí của Như Lai thổi vào Mạnnoa-la rộng lớn đầy đủ, các cõi Phật cũng đều đầy đủ.
Này Xá-lợi Tử! Phương trên có thế giới hiện nay không có Phật ra đời, cõi đó có ngàn chúng Duyên giác, hiện tại giáo hóa chúng sinh, đối với các chúng sinh ấy gieo trồng căn lành, dùng trí nhiếp hóa.
Này Xá-lợi Tử! Trí nhiếp hóa của Như Lai không những biết phương trên hằng hà sa số Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang nói pháp, mười phương vô lượng không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện tại nói pháp thảy đều biết rõ.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn! Người tu hạnh Bồ-tát trồng bao nhiêu căn lành thì mới có thể đầy đủ trí không chướng ngại của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác?
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Người tu hạnh Bồ-tát nếu có thể điều phục tâm, khởi ý tưởng tôn trọng, từ nơi pháp phát sinh tưởng Thánh dược vi diệu, tưởng đại trân báu, tưởng rất khó được, tưởng thiện căn thù thắng, tưởng như điều đã dạy, tưởng rất tôn trọng, tưởng nhiếp thọ chánh pháp, phải nên siêng năng tinh tấn dũng mãnh như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Trí Như Lai rộng lớn tối thượng, trí không đoạn tối thượng tối thắng, vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, không thể so sánh, không thể nói; trong khoảng khảy móng tay tất cả mười phương hằng hà sa số các cõi Phật, hoặc tới hoặc lui, hoặc đi hoặc đứng đều được giải thoát.
Này Xá-lợi Tử! Ta đã giải thoát từ văn trì cho nên mau chóng được giải thoát, mau chóng giải thoát gọi là thiện giải thoát. Sao gọi là giải thoát? Nghĩa là giải thoát tất cả khổ.
Này Xá-lợi Tử! Nếu người nào nghe lời này khởi tâm tôn trọng, trong khoảng thời gian nghe đó liền phát tâm tin thanh tịnh, nếu như nghe sở trụ thì không bao giờ xa lìa chánh pháp của chư Phật, tùy theo các tướng nào, danh, cú, văn, nghĩa đều có thể thọ trì các chánh pháp ấy. Nhờ sức thiện căn thù thắng này cho nên được bốn pháp tuệ thù thắng:
1. Được đại tuệ.
2. Nhờ tuệ thù thắng này cho nên được thấy Đức Phật thân cận nhiếp thọ.
3. Nhờ tuệ thù thắng này cho nên phát lòng tin thanh tịnh xuất gia.
4. Nhờ tuệ thù thắng này cho nên chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Đây là bốn pháp tuệ thù thắng.
Lại nữa, được bốn pháp không chướng ngại:
1. Được sinh trong loài người không bị chướng ngại.
2. Gặp Phật ra đời thân cận tín phụng không bị chướng ngại.
3. Phát lòng tin thanh tịnh xuất gia không bị chướng ngại.
4. Thành Chánh đẳng Chánh giác không chướng ngại.
Đây là bốn pháp không chướng ngại. Lại nữa, được bốn Thánh pháp phần:
1. Được làm Chuyển luân vương đầy đủ kim luân thù thắng.
2. Được làm Phạm vương thống lãnh Phạm thế.
3. Được làm chủ trời Đế Thích.
4. Được chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, được cảnh giới thần thông liễu tri đầy đủ, được mắt chân thật trong hàng trời, người.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói nghĩa này rồi, lại dạy thêm cho các Đại Bồ-tát bằng kệ rằng:
Nên quán thế gian hay cứu hộ
Tất cả hữu tình nhân tối thắng
Các trí vô biên đều biết rõ
Đạt được Niết-bàn vui vô lượng
Đến đi thù thắng được diệu quả
Đoạn hẳn các nhân khổ thế gian
Khéo hay điều phục sinh cõi trời
Sát-na xa lìa các đường ác
Ta nay chóng được thấy chư Phật
Xa lìa tất cả nhân khổ nạn
Phục tạng thế gian không giới hạn
Tùy ý tự tại đều đạt được
Tất cả tiền tài và trân báu
Tùy niệm hiện ra ở thế gian
Nước tám công đức cũng như vậy
Sông, suối, ao, hồ đều lặng yên
Tránh khỏi tất cả nhân xấu xa
Tất cả không sinh các khổ não
Đui điếc bệnh ghẻ các nhân duyên
Người nghèo điều phục được diệu quả
Tất cả hoạn nạn ở thế gian
Chúng sinh toàn diện hay khuyết tật
Lưng gù chân quẹo thân hình xấu
Các nhiễm trước thảy đều giảm mất
Xa lìa tất cả tướng dị loại
Nên được quả tối thắng tối thượng
Diện mạo tròn đầy và đẹp đẽ
Người khéo điều phục được quả tốt
Sắc tướng đoan nghiêm danh tiếng lớn
Chư Thiên đều đến xin cúng dường
Tám bộ đều sinh tâm cung kính
Tất cả hữu tình cũng như vậy.
Lại nữa, người khéo điều phục được quả lợi này, trừ diệt tất cả các đường ác rồi sau đó được sinh lên các cõi trời, mau chóng thành tựu quả đại Bồ-đề. Người khéo điều phục được quả lợi này, hiểu rõ tâm của tất cả hữu tình, có thể thông đạt các hành nghiệp của hữu tình, bước đi bảy bước rồi, ở giữa thế gian cất tiếng nói lớn, trong các thức đạt được đại trí tuệ giải thoát tối thắng đều được thành tựu trí tuệ tối thượng, cùng với các hữu tình thảy đều biết rõ, đối với trí tuệ có thể an lập trí tuệ tối thắng thảy đều thanh tịnh, ở chỗ chư
Phật đều thành tựu, đối với thể tánh trí tuệ hiểu rõ, đối với tự tha thảy đều thành tựu. Nếu các hữu tình đầy đủ năng lực trí tuệ, thì đối với các tác dụng thảy đều thành tựu, có thể tuyên nói nghĩa như vậy. Hữu tình thiểu dục đều không có nguyện lực, hữu tình nhiều tham đều bị si mê chấp trước, nhân duyên tội nghiệp càng ngày càng tăng, tích tập ác nghiệp vô lượng vô biên, đối với chánh pháp không thể tín thọ. Nếu có hữu tình ít dục, không sinh tôn trọng chánh pháp, đối với các hữu tình không sinh cung kính, nổi tướng sân giận, sinh tâm nhiễm trước, tự cho mình đắc quả A-lahán, mỗi tướng suy, già, bệnh các khổ não lớn ở thế gian đều tích tập trong thân. Người ấy bị quả báo như vậy rồi, tất cả các tướng bất thiện, luống dối thọ nhận các món cúng dường như đồ ăn thức uống tạo nghiệp bất thiện, sẽ đọa vào địa ngục, đến lúc đó không thể trì giới hạnh thanh tịnh, thì có đâu đến chứng quả A-la-hán. Nếu sinh lòng tin hiểu, tạo dựng các tháp miếu, phát tâm cung kính, được sinh vào chỗ thiện, tu trì tịnh giới hành các thiện nghiệp.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát cầu chánh pháp tạng Đại thừa, nên thân cận các bậc mô phạm thì thường được vô lượng thiện pháp, tán thán công đức như vậy, như vậy, đều được các quả báo thiện. Sau đó công đức càng tăng thêm vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, không thể so lường không thể tính đếm, thành tựu như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát an trụ tạng Bồ-tát khéo điều phục thanh tịnh, giới hạnh viên mãn và được thành tựu các hạnh Bồ-tát.
Sao gọi giới hạnh thanh tịnh đều được viên mãn?
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có mười tướng hạnh:
1. Tất cả hữu tình ở chỗ Bồ-tát không sinh nhiễu hại.
2. Bồ-tát ở chỗ hữu tình có của cải châu báu không sinh tham trước.
3. Bồ-tát xa lìa tất cả quyến thuộc của hữu tình.
4. Bồ-tát không sinh dối gạt khinh khi hữu tình.
5. Bồ-tát đối với các hữu tình và quyến thuộc của mình không khởi ly gián và nói các lời ác.
6. Trong vô lượng kiếp, Bồ-tát luôn dùng lời nhu nhuyến hóa độ lợi ích hữu tình.
7. Bồ-tát không nói lời thêu dệt đối với các hữu tình.
8. Bồ-tát không sinh tham ái đối với các hữu tình có đời sống vật chất đầy đủ.
9. Bồ-tát không sinh sân nhuế đối với các hữu tình và có thể kham nhẫn lời phỉ báng.
10. Bồ-tát xa lìa tà kiến cũng không quy y các cõi trời.
Này Xá-lợi Tử! Mười pháp này đều là tướng giới hạnh thanh tịnh đầy đủ của Đại Bồ-tát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có mười giới hạnh thanh tịnh:
1. Bồ-tát kiên trì giới hạnh không hủy phạm, không bị vô minh xâm nhập quấy nhiễu.
2. Bồ-tát kiên trì giới hạnh dứt các tỳ vết đối với các hiểm nạn lại không sinh.
3. Bồ-tát kiên trì cấm giới, xa lìa mọi phiền não tạp nhiễm.
4. Bồ-tát trì giới hạnh thanh tịnh, không xa lìa bạch pháp.
5. Bồ-tát trì cấm giới, thường hành bình đẳng, tùy tâm tự tại.
6. Bồ-tát kiên trì cấm giới, không sinh hủy báng các người trí, nhờ thế càng thêm an ổn.
7. Bồ-tát kiên trì cấm giới, xa lìa mọi lỗi lầm.
8. Bồ-tát kiên trì cấm giới, mật hộ các căn làm cho nó không khởi.
9. Bồ-tát kiên trì cấm giới, phòng hộ các căn, đầu, giữa, cuối đều thành tựu.
10. Bồ-tát kiên trì cấm giới, luôn trong chánh niệm, nhiếp hết tất cả đều viên mãn.
Này Xá-lợi Tử! Mười pháp này Bồ-tát đều thành tựu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát lại có mười tướng trì giới hạnh:
1. Bồ-tát trì cấm giới luôn biết thiểu dục tri túc đối với các thứ ăn uống.
2. Bồ tát kiên trì cấm giới, đoạn trừ thâm, sân, si, sinh tâm hoan hỷ.
3. Bồ-tát kiên trì cấm giới không sinh tham ái đối với thân tâm.
4. Bồ-tát kiên trì cấm giới xa lìa tất cả người nữ, đi, đứng, nằm, ngồi trong đồng hoang.
5. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thực hành hạnh đầu đà, thường không quên mất các công đức.
6. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thành tựu các thiện căn tự tại.
7. Các Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường sinh hoan hỷ đối với chủng tộc thù thắng, cũng không nhìn thẳng vào các tướng đẹp khác.
8. Bồ-tát kiên trì cấm giới, ngôn hạnh tương ưng, không sinh khi dối đối với trời người.
9. Bồ-tát kiên trì cấm giới, luôn suy xét đối với tự thân, tự tâm quyết định, không sinh lỗi lầm, cũng không chê trách lỗi lầm của người khác, mà phải che chở bảo hộ.
10. Bồ-tát kiên trì cấm giới, dùng tứ nhiếp pháp hóa độ lợi ích hữu tình không có xả bỏ.
Này Xá-lợi Tử! Mười pháp này, Đại Bồ-tát đều viên mãn, giới hạnh thanh tịnh.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát lại có mười tướng giới hạnh viên mãn thanh tịnh:
1. Đại Bồ-tát kiên trì cấm giới, đối với tín giải của Đức Phật không sinh tâm thoái lui.
2. Bồ tát kiên trì cấm giới, thường hay ủng hộ chánh pháp.
3. Bồ-tát kiên trì cấm giới thường sinh tôn trọng đại chúng.
4. Bồ-tát kiên trì cấm giới, hướng đến cầu Bồđề, chú ý nhu hòa, tâm không tạm xả quả vô thượng.
5. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường hay thân cận các bạn tốt, lại hay tích tập các công đức thiện căn.
6. Bồ-tát kiên trì cấm giới, luôn xa lìa các kẻ ác và xả bỏ các pháp bất thiện.
7. Bồ-tát kiên trì cấm giới, luôn khởi tâm Từ và niềm thương xót đối với các hữu tình.
8. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường khởi bi tâm, cứu các hữu tình ra khỏi hiểm nạn.
9. Bồ-tát kiên trì cấm giới, ham thích chánh pháp như ham thích đi du ngoạn vườn cảnh đẹp.
10. Bồ-tát kiên trì cấm giới, đối với cảnh nghịch thuận, tâm luôn xả ly thảy đều bình đẳng.
Này Xá-lợi Tử! Mười tướng giới hạnh này, Đại Bồ-tát đều có khả năng thanh tịnh viên mãn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát lại có mười tướng hạnh thanh tịnh:
1. Bồ-tát kiên trì cấm giới, đối với thí độ có thể điều phục tất cả hữu tình.
2. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường hành nhẫn nhục đối với tự thân và tâm luôn phòng hộ.
3. Bồ tát kiên trì cấm giới, đối với các thiện pháp luôn tinh tấn, không lui sụt.
4. Bồ-tát kiên trì cấm giới, đối với các định tụ thường luôn gia hạnh không sinh tán loạn.
5. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường vui đa văn, đối với tuệ thù thắng không biết nhàm chán.
6. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường cầu chánh pháp Bồ-tát tạng, thường tu văn tuệ kiên cố không biếng nhác.
7. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường hay nghiên cứu truy xét các pháp vô thường, chí cầu Bồ-đề không tiếc thân mạng.
8. Bồ-tát kiên trì cấm giới, thường quán xét thọ mạng như mộng, như huyễn, sinh diệt sát-na.
9. Bồ-tát kiên trì cấm giới, đối với ý nguyện của chính mình và các hữu tình, viên mãn thanh tịnh tất cả thiện pháp.
10. Bồ-tát kiên trì cấm giới, dùng sức trì giới, nguyện đời đương lai sinh vào trong hội Phật và các hữu tình đều viên mãn thanh tịnh giới hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đều có thể viên mãn mười giới tướng thanh tịnh như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát viên mãn giới hạnh thanh tịnh như vậy, sẽ được các quả thù thắng vi diệu tốt đẹp ở cõi trời và cõi người. Bồ-tát tuy biết rõ các sự nghiệp thế gian và ban cho các dục vi diệu thế gian, nhưng lại không đắm trước tất cả hữu tình. Khi Bồ-tát hành hạnh Từ cùng với các hữu tình hành hạnh từ, thương xót lẫn nhau, không làm tổn hại nhau. Khi Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-tát, tin chánh pháp sâu xa không có hư vọng, lại đối với tất cả hữu tình đều sinh tưởng như cha mẹ, lại tùy thuận sinh lòng tin yêu đối với tất cả hữu tình, đối với pháp hữu vi niệm niệm sinh tưởng vô thường, đối với hạnh hữu vi đều sinh giác ngộ, đối với thân mạng của chính mình thường hay xả bỏ, đạt được giới hạnh thanh tịnh viên mãn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền lập lại kệ rằng:
Ánh sáng sắc tướng đẹp vô cùng
Tuyên nói chánh pháp của chư Phật
Cấm giới thanh tịnh vững hộ trì
Pháp thân thượng diệu sẽ đạt được
Xa lìa ngu si các khổ não
Trăm thứ bệnh hoạn không xâm nhập
Cấm giới thanh tịnh nguyện hộ trì
Sẽ được các căn đều trọn vẹn
Thế lực to lớn không ai bằng
Oai đức lừng lẫy cũng như vậy
Trí tuệ lanh lợi hơn thế gian
Nhiếp phục tất cả các ma chướng
Dùng sức tuệ ái nhiếp các động
Cắt đứt tất cả lưới nghi hoặc
Trời, rồng, tám bộ đều quy y
Quốc vương quyến thuộc đều cúng dường
Hay lìa tất cả các sợ hãi
An trụ cấm giới không thoái chuyển
Không đọa vào tất cả đường ác
Thực hành đại pháp tiếng tăm lớn
Tất cả hữu tình ham ngủ nghỉ
Bồ-tát lúc nào cũng cảnh giác
Lại hay dạo đi khắp bốn phương
Vì lợi hữu tình cầu thiện pháp
Thân báu tối thượng và thê thiếp
Lìa mọi chấp ngã đều hay xả
Vì cầu đại Bồ-đề vô thượng
An trú giới thanh tịnh viên mãn
Vì muốn cầu chánh pháp vô thượng
Sinh tâm tôn trọng lời Phật dạy
Luôn luôn làm thầy trong thế gian
Cúng dường rộng rãi nơi tháp miếu
Hay trừ tất cả tâm sân nhuế
Đối với việc ác đều nhẫn chịu
Dùng sức nhẫn nhục để tự an
Tất cả phỉ báng đều không động
Đối với ngôn hạnh đều tương ưng
Lúc nào cũng không có hư vọng
Khi ngồi đại Bồ-đề đạo tràng
Ba ngàn thế giới đều chấn động
Mong cầu tận cùng các pháp Phật
Cũng không quy y các cõi trời
Xả bỏ tâm tà kiến ngoại đạo
Bồ-đề vô thượng thệ thành tựu
Tất cả cây gậy và thuốc độc
Là loại hữu tình hại lẫn nhau
Bồ-tát cứu hộ hữu tình ấy
Thế nên gọi là bậc Đại trí
Ta ở trong câu-chi đa kiếp
Thương nhớ tất cả loài hàm sinh
Nếu khi thấy chúng chịu khổ não
Đem thân thay họ không mệt mỏi
Tất cả hữu tình nhiều dối gạt
Đến chỗ Bồ-tát muốn xâm đoạt
Tạo các nghiệp ác trong Diêm-phù
Chỉ có pháp Phật hay trừ đoạn
Ban cho tất cả các trân báu
Luôn luôn thân cận các bạn lành
Nếu khi các hữu tình xâm hại
Nhất định không khởi ý giận dữ
Tất cả hữu tình thân biên xứ
Nhưng thường xả bỏ pháp ngu si
Diệu hạnh chư Phật được viên thành
Cụ túc thanh tịnh thường không bỏ
Luôn luôn sống trong pháp chư Phật
Đối với các pháp đều tùy chuyển
Hạnh nguyện Bồ-đề luôn thực hành
Chứng thành quả chánh giác Bồ-đề
Tịnh chứng ba minh pháp cam lồ
Cũng thường sống trong các giới uẩn
Tất cả pháp tập đều thành tựu
Được sự cúng dường của trời người
Vì cầu tất cả pháp vô thượng
Luôn luôn hiểu rõ các sự nghiệp
Hiểu rõ hữu tình tâm thủ xả
Kham nhận cúng dường của trời người
Tuyên nói pháp cam lồ tối thượng
Luôn luôn thanh tịnh với giới uẩn
Giác ngộ nhân Vô thượng Bồ-đề
Tất cả ma chướng đều xa lìa
Đến cây Bồ-đề ngồi yên rồi
Ví như nhật nguyệt chiếu thế gian
Đủ đại oai đức chiếu rực rỡ
Ở trong thế gian là tối thượng
Mắt tuệ tối thượng xuất thế gian
Trước hết thành tựu lời vô úy
Chỉ chánh đạo rồi đều viên thành
Thí các vô úy cho hữu tình
Bồ-tát không khởi tâm yêu thích
Thân mạng tiền của hay xả bỏ
Không tham lam trân báu thế gian
Sẽ chứng quả Bồ-đề vô thượng
Các chúng không xả đạo Bồ-đề
Trì giới đầy đủ thường tinh tấn
Luôn luôn an trụ trong chánh pháp
Xa lìa tất cả các dối gạt
Bồ-tát an trụ trong giới uẩn
Thế gian nếu có người dối gạt
Nhưng khi đến chỗ của Bồ-tát
Nói lời chân thật mà chỉ dạy
Hoặc có người thường cầm bình bát
Nhưng luôn dối gạt không chân thật
Muốn cúng Bồ-tát nhưng không cúng
Bồ-tát chánh niệm không lay động.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát viên mãn các giới hạnh thanh tịnh như vậy rồi, đối với các pháp hữu vi thế gian không sinh nhiễm ái, đối với các hữu tình thường sinh tưởng như cha mẹ, đối với năm dục sinh ý tưởng không đắm trước, biết rõ pháp thế gian đều là vô tướng, tâm hành bình đẳng không có hiểm ác, hiện tiền thành tựu hạnh của Bồtát. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát khi thực hành tâm bình đẳng không lìa Niết-bàn. Nếu tâm nhiễm ô sinh chấp trước khiến các hiểm ác chuyển càng tăng thêm, mắt đắm trước sắc. Bồ-tát biết rõ rằng nó là từ tâm thức sinh phiền não hư dối. Vì lìa tự tánh cho nên đều đoạn diệt, đối với các phan duyên sinh ra chấp trước, chẳng phải pháp chân thật mà là thiện pháp. Bồ-tát biết nó là hư vọng, từ trong tâm khởi sinh ra sự hiểu biết thù thắng, dứt sạch các phiền não, liền được giải thoát, thân cũng giải thoát, dứt sạch tham, sân, si. Vì sao? Vì dứt sạch các tham này trong sát-na, hoặc riêng có pháp, hoặc riêng có pháp tận, thảy đều chân thật. Pháp tham như vậy nên biết rõ chân thật, dứt sạch chân thật.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nhưng pháp tham này không phải từ trong tâm chân thật khởi lên, mà là biến kế. Người ấy đối với pháp hoặc sinh phân biệt cũng không phải chân thật, hoặc đối với chân thật biết không phải chân thật, đối với các khổ não thảy đều giải thoát. Nếu người nào lìa khổ não thì gọi là chân thật, chân thật ấy không có các khổ não, tánh vốn thanh tịnh là nghĩa Niết-bàn, vốn không phải là pháp tham. Vì sao? Vì trong Niết-bàn không phải tưởng niệm. Nếu dứt sạch tham tức là Niếtbàn. Nếu thấy hết tham mà không phải hết tham, thấy Niết-bàn mà không phải Niết-bàn, thì đó mới là Niết-bàn chân thật. Vì sao? Vì tham và Niết-bàn tự tánh không khác, bản tánh hòa hợp. Người trí đối với pháp này biết tự tánh ấy mà cầu Niết-bàn. Nếu chẳng phải chân thật thì là hư giả, trong cái hư giả ấy tự tánh là không. Sao gọi là không? Vì chấp trước ngã và ngã sở, hoặc chấp ngã tánh là thường, hoặc chấp ngã tánh là đoạn, hoặc chấp tất cả các pháp đều không biến đổi, hoặc không ngã, nhân và thọ giả, rốt ráo không sinh tham, sân, si. Pháp ấy nếu sinh thì nhất định pháp này có. Thế nên lại sinh ra ngã, ngã sở, đối với ngã và ngã sở đều khởi tất cả hành nghiệp.
Này Xá-lợi Tử! Khởi tất cả hành là do bốn hành tích tập:
1. Thân tích tập hành.
2. Miệng tích tập hành, vì đối với tâm Từ mà không ra lời thô ác, tạo ra hành nghiệp nhiễu não người khác.
3. Tâm tích tập hành.
4. Tưởng tích tập hành, vì đối với mình người mà kế chấp tưởng niệm, các hữu tình đều bị trói buộc. (*)
(*) Văn trên nêu ra bốn hành, nhưng chỉ giải thích có hai hành còn hai hành thiếu giải thích, Phạm văn vốn để nguyên.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thấy các hữu tình sắc tướng như vậy, chấp tưởng như vậy, điên đảo như vậy, không thể cùng tu hạnh thù thắng với Bồ-tát, mà sinh hiểu rõ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát nếu cùng tu hạnh thù thắng với hữu tình, sợ rằng họ bị tổn giảm, mà ta thường cầu pháp vô úy. Này Xá-lợi Tử! Vì lý do đó, cho nên Đại Bồtát đối với các hữu tình sinh lòng tin tôn trọng không có nghi hoặc.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát sinh lòng tin tôn trọng? Vì Đại Bồ-tát tưởng tất cả hữu tình như cha mẹ.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát không bỏ rơi tất cả hữu tình, từ xưa đến nay vô biên thế giới, tất cả hữu tình đã từng là cha, mẹ, quyến thuộc của ta. Lúc đó, hữu tình vì tham ái cho nên sinh quên mất, không nhớ rằng từng là cha, mẹ, quyến thuộc, lại có lúc nổi lên sân hận, cũng đều quên mất đã từng làm cha, mẹ, quyến thuộc bèn sinh ruồng bỏ.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đem nhân duyên đó để ví dụ. Phải nên biết rõ, Đại Bồ-tát đối với tất cả hữu tình thường sinh ý tưởng quen thuộc.
Này Xá-lợi Tử! Thời quá khứ vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp chẳng thể nêu bày, chẳng thể nêu bày hết, rộng lớn vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đó, có Đức Phật hiệu là Tối Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở thế gian, trụ thế chín mươi câu-chi năm, có chín mươi câu-chi na-do-đa đại chúng Thanh văn, các Đại Bồ-tát đều đến tập hội. Lúc đó, trong hội có một Đại Bồ-tát được trụ chánh niệm, sinh vào cung vua, dòng họ thù thắng. Lúc mới sinh ra, nhà vua và hoàng hậu đều sai tám vạn bốn ngàn thể nữ ẵm bồng bảo vệ. Lúc đó, thái tử sắc tướng thù thắng vi diệu, thân thể ngay thẳng, trắng sạch, tròn đầy, các tướng trọn vẹn, ai nấy cũng thích ngắm nhìn. Do đó, quyến thuộc ngoại tộc thấy sắc tướng oai nghiêm nên đều đến thân cận ẵm bồng bảo vệ.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, thái tử có ba người bạn tốt cùng ở chung trên lầu gác thù thắng vi diệu. Các lầu đó được thiết kế phù hợp theo các mùa. Như lầu ở vào mùa nóng, mùa mưa, mùa lạnh, làm thế nào để trong ba mùa đều được vui thích, đi đứng vui chơi đều được thích nghi. Lại có ngàn vạn người đến đúng thời, đến tấu lên âm nhạc, cùng nhau vui chơi cười giỡn, thân cận hầu hạ, cung cấp, các âm thanh vi diệu lan ra khắp nơi, các tiếng đều hòa hợp.
Lúc đó, thái tử bỗng nhiên suy nghĩ về pháp sinh diệt: “Khi tiếng nhạc dứt, thì tiếng nhạc ấy từ đâu mà đến, từ đâu mà phát sinh, từ đâu mà diệt? Sao gọi là sinh? Sao gọi là diệt?”, thái tử ngày đêm cứ suy nghĩ về vấn đề đó không có ngủ nghỉ, suy nghĩ vô thường nhàm chán sinh diệt.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này được chánh niệm rồi, trong bốn vạn năm tâm thường nhàm chán âm nhạc, lại trong bốn vạn năm không thích các thứ dục lạc thế gian. Lúc Bồ-tát chưa xuất gia, thường siêng năng tu tập bốn Thiền định thành tựu năm Thần thông, từ trong cung vua bay lên hư không, đến chỗ của Đức Như Lai Tối Thượng Chúng, thân cận chiêm ngưỡng, lễ bái cúng dường và hỏi Đức Thế Tôn về các pháp yếu.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Đức Như Lai Tối Thượng Chúng đã Niết-bàn rồi, Bồ-tát đến thỉnh hỏi các đại Tỳ-kheo và các thiện nam rằng: “Tối Thượng Như Lai đã Niết-bàn rồi ư?”
Này Xá-lợi Tử! “Tối Thượng Chúng Như Lai của chúng tôi đã vào Niết-bàn rồi”. Nghe lời ấy xong, Bồ-tát thương xót khóc lóc sầu muộn, nằm bất tỉnh trên đất, lâu lắm mới tỉnh lại.
Lúc đó, Bồ-tát nhớ nghĩ Như Lai liền nói kệ rằng:
Thế Tôn chiếu sáng khắp thế gian
Vượt tất cả pháp đến bờ giác
Xa lìa tất cả hạnh viễn ly
Diệu quả thanh tịnh được thành tựu
Con trong trăm ngàn câu-chi kiếp
Khó gặp Như Lai xuất thế gian
Không gặp cúng dường chướng nhiễm sâu
Tự bỏ Như Lai ai cứu hộ
Thế gian không mẹ hiền bạn tốt
Cũng không khen ngợi Đức Như Lai
Chánh pháp nhiều đời chưa từng nghe
Đối Phật Thế Tôn khó được gặp
Thế gian không cha lành bạn hiền
Khiến con chìm đắm trong năm dục
Xuôi theo năm dục tâm nhiễm tăng
Khiến con không thấy tướng Như Lai
Phật đủ sáu mươi thứ diệu âm
Chưa từng được nghe lời Phật dạy
Nên không phân biệt được thiện ác
Khiến con chìm đắm biển sinh tử
Lại trong nhiều kiếp không gặp Phật
Đối với thế gian sinh thương xót
Và luôn thực hành lòng thương xót
Rõ tất cả pháp đến bờ giác
Con ở trong nhiều câu-chi kiếp
Không từng thân cận cúng dường Phật
Vì do phóng dật trải nhiều đời
Bởi vậy chướng sâu không thấy Phật
Con nghe Như Lai xuất thế gian
Khi đến chỗ Phật đã Niết-bàn
Cha mẹ ân ái bị trói buộc
Khiến con không được thấy Điều Ngự
Nếu gặp Như Lai lâu ở đời
Con nhất định được nghe chánh pháp
Cúng dường rộng rãi luôn thân cận
Sáu mươi diệu âm nghe đầy đủ
Sáu mươi diệu âm vốn thanh tịnh
Ba đời Như Lai đều đầy đủ
Con tuy sinh ra ở thế gian
Nhưng không đích thân nghe Phạm âm
Con sinh duyên nghiệp nhiều chướng nặng
Phật diệt độ rồi mới đến đây
Chư Phật chánh pháp tạng thậm thâm
Không ai chỉ dạy cho chúng con.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc Đại Bồ-tát nói kệ này rồi, liền đến trước chỗ Đức Phật Tối Thượng Chúng Niết-bàn, đảnh lễ xong rồi rơi lệ khóc lóc, nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi đứng qua một bên.
Lại nói kệ rằng:
Như Lai đối với các hữu tình
Khéo nói pháp chân thật tối thượng
Con nay phát khởi tâm chân thật
Nguyện cầu quả Bồ-đề vô thượng
Phật đủ đại trí, thân chân thật
Nay diệt độ rồi con không thấy
Chí phát thệ nguyện bằng Như Lai
Sẽ được các tướng tốt thù thắng
Con xưa từng ở nhà thế tục
Tâm không cung kính pháp Như Lai
Hiện chịu yếu kém căn ngu độn
Bị các ma chướng đến nhiễu não
Nay con chưa được nghe chánh pháp
Vô lượng khổ não thường bức bách
Nguyện được thân cận Điều Ngự Sư
Nguyện khởi thiện căn trồng đời trước
Con nay nói lời thành thật này
Đối với tám bộ chúng trời rồng
Chứng minh tâm chân thật của con
Nguyện được quả chân thật đương lai
Con nguyện sẽ thừa sức thiện căn
Được thấy Nhân Trung Tôn tối thượng
Nghe chánh pháp rồi được thần thông
Như rồng to lớn phun cam lồ
Con nguyện không rơi vào tám nạn
Xa lìa tất cả các dục nhiễm
Tâm thường kính ngưỡng Đức Thế Tôn
Ác ma chướng nặng không thể trói
Con nguyện thường ở chỗ chư Phật
Thân được nghe trì Chánh pháp tạng
Nghiệp trong sạch mau chóng viên thành
Vô biên Phật tuệ đều thông đạt
Con nguyện mau được lời chân thật
Nhờ chân thật này được thành Phật
Sẽ ngồi Bồ-đề đại đạo tràng
Nói pháp chân thật lợi hàm thức
Con nguyện sớm bằng Tối Thượng Chúng
Vận sức thần thông cõi đại thiên
Câu-chi Thiên chúng đều vây quanh
Người được lợi ích tâm hoan hỷ
Phật sức thần thông khó nghĩ bàn
Ở trong hư không lại khó thấy
Con xưa tán thán nhân công đức
Phóng tịnh quang chiếu sáng chúng con
Sức thần thông Phật không hạn lượng
Thương xót hữu tình thường hiển hiện
Nói pháp vi diệu khiến con nghe
Ức ngàn vạn kệ khó vô tận.
Lại nữa, Đại Bồ-tát tâm sinh hoan hỷ càng thêm tăng tiến, nói kệ rằng:
Nếu con thuở xưa nhận ký biệt
Hiện tại sẽ được thành Phật đạo
Tất cả hữu tình tùy tâm con
Đã tu cúng dường đều viên mãn
Cảnh giới chân tịnh chẳng nghĩ bàn
Người cầu Bồ-đề sẽ hướng đến
Chúng sinh nếu phát tâm như vậy
Thường thấy vô lượng Đức Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này thuở xưa ở chỗ chư Phật, gieo trồng căn lành sâu xa, thân cận cúng dường thành tựu vô lượng căn lực, nên khi diệt độ ở cõi này rồi, được sinh lên cõi trời, hai mươi câu-chi kiếp không đọa đường ác, hai mươi câu-chi kiếp không đắm say năm dục. Lại ở thuở xưa, do thân cận cúng dường bảy ngàn Như Lai, ở chỗ của mỗi Như Lai thành tựu các việc cúng dường rộng lớn. Vì cầu vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên bất cứ lúc nào Bồ-tát cũng thường tu phạm hạnh, nhờ sức thiện căn đó, cho nên được thành Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là Sa-la Thọ Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện thế gian. Trong hội Đức Phật ấy có các Thanh văn đến tập hội. Lại có hai mươi câu-chi Tỳ-kheo cùng bốn vạn vị đại A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, đạt được việc lợi mình, dứt hết các hữu kết, tâm được tự tại, đạt đến bờ giác.
Này Xá-lợi Tử! Đức Sa-la Thọ Vương Như Lai tuổi thọ đến hai mươi câu-chi tuổi. Sau khi Niết-bàn, chánh pháp tồn tại ở thế gian đủ một vạn năm, tượng pháp tồn tại ở đời cũng lại như vậy, Xá-lợi toàn thân lưu bố thế gian, cúng dường khắp tất cả làm mọi Phật sự.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Ta trong hai mươi câu-chi kiếp
Chưa từng đọa vào các đường ác
Trong hai mươi câu-chi kiếp số
Cũng không đắm trước vào năm dục.
Bảy ngàn Như Lai đương trụ thế
Lúc đó đều nhập Bát-niết-bàn
Nhờ tu phạm hạnh được thành tựu
Thường cùng hữu tình được pháp dục.
Nay ta được thành đạo Bồ-đề
Hiệu Sa-la Thọ Vương Như Lai
Trong hai mươi câu-chi kiếp số
Lập quả Bồ-đề cho hữu tình.
Giác ngộ Bồ-đề nhân tối thượng
Nhiêu ích tất cả loài hữu tình
Trong hai mươi câu-chi kiếp số
Sẽ vì hữu tình thường nói pháp.
Thường cùng bốn mươi câu-chi chúng
Cùng ngồi đạo tràng nói chánh pháp
Đã hết các lậu không còn gì
Đạt được Niết-bàn quả vi diệu.
Thân Xá-lợi ba đời Như Lai
Con từng xây tháp sáu mươi ngàn
Lại dựng câu-chi số cờ báu
Ở trong vạn năm khởi cúng dường.
Chánh pháp trụ thế một vạn năm
Các vị có trí được lợi ích
Diệu âm thanh tịnh diễn nói ra
Ai nấy nghe rồi tâm hoan hỷ.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát viên mãn giới hạnh thanh tịnh, thường sinh đối trị với tất cả hữu tình, không sinh tham ái đối với cha mẹ, phát khởi đối trị đối với các hữu tình, không sinh đắm trước các cảnh dục.
Thế nào là pháp dục của Đại Bồ-tát? Thế nào là pháp đối trị?
Pháp dục là mắt thấy sắc dục, tai nghe tiếng dục, mũi ngửi mùi dục, lưỡi nếm vị dục, thân xúc trước dục, sinh ra hòa hợp. Đối với hòa hợp này sinh ra đắm trước, nên gọi là pháp dục. Đã sinh đắm trước lại bị trói buộc, đối với các trói buộc sinh tưởng quyết định, pháp trói buộc này rốt ráo hư dối. Do tham mê cho nên trói buộc càng sâu. Pháp trói buộc này gồm có ba bậc là cạn, sâu và rất sâu; các chúng hữu tình phải nên xa lìa pháp trói buộc này. Lại nữa, sắc là trói buộc, thanh, hương, vị, xúc đều là trói buộc.
Sao gọi là sắc trói buộc? Vì thành tựu thân mạng sắc cho nên sinh ra ngã tưởng, Bổ-đặc-giàla tưởng, thọ giả tưởng, thường tưởng, bất hoại tưởng, quyết định bất biến tưởng, trần cảnh vật tưởng, tát-già-la tưởng, năm uẩn tưởng. Các tưởng này đều là sắc pháp trói buộc.
Lại nữa, sắc là trói buộc, thành tựu thân mạng, sắc pháp là các pháp dục hữu ở thế gian, đắm trước thân mạng vợ con quyến thuộc, nên gọi là sắc pháp trói buộc. Cho đến xúc dục đều là trói buộc, từ đó các nhiễm duyên dần dần bám vào, tích tập các nghiệp bất thiện, đắm trước các dục không thể tạm xả.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là dục không có lỗi lầm? Là vì dục trong sạch thanh tịnh không có lỗi lầm, không sinh đắm trước đường ác.
Sao gọi là không sinh đắm trước đường ác? Là vì dục không có lỗi lầm.
Này Xá-lợi Tử! Các chúng hữu tình đối với các việc dục thường luôn tiếp cận, chưa từng tạm xả một chút nào, do nghiệp báo này cho nên phải chịu quả khổ.
Này Xá-lợi Tử! Lần lượt quán sát ngàn thế giới, khi quán sát khắp rồi, các bạn ác không có một người nào so với vợ mình. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Tất cả hữu tình do vì ngu si, cho nên các người trí thường hay khinh chê ruồng bỏ. Vì thế nên biết, hiển hiện chánh pháp, các người vô trí thường hay nhiếp thọ. Vì thế nên biết, hiển hiện phi pháp, các pháp hữu vi, trai, gái, thê, thiếp cùng nhau đắm trước, sinh ra ham thích luyến ái, tà đạo nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp, mỗi mỗi luyến ái chấp thủ, chướng nạn xuất ly, chướng nạn trì giới, chướng nạn tu định, chướng nạn sinh Thiên, chướng nạn Niết-bàn, chướng nạn tất cả pháp trong sạch, lại nhiếp thọ nô tỳ quyến thuộc. Nói tóm lại, hoặc nhiếp thọ bạn ác là sự nhiếp thọ của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Lại nữa, nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp tức là nhiếp thọ tất cả căn bất thiện tạp nhiễm.
Lại nữa, nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp cho đến ăn uống, tận biên tế của nó đều là chướng ngại. Muốn thấy Như Lai nhưng bị chướng ngại, muốn nghe chánh pháp nhưng bị chướng ngại, muốn gần Thánh chúng nhưng bị chướng ngại. Tri kiến của Phật là pháp trong sạch thanh tịnh, tất cả Thánh chúng do vì chướng ngại, cho nên đều không thể thấy. Lúc đó muốn cầu thành tựu nhưng lại bị chướng ngại, cầu bảy Thánh tài nhưng bị chướng ngại, đối với pháp không chánh tín trở lại sinh nhiếp thọ, cho đến phá giới, xan lận, ác tuệ, không tàm, không quý thảy đều nhiếp thọ, đối với pháp không phải bảy Thánh tài trở lại nhiếp thọ.
Lại nữa, nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp tức là nhiếp thọ các khổ bệnh tật, ung nhọt đau nhức, lửa dữ, rắn độc.
Lại nữa, nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp, chỗ ở, nhà cửa cũng như nghĩa địa tha ma. Trong bãi tha ma cất tiếng kêu gào thảm thiết, không có các thân hữu cho đến lắng nghe, tăng trưởng si mê. Đó là pháp hư huyễn, đối với thiện pháp thường bị chướng ngại. Nói tóm lại, này Xá-lợi Tử! Người phá giới tạo các pháp ác cũng như mưa đá phá hủy tất cả các vật. Phá hoại thiện pháp cũng như vậy.
Lại nữa, đắm trước trai, gái, thê, thiếp cũng như người tham vị mà liếm vào kiếm bén, nuốt hòn sắt nóng, các vật bất tịnh. Thân cấu uế là do đắm trước, đem hương hoa, đèn bột hương cúng dường, cũng như trong địa ngục trang sức bằng các cực khổ.
Lại nữa, đối với các nô tỳ nhiếp thọ sai khiến. Lại nữa, nhiếp thọ người ác đen xấu, mỗi mỗi hủy bỏ. Lại nữa, nhiếp thọ lạc đà, lừa, heo, chó các loài súc sinh, tức là nhiếp thọ các khổ não.
Lại nữa, nhiếp thọ trai, gái, thê, thiếp, này Xálợi Tử! Thà vào hàng ngàn du-thiện-na thành lửa dữ để chịu sự thiêu đốt, còn hơn là nhiếp thọ cha mẹ thê thiếp trai gái. Nếu thường khởi tâm nhiễm ái như vậy thì liền bị đọa lạc, huống là thọ lãnh các cảnh xúc chạm. Vì sao? Vì nhân các khổ lấy pháp tham nhiễm làm các căn bản, tổn hại thiện pháp căn bản, buồn lo khổ não căn bản, trói buộc thiện pháp căn bản, uế ác căn bản, ngu si căn bản, nhưng chẳng phải tuệ nhãn thanh tịnh căn bản. Cũng như dậm phải sắt nóng trên đất, khiến cho người này bị đọa lạc tà đạo. Vì lý do đó, cho nên gọi là đều do thê thiếp gây ra. Cũng như mang vác gánh nặng mà có thể đảm nhận, lại cam lòng nhận lấy gánh nặng đó, đi qua đường dài không chịu bỏ, chịu các khổ não, bức bách thân tâm làm cho tổn hại. Vì lý do đó cho nên gọi là vợ. Như hữu tình này do khởi ái cho nên trở lại làm kẻ nô bộc, do đắm trước cho nên không được tự tại, bị các sự đánh đập trói buộc phải cúi đầu vâng theo, cúi đầu chịu mọi sai xử. Vì lý do đó cho nên gọi là vợ. Nếu nói cho đủ thì nó rộng lớn vô lượng.
Này Xá-lợi Tử! Gánh rất nặng là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm uẩn này gọi là gánh rất nặng, không thể xả bỏ trai, gái, thê, thiếp, do nhân duyên đời trước cho nên làm quyến thuộc.
Này Xá-lợi Tử! Đây là duyên phá giới, duyên hoại chánh hạnh, duyên không chánh kiến, duyên ham ăn uống, duyên địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, làm chướng ngại cho tuệ thù thắng, đóng cửa Niếtbàn. Vì lý do đó cho nên tích tập tất cả khổ. Đây gọi là nhân quyến thuộc đời trước.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Dòng họ của mẹ cũng nhiều lỗi lầm. Đây nói dòng họ vô lượng vô biên các việc huyễn hóa. Có người tùy thuận tức là sinh lỗi lầm, các việc ma như trong lòng bàn tay, quyến thuộc của Ba-tuần và các ma nữ mỗi mỗi huyễn hoặc gây nhiều lỗi lầm, tâm khinh chế, tâm coi thường, tâm điên cuồng, tâm khỉ vượn, nói hay hiển hiện các huyễn hoặc như vậy. Vì lý do đó cho nên gọi là dòng họ của mẹ.
Này Xá-lợi Tử! Các huyễn hoặc này cũng gọi là xóm làng, xây dựng vương thành đường sá qua lại, nhân dân thế giới rộng lớn vô lượng không thể nghĩ bàn. Vì lý do đó cho nên gọi xóm làng huyễn hoặc.
Này Xá-lợi Tử! Huyễn hoặc và các lỗi lầm dục sẽ đọa vào đường ác.
Này Xá-lợi Tử! Ví như người bày trò ảo thuật làm việc huyễn hoặc, ở giữa mọi người chuẩn bị đủ mọi dụng cụ huyễn, rồi lại làm đủ việc huyễn. Người nữ huyễn hoặc cũng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Hữu tình thế gian thấy người nữ kia, lại bị trói buộc, hoặc có lúc nghe tiếng, có lúc xúc chạm, có lúc ca múa, khởi tâm đắm trước, có lúc hòa hợp khởi lên các huyễn hoặc, có lúc khóc lóc, đi, đứng, nằm, ngồi, bất cứ chỗ nào cũng đều bị trói buộc, cung cấp sai sử như kẻ nô bộc.
Này Xá-lợi Tử! Ví như thế gian, khi mùa lúa chín, gặp lúc mưa đá làm tổn hại mùa màng. Này Xá-lợi Tử! Dòng họ của mẹ cũng như vậy, nó cũng có thể tổn hại dòng họ của cha, cũng có thể tổn hại tất cả pháp trong sạch.
Này Xá-lợi Tử! Các lỗi lầm của dục sẽ đọa vào đường ác, tất cả kẻ ngu không thể biết được mà trở lại nhiếp thọ thê thiếp quyến thuộc.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát đối với các lỗi lầm của dục không có nghĩa lợi này, phải nên dùng sức phương tiện mà xa lìa.
Sao gọi là kẻ ngu dị sinh? Tức là trái ngược với chánh pháp, trở lại sinh ngu si, không phải ý tưởng của trượng phu. Cho nên ở chỗ của chư Phật, Đại Bồ-tát khởi ý tưởng trượng phu, phải loại bỏ những ý tưởng nào không phải trượng phu, không nên sinh các ý tưởng sân giận, luôn làm đại trượng phu trong các nẻo thiện, khởi lên các hạnh chân chánh, không đối với đường ác làm việc không phải trượng phu, khởi lên các hạnh tà vạy, không hướng đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không hướng đến chỗ phá giới, không vui và sống yên với người phá giới chỉ vui hướng đến tất cả chánh pháp vô thượng tối thắng, Phật tuệ không chướng ngại, vui đối trị các pháp bất thiện khởi tâm hướng đến, nguyện đương lai rống lên tiếng rống sư tử, không vui tùy thuận các pháp bất thiện, không rống tiếng rống của các loài thú khác, đương lai con nguyện như thân Phật hiển hiện sắc vàng, không làm thân phàm phu dị sinh, thường làm người hướng dẫn đường tốt nhất cho thế gian. Ở trong loài người không có các hiểm nạn, an nhiên đầy đủ không bị thiếu thốn, thường được các món ăn thơm ngon thanh tịnh thảy đều đầy đủ, nhưng không nhàm chán các món ăn thô dở ở thế gian, thường nguyện ở chỗ vắng lặng, tu tập thiền định, mau chóng thành tựu Tam-ma-địa thù thắng tối thượng, chuyên chú vào một cảnh, xa lìa động loạn các hoặc chướng nhiễm, thường được định môn du hý của chư Phật, lại xa lìa các định môn của Thanh văn, Duyên giác, không thích y chỉ các định môn của tất cả kẻ ngu si dị sinh, cũng không thích đắm trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm uẩn mà trụ, không thích y chỉ địa, thủy, hỏa, phong, không, thức mà trụ, không thích y chỉ Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới mà trụ, cũng không thích trụ vào cõi này hay cõi khác, nhưng lại suy nghĩ về sự thấy nghe hay biết diệu xúc cảnh giới và chỗ chứng đắc vắng lặng, cũng lại không thích y chỉ mà sống, nguyện thường y chỉ người vắng lặng như thật. Tuy thích tu định, nhưng đối với mình và người không có tổn hại, nguyện thường viên mãn trí tuệ của Phật, tất cả các việc hữu vi ở dục giới đều không ham thích.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát trí giả có bốn pháp xuất ly:
1. Xuất ly dục giới.
2. Xuất ly tất cả hữu tình giới.
3. Xuất ly biết ân không báo đáp lại không thân cận.
4. Xuất ly tất cả khổ hạnh.
Phải nên phát khởi bốn pháp xuất ly này.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ở trong đường ác, thấy các dòng họ của mẹ vi diệu, cũng không sinh tâm tham ái, mà lại sinh khởi bốn thứ tưởng:
1. Tưởng tổn giảm.
2. Tưởng hiểm nạn.
3. Tưởng tiện lợi bất tịnh.
4. Tưởng máu mủ ô uế.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ở trong đường ác, chỉ nên phát sinh ba thứ tưởng:
1. Tưởng như mẹ.
2. Tưởng như em.
3. Tưởng người nữ như người thân.
Cần nên phát khởi ba thứ tưởng này.
Như vậy, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thường nói về tư duy tu tập và các kinh điển đều nên tin theo lãnh thọ. Ta quán thế gian từ vô lượng kiếp đến nay không có ai là không phải từ mẹ sinh ra, không phải cha dưỡng dục. Cho đến tất cả, hữu tình tuần hoàn dưỡng dục, tất cả hữu tình cũng từng làm cha mẹ của ta, hoặc ở đời trước từng gọi là mẹ, cho đến đời này trở lại làm vợ. Các vị hành giả phải nên tu học, cùng với các kẻ ngu dị sinh, ta nên trụ vào hạnh không trái nhau, như vậy hành tướng tùy thuận với điều này. Tham ái là tâm, trong tâm chuyên chú suy nghĩ như vầy: Tâm tham ái thế nào là hiện sinh và chưa sinh? Hoặc mắt tham ái các sắc, các vị hành giả trong tâm kiên cố, phải nên quán xét, đối với tự nhãn mà sinh đắm trước.
Thế nào là nhãn sinh kiến kiến? Thế nào là tự tánh mà thấy tự tánh? Thế nào là tự nhãn mà thấy tự nhãn? Như vậy, tự nhãn bốn đại tạo thành, nương vào các duyên nhưng không phải tự tánh. Đã không phải tự tánh mà lại sinh đắm trước, thì tâm đắm cũng không phải tự tánh. Vì sao? Vì tánh kia không phải có tâm này, cũng không có sai khác mà sinh đắm trước. Các kẻ ngu dị sinh do không hiểu cho nên trụ vào không phân biệt. Nay ta thích trụ trong cái có phân biệt mà sinh tinh tấn mong cầu. Vì sao? Vì sắc tướng như vậy không phải pháp công đức, là dục tư duy.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Cùng nhau hòa hợp thành một nghĩa
Trong đó không có nghĩa sai biệt
Trong tâm cũng không sinh kiên cố
Vì do tham ái nên tích tụ.
Sao gọi chân thật trong chân thật
Đối với bốn đại sinh nhiễm trước
Pháp này cũng như là ngói gỗ
Trong đó không sinh tâm ham thích.
Do chấp ngã nên sinh biến kế
Từ không chân thật làm tích tụ
Trong không chân thật sinh tham ái
Chân thật tham ái không thể được.
Giá như tìm cầu khắp mười phương
Chân thật tham tánh không thể được
Đối không chân thật chấp trước rồi
Tâm tham ái sinh lại tích tụ.
Nếu như sinh tìm xét như vậy
Dù cho tìm xét đến tận cùng
Tùy các tăng thắng suy cùng tận
Chân thật tham ái không thể được.
Nói kệ rồi, Đức Thế Tôn lại bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Những điều ta vừa nói đối với các Khế kinh lần lượt tăng thắng, tùy thuận căn lực, phải nên tin hiểu.
Này Xá-lợi Tử! Lại như mắt này, như là bong bóng nước không thể lâu bền. Trong bong bóng nước ấy không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không Bổ-đặc-già-la, không ý sinh, không nho đồng, không tác giả, thọ giả. Biết rõ các pháp không sinh như vậy, lìa tất cả tướng, vậy thì tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này, cũng như sóng nắng, là chỗ để tất cả phiền não tham ái tập hợp sinh ra. Mé trước mé sau không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không Bổ-đặc-già-la, không ý sinh, không nho đồng, không tác giả cũng không thọ giả. Như vậy biết rõ các hành không chuyển, lìa mọi tướng, vậy thì tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như cây chuối, thể của nó không chắc. Trong cây chuối không có ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Vậy thì tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này như huyễn hóa, là chỗ điên đảo tập hợp sinh ra. Trong cái huyễn hóa đó không ngã, không nhân, cho đến lìa mọi tướng. Vậy thì tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như giấc mộng, thấy các sắc tướng không phải là chân thật. Trong mộng này không ngã, không nhân, cho đến lìa mọi tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này như tiếng vang trong hang động, do nhân duyên sinh. Trong tiếng ấy không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như cái bóng, tùy theo các nghiệp hoặc mà hiển hiện. Trong cái bóng này không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này như mây trôi, tụ tán không cố định, thể không rốt ráo. Trong mây trôi ấy không ngã, không nhân, cho đến lìa các tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này như điện chớp, biến diệt sátna. Trong điện chớp này không ngã, không nhân, cho đến lìa mọi tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như hư không, lìa ngã và ngã sở. Trong pháp ấy không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như ngu điếc, không biết cái gì, lại như cỏ, cây, tường, vách, ngói, gạch các vật không có tình, không biết gì. Pháp ngu điếc không có tình này không ngã, không nhân cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này cũng như các hành, đều là lưu chuyển. Cũng như con diều mượn các duyên hòa hợp. Trong các hành này không ngã không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này đều là hư dối, là chỗ tích tụ tất cả bất tịnh. Pháp hư dối này không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy tham ái cái gì?
Lại nữa, mắt này như bóng trong gương, tùy vật mà hiển hiện, hoặc có, hoặc không là pháp phá hoại. Bóng trong gương này không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng. Như vậy có gì để tham ái?
Lại nữa, mắt này cũng như giếng khô, có bốn con rắn già, bệnh, chết, khổ; có hai con chuột cùng xâm hại bức bách nhau. Trong cái giếng khô này không ngã, không nhân, cho đến lìa tất cả tướng.
Như vậy có gì để tham ái?
Lại nữa, mắt này là biên tế không thật, căn như bụi trần, chết chóc dễ xâm nhập, mới thấy biên tế. Trong biên tế này không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không Bổ-đặc-già-la, không ý sinh, không nho đồng, không tác giả, không thọ giả, biết rõ như thế lìa tất cả tướng. Như vậy có gì để tham ái?
Này Xá-lợi Tử! Pháp uẩn, xứ, giới cũng lại như vậy. Nếu Đại Bồ-tát trong tâm kiên cố tương ưng với chân thật thì vĩnh viễn không rơi vào pháp tham ái. Nếu Bồ-tát mà còn rơi vào tham ái thì không thể có, đối với pháp tham ái nhàm chán xa lìa một cách chân thật.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát thực hành giới thanh tịnh.
Lại nữa, Đại Bồ-tát viên mãn giới hạnh thanh tịnh như vậy, không gây tổn hại đối với các hữu tình, cho đến loài hữu tình vi tế cũng đều làm nhiêu ích, cũng lại không tiếc thân mạng tình thương bao trùm tất cả không bỏ một ai, hoặc thọ ân người khác rồi lại trá ân, thọ dụng của mình và người đều khiến viên mãn.
Lại nữa, Đại Bồ-tát ở bất cứ chỗ nào, thà bỏ thân mạng, xa lìa tất cả hạnh tà dục; thà bỏ thân mạng không nói dối và nói hai lưỡi để lừa gạt hữu tình, thường sinh vui vẻ đối với quyến thuộc của mình; thà mất thân mạng xa lìa lời nói thêu, dệt, thường nói lời từ ái nhu thuận, quyết định ngay thẳng, thường hộ chính mình, không sinh tham ái đối với cảnh trần khác; thà mất thân mạng không sinh sân hận, người khác có hủy báng nhất định không bị lay động, có khả năng kham nhận mọi lời ác; thà mất thân mạng không sinh tà kiến. Vì sao? Vì quy y chư Phật tâm không thoái chuyển, thường trì cấm giới không bị hủy phạm, cũng lại không thích thế trí biện thông, chỉ học Phật tuệ, kiên trì cấm giới không có lỗi lầm, xa lìa hiểm ác, các pháp tạp nhiễm; kiên trì cấm giới xa lìa các ác phiền não tích tập, thường được hạnh thù thắng trong sạch, tăng trưởng lòng bố thí đồ ăn thức uống thuở xưa; kiên trì cấm giới tùy theo tâm mong muốn hành động tự tại an lạc tốt đẹp, trì các cấm giới không sinh hủy báng các người trí, đầu, giữa, cuối chánh niệm không lỗi lầm. Khi trì giới, Bồ-tát lìa mọi khinh chê hủy báng, không sinh các lỗi lầm, luôn luôn phòng hộ các căn môn, trì giới được đầy đủ danh tiếng, thường luôn nhiếp thọ các thiện pháp, thiểu dục tri túc và biết phần đối với sự cúng dường, hoan hỷ trì giới, cắt đứt mọi phan duyên, thường sống ngay thẳng; kiên trì các cấm giới, thường hay suy xét ba nghiệp, thích ở chỗ hoang vắng; kiên trì cấm giới, thường sinh nhàm chán các người nữ, nhưng lại ham thích dòng Thánh; kiên trì cấm giới, thệ nguyện không xem các cảnh đẹp thế gian, đối với hạnh đầu đà không bị khuyết lậu.
Trì các cấm giới, đối với thiện căn của mình không do người khác đề xướng lời nói đi đôi việc làm; giữ gìn cấm giới, không sinh dối gạt các hàng trời người, thường sinh tâm Từ càng tăng thêm thù thắng đối với các hữu tình không có ý tổn hại, trái lại còn khởi tâm đại Bi, thường trì cấm giới, nhẫn chịu các việc khổ não, hoan hỷ trì giới, ham thích các pháp, không có chấp trước, thường tu hạnh xả. Trì các cấm giới, đối với cảnh nghịch thuận thường hành bình đẳng, thường hay suy xét lỗi của chính mình, tùy thuận tâm người khác, thường luôn thủ hộ, khéo hay điều phục tất cả hữu tình. Trì các cấm giới, có khả năng viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa. Trì các cấm giới, có khả năng viên mãn Trì giới bala-mật-đa, tâm kiên trì không có ai hơn được. Trì các cấm giới, có khả năng viên mãn Nhẫn nhục bala-mật-đa, lấy các thiện pháp làm rốt ráo. Trì các cấm giới có khả năng viên mãn Tinh tấn ba-la-mậtđa, luôn sống trong tĩnh lự không sinh biếng nhác. Trì các cấm giới, có khả năng viên mãn Thiền bala-mật-đa, tu tập văn tuệ không có gián đoạn. Trì các cấm giới, có khả năng viên mãn tuệ Thù thắng ba-la-mật-đa, chí ưa thân cận các bậc Thiện tri thức. Trì các cấm giới, tích tập Bồ-đề phần kiên cố, xa lìa bạn ác. Trì các cấm giới, thường được xa lìa các nạn hiểm khổ, hay nhàm chán thân mình. Trì các cấm giới, luôn luôn suy xét tưởng vô thường, lại hay vứt bỏ thân mạng này. Trì các cấm giới, không thích sống lâu ở đời, thường hay xa lìa các hạnh trái nhau. Trì các cấm giới, đối với tâm ý của chính mình phải hết sức thanh tịnh, xa lìa mọi nhiệt não. Trì các cấm giới, xa lìa tham ái, không tự cống cao, luôn biết khiêm hạ. Trì các cấm giới, ngay thẳng không xiểm khúc, lời nói nhu hòa êm ái tương ưng với sự thật. Trì các cấm giới, được danh tiếng lớn vang khắp tất cả, khéo tự điều phục. Trì các cấm giới, thường không sân hận, ưa thích vắng lặng, dùng lời nói thiện giáo hóa lợi ích hữu tình. Trì các cấm giới, nói đúng như thật, không có trái nhau, dùng bốn nhiếp pháp nhiếp thọ hữu tình. Trì các cấm giới, phòng hộ chánh pháp, pháp tài của chính mình không bị thiếu thốn. Các người trí luôn đầy đủ giới uẩn này, lại có khả năng thực hành hạnh Bồ-tát.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát do Trì giới ba-lamật-đa này, cho nên hay phát khởi tâm dũng mãnh, mọi việc ma và quyến thuộc ma đều tan mất, các việc nhiễu não cũng không còn.
Này Xá-lợi Tử! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát Nhẫn nhục ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát này vì hộ cấm giới, phát khởi dũng mãnh, tu hành đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Khi Bồ-tát tu hạnh này, thế gian có tất cả việc nhiễu não không nhiêu ích thảy đều nhẫn chịu. Nếu gặp lúc lạnh, nóng, đói, khát, gió mạnh khốc liệt và các loại muỗi mòng, đĩa, trùng độc cùng tập hợp lại xúc não, Đại Bồ-tát đều nhận chịu. Nếu các chúng sinh hủy báng bằng những lời lẽ độc ác, muốn tổn hại thân mạng Bồ-tát, lúc đó tâm Bồ-tát không có sợ hãi, không sinh giận dữ, cũng không kết oán đã sinh, hiện sinh và sẽ sinh, đều hay nhẫn nại.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát tu hạnh Nhẫn nhục ba-la-mật-đa đầy đủ.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta ở trong nhiều kiếp xa xưa thường tu pháp quán nhẫn nhục như vậy. Nếu tất cả hữu tình cố đến mắng chửi, lại thêm sân hận đánh đập, dùng đủ lời thô ác phỉ báng, tuy họ có thái độ như vậy nhưng ta không sinh giận dữ, không sinh tật đố, không sinh não hại cũng không đem các việc không nhiêu ích mà trả thù lại.
Này Xá-lợi Tử! Ta tự thành tựu nhẫn nhục quán rồi, thường khởi bi tâm thương nhớ hữu tình. Vì các hữu tình luôn tăng trưởng sân hận tật đố, rơi vào trong nhiễu não, nên ta dùng mọi phương tiện khéo léo để giác ngộ họ khiến được xuất ly, được quả báo vi diệu. Nếu các hữu tình làm trái ngược với Bồ-tát, không chịu phục thiện, trở lại tăng thêm ác hạnh, thì dù ở nơi đâu cũng thường bị xấu xa, quả báo không như ý. Vì sao? Vì hành nghiệp sân hận là nhân xấu xa. Đó là nghiệp bất thiện, là nghiệp tạp nhiễm, là nghiệp thấp kém, là nghiệp không phải chánh sĩ, là nghiệp không phải bạn tốt, điều đó không nên làm. Nên biết, sân hận các nghiệp bất thiện hay khiến rơi vào ba đường ác, hay rơi vào Diệm-ma-la giới, hay khiến đọa vào địa ngục, sinh trong loài, súc sinh, lấy Diệm-mala giới làm quyến thuộc. Các ác hạnh nghiệp sân hận như vậy hay khiến rơi vào cõi Dạ-xoa không tiền của thấp kém, hay khiến rơi vào ngạ quỷ thấp kém không tiền của. Các ác hạnh nghiệp sân nhuế như vậy có thể đưa đến làm người xấu xa nghèo cùng hạ tiện.
Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa ta chưa tu các hành tướng như vậy, Đại Bồ-tát không nên tu hành tướng như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Trong đó sao gọi là pháp sai khác? Sao gọi là mọi tu tác sai khác? Chúng ta đã tu hành tương ưng với thiện pháp, còn các hữu tình đã tu trái với thiện pháp tương ưng. Đây là pháp sai khác tu tác sai khác.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát phải nên tu học theo cách của ta. Vì sao? Vì khi Đại Bồ-tát tu học, hoặc có hữu tình đến quấy nhiễu nhưng Bồ-tát không khởi tâm giận dữ sân nhuế, đối các hành tướng cũng không tác ý, thường tự suy nghĩ quán sát nhẫn nhục thành thục hữu tình các thiện căn bản.
Này Xá-lợi Tử! Giả sử có người dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, châu mạt-ni… trong bốn đại châu để bố thí, nhưng lại không bằng người thực hành Nhẫn nhục ba-la-mậtđa này. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát do nhẫn nhục cho nên khiến hữu tình không đọa luân hồi, hướng đến đạo vô lậu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát không nên khởi tâm sân nhuế, mà phải tác ý niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng. Vì sao? Vì quy mạng sức công đức, nên được thành tựu vô lượng thiện căn, cũng khiến hữu tình thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Khi khởi niệm này thường được giác ngộ, ta cùng với hữu tình có thiện gì ác gì? Nếu không nhớ niệm Phật, Pháp, Tăng bảo thì sân nhuế, giận dữ, ác hạnh luôn trói buộc. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: “Nếu khởi sân nhuế thì chẳng phải chánh lý. Nếu hay nhẫn nhục tức là chánh lý”. Bồ-tát nên xa lìa tất cả nghiệp hạnh sân nhuế, nên khi hành Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, thì trước hết phải nhớ niệm Phật, Pháp, Tăng bảo. Sức của Tam bảo có khả năng khiến tất cả hữu tình đồng thực hành hạnh này.
Này Xá-lợi Tử! Ta đã thành tựu hành tướng như vậy, chứng thành Chánh đẳng Chánh giác, vì các hữu tình chuyển diệu pháp luân, xin các Đức Như Lai nhiếp thọ cho.
Này thiện nam! Nên khi phát tâm Chánh đẳng Chánh giác, vì các hữu tình chuyển diệu pháp luân, thì sẽ đạt được vô lượng tri kiến thù thắng vô ngại giải của chư Phật. Bồ-tát tu Nhẫn nhục ba-la-mậtđa này thành tướng như vậy, đối trị ác hạnh giận dữ sân nhuế, cũng nên nhớ nghĩ phương Đông có hằng hà sa số thế giới. Trong hằng hà sa số thế giới ấy có hằng hà sa số Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang nói pháp, lợi ích hữu tình. Lúc đó, các Bồ-tát được Như Lai thọ ký.
Này thiện nam! Ta cũng đã phát tâm Chánh đẳng Chánh giác, cũng nói pháp giáo hóa các hữu tình như vậy. Nam, Tây, Bắc phương, bốn phía trên dưới cũng có hằng hà sa số thế giới. Trong đó có hằng hà sa số Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện tại nói pháp, lợi ích hữu tình, lúc đó các Bồ-tát được Như Lai thọ ký.
Này thiện nam! Ta cũng đã phát tâm Chánh đẳng Chánh giác nói pháp giáo hóa các hữu tình, thường luôn khen ngợi Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, rống tiếng rống sư tử, vĩnh viễn xa lìa các ác hạnh giận dữ sân nhuế. Nếu các hữu tình thích tu mọi lợi ích, Bồ-tát thấy các hữu tình tu hành như vậy, ta cũng tùy thuận làm các việc ích nghĩa lợi.
Trong đó tại sao có các thứ khó làm và dễ làm? Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát cùng với các hữu tình, nên tu học Nhẫn nhục ba-la-mật-đa như vầy: “Nếu không tùy thuận sự tu học như vậy thì không phải là bạn tốt của ta; nếu hay tùy thuận làm việc nghĩa lợi thì là bạn tốt”. Vì thế nên biết, không có ai có thể xâm hại, việc nghĩa lợi này, ta nên ham thích sâu xa không bỏ hữu tình, làm các việc có nghĩa lợi.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Ta ở trong câu-chi ức kiếp
Cứu vớt hữu tình không nghĩa lợi
Thấy các hữu tình chịu khổ não
Chưa từng tạm bỏ được an ổn
Chủng tánh hữu tình vốn nghĩa lợi
Cùng nhau chỉ dạy làm bạn tốt
Nếu gặp các ác sân nhiễu hại
Vì việc nghĩa lợi thường nhẫn nhục
Khắp hết tất cả Diêm-phù-đề
Ở trong cõi Phật cũng như vậy
Chứa đầy tất cả các trân báu
Vì là thiện hữu đều bố thí
Hoặc nếu có người cầm kiếm bén
Muốn đến cắt thân thể của ta
Do lòng nhẫn nhục sinh tâm Từ
Vĩnh viễn không sợ các khổ não
Hoặc có người giận dữ sân nhuế
Quyết đem khổ độc đến xâm nhiễm
Dùng sức nhẫn nhục mà khen ngợi
An trú nhẫn khổ không não hại
Người cầm dao gậy và thuốc độc
Với tướng giận dữ muốn gia hại
Vì lợi hữu tình các thiện căn
Đối với ác pháp hay nhẫn chịu
Nay ta không học các người ngu
Cũng không học hạnh thấp kém ấy
Tu nhân thù thắng rộng nhiêu ích
Hướng đến quả Niết-bàn vô thượng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nên tu học Nhẫn nhục ba-la-mật-đa như vầy: “Trong trăm ngàn vạn câu-chi na-do-tha kiếp, giả sử có người dùng ngói, đá, gậy gộc, các loại khí trượng mà đánh đập ta bất tĩnh nằm dài trên đất, giây lâu mới tĩnh lại ”. Lúc đó Đại Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Than ôi! Chưa từng có, nay ta được sống lại, vậy sau phải nên tu học Nhẫn nhục ba-la-mật-đa tối thượng tối thắng. Giả sử có người đến chỗ ta xin đầu, mắt, xương, tủy, thân thể, thịt, tay chân của ta như khắc-già sa số mãn một đại kiếp, lúc đó, ta không xan lận keo kiệt, cũng lại không khởi các ác hạnh giận dữ, sân nhuế. Vì sao? Vì nếu khởi ác hạnh giận dữ sân nhuế thì bị tan hoại thiện căn mà ta đã tích tập trong trăm ngàn kiếp. Nay ta lại tích tập kiên cố, trong trăm ngàn kiếp gieo trồng thiện căn không để hoại mất, vì pháp Chánh đẳng Chánh giác tu tập khó được. Vì sao? Vì các Bồ-tát dùng sức nhẫn nhục làm áo giáp.
Này Xá-lợi Tử! Tâm Đại thừa của Đại Bồ-tát không nên thoái chuyển, làm cho bọn ma không có dịp xen vào; nếu có xen vào thì không thể thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế nên đối với tâm Bồ-đề không nên thoái chuyển; nếu tâm thoái chuyển thì tâm sẽ tán loạn, khiến ma có dịp làm chướng ngại.
Sao gọi là việc ma? Tức là đắm trước vào việc ăn uống, đó là việc ma. Đắm trước ba y, đó là việc ma. Giáo hóa mà còn phân biệt, đó là việc ma. Vì lợi dưỡng khiến người khen ngợi. Đó là việc ma. Vui với cái lợi của chính mình, đó là việc ma. Đoạn diệt các pháp trong sạch, đó là việc ma. Cho đến cản trở người ở chỗ vắng lặng, ngăn chặn người tu phước tuệ, cấm ngăn người thân cận các bậc có phép tắc mô phạm, đoạn người tu tập hạnh Bồ-đề, đó là việc ma.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nếu đối với đại Bồđề mà sinh thoái chuyển, khởi ý tán loạn, thì bọn ma thừa dịp xen vào. Vì sao? Vì có các ma chướng trong nhiều kiếp dò xét tìm sự sơ hở len lõi vào tâm của Bồ-tát, khiến tăng thêm sự giận dữ sân nhuế.
Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa ta làm tiên nhân kiên trì cấm giới, tu hạnh Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, thông đạt thiện pháp. Lúc đó có đại ma vương hóa ra năm trăm chúng trượng phu đều là dũng mãnh nổi tâm giận dữ. Suốt trong năm trăm năm đi, đứng, nằm, ngồi, ngày đêm nổi giận liên tục, hoặc ở giữa đường, giếng, làng, xóm và nhà bạch y, hoặc giữa đồng trống thường nổi sân nhuế, dối gạt không thật, huyễn hoặc hữu tình.
Này Xá-lợi Tử! Chúng ma này trong năm trăm năm luôn bên cạnh ta nổi sân giận sinh các lỗi lầm. Lúc đó, ta quán sát suy nghĩ vì lòng thương xót khởi tâm đại Bi, vì các chúng ma nói pháp vi diệu. Lúc đó, bọn ma được nghe pháp rồi, các nghiệp ác hạnh thảy đều tiêu diệt.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, ta vì các bọn ma nói pháp này rồi, khiến các hữu tình thành thục thiện căn, chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, vì các hữu tình tâm tánh quanh co phá giới, không thích thiện pháp khó điều phục và các hữu tình nhiều tham sân si, làm thiện duyên khiến được thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Ta nguyện đương lai thành Đẳng Chánh giác, sớm độ thoát các loài hữu tình khiến được Niết-bàn.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, ta trừ các vọng niệm, thường sinh chánh niệm, đầy đủ thiện hạnh, nhiêu ích hữu tình, đối với ba tế chưa từng tạm bỏ.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tinh tấn cầu Chánh đẳng Chánh giác thì nên đầy đủ Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Nếu Bồ-tát trong thân đã sinh, chưa sinh các thứ bệnh nặng trầm trọng khổ não, cho đến chết khổ. Lúc đó, Bồ-tát đầy đủ Nhẫn nhục ba-lamật-đa, thì đều có khả năng nhẫn nhục chịu tất cả.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát phải nên kiên cố an trụ Nhẫn nhục ba-la-mật-đa của Bồ-tát, phải biết rõ như vậy không nên nổi giận dữ. Đó gọi là Bồ-tát nhẫn nhục không tổn hại; Bồ-tát nhẫn nhục không tranh cãi. Bồ-tát nhẫn nhục không sát hại; Bồ-tát nhẫn nhục tự hộ thân mạng. Bồ-tát nhẫn nhục hộ thân mạng người khác; Bồ-tát nhẫn nhục thường hộ thân, miệng, ý nghiệp; Bồ-tát nhẫn nhục quán sát nội tâm tu hạnh nhẫn nhục; Bồ-tát nhẫn nhục xa lìa tham ái; Bồ-tát nhẫn nhục tùy thân nghiệp báo. Bồ-tát nhẫn nhục thanh tịnh miệng, ý, nghiệp. Bồ-tát nhẫn nhục dùng sức nhẫn nhục đạt được cái vui thù thắng vi diệu của trời người. Bồ-tát nhẫn nhục đạt được tướng hảo viên mãn thù thắng của Bồ-tát. Bồ-tát nhẫn nhục đạt được phạm âm thanh tịnh vi diệu sâu xa của Như Lai. Bồ-tát tích tập thiện hạnh kiên cố; Bồ-tát nhẫn nhục xa lìa tất cả nhiễu não thế gian. Bồ-tát nhẫn nhục, nếu có người đến tìm các lỗi lầm, lúc đó, Bồ-tát không sinh tổn hại. Nói tóm lại, Bồ-tát nhẫn nhục cho đến đạt được mười lực mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả tất cả pháp thù thắng đều được viên mãn. Phải nên biết rõ, đó chính là Đại Bồ-tát an trụ Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát tu hạnh nhẫn nhục, nếu có người nổi sân hận muốn đến não hại, lúc ấy, Bồ-tát biết rõ sự nổi sân hận đó như hư huyễn, như tiếng vang từ trong hang vọng ra, biết thế nên không báo thù lại, cho đến đánh đập giết hại. Điều đó Bồ-tát nên quán sát kỹ, biết nó như huyễn như hóa cũng không trả thù lại; hoặc có người đến khen ngợi đủ điều, Bồ-tát cũng không lấy đó làm vui. Vì sao? Vì Bồ-tát lấy phần công đức chân thật viên mãn của chính mình làm quyến thuộc, không đắm trước vào pháp thế gian, phải biết sám hối ăn năng lỗi lầm của chính mình, không khinh chê lỗi lầm của người khác, vì đó là khả năng viên mãn pháp phần Bồđề, làm đại Phật sự. Bồ-tát lại suy nghĩ: “Tội nghiệp đã làm thảy đều hư giả, các hạnh trái nhau, vứt bỏ mọi việc không nghĩa lợi ”.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát hành Nhẫn nhục ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, tự thân phải nhẫn nhục rốt ráo. Nếu còn có ngã tướng thì không phải là nhẫn nhục rốt ráo. Vì sao? Vì nếu người khác giận dữ đến nhiễu não, Bồ-tát đều có thể nhẫn chịu, đối với tâm cảnh đều không thể được. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Người nào giận dữ? Người nào nhẫn chịu? Ở trong pháp số sao gọi là mắt có giận dữ? Lại nữa quán xét thập nhị xứ nhẫn nhục cũng không thể được, lần lượt hiểu rõ các tướng hữu tình đều không thể được, vì nhẫn nhục này không phải thật rốt ráo, cho đến danh tự nhẫn nhục cũng như tiếng vang trong hang trống, đó gọi là khổ, không, vô thường, vô ngã. Đối với nhẫn nhục phải hiểu như vậy.
Lại nữa, nhẫn nhục này cũng không phải rốt ráo. Nghĩa là còn thấy rằng đối với pháp này ta không điên đảo, thấy thế tức là điên đảo. Đối với hạnh nhẫn nhục khởi tướng cao thấp.
Lại nữa, nhẫn nhục này không phải thật rốt ráo. Nghĩa là còn chấp rằng đối với pháp này ta có thể giải thoát. Chấp như thế tức là không phải giải thoát, không tương ưng với hạnh nhẫn nhục.
Lại nữa, hạnh nhẫn nhục này cũng không phải rốt ráo. Nghĩa là đối với pháp này ta ở trong chánh đạo, nếu còn nghĩ như thế tức không phải chánh đạo, tức đối với nhẫn nhục còn sinh ra hai tướng.
Lại nữa, nhẫn nhục này không phải thật rốt ráo. Nghĩa là đối với pháp không này thì có khả năng kham nhẫn, còn đối với kiến thì không thể kham nhẫn, đối với Vô tướng có thể kham nhẫn, đối với hữu tướng không thể kham nhẫn, đối với Vô nguyện, vô cầu đều có thể nhẫn chịu, đối với có nguyện có cầu không thể kham nhẫn; hoặc đối với không tích tập phan duyên không thể kham nhẫn, hoặc có tích tập phan duyên nhưng không thể kham nhẫn, hoặc đối với phiền não tận có thể nhẫn chịu, đối với phiền não không thể kham nhẫn; lại đối với thiện có thể nhẫn chịu, đối với bất thiện không thể kham nhẫn; hoặc đối với không lỗi lầm có thể nhẫn chịu, đối với lỗi lầm không thể kham nhẫn; đối với pháp vô lậu có thể nhẫn chịu, đối với pháp hữu lậu không thể kham nhẫn; hoặc đối với pháp xuất thế gian có thể nhẫn chịu, đối với pháp thế gian không thể kham nhẫn; đối với pháp thanh tịnh có thể nhẫn chịu, đối với pháp tạp nhiễm không thể kham nhẫn; hoặc đối với pháp Niết-bàn có thể nhẫn chịu, đối với pháp sinh tử không thể kham nhẫn. Các pháp nhẫn nhục này còn có đối trị nên không phải thật rốt ráo.
Sao gọi là nhẫn nhục rốt ráo? Nếu có thể tùy thuận tánh không, đối với cái thấy, hay không thấy thì không phải có cũng không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh Không, thì đối với có nguyện, có cầu và không nguyện không cầu, cũng thấy không phải có, không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh Không, thì đối với tích tập phan duyên không phải có không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh không, đối với pháp thanh tịnh và tạp nhiễm, không phải có không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh không, thì đối với pháp thiện hay bất thiện, không phải có không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh không thì đối với lỗi lầm và không lỗi lầm, không phải có không phải không. Nếu có thể tùy thuận tánh không thì đối với các hành và pháp Niết-bàn không phải có không phải không. Đây gọi là nhẫn nhục rốt ráo. Vì sao? Vì các pháp quá khứ, hiện tại, vị lai đều không sinh, các duyên vô tận, nhẫn nhục vô tận. Nếu đối với pháp này không phải hữu vi, không phải vô vi, cũng không phải hòa hợp, cũng không tăng giảm, cũng không thành hoại, cũng không phải người làm, cũng không phải người nuôi dưỡng, vì nó không sinh, là vô tận. Đây gọi là nhẫn nhục chân thật.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát thực hành hạnh như vậy thì gọi là các Đại Bồ-tát Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát ấy có thể thực hành hạnh tương ưng của Bồ-tát, thì tất cả ma vương và quyến thuộc của ma, làm các việc ma, tranh cãi đều không lộ diện. Đây gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật-đa tối thượng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba-la-mật-đa? Bồ-tát tu hạnh tương ưng Tinh tấn ba-la-mật-đa, trước hết khiến cho việc ma ẩn mất không hiện, kế đến là không thoái lui, đầy đủ tinh tấn dũng mãnh, không tiếc thân mạng, hùng dũng kiên cố, chí cầu tu tập. Văn chánh pháp Bồtát tạng này, nếu ai có thể biên chép, thọ trì, lắng nghe, đọc tụng, giải thích nghĩa thú, trình bày cho mọi người, Đại Bồ-tát đối với các Khế kinh cũng hướng dẫn dạy dỗ cho mọi người lắng nghe, biên chép, thọ trì, đọc tụng, truyền bá cho mọi người.
Này Xá-lợi Tử! Ví như có người thực hành hạnh chân thật, cầm các loại khí trượng kim cang, chiến đấu với trăm ngàn người không có khiếp sợ, dũng mãnh chiến đấu với quân địch không tiếc thân mạng. Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn cũng như vậy, phải kiên cố phát khởi tinh tấn tối thượng, chí cầu chánh pháp Bồ-tát tạng chưa từng xả bỏ, phát khởi giải hạnh thù thắng, tinh tấn không thoái lui.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn kiên cố, không tiếc thân mạng, trong tam thiên đại thiên thế giới, các loài thuộc noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không tưởng, cho đến các loài nằm trong số hữu tình, trong một sát-na, một lạpphược, một mâu-hô-lật-đa, như vậy lần lượt đủ một kiếp rồi, từ xưa đến nay chưa từng thọ sinh, nay mới thọ sinh làm được thân người, phải nên tinh tấn đọc tụng, thọ trì cho đến diễn nói cho mọi người, khiến người khác thọ trì.
Này Xá-lợi Tử! Nay ta nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa trên. Ví như có người thực hành hạnh chân chánh, cầm kiếm bén chế ngự ác hữu, chém đứt thân mạng toàn thắng trở về.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát cũng như vậy, nhất tâm phát khởi, tinh tấn dũng mãnh, tâm không sợ hãi, luôn thọ trì chánh pháp Bồ-tát tạng.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có thể đầy đủ hạnh tinh tấn không thoái chuyển, lại có thể mau chóng đầy đủ vô lượng sức tinh tấn như: tịnh tâm dũng mãnh, trì giới dũng mãnh, nhẫn nhục dũng mãnh, tinh tấn dũng mãnh, Tam-ma-địa dũng mãnh, tuệ thù thắng dũng mãnh, hạnh thù thắng dũng mãnh.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tuy có thể khởi những hạnh dũng mãnh như vậy, nhưng chưa bao giờ có một niệm khởi ý giết hại; không phải như bạn ác hễ khởi tâm dũng mãnh là giết hại.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta cho rằng Đại Bồtát này cũng như Phạm vương, như trời Đế Thích, như núi Diệu cao, không thể lay động; có đại Từ, đại Bi và thiện giải thù thắng, lại còn có khả năng thông đạt địa không thoái chuyển cảnh giới thần thông, khéo biết các tâm hạnh của hữu tình, tâm như đại địa tất cả bình đẳng, như nước, lửa, gió và hư không tâm đều bình đẳng, lại có khả năng trừ diệt tất cả lỗi lầm tham sân si.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ví như đem hết bảy báu trong hằng hà sa số thế giới để bố thí, nhưng không bằng Đại Bồ-tát nghe chánh pháp Đại thừa Bồ-tát tạng, tinh tấn tư duy, lại có khả năng tu hành chứng đắc quả Chánh đẳng Chánh giác. Các Đại Bồ-tát phải nên vắng lặng suy nghĩ tu học như vậy. Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có thể tùy thuận tu học hạnh rộng lớn như vậy thì nhất định đạt được thiện căn to lớn viên mãn vô lượng. Do nghe hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa như vậy, nên có thể thành tựu quả thù thắng vi diệu. Vì sao? Vì có tâm ham thích nên nhất định thành Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với chánh pháp
Bồ-tát tạng lắng nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì và diễn nói cho mọi người phải nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy, kiên cố lần lượt vượt qua các hiểm nạn không biết lao khổ.
Sao gọi là khó vượt qua mà có thể vượt qua? Nghĩa là hướng đến Niết-bàn vi diệu, khiến cho ma Ba-tuần không tìm được sơ hở. Đây gọi là Bồ-tát chánh sĩ tu hạnh tương ưng, dũng mãnh tinh tấn vì cầu đạo tam thừa Niết-bàn như vậy. Trong ba đường ác, khiến các hữu tình đoạn trừ các pháp tạp nhiễm, phải nên đa văn tu tập trì giới nhẫn nhục, các Ba-la-mật-đa và mong cầu xuất ly. Nếu có hữu tình tạo nghiệp bất thiện, lại thêm biếng nhác, thì Bồ-tát nên sinh lòng thương xót, khiến chúng phát tinh tấn dũng mãnh.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có trí tuệ tăng trưởng thù thắng thì đối với hữu tình biếng nhác phải nên xa lìa, còn đối với hữu tình tinh tấn nên ở chung. Vì sao? Vì Bồ-tát chỉ mong cầu Niết-bàn tối thượng giải thoát thanh tịnh đệ nhất.
Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, Đại Bồ-tát khi thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa và cũng hướng dẫn tất cả hữu tình cùng thực hành. Bồ-tát còn có thể làm lợi lạc tất cả hữu tình, khéo nói chánh hạnh, khiến tất cả đều được giác ngộ và hướng dẫn hữu tình đi vào đạo vô thượng.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Tinh tấn dũng mãnh đều không ngại
Thường được tôn trọng không ai bằng
Đối với chánh pháp Bồ-tát tạng
Được xưng đại trí khéo giữ gìn
Suy nghĩ nghĩa chánh pháp tối thượng
Được môn trí tuệ chẳng nghĩ bàn
Lại đối chánh pháp cầu xuất ly
Sẽ được Như Lai thân thọ ký
Dũng mãnh tu tập đại thắng tuệ
Ngồi cội Bồ-đề nghĩ chân chánh
Khiến bọn ma sợ hãi khuất phục
Do trì trí tuệ sức tinh tấn
Hiện khắp tất cả giới thanh tịnh
Học hết sự nghiệp ở thế gian
Lại hay lợi lạc các hữu tình
Đầy đủ tinh tấn không tổn giảm.
Này Xá-lợi Tử! Sau khi ta diệt độ sau năm trăm năm, nếu có ai thực hành hạnh này, hâm mộ thọ trì các Khế kinh, thì sẽ được tuệ thù thắng vô lượng phước đức, giàu có tôn nghiêm và được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn pháp Chánh đoạn, Từ, Bi, Hỷ, Xả, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, cho đến tất cả pháp Phật. Nói chung là hiểu rõ tất cả, tâm được thanh tịnh, trừ khử việc ma, khiến các hữu tình hết khổ sinh tử, hướng đến đạo Niết-bàn, xả bỏ mọi cảnh trái thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu lúc đó các loại hữu tình tương ưng với trí tuệ phương tiện khéo léo, mong cầu tiến đến Chánh đẳng Chánh giác, tu trì tịnh giới, ưa thích đa văn, tu tập các thiền định, tu hành sự nghiệp trí tuệ và thắng giải thoát, giải thoát tri kiến, tinh tấn cầu pháp Phật và ham thích làm lợi ích tất cả hữu tình, đoạn trừ tà kiến, thích cầu chánh kiến, thoát khỏi luân hồi, tu hành Thánh đạo, diễn nói chánh pháp, đồng thời phá các ma chướng, diệt trừ tham sân si, cắt đứt vô minh tối tăm khiến sinh tuệ sáng.
Này Xá-lợi Tử! Nếu ai có thể lắng nghe pháp này thì phát sinh tất cả căn lành, tích tập thành tựu tinh tấn tối thượng. Nếu ai có thể lắng nghe chánh pháp này thì ma không được tiện lợi, từ đó không còn sinh nghi hoặc đối với tất cả pháp Phật.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, hữu tình phước lực đầy đủ, nội tâm chánh hạnh, sẽ được Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, hữu tình này, đối với các Khế kinh mà có thể lắng nghe đọc tụng, ham thích thọ trì trong tinh thần hoan hỷ, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng mà thọ trì đọc tụng, tu hành thành tựu sinh tâm hoan hỷ cũng như vậy. Ta cho rằng người này đối với tất cả giáo pháp của Như Lai nhất định được thành tựu.
Giá như có người không chuyên chú đọc tụng, chỉ tạm đến lắng nghe, mà tác ý ham thích, sinh tâm hoan hỷ, cũng được tinh tấn kiên cố tối thượng đệ nhất; cho đến đối với chánh pháp Bồ-tát tạng hành tướng chân thật vi diệu, có thể đem một phần nhỏ diễn nói cho người khác.
Này Xá-lợi Tử! Ví như trong biển cả có trái cây chim muồi, đầy đủ sắc hương đang trôi nổi trên mặt nước. Có một người trượng phu thấy trái cây này, khởi thắng hạnh tinh tấn dũng mãnh bơi vào biển cả, mặc dù sóng lớn dữ dội, nhưng người ấy không sợ nhận chìm, hai tay cố lấy cho bằng được trái cây ấy. Hoặc lấy một, hai, ba trái rồi thoát ra khỏi biển. Sau đó, đến một nơi vắng lặng, anh ta xem xét trái này rồi mới nếm thử vị của nó. Nếm xong anh ta nghĩ: “Xưa nay ta chưa từng biết đến trái cây này và cũng không biết sắc hương thơm ngon”; rồi lại nghĩ tiếp: “Ta nay phát đại dũng mãnh trở lại biển cả lấy lại quả ấy”. Nhưng khi anh ta đến nơi thì không còn thấy trái cây đâu nữa, mà chỉ thấy nước biển đập dữ dội. Thấy thế, anh ta sinh khổ não thoái lui suy nghĩ: “Trái cây này sắc hương thơm ngon thù thắng, thật rất thích, tại sao lúc trước ta không lấy cho nhiều!”
Này Xá-lợi Tử! Sau khi ta diệt độ năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, nếu có hữu tình nào đối với các pháp bố thí, trì giới, thắng tuệ, tinh tấn mà ít có tin hiểu cũng lại như vậy. Vì lý do đó cho nên đối với các Khế kinh, mỗi khi lắng nghe khen ngợi, thọ trì, đọc tụng, diễn nói cho mọi người, cho đến bài kệ bốn câu, cũng đều bị ma Ba-tuần quấy nhiễu não hại, không thể kiến lập, nên thọ trì đọc tụng, phát tâm cúng dường, khen ngợi tán thán, do đó mà nên đều bị xả bỏ.
Lại nữa, có hữu tình ít lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, ở chỗ vắng vẻ suy nghĩ tu tập, bị ma xen vào, cho nên đối với nhất thiết xứ đều bị thoái lui. Lúc đó hành giả than như vầy: “Khổ thay, khổ thay! Ta đối với pháp tối thượng của Như Lai bị giảm mất, chúng ta không còn lắng nghe thọ trì chánh pháp chân thật, cho đến thời gian mâu-hô-lật-đa nhớ nghĩ Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không còn kịp nữa rồi!”
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các Bí-sô bị ma quản lý nắm giữ, đối với các Khế kinh không thể lắng nghe đọc tụng. Lúc đó, ma Ba-tuần hiện ra trước đại chúng, hủy báng đủ điều, như nói: “Khế kinh này không phải là Phật nói, chỉ là văn trau chuốt hư giả của thế gian”.
Này Xá-lợi Tử! Trong đại chúng ấy có các Bísô nghe lời đó rồi, đối với nhất thiết xứ bị ma lực gia hại, nên không chịu lắng nghe.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu người nghe chánh pháp này rồi
Khiến các chúng ma đều xa lìa
Đối với tất cả pháp của Phật
Nhất định tin hiểu trừ nghi hoặc
Nếu các hữu tình phước mỏng manh
Không thể lắng nghe chánh pháp này
Vì các hữu tình phước mỏng đó
Có nghe cũng không thể tin hiểu
Hoặc có người đầy đủ phước lực
Lắng nghe thọ trì sinh tin hiểu
Ít chịu lắng nghe chánh pháp này
Hay khiến tất cả các việc ma
Các hữu tình phước mỏng như vậy
Đối chánh pháp này không tin hiểu
Do không tin nên đọa đường ác
Cũng như người mù không thấy gì
Nếu người có đầy đủ phước lực
Tin hiểu sâu xa chánh pháp này
Do thâm tín nên sinh đường thiện
Nhanh chóng như sữa rơi xuống nước
Một loại hữu tình ít phước báo
Nghe pháp lần lượt sinh phiền não
Người ấy nhiều kiếp chịu khổ não
Vì ngu si nên không giải thoát
Đối Phật Bồ-đề đều xả bỏ
Mau chóng đọa vào trong đường ác.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai có pháp trí tuệ trong sáng. Xá-lợi Tử! Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp sắp diệt, trong bốn chúng, có một hạng Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đối với các Khế kinh lắng nghe đọc tụng, ham thích thọ trì; hoặc có một hạng hữu tình nào đối với nhất thiết xứ không thể ham thích thọ trì đọc tụng, Như Lai biết rõ từng chi tiết của hữu tình ấy.
Lại nữa, các hữu tình nghe Khế kinh này rồi, phát khởi hạnh chân chánh như lý tu hành, sẽ được đầy đủ bốn pháp thanh tịnh trong sạch không chướng ngại:
1. Đạt được giới pháp Ba-la-mật-đa thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.
2. Thường gặp Như Lai, thấy các tướng tốt thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.
3. Được thấy Từ Thị Như Lai, đạt được pháp thanh tịnh trong sạch, đầy đủ không chướng ngại.
4. Đạt được các sức thiện căn tương ưng như lý, thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.
Này Xá-lợi Tử! Sau khi ta diệt độ pháp sắp diệt rồi, đối với hạnh Đại thừa hành tướng như vậy, người nào tu hạnh tương ưng, phát khởi hạnh tinh tấn thù thắng, lại còn thọ trì đọc tụng Khế kinh, diễn nói cho mọi người, lần lượt lắng nghe. Khi ấy, hữu tình lại có mười thứ ma sự, người trí phải nên biết rõ, không nên tùy thuận với việc ma này, trái lại phải phát khởi tinh tấn dũng mãnh để thành tựu Phật sự. Sao gọi là mười thứ ma sự?
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô đối với các Khế kinh ham thích thọ trì đọc tụng. Lúc đó có ma Batuần đến quấy nhiễu não hại. Đây là ma sự thứ nhất. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh. Lúc đó có ma Ba-tuần đến quấy phá nhiễu hại, khiến cho đôi mắt sinh ra các bệnh. Đây là ma sự thứ hai. Người trí nên biết rõ việc này không nên thoái lui.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh. Lúc đó có ma Ba-tuần đến quấy phá nhiễu hại, khiến các phần trên thân sinh các bệnh khổ. Đây là ma sự thứ ba. Người trí nên biết rõ việc này không nên thoái lui.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh, nhưng tâm còn tán loạn không thích thiền định. Đây là ma sự thứ tư. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh, nhưng tâm còn nổi lên giận dữ tranh cãi lẫn nhau, không thể an lập được các Khế kinh. Đây là ma sự thứ năm. Người trí nên biết rõ điều đó, không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh, khiến cùng nhau đấu tranh, đều phạm vào tội của quốc gia; dùng lời thô ác chửi nhau bén như tên độc, tổn hại lẫn nhau, mọi hành tướng như vậy khiến các Khế kinh không được lưu truyền, do nghiệp đấu tranh nên mau chóng thoái chuyển. Đây là ma sự thứ sáu. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng các Khế kinh. Lúc đó ma Ba-tuần dụ dỗ đến nhà bạch y, lại khiến khởi lên đấu tranh. Hành tướng như vậy không thể thọ trì các Khế kinh, khiến sinh phỉ báng, do nghiệp đấu tranh tố tụng cho nên mau chóng phá hoại. Đây là ma sự thứ bảy. Người trí nên biết rõ việc này, không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Khi pháp sắp diệt, hoặc có các thiếu niên Bí-sô, xuất gia chưa được bao lâu, ham thích thọ trì pháp này, tin hiểu kiên cố, đối với các Khế kinh phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Lúc Bí-sô nghe kinh này rồi rất hoan hỷ. Khi ấy, Thân giáo sư mới nói với Bí-sô thiếu niên ấy rằng: “Đây chẳng phải Phật Bồ-đề, chẳng phải pháp luật của Phật, vậy không nên thọ trì”. Các Bí-sô nghe lời này rồi, chỉ trong thời gian ngắn không còn tin thọ Phật Bồ-đề.
Lại nữa, các Bí-sô ấy nói với nhau rằng: “Ta xưa tu tập pháp Phật Bồ-đề, nay chúng ta không còn thích tu tập nữa, các sức thiện căn thuở xưa khiến sẽ đoạn diệt, lại khiến đọa vào pháp nhiễm ô cho đến mạng chung sinh vào đường ác, chịu mọi khổ não”.
Này Xá-lợi Tử! Nên biết, những lời đó đều là lời của ma nói. Như vậy là tích tập các nghiệp địa ngục, các hữu tình hủy báng Tam bảo, không thuận lời Phật, đối với ba đời Như Lai đều biết rõ. Lại các hữu tình phát khởi tinh tấn tu hạnh Đại thừa, Như Lai cũng biết rõ điều đó.
Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại khiến các Bồ-tát khởi bốn thứ tưởng:
1. Khéo điều phục nghiệp của chính mình.
2. Khéo tu tập và quán sát.
3. Không thích quán sát việc làm của người khác, khởi tâm đại Bi đối với các hữu tình.
4. Thường đi đứng nằm ngồi nơi vắng lặng, đối với mình và người tâm luôn tùy thuận phòng hộ.
Đây là khởi bốn thứ tưởng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi ấy, hữu tình khởi nhiều tà kiến, sinh ra kế chấp, Bí-sô nói pháp cũng lại giảm bớt, bị người khinh chê không còn tôn trọng, cũng không cung kính thân cận cúng dường; có các Bí-sô nói pháp phi pháp, không thích thân cận chánh pháp. Nếu thấy có người sinh tâm cung kính tôn trọng cúng dường Khế kinh, có đại lực, dùng lời lẽ để khen ngợi Khế kinh, thì người ta lại cùng nhau sinh khinh chê ngã mạn.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bí-sô được lìa dục ham thích thọ trì, còn người chưa lìa dục thì lại không thích thọ trì các Khế kinh, ở trước đại chúng tùy thuận với chúng ma. Đây là ma sự thứ tám. Người trí nên biết rõ việc đó, không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô tuy có ham thích thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép Khế kinh, nhưng vì lợi dưỡng nên tùy thuận với thế gian. Các hữu tình khởi nghiệp trộm cắp, đối với ba việc mỗi mỗi tác ý, đó là tham lam đắm trước y phục, ăn uống và ngọa cụ, đối với ba việc này ham tìm cầu. Đó là ma sự thứ chín. Người trí nên biết rõ việc này, không nên tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô đối với các Khế kinh Đại thừa, thực hành hạnh tương ưng, có khả năng phát khởi tinh tấn tối thượng, biên chép, thọ trì, đọc tụng, diễn giảng rộng rãi cho mọi người. Lúc đó, Bí-sô bị ma quản lý, nghiệp phiền não chướng che lấp, nên tùy thuận ham thích pháp tạp nhiễm, nói năng hý luận, thường tương ưng đắm trước ngủ nghỉ. Trong giấc ngủ cũng đắm trước các pháp tạp nhiễm, lại còn dính mắc vào việc huyễn hoặc của phụ nữ. Ham thích tùy thuận hành tướng như vậy, đối với các Khế kinh không còn ham thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, diễn nói rộng rãi cho mọi người.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bí-sô thích nghe lời dạy của Như Lai, không muốn đoạn diệt lời dạy của Như Lai. Còn Bí-sô ác nghiệp thì lại không ham thích, đắm trước vào việc của ma, muốn khiến cho pháp Phật mau chóng đoạn diệt. Đây là ma sự thứ mười.
Này Xá-lợi Tử! Mười pháp này các người có trí phải nên biết rõ từng pháp một, không nên tùy thuận.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Khi ấy đối với nhất thiết xứ
Do tạo nghiệp nên ma chướng sinh
Đối các bạch pháp đều xả bỏ
Không thích lựa chọn các nghĩa lợi,
Thắng tuệ giảm bớt ác tuệ tăng
Đối với chánh pháp không an trụ
Thích nghe hành trì theo phi pháp
Đọa vào cảnh giới của nẻo ác.
Như vậy lần lượt khi mạng chung
Tỳ vết che lấp vì cứu hộ
Tôn trọng thân giáo A-xà-lê
Một lúc đều đọa vào đường ác,
Ta ở trong câu-chi ngàn kiếp
Vì lợi thế gian tu khổ hạnh
Thường nghĩ khéo léo đối hữu tình
Đều khiến xa lìa lửa ba độc.
Lúc đó ta chứng đại Bồ-đề
Hay chuyển diệu pháp luân thanh tịnh
Tất cả trời, người không ai bằng
Thế xuất thế gian xưng đệ nhất,
Vậy nay ta không nên xả bỏ
Hữu tình thế gian rất khó được
Khiến cho ma chúng đều thoái lui
Tất cả lìa khổ được an lạc.
Lại khiến người thọ trì Lục độ
Hành thiện chân thật giữa đường tối
Tương ưng với những lời Phật dạy
Khả năng đạt được đạo Bồ-đề.
Lắng nghe thọ trì pháp này rồi
Diễn nói pháp Không, pháp chân thật
Khiến chúng an trụ trong chánh tín
Thế nên được lìa các chúng ma.
Đối với chân thật tối thượng này
Nếu có trái với pháp chân thật
Tướng không chân thật chấp chân thật
Không thể xa lìa các chúng ma.
Nếu có hữu tình đến chỗ Phật
Hoan hỷ kiên cố sinh tôn trọng
Khi lắng nghe chánh pháp như vậy
Đạt được nghĩa thù thắng tốt đẹp,
Hữu tình chánh tín hoan hỷ rồi
Chúng ma nhất định sinh khổ não
Làm thiện đối với nhất thiết xứ
Chúng ma hoảng sợ bỏ chạy trốn.
Lúc ma giả làm tướng Bí-sô
Nói lời khéo léo cuồng hoặc nhau
Gây ra sự động loạn trong chúng
Nói Bồ-đề đạo không chân thật,
Tự cho pháp mình mới chân thật
Ngươi nên kiên cố cầu an trụ
Phát sinh hý luận như vậy rồi
Sau đó khinh chê lại hủy báng.
Lúc đó Bí-sô nhiễm trước ma
Bởi tin lời ma sinh buông lung
Cho pháp này không phải Phật thừa
Do đó xả bỏ đạo Niết-bàn,
Lại trái Chánh giác hợp các ma
Không còn tin thọ pháp Phật nữa
Do chấp ngã kiến thô trọng rồi
Mau chóng đọa lạc vào đường ác.
Dẫu có số ít các Bí-sô
Nhưng lại ham thích không chân thật
Đối với pháp Không của Đại thừa
Cùng nhau tìm xét các lỗi lầm,
Dẫu gặp pháp chân thật tối thượng
Nhưng do tạp loạn không lắng nghe
Đối với nghĩa lý sinh sợ hãi
Xả bỏ chánh pháp không hướng đến.
Lúc đó không có người nói pháp
Người không tin hiểu lại càng đông
Như vậy dù có thầy nói pháp
Thảy đều xả bỏ không lắng nghe,
Trong thời mạt pháp của Thế Tôn
Nếu hay lợi lạc các hữu tình
Lúc đó có nhiều ma chướng ngại
Như vậy chớ sinh tâm thoái lui.
Vị lai nếu có các Bí-sô
Nhất định sinh tin hiểu chánh pháp
Thà mất thân mạng cố hộ trì
Mau chóng giác ngộ quả viên mãn.
Khi ấy, Xá-lợi Tử và các Bí-sô ở trong đại chúng nghe hạnh tu tập Đại thừa này, đối với các hiểm nạn có thể thực hành chánh pháp. Nghe xong, mỗi mỗi đều phát khởi sức tinh tấn dũng mãnh kiên cố rộng lớn vô lượng, hành tướng như vậy đối với chánh pháp Đại thừa Bồ-tát tạng lắng nghe, đọc tụng biên chép thọ trì rồi lần lượt chỉ dạy truyền đạt rộng rãi cho mọi người.
Lại nữa, nói thí dụ khéo léo này: Ví như có người có khả năng giữ gìn kho báu của tổ tông, nay thấy tiền của châu báu hết dần sinh ra buồn rầu. Như nay ta thấy Đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, tu hành pháp Chánh đẳng Chánh giác khó được nay lại sắp giảm mất. Bí-sô chúng ta cũng như vậy, cùng sinh lo buồn, vậy nên cùng nhau phát khởi dũng mãnh tinh tấn rộng lớn vô lượng, giữ gìn chắc chắn chánh pháp bảo tạng Đại thừa Bồ-tát.
Lại nữa, Bí-sô nói: Ví như có người, có một người con đoan chánh đẹp đẽ, mỗi khi cha mẹ trông thấy tâm sinh vui thích, nhìn con mắt không tạm rời. Bỗng nhiên đứa con rơi vào chỗ hiểm nạn, bị chim dữ gắp bay đi, lại bị rơi vào chỗ bờ hiểm cao Na-lạc-ca. Lúc đó, cha mẹ phát khởi sức dũng mãnh tìm kiếm con đưa về. Như chúng ta hôm nay, sau khi Phật diệt độ, nếu có Bồ-tát sinh tâm cung kính tin theo pháp bảo vô thượng, muốn cầu xuất ly, thọ trì, đọc tụng, như thuyết tu hành. Ta đem pháp bảo vô thượng của Như Lai cùng nhau phó chúc, tinh tấn giữ gìn cũng như vậy, không để cho các bọn người ác xâm hại.
Lại có một Bí-sô nói: Ví như thế gian tụ tập binh chúng, bày binh bố trận, sắp muốn đánh nhau. Lúc đó, trong chúng có một số hữu tình, thấy quân chúng ấy tâm không khiếp nhược, vững tiến đến trước, bảo hộ binh chúng không cho chiến đấu. Lại ở trong chúng có nhiều người dũng mãnh thấy binh chúng này tâm không khiếp nhược, vững tiến tới trước, lần lượt như vậy mới lập chiến công. Như ta hôm nay, sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp sắp diệt, nếu có hữu tình trong tâm kiên cố hộ trì chánh pháp, thân cận thiện hữu, mong cầu xuất ly, mặc giáp kiên cố, phát khởi sức tinh tấn rộng lớn, phá chúng quân ma. Hành tướng như vậy đối với Pháp bảo, nếu có phần nhỏ tinh tấn suy nghĩ, lựa chọn khéo léo cũng như vậy. Cho đến diễn nói bài kệ bốn câu cho người khác được tùy hỷ, tin thọ lời Phật dạy, không sinh nghi ngờ hủy báng, lại cũng chỉ bảo cho nhiều hữu tình tùy hỷ xưng tán chánh pháp vi diệu vô thượng của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, khiến hữu tình được an trụ. Đồng thời cũng có các Bí-sô khác nói vô lượng thí dụ.
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Đó là hành tướng như thật. Ta cho rằng người này nhất định được phước tụ, cũng như hư không, không có hạn lượng, nói không bao giờ hết.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sau khi Phật diệt độ, làm được như người này rất là khó. Ta cho rằng người này là trượng phu tối thắng, trượng phu tối thượng, trượng phu dũng mãnh, là bậc đại trượng phu, đại pháp phần của Phật, không thích tịnh trụ tự lợi Tiểu thừa, chỉ thực hành chánh hạnh kiên cố Đại thừa, không ưa khen ngợi danh dự mình và người khác, chỉ tán thán công đức của Đại thừa.
Này Xá-lợi Tử! Cho đến khi sắp lâm chung cũng chỉ thọ trì đọc tụng chánh pháp này, nhất định thông hiểu pháp chân thật không.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời mạt thế về sau, Bísô phá giới cũng lại nổi lên hủy báng chánh pháp, lại ham thích tu tập kinh điển ngoại đạo thế gian.
Này Xá-lợi Tử! Trong đời ác năm trược: kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược này, nếu có Bí-sô có khả năng dũng mãnh nhuệ khí, phá các đấu tranh mà được an trụ, thường nguyện không lìa chư Phật Bồ-đề, trong ba thời phải nên quán tưởng khéo hay an trụ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Thân cận Chánh pháp tạng Như Lai
Hay phá tất cả khổ già chết
Không tương ưng với hạnh tự lợi
Thường vui lợi lạc các hữu tình.
Đối với chánh pháp ta nói ra
Cung kính ham thích hay kiến lập
Họ nhận ta làm Điều Ngự Sư
Là chân đệ tử của Như Lai.
Nếu không ham thích nghe chánh pháp
Lại không có khả năng an trụ
Người này đọa lạc vào đường ác
Như rơi xuống biển mau chìm đắm,
Ở trong ngàn câu-chi kiếp số
Gặp Phật xuất thế rất khó được
Người ấy bị ma làm mê hoặc
Dẫu được gặp Phật sinh nhàm chán.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Quá khứ chín mươi mốt kiếp, giữa kiếp ấy có Phật ra đời hiệu là Tỳbà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong giáo pháp của Đức Phật ấy có lục quần Bí-sô. Nhóm thứ nhất tên là Thiện Kiến, nhóm thứ hai tên là Diệu Lợi, nhóm thứ ba tên là Tác Hỷ, nhóm thứ tư tên là Hiền Kết, nhóm thứ năm tên là Danh Xưng, nhóm thứ sáu tên là Lợi Nha. Tất cả đều sinh kế chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, đoạn kiến, thường kiến, luôn luôn khinh chê ngạo mạn, cùng nhau kêu gọi tập trung nơi đồng trống, thường bàn luận ác hạnh sai khác như vậy. Ai nấy cũng đưa ra ý kiến của chính mình cho đó là thực hành trăm điều thiện, rồi triệu tập thành từng nhóm từ mười, hai mươi, cho đến năm mươi người, đem hành pháp của mình lần lượt chỉ dạy. Lại còn lập thệ rằng: “Nếu ai trái với lời dạy của ta nhất định sẽ gặp tổn hại”. Thệ như vậy rồi, họ phân chia người dẫn đầu đi truyền giảng, hoặc vào làng xóm, hoặc đến thành ấp, hoặc từ nhà này cho đến vương thành. Lúc đó có một người đến một làng nọ để giảng dạy, rồi trở về nhóm của mình chỉ dạy, làm tổn hại lời Đức Phật.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tác ý làm tổn hại lời Đức Phật? Lúc đó, có một giáo phái chấp chặt có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Họ cho rằng, nếu không có ngã, vậy ai là người đến đi? Ai là người ngồi nằm? Ai là người nói năng, im lặng? Ai là người bố thí? Ai là người thọ nhận? Ai là người ăn uống? Ai là người khổ? Ai là người vui? Cho đến một người ốm, một người đau, ai là người chịu sự giác xúc? Lúc đó, trong chúng có người nói như vầy: “Nếu ai nói không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì không phải bạn tốt của ta”.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó trai, gái, bé trai, bé gái ở trong xóm làng nghe lời này rồi đều thích người chấp vào ngã kiến ấy, rồi kết làm bạn tốt, cùng nhau nói rằng: “Thuở xưa ta có các bậc trí biết rõ như thật, là bạn chân thiện nói rằng không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nay ta không nên thân cận cúng dường người mà chúng ta đã từng tôn trọng ấy nữa”.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó lục quần Bí-sô sau nửa tháng trở về tập hợp lại một chỗ. Trong đó, có một Bí-sô nói: “Tôi đã lần lượt giáo hóa năm trăm chủng tộc làm quyến thuộc”.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác có một Bí-sô Thanh văn đã hết các lậu, không còn phiền não, đắc quả A-lahán, biết việc này rồi, vào trong năm trăm tụ lạc ấy vì các trai, gái, bé trai, bé gái mà nói: “Những lời nói pháp của các vị ấy là thô ác, không phải là lời chân thật, là lời không nghĩa lợi”.
Lúc đó, A-la-hán ở trong chúng ấy nói kệ rằng:
Nếu không biết rõ được chánh pháp
Người này mê muội chân Thánh đạo
Các ông cố chấp vào tà pháp
Nhất định đọa vào các đường ác.
La-hán nói kệ này rồi, lục quần Bí-sô nổi lên giận dữ không thích tín thọ.
Lúc đó, A-la-hán sinh lòng thương xót, tán thán Phật rồi lại nói kệ rằng:
Phật ta đã nói pháp chân thật
Tất cả hữu vi đều vô thường
Đối với các pháp đều vô ngã
Nó không chắc chắn, không thường còn.
Lại nữa, các hành đều tạo tác
Thể không chắc thật, không lại không
Kẻ ngu si mê cố chấp vào
Đối pháp huyễn hóa sinh động loạn.
Nói kệ xong, La-hán bảo chúng Bí-sô:
– Này các Bí-sô! Chư Phật Như Lai đã nói pháp đều không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.
Lúc đó, La-hán biết chúng Bí-sô không tín thọ, lại nói kệ rằng:
Nếu sinh kiến chấp vào thí, nhận
Lại nhận có phân biệt giác xúc
Đối pháp vô ngã không tin theo
Người ấy đọa lạc các đường ác.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó hữu tình đối với pháp hư vọng của trai, gái, bé trai, bé gái nói ra mà sinh lòng tín thọ. Có đến sáu vạn tám ngàn người vì bị kiến chấp nên khi thân hoại mạng chung đều bị đọa vào địa ngục Vô gián, thân chịu cực khổ; lại sinh ra nhiều lưỡi, lưỡi lớn như hoa sen ngàn cánh, trên lưỡi lại bị cày sắc cày lưỡi ấy. Lại có ngục tốt cầm chày bén đánh đập tội nhân; lại trên không mưa xuống hòn sắt nóng thiêu đốt tội nhân, hòn sắt nóng ấy hóa thành một khối lửa lớn, lửa cháy rừng rực, tội nhân đồng thấy lửa dữ thiêu thân, hết tội địa ngục lại đọa làm cá ngàn đầu.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Có các hữu tình đọa địa ngục
Vô lượng trăm ngàn lửa thiêu đốt
Không trung mưa đá lại mưa lửa
Tội nhân chịu cực rất khổ não.
Một thân lại chịu tất cả khổ
Lửa dữ khí trượng trên không xuống
Trăm du-thiện-na đều đầy cả
Đều thấy thiêu khắp trong địa ngục.
Mỗi mỗi đều thấy ở trên lưỡi
Mũi nhọn tên bén bắn phóng vào
Dao bén cắt lưỡi ra từng mảnh
Mới biết trong khổ lại càng khổ.
Do theo bạn ác làm hư vọng
Mỗi mỗi thân cận và ác kính
Xả bỏ chúng trì giới thanh tịnh
Thế nên đọa vào cực khổ này.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chúng lục quần Bí-sô ấy, do hư vọng không thật, cho nên cũng sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ. Trên mỗi thân của các Bí-sô ấy lại có ngàn miệng, trong mỗi miệng lại có hai lưỡi, mỗi lưỡi ngang rộng bốn du-thiện-na. Trên mỗi lưỡi có năm trăm cày sắt cày lưỡi ấy, lại dùng hòn sắt nóng thiêu đốt lưỡi ấy, tội nhân đau khổ miệng không thể nói. Lại ở trên đầu có trăm ngàn câu-chi các thứ dụng cụ làm khổ, bay đến đánh đập. Chịu khổ như vậy mãn trăm ngàn câu-chi na-do-tha năm, tội hết lại nhập vào các địa ngục riêng biệt khác để chịu các tội khổ cũng lại như vậy. Vì sao? Vì những người này hay hủy báng lời Phật dạy cho nên phải mắc tội như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thời Đức Phật ấy có trưởng giả tại gia tên là An Lạc, của cải châu báu giàu có phồn thịnh, thọ dụng tùy ý; lại còn đầy đủ các thứ báu của tổ tông để lại như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, san hô, các kho cũng đều chứa đầy tràn, các kẻ tùy tùng nô bộc, dân chúng trong thành ấy đều chịu sự sai khiến vừa ý không thiếu. Khi ấy, trưởng giả sủng ái hầu hạ ngoại đạo Ly-hệ, tu tập tà pháp sinh ra tà kiến. Lúc đó, vợ trưởng giả tên là Vĩ-sắc-bát-để, sắc tướng đẹp đẽ đoan chánh nõn nà, thân tướng tròn đầy, ai thấy cũng ham thích. Bà ta sinh hạ một cậu trai, đoan nghiêm đặc biệt diện mạo tròn trịa, thân thể trắng trẻo, ai ai cũng yêu mến. Cậu ta thuở xưa từng ở trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha gieo trồng căn lành. Lúc cậu ta mới sinh, đã cười ba lần và nói như vầy: “Nay ta cớ gì sinh trong dòng họ tà kiến”. Người mẹ nghe con nói như vậy, hoảng sợ kinh hồn rởn tóc, vứt con buồn rầu bỏ chạy. Lúc đó, các người nữ thấy việc này rồi tập hợp lại cùng nhau bàn hỏi. Nghe bảo đứa bé này vừa nói như vậy, họ đều sinh hoảng sợ chạy thục mạng, xa nơi ấy rồi lại quán sát bàn luận với nhau: “Đứa bé mới sinh này là Trời, là Rồng hay là Dược-xoa, La-sát, A-tô-la, Nga-lỗ-noa, Khẩn-nala, Mạc-hô-la-nga, Cưu-bàn-trà, Tất-xá-tả, Nhân phi nhân đều nghi như vậy?”
Lúc đó, đức bé nói với các người nữ rằng:
– Này các cô! Các cô đầy đủ nhân tướng tốt đẹp, cớ gì phải bỏ ta kinh sợ chạy tán loạn như thế?
Lúc đó, đứa bé vì các người nữ nói kệ rằng:
Chúng nữ các cô đều tốt đẹp
Tại sao không sợ các đường ác
Tôi khiến các cô ngộ chân thật
Thảy đều xa lìa các hiểm nạn,
Cha mẹ của tôi và quyến thuộc
Đều không phải thiện hữu của tôi
Nay tôi vì họ trừ tà kiến
Không sinh hiểm nạn các đường ác.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cha mẹ và các chúng hội của cậu bé nghe cậu bé nói kệ rồi, cũng trở lại chỗ cậu bé. Trước cha mẹ cậu bé nói kệ rằng:
Tất cả các kho và tài bảo
Ngũ cốc nhà cửa và các món
Hãy xả tất cả đem bố thí
Theo Phật xuất gia làm Sa-môn.
Tỳ-bà-thi Phật đang trụ thế
Ở trong ba cõi không ai bằng
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.
Được khai thị bằng chánh pháp Phật
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.
Đức Phật đầy đủ ba mươi hai
Tướng đại trượng phu đều trang nghiêm
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử
Giả sử trong ngàn câu-chi kiếp
Chưa từng nghe danh tự Phật này
Như hoa Ưu-đàm khó được gặp
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cha mẹ nói với con rằng: “Con có thể phát tâm thanh tịnh theo Phật xuất gia, nay ta đem hai mươi câu-chi châu báu vàng bạc của tổ tông cho con, để con lần lượt bố thí”.
Lúc đó cha mẹ nói kệ rằng:
Ta nay có tất cả tài bảo
Thảy đều cho con đem bố thí
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Tùy chỗ lợi lạc các hữu tình,
Tất cả vàng bạc các trân báu
Ngũ cốc nhà cửa và vật dụng
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Mau chóng xả thí lợi hữu tình.
Giường, mền, ngọa cụ các thọ dụng
Hương xoa, tràng hoa và hương bột
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Tùy chỗ mau chóng hành bố thí,
Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo
Đây là ruộng phước tốt vô thượng
Phát tâm rộng lớn cúng nơi ấy
Lợi lạc chân thật với tất cả.
Lúc đó, cậu bé vì cha mẹ nói kệ rằng:
Con muốn đi đến chỗ Đức Phật
Trước Đại Tỳ-bà-thi Thế Tôn
Cúng dường các món thật vô thượng
Lợi lạc tất cả các hữu tình,
Hoặc trời, hoặc người và các chúng
Thích cầu tất cả việc vui thích
Nay con đến trước chỗ Thế Tôn
Xin mọi người đều đến chỗ ấy.
Nói kệ rồi, cậu bé lại suy nghĩ nhìn khắp bốn phương rồi thưa với cha mẹ: “Nay con đến chỗ Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”. Nghe việc này rồi mọi người đều sợ hãi cùng nói lên rằng: “Tại sao cậu bé mới sinh ra một ngày mà có thể cùng bàn luận với cha mẹ, lại làm sao có thể đi được”. Đồng thời có tám vạn bốn ngàn câu-chi chúng đều đến tập hội cùng suy nghĩ nói rằng: “Nay cậu bé này là Trời, là Rồng, là Dược-xoa, La-sát, Kiền-thát-phược, A-tô-la, Khẩn-na-la, Ma-hô-la-nga, hay Nhân phi nhân…?”
Lúc đó, cậu bé cùng các chúng đồng đến chỗ Đức Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi cậu bé hướng dẫn chúng đi, trên hư không có mười ngàn lộng che ở trên.
Lại ở trên hư không có tiếng xướng lớn lên rằng: “Không để cho các vị bị nóng lạnh mưa gió làm tổn hại!” Lại ở trong hư không có lưới vàng che phủ ở trên. Lại ở trên hư không mưa xuống các loại hoa trời đẹp và các loại bột hương, các hương thơm vi diệu, lại có gió mát thổi nhè nhẹ làm bay hương ấy. Lại ở đường đi có nước hương thơm rưới lên đất, trời mưa y báu và mưa hoa cao đến ngang gối.
Lại ở bên đường đi có vô lượng ao hồ chứa đầy nước tám công đức tự nhiên xuất hiện, trong mỗi ao hồ đều có vô lượng hoa Ưu-đàm-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Bôn-noa-lợi-ca mọc lên cúng dường. Lại có bảy đài gỗ báu thù thắng vi diệu tự nhiên xuất hiện. Trong khi đi lại có đủ loại sừng ốc không gõ tự nhiên kêu, phát ra âm thanh ca vịnh vi diệu tán thán, còn ở hai bên có vô lượng trân báu tự nhiên trang nghiêm. Lúc cậu bé vừa mới bước chân, đều hiện một hoa đỡ dưới bước chân, mỗi bước chân qua thì hoa ẩn mất không hiện.
Khi ấy ở giữa đường, trong khoảng chốc lát, cậu bé nhìn lại nói kệ rằng:
Đời có chánh lý không chánh lý
Nay ta bước đi đường tối thượng
Không đi con đường không phải chánh
Vì thế nên đi đến chánh lý.
Ta ở trong na-do-tha kiếp
Hoặc lúc đạt được làm thân người
Lại gặp Như Lai xuất thế gian
Đầy đủ sức trí tuệ tin hiểu.
Này Xá-lợi Tử! Lúc cậu bé nói kệ xong, ở giữa hư không có tám vạn bốn ngàn vị trời cùng tán thán bằng kệ rằng:
Lành thay, lành thay! Bậc Đại trí!
Hay nói Đệ nhất nghĩa tối thượng
Xả bỏ tất cả các phi lý
Thế nên hay hành đạo chân chánh.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cậu bé đáp lại chư Thiên bằng kệ rằng:
Các vị hay hành đạo chân chánh
Rộng nói đạt được nghĩa hòa hợp
Nếu như cố chấp không chánh đạo
Làm sao đạt được lý tương ưng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó Thiên chúng đáp lại cậu bé bằng kệ rằng:
Các vị tham trước nơi dục lạc
Tất cả cảnh giới không xuất ly
Do ngu si nên trái chánh lý
Sẽ đọa vào đường ác địa ngục,
Nếu đối chánh đạo cầu xuất gia
Nên xả thọ dụng các cảnh dục
Nếu hay khai thị các chánh lý
Tức là người tương ưng thế gian.
Này Xá-lợi Tử! Khi ấy, cậu bé đáp lại chư Thiên bằng kệ rằng:
Nay ta nói Thiên chúng các ông
Đối với chánh đạo chưa biết gì
Như vậy tương ưng lý chân chánh
Nên nói để các ông hiểu rõ.
Cậu bé nói kệ rồi, cùng với các đại chúng đồng đi đến chỗ Đức Tỳ-bà-thi Như Lai. Đến rồi đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, mắt không tạm rời.
Lúc đó, cậu bé tâm rất hoan hỷ nói kệ rằng:
Đầy đủ ba minh trí cam lồ
Hay làm lợi ích cho thế gian
Đảnh lễ Long Tượng Sư Tử Vương
Thế nên nay con thường tán lễ.
Trí Phật chiếu sáng rất hy hữu
Cũng như nhật nguyệt chiếu thế gian
Cũng như hoa Ưu-đàm xuất hiện
An trụ kiên cố sắc tướng đẹp,
Hữu tình thế gian nhiều chướng nặng
Không thể hiểu biết Phật Thánh đạo
Cũng như người mù lại ngu si
Không biết nên đọa vào đường ác.
Con nguyện đương lai thành Chánh giác
Cũng như Tỳ-bà-thi Thế Tôn
Khiến các hữu tình lìa các khổ
Diệt lửa ba độc được mát mẻ
Lại khiến vô lượng các hữu tình
Cũng phát thệ nguyện rộng như con
Nghe Phật diễn nói thừa tối thượng
Đều được khai thị đạo Bồ-đề.
Cậu bé nói kệ này rồi, lại nói như vầy: “Nammô Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo nói pháp yếu”. Đồng thời tám vạn bốn ngàn câuchi người cũng nói như vầy: “Nam-mô Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo nói pháp yếu”. Tán thán ba lần như vậy rồi làm lại từ đầu: “Con nguyện đương lai đều được thành Chánh đẳng Chánh giác như Tỳ-bà-thi Như Lai khéo nói pháp yếu”.
Khi ấy, Tỳ-bà-thi Như Lai, biết được cậu bé và tám vạn bốn ngàn câu-chi người có thể kham nhận thọ ký, liền hiện thần biến, từ nơi mặt phóng ra ánh sáng tên là Quyết định thắng. Ánh sáng ấy có vô lượng sắc tướng như xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha-chi-ca, kim sắc… Sắc tướng như vậy bao trùm vô lượng thế giới, chiếu suốt đến Phạm Thiên đến sắc biên tế, che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng. Ánh sáng ấy quay trở lại trên đảnh Đức Phật, nhiễu quanh bên phải trăm ngàn vòng rồi bỗng nhiên ẩn mất.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Bí-sô thị giả của Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai thấy ánh sáng thần biến của Phật rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay hướng lên Đức Phật chiêm ngưỡng tôn nhan dùng kệ thưa hỏi:
Tỳ-bà-thi Phật đại hy hữu
Là bậc Thánh tôn trong các Thánh
Nay con thưa hỏi Thiện Thệ Tôn
Vì nhân duyên gì hiện ánh sáng?
Nói kệ xong Bí-sô lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này, cúi xin Như Lai rũ lòng thương xót trừ nghi cho con diễn nói việc này. Lại có vô lượng trăm ngàn người hiện đang đứng trước Thế Tôn cũng thích muốn nghe, chúng con rất tha thiết ân cần muốn nghe, Thế Tôn hãy vì các hữu tình mà từ bi khai thị. Như Lai đại Bi, là mắt sáng cho thế gian cứu hộ tất cả, như các ngôi nhà che mát tất cả, cúi xin Như Lai đại Từ thương xót cắt đứt lưới nghi, các sở hành, tưởng niệm, tất cả hành nghiệp và các nghi hoặc của các hữu tình trong quá khứ, hiện tại, vị lai, Như Lai đều biết rõ.
Lại nữa, các hữu tình trong các cõi Phật ở trong ba đời, tất cả trí tuệ ngôn ngữ sai khác, Như Lai đều thông đạt. Như Lai là đấng Pháp vương, đầy đủ tám thứ tiếng, nói pháp đều được tự tại, vì nhân duyên gì hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này. Cúi xin Như Lai đoạn trừ tất cả lưới nghi và mọi sự khổ não của chúng con đều được đoạn diệt. Hôm nay chúng con thưa thỉnh ba lần như vậy, nhất tâm chuyên chú, chấp tay cung kính rất thích muốn nghe.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Tỳ-bà-thi Như Lai bảo Bí-sô thị giả rằng:
– Ngươi có thấy cậu bé chấp tay đứng trước ta không?
Bí-sô thưa:
– Dạ vâng, thưa Thiện Thệ con đã thấy!
Phật bảo Bí-sô:
– Nay cậu bé này thuở xưa đã từng thân cận xưng tán cung kính lễ bái, lại còn dùng y phục ngọa cụ, các loại thuốc thang cúng dường tám vạn bốn ngàn câu-chi na-do-tha chư Phật, trồng các căn lành, vì cầu thành tựu Chánh đẳng Bồ-đề, thường tu phạm hạnh.
Đức Phật bảo Bí-sô:
– Ngươi có thấy tám vạn bốn ngàn câu-chi người đang đứng chắp tay ở trước ta không?
Bí-sô thưa:
– Dạ vâng, con đã thấy thưa Thiện Thệ!
Đức Phật bảo:
– Các người này ở đời quá khứ đều đã từng là cha mẹ của cậu bé này, đời đời đều được cậu bé này giáo hóa phát tâm, các đời về sau, nguyện đều không thọ thân nữ, đều hay tùy thuận tu tập, đồng phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Nay ta sẽ thọ ký cho họ. Vì nhân duyên đó cho nên ta hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này.
Lúc đó, Tỳ-bà-thi Như Lai vì Bí-sô thị giả và mọi người mà nói kệ rằng:
Ngươi thấy hiện tiền các đại chúng
Đi theo cậu bé đến phó hội
Tám vạn bốn ngàn câu-chi số
Chuyên chú nhất tâm nghe ta nói.
Phật tuyên nói pháp được tự tại
Bí-sô! Nay ta nói điều đó
Ta biết cậu bé trong nhiều kiếp
Thân cận cúng dường các Đức Phật.
Lại trong vô lượng chỗ chư Phật
Chí tâm kiên cố cầu xuất gia
Tu trì hạnh thanh tịnh tối thượng
Lại hay lợi lạc chúng trời người.
Hiện tiền các đại chúng này đây
Tám vạn bốn ngàn câu-chi số
Đời đời đã từng làm cha mẹ
Giáo hóa hoan hỷ không gián đoạn.
Lại trong vô số kiếp thuở xưa
Rộng phát vô biên các đại nguyện
Đời đời thảy đều làm cha mẹ
Đồng cầu đại Bồ-đề vô thượng.
An trụ như vậy lìa sinh tử
Phải nên theo ta cùng tu học
Chí cầu Bồ-đề diệu vô thượng
Ta nay vì họ thân thọ ký,
Chúng ấy nhất định thành Chánh giác
Thế nên nay ta hiện thần thông
Ta có khả năng khiến tâm ngươi
Đi, đứng, nằm ngồi không nghi hoặc.
Các vị trời rồng và nhân chúng
Na-do-tha số đứng trước ta
Đồng nghe vì họ thân thọ ký
Không lâu sẽ thành Đấng Lưỡng Túc.
Này Xá-lợi Tử! Nghe Đức Phật ấy thọ ký, cậu bé hoan hỷ phấn khởi đi đến chỗ cha mẹ nói lời thành thật bằng kệ rằng:
Tám vạn bốn ngàn chúng như vậy
Thuở xưa từng làm cha mẹ con
Đồng thời cùng phát tâm Bồ-đề
Hôm nay cha mẹ như thế nào
Này Xá-lợi Tử! Khi ấy cha mẹ vì cậu bé nói kệ rằng:
Như lời con nói cùng các chúng
Mỗi mỗi đã phát tâm Bồ-đề
Nay ta quy y Nhất Thiết Trí
Cùng con phát nguyện không khác gì
Như vậy tiến cầu đạo cứu cánh
Thân con là thân ta đã sinh
Cùng con đồng phát tâm chân thật
Nguyện được thành tựu quả Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cậu bé vì cha mẹ lại nói kệ rằng:
Nếu con được thành Phật trước nhất
Nguyện xin khai thị cho tất cả
Con nguyện cha mẹ và mọi người
Cùng thành đại Bồ-đề vô thượng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó, vì cậu bé và mọi người, Tỳ-bà-thi Như Lai nói như vầy:
Nay ta vì các ông mà thọ ký thành Phật chớ sinh nghi hoặc, khéo an ủi chính mình, chớ thấy cái khác. Vì sao? Vì thuở xưa các ông đã làm Đại tự tại Thiên tử, lúc đó ta đã từng thọ ký cho các ông, từ đó trở về sau trải qua câu-chi na-do-tha kiếp không đọa đường ác. Lại quá hơn câu-chi na-dotha kiếp, sinh trong dòng Chuyển luân thánh vương, được thành Phật hiệu là Đại Bi Như Lai Ala-ha Tam-miệu Tam-phật-đà, đầy đủ đại danh xưng, cha là Tịnh Phạn, lìa các ám độn, mẹ là Magia, lìa mọi ưu não. Người con thuở đó cũng như con ta tên là La-hầu-la, xuất hiện ở thế gian rồi, cầu thành Chánh đẳng Chánh giác, được thành tựu đạo Bồ-đề. Tuổi thọ Đức Phật ấy đủ mười vạn tuổi. Ánh sáng của Đức Phật ấy chiếu sáng mười vạn du-thiện-na quốc độ.
Tất cả hữu tình ở trong thế giới ấy có duyên hay không duyên đều được nương vào ánh sáng của Đức Phật. Lúc đó, trong ánh sáng của Đức Phật có trăm câu-chi na-do-tha câu-chi, trăm ngàn na-do-tha câu-chi chúng đại Thanh văn đều đến tập hội. Lại có một câu-chi chúng đều là A-la-hán, đầy đủ bạch pháp, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đủ tám giải thoát, đắc sáu thần thông.
Này Xá-lợi Tử! Đại A-la-hán như vậy đều đến tập hội. Lại có vô lượng chúng Đại Bồ-tát đều đến tập hội. Lại có tất cả cha mẹ thuở xưa từng làm cha mẹ của Đức Phật cũng đến tập hội.
Lúc đó, Đại Bi Như Lai nói pháp giáo hóa vô lượng a-tăng-kỳ hữu tình đều trụ địa không thoái chuyển, đã làm các việc thiện lợi cho các hữu tình rồi vào Niết-bàn. Chánh pháp tồn tại thế gian một câu-chi năm. Xá-lợi của Đức Phật ấy lưu bố rộng rãi ở các thế gian, cũng như sau khi ta diệt độ lưu bố Xá-lợi không khác.
Này Xá-lợi Tử! Lúc nói lời này, có các Chánh sĩ phát khởi dũng mãnh, tinh tấn càng tăng, sinh khởi tâm Từ quán sát thế gian, lợi lạc hữu tình, tâm không thoái chuyển. Lại có Đại Bồ-tát phát khởi chánh niệm, tăng trưởng tối thắng, tâm không gián đoạn, chí cầu Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, nguyện ở trong sinh tử lưu chuyển hóa độ lợi ích hữu tình, cầu Phật Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta cũng phát nguyện này, dứt sạch nguồn gốc sinh tử, mặc giáp tinh tấn, hóa độ lợi ích hữu tình, một kiếp viên mãn hạnh nguyện tinh tấn, tinh tấn dũng mãnh tâm không thoái chuyển, nguyện thành Bồ-đề.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển? Đại Bồtát khi thực hành tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển, giá như thấy lửa cháy đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, vì cầu Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác Bồ-đề, nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh, vào trong lửa nhưng vẫn nhẫn chịu không biếng nhác. Lúc các Bồ-tát nghe pháp này rồi liền được siêu việt viên mãn, một kiếp hạnh nguyện tinh tấn.
Lại nữa, khi các Bồ-tát nghe pháp này rồi, đối với tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển, liền được vô lượng thiện căn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát thực hành tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển, vì lợi ích tất cả hữu tình, cầu chứng Niết-bàn, thuần nhất không xen tạp thường trụ kiên cố, đối với thiện và bất thiện đều khởi lòng đại Bi thương xót, thực hành hạnh tương ưng đối với các hữu tình.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nên thực hành tinh tấn dũng mãnh không có biếng nhác dù ở đâu, cất bước chân đi thường không lìa tâm Bồđề, quán thấy Tam bảo luôn ở trước mắt, cũng không rời bỏ tất cả hữu tình, cũng không tùy thuận tất cả phiền não.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nên thực hành tinh tấn dũng mãnh không có biếng nhác, đem sức thiện căn đã sinh, hoặc chưa sinh đều hồi hướng chánh đạo Bồ-đề, lại khiến thiện căn tăng trưởng vô tận.
Này Xá-lợi Tử! Ví như nước của trăm con sông chảy ra biển mãi mãi không bao giờ hết. Nay đem thiện căn này hồi hướng Bồ-đề cũng như vậy, không có cùng tận. Thế nên gọi là tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát thực hành tinh tấn dũng mãnh không có biếng nhác, đối với các hạnh chân chánh Nhất thiết trí trí tích tập thiện căn, lại hay lợi lạc tất cả hữu tình, thế nên gọi là tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lược nói về phước uẩn mà Đại Bồ-tát cho đến tất cả hữu tình đạt được, cho đến phước uẩn mà hữu học, vô học, Thanh văn, Duyên giác đạt được. Các phước uẩn đó không bằng đầu sợi lông phước uẩn của Như Lai. Huống nữa là phước uẩn Như Lai đạt được nhiều như lông khắp cả toàn thân. Vì do Như Lai tu hành tích tập phước uẩn rộng lớn trong vô lượng kiếp. Nếu như có người tích tập phước uẩn rộng lớn, hành tướng như thật trăm phần, ngàn phần, không bằng nhân tướng của Như Lai, huống nữa là tất cả tướng tốt của Như Lai.
Lại nữa, các phước uẩn đó không bằng tướng nhất kha nguyệt bạch hào giữa chặng mày của Như Lai, huống nữa là trăm ngàn phần công Đức Như Lai
Lại nữa, các phước uẩn đó không bằng một đảnh tướng vô kiến của Như Lai, huống nữa là tướng đại trượng phu của Như Lai, cho đến ô-sắcni-sa các căn tướng tốt phát sinh trăm ngàn câu-chi công đức.
Lại nữa, các phước uẩn ấy không bằng âm đại pháp loa nói một tướng của Như Lai, huống nữa pháp âm rộng lớn của Như Lai bao trùm vô lượng thế giới, khiến hữu tình các căn điều hòa đều sinh hoan hỷ, tùy theo sự hiểu biết thù thắng khéo được điều phục, phát sinh sự hiểu biết đối với Chánh đẳng Chánh giác khó được như vậy.
Như vậy, Bồ-tát đối với vô lượng thế giới tùy theo đó mà học. Như Lai nói ra âm thanh to lớn khiến hết tất cả hữu tình đều được nghe. Bồ-tát mặc giáp tinh tấn, phát ý chí kiên cố, thích tu tập hạnh tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển của Bồ-tát. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát tu hạnh tinh tấn không có thoái lui, giả sử khiến tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới thành tựu đầy đủ trí lực hiểu biết thù thắng. Nếu các hữu tình đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, tùy thuận thành tựu đầy đủ trí lực, đem so với công đức trước trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Nói tóm lại, tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới như vậy, đều khiến đạt được trí lực Tu-đàhoàn, trí lực Tư-đà-hàm, trí lực A-na-hàm, trí lực A-la-hán; lại khiến đạt được trí lực của Thập tín, Thập trú, Thập hạnh, Thập hồi hướng, địa vị không thoái chuyển, địa vị Nhất sinh bổ xứ Bồ-tát. Nói rộng ra, cho đến tất cả hữu tình trong vô lượng thế giới khiến đạt được trí lực của Nhất sinh bổ xứ Bồtát. Nếu các hữu tình nghe được trí lực không phân biệt và có phân biệt của Như Lai mà không kinh sợ thì ngay khi ấy, lần lượt ham thích trí lực thậm thâm so với công đức trước trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, a-tăng-kỳ phần, cho đến ôba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Bồ-tát ham thích phát khởi tinh tấn dũng mãnh, thà bỏ thân mạng, đầu, mắt, tủy, não, tất cả chi phần, đối với trí lực của Như Lai tu tập liên tục không để gián đoạn, xả bỏ dũng mãnh tinh tấn như vậy, ta cho rằng đây là Bồ-tát thực hành tinh tấn không thoái chuyển.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát phải nên tu tập địa vị không thoái chuyển, cho đến phát khởi nhất tâm, thể nhập vào vô lượng vô biên tâm hạnh sai biệt của tất cả hữu tình trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu các hữu tình nhiều tham, sân, si… tất cả phiền não mà lại hồi nhập tâm của Bồ-tát, lúc đó, Bồ-tát dùng sức trí tuệ, thí dụ, ngôn từ mỗi mỗi tìm cầu, phát khởi dũng mãnh như vậy, thấy sắc tướng này, tất cả hữu tình bị tham, sân, si… thiêu đốt. Lúc đó, Bồ-tát dùng các phương tiện khiến hữu tình dứt hết tất cả phiền não, cũng như tro tàn tan mất không còn sót gì. Lại khiến hữu tình tu tập hướng đến Niết-bàn, ta cho rằng, Bồtát này hành tinh tấn không thoái lui.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hạnh tinh tấn không thoái chuyển, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, cho đến tinh tấn tất cả Ba-lamật-đa. Thân, miệng, ý không lìa sự tu tập, nhưng đối với ba nghiệp phát sinh tinh tấn ý là tối thắng.
Sao gọi là ý nghiệp tinh tấn tối thắng? Tức là không phân biệt và có phân biệt.
Sao gọi là không phân biệt? Tức là tâm Bồ-đề.
Sao gọi là có phân biệt? Tức là khởi tâm đại Bi đối với tất cả hữu tình.
Sao gọi là không phân biệt? Nghĩa là đối với nhẫn trí ngộ lý vô ngã.
Sao gọi là có phân biệt? Tức là có thể nhiếp thọ tất cả hữu tình.
Sao gọi là không phân biệt? Là tuy có thể nhiếp thọ tất cả hữu tình, nhưng không chấp trước.
Sao gọi là có phân biệt? Tức là nhàm chán luân hồi.
Không phân biệt là đối với ba cõi đều không sở đắc. Có phân biệt là có các của báu vui vẻ bố thí. Không phân biệt là bố thí không chấp tướng. Có phân biệt là trì giới có sự tích tập. Không phân biệt là trì giới không chấp tướng. Có phân biệt là có thể nhẫn chịu khổ. Không phân biệt là sát-na tâm không chỗ trụ. Có phân biệt là phát khởi các pháp thiện căn. Không phân biệt là thường vắng lặng. Có phân biệt là đối với thiền định có sự tích tập. Không phân biệt là tâm thường quyết định an trụ không lay động. Có phân biệt là tu văn tuệ không biết nhàm chán. Không phân biệt là trong tâm chuyên chú khéo léo. Có phân biệt là đối với văn tuệ rộng nói các pháp. Không phân biệt là đối với pháp tánh không có ghi nhớ. Có phân biệt là đối với trí tuệ có sự tu tập trau luyện. Không phân biệt là đối với các pháp lìa mọi hý luận. Có phân biệt là tích tập tu học các phạm hạnh. Không phân biệt là đối với các tánh tuệ đều hay xa lìa. Có phân biệt là có thể viên mãn năm thần thông. Không phân biệt là dứt hết các hữu lậu. Có phân biệt là đối với quán tưởng thường hay suy nghĩ. Không phân biệt là trong tâm luôn chánh niệm. Có phân biệt là khéo léo đối với bốn chánh đoạn. Không phân biệt là có thể siêu việt các thiện căn. Có phân biệt là chấp trước tướng văn tự muốn cầu xuất ly. Không phân biệt là phước báo to lớn bao trùm vô tướng. Có phân biệt là thông đạt các căn và sự thích nghi của các hữu tình. Không phân biệt là có thể quán sát các pháp thiện căn, nhưng không sở đắc. Có phân biệt là có sự tu tập đối với các lực. Không phân biệt là đối với chỗ này, không có tổn giảm. Có phân biệt là có thể phát sinh Bồ-đề pháp phần. Không phân biệt là đối với các pháp lìa trí phân biệt. Có phân biệt là đối với chánh đạo có khả năng cầu tiến. Không phân biệt là quán các thần biến cũng như hư không. Có phân biệt là có thể tích tập định môn. Không phân biệt là trụ Xa-ma-tha nhưng chỉ một cảnh. Có phân biệt là đối với Tỳ-bát-xá-na có tích tập. Không phân biệt là khéo nhập vào pháp tánh. Có phân biệt là có thể hiểu rõ các pháp nhân duyên. Không phân biệt là có thể biết rõ pháp không phải nhân duyên. Có phân biệt là đắm trước tiếng thắng nghĩa. Không phân biệt là thực hành hạnh chánh pháp. Có phân biệt là trang nghiêm Pháp thân. Không phân biệt là lìa mọi trang nghiêm Pháp thân. Có phân biệt là trang nghiêm lời nói. Không phân biệt là nương tựa vào các bậc Thánh có thể thường yên lặng. Có phân biệt là nương vào ba cửa giải thoát môn mà sinh ra lạc dục. Không phân biệt là ngã không tăng thượng. Có phân biệt là có thể lìa bốn việc ma. Không phân biệt là có thể vứt bỏ thói quen chủng tử phiền não. Có phân biệt là có thể biết rõ phương tiện khéo léo. Không phân biệt là thấy biết trí tuệ như thật. Có phân biệt là lìa mọi cái thấy theo phan duyên. Không phân biệt là lìa mọi cái thấy siêu việt. Có phân biệt là có cái thấy tưởng niệm. Không phân biệt là thấy ý nghiệp. Đây là ý nghiệp tinh tấn, tinh tấn là tối thượng thù thắng. Ta cho rằng Đại Bồ-tát này thực hành tinh tấn không thoái.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi thực hành tinh tấn không thoái, thực hành năm pháp tối thượng cực diệu, mau chóng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Sao gọi là năm pháp tối thượng cực diệu?
1. Thường nhớ nghĩ Phật xuất hiện ở thế gian.
2. Hay thân cận các bậc Thiện tri thức.
3. Thường gặp thời tốt.
4. Thường tích tập các pháp thiện căn kiên cố.
5. Theo học giới cụ túc của Đại Bồ-tát đều được viên mãn.
Đây là năm pháp tối thượng cực diệu khiến Bồtát mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát lìa năm pháp tối thượng cực diệu này thì có thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác không?
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Nếu các Bồ-tát không thường nhớ nghĩ Phật xuất hiện thế gian, không thân cận các trí thiện thức, nếu không gặp thời tốt, không thể tích tập các pháp thiện căn không khiến kiên cố, không thể theo học giới cụ túc của Đại Bồ-tát không được viên mãn. Nếu xa lìa năm pháp cực diệu tối thượng như vậy, thì không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Nếu ai trái với năm pháp này mà chứng đắc thì không thể có.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát tại gia xa lìa năm pháp? Nghĩa là như vua, đại thần ở trong đại chúng, dựa vào oai thế khủng bố nhiều người, lại nói với mọi người rằng: “Ta có thể làm bất cứ việc gì đến với các ngươi, chỉ vì khi dối mà thật không làm”. Cho đến nói những lời nói khi dối như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Do khi dối như thế nên không thể sinh vào chư Thiên nẻo thiện, hành tướng như vậy cũng không thể gặp được thời tốt.
Này Xá-lợi Tử! Hành tướng này Bồ-tát tại gia chỉ đủ nuôi sống chính mình chứ không thể lợi tha, cũng không gặp Phật xuất thế, cho đến không thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia ở trong thành ấp có các chướng ngại thường hay quấy nhiễu não hại.
Thế nào là trong thành ấp có các chướng nạn?
Này Xá-lợi Tử! Có các Đức Như Lai xuất thế thành Đẳng chánh giác, nói pháp giáo hóa các hàng Trời, Người, A-tu-la… đầu, giữa, cuối đều thiện, ý nghĩa sâu xa, lời nói khéo léo, đầy đủ tướng thanh bạch phạm hạnh và được bốn bộ chúng vây quanh cung kính. Tuy Bồ-tát thân cận cúng dường lễ bái Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhưng lại ở chung trong xóm làng thành ấp ngõ hẻm, nhân dân, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, cho nên giới uẩn không thể đầy đủ thanh tịnh. Vì thế ta nói trong thành là chướng nạn. Nếu Bồ-tát tại gia đắm trước năm dục như vậy không thể nhớ nghĩ Phật xuất thế, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia tự tuyên nói pháp luật hiện hành, lại càng nhiều chướng nạn. Nghĩa là cha, mẹ, trai, gái, vợ, con, nô tỳ, chị, em, anh, em, bạn bè, quyến thuộc trong nhiều kiếp bị chướng nạn.
Này Xá-lợi Tử! Pháp như vậy hay gây chướng nạn cho Bồ-tát tại gia, cũng lại không thích Phật xuất thế, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia đối với Khế kinh hành tướng như thật của Như Lai lập ra, tuy nghe rồi nhưng không thích đa văn, đối với hạnh thiểu dục không thích tu tập, cũng không tin thọ các Khế kinh đồng loại, đối với giáo pháp Đại thừa của Như Lai lại sinh hủy báng. Những hạng người như vậy đều đọa vào đường ác.
Sao gọi là các đường ác? Đó là Diệm-ma-la giới, ngạ quỷ, súc sinh, biên địa, các ác luật nghi, dù làm được thân người nhưng không đầy đủ, cấu uế chướng nặng, đủ mọi tà kiến.
Này Xá-lợi Tử! Chỗ đáng nhàm chán như vậy, chư Phật, Bồ-tát đều xa lìa không thích sinh vào nơi ấy, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia thích dựa vào những người có thế lực lớn như: quốc vương, đại thần và các nhân dân giàu có hào kiệt, như vậy thì càng thêm sân nhuế. Hễ nói ra điều gì phần nhiều là sự dối trá, tích tập việc ác, mê hoặc người khác, hay sinh khinh chê. Người này dùng lời bất thiện nhất định đọa đường ác, thân thể ốm gầy, đủ các tướng ác.
Này Xá-lợi Tử! Đó là năm pháp của Bồ-tát tại gia. Vì lý do đó cho nên không thể gặp Phật xuất thế, không thể thân cận bạn tốt, không thể gặp thời tốt, thiện căn đã được tích tập đều bị hủy hoại, không thể theo học với Đại Bồ-tát trì giới, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Nếu ai thực hành theo năm pháp
Thì không thể tăng trưởng thắng tuệ
Mà lại xa lìa Bậc Điều Ngự
Không thể mau chóng thành Chánh giác.
Khi dối hết tất cả hữu tình
Như vua, đại thần, các nô tỳ
Đều đoạn tất cả sức thiện căn
Không thể gặp được Phật xuất thế.
Hoặc lại kinh bố các hữu tình
Ra lịnh trói bắt và đánh đập
Làm các nghiệp ác như vậy rồi
Lại thường xa lìa Bậc Vô Thượng.
Đối với Bí-sô, Bí-sô-ni
Phá các tịnh giới sinh bệnh khổ
Sát-na không gặp được thời tốt
Thường luôn xa lìa các Đức Phật.
Cha, mẹ, vợ, con các quyến thuộc
Mãi luôn theo học hạnh phi pháp
Ngược lại không thích nghe chánh pháp
Đọa vào si mê khó ra khỏi.
Giá như gặp Phật cầu thân cận
Trong khoảng sát-na không thể được
Hoặc có lúc ham thích xuất gia
Bị các chướng nạn luôn ập đến.
Hoặc lúc nghe chánh pháp này rồi
Rồi tùy theo chỗ nói chân thật
Hữu tình càng sinh tâm sân nhuế
Cho rằng đây là phi chánh pháp.
Gây ra các chướng nạn như vậy
Trong mười sáu phần chưa bằng một
Do nhân hủy báng chánh pháp này
Đời đời mù lòa không thể thấy.
Thế nên không thấy Bậc Chánh Giác
Dù thấy không sinh tin thanh tịnh
Sẽ được thân người không đầy đủ
Sau đọa vào tất cả bàng sinh.
Nếu người quy hướng Phật Bồ-tát
Và sinh ham thích với Bồ-đề
Tất cả chướng nạn đều tiêu trừ
Khéo hay tu tập hạnh chân chánh.
Tất cả cha mẹ và quyến thuộc
Cùng với tất cả hữu tình khác
Hướng dẫn ai nấy đều xuất gia
Mau chóng nhiếp thọ về chánh đạo.
Trước hết hướng dẫn mẹ mình rồi
Lại hay khen ngợi khiến xuất gia
Cùng nhau đi đến Bậc Thiện Thệ
Phát tâm khai ngộ đại Bồ-đề.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát xuất gia có năm pháp như vầy, xa lìa các bạn lành, chư Phật xuất thế dù chỉ trong khoảng sát-na cũng không thể gặp, sức thiện căn đã được tích tập cũng đều bị phá hoại, không thể theo học với các Đại Bồ-tát trì giới, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Năm pháp đó là gì?
1. Do suy nghĩ tà vạy cho nên phá các tịnh giới.
2. Do không tin nên hủy báng chánh pháp.
3. Đắm trước lợi dưỡng và thích danh tiếng.
4. Chấp trước ngã kiến vào các hiểm nạn.
5. Hay sinh tật đố đối với hạnh thiện của người khác.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát xuất gia đủ năm pháp như vậy nên xa lìa bạn lành, không thể gặp Phật xuất thế. Nói tóm lại, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Vì nghĩa đó, cho nên giống như chó đói ốm o tiều tụy, da dính liền xương, bỗng thấy xương khô liền sinh tưởng muốn ăn. Tưởng thế, nó ngoạm lấy khúc xương khô đó mang đến chỗ vắng, ra sức liếm gặm, gặm đến nổi miệng bị tổn thương, máu chảy lên khúc xương, nhưng nó không biết đó là máu của mình mà cứ vọng sinh ham thích, muốn “ăn” no nê nhưng không thể được. Lúc đó, có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ từ xa đi đến, thấy con chó đói này đang gặm xương khô liền than thở. Thấy những người này đến, con chó đói tự suy nghĩ: “Các người kia đến nhất định cướp mất thức ăn ngon của ta”. Nghĩ thế, nó liền sủa dữ tợn, mắt nhìn lườm lườm, nhe răng hừ hừ.
Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Khi thấy khúc xương khô không có máu thịt gì, các người kia có cướp đoạt không?
Xá-lợi Tử thưa:
– Dạ không, thưa Thế Tôn! Dạ không, thưa Thiện Thệ!
Đức Phật hỏi:
– Này Xá-lợi Tử! Như vậy thì tại sao con chó kia lại khởi tưởng như thế?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Là vì con chó quá đói, nên gặp xương khô nó coi như là vị cam lồ, vọng sinh tham ái, nên sủa dữ tợn, mắt nhìn lườm lườm, nhe răng hừ hừ, sợ các người kia đến cướp khúc xương. Đức Phật hỏi:
– Này Xá-lợi Tử! Như sau khi ta diệt độ, có các Bí-sô đối với các chủng tộc, cho đến tiện lợi bất tịnh, tâm sinh đắm trước, bị nó trói buộc. Hành tướng như vậy, trong khoảng sát-na muốn thành tựu Phật sự cũng không thể được. Ta cho rằng, các Bí-sô ở trong pháp Phật cũng như con chó đói kia, nên bị Như Lai quở trách. Nếu các hữu tình thấy hành tướng của các Bí-sô này cũng lại hủy báng cũng như con chó đói kia.
Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát làm lợi lạc tất cả hữu tình, cầu trí tuệ Phật, chính thân mạng mình còn xả bỏ, huống nữa đối với thiện nghiệp của người khác mà lại sinh ganh ghét.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thế gian có người ngu si, vì mạng sống nên ham thích tiền tài châu báu, ăn uống, thân làm nô bộc, bị trói buộc sai khiến, xua đuổi; đối với dòng họ người khác lại cuồng vọng thân cận, là vì tham cầu sinh ra ganh ghét người khác.
Này Xá-lợi Tử! Như Bí-sô kia vì tham lợi dưỡng ở nơi dòng họ ấy, trước thấy người khác đến lại sinh tâm gánh ghét, nói với người đến sau rằng: “Ta ở đây đã lâu, các ngươi từ đâu đến đây? Các trưởng giả trong dòng họ này trước đã phát nguyện cung phụng mọi thứ y phục, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc thang quyết định cho ta”. Rồi lại nói tiếp: “Các ngươi là người đến sau thì làm sao mà có được”. Nhân đó, vị Bí-sô kia phát sinh ba thứ lỗi lầm:
1. Đắm trước chỗ ở.
2. Không thích ở chỗ cũ.
3. Có thể hiểu rõ pháp thế gian nhưng không biết gì về pháp xuất thế gian.
Lại nữa, các Bí-sô này ở trong dòng họ trưởng giả không thích ở yên. Các Bí-sô này lại nói: “Trụ xứ có ba. Một là ham thích xứ trụ. Hai là hòa hợp xứ trụ. Ba là như thật xứ trụ”. Đã thế, còn nói với các trưởng giả rằng: “Trưởng giả các ông mắc phải nhiều sai lầm, nên phải hết lòng sinh cung kính ta, xưng dương tán thán pháp của ta”.
Này Xá-lợi Tử! Do dòng họ này hay sinh ganh ghét đối với pháp thanh tịnh, nên đều bị giảm mất. Này Xá-lợi Tử! Lại có dòng họ sinh ganh ghét hư vọng không thật, hoặc có người trì giới hay không trì giới, đối với Đại Bồ-tát thảy đều xa lìa không chịu theo học. Thí dụ như vậy phải nên biết rõ.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ vô lượng vô biên rộng lớn a-tăng-kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Phật ra đời hiệu là Thắng Cao Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ thế chín mươi câu-chi năm. Trong hội Phật ấy có chín mươi na-do-đa đại chúng Thanh văn, đều là A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, hoàn tất việc lợi mình, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Lúc đó, có trưởng giả tên là Thiện Tập, của cải giàu có, quyến thuộc đông nhiều, tiền tài châu báu sung túc, đầy đủ các món như kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, thọ dụng không hết. Lại có nô tỳ hầu hạ, voi ngựa, xe cộ và các kho báu chứa đầy tràn. Lúc đó, trưởng giả sinh được hai người con, người con đầu tên là Tịnh Trụ, con thứ hai tên là Tịnh Trì, diện mạo đoan chánh, thân tướng đầy đủ, ai nấy cũng thích ngắm nhìn. Hôm nọ chúng chạy nhảy chơi giỡn trên lầu gác lớn.
Khi ấy, Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Buổi sáng hôm ấy, Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, mặc y cầm bát cùng đại chúng Bí-sô trước sau vây quanh vào đại thành lần lượt khất thực. Tướng Đức Phật rực rỡ sáng như núi vàng, lại như cờ vàng to lớn rực rỡ tối thượng đệ nhất, trụ hạnh Xa-ma-tha, các căn ẩn mật. Cũng như long tượng thanh tịnh hết sức vi diệu, như ao hồ lớn lìa các nhơ bẩn, lại như biển lớn đầy cả châu báu, như chúa trời Đế Thích có chư Thiên vây quanh; như Đại phạm Thiên vương trang nghiêm tịch tĩnh, đầy đủ thanh tịnh, tâm ý điều hòa, các căn vắng lặng. Lúc đó, hai người con này thấy Đức Thắng Cao Như Lai, Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-bồ-đà, thấy thế khen ngợi rồi từ xa đi đến. Đức Phật thân tướng tốt đẹp vô lượng vô biên, viên mãn đầy đủ, hai người con này chiêm ngưỡng Thế Tôn tâm không nhàm chán.
Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịch Trụ thuở xưa đã từng diện kiến Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên mới nói với đồng tử Tịnh Trì:
– Thuở xưa em đã từng thấy Đức Như Lai Thắng Cao chưa? Công đức của Đức Phật này không có cùng tận, Ngài là cha lành của tất cả hữu tình.
Lúc đó, đồng tử Tịnh Trì nói:
– Thuở xưa em chưa từng thấy Đức Phật này, tướng tốt của Thế Tôn đầy đủ, oai đức đặc biệt.
Đồng tử Tịnh Trụ nói:
– Thuở xưa anh đã từng thấy Đức Như Lai Thắng Cao, anh nguyện đương lai cũng giống như Đức Phật này không khác.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó đồng tử Tịnh Trụ nói kệ rằng:
Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Có các chúng Bí-sô vây quanh
Nếu con được giống tướng Như Lai
Được gọi Bậc Tối Thượng như vậy.
Nay con cúng dường thức ăn uống
Vì muốn cầu Bồ-đề vô thượng
Nhà cửa sở hữu đều vứt bỏ
Con nguyện đương lai thành Chánh giác.
Ví như các sao, trăng sáng nhất
Ai người thấy rồi không mát mẻ
Trong chúng hữu tình Phật hơn hết
Ai không bỏ nhà cầu xuất gia.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đồng tử Tịnh Trì nghe kệ này rồi, lại nói kệ rằng:
Nay anh chớ nói lời như vậy
Cũng chớ lớn tiếng báo bốn phương
Anh nghe lời chân thật của em
Làm sao mau chóng được Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịnh Trụ nghe kệ này rồi lại nói kệ rằng:
Nếu em không ham thích đạo này
Thì chớ có khởi tâm ganh ghét
Nay anh nói ra lời tốt này
Nhờ đó nên được đạo Bồ-đề.
Em đối tài bảo của thế gian
Cũng chớ có sinh tâm keo kiệt
Chính thân mạng này anh còn xả
Thế nên nói cho em biết rõ
Cho em mọi thứ các nhà cửa
Cho đến tất cả các châu báu
Nay anh đi đến nơi chỗ Phật
Xuất gia mong thọ ký Bồ-đề.
Ba mươi hai tướng đẹp thù thắng
Ai người thấy rồi không ham thích
Bồ-đề vô thượng ai không hành
Đừng nên sinh lòng thấy kém cỏi
Anh đối của báu và nhà cửa
Cha mẹ, quyến thuộc, các bạn bè
Mọi thứ như thế anh đều xả
Vì cần đi đến nơi chỗ Phật.
Giả sử trong câu-chi ngàn kiếp
Nghe Phật xuất thế rất khó được
Phật là ánh sáng của thế gian
Người gặp ánh sáng Phật càng khó.
Phật đến Vương thành đi hóa độ
Đại chúng Bí-sô đều vây quanh
Cũng như trời trong trắng sáng tỏ
Chiếu soi khắp tất cả thế gian,
Lại như xuất hiện ngàn mặt trời
Bốn phía nẻo đường đều sáng tỏ
Phật đang hóa độ ở trong thành
Phóng ánh sáng khắp cũng như vậy.
Ví như Tu-di chúa các núi
Cũng như xuất hiện báu thù diệu
Phật ở trong đại chúng Bí-sô
Thanh tịnh tôn nghiêm cũng như vậy.
Ánh sáng rực rỡ đại oai đức
Chiếu sáng tất cả các hữu tình
Như Lai thù thắng Đấng Lưỡng Túc
Các sắc tướng viên mãn như vậy.
Phật vào Vương thành đang hóa độ
Hiển hiện vô lượng đại oai thần
Chư Thiên, Long thần và hữu tình
Người thấy ham thích đều cung kính,
Ba mươi hai tướng đẹp thù thắng
Thấy rồi ai không cầu chánh pháp
Nếu ai thích tu tập Tiểu thừa
Là kẻ ngu phu thấy yếu kém.
Anh thấy vô thượng Nhân Trung Tôn
Tướng tốt đoan nghiêm rất hiếm có
Nay đều đến chỗ Thiện Thệ Tôn
Vì cầu đạo Bồ-đề vô thượng.
Này Xá-lợi Tử! Khi nghe kệ này rồi, đồng tử Tịnh Trì lại nói kệ rằng:
Em không ham thích nơi Tiểu thừa
Cũng muốn đi đến nơi chỗ Phật
Nay ở trong lầu gác lớn này
Thề nguyện nhảy xuống bỏ thân mạng
Em lại tưởng thân này hư huyễn
Đối thân mạng này nên vứt bỏ
Vì cầu đại trí tuệ vô thượng
Cũng nên đi đến nơi chỗ Phật
Cha mẹ ân ái rất là nặng
Nhà cửa tài vật các cảnh dục
Tất cả em đều muốn xả bỏ
Thệ sẽ đi đến nơi chỗ Phật
Nếu em nguyện được như Thế Tôn
Mong Phật khen ngợi vì nhiếp thọ
Vứt bỏ tất cả sở hữu rồi
Theo Phật xuất gia làm đệ tử.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, đồng tử Tịnh Trụ từ trên lầu gác thong thả đi xuống, tức thời liền đến chỗ của Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đồng thời, đồng tử Tịnh Trì ở trong lầu gác phát tâm dũng mãnh, không tiếc thân mạng, từ trên lầu cao nhảy xuống, do tinh tấn như thế cho nên trước đã đến chỗ Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịnh Trụ đến chỗ Phật rồi, đem pháp phục tối thượng vi diệu giá trị bằng một câu-chi số vàng ở Diêm-phù-đàn dâng cúng Như Lai, rồi nói kệ rằng:
Nay con cúng pháp phục vi diệu
Không cầu các sắc tướng đoan nghiêm
Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Tối thượng tối tôn xưng đệ nhất,
Đầy đủ thanh tịnh đại trí tuệ
Nên khéo an trụ sức tinh tấn
Trang nghiêm ba mươi hai tướng đẹp
Nguyện được quả như Đấng Lưỡng Túc.
Lại được thành tựu mười Trí lực
Bốn Vô sở úy khéo an trụ
Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Tối thượng tối tôn xưng đệ nhất.
Con nguyện sống trong chánh pháp Phật
Như Phật an trụ trong ánh sáng
Diễn nói các pháp thí hữu tình
Khiến hết tất cả đều giác ngộ.
Nay con cúng pháp phục tối thượng
Không cầu các sắc tướng đoan nghiêm
Nguyện cầu đại Bồ-đề thanh tịnh
Nguyện độ vô biên chúng trời người.
Con nguyện cúng pháp phục thượng diệu
Vì cầu tuệ vô thượng Như Lai
An trụ chánh pháp môn không hai
Nhiếp phục tất cả các ngoại đạo.
Lại nguyện lợi lạc các hữu tình
Đều khiến xa lìa tham sân si
Vô minh, ái, hữu thảy đều trừ
Đạt được pháp vô vi cam lồ.
Lại nói pháp thanh tịnh Như Lai
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Khiến xa lìa sinh, già, bệnh, chết
Và diệt buồn rầu các khổ não.
Lại nguyện nói pháp lợi tất cả
Hàng trời, rồng, nhân và phi nhân
Có tưởng, không tưởng các hữu tình
Tự giác, giác tha đều cung kính.
Con nguyện an trụ các cõi Phật
Phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương
Trong chỗ tối tăm và nóng bức
Rưới vị cam lồ được mát mẻ.
Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới
Đều khiến tất cả không đắm trước
Xa lìa tất cả cảnh yêu ghét
Luôn nói pháp thanh tịnh Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Khi đồng tử Tịnh Trì đến chỗ Phật rồi, lại dâng cúng dép vi diệu tối thượng lên Đức Thế Tôn một cách ân cần rồi nói kệ rằng:
Con nguyện như Phật Chúng Trung Tôn
Như nhà cửa lớn làm cứu hộ
Khiến các hữu tình lìa nẻo ác
Lại hay diễn nói đạo chân chánh.
Tất cả ái dục ở thế gian
Đó là ngu phu cảnh giới thô
Tất cả hữu vi đều xa lìa
Nguyện Phật xuất thế thường được gặp.
Thấy ánh sáng Phật chiếu thế gian
Phát tâm cúng dường Đấng Lưỡng Túc
Vì lợi tất cả các hữu tình
Thệ cầu quả Bồ-đề vô thượng.
Lại dùng các hương hoa tối thắng
Các loại tràng phan và bảo cái
Vì lợi tất cả các hữu tình
Dâng lên cúng dường Đấng Đại Giác,
Y phục thượng diệu và ăn uống
Giường, mền, ngọa cụ các thuốc thang
Vì lợi tất cả chúng hữu tình
Dâng lên cúng dường Đức Như Lai.
Lại đem trống và các nhạc cụ
Ca vịnh tán thán tiếng vi diệu
Vì lợi tất cả các hữu tình
Cúng dường đấng Xuất Thế rạng ngời.
Lại đem ngọc trân các món ngon
Là vị tối thượng trong thế gian
Vì lợi tất cả các hữu tình
Nguyện dâng cúng dường Phật Thế Tôn.
Cúng dường rộng lớn như vậy rồi
Mong cầu xuất gia theo Như Lai
Vì lợi tất cả các hữu tình
Thề làm tất cả hạnh thanh tịnh.
Nguyện cho tất cả loài hữu tình
Không sinh vào tà đạo huyễn hoặc
Đều khiến câu-chi số hữu tình
An ổn trụ vào tám đường chánh.
Con nguyện không sinh vào Dục giới
Biên địa thấp kém chỗ nhàm chán
Xa lìa tất cả biếng nhác rồi
Thường được thân cận Bậc Tinh Tấn.
Lại nguyện không sinh các nẻo ác
Thường nguyện sinh vào dòng tín tâm
Sinh rồi nên phát tâm tối thượng
Nguyện thấy Như Lai thường thân cận.
Thấy rồi phát tâm thanh tịnh này
Và đem tràng hoa các hương xoa
Cúng dường các thứ trống kỹ nhạc
Nên cầu thắng giải lợi tất cả.
Nguyện ở trong nhiều câu-chi kiếp
Thường khởi việc cúng dường rộng lớn
Xuất gia xa lìa các cảnh dục
Sẽ làm tất cả hạnh thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Hai đồng tử này ở chỗ Đức Thắng Cao Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác dùng các thứ kỹ nhạc, kệ, ca, vịnh, tán thán cúng dường Phật rồi, ở ngay nơi đó phát tâm thanh tịnh, dùng Chiên-đàn đỏ xây cất tinh xá, ngang dọc bốn du-thiện-na, cao nửa du-thiện-na, xây dựng xong dâng cúng Thế Tôn và thưa: “Cúi xin Như Lai thương xót thọ nhận”.
Hai đồng tử này ở chỗ Thắng Cao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khuyến thỉnh Thế Tôn bằng kệ rằng:
Thỉnh Phật an trụ tinh xá con
Chư Phật quá khứ đã xưng tán
Nay con cúng với tâm thanh tịnh
Xin Phật thương xót thân nạp thọ.
Nếu Phật thường ở tinh xá con
Biết rõ câu-chi số hữu tình
Quá, hiện, vị lai tâm ba đời
Con nguyện đương lai cũng như vậy.
Phật nương tinh xá đến bờ giác
Đạt được chánh đoạn và thần túc
Bốn thứ thắng hạnh đều biết rõ
Con cúng tinh xá cũng như vậy.
Cúi xin Thắng Cao Như Lai Phật
Cùng với tất cả chúng Bí-sô
Nhận tinh xá này trong nửa tháng
Cúng dường tôn trọng thường cung kính.
Nay con ở chỗ Đức Như Lai
Thân cận cung kính cúng dường rồi
Phát tâm tịnh tín cầu xuất gia
Cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục.
Bỏ nhà xuất gia như vậy rồi
Đối các lợi lạc mong cầu khắp
Nên thường tu tập thiện tương ưng
Ham thích pháp chân thật như vậy.
Khi hai đồng tử nói kệ này rồi, đồng tử Tịnh Trụ bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con nguyện đương lai mau chóng thành Chánh giác, phóng ánh sáng lớn như Phật Thế Tôn không khác.
Đồng tử Tịnh Trì lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con nguyện sẽ làm vị đạo sư ở nơi các đường ác hiểm nạn.
Này Xá-lợi Tử! Khi ấy, đồng tử Tịnh Trì đứng qua một bên ở trước chỗ Đức Thắng Cao Như Lai, cung kính chắp tay phát thệ: “Đối với giáo pháp của Đức Phật, con nguyện không có ngồi nằm, thường lìa ngủ nghỉ, vì lợi hữu tình, cầu đạo vô thượng, luôn luôn xa lìa tất cả biếng nhác, thà vứt bỏ tất cả thân mạng; dù máu, thịt, gân, da có khô cằn đi chăng nữa cũng lại xa lìa tất cả biếng nhác, nên phát tinh tấn dũng mãnh to lớn, cầu đạo Bồđề”.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Đại Bồ-tát Tịnh Trụ vì Đại Bồ-tát Tịnh Trì mà nói kệ rằng:
Anh cùng em phát tâm bình đẳng
Tu hành hạnh Bồ-đề vô thượng
Nay anh cũng phát sức tinh tấn
Vì lợi tất cả các hữu tình,
Xa lìa các dục và thân mạng
Máu thịt khô cằn vẫn tinh tấn
Nguyện trong ngàn kiếp cố tu tập
Tinh tấn chí vui đạo Bồ-đề,
Thường nghĩ an trụ nơi đồng trống
Và thích núi rừng chỗ vắng lặng
Vì cầu vô thượng đại trí tuệ
Được tự tại trong pháp thanh tịnh.
Này Xá-lợi Tử! Trong một ngàn năm, Bồ-tát Tịnh Trì chưa có giây phút nào ngủ nghỉ và cũng chưa có giây phút nào biếng nhác, huống là có mộng tưởng. Lại nữa, trong ngàn năm Bồ-tát Tịnh Trì chưa có khi nào ngồi, trừ những lúc tiện lợi, cho đến chỉ trong một khoảng khảy móng tay cũng không quỳ gối, huống nữa là ngồi nằm. Trong một ngàn năm, hễ đến giờ ăn thì Bồ-tát cầm bát đi khất thực, đối với người cúng dường cũng không nhìn xem là nam hay nữ, là bé trai hay bé gái, hóa độ lợi ích hữu tình, tâm hành bình đẳng, khất thực rồi trở về chỗ cũ Tam quán thế gian rồi sau mới ăn, ăn rồi không ăn phi thời, không sinh một niệm tưởng đói khát, cho đến không sinh ý tưởng phân biệt ngon dở, tốt xấu. Lại trong một ngàn năm, nếu không phải thời thì không đi khất thực. Trong một ngàn năm, Bồ-tát ở dưới gốc cây, nhất tâm tinh tấn cầu đạo Bồ-đề, cũng không nhìn xem cây đó là cây gì. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát đều mặc pháp phục, chưa từng có thay đổi. Lại trong một ngàn năm, đối với các dục, Bồ-tát không khởi lên tầm từ, đối với các tổn hại cũng lại như vậy. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy đối với cha, mẹ, anh, chị, em và quyến thuộc của mình, đối với ngày tháng cũng chưa từng khởi một niệm tầm từ. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng có một niệm ham thích ở nhà cửa. Lại trong một ngàn năm, Bồtát ấy chưa từng khởi một niệm ngắm nhìn mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng dựa tường, vách mà sống. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng xoa dầu thơm vào thân. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát đối với tự thân chưa từng khởi một niệm biếng nhác. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng khởi một niệm mệt mỏi. Lại trong một ngàn năm, cho đến dầu sữa, Bồ-tát ấy cũng không thọ nhận, chỉ thích nhất tâm, tinh tấn, cầu chứng Chánh đẳng Chánh giác. Lại trong một ngàn năm, đối với thân tâm Bồ-tát cũng không mệt mỏi biếng nhác. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát tu hạnh tinh tấn, không khởi một niệm cạo bỏ râu tóc. Lúc đó, bốn đại Thiên vương đến ở trên đảnh dùng tay rờ lên đảnh tóc tự rụng. Bốn Thiên vương lại đem tóc ấy đến nơi đất thanh tịnh xây tháp phụng thờ. Lại trong một ngàn năm, bốn đại Thiên vương biết Bồ-tát ấy luôn luôn thành tựu việc thiện. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy nếu gặp lúc thời tiết nóng nhưng vẫn nhẫn chịu không thích núp dưới bóng mát. Lại trong một ngàn năm nếu gặp lúc lạnh, Bồ-tát ấy cũng không dùng y đắp thân. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy cũng lại không thích nói năng bàn luận với hữu tình thế gian.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó có ma vương bỗng nhiên xuất hiện, tên là Si niệm. Lúc đó, ma vương Si niệm sai các ma Ba-tuần vì hai Bồ-tát Tịnh Trụ, Tịnh Trì tạo ra rừng kiếm và cầu đường kiếm. Lúc đó, ma vương và Ba-tuần tới lui cuồng loạn rồi lớn tiếng nói: “Nay ta tạo ra rừng kiếm này”.
Khi ma nói lời này, trong tam thiên đại thiên thế giới, trên đến cung ma, dưới thấu địa giới, có trăm ngàn câu-chi ma vương Ba-tuần, chư Thiên quyến thuộc đều nghe tiếng đó, nên cùng đến tập hội, cũng sinh khủng bố, muốn mưu hại nhau.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Bồ-tát nhất tâm tinh tấn an trụ không lay động.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi ấy Đại Bồ-tát Tịnh Trì ở nơi rừng kiếm cầu đường, cũng không kinh hành, tâm không tùy thuận. Lúc đó, chư thiên ma thét lên tiếng đại ác để khủng bố nhiễu não Bồ-tát, nhưng hai Bồ-tát Tịnh Trì và Tịnh Trụ đều không nghe biết. Lại ở trong hư không chư thiên tán thán như vầy: “Hai Bồ-tát có thể thực hành chánh hạnh đầy đủ như vậy, đại Bi như vậy, dũng mãnh như vậy, trong một ngàn năm hai Bồ-tát này chỉ chuyên chú tưởng Phật”.
Khi ấy, Đức Thắng Cao Như Lai hóa độ đã xong, nhập vào Niết-bàn. Trên hư không, chư Thiên thấy sau khi Như Lai Niết-bàn mới bảo:
– Này thiện nam! Đức Thắng Cao Như Lai đã Niết-bàn rồi.
Nghe lời ấy rồi, hai Bồ-tát liền đến chỗ Đức Thắng Cao Như Lai Niết-bàn, sắp xếp giường ghế, đến rồi chắp tay cung kính đứng qua một bên. Do lòng thương nhớ, nên hai Bồ-tát nhớ nghĩ Như Lai trong bảy ngày mắt không tạm rời, tôn trọng tán thán. Lúc đó, hai Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh, thực hành hạnh Bồ-tát, lợi lạc hữu tình, như vác gánh nặng. Ngay khi ấy, hai Bồ-tát đứng trước Phật như vào Niết-bàn, sinh lên Phạm thế. Sinh Phạm thế rồi trở lại tháp của Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong bốn vạn năm, nhiễu quanh lễ bái phát tâm cúng dường. Lại trong bảy vạn năm cầm các loại tràng phan, bảo cái cung kính cúng dường. Lại dùng các món đồ ăn, thức thuốc, hương hoa vi diệu tối thượng cúng dường tháp miếu. Khi tuổi thọ của hai Bồ-tát ở Phạm thiên đã hết, lại hạ sinh xuống Diêm-phù-đề trong dòng Chuyển luân vương thù thắng, sinh được trí túc mạng. Khi hai Bồ-tát sinh rồi lại nói với nhau: “Phải nên siêng năng tu tập, chớ sinh buông lung”.
Khi ấy Bồ-tát nói kệ rằng:
Chúng ta sinh vào dòng vua chúa
Được đại thần thông khỏi các nạn
Nên nguyện thường hành chớ buông lung
Thân cận đại Bồ-đề vô thượng,
Tôn quý giàu sang các dục lạc
Là pháp chóng mục không thể tin
Người trí nên biết rõ như thế
Mong cầu đại Bồ-đề tối thượng.
Nếu người cầu đạo Bồ-đề này
Nên bỏ giàu có các dục lạc
Vì lợi hữu tình cầu xuất gia
Tu trì hạnh thanh tịnh tối thượng.
Thuở xưa con trong vô lượng kiếp
Cùng các hữu tình nhiều tham cầu
Đối năm dục lạc rất hừng hẩy
Cho rằng thọ dụng thường không đủ.
Nay con giác ngộ các dục lạc
Tôn quý giàu có và quyến thuộc
Thảy đều xả bỏ thệ xuất gia
Tinh tấn vì cầu đạo Bồ-đề.
Con xưa đến năm mười sáu tuổi
Rời nhà xuất gia cầu xuất ly
Cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục
Trong ngàn năm thực hành phạm hạnh,
Cũng lại đồng thời đều nhập diệt
Rồi lại vãng sinh trời Phạm thế
Sau khi tuổi thọ Phạm thế hết
Sinh dòng thù thắng Diêm-phù-đề.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó lại có Đức Phật ra đời hiệu là Tối Thượng Dũng Mãnh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Hai Bồ-tát ấy đến chỗ của Đức Phật này, thân cận cúng dường, tôn trọng tán thán, phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thường mặc pháp phục, trong câu-chi kiếp tu hành phạm hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Hai Bồ-tát ấy ở trong vô lượng đời đã từng gặp trăm ngàn chư Phật, thân cận cúng dường, ở mỗi chỗ Đức Phật đều tu phạm hạnh đầy đủ, tôn trọng, tán thán, cung kính cúng dường.
Này Xá-lợi Tử! Từ đó về sau, Bồ-tát Tịnh Trì thành quả Chánh đẳng Chánh giác trước hết, hiệu là Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ thế chín mươi câu-chi năm, có chín mươi câu-chi nado-đa đại chúng Thanh văn đều đến tập hội.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bồ-tát Tịnh Trụ làm Chuyển luân thánh vương trong thời đức Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai, ở chỗ Đức Phật ấy tôn trọng tán thán, lại dùng y phục tối thượng vi diệu, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc thang, các món cúng dường cho Đức Phật và chúng Bí-sô ấy trong ba tháng.
Này Xá-lợi Tử! Lúc Chuyển luân thánh vương cúng dường rồi, Đức Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, muốn Chuyển luân thánh vương sinh đại giác ngộ, nên nói kệ rằng:
Nếu hành hạnh tinh tấn tối thượng
Luôn luôn mong cầu pháp của Phật
Nếu các hữu tình đắm dục lạc
Tất cả nghĩa lợi rất khó được.
Nếu không xa lìa các dục lạc
Thì tổn tự lợi và lợi tha
Điều này phải gấp nên trừ bỏ
Mà cầu các pháp Phật tối thượng.
Nay ta khiến ngươi cũng như vậy
Thuở xưa đã từng bỏ quyến thuộc
Và phát đại thệ nguyện vô biên
Chóng cầu thành tựu quả Bồ-đề.
Ngươi đã thấy ta thành Phật đạo
Trong vườn Lộc giả chuyển pháp luân
Nếu còn sinh đắm trước các dục
Thì không thể chóng thành Bồ-đề.
Chư Phật đều nói lìa các dục
Đối pháp phóng dật không sinh lại
Người trí khéo tin theo điều đó
Thì hay xa lìa các nghiệp chướng.
Ngươi còn gánh nặng đối ác tuệ
Pháp không nghĩa lợi sao an trụ
Nếu không giác ngộ được các dục
Phật nói đều là nhân các khổ.
Khi Đức Thế Tôn ấy nói kệ rồi, Chuyển luân thánh vương sinh đại giác ngộ, liền xả bỏ tất cả đất nước, vợ, con, cha, mẹ, quyến thuộc, đại thần, nô tỳ, các nước ấp nhỏ, tất cả thứ dân, tiền tài châu báu, kho tàng ở thế gian, đứng trước Phật nói kệ rằng:
Giả sử thịt thân đều khô cằn
Cho đến chết bỏ ngoài đồng hoang
Thề bỏ đất nước các cung điện
Mong cầu Phật Bồ-đề tối thượng.
Lại nữa phát khởi đại tinh tấn
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Ở nơi đồng hoang rất xa xăm
Bỏ nhà xuất gia thích tu hành.
Vĩnh viễn xả bỏ các dục lạc
Xa lìa tội nghiệp và si mê
Nếu còn chấp trước nơi các nhiễm
Thì là trái với đạo Bồ-đề.
Tất cả các dục và vương vị
Thệ nguyện vứt bỏ hết tất cả
Con đối với giáo pháp Thế Tôn
Nguyện thích xuất gia hành chánh hạnh.
Người trí xa lìa các cảnh dục
Chí thích tu hành đạo Bồ-đề
Nên phát tâm tinh tấn dũng mãnh
Nếu đắm tạp nhiễm trái Phật đạo.
Nay con đối với các cảnh dục
Vương vị dục lạc đã vứt bỏ
Khát ngưỡng pháp Phật cầu xuất ly
Tinh tấn nguyện mau thành Bồ-đề.
Khi Chuyển luân thánh vương nói kệ rồi, ở chỗ Đức Phật ấy thân cận cúng dường, phát lòng kính tín, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc thường mặc pháp phục. Vua xuất gia rồi, đồng thời lại có sáu mươi trăm ngàn câu-chi na-do-tha người cũng phát lòng kính tín, bỏ nhà xuất gia. Khi ấy, Đức Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn hóa độ đã xong, liền nhập Bát-niết-bàn. Thấy Phật diệt độ, Chuyển luân thánh vương buồn rầu áo não, gom lấy xá-lợi phụng thờ cúng dường, cúng dường rồi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu-suất-đà. Khi thọ mạng ở cõi đó hết lại hạ sinh vào cõi Diêm-phù-đề. Lúc đó mới được thành Phật hiệu là Thiện Hạnh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ thế một câu-chi năm, lại có câuchi na-do-đa đại chúng Thanh văn đến tập hội, đều là đại A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, hoàn tất việc lợi mình, tâm được tự tại, đã đến bờ giác ngộ. Lại có mười vạn chúng Đại Bồ-tát, không còn thoái chuyển, trụ địa không thoái, thệ cầu Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật ấy nói pháp giáo hóa vô lượng a-tăng-kỳ hữu tình, làm các việc thiện lợi rồi mới vào Bát-niết-bàn. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp tồn tại ở thế gian mãn một kiếp, rồi sau đó mới phân bố Xá-lợi Phật, cung kính cúng dường, cũng như sau khi ta diệt độ phân bố xá-lợi không khác.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát Tịnh Trụ thực hành hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa của Bồ-tát, thường luôn theo học không có biếng nhác mệt mỏi. Do thuở xưa dựa vào một loại tạo ra kho báu, hữu tình lại khởi lên ganh ghét.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi cầu đại Bồ- đề mà lại khởi lên ganh ghét dòng họ người khác, nên biết, lúc đó có ba thứ sợ:
1. ở chỗ phi lý mà đi khất thực.
2. Điều không nên nói mà lại cùng nhau nói.
3. Thấy các Bí-sô khác lại sinh ganh ghét. Do ba điều này cho nên càng tăng trưởng lỗi lầm ganh ghét. Vì lý do đó cho nên ở trong địa ngục coi như là nhà của mình. Như vậy, đối với người hành tinh tấn, cũng như người mù đối với các hiểm nạn biến địa, thọ sinh tà kiến, bị nó nhiếp thọ.
Này Xá-lợi Tử! Lại thấy các Bí-sô khác tâm sinh giận dữ không muốn nhìn, khởi tâm ganh ghét, khiến người khác phải nổi giận tranh cãi, nổi lên tướng cực ác, nói lời thô lỗ. Vì lý do đó, nên đọa vào địa ngục như nhà của mình, từ đó thọ sinh kiến lập chủng tử. Dẫu được thân người, nhưng lại sinh ra các hiểm nạn biên địa tà kiến, bị nó nhiếp thọ, tâm không thương xót, thích gây nhiều tổn hại, dối trá với người khác rất thích tùy thuận.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với chủng tộc khác sinh ra ganh ghét, thì nên nhớ nghĩ ba thứ sợ hãi như vậy.
Đức Thế Tôn vừa nói xong, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Thật hy hữu! Thưa Thế Tôn! Đại Bồ-tát mới có thể lắng nghe hành tướng của Đức Như Lai như vậy, đối với dòng họ người khác không sinh ganh ghét, đạt thiện lợi lớn nên được xuất ly.
Xá-lợi Tử nói tiếp:
– Hay thay! Thưa Thế Tôn! Các chúng Thanh văn chúng con cũng thích muốn nghe pháp yếu này. Thưa Thế Tôn! Làm thế nào để khỏi sinh ganh ghét đối với dòng họ người khác, mà được xuất ly và giải thoát địa ngục, các đường ác hiểm nạn tối tăm?
Đức Phật dạy:
– Này Xá-lợi Tử! Do không có nhân duyên nên không nói việc này.
Xá-lợi Tử thưa:
– Thưa Thế Tôn! Chúng con làm thế nào để lìa mọi phỉ báng, không sinh tà kiến, thường sinh giữa thành phố, thấy Phật nghe pháp, tu hạnh Thanh văn?
Xá-lợi Tử vừa thưa xong, Đức Phật dạy:
– Hay thay, hay thay! Này Xá-lợi Tử! Ông có thể hỏi Như Lai về pháp nghĩa như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Nếu các hữu tình thích học tập theo các điển tích của ngoại đạo thế gian, thì không nên nói cho họ. Nếu hữu tình cung kính tin hiểu pháp Phật, chí thích tu học thì nên nói cho họ. Vì sao? Vì nếu người không xa lìa điển tích ngoại đạo thế tục, mà ta đem diễn nói thì đó là nền móng của đấu tranh, là nạn của Phật pháp.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tin hiểu kiên cố, không sinh buông lung, trong nhiều kiếp tầm từ quán sát, tâm sinh cứu hộ các loài hữu tình, thì mới có khả năng đến chỗ Như Lai thưa hỏi pháp nghĩa, nghe pháp này rồi, vui thích hoan hỷ, như thuyết tu hành.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu các hữu tình tinh tấn yếu kém mà cầu Niết-bàn thì thật là khó, trái lại càng tăng thêm ba thứ lỗi lầm. Đó là lợi dưỡng, tôn trọng, danh xưng, nhưng lại ham thích bạn bè chủng tộc và các quyến thuộc, để tự nuôi sống nên thường tham cầu làm lợi bất nghĩa. Do ba việc này cho nên thường tìm cầu, không thể thoát khỏi ba đường ác. Vì tinh tấn yếu kém, nên đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diệm-ma-la giới, chướng ngại đường sinh Thiên, lại ở trong đường ngạ quỷ, thường sinh đấu tranh.
Này Xá-lợi Tử! Các hữu tình ấy không tin thọ các thiện pháp, lại thân cận các bạn ác, không ham thích sống chỗ vắng lặng, nhưng lại thích sống nhà bạch y. Nghe các trưởng giả nói lời như vầy:
– Nếu các vị sống ở đây, tôi xin cung cấp các món ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, thân cận cúng dường.
Lúc đó, các Bí-sô trao đổi với các trưởng giả:
– Nếu chúng ta ở đồng hoang, thì ai thân cận nay ta nên mến mộ cung kính các vị.
Các Bí-sô nhân đó càng sinh tham trước ở nhà bạch y. Ở được thời gian lâu, cùng với chủng tộc và dòng họ, sinh tham ái lẫn nhau. Bỗng nhiên có Bí-sô khác từ phương xa đến vào nơi dòng ấy. Lúc đó, các Bí-sô cũ do vì tham trước, sinh ra ganh ghét nói với Bí-sô mới đến:
– Ta vốn thanh tịnh, đa văn, đã chứng Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.
Các Bí-sô cũ buông ra những lời ác dối trá hư vọng như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó các Bí-sô khác cũng nói như vầy:
– Tôi nay không cần ở lâu trong nhà bạch y này. Các Bí-sô cũ cùng nhau ganh ghét làm lợi bất nghĩa.
Này Xá-lợi Tử! Lại có một hạng người đối với pháp Đại thừa buông lời gian ác, cạnh tranh lẫn nhau, hủy báng hành tướng như thật của các Khế kinh.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu ai đối với Khế kinh, thanh, danh, cú, văn, chánh pháp của Như Lai nói ra mà tạm thời nghe rồi đều được hiểu biết thù thắng, còn đối với hữu tình mà sinh hủy báng, hành tướng như vậy nhất định đọa vào đường ác.
Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, đối với Đại Bồ-tát tinh tấn không thoái chuyển mà sinh oán ghét, hành tướng như vậy cũng đọa đường ác.
Khi nghe Đức Thế Tôn nói như thế, Xá-lợi Tử và các hữu tình không sinh ganh ghét đối với người làm thiện.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy đối với Tinh tấn ba-la-mật-đa, thực hành tinh tấn, không thoái chuyển, sinh ý tưởng cứu hộ các hữu tình. Tất cả hữu tình thường bị ba thứ bệnh thiêu đốt. Đó là tham, sân, si. Ta nên đối với các hữu tình ấy đem chánh pháp của Phật tích tập hòa hợp, làm đại lương dược, chữa trị chứng bệnh tham, sân, si nhiệt não các hữu tình này. Ta cho rằng, đây là Đại Bồtát thực hành hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả hữu tình thường sinh nhiệt não. Vì sao? Vì ba thứ bệnh độc lúc nào cũng bộc phát. Nếu sinh lên cõi trời và cõi người cho đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diệm-ma-la giới, đều bị độc tham, sân, si thiêu đốt. Đại Bồ-tát thấy hữu tình bị nhiệt não khổ sở nên phát khởi ý tưởng cứu hộ. Lại suy nghĩ rằng, ba thứ bệnh này thuốc hay thế gian không thể trị hết, làm sao trừ được ba thứ bệnh này? Chỉ có Phật Như Lai được đại Pháp thân, là Đại y vương mới có thể cứu hộ trị liệu ba thứ bệnh nặng nhiệt não của tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thân là pháp dược, là đại y vương mới có thể cứu hộ trị liệu tất cả hữu tình diệt trừ ba thứ độc nhiệt não.
Này Xá-lợi Tử! Nếu các thứ y dược ở thế gian không thể trị liệu được ba thứ bệnh độc, chỉ có Như Lai và Đại Bồ-tát làm Đại y vương thí đại pháp dược mới có thể diệt trừ ba độc nhiệt não của các hữu tình.
Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu thì Như Lai đã nói các cõi hữu tình, ý Thế Tôn nghĩ sao? Không phải như địa, thủy, hỏa, phong không giới, trong mấy giới ấy hữu tình giới là rộng vô lượng vô biên? Đức Phật khen:
– Đúng vậy, đúng vậy! Này Xá-lợi Tử! Thật đúng như lời ông nói. Các chúng hữu tình ấy đồng phần giới, Thanh văn, Duyên giác không thể thấy, chỉ có Thiên nhãn của Phật mới có thể chiếu khắp. Này Xá-lợi Tử! Trong tam thiên đại thiên thế giới Trời, Người, A-tu-la, cho đến vô lượng vô biên noãn, thai, thấp, hóa, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không tưởng, kiến lập hữu tình giới như vậy, Thiên nhãn của Phật đều chiếu thấu tận. Hoặc một sát-na, hoặc một lạp-phược, một mâu-hô-lật-đa, trong thời gian đó không được thân người, hôm nay mới được.
Này Xá-lợi Tử! Những người như vậy, giả sử đều như y vương Hoặc Mạng khéo trị các bệnh, muốn chữa trị tham, sân, si, các bệnh khổ nhiệt não cho một người cũng không thể được.
Lại nữa, có thể hòa hợp các thứ lương dược tối đại chất cao như núi Tu-di, để trị bệnh tham, sân, si cho một người cũng không thể được. Giả sử đều như y vương Hoặc Mạng, sống ở thế gian tuổi thọ một kiếp, giã trộn hòa hợp các đại lương dược lượng hơn Tu-di, mọi người làm cho đến khi mệt mỏi, muốn chữa trị bệnh tham, sân, si cho một người, dù chỉ hết một phần nhỏ cũng không thể được.
Này Xá-lợi Tử! Chỉ có Như Lai đầy đủ phương tiện, pháp dược thanh tịnh, mới có thể tùy theo bệnh cho thuốc chữa trị ba độc. Nếu các hữu tình có bệnh thiêu đốt nhiệt não, Như Lai vì nói pháp quán bất tịnh, hòa hợp làm thuốc. Thuốc này có khả năng trị liệu hết bệnh trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-đa a-tăng-kỳ, cho đến không thể nói hết, không thể ghi hết số hữu tình có bệnh tham nhiệt não. Lại các hữu tình có bệnh sân nhiệt não, Như Lai vì hữu tình ấy nói pháp đại Từ, hòa hợp thành thuốc. Thuốc ấy có khả năng trị liệu hết bệnh trong vô lượng, cho đến không thể nói, không thể ghi nhớ số hữu tình có bệnh sân nhiệt não. Lại các hữu tình có bệnh si nhiệt não, Đức Như Lai vì hữu tình ấy nói pháp duyên sinh, hòa hợp thành thuốc. Thuốc ấy có thể chữa trị hết bệnh trong vô lượng, cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ hết số hữu tình bị bệnh si nhiệt não. Cần nên biết rõ ví dụ này. Đại Bồ-tát có thể đem pháp dược của Như Lai cứu hộ chữa trị hết bệnh vô lượng vô biên cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ hết số hữu tình bị bệnh ba độc nhiệt não. Làm được như vậy là thành tựu Pháp thân của Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát trụ Pháp thân như vậy, lại nhờ sức gia trì của Pháp thân, nên khiến vô lượng vô biên, cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ số hữu tình bị bệnh ba độc quấy nhiễu não hại, thảy đều trừ diệt không còn tái sinh, thảy đều trừ diệt không còn tái sinh.
Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa ta ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, biết rõ được pháp này. Lại cũng ngay thời điểm đó có Phật ra đời, hiệu là Nhiên
Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Đức Phật thọ ký cho ta:
– Quá vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ngươi được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta ở chỗ Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh
Giác, được đầy đủ Pháp thân, sinh lên cõi trời Tam thập tam, hiệu là Quang Minh Thiên tử, làm chủ Thước-ca-la, có đại oai đức, đầy đủ đại thần thông, tiếng tăm vang khắp, tự tại vô ngại. Thời điểm ấy, trong châu Diêm-phù-đề có tám vạn bốn ngàn thành lớn, lại có nhiều thành ấp xóm làng. Trong các xóm làng ấy, có trăm ngàn câu-chi na-do-đa các loại hữu tình. Lại cũng trong thời điểm ấy kiếp tật bệnh nổi lên, hữu tình ác nghiệp bệnh duyên thành thục, trên thân mang đủ các chứng bệnh, nào là ghẻ lỡ, ung thư, mụt nhọt, hắt lào lan tràn, phong huỳnh đàm ấm… Lúc đó, có trăm ngàn y vương, hòa hợp lương dược trị liệu cho các hữu tình tật bệnh được thuyên giảm.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó hữu tình không nơi nương tựa, không người cứu hộ. Người chưa hết bệnh lớn tiếng than:
– Nếu Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, La-sát bà, Nhân phi nhân có thể khiến cho tôi giải thoát tất cả bệnh khổ não thì tôi cúng dường hết tất cả tài vật, nguyện làm kẻ nô tỳ tùy ý sai sử.
Này Xá-lợi Tử! Người đời không thể thấy, còn ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người thường mới có thể thấy các hữu tình trên thân mang đủ thứ chứng bệnh: Ghẻ lỡ, ung thư, mụt nhọt, hắc lào, phong huỳnh, đàm ấm, nóng lạnh… các chứng bịch tích tập đầy dãy trên thân, ta mới có thể thấy. Người đời không thể nghe các hữu tình lớn tiếng than, còn ta dùng Thiên nhĩ thanh tịnh hơn người thường mới có thể nghe được, khởi tâm đại Bi thương xót các hữu tình ấy. Ta suy nghĩ rằng, ta sẽ làm chỗ nương tựa cho những ai không chỗ nương tựa, cứu hộ cho những ai chưa được cứu hộ, diệt trừ bệnh cho những ai chưa hết bệnh, tất cả đều được bảo hộ an lạc.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta ẩn thân Thước-ca-la, cách đại thành Câu-lô không xa, bỗng nhiên hóa sinh thành tướng hữu tình, tên là Tô-mâu, vì các hữu tình có bệnh trong Diêm-phù-đề mà nói kệ rằng:
Cách thành Câu-lô không bao xa
Hóa tướng hữu tình tên Tô-mâu
Nếu ai đến xin thịt mà ăn
Thì sẽ dứt hết các bệnh tật,
Hữu tình các ngươi chớ kinh sợ
Như vậy người ăn sinh hoan hỷ
Tô-mâu không giận, sân đã trừ
Là đại lương dược châu Diêm-phù.
Này Xá-lợi Tử! Tám vạn bốn ngàn đại thành, quận, ấp, xóm, làng trong khoảng thời gian đó, tất cả hữu tình nghe tiếng này rồi, vội vã đi đến đại thành Câu-lô chỗ Tô-mâu lấy một ít thịt trên thân của Tô-mâu mà ăn. Ai nấy đều lấy nhưng thịt trên thân vẫn không tổn giảm. Lúc đó Tô-mâu nói kệ rằng:
Bồ-đề chân thật không hư dối
Đạt được vô tận trí tuệ uẩn
Lời này chân thật không dối trá
Khiến thịt thân ta cũng vô tận.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, các người bệnh trong Diêm-phù-đề, tập hợp tại chỗ Tô-mâu, mỗi người đều lấy một ít thịt trên thân của Tô-mâu mà ăn. Do trí vô tận cho nên cắt như vậy rồi, lại sinh, nhưng các chi phần trên thân sinh lại rồi không có tổn giảm.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các người bệnh ăn thịt của Tô-mâu, nên được hết các bệnh, an ổn khoái lạc, không còn tật bệnh tái phát. Như vậy các người bệnh trong châu Diêm-phù thảy đều bớt bệnh, an ổn khoái lạc không còn bệnh tật tái phát.
Khi ấy, các hữu tình trong châu Diêm-phù, hoặc trai hoặc gái, bé trai, bé gái đều nói như vầy:
– Theo tôi nghĩ, sở dĩ hôm nay chúng ta đều hết bệnh an ổn khoái lạc là nhờ ăn thịt Tô-mâu, vậy nay chúng ta hãy nên thân cận cúng dường Tômâu.
Nói thế xong, cả chúng đồng loạt tập trung đến chỗ Tô-mâu cùng nhau vây quanh nói kệ rằng:
Ngài là chỗ nương tựa của chúng tôi
Ngài là y vương, là lương dược
Hôm nay chúng tôi phải làm gì
Nguyện xin cúng dường không xan lận.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, ta biết các hữu tình được an ổn rồi liền hiện thân hình Đại Thước-cala, ở trước mọi người nói lời như vầy:
– Ta nay không dùng đến vương thành, quốc độ quận, ấp, xóm, làng, nhà cửa, tài vật, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách các thứ trân bảo quý đẹp, voi, ngựa, trâu, dê, xe cộ, trai, gái, bé trai, bé gái, nô tỳ hầu hạ, đồ ăn thức uống, y phục, giường nằm ngọa cụ, thuốc thang các vật dụng, vườn rừng, ao tắm, các thứ đẹp đẽ như vậy ta đều không dùng. Ta chỉ dạy dỗ các ngươi nên chấm dứt sát sinh, trọn đời không nên giết hại, nên chấm dứt trộm cắp, mãi mãi không trộm cắp; nên đoạn tà dục và mãi mãi không tà dục; nên đoạn nói dối và trọn đời không nói dối; nên đoạn hai lưỡi, trọn đời không nói hai lưỡi; nên đoạn nói lời thêu dệt và trọn đời không nói thêu dệt. Nói tóm lại, nên đoạn ác khẩu, tham, sân, tà kiến, trọn đời không nên tái phạm.
Lúc đó Đại Thước-ca-la vì mọi người nói kệ rằng:
Đa câu-chi số các tài bảo
Chất cao cũng như núi Tu-di
Ăn uống, y phục, Thiên nữ đẹp
Các thứ như vậy ta không dùng.
Nếu ngươi cúng dường các thứ ấy
Không bằng tu tập mười điều thiện
Mỗi mỗi đều khởi tâm Từ bi
Bất cứ lúc nào cũng thủ hộ.
Bồ-tát không thích các tài lợi
Chỉ hay hộ trì mười nghiệp thiện
Các ngươi nếu cùng nhau tu hành
Thì đó chính là chân cúng dường.
Ăn uống, y phục và ngọa cụ
Voi ngựa xe cộ các trân báu
Như vậy cho đến Thiên nữ đẹp
Tất cả thứ ấy ta không nhận.
Các ngươi nghe ta nói chân thật
Nên tu mười thiện nghiệp thanh tịnh
Cùng nhau phát khởi tâm Từ bi
Đối tất cả chỗ thường thủ hộ
Nếu hay nhiếp thọ pháp như vậy
Thì mười thiện nghiệp luôn thanh tịnh.
Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta ở trong đại chúng giảng nói pháp yếu, thanh tịnh không xen tạp, chỉ dạy lợi ích an vui. Lúc ta nói pháp này rồi, ẩn thân không hiện. Lúc đó, trai, gái, bé trai, bé gái ở trong Diêm-phù-đề nhờ ăn thịt Tô-mâu, nên đến khi mạng chung không có một người nào đọa vào đường ác, cùng lúc đều được sinh lên cõi trời Tam thập tam, ở trong chúng vi diệu, thọ các khoái lạc.
Này Xá-lợi Tử! Những người được sinh lên các cõi trời ấy nghe pháp này rồi, chỉ dạy được lợi ích an vui, hiểu biết ba thừa một cách chắc chắn. Ba thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Vô thượng nhất thiết trí thừa. Ở trong chúng có người sẽ nhập Niết-bàn, chưa nhập Niết-bàn, hiện nhập Niết-bàn.
Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Ông quán Đại Bồ-tát an trụ Pháp thân, sao gọi là được đại thần thông, đầy đủ đại oai đức, danh xưng vang lừng? Lúc đó chỉ có một mình ta có khả năng xả thân mạng thành thục tất cả hữu tình ba thừa Niết-bàn.
Đức Phật vừa nói xong, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ Pháp thân?
Phật bảo Xá-lợi Tử:
Này Xá-lợi Tử! Pháp thân của Đại Bồ-tát kiên cố cũng như kim cang không thể phá hoại, thù thắng vi diệu, chân thật không sinh diệt.
Lại nữa, Pháp thân vì độ hữu tình không tiếc thân mạng. Vì lý do đó cho nên lửa không thể thiêu, vật không thể hoại, lại kiên cố như kim cang không thể phá hoại.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển, như vậy là an trụ Pháp thân đầy đủ, thành thục hữu tình, không tiếc thân mạng, cũng không ngôn thuyết phân biệt biến kế. Lại biết thân này cũng như hư không, lìa các tướng. Do thân lìa tướng cho nên có thể hiểu rõ tất cả các pháp, lìa các tướng. Do lìa các tướng cho nên không phân biệt là thân là pháp. Nếu đối với tướng thì thân đã lìa tướng; đối với tất cả pháp cũng lại như vậy. Nếu tự thân lìa được một tướng, thì có thể hiểu rõ tất cả hữu tình thân lìa tướng. Vì pháp giới lìa tướng cho nên đối với tất cả pháp lìa tướng. Nên học như vậy, cho đến một pháp rất nhỏ cũng không thể được. Do tất cả hữu tình thân chân như cho nên có thể hiểu rõ tất cả hữu tình thân chân như. Do tất cả hữu tình thân chân như, cho nên có thể hiểu rõ tự thân chân như. Do tự thân chân như, cho nên có thể hiểu rõ tất cả pháp chân như. Do tất cả pháp chân như, cho nên có thể hiểu rõ tự thân chân như. Do tự thân chân như, cho nên biết rõ chư Phật chân như. Do tất cả chư Phật chân như, cho nên thông đạt tự thân chân như. Do tự thân chân như nên hiểu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại chân như. Do quá khứ, vị lai, hiện tại chân như, cho nên hiểu rõ tự thân chân như. Lại quá khứ chân như cùng với vị lai chân như không trái nhau. Quá khứ chân như cùng với hiện tại chân như cũng không trái nhau. Hiện tại chân như cùng quá khứ chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng quá khứ chân như cũng không trái nhau. Lại quá khứ chân như cùng vị lai chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Hiện tại chân như cùng vị lai chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Do hiện tại chân như cùng quá khứ chân như cũng không trái nhau. Do quá khứ chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Lại quá khứ chân như cùng vị lai chân như, hiện tại chân như cũng lại như vậy. Lại uẩn, xứ, giới chân như kia, uẩn, xứ, giới chân như này; nhiễm tịnh chân như kia, nhiễm tịnh chân như này; Niết-bàn luân hồi chân như kia, Niết-bàn luân hồi chân như này; hành chân như kia, hành chân như này, tất cả hành chân như cũng lại như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như đã nói không có sai khác, không phải xa lìa, không phải hình tượng, cho đến chân như không có tướng nhỏ nào. Vì sao? Vì chân như không tướng thuyết này, tức là tướng Như Lai. Như vậy là nhiếp thọ nhân quả chân như. Thuyết này cũng là tướng của Như Lai. Bồ-tát thấy các tướng như vậy, không có tạo tác, tức là tướng Như Lai. Cái thấy ấy không phải tranh cãi, tất cả sắc tướng không có lay động, tức là tướng Như Lai, không phải là trí chân như.
Làm thế nào để quán sát thân Như Lai? Nên bình đẳng quán sát thân Như Lai, tức là tự thân bình đẳng. Do tự thân bình đẳng quán sát, nên tất cả thân không phải thân bình đẳng. Do tất cả thân không phải thân bình đẳng quán sát, cho nên đối với thân này có thể quán sát. Thế nên biết rõ, tất cả thân tướng đều từ duyên sinh. Biết điều đó rồi, Pháp thân quyết định không thể phá hoại, đối với Pháp thân cũng lại như vậy. Khi đạt được Pháp thân như vậy rồi thì mới có khả năng phân biệt rõ không phải uẩn, xứ, giới. Đối với các hữu tình thấy nghe hay biết thì mới có thể hóa độ làm các nghĩa lợi.
Này Xá-lợi Tử! Ví như y vương Hoặc Mạng tích tập hòa hợp các loại thuốc hay rồi ban cho các người bệnh. Ông ta còn tạo ra đồng nữ sắc tướng thù thắng vi diệu, cũng như ao hồ thanh tịnh tối thượng, trang nghiêm đầy đủ an trụ hết sức vi diệu, thời phi thời đi đứng ngồi nằm, lại còn có thể làm các sự nghiệp thù thắng vi diệu. Lúc đó, có cư sĩ trưởng giả dòng họ to lớn tối thắng tối thượng, đến thấy đồng nữ được làm bằng thuốc. Khi ấy y vương Hoặc Mạng ban khắp cho mọi người sờ vào. Các người bệnh mỗi khi rờ vào đều được khoái lạc khinh an không còn bệnh tật sầu não.
Này Xá-lợi Tử! Nên biết, chỉ có một y vương Hoặc Mạng mới có thể khiến hữu tình trừ hết bệnh tật, còn các thầy thuốc khác không thể trị hết.
Này Xá-lợi Tử! Biết rõ Pháp thân của Đại Bồtát cũng lại như vậy. Cho đến hữu tình trai, gái, bé trai, bé gái bị tham sân si thiêu đốt, Bồ-tát rờ khắp thân các hữu tình có bệnh này đều được hết bệnh, xa lìa tất cả nhiệt não. Bồ-tát đạt được như vậy là nhờ nguyện lực thuở xưa thanh tịnh.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát không vì các việc ăn uống tài vật nuôi dưỡng thân này, mà đối với Pháp thân tất cả việc lấy bỏ thảy đều thông đạt. Nhưng vì thương xót hữu tình mà nhận lấy ăn uống, đối với thân mạng cũng không xả bỏ, đối với sức Pháp thân cũng không lấy bỏ, cũng không tổn giảm.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với Pháp thân không sinh không diệt, nhưng vì thị hiện nên có sinh có diệt. Lại có thể thành thục hữu tình, đối các hành pháp biết rõ sinh diệt; lại biết các pháp cũng không hợp tập, chỗ sinh chỗ diệt thảy đều biết rõ. Đối với Pháp thân, pháp thực, pháp lực, pháp thường y chỉ, tâm không biểu hiện. Đây là nguyện lực thuở xưa thành thục hữu tình Tinh tấn ba-lamật-đa không thoái chuyển.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Nay mới được thành thân Kim cang
Không hoại, không tan Phật biết rõ
Dao không tổn thương, lửa không đốt
Độ hết hữu tình đều thoát khỏi,
Độ thoát hữu tình lửa dữ hại
Nếu được thuốc mát mẻ tối thượng
Hữu tình thấy biết như vậy rồi
Lại như ăn được các món ngon,
Cho đến pháp giới không phân biệt
Chỉ một Pháp thân không thân khác
Không nhân, không ngã, không nho đồng
Thông đạt các pháp do duyên sinh.
Quán sát như thực hành khổ hạnh
Vì duyên chấm dứt nên khổ đoạn
Sắc uẩn không cứng như bọt nước
Thọ uẩn cũng như bong bóng nước
Tưởng như khát ái thấy sóng nắng
Quán hành như cây chuối không thật
Lại như huyễn hóa các kỹ nghệ
Trong mỗi sát-na đều lìa tướng.
Những người có trí đã thí nguyện
Rõ thức tạo tác không chắc thật
Các thứ đồ dùng như điện chớp
Như dòng thác đổ từ núi cao,
Tài dục cũng giống như hình bóng
Nhanh chóng còn nhanh hơn tên bắn
Biết rõ biến đổi như mây trôi
Các bậc có trí không ham thích.
Không ở trong trời, người, ba cõi
Thọ dụng ăn uống các thú vui
Sau đọa vào địa ngục cực khổ
Thấy rồi không thích ở cõi trời,
Không chỗ nương tựa như bàng sinh
Người này nương tựa lìa sinh tử
Bồ-tát sẽ được đại Pháp thân
Dẫu có thành hoại không sinh diệt.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển. Nên học như vậy. Thế gian đầy dẫy các pháp bất thiện, pháp đối trị cũng lại như vậy, nhưng hữu tình lại không biết. Hữu tình thế gian có ba chứng bệnh nặng đó là: Tham, sân, si. Ba thứ bệnh nặng này hữu tình không thể biết rõ. Ba thứ bệnh nặng này có ba loại thuốc hay để chữa trị; nhưng hữu tình cũng không biết. Nếu người bệnh tham thì dùng thuốc quán bất tịnh để chữa trị. Người bệnh sân thì dùng thuốc quán từ bi để chữa trị. Người bệnh si thì dùng thuốc quán duyên khởi để chữa trị. Ba loại thuốc hay này các hữu tình không thể biết. Nếu như có thuốc của y vương để chữa trị tật bệnh, thì chỉ trị bớt tạm thời, chứ không thể trị hết hẳn, không thể trị hết tất cả bệnh. Các người có trí không nên tùy thuận tu học như vậy, mà phải nên học pháp đối trị của Thế Tôn, làm đại y vương thông đạt tất cả thiện pháp vô thượng, khiến các người bệnh dứt sạch các bệnh, đó mới là cứu cánh. Còn đối với các y vương thế gian, dù chỉ một phần nhỏ cũng không nên theo học. Phải nên tích tập giã, rây, sàng, sảy, hòa hợp pháp dược tối thượng, nếu nghe tiếng rồi thì cả bệnh nặng tham, sân, si thảy đều tiêu trừ.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển. Phương thức tích tập giã, rây, sàng, sảy hòa hợp đại pháp dược như vậy. Các Thanh văn Duyên giác đều không thể làm được, chỉ có Như Lai Vô Thượng Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, là Đại y vương, gom các thiện căn, giã, rây, sàng sảy hòa hợp làm đại pháp dược, thổi pháp loa lớn, phát ra âm thanh sâu xa vi diệu, khiến cho vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-đa căm-yết-la tam thiên đại thiên thế giới thảy đều nghe biết. Nói tóm lại, pháp dược ấy có khả năng trị hết tất cả đại bệnh tham, sân, si của vô số hữu tình, số lượng này nhiều không thể nói hết, không thể nói hết.
Này Xá-lợi Tử! Ví như trong rừng Tuyết sơn có cây đại dược thọ vương tên là “Lìa các độc”, nó có khả năng khiến vô số hữu tình khi ngửi được mùi hương của nó thảy đều hết bệnh.
Này Xá-lợi Tử! Dùng cây đại dược thọ vương “Lìa các độc” bôi lên loa, trống rồi thổi, đánh lên thì làm cho các hữu tình đã bị trúng độc thuốc độc, khí độc và tất cả độc, hễ ai nghe được tiếng này đều được trừ hết các độc.
Này Xá-lợi Tử! Cây đại dược thọ vương “Lìa các độc” này, tất cả thầy thuốc đều không thể biết, chỉ có y vương Hoặc Mạng mới có thể biết.
Này Xá-lợi Tử! Nếu đối với đại chánh pháp dược của Đại Bồ-tát mà có khả năng tích tập giã, rây, sàng, sảy hòa hợp thì chỉ có Như Lai mới có thể có, còn Thanh văn, Duyên giác không thể có được. Như Lai thông đạt tất cả thiện pháp, làm Đại y vương, có năng lực làm dứt hết các bệnh của tất cả hữu tình. Đối với pháp dược này có khả năng tích tập, giã, rây, sàng, sảy, hòa hợp, thổi pháp loa lớn phát ra âm thanh vi diệu sâu xa, khiến cho vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-đa cămyết-la tam thiên đại thiên thế giới đều được nghe. Nói tóm lại, vô số hữu tình không thể nói hết, không thể nói hết, khi nghe được tiếng này rồi tất cả bệnh nặng tham, sân, si đều trừ sạch.
Sao gọi là Đại Bồ-tát tích tập pháp tài? Ở chỗ nào có thể dụng thí? Nếu Đại Bồ-tát dụng thí pháp tài thì chỉ có tích tập chánh pháp tạng của Bồ-tát.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển, đối với chánh pháp tạng Bồ-tát thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa ấy, hoặc tự chép, hoặc dạy người chép, cho đến diễn nói rộng rãi cho mọi người. Nên học như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thời quá khứ lần lượt như vậy rộng lớn không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp. Lúc đó có Phật hiệu Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà. Trong hội Phật ấy có tám mươi câu-chi chúng đại Thanh văn đến tập hội, đều là A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Thọ mạng của Đức Phật ấy là tám vạn năm, chánh pháp tồn tại thế gian đủ năm trăm năm, tượng pháp cũng vậy. Sau khi Đức Phật Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai Niết-bàn, có xá-lợi cũng như sau khi ta diệt độ không khác.
Này Xá-lợi Tử! Lúc Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai nhập Niết-bàn rồi, sau một trăm năm, có Bồ-tát diệt độ từ phương khác sinh đến vương gia. Lúc đó đứa bé nói với mẹ:
– Nay vì duyên gì mà con sinh trong dòng họ phi pháp này. Nay con vẫn nương tựa vào hạnh chánh pháp mà tu hành.
Vì lý do đó nên gọi là Chánh pháp hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Vì muốn thành thục thiện căn cho nên suốt hai mươi năm, đồng tử phát lòng tin thanh tịnh đối với chánh pháp hạnh, bỏ nhà xuất gia thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, hoặc ở Alan-nhã, hoặc ngồi thiền dưới gốc cây. Lúc đó, trong hư không có các Hiền thánh đến chỉ dạy nghĩa lợi, bảo Bí-sô rằng:
– Thầy đối với chánh pháp tạng của Bồ-tát được hạnh tinh tấn không thoái chuyển, có danh tiếng lớn, sẽ được thành Phật.
Bí-sô nghe tiếng của Hiền thánh rồi sinh đại hoan hỷ thật chưa từng có. Cho đến tất cả nhân dân trong thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung, khắp tất cả mọi nơi đều tìm cầu chánh pháp Bồ-tát tạng.
Lại nữa, Bí-sô đến Tăng-già-lam cung kính đảnh lễ thăm hỏi chúng Bí-sô và Bí-sô-ni rồi thưa: – Sao gọi là chánh pháp Bồ-tát tạng? Bồ-tát đối với A-xà-lê và pháp Phật làm sao thừa sự thân cận tu học? Tôi nay muốn ở chỗ Tôn giả mà tìm cầu chánh pháp Bồ-tát tạng, hoặc danh hoặc tự đều đến lắng nghe.
Nghe Bí-sô hỏi thế, chúng Bí-sô trả lời:
– Này Bí-sô! Điều đó chúng tôi không biết.
Bí-sô lại thiết nghĩ: “Như vậy lời nói của Hiền thánh không có hư vọng, tôi chưa từng nghe chánh pháp Bồ-tát tạng, đối với tinh tấn không thoái chuyển làm sao mà thực hành?”
Nghĩ thế rồi, Bí-sô chuyển sang hỏi:
– Thưa Tôn giả Cụ thọ! Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai hiện ở phương nào? Cúi xin chỉ giúp cho!
Các Bí-sô kia trả lời:
– Này Bí-sô! Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai hiện ở phương này.
Nghe thế, Bí-sô liền đến chỗ Đức Phật theo sự hướng dẫn đó. Đến rồi nhiễu quanh bên phải ba vòng, đảnh lễ sát chân rồi đứng dậy thưa:
– Thưa Thế Tôn! Nay con ngồi kiết già nơi đây, nếu không nghe được chánh pháp Bồ-tát tạng từ nơi Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai thì thề không ngồi dậy.
Này Xá-lợi Tử! Trong bảy ngày bảy đêm Bí-sô này tinh tấn không thoái chuyển. Kiên cố như vậy quá bảy ngày bảy đêm, nhờ thần lực của Phật nên thấy thế giới phương Đông Bảo Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác nghe Đức Thế Tôn ấy khai diễn tám thứ pháp môn. Tám pháp môn này có khả năng tùy thuận tu học chánh pháp Bồ-tát tạng. Lúc đó, Bí-sô nghe đầy đủ tám pháp chẳng thể nghĩ bàn này không có gì hơn được, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, Bísô có thể khai diễn hạnh tinh tấn không thoái chuyển. Lại ở trong thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung trọn sáu mươi năm giáo hóa vô lượng vô biên trời, người trụ trong ba thừa. Lúc Bí-sô sắp lâm chung lại phát nguyện:
– Sau khi tôi viên tịch sẽ sinh vào các cõi Phật, ở cõi Phật diệt rồi, sinh vào Diêm-phù-đề trong dòng họ trưởng giả, sinh rồi phát lời nguyện tu hành chánh pháp hạnh.
Vì lý do đó cho nên đồng với tên thuở xưa là Chánh pháp hạnh, phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc. Xuất gia chưa bao lâu hiện tiền an trụ chánh pháp Bồ-tát tạng, trong sáu vạn năm khai diễn chánh pháp hạnh Bồ-tát tạng khắp cả thành ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung; giáo hóa vô lượng vô biên trời, người; thành thục ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Vô thượng Đại thừa. Khi sắp lâm chung lại phát thệ:
– Nhờ nguyện lực này được làm người trong châu Diêm-phù-đề, sinh trong dòng vua chúa. Sinh ra trong sát-na, trong hư không có tiếng Hiền thánh bảo rằng: Cõi hữu tình của ngươi vượt hơn các pháp, vì lý do đó cho nên đặt tên là “Siêu vượt hơn các pháp”. Thành thục hữu tình, đến năm hai mươi tuổi phát sinh lòng tin chân chánh, rời nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, vượt hơn các pháp chánh niệm duyên lực, hiện tiền an trụ chánh pháp Bồ-tát tạng.
Này Xá-lợi Tử! Bí-sô vượt hơn các pháp này đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, đoạn các nghi hoặc, đi khắp thành ấp, xóm làng, quốc độ, vương cung, khai diễn chánh pháp, hơn sáu vạn năm, khiến vô lượng vô biên trời, người, A-tu-la phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Khi Bí-sô sắp lâm chung lại phát thệ rằng:
– Được làm thân người, sinh vào dòng họ trưởng giả đại Bà-la-môn trong châu Diêm-phù-đề. Sinh ra trong khoảng sát-na, giữa hư không có tiếng Thánh hiền bảo: Hữu tình giới của ngươi được chánh niệm, cho nên đặt tên là “Được chánh niệm”, thành thục hữu tình.
Đến năm hai mươi tuổi phát sinh lòng tin chân chánh, rời nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc. Do thuở xưa suy nghĩ như thật cho nên thành tựu đa văn tối thượng tối thắng. Trong sáu mươi năm thuyết pháp giáo hóa, đến các thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung khiến các hữu tình đối với chánh pháp Bồ-tát tạng có khả năng khai diễn đoạn các nghi hoặc. Lại giáo hóa quá hơn số đó nữa, giáo hóa đến bốn câu-chi trời, người, A-tula… thành thục ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Vô thượng trí Phật thừa.
Này Xá-lợi Tử! Bí-sô Chánh pháp hạnh này phát nguyện ấy rồi liền mạng chung, sinh vào trong cõi Phật Bảo Tạng Như Lai thuở xưa.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khiến sáu mươi câu-chi trời, người, A-tu-la… đều được viên mãn thành thục ba thừa.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy ở trong cõi Phật Bảo Tạng Như Lai không có gián cách, đạt được đa văn, đầy đủ tối thượng tối thắng chẳng thể nghĩ bàn. Sau khi mạng chung được sinh vào dòng họ vua chúa trong thế giới Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai. Thuở xưa giáo hóa sáu mươi câu-chi trời, người A-tu-la… đồng sinh ra đều làm quyến thuộc. Lúc đó có Đức Phật ra đời hiệu là Tối Thượng Hạnh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh
Giác, tuổi thọ của Đức Phật ấy đủ tám mươi câuchi năm tuổi thọ của nhân dân nước đó cũng lại như vậy. Đức Phật ấy có tám mươi câu-chi đại chúng Thanh văn cùng đến tập hội, đều là A-lahán. Mỗi một Thanh văn đều có tám mươi câu-chi đại chúng Thanh văn, đồng là đại A-la-hán thanh tịnh. Lúc đó có đồng tử Dũng Mãnh Thọ Vương đa văn, thành tựu trí tuệ, thông đạt sáng suốt đồng tử cùng với quyến thuộc tám mươi câu-chi người, đồng thời đến chỗ Tối Thượng Hạnh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác; đến rồi đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh Đức Thế Tôn rồi đứng qua một bên. Lúc đó, Tối Thượng Hạnh Như Lai biết được tâm niệm nhân duyên thuở xưa của đồng tử nên liền nói pháp.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Dũng Mãnh Thọ Vương nghe được hạnh tu hành thuở xưa như vậy rất sinh hoan hỷ, cùng với tám mươi câu-chi quyến thuộc đồng phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, trọn đời tu hành phạm hạnh cầu đạo Bồ-đề.
Lúc đó, Đức Tối Thượng Như Lai bảo đại chúng:
– Này đại chúng! Sau khi ta diệt độ Đại Bồ-tát Dũng Mãnh Thọ Vương này sẽ thành Phật xuất hiện thế gian hiệu là Đại Tinh Tấn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi đức Tối Thượng Như Lai Niết-bàn, Dũng Mãnh Thọ Vương cúng dường Xá-lợi rồi thọ trì Chánh pháp, sau đó chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Tuổi thọ của Đại Tinh Tấn Như Lai là nửa kiếp; có vô lượng đại chúng Thanh văn, mỗi một Thanh văn đều có hai mươi na-do-đa đại Thanh văn chúng đều là đại A-la-hán thanh tịnh cùng đến tập hội.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tinh tấn không thoái chuyển này thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa; đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, nghe rồi lần lượt thọ trì đọc tụng, rồi đem diễn giảng cho mọi người, cho đến sinh vào thế giới Tinh Tấn Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Nếu thiện nam, thiện nữ nào an trụ Đại thừa thì mau chóng chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, tinh tấn không lui sụt đối với chánh pháp Bồ-tát tạng quyết định lắng nghe thọ trì đọc tụng, cho đến diễn nói cho mọi người. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát có khả năng đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, tinh tấn cần cầu hạnh tinh tấn không thoái chuyển như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba la-mật-đa.
24 Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát 20 tu hành hạnh tinh tấn hướng đến thiền định Bồ-tát 21 Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát trước hết là xa lìa lỗi lầm 22 nhiễm dục các pháp bất thiện, đối với tầm từ phát 23 sinh hỷ lạc. Đây gọi là nhập giải Sơ thiền định hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Kế đến là Đại Bồ-tát xa lìa tầm từ, tức là đối với một cảnh tánh bên trong phát sinh tâm trong sạch thanh tịnh, đối với Đẳng trì phát sinh hỷ lạc. Đây gọi là nhập giải Nhị thiền định hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Kế đến nữa là Đại Bồ-tát xa lìa tham ái, hành niệm chánh tri, chỉ thọ diệu lạc, thân luôn chánh tri. Như Thánh nhân quán sát xả niệm ly hỷ diệu lạc hạnh. Đây gọi là nhập giải Tam thiền định hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát trước hết là đoạn trừ khổ, vui, thích thú, phiền não, không khổ, không vui, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là nhập giải Tứ thiền định hạnh. Đại Bồ-tát như thật được viên mãn thanh tịnh thuần nhất không xen tạp, tâm chánh đẳng dẫn không còn các chi phần khác và tùy phiền não, không lìa Đẳng trì, nhưng có khả năng thực hành sự nghiệp thiền định ấy, lại còn viên mãn năm thần thông và trí nghiệp ấy. Năm thần thông là gì? Một là Thiên nhãn; hai là Thiên nhĩ; ba là Tha tâm; bốn là Túc trụ; năm là Thần cảnh. Đó là năm thần thông.
Lại nữa, sao gọi là Bồ-tát đối với Thiên nhãn… Thần cảnh có khả năng viên mãn chánh hạnh thần thông trí nghiệp tối thượng?
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát này an trụ như thật tâm chánh đẳng dẫn, viên mãn thanh tịnh thuần nhất không xen tạp và tùy phiền não, tâm không ham muốn các hữu tình mà lại có khả năng khởi thần cảnh đẳng thông. Đây gọi là thần thông trí nghiệp. Lại được Thiên nhãn thanh tịnh hơn cả mắt người thường, có khả năng quán sát các hữu tình. Như vừa mới sinh ra liền chết, các tướng tốt, xấu, đường ác, đường thiện, thù thắng vi diệu, hạ liệt thấp kém, cho đến biết được nghiệp hạnh sai khác của các hữu tình, trong thân, miệng, ý đầy đủ các ác hạnh, khởi lên tà kiến phỉ báng Thánh hiền, tích tập nghiệp nhân tà kiến, đến khi mạng chung đọa vào đường ác Na-lạc-ca. Lại còn có thể biết được thân, miệng, ý của hữu tình đầy đủ thiện hạnh, khởi lên chánh kiến, tán thán Thánh hiền, tích tập nghiệp nhân chánh kiến, đến khi mạng chung sinh vào đường thiện, hoặc sinh lên cõi trời.
Này Xá-lợi Tử! Do Thiên nhãn thanh tịnh hơn người thường nên có thể biết rõ hữu tình tích tập nghiệp ác.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát tối thắng hơn các hữu tình, biết rõ sắc tướng không bị chướng ngại. Không những thế còn hơn cả các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Hữu học, Vô học, đại A-la-hán và Bích-chi-phật, thật là tối thượng tối thắng biết rõ tất cả không có ai hơn. Lại Thiên nhãn này đối với tất cả đạo xuất ly, xuất ly tối thắng, các Bồ-tát có thiên nhãn này đối với vô lượng hữu tình trong mười phương thế giới, hoặc thô, hoặc tế, hoặc hơn, hoặc kém, hoặc xa, hoặc gần, đều biết rõ các tướng có sắc không có đối ngại.
Lại nữa, Thiên nhãn này thấy sắc rốt ráo, trừ vô sắc giới. Vô lượng hữu tình trong mười phương thế giới, hoặc sinh, hoặc diệt và nghiệp nhân tất cả căn nhân ấy, hoặc tăng, hoặc giảm, hoặc thắng, hoặc liệt, đều biết rõ, công đức trang nghiêm các cõi Phật trong mười phương thế giới tất cả đều thấy; giới uẩn thanh tịnh, an trụ thành tựu quả báo thù thắng vi diệu cũng đều biết rõ.
Lại nữa, Thiên nhãn này vượt hơn người thường, chư Phật Thế Tôn và chúng Bồ-tát tất cả đều thấy. Cho đến Chánh sĩ, Chánh niệm, Chánh tri, thông đạt cảnh giới oai nghi, đạo hạnh và pháp giải thoát được môn Tổng trì, an trụ trí tuệ phương tiện khéo léo, có khả năng hiểu rõ viên mãn tất cả. Mắt ấy vô ngại, không thấy các sắc. Mắt ấy không đắm trước, không nhiễm các sắc. Mắt ấy giải thoát xa lìa các kiến. Mắt ấy thanh tịnh tự thể xán lạn. Mắt không nương tựa, lìa các cảnh giới. Mắt không chấp thủ, lìa các phiền não. Mắt không ngăn che, lìa các nghi hoặc. Mắt không khởi niệm, lìa pháp đối ngại. Mắt được ánh sáng chiếu soi các pháp. Mắt theo trí tuệ lìa cảnh giới thức. Mắt không dính mắc, lìa những gì khó điều phục và ngu si tối tăm tất cả phiền não. Mắt ấy có thể lựa chọn, biết các căn huyễn hóa. Lại mắt ấy không có gì hơn được, luôn luôn nhìn hữu tình với con mắt bình đẳng. Mắt ấy thanh tịnh, lìa sự suy nghĩ tạp nhiễm. Mắt ấy không nhơ, thể tánh trong sáng. Mắt ấy tùy theo tâm ý mà có thể hiện tiền thành thục Phật nhãn. Mắt ấy không tham sân, lìa mọi nghịch thuận. Lại thiên nhãn ấy đối với cảnh giới nghĩa, tu hành pháp thức tương ưng như thật, lại đối với hữu tình an trụ đại Bi.
Lại nữa, Thiên nhãn ấy nếu có người đến xin đều ban cho cả, thấy người phá giới cũng không sân giận, đối với người đọa lạc thường hay thủ hộ, đối với người biếng nhác thường hay khuyên răn sách tấn; vì người tán loạn thể hiện thiền định; vì người ác tuệ chỉ bày Tuệ nhãn chân chánh; vì người tà đạo khai ngộ chánh đạo; vì người hiểu biết thấp kém hay vượt trội hướng dẫn họ đến với tri kiến tối thượng của Phật.
Lại nữa, Thiên nhãn ấy đối với Nhất thiết trí trí thần thông tối thượng, đối với đạo Bồ-đề chuyên chú một cảnh quyết định hiện tiền.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát có thể viên mãn Thiên nhãn thông và sự nghiệp trí tuệ.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát được Thiên nhĩ thông và viên mãn chánh hạnh thần thông trí nghiệp tối thượng?
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này Thiên nhĩ thanh tịnh vượt hơn người. Thiên nhĩ ấy có thể nghe tiếng nhân, phi nhân trong mười phương thế giới; có thể nghe tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ-xoa, tiếng Càn-thát-bà, tiếng A-tu-la, tiếng Nuy-lỗ-noa, tiếng Khẩn-na-la, tiếng Ma-hầu-la, tiếng nhân, tiếng phi nhân, tiếng Thánh nhân, tiếng Thanh văn, tiếng Duyên giác, tiếng Bồ-tát, tiếng Phật. Đây gọi là Đại Bồ-tát nhiên nhĩ thanh tịnh. Thiên nhĩ ấy còn nghe được các tiếng tội nghiệp, tiếng địa ngục, tiếng bàng sinh, tiếng Diệm-ma-la giới, cho đến biên tế vi tế như tiếng bươm bướm, tiếng ong, tiếng bọ cạp, tiếng muỗi, tiếng ve và các ngữ nghiệp của hữu tình nói ra, hoặc tâm phan duyên thiện bất thiện, tất cả đều biết rõ, ngữ nghiệp nói ra căn thiện bất thiện, nhân và quả đều biết rõ. Nếu ngữ nghiệp tham thì liền biểu hiện ra nhiễm ái. Nếu ngữ nghiệp sân thì biểu hiện ra lời mắng chửi ác độc. Nếu ngữ nghiệp si thì biểu hiện tham sân. Các bản tánh ấy Bồ-tát đều biết rõ. Ngữ nghiệp si cũng biểu hiện lời mắng chửi ác độc; nếu ngữ nghiệp si thì biểu hiện sự ngu si đen tối, tất cả những trạng thái đó Bồ-tát đều biết rõ.
Lại nữa, trí Thiên nhĩ thông ấy biết rõ như thật phát sinh khéo léo, phá ngữ nghiệp ấy tùy thuận thanh tịnh, do đó nó có thể đối phá. Nếu ngữ nghiệp thanh tịnh thì nó có thể đối phá tất cả tham, sân, si… đều khiến thanh tịnh.
Lại nữa, Thiên nhĩ ấy nghe rõ được tiếng Thánh nhân, hoặc không phải Thánh nhân. Nghe như vậy rồi không sinh đắm trước tiếng Thánh nhân, còn đối với tiếng không phải Thánh nhân thì không đắm trước đối phá đối với tiếng Thánh nhân lại đạt được đại Từ, đối với tiếng không phải Thánh nhân thì phát khởi đại Bi, đối với tất cả tiếng không có tiền hậu tế, dùng trí quyết định biết rõ như thật.
Lại nữa, Thiên nhĩ ấy nghe chư Phật Thế Tôn nói pháp vi diệu trong mười phương tất cả thế giới, nghe rồi nhớ nghĩ thay đổi căn tánh, không sinh ngu si, nhiếp thọ tất cả, cũng không thất niệm. Như hữu tình ấy hiểu rõ căn tánh, biết rõ các pháp bình đẳng một vị.
Lại nữa, sau khi nghe một Đức Phật, hai Đức Phật nói pháp không sinh các sự tướng sai khác chướng ngại lẫn nhau.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chư Phật Thế Tôn nói hạnh nhậm trì thuở xưa là do căn lành lắng nghe đời nay. Đối với thời phi thời đạt được lời nói ấy, hoặc trong chúng hội, hoặc khi nói pháp, hoặc nói phi thời đều có thể phân biệt hiểu rõ hạnh ấy, khi đã nghe rồi lại có thể diễn nói. Khi nói pháp hoặc trong chúng hội, hoặc một Bí-sô, vì học nói pháp như thật ký biệt, không nên nói pháp đối với những người gây tổn hại, lại cũng không như thật ký biệt, phải nên lựa chọn người ấy xem thử có tương ưng với nghĩa lý không rồi mới dùng phương tiện khéo léo nhiếp thọ họ, vì họ mà nói pháp với tự tâm thanh tịnh trong sạch, hoặc đối với sắc tướng các thứ tiếng quyết định lắng nghe sinh hoan hỷ. Như sắc tướng các tiếng kia vì khiến lắng nghe quyết định hoan hỷ. Lại nếu ở trong chúng nói pháp, dùng Thiên nhĩ thức gia trì tiếng ấy khiến cho các hữu tình đều hiểu rõ. Nhưng các hữu tình nghe pháp này rồi hoặc có người hiểu, hoặc có người chưa hiểu, tất cả đều được pháp giới thanh tịnh; nhĩ giới, trí giới cũng được thanh tịnh. Nhĩ giới của ta thanh tịnh, hữu tình cũng được thanh tịnh, đối với nhĩ giới ấy khéo được xuất ly. Như trên đã nói văn, tự, nghĩa lý và ngôn từ khéo léo vi diệu của các hữu tình, khiến năm nẻo hữu tình nghe tiếng nói pháp thảy đều giác ngộ, lại có thể đối với nhĩ giới này được thành tựu Thiên nhĩ của Như Lai, Thiên nhĩ ấy không có tạp loạn. Đây gọi là Đại Bồ-tát được Thiên nhĩ thông viên mãn trí nghiệp.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát được Tha tâm trí thông và Chánh hạnh trí nghiệp viên mãn?
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có thể biết rõ được tâm biên tế thuở xưa của các loài hữu tình khắp cả mười phương tất cả thế giới và cũng biết rõ tâm hiện tại của các hữu tình ấy.
Lại nữa, tâm trí của hữu tình trong quá khứ nhân thô, nhân tế các thứ trí tâm cũng đều biết rõ. Hoặc hữu tình này tâm nhân tối thượng, hoặc hữu tình này tâm nhân vừa, hoặc hữu tình này tâm nhân thấp kém.
Lại nữa, hữu tình này căn tánh tương ưng với bố thí, hữu tình này căn tánh tương ưng với tịnh giới, hữu tình này căn tánh tương ưng nhẫn nhục, hữu tình này căn tánh tương ưng với tinh tấn, hữu tình này căn tánh tương ưng với thiền định, hữu tình này căn tánh tương ưng với tuệ thù thắng. Các tánh của hữu tình này lấy đại Từ làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy đại Bi làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy đại Hỷ làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy đại Xả làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy Đại thừa làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy Duyên giác làm nhân, căn tánh của hữu tình này lấy Thanh văn làm nhân.
Lại nữa, hữu tình này thành thục đầy đủ các sức thiện nhân. Lại các hữu tình này thành tựu đầy đủ các sức thiện duyên. Nếu hữu tình không thành tựu sức thiện nhân duyên thì sẽ tương ưng với sức nhân duyên đó sinh vào dòng họ thấp kém. Nếu hữu tình thành tựu đầy đủ sức thiện nhân duyên thì sẽ tương ưng với sức nhân duyên ấy, nên được sinh vào dòng họ giàu sang cao quý. Hoặc có hữu tình trong ý thanh tịnh, nhưng việc làm không thanh tịnh. Hoặc có hữu tình việc làm thanh tịnh nhưng trong ý không thanh tịnh. Hoặc có hữu tình việc làm thanh tịnh, ý cũng thanh tịnh. Hoặc có hữu tình ý không thanh tịnh, việc làm cũng không thanh tịnh. Này Xá-lợi Tử! Đây là căn nhân tâm trí sở hành thuở xưa của các hữu tình, tương ưng với trí thuyết pháp của ta. Đây gọi là Đại Bồ-tát Tha tâm trí lực.
Lại nữa, nhập giải Tha tâm trí lực, nếu hữu tình này nhân hành bố thí thì đời vị lai được quả bố thí. Hữu tình này nhân hành trí tịnh giới, thì đời vị lai được quả tịnh giới. Nếu hữu tình nhân thực hành nhẫn nhục, thì đời vị lai được quả nhẫn nhục. Nếu hữu tình thực hành tinh tấn, thì đời vị lai được quả tinh tấn. Nếu hữu tình nhân hành thiền định, thì đời vị lai được quả thiền định. Nếu hữu tình nhân thực hành tuệ thù thắng, thì đời vị lai được quả tuệ thù thắng. Nếu hữu tình thực hành nhân Đại thừa, thì đời vị lai được quả Đại thừa. Nếu hữu tình thực hành nhân Duyên giác, thì đời vị lai được quả Duyên giác. Nếu hữu tình thực hành nhân Thanh văn, thì đời vị lai được quả Thanh văn. Nếu hữu tình sống với nếp sống thế gian thì vị lai chịu quả thế gian.
Này Xá-lợi Tử! Hoặc là nhân duyên này hoặc là nhân duyên kia, đến đời vị lai các hữu tình này được căn tánh ấy, tất cả đều biết như thật. Đối với hữu tình ấy có khả năng thành thục không sinh nhàm chán mệt mỏi, cho đến vận dụng trí để biết rõ. Tâm căn bản này nếu là pháp khí chân chánh thì nói chánh pháp, đối với lời thuyết pháp sẽ được những gì, vì khiến không cho khởi lên các pháp khác, các nghiệp khác. Nếu các hữu tình trong đời hiện tại đối với các pháp rộng thực hành tầm từ, đối với những hành động tạo tác như thế Bồ-tát đều biết rõ như thật. Nếu các hữu tình có tâm tham trước Bồ-tát liền biết được tâm thức tham ấy một cách như thật. Nếu hữu tình ấy lìa tâm tham, Bồtát cũng biết lìa tâm tham một cách như thật. Nếu hữu tình ấy đắm trước tâm sân, Bồ-tát biết hữu tình ấy đắm trước tâm sân một cách như thật. Nếu hữu tình ấy lìa tâm sân, Bồ-tát cũng biết hữu tình ấy lìa tâm sân một cách như thật. Nếu hữu tình ấy đắm trước tâm si, Bồ-tát biết rõ hữu tình ấy đắm trước tâm si một cách như thật. Nếu hữu tình ấy lìa tâm si, Bồ-tát cũng biết hữu tình ấy lìa tâm si một cách như thật. Hoặc đây, hoặc kia, hữu tình tâm tạp nhiễm và chướng ngại, tất cả Bồ-tát đều có thể biết rõ như thật, biết như thật rồi lại vì nói pháp, muốn khiến tất cả hữu tình lìa mọi phiền não. Nếu Bồ-tát đến trong chúng hội quán sát như vậy, tất cả chúng hội hoặc đây hoặc kia, quán sát khắp tất cả hữu tình rồi liền vì nói pháp.
Này Xá-lợi Tử! Đời này đời sau và căn tánh trí của các hữu tình này, tất cả Bồ-tát đều biết rõ như thật. Tuy công dụng như vậy nhưng tự tâm của Đại Bồ-tát không có đắm trước và Tha tâm cũng không chỗ trụ. Vì sao? Vì trí của Đại Bồ-tát này biết rõ cho nên tâm không chỗ trụ; do ý nghĩ biết rõ nên tâm không chỗ trụ; do tuệ biết rõ, cho nên tâm không chỗ trụ; do thú hướng biết rõ, cho nên tâm không chỗ trụ; do tuệ thù thắng hiểu rõ, cho nên tâm không chỗ trụ; do giác ngộ biết rõ, cho nên tâm không chỗ trụ; do đoạn trừ các tập khí và các tùy miên sinh phiền não, lìa cấu quang không có các lỗi lầm, đối với các pháp phân biệt rõ ràng, đối với tất cả hữu tình tâm hạnh sai khác, có khả năng hiểu biết sâu xa nên tâm không chỗ trụ.
Này Xá-lợi Tử! Đối với hành tướng như vậy Bồ-tát hiểu rõ tâm trí hữu tình, cho nên gọi là Đại Bồ-tát được Tha tâm thông trí nghiệp viên mãn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát Túc trụ niệm thông và Chánh hạnh trí nghiệp viên mãn?
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với tất cả hữu tình trong mười phương thế giới, đầy đủ vô lượng thứ Túc trụ niệm thông, hoặc một ngày, hai ngày, ba, bốn, năm ngày, hoặc mười ngày, hai mươi cho đến năm mươi ngày, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô lượng trăm ngàn đời, cho đến trăm kiếp thành hoại, ngàn kiếp thành hoại, trăm ngàn kiếp thành hoại, vô lượng trăm ngàn kiếp thành hoại. Thuở xưa các loại hữu tình này có danh tự như vậy, có chủng tộc như vậy, có tên họ như vậy, sắc tướng như vậy, hình trạng như vậy, chỗ ở như vậy, ăn uống như vậy, sống lâu như vậy, khổ vui như vậy, sống chết như vậy và tuổi thọ như vậy, chết kia sinh đây, tất cả Bồ-tát đều biết rõ. Lại biết tự thân và các hữu tình, túc trụ niệm này không phải chỉ có một thứ; đời trước của tự thân và đời trước của Bổđặc-già-la người khác, túc trụ niệm này không phải chỉ một thứ, lại là nhân thiện căn niệm lực đời trước của chính mình và nhân thiện căn niệm lực đời trước của người khác, thiện căn của chính mình thành thục Bồ-đề, khiến hữu tình khác nhớ nghĩ thiện căn ấy mà phát tâm Bồ-đề. Lại như nhân khổ vui đời trước đều tùy thuận vô thường, khổ, vô ngã. Nó đã tùy thuận vô thường, khổ, vô ngã tức là không thích sắc tướng, không thích thọ dụng, không thích quyến thuộc, không thích giàu có, không thích làm Chuyển luân thánh vương, không thích làm chúa trời Đế Thích, không thích làm Đại phạm Thiên vương, không thích làm Hộ thế Thiên vương, tất cả chỗ sinh ra, vương vị tự tại và các dục lạc đều không ham thích. Bồ-tát suy nghĩ đúng đắn như vầy: “Chỗ này không thành thục được hữu tình lại chịu luân hồi, tùy thuận vô thường, khổ, vô ngã, chiêu tập nghiệp phiền não thuở xưa”. Bồ-tát nghĩ thế rồi liền sinh nhàm chán hối cải xa lìa và các nghiệp thiện bất thiện hiện tại, cho đến mạng căn đều nhàm chán không dám làm. Nhờ thiện căn thuở xưa khiến thành thục rộng lớn Chánh đẳng Chánh giác, lại còn có khả năng tích tập thiện căn trong hiện tại, trừ diệt tất cả cảnh giới hiểm nạn, thành thục chủng tử Phật, Pháp, Tăng liên tục không gián đoạn, thành thục nhất thiết trí trí chánh niệm duyên lực, đem chánh niệm này gia trì chính mình, gia trì pháp giới. Bồ-tát do không khuynh động cho nên không bị quấy nhiễu, thành thục định nghiệp cũng không nhiễu loạn não hại, dùng Xama-tha để tự gia trì tâm không mê loạn, áp dụng Tỳ-bát-xá-na để nhiếp thọ. Do trí hiện lượng cho nên không khiếp sợ, do nhớ nghĩ chân chánh cho nên không quên mất, hưởng mọi khoái lạc, tích tập các hạnh, giác ngộ không nhờ sự hướng dẫn của người khác; do tích tập hạnh cho nên hướng đến bờ giác, tất cả đều có khả năng đạt đến hạnh tích tập; do duyên lực chánh niệm cho nên không quên mất pháp trong quá khứ, hiện tại. Đây gọi là Đại Bồ-tát Túc trụ niệm thông trí nghiệp viên mãn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát đối với Thần cảnh thông và Chánh hạnh trí nghiệp viên mãn?
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đoạn trừ các hành, có thể tu tập đầy đủ dục thần túc định; đoạn trừ các hành, tu tập đầy đủ cần dũng thần túc định; đoạn trừ các hành, tu tập đầy đủ tâm thần túc định; đoạn trừ các hành, tu tập đầy đủ quán thần túc định. Bồ-tát tâm ham muốn siêng năng quán sát nhiếp thọ các pháp, có thể tu tập thành tựu xuất ly, lại hay tu tập mỗi mỗi bốn Thần túc này liền được thần cảnh thông trong hiện tiền và được thọ dụng. Bồtát dùng vô lượng thứ thần thông biến hóa ấy, thường luôn quán sát tất cả hữu tình. Mỗi một thần biến đều có thể điều phục tất cả hữu tình, thần biến này hay hiển hiện tất cả, hoặc thân, hoặc lực, hoặc gia trì, mỗi một thân tướng như vậy đều có thể điều phục các loại hữu tình. Mỗi một thân tướng như vậy đều có thể hiển hiện hoặc là thân tướng Phật, hoặc thân tướng Duyên giác, hoặc thân tướng Thanh văn, hoặc thân tướng trời Đế Thích, hoặc thân tướng Đại phạm vương, hoặc thân tướng trời Hộ thế, hoặc thân tướng Chuyển luân vương.
Lại nữa, mỗi mỗi thân tướng hiện ra đó đều có thể điều phục tất cả hữu tình và thương xót các loài bàng sinh. Lại thân tướng được hiện ra đó diễn nói chánh pháp cho các loài hữu tình, lại còn có thể hiện thế học như vậy, để điều phục sân nhuế cực trọng của tất cả hữu tình. Đó gọi là đại tráng sĩ lực, bốn phần Na-la-diên lực, cho đến các lực như vậy, chỉ dùng hai ngón tay dở hỏng núi Tu-di cao đến sáu mươi trăm ngàn du-thiện-na, rồi lại ném qua núi khác cách xa tám vạn bốn ngàn du-thiện-na. Ví như cầm một trái Am-ma-la từ phương này ném qua thế giới phương khác, nhưng sức thần cảnh thông của Đại Bồ-tát hoàn toàn không bị lay động. Bồ-tát lại có khả năng đem tam thiên đại thiên thế giới rộng lớn như vậy, dưới thời tận mé nước, trên thời lên đến trời Sắc cứu cánh, trong khoảng đó đặt hữu tình trong lòng bàn tay trải qua số kiếp, tất cả những con đường đi qua thảy đều hiển hiện. Đại Bồ-tát vì các loài hữu tình mạn, quá mạn, sân hận cực trọng, dùng sức thành tựu điều phục tất cả hữu tình mạn, quá mạn sân hận cực trọng đó, sau khi điều phục rồi lại vì nói pháp. Lại nương theo thần túc đó được trí gia trì, từ trí gia trì lại được các pháp như vậy. Lại dùng gia trì hóa biển cả thành dấu chân bò, từ dấu chân bò hóa thành biển cả. Lại dùng sức gia trì biến đống lửa thành hồ nước, hóa hồ nước thành đống lửa. Nói tóm lại, đối với pháp thượng trung hạ nhờ tất cả sự gia trì lẫn nhau cho nên đạt được thành tựu mọi sở hữu ở thế gian như vậy. Tất cả các hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Samôn, Bà-la-môn... đều không có khả năng làm chấn động thay đổi và có thể ẩn hiện.
Lại nữa, pháp gia trì này không có ở thế gian, duy chỉ Đức Phật Thế Tôn mới có. Lại dùng duyên lực gia trì khéo léo vì các loài hữu tình mạn, quá mạn, sân giận cực trọng diễn nói pháp vi diệu khiến tất cả đều được hoan hỷ.
Lại nữa, người tu tập thần túc đó đối với cảnh giới ma, quyến thuộc thiên ma và các phiền não đều không bị đoạn diệt, siêu việt tự tại trong cảnh giới Phật, lại còn có khả năng hiểu rõ cảnh giới ấy, đối với hữu tình không có tổn hại phần nhỏ nào, luôn luôn tương ưng tùy thuận tất cả thiện căn. Đó gọi là Đại Bồ-tát viên mãn trí nghiệp thần cảnh thông.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát thần thông lại còn gọi là trí? Vì Thiên nhãn quán sát sắc tướng một cách chân chánh cho nên gọi là thần thông, pháp trí huyễn hóa không tác chánh hạnh cho nên gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu đối với tất cả hữu tình thật có nghe thì gọi đó là thần thông, đối với lỗi lầm đời trước đều không thể được gọi đó là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu biết rõ tất cả tâm hạnh thì gọi là thần thông, đối với tâm diệt trí không diệt chánh hạnh thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đối với đời trước niệm ấy không ngại thì gọi là thần thông, nếu đối với trí ba đời đều không ngại thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đối với tất cả quốc độ tùy ý mà đến thì gọi là thần thông, đối với quốc độ hư không ngại thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lập pháp phần vị thì gọi là thần thông, quán sát pháp thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đối với các thế gian khéo léo hướng dẫn hóa độ thì gọi là thần thông, đối với các thế gian đều không bị trói buộc đắm trước thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Vượt qua tất cả cõi trời Đế Thích, Phạm thiên, Hộ thế thì gọi là thần thông, vượt qua tất cả Thanh văn, Duyên giác thì gọi là trí.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Những điều đã nói ở trên thì gọi là viên mãn thần thông trí nghiệp.
Này Xá-lợi Tử! Tất cả phiền não tán loạn, Đại Bồ-tát định phần tâm hạnh và trí gia trì cho đến tâm nhiễm tán loạn của tất cả hữu tình và hạnh định phần của Đại Bồ-tát, nên biết tích tập.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tích tập khắp nơi mà được an trụ. Đây gọi là Tam-ma-hy-đa.
Lại nữa, tất cả hữu tình này gọi là Tam-ma-hyđa. Tâm thường bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Ý thường bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Thiện xảo bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Trong ý hết sức bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Bố thí bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Trì giới bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Nhẫn nhục bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Tinh tấn bình đẳng gọi là Tam-mahy-đa. Thiền định bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Tuệ thù thắng bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Tất cả pháp ấy bình đẳng gọi là Tam-ma-hy-đa. Nếu đối với tất cả pháp bình đẳng thì tất cả hữu tình bình đẳng và tất cả Bồ-đề bình đẳng. Hiểu rõ tất cả như vậy thì gọi là Tam-ma-bát-na.
Lại nữa, nếu hiểu rõ tất cả các pháp như hư không thì gọi là Tam-ma-bát-na. Nếu hiểu rõ tất cả bình đẳng không tướng, không nguyện, không hạnh tích tập thì gọi là Tam-ma-bát-na. Lại nếu hiểu rõ tất cả âm thanh các pháp thì gọi là Tamma-bát-na. Lại đối với tất cả chỗ nhiêu ích hoặc không nhiêu ích, tâm đều bình đẳng như đất, tâm bình đẳng như nước, tâm bình đẳng như lửa, tâm bình đẳng như gió, tâm bình đẳng như hư không, cao thì lìa trạo cử, thấp thì không hôn trầm, khéo léo an trụ, tất cả đạo hạnh không lay động thì gọi là Tam-ma-hy-đa. Không phân biệt đạo hạnh của chính mình thì gọi là Tam-ma-bát-na. Tuy ngôn từ phong phú nhưng miệng không có lỗi lầm, không cao, không thấp cũng không động loạn, tương ưng tùy thuận, thành tựu tất cả pháp nghĩa thế gian, không bị nhiễm trước tất cả phiền não, xa lìa cảnh giới tầm từ ồn ào, pháp hạnh như vậy gọi là Tamma-hy-đa. Lại đối với tất cả thế gian mọi nghề nghiệp khéo léo đều có thể hiển hiện, đối với sự tướng ấy cũng không xả bỏ. Đại Bồ-tát đối với Thiền định ba-la-mật-đa hiểu rõ bình đẳng, nhưng lại phát sinh trí tuệ phương tiện, không bị tâm đại Bi duyên trói buộc, quán sát hữu tình hiểu rõ bình đẳng, phương tiện vắng lặng thật hết sức vắng lặng. Đó gọi là trí tuệ. Khiến trí tuệ Phật không hiện ra trước. Đó gọi là phương tiện. Nếu hiểu rõ các pháp bình đẳng không bị trói buộc thì gọi là trí tuệ; không chấp thủ tất cả các pháp thì gọi là phương tiện. Đối với pháp giới không tính toán suy nghĩ thì gọi là trí tuệ; nếu hiểu rõ thân Phật bình đẳng, không sinh hiện tiền tác chứng thì gọi là phương tiện. Đối với Pháp thân niệm không chỗ trụ thì gọi là trí tuệ; nếu hiểu rõ tiếng của Phật một cách bình đẳng lãnh ngộ phạm âm vi diệu đầy đủ thì gọi là phương tiện. Suy nghĩ pháp không thể nói thì gọi là trí tuệ; đối với tâm kim cang hiểu rõ bình đẳng, có khả năng an trụ tối thắng thì gọi là phương tiện. Đối với chánh niệm, niệm không tán loạn thì gọi là trí tuệ; đối với nguyện thuở xưa hiểu rõ bình đẳng, lại có khả năng thành thục hữu tình an trụ tối thắng thì gọi là phương tiện. Đối với tất cả hữu tình niệm ngã không thật thì gọi là trí tuệ; niệm thiện căn ấy chứng không sở chứng, đó là phương tiện. Niệm không căn ấy và không chấp trước, đó là trí tuệ; đối với cõi Phật hiểu rõ bình đẳng khiến thanh tịnh hiện tiền, đó là phương tiện. Niệm cõi ấy như hư không, đó là trí tuệ; lại niệm Bồ-đề đạo tràng hiểu rõ bình đẳng khiến hiện tiền trang nghiêm, đó là phương tiện. Lại niệm chấm dứt, hoặc các pháp nhiễm, đó là trí tuệ; nếu đối với chuyển pháp luân hiểu rõ bình đẳng, có khả năng ứng với cơ duyên, đó là phương tiện. Lại chuyển ấy không chuyển, đó là trí tuệ; cho đến hạnh Bồ-đề phần hiểu rõ bình đẳng, có thể xả ly hiện tiền, đó là phương tiện. Cho đến niệm ấy đối với tất cả pháp không có tương ưng và các tùy hoặc. Vì trí tuệ thiền định diệu lạc của Như Lai không có nhiệt não, đối với tướng, không tướng tất cả phan duyên hàng phục thảy đều hiểu rõ. Tất cả Đại Bồ-tát định, phi định vị, do khéo xuất ly tương ưng như vậy, đó là trí tuệ. Các Đại Bồ-tát đạt được thiền định vô tận Ba-la-mật-đa, các việc ma không thể tiện lợi, khéo léo an trụ trong pháp khí chư Phật.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói trí tuệ phương tiện, Đại Bồ-tát đối với Thiền định ba-lamật-đa có thể xuất ly.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát được thần thông không thoái chuyển, hoặc dùng ý tưởng, hoặc dùng sự nghiệp, đều là việc làm thần thông du hý, dù ở nơi nào cũng được an trụ, hiện các việc làm, các việc làm ấy đều là thần thông trí lực tối thắng nhất thế gian. Đối với các việc làm tuy đầy đủ các tướng khéo léo lựa chọn, nhưng lại hiện chứng pháp đệ nhất thế gian và xuất thế gian. Thần thông của Bồ-tát thị hiện tướng vô tận, cũng như hư không bao trùm khắp tất cả. Thần thông của Bồtát hiện tất cả tướng sắc vô sắc lại có thể tùy thuận nhập vào tất cả tiếng, nhưng lại bình đẳng đối với tiếng trước. Thần thông Bồ-tát quán sát tâm hạnh của tất cả hữu tình, đối với thể tánh của hữu tình ấy tùy duyên hiển hiện, đối với các kiếp tùy theo sự suy nghĩ ấy, tiền tế hậu tế không gián đoạn tất cả chỉ hiện thần cảnh biến hóa, quyết định hiện tiền không có hành tướng riêng khác. Thần thông Bồtát đạt trí lậu tận quán thời phần rồi nhưng không siêu việt thù thắng hơn các pháp lựa chọn thế gian, tất cả Thanh văn, Duyên giác khó có thể đo lường. Thần thông Bồ-tát nghĩa ấy sâu xa phá tan bọn ma, chế phục ngoại đạo, đối với Bồ-đề tràng có khả năng tổng trì tất cả pháp Phật, ý chí cầu chánh giác, tùy theo từng chủng loại chuyển bánh xe chánh pháp. Khéo léo điều phục tất cả hữu tình, đến vị quán đảnh được pháp tự tại.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thần thông không thoái chuyển, sự nghiệp làm ra đều không ngã mạn. Tâm ấy thanh tịnh khéo léo điều phục chân chánh, sáng suốt tự tại, lìa các nhiễm dục và tùy phiền não, thành tựu tất cả thiện nghiệp vi diệu tịch tĩnh; đối với thiền định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-mabát-để, khởi suy nghĩ chân chánh không bị trói buộc, bởi dòng sinh tử. Vì sao? Vì đã giải thoát mọi sinh nghiệp phiền não trói buộc điên đảo chấp trước. Thế nên không bị sinh tử trói buộc mà lại không phá hoại Đại thừa chứng thành tất cả pháp Phật, nhưng pháp Phật ấy tìm cầu khắp mười phương thật không thể được. Lại tất cả pháp đều thuận với pháp Phật. Thế nên pháp Phật tức là tất cả pháp, nếu tìm cầu tất cả pháp như thật thì cũng không thể được. Đối với toán số và không phải toán số, bình đẳng siêu việt không có một phần nhỏ nào. Đây gọi là không có pháp cũng không phải không pháp. Nếu có thể biết rõ pháp và phi pháp thì không chấp trước vào pháp này, lại cũng không chấp trước vào nghĩa của pháp này. Nếu chấp trước vào nghĩa thì không phải là cái lợi đại nghĩa. Nếu lại đối với nghĩa không phải nghĩa đều không chỗ trụ. Giá như thấy được nghĩa ấy nhưng trí lại vô ngại; nếu trí vô ngại tức là không biến kế. Nếu không biến kế thì không có đối tượng. Nếu không có đối tượng thì không chỗ trụ. Nếu không chỗ trụ thì không gián đoạn. Nếu không gián đoạn thì không hư tác. Nếu không hư tác thì không mê loạn. Nếu không mê loạn thì không có ngã, ngã sở. Nếu không có ngã, ngã sở thì không tranh luận. Nếu không tranh luận thì là pháp Sa-môn. Nếu không tranh luận thì là pháp Sa-môn, tức là dụ hư không ấy bằng phẳng như lòng bàn tay. Nếu dụ hư không ấy bằng thẳng như lòng bàn tay thì không đọa vào Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu không đọa vào tất cả chỗ thì không có hình sắc và không hiển sắc, cũng không phần vị. Nếu không hình sắc không hiển sắc và không phần vị thì tùy thuận giác ngộ như vậy. Nếu có thể tùy thuận như vậy thì tùy chỗ giác ngộ như vậy.
Sao gọi là tùy thuận giác ngộ và tùy chỗ giác ngộ? Nghĩa là, nếu biết rõ pháp cực vi ấy đều không thể được thì đó là tùy thuận giác ngộ và chỗ giác ngộ. Phải nên hiểu rõ điều đó một cách bình đẳng, thì có khả năng thành tựu pháp hy hữu của Đại Bồ-tát.
Sao gọi là pháp hy hữu của Đại Bồ-tát? Nghĩa là, đối với Từ không ngã, Bi không chúng sinh, Hỷ không thọ giả, Xả không Bổ-đặc-già-la. Bố thí không bỉ hối cùng với tâm trì giới sinh tâm tịch tĩnh; nhẫn nhục phát sinh tâm vô tận; tinh tấn phát sinh tâm tối thượng; thiền định lìa tâm tán loạn; tuệ thù thắng không có hý luận; niệm xứ không niệm xứ tâm tác ý; chánh đoạn tùy tâm sinh diệt; thần túc lìa tâm hy hý. Đối với tín, tấn, niệm, định, tuệ khởi tâm vô ngại tự nhiên hiểu rõ bình đẳng. Năm căn, năm lực như vậy khởi tâm khuất phục không tổn hoại. Đối với bảy Giác chi khởi tâm phân biệt Bồ-đề. Đối với tám Thánh đạo khởi tâm quán sát chánh giải. Đối với Xa-ma-tha khởi tâm bình đẳng. Đối với Tỳ-bát-xá-na phát khởi tâm hy hữu, biết hết quán sát Thánh đế, thành thục hữu tình, phát khởi bản tâm thanh tịnh. Đối với pháp giới nhiếp thọ chánh pháp, tâm không tạp loạn. Đối với pháp vô sinh khởi tâm bất khả đắc. Đối với địa không thoái chuyển khởi tâm chuyển không chuyển. Đối với tướng được khởi tâm vô tướng, trang nghiêm Bồ-đề đạo tràng, khởi tâm tùy thuận ba cõi, chế phục quần ma, khởi tâm nhiếp thọ hữu tình. Đối với Bồ-đề tự tánh các pháp, khởi tâm tùy thuận giác ngộ. Đối với chuyển pháp luân khởi tâm không sở chuyển. Đối với đại Niết-bàn khởi tâm tùy hiện luân hồi tự tánh bình đẳng.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói Đại Bồ- tát đối với tùy thuận giác ngộ và chỗ giác ngộ có khả năng thành tựu pháp hy hữu.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là thiền định? Nghĩa là, Bồ-tát đối với thiền định không có đắm trước, có thể viên mãn Tam-ma-địa của Như Lai, lại không ham thích mùi vị thiền duyệt. Các Đại Bồ-tát tuy vui thích thân thể nhưng không đắm trước, đối với thiền định thường thích đại Bi. Vì lý do đó cho nên giữ lại các hoặc nhiễm. Lại đối với thiền định thích Đẳng trì không thoái chuyển. Vì lý do đó cho nên nhàm chán Dục giới. Lại đối với thiền định thích tu thần thông nghiệp. Vì lý do đó cho nên biết rõ tâm hạnh của tất cả hữu tình. Đối với thiền định lại thông đạt thật tế. Vì lý do đó cho nên tâm trí được tự tại. Lại đối với thiền định được trí Đẳng chí. Vì lý do đó cho nên bao trùm tất cả Sắc, Vô sắc giới. Đối với thiền định đạt được vắng lặng tối thượng. Vì lý do đó cho nên đối với Thanh văn, Duyên giác, Tam-ma-bát-để thường cầu tăng trưởng. Đối với thiền định lại không động loạn. Vì lý do đó cho nên trụ rốt ráo tối thượng. Lại đối với thiền định thường thực hành đối trị. Vì lý do đó cho nên không trụ tập khí tương tục. Đối với thiền định được tuệ tối thắng. Vì lý do đó cho nên đệ nhất trong các thế gian. Lại đối với thiền định, trước hết là thông hiểu tâm ý của hữu tình. Vì lý do đó cho nên tối thượng trong các hữu tình. Lại đối với thiền định thường được tự tại vui thích Tam bảo. Vì lý do đó cho nên đạt được công đức vô tận của Như Lai. Lại đối với thiền định được thù thắng tối cao. Vì lý do đó cho nên thường trụ Tam-ma-hy-đa. Lại đối với thiền định được tự tại chuyển. Vì lý do đó cho nên có khả năng viên mãn tất cả sự nghiệp. Lại đối với thiền định đều không lãnh thọ. Vì lý do đó cho nên được đại trí tuệ.
Này Xá-lợi Tử! Đó là thiền định của Đại Bồtát.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thiền định ba-la-mậtđa lấy gì làm chính? Lấy tâm quyết định làm chính, lấy tâm nhất cảnh làm chính, tâm không tán loạn làm chính, tâm an trụ làm chính, tâm Xa-ma-tha làm chính, tâm Tam-ma-địa làm chính; lấy căn đẳng trì làm chính, lực đẳng trì làm chính, chánh đẳng đẳng trì làm chính, định giải thoát làm chính, chín Định thứ đệ làm chính, bất tương vi làm chính, thiện pháp làm chính, nhiếp phục phiền não oán tặc làm chính; viên mãn Tam-ma-địa uẩn làm chính, Bồ-tát Tam-ma-địa làm chính, Phật Tamma-địa làm chính.
Này Xá-lợi Tử! Pháp tịch tĩnh như vậy gọi là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Thiền định ba-la-mậtđa làm chính.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:
Thiền định giải thoát Ba-la-mật
Thường trong nhiều kiếp hành hạnh này
Ý không đắm trước pháp thế gian
Đó là Tịnh chiếu Tam-ma-địa
Nếu thông đạt các Ba-la-mật
Như cung điện trang nghiêm tối thắng
Hay có khả năng lìa dơ bẩn
Đó là Nguyệt quang Tam-ma-địa
Thành tựu vô ưu giới đức quang
Đối với các pháp tự tại chuyển
Pháp này cao dũng như Tu-di
Đó là Pháp quang Tam-ma-địa
Đối với pháp bảo địa trang nghiêm
Chánh pháp tổng trì diệu thanh tịnh
Tâm này hay xét tâm người khác
Là trí chánh pháp chuyển tự tại
Định hay bẻ gãy các phiền não
Như cờ châu võng không chướng ngại
Giải thoát tối thắng trong mười lực
Là Tam-ma-địa phá ma lực
Thắng không thể thắng đen Tu-di
Hiệu là Trí quang thanh tịnh nhãn
Nếu thường chắp tay khen lời hay
Diệu trụ trì địa Tam-ma-địa
Vì hay hiểu rõ không vô tướng
Vô nguyện tịch tĩnh địa cũng vậy
Pháp niệm công đức trí tự tại
Chư Phật Tam-ma-địa vô biên
Rồng Tô-nan-đà sư tử vương
Hoặc đến hoặc đi thường an tĩnh
Nhãn lực thanh tịnh không lay động
Định tên "xa lìa các thứ tưởng"
Kim cang định như kim cang địa
Cao hiển không động bằng Tu-di
Âm thanh thanh tịnh vang tất cả
Tam-ma-địa xa lìa phiền não
Tất cả tướng công đức to lớn
Cũng như hư không không ngằn mé
Tăng trưởng đầy đủ trí tuệ niệm
Biện tài tuyên nói đều vô tận
Quán sát hữu tình khiến làm thiện
Vô biên vô tận không tổn giảm
Từ hay điều nhu, Bi thiện căn
Hỷ nhập cực Hỷ, Xả hai chướng
Giải thoát kiên cố sinh hoan hỷ
Như cờ kim cang thắng liên hoa
Biển Trí trí quang đều không động
Gọi là pháp nghĩa Tam-ma-địa
Giải thoát vô biên biển ánh sáng
Định tuệ Như Lai nguyện trang nghiêm
Chánh giác vô thượng diệu tịch tĩnh
Tên định Bất động pháp điều phục
Ánh sáng nguyện được cõi trang nghiêm
Khiến ý hữu tình đều hoan hỷ
Luôn luôn tùy thuận đạo chánh giác
Trang nghiêm bảo kế Ba-la-mật
Nhanh chóng như gió không hạn cuộc
Cũng như kho biển chứa các báu
Thí chân cam lồ môn giải thoát
Nở hoa bảy giác Tam-ma-địa
Nghĩa đại thần thông diệu nhiếp thọ
Thông đạt vô biên đều viên mãn
Hiện khắp cảnh giới Phật như vậy
Gọi là Tích thạch sơn vương định
Nếu tu Thiền định ba-la-mật
An trú cảnh giới định Đẳng dẫn
Bồ-tát vô lượng môn công đức
Đó là Tịch tĩnh Tam-ma-địa
Đối với Đẳng dẫn tùy tác ý
Nói ra điều gì đều phép tắc
Cho đến đi ngồi trong oai nghi
Như vậy luôn luôn không buông lung
Các pháp tịch tĩnh tối thắng này
Không ngã, không nhân, không thọ giả
Cũng không phân biệt phi phân biệt
Chỉ vô dư này lên bờ giác
Nếu tu Thiền định ba-la-mật
Sẽ được biển công đức vô biên
Các chúng Bồ-tát có trí tuệ
Phải nên thương xót các hữu tình.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tuệ thù thắng Ba-lamật-đa của Đại Bồ-tát?
Này Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát thực hành hạnh Bồtát không thoái chuyển, đối với chánh pháp tạng thù thắng nghĩa lợi phải thọ trì, đọc, tụng lắng nghe rốt ráo, khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người, được tướng tuệ thù thắng.
Tuệ thù thắng ấy sao gọi là tướng? Sao gọi là giải nhập? Nghĩa là đối với tướng tuệ thù thắng đã nghe tùy ý hiểu rõ.
Lại nữa, sao gọi là tướng đã nghe? Nghĩa là, tướng ham muốn, tướng ý nguyện, tướng khéo hòa hợp, tướng Thiện tri thức, tướng biến hóa, tướng hồi hướng, tướng cao quý, tướng tôn trọng, tướng xoay bên phải, tướng hết sức tự tại, tướng thân cận, tướng không nghe ngoại cảnh, tướng thừa sự, tướng tác ý, tướng không tán loạn, như tướng cầu của báu, như tướng cầu thuốc thang, tướng diệt tất cả bệnh khổ, tướng niệm pháp khí, tướng thông đạt Bồ-đề, tướng đối trị giác ngộ, tướng nhập Phật trí, tướng nghe không nhàm chán, tướng tập pháp thí, tướng thí rồi không hối hận, tướng thích gần đa văn, tướng khéo làm hoan hỷ lãnh nạp, tướng toàn thân hoan hỷ, tướng tâm rất vui thích, tướng lắng nghe không mệt mỏi, tướng thích nghe chánh pháp, tướng thích nghe chánh hạnh, tướng thích nghe không xúc vô trí, tướng thích nghe Ba-la-mật-đa, tướng thích nghe chánh pháp Bồ-tát tạng, tướng thích nghe nhiếp sự, tướng thích nghe phương tiện khéo léo, tướng thích nghe phạm hạnh, tướng thích nghe thần thông, tướng thích nghe bốn Niệm xứ, tướng thích nghe bốn Chánh đoạn, tướng thích nghe bốn Thần túc, tướng thích nghe mười hai duyên sinh, tướng thích nghe vô thường, khổ, vô ngã tịch tĩnh, tướng thích nghe Không, Vô tướng, Vô nguyện, giải thoát, tướng thích nghe không tích tập căn hạnh bất thiện, tướng thích nghe tích tập hạnh thiện căn, tướng thích nghe sống một mình, tướng thích nghe chuyển pháp luân, tướng đối với tạp nhiễm mà không tưởng tán loạn, tướng điều phục tất cả tưởng phiền não, tướng hướng về người trí, tướng thân cận Hiền thánh, tướng xa lìa không luật nghi, tướng thích nghe Thánh nhân, tướng thích nghe năm căn, tướng thích nghe tùy niệm quán sát, tướng thích nghe bảy Giác chi, tướng thích nghe tám Thánh đạo, tướng thích nghe mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô lượng, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai.
Này Xá-lợi Tử! Đối với các điều đó tức là văn, tu, tuệ. Vì sao? Vì ham muốn chánh pháp Bồ-tát tạng, khi nghe pháp rồi có khả năng biết rõ, biết rồi tu hành. Nếu ý nguyện muốn lắng nghe chánh pháp Bồ-tát tạng, khởi tâm hòa hợp, gần Thiện tri thức, hoặc biến hóa, hoặc nhiếp thọ, hoặc xoay bên phải, hoặc hết sức tự tại. Nếu thân cận đa văn, không nghe ngoại cảnh, an trụ đa văn, siêng năng dũng mãnh tác ý. Như tưởng mong cầu đồ báu, như tưởng mong cầu y vương, tưởng diệt tham, sân, si; tưởng thọ trì. Nếu thông đạt chỉ thú của các pháp và đối với ý vui khiến ý tăng trưởng, lắng nghe lãnh thọ không nhàm chán; nghe bố thí rồi hay phấn khởi mạnh mẽ bố thí; nghe nói giới rồi hay hộ trì tịnh giới; nghe nói nhẫn nhục rồi hay nhẫn nhục; nghe nói tinh tấn rồi không có biếng nhác; nghe nói thiền định rồi không có tán loạn; nghe nói tuệ thù thắng rồi tâm khởi tận hết lậu hoặc thích đa văn thù thắng; nghe pháp rồi thân tâm vui thích; nghe Đại thừa rồi lại sinh thắng dục; nghe việc nhiếp thọ rồi tâm hành nhiếp thọ; nghe bốn Niệm xứ rồi thân thọ tâm pháp niệm trụ; nghe bốn Chánh đoạn rồi liền diệt trừ bất thiện đã sinh, xả bỏ bất thiện chưa sinh, khiến tăng trưởng thiện căn đã sinh, khiến phát khởi thiện căn chưa sinh; nghe nói lìa tranh cãi thân tâm dục đều được khinh an; nghe nói thiền định tâm hành quyết định; nghe bốn Vô lượng rồi khởi đại Từ đối với tất cả hữu tình, khởi tâm đại Bi đối với những ai đắm trước, khởi đại Hỷ đối với các chánh pháp, khởi đại Xả đối với điều bất thiện; nghe năm Căn rồi tâm hay thực hành tín, tấn, niệm, định, tuệ; nghe bảy Giác chi tâm sinh giác ngộ tất cả các pháp; nghe tám Thánh đạo khởi tâm hướng đến Niết-bàn. Nếu đối với mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Vô lượng, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai cho đến vô lượng pháp Phật, nên học như vậy, phát tâm Chánh đẳng Chánh giác, khi đã nghe rồi mới có thể biết rõ, biết rồi mới có thể tu học.
Này Xá-lợi Tử! Như vậy là ta đã nói về các tướng đã nghe, tùy ý hiểu rõ. Đó là Đại Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa thì mới có khả năng đối với chánh pháp Bồ-tát tạng nghĩa lợi thù thắng, thọ trì đọc tụng, lắng nghe, khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người, được các pháp chánh hạnh.
Sao gọi là các pháp chánh hạnh? Nghĩa là, đối với pháp này, như trên đã nói an lập chánh hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Pháp chánh hạnh nghĩa là tùy thuận nhiếp thọ các pháp. Vì sao? Vì pháp không chấp trước. Đó tức là chánh hạnh. Nếu còn chấp trước thì không thể có. Đối với pháp Bổ-đặc-giàla mà cầu xuất ly cũng không có điều đó. Đối với pháp Bổ-đặc-già-la không có chấp trước thì gọi là chánh hạnh, được vô ngại hoặc, việc này đương nhiên. Thế nên, các vị tu hành đối với chánh pháp này tùy thuận nhiếp thọ không bị chướng ngại. Đó là chánh hạnh.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu đối với các pháp và pháp tôn trọng mà không chấp, không giữ, không sinh, không diệt và đối với các pháp như tùy thuận chánh lý, cũng không chấp thủ, nói như vậy tức là chánh hạnh. Như nay ta nói không có một phần nhỏ nào, cũng không có sở kiến, không thấy, không chấp thủ, như vậy là tướng các pháp.
Sao gọi là tướng? Đó là có tướng, không tướng. Vì sao? Vì tướng này không tướng nên gọi là không tướng.
Lại nữa, tướng này đối với tất cả pháp đều không biết rõ, không tướng này vốn không thấy, không giữ được, như vậy tức là chánh hạnh. Thế nên đối với chánh hạnh này phải nên tu tập hiện chứng các pháp, không bị chướng ngại.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này liền nói kệ rằng:
Đối với Bồ-tát tạng
Không nên sinh quyết định
Các người trí như vậy
Được an trụ chánh hạnh.
Lại nếu đối pháp này
Mà sinh ra chấp thủ
Và khởi chấp một bên
Đó không phải chánh hạnh.
Pháp tuy không thể được
Nhưng chớ hiểu là không
Huống là chánh diệu pháp
Không đồng với hư không.
Nếu pháp đồng hư không
Thế gian không lãnh hội
Do vì không lãnh hội
Nên không phải chánh hạnh.
Lại chánh diệu pháp này
Không thủ không không thủ
Thế nên pháp phi pháp
Không nên sinh chấp thủ.
Do không chấp thủ đó
Mới chánh là pháp tướng
Hành tướng như thế đó
Mới gọi là chánh hạnh.
Lại chánh diệu pháp này
Chưa từng có chấp trước
Tùy thuận mà biết rõ
Không thể bị tổn hại.
Do không bị tổn hại
Người trí không vin vào
Hành tướng như thế ấy
Mới gọi là chánh hạnh.
Lại nữa, các người trí
Trụ công đức thiểu dục
Đối với chánh pháp này
Tương ưng khéo tu hành.
Nếu an trụ các thiện
Hành oai nghi chánh hạnh
Đối với chỗ hướng đến
Tùy ứng được thanh tịnh.
Chỗ hướng đã thanh tịnh
Biết chánh pháp như vậy
Thì dù ở nơi nào
Rõ tâm ý hữu tình.
Lại nữa, các người trí
Biết rõ tâm ý rồi
Đối hành tướng như vậy
Hay tuyên nói chánh pháp.
Lại pháp thậm thâm này
Thông đạt Thắng nghĩa đế
Đối với nghĩa như vậy
Thường đạt được quyết định.
Lại nữa, các người trí
Đa văn như biển cả
Do sâu rộng như vậy
Hành vô lượng công đức.
Không mượn văn và nghĩa
Hay thông đạt chánh lý
Đối vô lượng văn nghĩa
Được kiên cố bất động.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng nghĩa lợi thù thắng, nghe rồi diễn nói cho mọi người, đạt được tuệ thù thắng sáng suốt, nó có khả năng diệt trừ các pháp vô minh tối tăm mù mịt cản trở và mau chóng thành tựu tuệ quang thù thắng, biết rõ pháp như thật thiện và bất thiện, cho đến mạng chung đoạn trừ rốt ráo các pháp bất thiện, nghe các pháp thiện như đã giác ngộ và có khả năng tuyên nói pháp thiện vắng lặng. Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Ví như vào chỗ tối
Các sắc tướng hiện tiền
Mắt ấy không thể thấy
Lửa sáng soi tối tăm.
Kiếp hiện tại như vậy
Có người sinh tử kia
Đối pháp thiện, bất thiện
Không nghe cũng không biết.
Vì do nghe pháp này
Không gây ra tội lỗi
Và trừ lợi phi nghĩa
Mau chóng đến Niết-bàn.
Thích thân cận thầy, bạn
Tăng trưởng thêm văn tuệ
Nhờ tuệ thanh tịnh ấy
Nên được nghĩa diệu lạc.
Người trí nghe nghĩa ấy
Thấy phi pháp xuất ly
Đối tịnh pháp dũng mãnh
Được diệu lạc thù thắng.
Nếu đối Bồ-tát tạng
Nghe rồi trụ pháp tánh
Ánh sáng chiếu thế gian
Chân hành hạnh Bồ-đề.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng nghĩa lợi thù thắng, ham muốn thanh tịnh; đối với người thọ trì đọc tụng chánh pháp, phải nên phát khởi tưởng Thiện tri thức, dũng mãnh tinh tấn, tâm chân chánh nhiếp thọ. Vì muốn phát khởi chánh nguyện và bốn chánh đoạn nên đối với tất cả pháp tướng không bị chướng ngại.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Tôn trọng Thiện tri thức
Được làm thầy nói pháp
Khiến chúng nghe pháp ấy
Thường trụ trong chánh hạnh.
Không tiếc thân mạng này
Siêng năng càng tối thượng
An trụ trong thật trí
Được thắng tuệ thanh tịnh.
Tự biết rõ chánh pháp
Tịnh tín đều thông đạt
Do giác ngộ xuất ly
Như Phật rộng khai thị.
Cũng như các người trí
Thông đạt văn cú nghĩa
Thường tu hạnh thanh tịnh
Được dự các học vị.
Tất cả phần nhiễm tịnh
Đều không bị nhiễm trước
Vì không bị nhiễm trước
Đối pháp không bị giảm.
Do tinh tấn lạc dục
Thân mau chóng khinh an
Lắng nghe pháp này rồi
Trí tăng không thất niệm.
Thường trụ vào trí niệm
Rõ pháp thiện, bất thiện
Do học thừa tối thượng
Thông đạt lực niệm tuệ.
Biết ý hữu tình ấy
Như ta trong nhiều kiếp
Nhờ tu học pháp này
Được thắng tuệ thanh tịnh.
Rõ ý hữu tình rồi
Vì khai thị chánh pháp.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với pháp môn Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa sáng suốt thanh tịnh vi diệu và các Thánh giả phát khởi chánh kiến, như lời Đức Phật dạy mà tu hành, học theo hai nhân duyên: Một là đạt được lời nói người khác; hai là tự tác ý. Nếu các Bồ-tát đối với hạnh tương ưng chánh pháp Bồ-tát tạng này mà không thể lắng nghe, hoặc nghe rồi, đối với pháp luật sâu xa Tam-ma-địa chỉ được một phần nhỏ, hoan hỷ cho đó là đủ, thì nên biết người ấy ôm lấy tăng thượng mạn đọa vào lưới ma; đối với sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn khổ não và tùy phiền não đắm trước năm dục lạc, luân hồi liên tục. Như Lai đem điều đó dạy cho các hữu tình, bởi vì hữu tình luôn xuôi dòng hữu lậu không thể giải thoát.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có người thân cận Pháp sư, lắng nghe biết rõ được chánh pháp này, không tạo tội, xa lìa việc lợi phi nghĩa, tăng trưởng văn tuệ, thấy được Niết-bàn vi diệu, dũng mãnh thanh tịnh, đạt được cái vui thù thắng vi diệu. Đại Bồ-tát nên biết, người này đối với chánh pháp Bồ-tát tạng pháp luật hy hữu nghĩa lợi thù thắng này, thọ trì đọc tụng, cho đến lắng nghe diễn giải rộng rãi, chỉ dạy cho mọi người được hạnh tương ưng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát đối với chánh pháp Bồ-tát tạng này mà không chịu lắng nghe, thì không thể đạt được ý tương ưng ấy, như vậy càng trái với Thánh đạo. Đức Như Lai đem điều này để dạy cho hữu tình, đối với già, chết, giải thoát phải thường tác ý.
Sao gọi là tác ý tương ưng? Nghĩa là, Đại Bồtát này phải xa lìa tương ưng và không tương ưng. Đó là ý tương ưng, đối với ý tương ưng không có khái niệm.
Lại nữa, Bồ-tát ý tương ưng là đối với tiếng vang không thể phát khởi, các A-la-hán cũng không thể phát, nhưng lại biết rõ chỗ phát ra tiếng vang ấy không thể được, đối với tiền tế hậu tế tùy chỗ quán xét, nên sinh chỗ nào diệt chỗ nào. Nếu thông đạt được tiếng vang đã nói quá khứ, thì quá khứ đã diệt. Nếu thông đạt tiếng vang đã nói vị lai thì vị lai chưa đến. Nếu thông đạt tiếng vang đã nói hiện tại, thì hiện tại không dừng trụ. Như vậy đã nói chưa nói và sẽ nói tìm cầu khắp tất cả cũng không thể được. Nên học ý tương ưng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát nên học ý tương ưng như vậy.
Sao gọi là quán sát? Nghĩa là, Bồ-tát này quán tự tánh của tất cả pháp vốn diệt, quán tự thể của tất cả pháp vốn vắng lặng, quán tự tánh của tất cả pháp bình đẳng, quán tất cả pháp rốt ráo không sinh, quán tất cả pháp rốt ráo không khởi, quán tất cả pháp rốt ráo không tập, quán tất cả pháp rốt ráo không diệt. Lúc đó nói quán như thật cũng không phải sở quán. Như vậy không phải sở quán, không phải không sở quán. Đó gọi là ý quán sát. Nên học như vậy. Nếu có Bồ-tát đối với chánh pháp này mà còn nghi hoặc tối tăm không thể hiểu, cho rằng pháp này không phải là môn giải thoát, đoạn mọi siêng năng dũng mãnh, không khởi thông đạt, ý không tương ưng với các điều đó.
Lại nữa, đối với pháp chánh kiến này liền thấy Như như. Sao gọi là các pháp tức là thấy Như như? Nghĩa là không thấy, không thấy như vậy tức là không sinh khái niệm, không sinh khái niệm tức là không tích tập.
Sao gọi là không tích tập? Nghĩa là, đối với khái niệm không có đối ngại. Do vậy Như Lai đã nói quán sát các hành vô sinh vô tác, đối với chánh kiến đã đạt được hạnh xuất ly chân chánh.
Lại nữa, hạnh xuất ly chân chánh lấy gì làm nhân? Nghĩa là tất cả pháp tức là pháp Phật. Thế nên, người muốn cầu hạnh xuất ly chân chánh thì phải thọ trì đọc tụng chánh pháp Bồ-tát tạng nghĩa lợi thù thắng, diễn nói cho mọi người, cho đến đối với chánh pháp này được ý tương ưng. Đó gọi là hạnh xuất ly chân chánh.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa, đối với pháp môn sáng suốt thanh tịnh vi diệu này, giác ngộ chánh thiện, đối với ý xứ quán sát ý sinh nhập giải.
Những gì là ý xứ? Sao gọi là nhập giải? Nghĩa là, Bồ-tát đối với Tam-ma-địa gia trì xứ, Tỳ-bátxá-na tầm từ xứ, hy vọng tối thượng xứ, tâm ham muốn xứ, liên tục không gián đoạn xứ, vô thường xứ, nhân duyên xứ, duyên sinh xứ; vô ngã, vô nhân, vô thọ giả xứ; không trụ không thể không trụ, không khứ không thể không khứ xứ; không tập không hoại nhân quả xứ, Không, Vô tướng, Vô nguyện tập quán xứ; không phải không, không tướng, không nguyện, sở thú xứ; Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để phát sinh xứ; thần thông trí sở thủ xứ, không phải lậu tận xứ, quán sát vô sinh xứ, không phải hạnh xuất ly xứ, quán sát tất cả hữu tình vô ngã xứ, không xả đại Bi xứ, thấy sự sợ hãi của tất cả chúng sinh xứ, tâm có chấp trước xứ, xuất ly tham xứ, không lìa pháp tham hiện hành xứ, bỏ năm thứ dục lạc xứ, không bỏ pháp vui xứ, lìa tất cả hý luận xứ, không bỏ phương tiện khéo léo xứ.
Tất cả pháp như vậy đều hiểu rõ cả.
Này Xá-lợi Tử! Đó là ý xứ nhập giải.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đối với ý xứ ấy sao gọi là đạo chánh lý? Nghĩa là lấy ý là đạo; lấy môn là đạo; lấy diệu môn là đạo; lấy nhân là đạo; lấy hợp tập là đạo; lấy không trái nhau là đạo; lấy không tranh luận là đạo; lấy xả là đạo; không nhập không phải không nhập là đạo; không hý luận là đạo; không hủy báng là đạo; không tăng là đạo; không giảm là đạo; không sinh là đạo; không thay đổi là đạo; không đối trị là đạo; chân như là đạo; thật tế là đạo; Như Lai là đạo; không sai khác là đạo; Như như là đạo; ba đời bình đẳng là đạo; phân biệt không trụ sắc, thọ, tưởng, hành, thức là đạo; không trụ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới là đạo; không trụ nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới là đạo; không trụ tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới là đạo; không trụ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới là đạo; không trụ thân giới, xúc giới, thân thức giới là đạo; không trụ ý giới, pháp giới, ý thức giới là đạo; tùy thuận thắng nghĩa là đạo; tùy thuận chánh trí là đạo; tùy thuận liễu nghĩa Khế kinh là đạo; tùy thuận chánh pháp là đạo.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là đạo chánh lý. Đại Bồ-tát đem ý nhập giải đối với đạo chánh lý cho nên quán sát không có đối tượng để quán sát, như thế là không phải quán sát, không phải không quán sát. Đó gọi là ý quán sát.
Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát dùng ý tương ưng đối với chánh pháp này mà còn nghi hoặc thì pháp này không gọi là môn giải thoát, đoạn các siêng năng dũng mãnh, không khởi sự tăng trưởng tối thắng, không có thông đạt đối với ý ấy đều không tương ưng. Nếu các hữu tình thấy đúng như vậy tức là thấy Như như.
Sao gọi là thấy Như như? Nghĩa là không thấy, không thấy tức là không sinh khái niệm, cho đến không đối danh. Nói rộng như trước, đối với hạnh Tuệ thù thắng Bồ-tát tạng ba-la-mật-đa này. Nên học như vậy.
Lại nữa, đối với ý vô ngã, đối với tất cả pháp vô ngã cũng vậy. Nếu tất cả pháp là vô ngã thì đối với các hữu tình vô ngã cũng vậy, quán sát như thế là ý quán sát ý. Lại luân hồi giới cùng với Niết-bàn giới tương ưng bình đẳng. Như vậy thể tánh phiền não cùng với thể tánh của tất cả pháp tương ưng. Tương ưng ấy cùng với không tương ưng đều không đắm trước; đối với ý quán sát được hiểu một cách thù thắng, cho đến Bồ-tát có tương ưng vô dư, gia trì tất cả hữu tình mà không xả bỏ, gia trì chánh pháp mà không trái nhau.
Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát đạt được tướng sở văn ý tương ưng, đối với ý nhập giải quán sát như vậy, cái thấy như như ấy, thắng tuệ bất động.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa được trụ tuệ thù thắng, nhưng không cùng với tất cả pháp hữu vi. Nghĩa là, không cùng với vô minh cho đến lão tử; lại cùng với Tát-ca-da-kiến, cho đến gốc ngọn của sáu mươi hai kiến, tám pháp thế gian, hoặc chê, hoặc khen đều không cùng chung với nhau; năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả phan duyên đều không cùng với nhau; lại đối với mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, cho đến hai mươi tùy phiền não đều không cùng với nhau; lại đối với thượng, trung, hạ phẩm, hoặc thô, hoặc tế, cho đến tất cả phiền não, đều không cùng với nhau; lại đối với si ám tối tăm chướng ngại, các thứ trói buộc cho đến tất cả pháp hạ liệt đều không cùng với nhau; lại đối với các loại phiền não ma, uẩn ma, thiên ma, tử ma, cho đến tất cả ma nghiệp đều không cùng với nhau; lại đối với ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sinh, nho đồng cho đến tất cả ngã kiến đều không cùng với nhau; lại đối với nghiệp chướng, phiền não chướng, pháp chướng, kiến chướng, báo chướng, trí chướng, cho đến tất cả tập khí liên tục đều không cùng với nhau; lại đối với tướng chướng suy nghĩ phân biệt, thấy, nghe, hay, biết các thứ trói buộc đều không cùng với nhau; lại đối với xan tham, bố thí, hủy giới, trì giới, sân nhuế, nhẫn nhục, biếng nhác, siêng năng, tán loạn, thiền định, ác tuệ, thắng tuệ, cho đến tất cả Ba-la-mật-đa, có, không đối trị, trí đúng, trí sai... đều không cùng với nhau; lại đối với hiềm tỵ báo thù, thường, vô thường, thiện, ác, có tội, không tội, luân hồi, Niếtbàn, cho đến tất cả pháp tà đối trị đều không cùng với nhau; lại đối với tất cả pháp Phật, tất cả sát độ, tất cả hữu tình đều không cùng với nhau; lại đối với thắng nghĩa, thế tục, có trí, không trí, cho đến tướng tác ý của tất cả hữu tình đều không cùng với nhau; lại đối với thắng tuệ thắng hạnh, thể tướng hữu vi, cho đến tất cả trụ tâm ý thức và tác giả làm ra đều không cùng với nhau.
Này Xá-lợi Tử! Đó là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, đối với vô lượng hành pháp hữu vi như vậy đều không cùng với nhau.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, đối với Bồ-tát tạng có khả năng an trụ, dùng tuệ thù thắng lựa chọn tất cả pháp, cho nên đạt được mười thứ thiện xảo:
1. Uẩn thiện xảo.
2. Giới thiện xảo.
3. Xứ thiện xảo.
4. Đế thiện xảo.
5. Chánh tri thiện xảo.
6. Tùy thuận thiện xảo.
7. Tri thức thiện xảo.
8. Bồ-đề phần thiện xảo.
9. Thánh đạo thiện xảo.
10. Duyên sinh thiện xảo.
Sao gọi là uẩn thiện xảo? Nghĩa là năm uẩn như bọt nước, như bong bóng nổi trên mặt nước, như sóng nắng, như cây chuối, như huyễn, như mộng, như tiếng vang trong hang động, như hình bóng, như mây trôi, như bóng trong gương.
Nói sắc uẩn cũng như bọt nước, nghĩa là bọt nước ấy không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không sĩ phu, không ý sinh, không nho đồng. Nếu thể tánh thế gian như vậy, thì thể tánh của sắc uẩn cũng lại như vậy. Đây là sắc uẩn thiện xảo.
Thọ uẩn như bọt nước. Bọt nước ấy không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không ý sinh, không sĩ phu, không nho đồng. Nếu thể tánh thế gian như vậy thì thể tánh của thọ uẩn cũng như vậy. Đây là thọ uẩn thiện xảo.
Nói tưởng uẩn như sóng nắng. Sóng nắng ấy không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả. Đó là tưởng uẩn thiện xảo.
Nói hành uẩn cũng như cây chuối. Cây chuối ấy không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Đó là hành uẩn thiện xảo.
Nói thức uẩn cũng như huyễn. Cái huyễn ấy không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Đó là thức uẩn thiện xảo.
Lại nữa, năm uẩn là cái tướng thế gian biến đổi hoại diệt trong sát-na. Nếu thể tánh thế gian này như vậy thì thể tánh của thế gian kia cũng như vậy. Sao gọi là thể tánh? Nghĩa là tánh khổ, vô thường, cái thể tánh uẩn kia cũng như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa mới có khả năng đạt được các uẩn thiện xảo.
Lại nữa, sao gọi là giới thiện xảo? Nghĩa là địa giới tức pháp giới, pháp giới không có tướng thô rít. Thủy giới tức là pháp giới, pháp giới không có tướng mềm mại. Hỏa giới tức là pháp giới, pháp giới không có tướng lạnh nóng. Phong giới tức là pháp giới, phong giới không có tướng động chuyển. Nhãn thức giới là pháp giới, pháp giới không có tướng ngắm nhìn. Nhĩ thức giới tức là pháp giới, pháp giới không có tướng tiếng vọng lại. Tỷ thức tức là pháp giới, pháp giới không có tướng ngửi hương. Thiệt thức giới tức là pháp giới, pháp giới không có tướng phân biệt vị. Thân thức giới tức pháp giới, pháp giới không có tướng giác xúc. Ý thức giới tức pháp giới, pháp giới không có tướng quán sát. Tự thể như vậy, giới cùng pháp giới không hai không khác.
Lại nữa, Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới vốn không hai cũng không khác. Luân hồi giới và Niếtbàn giới vốn không hai cũng không khác. Tất cả pháp giới của không giới này vốn không hai cũng không khác. Do vì tánh không cho nên lìa phân biệt, không hai không khác. Do hiểu rõ giới hữu vi nên hiểu rõ giới vô vi, cho đến nói vô lượng giới như vậy là lựa chọn hiểu rõ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát đối với hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa đạt được các giới thiện xảo.
Lại nữa, sao gọi là xứ thiện xảo? Nghĩa là nhãn xứ vốn không và nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vốn không. Các căn ấy không có ngã cũng không có ngã sở. Bồ-tát đối với thể tánh của nhãn như vậy, cho đến thể tánh của ý hiểu rõ như thật, tức là không có chỗ lựa chọn, không có chủng loại lựa chọn, không lựa chọn thiện, không đối với pháp thiện bất thiện, không có hai tướng chuyển. Đó gọi là xứ thiện xảo.
Xứ thiện xảo nghĩa là nhãn xứ sắc xứ, mắt thấy sắc sinh ra nhàm chán xa lìa, nhàm chán xa lìa như vậy tức là không phải chánh hạnh.
Lại nữa, nhĩ xứ thanh xứ, tỷ xứ hương xứ, thiệt xứ vị xứ, thân xứ xúc xứ, ý xứ pháp xứ, như vậy cho đến ý thức mà sinh ra nhàm chán xa lìa, nhàm chán xa lìa tức không phải chánh hạnh.
Lại nữa, Bồ-tát đối với Thánh đạo xứ, không phải Thánh đạo xứ đều hay tích tập chứng thành đại Bi, đối với các hiểm nạn không phải là Thánh đạo xứ, khiến các hữu tình trụ vào chánh đạo, đối với Thánh đạo xứ ấy cũng không xả bỏ.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa nên đạt được các xứ thiện xảo.
Lại nữa, sao gọi là nhập giải Đế thiện xảo? Đế thiện xảo này lại có bốn thứ. Đó là: Khổ trí, Tập trí, Diệt trí và Đạo trí.
Sao gọi là Khổ trí? Là không khởi uẩn. Đó là Khổ trí.
Sao gọi là Tập trí? Là lìa ái tập. Đó là Tập trí.
Sao gọi là Diệt trí? Là diệt rồi không sinh lại. Đó là Diệt trí.
Sao gọi là Đạo trí? Là có khả năng đạt được pháp bình đẳng và không bình đẳng. Đó là Đạo trí. Nếu Bồ-tát đối với bốn đế trí tuệ như vậy mà không tác chứng việc thành thục hữu tình thì đó là Đế thiện xảo.
Lại nữa, Đế thiện xảo lại có ba thứ? Đó là: Thế tục đế, Thắng nghĩa đế và Tướng đế.
Sao gọi là Tục đế? Là các thứ tưởng tượng, âm thanh, lời nói, văn tự, cho đến mọi việc làm của thế gian. Đó gọi là Thế tục đế.
Sao gọi là Thắng nghĩa đế? Là tâm không sở duyên, huống là có văn tự. Đó là Thắng nghĩa đế.
Sao gọi là Tướng đế? Là các tướng, một tướng, không tướng. Đó là Tướng đế.
Bồ-tát đối với thế tục đế nói không biết mệt mỏi, đối với Thắng nghĩa đế không mất chánh hạnh, đối với Tướng đế tùy thuận vô tướng, là tướng chân thật. Đây là Bồ-tát đối với Đế thiện xảo.
Lại nữa, nhất đế này không có hai thứ. Nghĩa là tịch đế thật là nhất đế, đối với bình đẳng và không bình đẳng đều có khả năng tùy chuyển tác dụng chân thật vi diệu đạt được đế thiện xảo.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đạt được Đế thiện xảo như vậy cho nên biết rõ năm uẩn là khổ. Nếu khiến chấm dứt khổ tướng năm uẩn, cũng như hư không, là Khổ thánh đế. Lại năm uẩn này tùy hoặc ái kiến, nếu khiến chấp thủ nhân ái kiến, không khởi hợp tập, đó là Tập thánh đế. Lại năm uẩn này diệt tận rốt ráo, nếu khiến tiền tế không sinh, hậu tế không khởi, hiện tại không trụ, đó là Diệt thánh đế. Nếu đối với Khổ trí, Tập trí, Diệt trí mà có khả năng chứng đạt. Do trí liên tục nên có khả năng điều phục hướng đến chánh hạnh, đó là Đạo thánh đế.
Lại nữa, đối với các đế hiện quán này mà có khả năng tầm từ, quán sát khắp tất cả. Đó là Đại Bồ-tát đối với Đế thiện xảo.
Lại nữa, biết rõ các thọ là khổ, cho đến thọ dẫn nhiếp các trí quyết trạch, đó là Khổ thánh đế. Nếu nhân đối với thọ, dẫn sinh đối với hợp tập, biết rõ như thật, đó là Tập thánh đế. Lại nếu đối với thọ mà được khinh an, thì đối với thọ không phải thọ mà lại quán sát không phải thọ là diệt liền chứng diệt, đó là Diệt thánh đế. Lại nếu thọ đưa đến đạo, như thế gian tích tập tấn cầu không phải thọ không phải đạo, khiến các khổ ấy diệt, hướng đến hạnh chân chánh, đó là Đạo thánh đế. Nếu thấy bốn Đế bình đẳng như vậy rốt ráo không thấy thì là thanh tịnh. Đó gọi là Đại Bồ-tát đối với Đế thiện xảo.
Lại nữa, đối với diệt mà khởi hiện chứng, lại có thể đối với khổ không sinh quán sát, đó là Khổ trí. Nếu hữu duyên sinh, đối với hữu lìa hữu, đó là Tập trí. Biết rõ tất cả sinh vốn không sinh, diệt vốn không diệt, đó là Diệt trí. Đối với đạo như vậy tùy theo chủng loại ấy, tìm cầu suy xét khiến nhập vào trí ấy, đó là Đạo trí. Nếu có khả năng an trụ đế trí như vậy thì là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, nên được Đế thiện xảo như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, Đại Bồ-tát đạt được bốn thứ chánh tri thiện xảo:
1. Nghĩa chánh tri.
2. Pháp chánh tri.
3. Điển tích thế gian chánh tri.
4. Biện tài chánh tri.
Sao gọi là Nghĩa chánh tri? Là đối với các pháp cú nghĩa thù thắng liên tục, trí nhân, trí duyên, trí tập, trí thông đạt vô biên, trí nhân quả duyên khởi, trí phân biệt pháp giới, trí tùy thuận nhập giải chân như, trí không trụ thật tế, trí như thật pháp không, trí suy xét không tướng, trí đối với nguyện không nguyện, trí đối với hành không hành, trí nhập vào nhất chánh lý, trí hiểu rõ vô ngã, trí biết rõ không chúng sinh, trí rõ không thọ giả, trí không Bổ-đặcgià-la thắng nghĩa, trí đối với đời quá khứ không bị chướng ngại, trí đối với đời vị lai không hạn lượng, trí đời hiện tại bao trùm khắp tất cả, trí đối với huyễn hóa, trí đối với xứ quyết định không, trí đối với giới độ lượng, trí bên trong thân vắng lặng, trí đối với bên ngoài không biến hành, trí xuất ly trần cảnh, trí niệm không chỗ trụ, trí thông đạt không chỗ nhập, trí thắng tuệ quán sát, trí thông đạt bốn Đế, trí đối với các khổ là hữu, trí đối với các tập là hành, trí đối với các diệt vô tướng trí đối với các đạo xuất ly, trí phân biệt tất cả pháp cú, trí hiểu rõ các căn, trí các lực không thể khuất phục, trí Xa-ma-tha gia trì, trí Tỳ-bát-xá-na sáng suốt, trí đối với các huyễn hoặc khởi biến diệt, trí đối với sóng nắng không bị mê loạn, trí đối với các cảnh mộng thấy không thật, trí đối với các tiếng vang biết rõ do duyên sinh, trí đối với các hình bóng không có hợp tập, trí đối với các tướng chỉ là một tướng, trí đối với chánh hòa hợp không có hòa hợp, trí đối với các khinh an không có sở đắc, trí đối với
Thanh văn thừa đạt được ngôn âm, trí đối với Duyên giác thừa hiểu được duyên sinh, trí đối với Tối thừa tích tập tất cả thiện căn. Như vậy là ta đã nói Bồ-tát đối với Nghĩa chánh tri.
Lại nữa, Nghĩa chánh tri là nếu đối với nghĩa tùy thuận thì các pháp tùy thuận, tùy theo nghĩa ấy tức là tánh của các pháp. Vì sao? Vì nghĩa các pháp rốt ráo như không. Nếu nghĩa như không thì nghĩa của các pháp rốt ráo không tướng. Nếu nghĩa không tướng thì nghĩa của các pháp rốt ráo không nguyện. Nếu nghĩa không nguyện thì nghĩa của pháp ấy không chỗ thú chứng. Nếu nghĩa không thú chứng thì nghĩa của tất cả pháp rốt ráo không thọ giả, không Bổ-đặc-già-la. Nếu nghĩa không Bổ-đặc-già-la thì đối với nghĩa này thông đạt pháp tướng. Nếu nói đối với nghĩa không trụ không tận, đối với nghĩa đã nói đã đạt được chứng tri, chư Phật Thế Tôn tùy hỷ hứa khả, đối với tuệ thù thắng biết rõ một cách như thật. Nếu đối với tuệ thù thắng biết rõ một cách như thật thì tất cả chỗ không có lỗi lầm. Đây là Bồ-tát đối với Nghĩa chánh tri.
Sao gọi là Pháp chánh tri? Nghĩa là trí hiểu rõ chánh pháp hoặc thiện, không thiện, có lỗi, không lỗi, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi, nhiễm phần, tịnh phần, luân hồi, Niết-bàn, pháp giới, trí giới vốn tự bình đẳng không có giác ngộ. Đây là Bồ-tát đối với Pháp chánh tri.
Lại nữa, Pháp chánh tri là đối với nghiệp tham tâm có khả năng biết một cách đúng đắn. Đó là nghiệp tham hư vọng giả dối, nghiệp tham kiên cố, nghiệp tham vi tế, nghiệp tham to lớn, nghiệp tham quá khứ, nghiệp tham vô biên, hiện tại quán sát, tùy duyên mà hiểu rõ. Hoặc có hữu tình bên trong tham mà bên ngoài không tham; hoặc bên ngoài tham mà bên trong không tham; hoặc trong ngoài đều tham; hoặc cả trong ngoài đều không tham; hoặc tham sắc không tham tiếng; tham tiếng không tham sắc; tham cả sắc lẫn tiếng; sắc và tiếng đều không tham; tham sắc không tham hương, tham tiếng không tham hương; tham hương không tham vị; tham vị không tham xúc; cho đến hoán đổi nhau đối với nghiệp tham sắc, thanh, hương, vị, xúc... Như vậy là không hiểu rõ môn nghĩa lợi. Hai vạn một ngàn nghiệp tham, hai vạn một ngàn nghiệp sân, hai vạn một ngàn nghiệp si, đó là nghiệp tham, sân, si. Hai vạn một ngàn nghiệp đẳng phần. Như vậy là ta đã nói về trí hiểu rõ tám vạn bốn ngàn tâm hạnh. Như trên đã nói trí tương ưng hành tướng, tướng không tăng không giảm, trí vượt trăm cõi dục, trí pháp khí thù thắng, trí nói năng chân thật. Đó là Bồ-tát đối với Pháp chánh tri.
Sao gọi là Điển tích thế gian chánh tri? Nghĩa là trí hiểu rõ tất cả tiếng, như tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ-xoa, tiếng Càn-thát-bà, tiếng A-tula, tiếng Ca-lâu-la, tiếng Khẩn-na-la, tiếng Mahầu-la-già, tiếng nhân, phi nhân. Tất cả tiếng như vậy đều có khả năng hiểu rõ. Hữu tình trong năm nẻo, cao, thấp, thô, tế, nói pháp liên tục không bị gián đoạn, âm Thanh văn tự, điều đó hoặc nói đơn âm, hoặc nói lưỡng âm, hoặc nói đa âm, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng không phải nam, tiếng không phải nữ, nói rộng, nói hẹp, nói thô lỗ, nói khéo léo vi diệu, nói quá khứ, nói vị lai, nói hiện tại, tương ưng một chữ, tương ưng nhiều chữ, tất cả đều hiểu rõ. Đây là biết đúng điển tích thế gian.
Lại nữa, Điển tích thế gian chánh tri nghĩa là thành thục văn tự, hiểu rõ nghĩa, lìa mọi sợ hãi, không có lỗi lầm; đối với thế tục, thắng nghĩa, dùng tự tâm để thấy biết, các món trang nghiêm thậm thâm khéo léo vi diệu, khiến các hữu tình đều sinh hoan hỷ. Đây là Bồ-tát biết đúng điển tích thế gian. Sao gọi là Bồ-tát Biện tài chánh tri? Nghĩa là lời nói không trụ, không đoạn, ký biệt chân thật, biệt tài nhanh lẹ, nhất định đạt được quả biện tài như: biện tài chất vấn; biện tài không giảm mất; biện tài không đoạn diệt; biện tài không tranh luận; biện tài thích thiện pháp; biện tài trụ nhẫn; biện tài thậm thâm; biện tài khéo léo; biện tài thế tục, thắng nghĩa; biện tài kiến lập tất cả Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Tuệ thù thắng; biện tài kiến lập Niệm xứ, Chánh đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xána; biện tài hiểu rõ tất cả Đế trí, định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để; biện tài giác ngộ tất cả thừa, biện tài hiểu rõ tất cả tâm hạnh của hữu tình; biện tài nói năng không vấp váp, biện tài nói năng không thô rít, biện tài nói năng không tạp loạn, biện tài nói năng thấm nhuần; biện tài nói năng thanh tịnh; biện tài nói năng giải thoát; biện tài nói năng không chướng ngại; biện tài nói năng tôn trọng; biện tài nói năng từ, ái; biện tài nói năng tương ưng; biện tài nói năng không khiếm khuyết; biện tài nói năng êm diệu; biện tài nói năng mềm mỏng; biện tài nói năng không chê bai; biện tài nói năng khen ngợi các bậc Thánh, thông đạt vô biên quốc độ của hữu tình, có khả năng dùng phạm âm tùy theo mỗi loài mà nêu ra. Biện tài như vậy đối với hữu tình, Bổ-đặc-già-la có khả năng nói pháp, nhờ thế nên Phật mới ấn khả. Nếu nói pháp mà không làm cho người khác được xuất ly thì làm sao dứt hết các gốc khổ, thành tựu chánh hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa, nên đạt được biện tài khéo léo.
Sao gọi là Bồ-tát tùy thuận khéo léo? Lại có bốn:
1. Dựa theo nghĩa không dựa theo văn.
2. Theo trí không theo thức.
3. Theo liễu nghĩa kinh không theo bất liễu nghĩa kinh.
4. Theo pháp không theo người.
Những gì là nghĩa? Sao gọi là văn? Nghĩa là biết rõ pháp hạnh xuất thế gian là nghĩa; đạt được pháp thế gian là văn. Nếu đối với chỉnh túc ban bố niềm vui vi diệu là nghĩa; điều phục ngăn chặn không hý luận là văn. Nếu đối với luân hồi mà diễn nói rộng rãi thì là nghĩa; đối với không sở đắc khai thị rộng lớn là văn. Nếu có khả năng phổ biến cái đức Niết-bàn thì là nghĩa; không phân biệt thể Niết-bàn là văn. Nếu diễn nói phần vị của ba thừa là nghĩa; trí chỉ thông đạt một thứ giáo lý thì là văn. Khai diễn bố thí cho các hữu tình là nghĩa, ba luân thanh tịnh là văn. Nếu có khả năng diễn nói oai nghi ba nghiệp tích tập tất cả công đức đầu đà là nghĩa; đối với hạnh thân, khẩu, ý thanh tịnh thù thắng đều không thể được là văn. Nếu có khả năng tuyên nói nhẫn chịu kiên cố giận dữ, sân hận, não hại, ganh ghét, ngông cuồng, kiêu ngạo, ngã mạn là nghĩa; được vô sinh nhẫn là văn. Nếu hay khai diễn các thiện căn tinh tấn phấn khởi là nghĩa; đối với tinh tấn ấy không nhập không trụ là văn. Nếu có khả năng diễn nói tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí là nghĩa; trí diệt đẳng chí là văn. Đối với các tuệ căn đa văn tổng trì là nghĩa; nghĩa không thể nói là văn. Nếu có khả năng khai thị ba mươi bảy phẩm Bồ-đề pháp phần là nghĩa; nếu hiện chứng hành quả Bồ-đề phần là văn. Nếu có khả năng khai thị khổ, tập, đạo đế là nghĩa; hiện chứng diệt đế là văn. Nếu trước hết khai thị vô minh một cách chân chánh cho đến lão tử là nghĩa; nếu vô minh diệt cho đến lão tử diệt là văn. Nếu nói tích tập chỉ quán là nghĩa; hiểu rõ trí giải thoát là văn. Nếu có khả năng phân biệt phần loại hành pháp tham, sân, si... thì là nghĩa, nếu đối với giải thoát mà tâm không lay động là văn. Nếu có khả năng khai thị pháp chướng ngại là nghĩa; nếu chứng trí giải thoát không chướng ngại là văn. Nếu khai thị chân chánh, hay khen ngợi Tam bảo vô lượng là nghĩa; nếu lìa tánh tham và công đức vô vi là văn. Nếu nói công đức mới phát tâm học tập của Bồ-tát, cho đến Bồ-đề đạo tràng là nghĩa; nói một tâm tướng và Nhất thiết trí trí, Vô thượng chánh giác cho đến tổng lược tám vạn bốn ngàn pháp uẩn tương ưng là văn. Tất cả âm thanh, ngữ ngôn, văn tự cho đến nghĩa chẳng thể nêu bày đều là nghĩa.
Sao gọi là bất liễu nghĩa kinh? Như văn trên đã nói, biết rõ rộng rãi, ấy gọi là bất liễu nghĩa kinh.
Sao gọi là liễu nghĩa? Nghĩa ấy như trên đã nói, thông đạt rộng rãi, ấy gọi là liễu nghĩa kinh. Lại nói tùy thuận Bổ-đặc-già-la không thể xuất ly, đó là không liễu nghĩa. Như pháp đã nói có khả năng xuất ly, đó là liễu nghĩa. Như vậy Đại Bồ-tát đối với hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa được tùy thuận khéo léo.
Sao gọi là Bồ-tát văn cú thiện xảo? Nghĩa là các Bồ-tát đối với hai pháp này, khéo hay tu hành tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa. Hai pháp đó là: Một là thiện thức. Hai là thiện trí.
Sao gọi là thức? Tức nương vào bốn thứ mà trụ:
1. Thức nương vào sắc mà trụ.
2. Thức nương vào thọ mà trụ.
3. Thức nương vào tưởng mà trụ.
4. Thức nương vào hành mà trụ.
Đó gọi là thức.
Sao gọi là trí? Nếu biết rõ chấp thủ năm uẩn là trí. Nếu biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới thì gọi là thức. Nếu lại an trụ bốn loại pháp giới và có khả năng phân biệt được pháp giới ấy thì gọi là trí.
Này Xá-lợi Tử! Lại nói về thức, mắt quán sắc là tiêu biểu, tai nghe tiếng là tiêu biểu, mũi ngửi hương là tiêu biểu, thân giác xúc là tiêu biểu, ý biết pháp là tiêu biểu, đó gọi là thức. Nếu trong thân vắng lặng, bên ngoài không biến hành, trí có khả năng tùy thuận pháp không chấp thủ thì gọi là trí. Nếu lại phát khởi biến kế chấp thủ thì gọi là thức, không chấp không thủ và không biểu hiện sân thì gọi là trí.
Lại nữa, biết rõ thức trụ vào hành pháp hữu vi sinh diệt thì gọi là thức. Vì vô vi không có thức biến hành, nên trí vô vi không trụ sinh diệt thì gọi là trí.
Sao gọi là liễu nghĩa, bất liễu nghĩa kinh? Nếu có hướng đến đạo thì là không liễu nghĩa, hướng đến quả là liễu nghĩa. Nói hạnh thế tục là không liễu nghĩa, tuyên nói nghĩa thù thắng là liễu nghĩa. Dẫn đến nghiệp hạnh là không liễu nghĩa, hết nghiệp phiền não là liễu nghĩa.
Lại nữa, nhiễm phần là không liễu nghĩa, nếu nói tịnh phần thì là liễu nghĩa. Nhàm chán xa lìa luân hồi là không liễu nghĩa, giác ngộ luân hồi và Niết-bàn là pháp không hai, đó là liễu nghĩa. Văn cú khéo léo là không liễu nghĩa, thậm thâm khó hiểu là liễu nghĩa. Đối với các văn cú tâm vui ham thích là không liễu nghĩa, đối với văn cú ít mà sinh quyết định là liễu nghĩa.
Lại nữa, ngã, nhân, sĩ phu, mạng giả, ý sinh, nho đồng, tác giả, thọ giả, các loại ngữ ngôn, hoặc có chủ tể và không chủ tể, là không liễu nghĩa; đối với không, vô tướng, vô nguyện ba giải thoát môn, không khởi ngã, nhân, sĩ phu cho đến Bổ-đặc-giàla, đó là liễu nghĩa.
Sao gọi là Bổ-đặc-già-la và pháp? Nếu đối với pháp sở hữu, an trụ vào cái thấy Bổ-đặc-già-la. Do khởi lên cái thấy ấy nên an trụ pháp trí pháp giới.
Đây gọi là Bổ-đặc-già-la và pháp.
Lại nữa, Bổ-đặc-già-la là Dị sinh Bổ-đặc-giàla, Thiện dị sinh Bổ-đặc-già-la, Thuận tín Bổ-đặcgià-la, Thuận pháp Bổ-đặc-già-la, Bát bối Bổ-đặcgià-la, Nhập lưu Bổ-đặc-già-la, Nhất lai Bổ-đặcgià-la, Bất hoàn Bổ-đặc-già-la, Ứng cúng Bổ-đặcgià-la, Duyên giác Bổ-đặc-già-la, Bồ-tát Bổ-đặcgià-la. Nếu một Bổ-đặc-già-la xuất hiện thế gian thì nó có khả năng dẫn sinh nhiều thú vui vi diệu, đối với thế gian trời, người chúng hội ấy thương xót sâu xa, làm các thiện lợi, huống nữa là Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác an trụ thế tục. Vì tất cả Bổ-đặc-già-la khiến các hữu tình nương vào âm thanh Như Lai nói ra hiểu rõ nghĩa lợi.
Đức Phật bảo:
– Đây là đối với pháp mỗi mỗi tùy thuận vui thích, để hữu tình đạt đến nghĩa mà an trụ.
Sao gọi là pháp? Là không làm, không phải không làm; không trụ không phải không trụ; đối với tất cả chỗ vốn tự bình đẳng, đều đồng y chỉ. Lại nữa, các pháp tướng tự tánh vốn không, không có bình đẳng và không bình đẳng, lìa các phân biệt, không có phan duyên, thảy đều xuất ly. Thuyết này đối với pháp tánh ấy có khả năng tùy thuận không còn thoái chuyển. Thế nên đối với pháp môn chánh lý này có thể hiểu rõ tánh của tất cả pháp. Đây là Đại Bồ-tát đối với Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa đạt được bốn thứ tùy thuận khéo léo.
Sao gọi là Bồ-tát phước trí khéo léo? Hạnh môn của Bồ-tát có hai thứ. Một là phước hạnh. Hai là trí hạnh.
Sao gọi là phước hạnh? Đó là phước hạnh bố thí, phước hạnh trì giới, phước hạnh tu quán, trụ vào tướng Từ tâm đại Bi bình đẳng, khiến các hữu tình ăn năn các lỗi lầm, khiến phát khởi tất cả thiện căn.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả hữu học A-nahàm, Bích-chi-phật, đối với phước hạnh này trước hết nên khởi tâm thù thắng như vậy, được không thoái chuyển, Nhất sinh bổ xứ, kế đến thành Phật. Đại Bồ-tát cũng nên đối với phước hạnh này phát tâm tùy hỷ. Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai, hiện tại cũng đều tùy hỷ tất cả thiện căn đối với phước hạnh này, khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân vi diệu, đem tất cả thiện căn trong phước hạnh này đều cùng hồi hướng. Người chưa phát tâm Bồ-đề dạy bảo khiến phát khởi, người đã phát tâm Bồ-đề rồi, các Bồ-tát vì các người này mà nói hồi hướng, đem các lợi dưỡng nhiếp hóa các người nghèo cùng, đem thuốc thang ban cho những ai tật bệnh, thân cận thương xót an ủi những ai khiếp sợ yếu đuối, dùng pháp che chở bảo hộ những ai hủy giới, xuất ly tội báo khiến trụ Niết-bàn; đối với Hòa thượng, A-xà-lê phải tôn trọng cúng dường như Phật Thế Tôn; đối với trường giảng pháp phải tinh tấn dũng mãnh, thỉnh cầu các Pháp sư, dù cách xa hàng trăm do-tuần cũng phải đến nghe chánh pháp không biết nhàm chán; đối với người thuyết pháp không có phân biệt lựa chọn, thường nên thân cận cung kính cúng dường cũng như cha mẹ mình không sinh mệt mỏi; lại phước hạnh đối với thân, miệng, ý không sinh động loạn, lìa mọi lỗi lầm; ở nơi bảo tháp Phật nhiếp thọ phạm phước, tích tập các thiện căn, tướng hảo viên mãn, trang nghiêm hóa thân, lìa các lỗi lầm của miệng, trang nghiêm ngữ nghiệp, hiểu rõ quyết định thù thắng, trang nghiêm nhất tâm, thần thông du hý trang nghiêm cõi Phật, dùng trí thanh tịnh trang nghiêm pháp tướng, nghe chánh pháp ấy, lìa các chướng ngại, được không chướng ngại; đối với người thuyết pháp hoan hỷ khen ngợi, không sinh chấp trước đối với pháp đã được nói ra cũng không tổn hoại, như vậy là trang nghiêm pháp môn giải thoát.
Đem các vườn rừng cúng dường Đức Phật và chư tăng, như vậy là trang nghiêm cây Bồ-đề Phật. Trồng các thiện căn, thương xót tất cả, thanh tịnh nghiệp hoặc, đạt được không sinh diệt, như vậy là trang nghiêm Bồ-đề đạo tràng. Phát nguyện vô tận cúng các ngọc đẹp, đạt được tay báu viên mãn vô tận, xa lìa sự bức xúc nhăn nhó, bằng thẳng như lòng bàn tay, vui thí tất cả; trước hết đạt được diện mục đoan nghiêm. Các hữu tình ấy cũng thấy hoan hỷ vui thích, ánh sáng thanh tịnh trang nghiêm thí các hữu tình, đạt được ánh sáng chiếu khắp tất cả, ngôn từ tán thán tốt đẹp không phải do tích tập, các kho tàng giới phước đều thanh tịnh, được sinh vào hàng trời, người, mười nghiệp thiện đạo cũng lại thanh tịnh, không quên bỏ thần thông biến hóa, thuận lời chư Phật dạy không khởi phân biệt, thân tâm thanh tịnh khai thị giáo hóa bình đẳng, được các hữu tình ái kính; đối với pháp tối thượng và hạnh giải thù thắng tùy lực giảng nói, lại còn có khả năng nhiếp thọ tất cả phước hạnh, phát khởi nhất thiết trí, tâm đầy đủ bảy thánh tài, tín là hạnh trước nhất, được tất cả thế gian kính ái. Thế nên Bồ-tát trước hết phải quyết định dắt dẫn hữu tình, lại có khả năng viên mãn tất cả pháp Phật và các thiện pháp. Đây là Đại Bồ-tát phước hạnh thiện xảo.
Sao gọi là Bồ-tát trí hạnh thiện xảo? Nghĩa là, đối với nhân duyên phát sinh trí hiểu biết.
Sao gọi là nhân duyên? Nghĩa là thâm tâm ham muốn biết rõ pháp hội, siêng năng mong cầu thiện hữu, trụ vào trí của Đức Phật, không nương vào trí của Thanh văn, Bích-chi-phật, sinh niềm vui thích thú đối với vị thầy giảng giải luật nghi. Thầy nói pháp ấy biết được căn cơ trình độ của các hữu tình, nội tâm đầy đủ, trí tuệ không có xan lận, vì các hữu tình nói pháp thậm thâm vi diệu liên tục không gián đoạn. Người nghe pháp tìm cầu pháp tương ưng như vậy, nên có khả năng tương ưng với trí hạnh này.
Sao gọi là cầu pháp tương ưng? Nghĩa là đạt được một ít nghĩa này nơi Pháp sư. Đầu đêm, cuối đêm suy nghĩ lựa chọn xưng dương tán tụng, điều này cái nào là chánh lý, cái nào là phi lý, lần lượt nghiên cứu cho đến tâm không sở đắc, lìa các chướng ngại, không có cấu nhiễm, được trí xuất ly, phát hạnh chân thật; đối với pháp thậm thâm, pháp to lớn, pháp vô biên, pháp vượt hơn ngoại đạo, trí hiểu thấu triệt, thường phóng ánh sáng cao sáng tối thắng hơn cả ngọn núi, dũng mãnh tinh tấn, không bỏ gánh nặng, thực hành hạnh tuệ thù thắng, tâm chỉ chú ý một cảnh, tác ý lành mạnh, không đổ đa, thường thích pháp lạc, không làm theo việc làm của thế tục, cầu pháp xuất thế, nhớ nghĩ không quên, tùy theo căn cơ mà tuyên nói, đệ tử của dòng Thánh thảy đều hoan hỷ, khai bày dẫn dắt duyên thù thắng phụng trì cấm giới, tàm quý trang nghiêm hướng đến Phật đạo. Những kẻ vô minh tối tăm không có trí tuệ, đều tự xa lìa được tuệ nhãn thanh tịnh, giác ngộ rộng lớn, giác ngộ thậm thâm vi diệu, giác ngộ hết sức vi diệu, dùng trí quán sát, có khả năng phân biệt công đức của chính mình và người khác, khiến thuần thục viên mãn nghiệp báo thanh tịnh. Đây là Đại Bồ-tát trí hạnh thiện xảo.
Lại nữa, Bồ-tát cần cầu trí tuệ, đối với việc làm của Pháp sư có bốn thứ trí là:
1. Hoa da giấy bút mực.
2. Pháp tòa vi diệu.
3. Tất cả lợi dưỡng.
4. Pháp tập kệ tán.
Đó là bốn trí đối với trí hạnh mà được thành tựu.
Lại đối với trí hạnh ở chỗ Pháp sư phải nên thành tựu bốn thứ thủ hộ:
1. Thủ hộ thân.
2. Thủ hộ thiện.
3. Thủ hộ xứ sở.
4. Thủ hộ đồ chúng đã được giáo hóa.
Lại nữa, đối với trí hạnh được thành tựu bốn thứ gánh nặng đó là pháp, trí, tài vật và Bồ-đề. Đó là bốn thứ.
Lại nữa, đối với trí hạnh thành tựu năm lực:
1. Tín lực có khả năng tin hiểu pháp một cách thù thắng.
2. Tinh tấn lực cần cầu đa văn.
3. Niệm lực, không bao giờ quên mất tâm Bồđề.
4. Định lực, đối với tất cả pháp quyết định bình đẳng.
5. Thắng tuệ lực, ham thích đa văn.
Đó là năm lực đối với trí hạnh đạt được viên mãn.
Lại nữa, đối với trí hạnh thành tựu được bốn giới:
1. Chân thật pháp giới.
2. Cần cầu pháp giới.
3. Quyết định pháp giới.
4. Hướng Bồ-đề giới.
Lại nữa, người siêng năng cầu pháp đối với trí hạnh thành tựu được bốn nhẫn:
1. Người xấu ác đến chửi bới mạ nhục nhưng không báo thù, trái lại dùng lời lẽ khéo léo để xin lỗi.
2. Gió lạnh nóng và đói khát đưa đến đều có khả năng nhẫn chịu.
3. Đối với hòa thượng A-xà-lê phải tùy theo khả năng mà cung cấp hầu hạ.
4. Đối với ba môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, đều trụ đại pháp nhẫn.
Đó là bốn nhẫn.
Lại nữa, thành tựu bốn thứ tinh tấn:
1. Đa văn tinh tấn.
2. Tổng trì tinh tấn.
3. Biện thuyết tinh tấn.
4. Chánh hạnh tinh tấn.
Đó là bốn thứ tinh tấn.
Lại nữa, đối với trí hạnh được thành tựu bốn thứ định thù thắng:
1. Lìa tướng tịch tĩnh.
2. Tâm một cảnh tánh.
3. Nhập thần thông định.
4. Ngộ tri kiến Phật.
Đó là bốn định.
Lại nữa, đối với trí hạnh thành tựu bốn pháp:
1. Không trụ các cõi.
2. Tánh không phải tự nhiên.
3. Bốn duyên sinh diệt không có chủ tế.
4. Chỉ một tín giải.
Đó là bốn pháp.
Lại nữa, thành tựu bốn phương tiện:
1. Tùy chuyển thế gian.
2. Tùy chuyển Khế kinh.
3. Tùy chuyển đối với pháp.
4. Tùy chuyển đối với trí.
Đó là bốn phương tiện đối với trí hạnh được đầy đủ.
Lại nữa, thành tựu bốn đạo vô ngại:
1. Ba-la-mật-đa.
2. Bảy Bồ-đề phần.
3. Tám chi Thánh đạo.
4. Nhất thiết trí trí.
Đó là bốn đạo không chướng ngại.
Lại nữa, thành tựu bốn thứ không chán:
1. Đa văn không chán.
2. Biện thuyết không chán.
3. Tầm từ không chán.
4. Trí tuệ không chán.
Đó là bốn thứ không chán.
Lại nữa, đối với trí hạnh thấy biết như vậy, nhưng lại tùy thuận tất cả hữu tình, tất cả cõi nước, tức là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Thắng tuệ, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì sao? Này Xálợi Tử! Cho đến các Bồ-tát quyết định đối với các trí, dùng tri kiến như vậy mà lập hạnh trước hết. Bồ-tát nếu như an trụ trí này thì được thông đạt tất cả trí hạnh, được oai thần của chư Phật hộ niệm, bọn ma không được tiện lợi, khiến cho tất cả đều được hội ngộ trí Nhất thiết trí.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa nên được trí hạnh thiện xảo.
Sao gọi là các Bồ-tát niệm xứ thiện xảo có bốn?
Niệm xứ thứ nhất là lấy thân quán thân.
Niệm xứ thứ hai là lấy thọ quán thọ.
Niệm xứ thứ ba là lấy tâm quán tâm.
Niệm xứ thứ tư là lấy pháp quán pháp.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là niệm xứ lấy thân quán thân? Nghĩa là khi Bồ-tát tu quán thân, quán thân đời trước, quán thân đời sau, quán thân hiện tại, thấy rằng thân này từ điên đảo sinh ra, tùy nhân duyên mà diệt, không lay động, không xúc tác, không tự tánh, không chấp thủ. Ví như các loại cỏ thuốc ngoài rừng núi, từ nhân duyên sinh, cũng không tự tánh và không chấp thủ.
Lại nữa, thân này cũng như tường, vách, ngói, gạch, cỏ, cây, bóng ảnh. Đó là uẩn, xứ, giới; là không chấp, là không, là không có ngã, ngã sở; là vô thường và mau chóng mục nát; là không chắc thật; là pháp điên đảo, là nhàm chán xa lìa, không kiên cố. Các Đại Bồ-tát nên quán như vậy mà siêng cầu cái thân vững chắc. Vì sao? Vì thân của Như Lai tức là thân pháp giới, thân kim cang, thân không thể hoại, thân kiên cố, thân tối thắng vi diệu trong ba cõi. Khi tu quán này, nên biết, phàm phu thô trọng uế ác đủ mọi lỗi lầm ấy, Bồ-tát ấy có thể lìa tất cả lỗi lầm để tiến đến đạt được thân tối thắng vi diệu của Như Lai. Lại nên quán niệm thân của các hữu tình do đâu mà tạo ra liên tục không gián đoạn. Là do bốn đại chủng và A-lại-da thức tạo ra và gìn giữ, huân tập công năng có vô lượng lực. Ví như địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, bốn đại chủng bên ngoài có đủ loại môn, đủ loại xứ, đủ loại tướng, đủ loại vật. Do vậy mà tất cả hữu tình nắm giữ được mạng căn. Thân bốn đại chủng tập hợp lại và khởi lên cũng lại như vậy, có đủ loại môn, đủ loại xứ, đủ loại danh, đủ loại tướng, đủ loại vật. Do vậy tất cả hữu tình đối với mạng căn ấy cũng lại nắm giữ, dùng cái biệt tướng để quán thân vô thường, nhưng không nhàm chán xa lìa sinh tử; dùng biệt tướng quán thân là khổ mà không thích trụ Niết-bàn; dùng biệt tướng quán thân vô ngã nên không xa lìa hóa độ hữu tình; dùng biệt tướng quán thân vắng lặng mà không rốt ráo tịch diệt; dùng biệt tướng quán thân viễn ly mà không xả thiện pháp. Đại Bồ-tát có khả năng quán thân như vậy, phải nên biết rõ nó không kiên cố không thể yêu thương. Khi quán trong thân biết phiền não không thể dung thọ, quán ngoài thân rõ các phiền não không cùng tập hợp. Do đó cho nên được thành tựu thân nghiệp thanh tịnh và thân tướng trang nghiêm thanh tịnh, được các trời người tán thán kính ngưỡng.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát dùng niệm xứ quán thân trên thân.
Sao gọi là các Bồ-tát lấy thọ quán thọ niệm xứ? Các Bồ-tát đối với các sự cảm thọ khổ, vui, nên dùng trí tuệ phương tiện mà biết rõ; đối với các thọ vui ý không tham tiếc. Nếu khi thấy chúng sinh chịu khổ trong đường ác, Bồ-tát khởi tâm đại Bi, dứt ý vô duyên, đối với cảm thọ khổ vui, ý không bị vô minh tùy niệm mà biết rõ. Như vậy, khổ, vui, không phải khổ, không phải vui, nhờ đó nhận thức xuất ly. Các Bồ-tát dùng trí tuệ phương tiện đối với các hữu tình, hoặc vì thành tựu, hoặc vì xa lìa, nhưng các hữu tình này đối với sự nhận thức về xuất ly không thể hiểu biết, đối với thọ vui này tùy vui mà ban cho, đối với thọ khổ tìm cách diệt trừ, đối với cảm thọ không khổ không vui, tùy thuận nhất thiết trí trí đạt được khinh an. Đại Bồ-tát dùng đại phương tiện khéo léo thuyết pháp vi diệu nhiếp thọ hữu tình, khiến các hữu tình cũng được khinh an.
Vì những nhân duyên gì mà nói thọ như vậy? Nghĩa là, đối với thành tựu thiện mà có lạc thọ, đối với thành tựu bất thiện mà có khổ thọ. Lại đối với xứ ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, khởi lên các thọ thì gọi là chấp thọ, thủ thọ, điên đảo thọ, biến kế thọ, ác kiến thọ, nhãn tưởng thọ, cho đến ý tưởng thọ, sắc tưởng thọ, cho đến pháp tưởng thọ, cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ. Nói tóm lại, cho đến đối với pháp trong ngoài ý xúc làm duyên sinh ra các thọ, trong đó hoặc khổ, hoặc vui, không khổ, không vui. Đó gọi là thọ.
Lại nữa, đối với tổng tụ, hoặc có một thọ, đó là biểu hiện của một tâm. Hai thọ là biểu hiện của trong ngoài. Ba thọ là biểu hiện của quá khứ, vị lai, hiện tại. Bốn thọ là biểu hiện của bốn đại. Năm thọ là tác ý của năm uẩn. Sáu thọ là biến kế của sáu xứ. Bảy thọ là trụ xứ của bảy thức. Tám thọ là tương ưng của tám tà. Chín thọ là chỗ ở của chín loài hữu tình. Mười thọ là mười thiện nghiệp đạo, cho đến tổng lược các thọ mỗi mỗi tác ý. Vì thế nên biết, hữu tình vô lượng thọ cũng vô lượng. Các Bồ-tát khi quán lạc thọ, thấy các hữu tình sống trong nguồn sinh tử, nên khiến chúng phát sinh trí tuệ, chỉ bày cho chúng biết ghi nhận cái nào là thiện bất thiện.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát lấy thọ quán thọ niệm xứ.
Sao gọi là Bồ-tát lấy tâm quán tâm niệm xứ? Nghĩa là, các Bồ-tát âm thầm thủ hộ, chánh niệm không lay động, quán sát tâm này mau chóng sinh diệt, không có tướng trạng và không có trụ xứ, không ở bên trong, không ở bên ngoài, cũng không ở chính giữa. Vậy nên biết mới phát tâm lượng ấy rất nhỏ, xa lìa tâm tướng, trong đó dù chỉ phần nhỏ cũng không thể được. Tâm ấy tích tập tất cả thiện căn lượng rất nhỏ cũng đều xa lìa và không có phần nhỏ nào. Lại đối với tâm này hồi hướng Bồ-đề, đối với tướng tự thể không có tâm hiểu rõ, không có tâm quán sát, không có tâm nhập vào.
Đức Phật dạy:
– Thế nên được thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tâm Bồ-đề cùng với tâm thiện kia tác dụng của nó lại bất cộng hành; lại tâm thiện căn cùng với tâm Bồ-đề cũng bất cộng hành. Lại tâm thiện căn cùng với tâm hồi hướng cũng bất cộng hành; tâm hồi hướng cùng với tâm Bồ-đề và tâm thiện căn cũng đều bất cộng hành. Phải nên quán sát như vậy, không sinh kinh sợ, đạt được duyên khởi thậm thâm, không phá hoại nhân quả. Pháp tánh tâm tức là tự tánh của hữu tình. Như vậy là trở lại thuộc về nhân duyên của các pháp, không lay động, không tạo tác và không chủ tể, nó như bị che lấp không cùng tương ưng. Vì thế nên biết, pháp tánh tâm này cũng bất cộng hạnh.
Sao gọi là pháp tánh và tâm che lấp? Pháp tánh tâm là đối với xứ này đều không sở thí. Nếu lại đem tất cả sở hữu hồi hướng trang nghiêm khắp cả cõi Phật thì đó là tâm che lấp như là huyễn hóa, trong khoảng sát-na thật là vắng lặng. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu lại tập hợp các cấm giới hồi hướng tất cả thần thông mau chóng thì đó là tâm che lấp. Cũng như mộng tưởng rốt ráo không còn sót lại. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu lại ham thích sức nhẫn nhục, cho đến hồi hướng trang nghiêm khắp tất cả thì đó là tâm che lấp. Cũng như sóng nắng, rốt ráo lìa tướng thân tâm. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu lại phát khởi tất cả tinh tấn hồi hướng viên mãn tất cả pháp Phật thì đó là tâm che lấp. Như bóng trăng in nước, không chấp không thấy. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu đem tất cả thiền định giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để hồi hướng Tam-muội của chư Phật thì đó là che lấp, không sắc không thấy, không đối tượng không biểu hiện. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu lại đem trí phân biệt, tuyên nói tất cả cú nghĩa thanh tịnh, hồi hướng viên mãn các trí tuệ chư Phật thì đó là che lấp, đưa ra mọi thứ. Đó gọi là pháp tánh tâm. Nếu lại đối với các thiện căn có sự gián đoạn thì đó là che lấp, làm tâm không nhân sinh. Đó là pháp tánh tâm. Nếu lại nhân nơi Bồ-đề pháp phần mà khởi lên thì đó là che lấp. Giải thoát sáu cảnh là pháp tánh tâm. Nếu lại đối với cảnh giới của Phật mà có sự đoạn diệt thì đó là che lấp.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành như vậy để quán tâm hạnh này, an trú thần thông, được thần thông ấy đối với nhất tâm có khả năng biết rõ chỗ tâm hướng đến của tất cả hữu tình. Bồ-tát biết như thế rồi tùy theo mỗi bản tánh mà vì nói pháp.
Lại nữa, Bồ-tát an trú đại Bi, được đại Bi ấy rồi có khả năng hóa độ tất cả hữu tình không biết mệt mỏi. Bồ-tát đối với quán hạnh này gia trì tâm ấy, không tận không diệt. Giá như vào nguồn sinh tử cắt mọi trói buộc, nhưng đối với tâm niệm này trí không khởi, vượt mọi hành pháp, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không theo kịp mà được an trú. Tâm này cho đến viên mãn tất cả pháp Phật. Tâm này trong khoảng sát-na có thể tương ưng với tuệ thù thắng bình đẳng nhất định thành tựu quả vị Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát lấy tâm quán tâm niệm xứ.
Đức Phật bảo:
– Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là các Bồ-tát lấy pháp quán pháp niệm xứ? Nghĩa là, các Bồ-tát dùng thánh tuệ nhãn để thấy các pháp và hiểu rõ được các pháp ấy, cho đến Bồ-đề đạo tràng quán các pháp tánh như bụi vi trần đều không thể thấy. Nếu Không giải thoát tức là Vô tướng giải thoát, Vô nguyện giải thoát, Bất khởi giải thoát, Vô sinh giải thoát, Vô tác giải thoát, Vô tánh giải thoát, Duyên sinh giải thoát. Các Bồ-tát nên quán tất cả pháp như vậy.
Sao gọi là pháp? Là không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả. Đó gọi là pháp.
Sao gọi là phi pháp? Là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến. Đó gọi là phi pháp.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Pháp phi pháp này nhiếp hết tất cả pháp và phi pháp. Vì sao? Vì là ba giải thoát môn Không, Vô tướng, Vô nguyện biết rõ hết tất cả. Đó tức là các pháp. Đối với ngã kiến... trói buộc thân tâm. Đó là các phi pháp. Thế nên, khi Bồ-tát tu pháp quán, lượng đó rất nhỏ đều không thể thấy; đối với pháp giải thoát và Bồ-đề đạo thảy đều xuất ly không bị chướng ngại; đối với các hữu tình không khởi tưởng ái kiến đại Bi. Bồtát ấy không có phiền não và tùy phiền não. Vì sao? Vì đã hiểu rõ nghĩa bình đẳng, nhân pháp đều không, không có tích tập các phiền não, nhưng lại có khả năng giác ngộ tự tánh của phiền não tức là tánh Bồ-đề; tự tánh Bồ-đề tức là phiền não. Như vậy các pháp niệm xứ bình đẳng cũng như hư không. Các Bồ-tát khi tu pháp quán đối với các pháp Phật nên có khả năng đối trị, quán các hữu tình tâm được sinh trí, chứng được vô vi lìa vô sinh trí; đối với nguồn vô sinh không có rời bỏ. Như vậy là thông đạt pháp quán niệm xứ, tức là được an trụ tất cả pháp niệm. Bồ-tát đối với tất cả pháp Thanh văn, Bích-chi-phật không khởi ham thích, nhất định an trụ trong niệm xứ của chư Phật thường không quên mất, không có si mê, cho đến biên tế tối hậu của pháp quán niệm xứ, có khả năng nói vô lượng cảnh giới bất cộng bình đẳng, hiểu rõ tất cả pháp Phật, khiến các hữu tình tâm sinh hoan hỷ, tự nhiên biết rõ tất cả pháp ma. Đây gọi là lấy pháp quán pháp niệm xứ.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa này đạt được bốn Niệm xứ thiện xảo như vậy.
Sao gọi là Bồ-đề phần thiện xảo của các Bồtát? Pháp Bồ-đề phần có bảy:
1. Niệm Bồ-đề phần.
2. Trạch pháp Bồ-đề phần.
3. Tinh tấn Bồ-đề phần.
4. Lạc Bồ-đề phần.
5. Thích duyệt Bồ-đề phần.
6. Tam-ma-địa Bồ-đề phần.
7. Xả Bồ-đề phần.
Đó là bảy.
Sao gọi là Niệm Bồ-đề phần? Là nhớ nghĩ đến pháp đã giác ngộ, quán sát phân biệt chia chẻ lựa chọn cho đến khi nào hiểu rõ, lại nên nhớ nghĩ tướng tự thể của pháp ấy, tùy thuận giác ngộ như các pháp không tùy niệm mà biết rõ. Đây gọi là Niệm Bồ-đề phần.
Sao gọi là Trạch pháp Bồ-đề phần? Là đối với tám vạn bốn ngàn pháp môn dùng trí mà lựa chọn, chọn đúng như pháp rồi biết pháp nào là liễu nghĩa thì đó là liễu nghĩa, pháp nào không liễu nghĩa thì là không phải liễu nghĩa. Pháp nào thế tục thì là thế tục, pháp nào thắng nghĩa thì là thắng nghĩa, pháp nào bí mật thì là bí mật, pháp nào quyết định thì là quyết định. Lựa chọn như vậy gọi là Trạch pháp Bồ-đề phần.
Sao gọi là Tinh tấn Bồ-đề phần? Là đối với pháp phải hiểu biết suy nghĩ lựa chọn xả ly, thích tu thiền định vắng lặng khinh an, nên dùng sức dũng mãnh nhiếp phục chấp trước, ham muốn Bồđề đạo tràng không thoái lui, không bỏ gánh nặng. Đây gọi là tinh tấn Bồ-đề phần.
Sao gọi là Lạc Bồ-đề phần? Là thích nghe pháp âm với tâm thanh tịnh không sinh nhàm chán mệt mỏi, lìa mọi phan duyên và phiền não trói buộc, chí thành khát ngưỡng, cho đến rùng mình được đại pháp lạc. Đây gọi là Lạc Bồ-đề phần.
Sao gọi là Thích duyệt Bồ-đề phần? Nghĩa là Tam-ma-địa lìa các tánh chướng ngại, hôn trầm, trạo cử, khiến thân tâm đều được khinh an. Đây gọi là Thích duyệt Bồ-đề phần.
Sao gọi là Tam-ma-địa Bồ-đề phần? Là đối với tâm thiền định trí biết rõ các pháp an trú sâu xa, quán tánh của các pháp thảy đều bình đẳng. Đây gọi là Tam-ma-địa Bồ-đề phần.
Sao gọi là Xả Bồ-đề phần? Là các pháp vui, buồn không làm động tâm, đối với pháp thế gian cũng không tăng giảm, tùy thuận Thánh đạo, đối với tự tha đều không trụ, không động và không tổn giảm não hại. Đây gọi là Xả Bồ-đề phần.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa đạt được bảy thứ Bồ-đề phần thiện xảo như vậy.
Sao gọi là Bồ-tát Thánh đạo thiện xảo? Thánh đạo này có tám:
1. Chánh kiến.
2. Chánh phân biệt.
3. Chánh ngữ.
4. Chánh nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh cần.
7. Chánh niệm.
8. Chánh định.
Đó là tám.
Sao gọi là Chánh kiến? Nghĩa là cái nhận thức này vượt hơn thế gian, nó không phát sinh từ ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến và thọ giả kiến. Nó cũng không phát sinh từ thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến, thiện bất thiện kiến, cho đến Niết-bàn kiến. Đó gọi là Chánh kiến.
Sao gọi là Chánh phân biệt? Nghĩa là phân biệt tham, sân, si và các phiền não khiến chúng không sinh khởi; phân biệt giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, khiến được an trụ. Đó gọi là chánh phân biệt.
Sao gọi là Chánh ngữ? Là lời nói đối với mình, người, thiện hữu không có bỉ thử, tương ưng đầy đủ, nhập đạo bình đẳng. Đây gọi là chánh ngữ.
Sao gọi là Chánh nghiệp? Là không tạo tác hắc nghiệp, khiến chúng diệt tận, đối với bạch nghiệp tự loại hòa hợp, khiến được thuần thục. Đó gọi là Chánh nghiệp.
Sao gọi là Chánh mạng? Nghĩa là đệ tử của bậc Thánh phải mang vác gánh nặng là vì Thánh đạo, tăng trưởng viên mãn, nuôi dưỡng thân mạng, không đem tạp loạn khi dối lừa gạt cầu ác cầu nhiều. Người khác được lợi không sinh hối tiếc áo não, đối với lợi dưỡng của chính mình tùy theo vật hiến cúng không sinh vui thích. Đó gọi là chánh mạng.
Sao gọi là Chánh cần? Là không khởi lên các tà hạnh tham, sân, si... và tùy phiền não; hiểu đạo Thánh đế, hướng đến quả Niết-bàn và có khả năng khởi lên siêng năng dũng mãnh. Đó gọi là chánh cần.
Sao gọi là Chánh niệm? Là đối với niệm này an trụ chánh đạo, lìa mọi khi dối lỗi lầm, luân hồi, cho đến thấy được đạo Niết-bàn. Đối với ý niệm như vậy cũng nên xa lìa, nhưng đối với Thánh đạo không có mê loạn. Đó gọi là Chánh niệm.
Sao gọi là Chánh định? Là chánh đạt bình đẳng, tức là các pháp bình đẳng, an trú đẳng trì, đối với chánh đạt ấy có khả năng thoát khỏi.
Lại nữa, Bồ-tát an trú đẳng trì có khả năng khiến tất cả hữu tình được giải thoát, đối với chánh đạt trước cũng có thể thoát khỏi. Đó gọi là Chánh định.
Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai vì các Bồ-tát đối với tám Thánh đạo mà khai thị bình đẳng Thánh đạo vô tận.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với Thánh đạo thiện xảo phải nên tu tập pháp trợ đạo.
Sao gọi là trợ đạo? Là Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xána. Đó là trợ đạo.
Sao gọi là Xa-ma-tha? Là làm cho tâm yên tĩnh vắng lặng, cực vắng lặng và đưa đến cùng cực vắng lặng, nhiếp hộ các căn không lay động, không có cao thấp, miệng im lặng cẩn thận, cũng không dối trá, tâm một cảnh tánh, xa lìa ồn ào và các hiểm nạn, thích chỗ yên tĩnh; đối với thân mạng điều hòa thanh tịnh, giữ gìn oai nghi, đạo hạnh cẩn mật, cho đến sự nuôi sống đầy đủ, biết thời, biết phần và biết số lượng. Giá như có nghe sự phỉ báng cũng nên nhẫn chịu an ổn, thâm tâm chuyển đổi, thường thích ngồi yên. Thế nên định phần tác ý, đối với Từ, Bi, Hỷ, Xả, dùng phương tiện vô ngại an trụ tu quán, từ thiền ban đầu cho đến thiền thứ tám. Đối với Xa-ma-tha nên trước tu tập lời ta dạy, đối với Xa-ma-tha này lại có vô lượng hạnh Xa-ma-tha, phải nên tùy thuận hạnh này. Đó gọi là Xa-ma-tha.
Sao gọi là Tỳ-bát-xá-na? Là đối với trí tuệ quán các pháp không, không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Quán năm uẩn cũng như huyễn hóa, quán mười tám giới tức là tánh pháp giới, quán mười hai xứ như làng bỏ trống, quán các căn nhãn, tùy cảnh phân biệt mà chuyển, quán các duyên khởi không có trái nhau, quán chúng sinh thấy xa lìa rốt ráo.
Lại nữa, quán nhân tức là chiêu cảm quả báo, quán quả như hiện tiền chứng đắc, quán các chánh đạt càng mau thoát khỏi.
Lại nữa, Tỳ-bát-xá-na là quán các pháp thấy như không, không tướng, không nguyện nhưng không sai khác. Quán không có nhân, không khởi diệt xứ, cái thấy đó không có sở đắc, cái được đó không có sở quán. Đối với không sở quán lại quán sát kỹ thì không có sở quán, biết rằng người quán cũng lại như vậy, người quán như vậy tức là thật quán. Đối với thật quán đó lại có khả năng đạt được Tỳ-bát-xá-na chân thật thiện xảo. Các Bồ-tát đối với hạnh này không bị đọa lạc và cũng không đắm trước các thiện căn.
Này Xá-lợi Tử! Đó là Đại Bồ-tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba-la-mật-đa, nên đạt được pháp trợ đạo như vậy. Các Bồ-tát đối với chánh đạo thiện xảo có bốn tướng:
1. Chưa sinh tội nghiệp các pháp bất thiện khiến chúng không khởi.
2. Đã sinh tội nghiệp các pháp bất thiện, khiến chúng đoạn trừ.
3. Chưa sinh thiện pháp thì làm cho nó phát khởi.
4. Thiện pháp đã sinh thì làm cho nó tăng trưởng không bị tổn hoại, tu các quán hạnh khiến không quên mất, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện.
Như trên đã nói các pháp bất thiện khiến chúng không khởi, thâm tâm tác ý đều là khái niệm. Phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện, thâm tâm quán sát cũng là khái niệm. Vì sao? Vì pháp hợp tập, thâm tâm giải thoát. Đó gọi là thiện pháp.
Sao gọi là pháp bất thiện? Là đối với giới, định, tuệ có chỗ đối trị.
Sao gọi là đối với giới đối trị? Là đối với danh tự, giới và pháp sở tác hủy phạm đọa lạc.
Sao gọi là đối với định đối trị? Là đối với Tamma-địa uẩn khởi tâm tán loạn phá hoại Thánh hạnh. Sao gọi là đối với tuệ đối trị? Là đối với các pháp khởi lên mọi nhận thức hiểu biết các việc chướng ngại, đối với tuệ uẩn thù thắng có chỗ hướng đến. Đó gọi là đối với giới, định, tuệ có chỗ đối trị.
Như trên đã nói, đã sinh tội nghiệp các pháp bất thiện, hành tướng như vậy thâm tâm tác ý, nên khiến đoạn trừ, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện. Đây là pháp bất thiện. Đem tâm che chở không nên khai thị, tâm thường thực hành tất cả thiện pháp, đối với sự đối trị tham, sân, si đều nên biết rõ nhân nơi phan duyên mà sinh, dùng quán bất tịnh mà đối trị tham dục, dùng quán từ bi đối trị sân nhuế, dùng quán duyên sinh đối trị si ám, tẩy sạch các phiền não. Đó là giải thoát.
Lại nữa, không nên đoạn hết pháp sở hữu mà phải quán sát tất cả pháp. Đây gọi là đoạn hai Chánh đoạn đầu. Nói như vầy: Thiện pháp chưa sinh thì làm cho nó sinh, phát tâm tinh tấn nhiếp thọ chánh nguyện phương pháp này có vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát trồng các thiện căn, siêng năng tinh tấn, nhiếp thọ chánh hạnh, tích tập vô lượng thiện pháp như vậy. Đây gọi là Chánh đoạn thứ ba.
Lại nữa, chánh đoạn là: Thiện pháp đã sinh thì làm cho nó tồn tại lâu dài không bị tổn hại, không bị quên mất, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện. Nếu đem thiện căn này hồi hướng Bồ-đề thì là khái niệm. Vì sao? Vì không có Bồ-đề có thể hồi hướng, thiện căn này không thể phá hoại được. Vì sao? Vì phát tâm như trên không thoát ra ba cõi, nếu thoát ba cõi thì đối với thiện căn này nên dứt sạch. Vì sao? Vì phát tâm như vậy mới thoát khỏi ba cõi. Nếu không thoát khỏi ba cõi, mà có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí, đối với thiện căn này tức không có tận. Đây gọi là Chánh đoạn thứ tư.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, nên đạt được bốn chánh đạo thiện xảo.
Lại nữa, các Bồ-tát đối với chánh đạo thiện xảo có năm tướng:
1. Tín căn.
2. Tinh tấn căn.
3. Niệm căn.
4. Tam-ma-địa căn.
5. Thắng tuệ căn.
Sao gọi là Tín căn? Tín có bốn pháp là khởi lên chánh kiến, tin có thế gian và nghiệp luân hồi, gặt lấy nghiệp báo làm đối trị, mạng căn ấy không tạo tội nghiệp. Tin Bồ-tát thực hành hạnh như vậy, đối với những vật dụng mỗi thân thể không sinh đắm trước; đối với nghĩa thù thắng thậm thâm và các liễu nghĩa, phát sinh tin hiểu chân chánh; đối với hạnh của hữu tình, tin tất cả pháp tướng không vô tướng; đối với các kiến tạo tác không thích tin hiểu, nghe pháp lực vô úy của chư Phật rồi lìa mọi đắm trước và các ngôn thuyết khác, tích tập pháp của chư Phật. Đây gọi là Tín căn.
Sao gọi là Tinh tấn căn? Là tin pháp này phát khởi tinh tấn, đó là Tinh tấn căn. Do tinh tấn này tích tập các pháp, đối với Niệm căn ấy không thể bị phá hoại, đó gọi là Niệm căn. Do niệm căn ấy không bị phá hoại nên đối với các pháp Tam-mađịa, căn chỉ một cảnh tánh, đó gọi là Tam-ma-địa căn. Do Tam-ma-địa căn này chỉ một cảnh tánh, dùng Tuệ căn này quán sát các pháp mà có khả năng biết rõ, đó gọi là Tuệ căn. Đối với năm Căn tích tập hệ thuộc như vậy nên viên mãn được tất cả pháp Phật, cho đến địa vị thọ ký. Ví như người đạt được năm thần thông rồi thì không còn thọ thai, cho đến thoát khỏi căn của nam nữ, như chư Phật Thế Tôn và các Bồ-tát. Đối với năm căn này mà được thành tựu, đây gọi là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, cho nên đạt được năm chánh đạo thiện xảo.
Này Xá-lợi Tử! Chánh đạo của Bồ-tát có năm tướng:
1. Tín lực.
2. Tinh tấn lực.
3. Niệm lực.
4. Tam-ma-địa lực.
5. Thắng tuệ lực.
Sao gọi là Tín lực? Là tin hiểu pháp. Giá như ma Ba-tuần hóa làm thân Phật, đến thân cận nói pháp riêng khác, Bồ-tát nhờ tín lực nên đối với chánh pháp này, dù chỉ mảy nhỏ như trần sa cũng chớ phá hoại. Bồ-tát dùng trí quán sát nên mọi ma lực đều bị đoạn trừ.
Lại nữa, ma cho rằng pháp này không phải là pháp Phật nói, đối với bốn đại chủng và các nghiệp báo, tích tập điên đảo, nhưng các Bồ-tát dùng sức tin hiểu, thâm tâm suy xét nên không tin thọ. Đây gọi là Tín lực của Bồ-tát.
Sao gọi là Tinh tấn lực của Bồ-tát? Là Bồ-tát phát khởi tinh tấn dũng mãnh, hiểu rõ thiện pháp, dù ở chỗ nào cũng giữ được sức kiên cố, hoặc trời, hoặc người có sức lực cũng không thể làm lay động trụ xứ của Bồ-tát. Đó gọi là Tinh tấn lực của Bồtát.
Sao gọi là Niệm lực của Bồ-tát? Là đối với pháp niệm xứ tâm ấy an trụ, mọi phiền não không thể nhiễu loạn, do niệm lực cho nên phá hoại các phiền não, đạt được chánh niệm thanh tịnh này. Đây gọi là Niệm lực của Bồ-tát.
Sao gọi là Tam-ma-địa lực của Bồ-tát? Là ở một mình nơi vắng lặng, lìa chỗ ồn ào, xa lìa tất cả nói năng, không có phan duyên đối trị, đó là Sơ thiền định. Đối với thiện tầm từ không bị chướng ngại, đó là Nhị thiền định. Đối với hạnh hỷ lạc không bị chướng ngại, đó là Tam thiền định. Đối với nhiếp thọ chánh pháp, hóa độ hữu tình, đạt được không lìa bỏ, không có chướng ngại, đó là Tứ thiền định. Đối với hạnh tứ thiền định, pháp đối trị ấy không thể phá hoại, đối với định xứ ấy cũng không xa lìa, không sinh đắm trước Tam-ma-địa, đó gọi là Tam-ma-địa lực của Bồ-tát.
Sao gọi là Thắng tuệ lực của Bồ-tát? Là có khả năng biết rõ pháp thế xuất thế trong khoảng sát-na, đối với trí như vậy không thể phá hoại. Tất cả công xảo cho đến mọi kỹ nghệ ở thế gian, hoặc gần, hoặc xa, làm việc khó làm, nhưng các Bồ-tát hiện tiền đạt được pháp xuất thế gian, trí tuệ rạng ngời vượt hơn các thế gian, tất cả trời, người, A-tu-la không thể phá hoại. Đó gọi là Thắng tuệ lực của Bồ-tát.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa nên đạt được năm chánh đạo thiện xảo như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lược nói tất cả Thánh đạo của Bồ-tát, đó là Bồ-tát đối với Chánh đẳng Chánh giác chỉ một mình không hai, tự dùng sức đại tinh tấn dũng mãnh, thâm tâm nhiếp thọ, không mượn duyên khác hay nhờ người khác khai thị, mà tự thành tựu lực dụng to lớn, có khả năng mặc áo giáp kiên cố như vậy, hay đạt được những gì khó được của hữu tình, những người mới phát tâm trụ Bồ-tát thừa chưa được nay được.
Lại nữa, Bồ-tát có khả năng thí tất cả những gì khó thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ cũng lại như vậy.
Lại nữa, người mới phát tâm không thể kiến lập Ba-la-mật-đa, nhưng Bồ-tát thì lại có khả năng kiến lập các Ba-la-mật-đa. Nói tóm lại, cho đến giác ngộ rộng lớn, gieo trồng căn lành cũng không thể sánh kịp. Bồ-tát đối với pháp hạnh này chỉ một mình không hai, đến Bồ-đề tràng, ngồi tòa Kim cang, nhiếp phục ma lực, trong một sát-na tương ưng tuệ thù thắng, đối với quả Chánh đẳng Chánh giác bình đẳng quyết định không còn thoái chuyển.
Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát thực hành Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa nên đạt được Thánh đạo thiện xảo của Bồ-tát.
Sao gọi là duyên sinh thiện xảo của Bồ-tát? Bồtát này trong ngày đêm, ngồi yên một mình phát khởi thiện tầm từ suy nghĩ: Uẩn do đâu mà khởi và nó sẽ nhờ lực nào? Do tác ý không đúng lý như vậy nên phát sinh vô minh, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não và tùy phiền não phương tiện tập khởi.
Lại nữa, do pháp như vậy, không thể không tạo tác và không chủ tể. Đó là nhân thiện, nhân ác, nhân vô ký, tất cả duyên sinh. Lại các hữu tình đều có phần lượng, là căn nhân tăng thượng, căn nhân, nghiệp nhân, quả nhân, có vô biên tế các nhân rốt ráo, tất cả tập hợp phát sinh thảy đều biết rõ. Đây gọi là duyên sinh thiện xảo.
Lại nữa, uẩn diệt. Sao gọi là diệt? Nếu diệt tác ý đúng lý thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt. Từ đó đạt được trí như vậy.
Lại nữa, duyên sinh thiện xảo là tất cả các pháp đều lệ thuộc vào sự hòa hợp của nhân duyên, tức là có khả năng gia trì không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả. Bồ-tát không chấp trước vào các tướng ấy, nhưng đối với duyên sinh này có khả năng kiến lập tất cả pháp Phật và tướng Bồ-đề; đối với hữu tận diệt nên quán sát khéo léo, đối với vô tận diệt nhiếp hóa hữu tình.
Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa nên đạt được duyên sinh thiện xảo như vậy.
Sao gọi là tất cả pháp thiện xảo của Bồ-tát? Tất cả pháp là hữu vi, vô vi, các Bồ-tát đối với hữu vi vô vi thiện xảo nên biết như vậy.
Hữu vi thiện xảo nghĩa là nghiệp thiện của thân, miệng, ý, quán sát hữu vi Bồ-đề hướng đến nhất thiết trí. Đó gọi là hữu vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo là tích tập Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, năm pháp Ba-la-mật-đa. Nếu lại đối với Tuệ thù thắng ba-lamật-đa được trí vô vi, đối với năm Ba-la-mật-đa cũng không xả bỏ, siêng năng mong cầu tất cả Bala-mật-đa, tin hiểu Bồ-đề vô lậu, hướng đến Nhất thiết trí. Đó gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo nghĩa là hữu tình thực hành bốn nhiếp sự không bị đối khiển, tuy là nhiếp thọ hữu tình, nhưng kỳ thật là nhiếp thọ vô ngã, vô nhân; đối với nhiếp sự thiện xảo không có dính mắc, tin hiểu Bồ-đề vô vi, hướng đến Nhất thiết trí. Đó gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo nghĩa là đoạn các hành nghiệp trói buộc không thôi, tức là đoạn luân hồi và phiền não trói buộc, đối với tướng Bồ-đề có sự nắm giữ trói buộc liên tục, phần nhỏ vi tế không có kết nghiệp. Đây gọi là hữu vi thiện xảo.
Lại nữa, đối với Không, Vô tướng, Vô nguyện dùng trí quán sát hiểu rõ nhân duyên các pháp, tu hạnh Bồ-đề nhưng không chứng Niết-bàn. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, tuy Bồ-tát sống trong ba cõi nhưng không bị phiền não trong ba cõi trói buộc. Đây gọi là hữu vi thiện xảo. Nếu dùng trí hiểu rõ thoát khỏi ba cõi, nhưng không lìa ba cõi, cũng không đọa lạc. Đây gọi là vô vi thiện xảo. Nếu nói tất cả pháp thiện xảo thì nhất thiết trí đều là khái niệm. Nếu đối với nhất thiết trí thông đạt viên mãn không bị tổn giảm. Đây là thắng tuệ thiện xảo, tức là tất cả pháp thiện xảo.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát an trụ Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, đối với tuệ thù thắng đạt được mười thiện xảo như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tuệ thù thắng? Sao gọi là Ba-la-mật-đa? Tuệ thù thắng là quán sát biết rõ pháp thiện bất thiện, đó gọi là tuệ thù thắng. Phân biệt vô lượng pháp môn như thật, đó gọi là tuệ thù thắng. Thông đạt các kiến được pháp vô ngại, đó gọi là tuệ thù thắng. An trú tất cả chánh nguyện, nhưng kỳ thật xả các nguyện cầu, đó gọi là tuệ thù thắng. Lìa các phiền não, được mọi khinh an, đó gọi là tuệ thù thắng. Cắt đứt mọi phan duyên được pháp vui lớn, đó gọi là tuệ thù thắng. Tùy nghĩa quán sát, đó gọi là tuệ thù thắng. Được an trụ pháp phần Bồ-đề, đó là tuệ thù thắng. Biết rõ như thật về pháp tướng vô tướng, đó là tuệ thù thắng. Dùng trí quán chiếu biết rõ thể tánh của các pháp, đó là tuệ thù thắng. Thoát khỏi mọi hiểm nạn không bị chướng ngại, đó là tuệ thù thắng. Nhiếp thọ chánh đạt, đó là tuệ thù thắng. Đối với các thiện pháp khiến được thanh tịnh, đó là tuệ thù thắng. Cắt đứt tập nghiệp phiền não, đó là tuệ thù thắng. Do trước tu chứng tất cả thiện pháp, đó là tuệ thù thắng. Đối với tự nhiên sinh... khởi lên giác ngộ dẫn dắt hữu tình được xa lìa, đó là tuệ thù thắng. Không đắm trước ba cõi, đó là tuệ thù thắng. Đối với các Thánh nguyện liên tục không gián đoạn, đó là tuệ thù thắng. Đem các vô tướng phục trừ biến kế, đối trị thanh tịnh, đó là tuệ thù thắng. Lìa mọi tối tăm ngu si, thành tựu tất cả hành địa tương ưng, đó là tuệ thù thắng. Đối với Nhất thiết trí trí, tu đạo quang minh, đó là tuệ thù thắng. Làm con mắt sáng đối với vô minh tối tăm, đó là tuệ thù thắng. Tin hiểu nhãn căn vô lậu như vậy, đó là tuệ thù thắng. Đối với cảnh đối tượng của mắt, vượt hơn mọi nghĩa thù thắng, đó là tuệ thù thắng. Xuất ly chân thật điều phục không lay động, đó là tuệ thù thắng. Trí tuệ chiếu sáng không có cùng tận, đó là tuệ thù thắng. Biến nhất thiết xứ không có trái nhau, đó là tuệ thù thắng. Đối với đạo giải thoát luôn luôn cao sáng, đó là tuệ thù thắng. Lìa các phiền não và pháp chướng ngại, đều không chung nhau, đó là tuệ thù thắng.
Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát dùng tuệ thù thắng như vậy nên có thể hiểu rõ tâm hướng đến của tất cả hữu tình, nghiệp hạnh sai khác, các môn trần lao; cho đến dùng trí tuệ như vậy đối với chấp trì có thể biết rõ hết tất cả Thanh văn, Bích-chiphật, Tam-miệu Tam-phật-đà, đó là tuệ thù thắng. Các Bồ-tát đối với cú nghĩa này tất cả nên học.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ba-la-mật-đa nghĩa là tuệ thù thắng, biết rõ tất cả pháp thiện bất thiện, đó là Ba-la-mật-đa. Nói tóm lại, cho đến đối với cú nghĩa, nghĩa này tất cả nên học, đó là Ba-la-mậtđa.
Lại nữa, nên viên mãn hạnh thù thắng của Bồtát, đó là Ba-la-mật-đa. Viên mãn Nhất thiết trí trí, đó là Ba-la-mật-đa. Không đắm trước vào pháp hữu vi vô vi, đó là Ba-la-mật-đa. Vì khiến hữu tình giác ngộ lỗi lầm của luân hồi, đó là Ba-la-mật-đa. Có khả năng chỉ rõ pháp tạng vô tận, đó là Ba-lamật-đa. Lìa mọi phan duyên, giải thoát viên mãn, đó là Ba-la-mật-đa. Đối với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thắng tuệ, khiến hết tất cả đều được giác ngộ, đó là Ba-la-mật-đa. Thiện xảo rốt ráo đối với cảnh giới hữu tình, dẫn dắt tất cả, vì khiến viên mãn pháp nhẫn vô sinh, đạt đến địa không thoái, đó là Ba-la-mật-đa. Viên mãn cõi Phật, hóa độ hữu tình đến Bồ-đề tràng, trừ các ma oán, viên mãn tất cả pháp Phật, đó là Ba-la-mật-đa. Lại có khả năng kiến lập Chánh pháp Đại thừa Bồtát tạng, đó là Ba-la-mật-đa.
Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát đối với Chánh pháp tạng này, học như vậy rồi sẽ đạt đến bờ giác. Thế nên đối với tất cả Ba-la-mật-đa của Đại thừa này nên học như vậy.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Chánh pháp Bồ-tát tạng này mà thọ trì, đọc tụng, khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người nên đều được mười công đức khen ngợi:
1. Sau khi chết thông đạt tất cả sự nghiệp.
2. Được sinh vào dòng thánh.
3. Đầy đủ danh tiếng.
4. Lời nói ra được mọi người hoan hỷ tin theo.
5. Được giàu có vô lượng.
6. Được trời người kính mến.
7. Làm Chuyển luân vương.
8. Được sinh lên Phạm thiên.
9. (Nguyên trong bản chữ Phạn thiếu).
10. Dù ở đâu cũng được tâm Bồ-đề không có thoái thất.
Lại nữa, đạt được mười công đức khen ngợi:
1. Không sống chung với các loại Ni-càn-đà.
2. Không khởi ngã kiến.
3. Không khởi nhân kiến.
4. Không khởi chúng sinh kiến.
5. Không khởi thọ giả kiến.
6. Không khởi thường kiến.
7. Không khởi đoạn kiến.
8. Nên xả bỏ các ngọc báu đẹp.
9. Phát tâm tịnh tín, thường thích xuất gia.
10. Mau chóng hiểu rõ danh cú văn.
Lại nữa, đạt được mười công đức khen ngợi:
1. Chánh niệm.
2. Thông minh lanh lợi.
3. Tổng trì.
4. Thắng tuệ.
5. Sát-na được đầy đủ.
6. Được túc trụ niệm.
7. Tánh ít tham dục.
8. Tánh ít sân nhuế.
9. Tánh ít ngu si.
10. Không bị lửa dữ trong ba cõi thiêu đốt.
Lại nữa, đạt được mười công đức khen ngợi:
1. Tuệ thù thắng hy hữu.
2. Tuệ thù thắng khinh an.
3. Tuệ thù thắng dũng mãnh lanh lẹ.
4. Tuệ thù thắng nhanh chóng.
5. Tuệ thù thắng to lớn.
6. Tuệ thù thắng thậm thâm.
7. Tuệ thù thắng quyết trạch.
8. Tuệ thù thắng vô ngại.
9. Hiện tiền được thấy Như Lai và có khả năng dùng kệ khen ngợi Như Lai.
10. Cùng Như Lai thâm tâm vấn đáp.
Lại nữa, đạt được mười công đức khen ngợi:
1. Có thể dẫn dắt bảo hộ các ác tri thức.
2. Giải thoát các trói buộc của ma.
3. Phá các quân ma.
4. Đoạn các hoặc nhiễm.
5. Đối với các hành nghiệp có khả năng trừ phục kiêu mạn.
6. Hướng đến các nẻo thiện.
7. Hướng đến cửa Niết-bàn.
8. Bố thí nhận thí vượt mọi luân chuyển.
9. Theo học tất cả đạo Bồ-đề.
10. Thuận tất cả lời dạy của chư Phật.
Này Xá-lợi Tử! Đối với Chánh pháp Bồ-tát tạng phải nên thọ trì, đọc tụng, khai thị rộng rãi diễn nói cho mọi người đều đạt được công đức khen ngợi như vậy.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền lập lại bằng kệ rằng:
Những bậc có trí lớn
Khéo rõ văn cú nghĩa
Thọ trì kinh vua này
Được vô lượng thắng tuệ
Tỳ-kheo Pháp sư ấy
Thường hành pháp thí này
Thọ trì kinh vua này
Sinh hoan hỷ tối thắng.
Vì mọi người nghe pháp
Tuyên nói pháp như vậy
Thọ trì kinh vua này
Được công đức khen ngợi
Được thắng tuệ này rồi
Đối pháp không tổn giảm
Đối với thắng niệm lực
Hay diễn câu vô thượng.
Người khéo nói pháp yếu
Thường khen lời Phật dạy
Thọ trì kinh vua này
Thường đầy đủ đa văn.
Người nghe rồi thọ trì
Không đắm trước văn tự
Tùy nghĩa thường quán sát
Tăng trưởng trí tuệ Phật
Do trí tuệ vô biên
Thâm đạt Thắng nghĩa đế
Tuyến bố khắp mười phương
Nghe rồi được khen ngợi.
Tham, nhuế và si mê
Từ đó được giảm dần
Tâm thanh tịnh tối thượng
Nghe rồi được khen ngợi.
Thọ dụng mọi tiền của
Xưng dương nghĩa như thật
Hiểu rõ phi chân thật
Bỏ nhà cầu giải thoát.
Thích sống nơi vắng lặng
Nghe pháp thường không chán
Thưa hỏi Đức Thế Tôn
Pháp thí không xan lận
Khiến trí tuệ tăng trưởng
Trong sạch không giảm mất.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này đối với hạnh Tuệ thù thắng ba-la-mật-đa, nên dũng mãnh dùng bốn Nhiếp pháp nhiếp thọ hữu tình. Bốn pháp ấy là: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.
Sao gọi là Bố thí? Ấy là bố thí tiền, bố thí pháp và thí vô úy.
Sao gọi là Ái ngữ? Là nói lời nhẹ nhàng đối với người nghe pháp.
Sao gọi là Lợi hành? Là ý luôn vui vẻ hòa thuận viên mãn đối với mình và người.
Sao gọi là Đồng sự? Là đối với trí này khởi lên tưởng công đức, nhiếp thọ hữu tình, an trụ vào pháp này.
Lại nữa, người Bố thí nghĩa là ý phải hết sức thanh tịnh, đối với tất cả những ai đến xin. Ái ngữ là đoạn mọi hợp tập. Lợi hành là khiến không thoái lui. Đồng sự là hồi hướng Đại thừa.
Lại nữa, Bố thí là tùy chuyển tâm đại Bi không có hối tiếc. Ái ngữ là tùy tâm hỷ xả. Lợi hành là vì các hữu tình, thân tâm dũng mãnh, mặc đại giáp trụ. Đồng sự là tâm xả cao thấp, hướng đến Nhất thiết trí.
Lại nữa, Bố thí là như pháp mong cầu bỏ mọi tài sản tư cụ. Ái ngữ là đem chánh pháp hướng dẫn mọi người. Lợi hành là tự lợi lợi tha đều khởi bình đẳng. Đồng sự là lợi ích các hữu tình, đồng khởi tâm Nhất thiết trí.
Lại nữa, Bố thí là tự xả tất cả pháp trong ngoài. Ái ngữ là đối với các pháp thực hành công đức trí tuệ, thiện quyền khen ngợi. Lợi hành là xả mọi tự lợi chuyển đổi lợi tha. Đồng sự là thành thục Bồđề. Ví như trái Am-ma-la-lặc trong lòng bàn tay, đem ban cho mọi người không còn khiếp nhược.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Pháp thí nghĩa là khi mình nghe pháp rồi đem diễn nói cho mọi người. Ái ngữ là khai thị chân chánh không mong báo đền. Lợi hành là diễn nói cho mọi người không biết mệt mỏi. Đồng sự là đối với nhất thiết trí ham thích pháp thậm thâm, tâm không xa lìa.
Lại nữa, Pháp thí là đối với người nghe pháp nói không tán loạn. Ái ngữ là đến các phương xa khác diễn nói các pháp. Lợi hành là vì cầu ý nghĩa của chánh pháp mà cung cấp tất cả các thứ đồ ăn, thức uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, cho đến dùng thân che chở các Pháp sư. Đồng sự là khiến chủng tánh huân tập an trụ.
Lại nữa, Pháp thí là tối thượng hơn tất cả các thí. Ái ngữ là phân biệt nghĩa lợi. Lợi hành là theo nghĩa chứ không theo văn cú. Đồng sự là khiến viên mãn tất cả pháp Phật.
Lại nữa, Bố thí là Bố thí ba-la-mật-đa, Ái ngữ là Trì giới, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa, Lợi hành là Tinh tấn ba-la-mật-đa, Đồng sự là Thiền định, Thắng tuệ ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Bố thí là Bồ-tát mới phát tâm. Ái ngữ là Bồ-tát thực hành hạnh thắng giải. Lợi hành là Bồ-tát trụ địa không thoái. Đồng sự là Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ.
Lại nữa, Bố thí là trụ căn Bồ-đề. Ái ngữ là làm hạt mầm Bồ-đề phát triển. Lợi hành là nở hoa Bồđề. Đồng sự là kết trái Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Thế nên các Đại Bồ-tát trong nhiều kiếp dùng bốn nhiếp sự nhiếp thọ hữu tình, đối với hạnh Bồ-đề, các Ba-la-mật-đa có khả năng tùy chuyển, đối với bốn nhiếp sự ấy lại còn có vô lượng vô biên nhiếp sự khác nữa.
Khi ấy, Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Đức Đại Uẩn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác vì thái tử Tinh Tấn Hạnh mà khai thị đạo Bồ-đề và được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại khen ngợi.
Lúc đó, thái tử Tinh Tấn Hạnh ở chỗ Đức Phật ấy nghe chánh đạo Bồ-đề như vậy và nghe chư Phật ba đời khen ngợi hết sức vui mừng vì được thiện lợi. Lại trải qua chín mươi chín câu-chi năm dùng các món đồ ăn, thức uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang cúng dường tôn trọng tán thán Đức Đai Uẩn Như Lai và chúng Thanh văn ấy.
Này Xá-lợi Tử! Đức Đại Uẩn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác liền thọ ký cho thái tử thành Chánh đẳng Chánh giác Bồ-đề.
Khi ấy, Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Các ông chớ cho rằng thái tử Tinh Tấn Hạnh được thọ ký rồi mà khởi lên dị kiến sinh nghi hoặc. Vì sao? Vì thái tử Tinh Tấn Hạnh này đã trải qua thời quá khứ chín mươi chín câuchi năm thân cận cúng dường tôn trọng tán thán đức Đại Uẩn Như Lai và chúng Thanh văn, cũng đem các món đồ ăn, thức uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang tinh cần cung cấp không thiếu thứ gì. Vì bản nguyện nên Đức Thế Tôn ấy đã thọ ký Chánh đẳng Chánh giác cho thái tử rằng: “Đời vị lai quá a-tăng-kỳ kiếp, ông được thành Phật hiệu là Bảo Thân Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi nado-đa đại chúng Thanh văn đều là A-la-hán, đã dứt sạch các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đến bờ giải thoát”.
Này Xá-lợi Tử! Vào thời điểm đó, có vua ra đời tên là Thiện Hiện. Vị vua ấy chỉ đem thiện pháp hóa độ cai trị dân chúng, chuyển bánh xe chánh pháp, tu hạnh tinh tấn, bốn bộ binh nghiêm vệ, đầy đủ bảy báu như: Luân báu, voi báu, ngựa báu, mani báu, nữ báu, chúa binh báu, chúa tạng báu. Bảy báu như vậy thù thắng không ai sáng bằng. Lại có thành lớn tên là Diêm-phù-đàn kim. Đông, Tây của thành ấy rộng mười hai du-thiện-na. Nam, Bắc bằng nhau bảy du-thiện-na. Nhân dân trong nước ấy lìa các gian khổ, những vật cần dùng đều như ý, có thần thông lớn hưởng mọi thú vui thù thắng vi diệu, hữu tình sống trong thành ấy đông đảo như vậy. Trong thành ấy lại có trưởng giả tên là Thiện Tuệ, đầy đủ trân báu thọ dụng không thiếu. Các kho chứa của ông ta đều đầy ắp cả. Ông ta đã từng gieo trồng các căn lành ở nơi các Đức Phật và được chư Phật ấn khả.
Này Xá-lợi Tử! Khi ấy Đức Bảo Thân Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, quán sát trưởng giả Thiện Tuệ ấy và biết được căn cơ của ông ta có thể nắm giữ chánh pháp Bồ-tát tạng, là pháp khí của chư Phật. Biết như vậy rồi, Đức Như Lai Bảo Thân liền đến chỗ ấy hiện đại thần lực, ngồi kiết già ở giữa hư không, tùy ứng mà nói đạo pháp Bồ-tát, nhưng lại khen ngợi chư Phật ba đời.
Này Xá-lợi Tử! Khi trưởng giả ấy nghe pháp rồi, thâm tâm ngưỡng mộ, tin hiểu thanh tịnh, vui mừng khôn xiếc, suốt trong ngàn năm đem các đồ ăn, thức uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang và các món cần dùng lễ bái cúng dường, tôn trọng, tán thán Đức Như Lai Bảo Thân và chúng Thanh văn. Tuy mãn ngàn năm làm việc như vậy nhưng không biết biếng nhác mệt mỏi, lại còn phát thệ rằng: “Con nguyện sẽ thành Chánh đẳng chánh giác”. Nghe lời thề này, Đức Như Lai ấy liền thọ ký.
Này Xá-lợi Tử! Ông chớ cho rằng trưởng giả này được thọ ký mà khởi lên dị kiến nghi hoặc. Lúc đó, ta nguyện cầu Bồ-đề cũng đem các món đồ ăn, thức uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang trong ngàn năm cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán Đức Như Lai Bảo Thân và chúng Thanh văn, nhưng Đức Thế Tôn ấy không thọ ký cho ta thành Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Bảo Thân Như Lai bảo Thiện Tuệ: “Đến đời vị lai qua a-tăng-kỳ kiếp, ông sẽ thành Phật hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong pháp Đức Phật ấy có vua tên là A-xà-thế. Vua ấy có thành tên là Liên hoa cụ túc. Nhân dân trong nước ấy lìa các khổ nạn, luôn được an ổn, tùy ý thành tựu”.
Này Xá-lợi Tử! Cũng vào thời điểm đó có vua tên là Đại Sa-la, vua sinh hạ một người con tên là Cụ Túc Đăng, oai đức tự tại, diện mạo đoan chánh, các tướng đầy đủ, mọi người yêu mến, kho tàng đầy ắp, thọ dụng không thiếu. Khi ấy vua A-xà-thế đem nửa bờ cõi giao phó cho thái tử. Sau khi Cụ Túc Đăng lên ngôi cũng đem thiện pháp giáo hóa nhân dân.
Này Xá-lợi Tử! Cụ Túc Đăng này về sau hạ sinh thái tử, sắc tướng đoan nghiêm, tròn đầy tối thắng, thanh tịnh trong sạch cũng như ao hồ, đầy đủ ba mươi hai tướng Đại nhân, ánh sáng rạng ngời cũng như vầng mặt trời. Thấy thế, vua sinh tâm vui mừng liền đặt tên là Nhiên Đăng và đồng thời cho mời Bà-la-môn đến xem tướng thái tử. Sau khi xem tướng xong, Bà-la-môn tâu với vua rằng: “Tâu đại vương! Thái tử đã từng gieo trồng thiện căn đời trước, nhờ thiện ấy nhất định thành Chánh đẳng chánh giác, không lâu được đại thần thông”.
Lúc ấy, Thiên tử Tịnh cư ở trời Sắc cứu cánh bỗng nhiên biến mất, đến chỗ thái tử đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải thái tử ba vòng rồi nói kệ rằng:
Thuở xưa trồng nhân lành
Tích tập các công đức
Ngộ Bồ-đề vô thượng
Cũng như cờ thắng tiên,
Trai tráng đủ oai thế
Dời đổi nhanh như gió
Bị già lão xâm nhập
Thế gian có gì vui
Bị già yếu bức bách
Chán khổ cầu giải thoát
Phải nên khéo suy nghĩ
Hình bóng không lâu dài.
Lành thay, Bậc đại trí!
Mau chóng cầu xuất ly
Đối với đạo Bồ-đề
Trì tịnh giới kiên cố.
Nói kệ rồi, đến lúc đầu đêm Thiên tử Tịnh cư liền vì thái tử kỉnh giác khai thị khiến sinh lòng tin hiểu, rời nhà xuất gia, sẽ chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, đầy đủ đại oai đức, danh tiếng vang xa. Nhận lời dạy ấy rồi, thái tử đối với giáo pháp của Đức Phật siêng năng tinh tấn tin hiểu các pháp, tùy thuận tu học pháp Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Nghe tin thái tử rời nhà xuất gia chứng đắc quả Chánh đẳng Chánh giác, vua Cụ Túc Đăng liền sai sứ giả đến chỗ Phật Nhiên Đăng thưa rõ về giáo sắc của vua. Sứ giả đến thưa:
– Cúi xin Đại Từ thương xót con, ngay bây giờ xin hãy mau chóng trở về, nếu Đức Thế Tôn không về tức thời con sẽ nghiêm giá bốn bộ binh đến đây. Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, vua Cụ Túc Đăng lại cho triệu tập quần thần cùng nhau bàn luận về việc này. Sau khi bàn luận xong, tức thời nghiêm giá cung nghinh Đức Thế Tôn. Khi đến nơi, tất cả vua tôi quần thần đều thấy thân tướng Đức Phật đoan nghiêm thù thắng đặc biệt, khen chưa từng có. Thấy thế, tất cả đều cung kính đảnh lễ sát chân Đức Phật thưa:
– Thưa Thế Tôn! Vua A-xà-thế thâm tâm thương xót làm nhiêu ích cho chúng con.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Đức Nhiên Đăng Như Lai nhận lời vua mời rồi và đồng thời vua cùng với hai mươi câu-chi vua khác, các quyến thuộc và bốn binh chúng theo Đức Thế Tôn trước sau vây quanh đi về cung vua. Khi về đến cung rồi, vua dùng y phục, đồ ăn thức uống, giường, mền, thuốc thang và đầy đủ tất cả nhạc cụ, các món yêu quý dâng lên cúng dường. Lúc đó, Đức Thế Tôn vì nói pháp yếu độ thoát nhiều người. Sau khi được độ thoát, tất cả đều đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, rơi lệ thương khóc luyến mộ sâu xa.
Lúc đó, Đức Như Lai Nhiên Đăng lại cùng với hai mươi câu-chi đại A-la-hán đều đến đại thành Liên hoa cụ túc của vua A-xà-thế.
Này Xá-lợi Tử! Nghe Đức Như Lai Nhiên Đăng đến thành này, vua A-xà-thế liền ra lệnh nhân dân phải làm sạch các nẻo đường ở trong thành, dẹp sạch tất cả ngói, gạch, gai, gốc, rảy nước hương thơm, quét sạch bụi bặm, rải các loại hoa nổi tiếng cao đến ngang gối, lại đặt các bình hương báu nghi ngút trầm hương, đủ loại y báu treo khắp mọi nơi, đánh trống gõ sừng, thổi ốc âm thanh phát ra liên tục, hương xoa, vòng hoa nhiều vô lượng, trang nghiêm thù thắng vi diệu từ xưa đến nay chưa từng có. Nhân dân nước đó theo khả năng cúng dường, không có việc mua bán đổi chác, mà chỉ có vui thích quán sát.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, vua A-xà-thế lại đem các thứ hương hoa, anh lạc, hương xoa, hương đốt, y phục, lụa là, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, ca tụng, tán thán phụng nghinh Như Lai, ở ngay trong cung lễ bái cúng dường. Lúc đó, tâm vua hoan hỷ cùng tột, tâm tốt đẹp vi diệu, tâm không chướng ngại, tâm lìa nhiệt não, sống trong an ổn.
Này Xá-lợi Tử! Lại có các Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn... cũng cúng dường các món như trên, đến chỗ Đức Thế Tôn đảnh lễ sát chân chiêm ngưỡng không chán.
Lúc đó, có một Phạm chí tên là Diệu Bảo, cùng với đồ chúng năm trăm người thường ở bên bờ sông Hy-mạt, thọ trì ba pháp Mạn-đa-la như: Pháp Ni-kiền-tra, pháp Cai-tra-bà, pháp Ác-sát-la-bátnại. Lúc đó, đồ chúng đều thông đạt ba pháp này, đồ chúng này tự ký biệt, tụng văn cú này cho là pháp tối thắng nhất thế gian, là đại trượng phu, là quỹ phạm sư.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó lại có Phạm chí Bảo Vân, cũng cùng với đồ chúng năm trăm người, học tập các pháp đó tự cho là đạt được cứu cánh. Khi ấy, Bảo Vân thưa với thầy mình rằng: “Con đã thông đạt được pháp này, nay con muốn trở về chỗ cũ, nay con chẳng có gì hơn chỉ có năm trăm tiền kính dâng lên thầy để gọi là công ơn dạy dỗ”.
Sau khi thưa xong, Bảo Vân lần lượt đi qua nước, ấp xóm làng, rồi đến đại thành Cụ túc, thấy thành ấp trang nghiêm thù thắng vi diệu. Thấy thế, Bảo Vân liền hỏi mọi người:
– Nay trong thành này có việc gì mà trang nghiêm thù thắng như thế?
Mọi người trả lời:
– Nhân giả nên biết, nay có Đức Phật Nhiên Đăng cùng với tám mươi câu-chi vị đại A-la-hán, tám vạn bốn ngàn chúng Đại Bồ-tát, hiện đang ở vương cung, diễn nói chánh pháp, độ thoát tất cả. Do thế nên hôm nay nhân dân trang nghiêm đẹp như vậy.
Nghe mọi người trình bày như vậy, Bảo Vân phát tâm thanh tịnh vui mừng khôn xiết, liền suy nghĩ: “Đức Phật ra đời rất khó gặp, như hoa Ưubát-la chỉ mở một lần, ta nay nên kiếm tiền mua hoa rải cúng Đức Phật”. Nghĩ thế rồi, ông ta lần lượt đi và gặp một cô bé, trên tay cô ta đang cầm bảy cánh hoa Ưu-bát-la. Thấy thế, Bảo Vân liền nói với cô bé:
Này bé, hoa này ở đâu mà thù thắng vi diệu thế này? Nay ta muốn mua số hoa này với giá năm trăm tiền để kết thành tràng hoa dâng cúng Đức Nhiên Đăng Như Lai.
Cô bé nghe danh hiệu Phật rồi, nhờ thiện căn đời trước mới nói như vầy:
– Nay thân này đọa trong sinh tử, nên tự khai ngộ.
Nghe lời cô bé nói thế, Bảo Vân liền hỏi lại:
– Vừa rồi bé nói lời gì thế?
Cô bé thưa:
– Trải qua a-tăng-kỳ kiếp xa xưa, cháu ở trong giáo pháp Đức Phật, tích tập thiện lợi, hoặc là dùng trân châu, lưu ly, kim ngân, kha bối, voi, ngựa, trâu, dê, các loại xe cộ, thể nữ, quyến thuộc, đầu, mắt, tủy, não, thân, thịt, tay, chân, hoặc trong hoặc ngoài, tất cả tài vật đều đem bố thí, tin hiểu sâu xa thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, thực hành đạo Bồ-tát; đối với tất cả pháp lìa mọi chướng ngại, không bỏ thân mạng, dù chỉ nhỏ như đầu hạt cải, sao ông khinh tôi thế?
Nói xong, cô bé liền đem hoa Ưu-bát-la đến chỗ Đức Phật Nhiên Đăng dâng lên cúng Phật. Đức Phật liền nhận.
Lúc đó, Đức Thế Tôn được trăm ngàn câu-chi na-do-tha chúng cung kính vây quanh. Đức Phật ở trong chúng ấy oai đức cao vời, thanh tịnh rộng lớn. Thấy thế, cô bé khen chưa từng có, liền phát tâm tối thượng càng thêm vui thích.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Phạm chí Bảo Vân cũng đến chỗ Phật, phát lòng tin thanh tịnh, đảnh lễ sát hai chân Đức Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan mắt không tạm rời. Thấy mọi người đều đem pháp phục vi diệu dâng cúng Đức Như Lai Nhiên Đăng. Thấy vậy, Bảo Vân liền suy nghĩ: “Nay ta làm sao để có pháp phục vi diệu cúng Phật”. Nghĩ thế, liền cởi áo da nai dâng lên cúng Phật. Thấy thế, mọi người trong chúng hội đều sinh hủy báng. Lúc mọi người nói lời hủy báng ấy, áo da nai bỗng nhiên biến thành bảy báu. Thấy vậy, tâm Bảo Vân hết sức vui mừng, phấn khởi vô lượng, liền dâng lên cúng Đức Như Lai Nhiên Đăng, thưa rằng: “Cúi xin Đức Như Lai thương xót con mà nhận cho”. Đức Như Lai liền nhận. Sau khi Như Lai nhận xong, Bảo Vân liền đem năm cánh hoa Ưu-bát-la rải lên cúng Phật và chúng hội.
Đồng thời lại có vô số Thiên tử cầm các loại thiên hoa như: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đàla, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa rải lên Đức Phật và ở giữa hư không trổi lên các nhạc trời, ca vịnh tán thán, dùng sức thần thông, hiện vô số hoa Ưu-bát-la, hoa ấy ngàn cánh, dị hương ngào ngạt, quay tròn giữa hư không, hóa thành tàn hoa cúng dường.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Phạm chí Bảo Vân ở chỗ Đức Như Lai Nhiên Đăng trải qua mười hai năm phụng sự với tâm thanh tịnh. Nhờ sức bản nguyện tinh tấn thù thắng ấy, nên được búi tóc màu vàng ròng. Khi ấy, Phạm chí Bảo Vân thưa:
– Cúi xin Thế Tôn an ủi thọ ký cho con, khiến tâm con được kiên cố, sớm thành Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, ở trong ba đời dùng Tuệ nhãn nhìn khắp nên biết tất cả. Lúc đó, Phạm chí Bảo Vân biết như vậy rồi, dùng đầu tóc vàng ròng của mình trải trên mặt đất, thỉnh Đức Phật, chúng Thanh văn và các Tỳ-kheo khác bước lên tóc ấy và đi qua phía bên phải. Vì sao? Đức Phật ấy bảo các Tỳ-kheo: “Phạm chí Bảo Vân trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn”.
Này Xá-lợi Tử! Lúc Phạm chí nghe Đức Phật thọ ký rồi, vui mừng phấn khởi, hiện đại thần thông, ở giữa hư không tức thời chứng đắc vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-đa pháp môn Tamma-địa chẳng thể nêu bày hết, dùng trí lực thần thông, vượt qua phương Đông hằng hà sa thế giới chư Phật Thế Tôn và được chư Phật ấy thọ ký rằng: “Đến đời vị lai quá vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ngươi sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni”. Như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương trên dưới chư Phật Thế Tôn cũng đều thọ ký như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Phạm chí Bảo Vân nghe chư Phật đồng thọ ký rồi, được sự an ủi lớn, liền từ trên không hạ xuống, tức thời đến chỗ Đức Phật Nhiên Đăng, phát lòng tin thanh tịnh, rời nhà xuất gia, thường tu phạm hạnh.
Này Xá-lợi Tử! Ông đối với Phạm chí Bảo Vân chớ khởi dị kiến, đừng sinh nghi hoặc. Vì sao? Vì Phạm chí ấy chính là ta đây. Lúc đó ta đem năm cành hoa Ưu-bát-la rải lên đảnh của Đức Phật và cũng rất ham thích lắng nghe chánh pháp Bồ-tát tạng, thọ trì đọc tụng, khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người đầy đủ chánh hạnh, đó là hạnh vô tướng. Vì thế cho nên mau chóng được thọ ký Chánh đẳng Chánh giác.
Này Xá-lợi Tử! Nếu ta đối với pháp hạnh thanh tịnh ấy mà không dùng thần thông trí lực, thành tựu các pháp, thì Đức Phật ấy không thọ ký Bồ-đề cho ta. Lúc đó ta đối với chánh pháp Bồ-tát tạng an lập chánh hạnh theo những gì mà mình đã nghe được. Đó là hạnh vô tướng, hạnh bất khả đắc và thấy Đức Phật ấy siêu việt bình đẳng hơn tất cả hạnh. Ta đối với Đức Phật ấy biết tự tánh của tất cả pháp là không sinh, tùy thuận các pháp, khởi lên sự nhận thức bình đẳng, lại còn có khả năng đạt được pháp nhẫn tối thượng. Nhẫn ấy là gì? Đó là sắc nhẫn, thọ nhẫn, tưởng nhẫn, hành nhẫn, thức nhẫn, cho đến uẩn, xứ, giới, các thứ pháp nhẫn. Tuy được các pháp nhẫn như thế, nhưng đó chỉ là khái niệm. Vì sao? Vì hạnh tích tập ấy không phải là pháp thế gian, không phải pháp dị sinh, không phải pháp vô học, không phải pháp Duyên giác, không phải pháp Bồ-tát, không phải pháp chư Phật, đối với tất cả pháp đều không thể được. Vì không tập hợp vậy. Đây gọi là được các pháp nhẫn.
Lại nữa, nhẫn là đối với tất cả tướng, tất cả phan duyên, trong một sát-na cũng được nhẫn này. Đó không phải là nhãn giới, không phải nhãn cảnh giới tận, cho đến không phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cảnh giới tận, đối với nhẫn cảnh ấy cũng không chỗ đến. Này Xá-lợi Tử! Ta đạt được nhẫn ấy là do ta đối với Chánh pháp Bồ-tát tạng luôn muốn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người, đầy đủ chánh hạnh. Đó là hạnh vô tướng, hạnh bất khả đắc. Vì thế cho nên ta ở chỗ Đức Phật Nhiên Đăng mau chóng được thọ ký.
Lúc nói lời này, trong hội có con của một trưởng giả tên là Nhân Thọ, nghe Đức Phật nói Chánh pháp Bồ-tát tạng, công đức chư Phật và hạnh Bồ-tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Thuở xưa con từng theo Tôn giả A-nậu-lâu-đà học hỏi hiểu biết pháp A-la-hán, dứt gốc già chết, sống trong nhà vắng lặng. Nay con chợt nghe Chánh pháp Bồ-tát tạng, công đức chư Phật và hạnh Bồ-tát, đó là Đại thừa, là Tối thượng thừa, thậm thâm vi diệu đệ nhất, không có pháp nào hơn, đó là pháp Chánh đẳng Chánh giác mà con đích thân nghe Đức Phật nói, đích thân lãnh thọ. Đối với chánh pháp này phát sinh vô lượng sự hiểu biết thù thắng thậm thâm vi diệu. Lại đối với pháp này không thể kể hết, không có chấp trước, không hiểu việc bậc Thánh làm, đó là pháp thậm thâm vi diệu bậc nhất, không có pháp nào cao hơn, đối với pháp ấy tích tập thoái chuyển. Thưa Thế Tôn! Chánh pháp Bồ-tát tạng này, đối với Phật thừa, cho đến tất cả thừa, nó là tối thượng, khai thị đệ nhất, thương xót vô cùng, nhiêu ích vô lượng, an lạc trời người, độ thoát tất cả; đối với bậc học hay vô học phải nên đạt đến địa vị Bồ-tát. Vậy ai là người không phát tâm Chánh đẳng Chánh giác?
Nhân Thọ lại thưa tiếp:
– Bạch Thế Tôn! Đối với khổ tập rất khó thành tựu Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Phật dạy:
– Này Nhân Thọ! Đúng vậy, đúng vậy!
Nhân Thọ thưa:
– Thưa Thế Tôn! Hành tướng ấy đối với tâm Chánh đẳng Chánh giác không có thoái chuyển, tích tập tinh tấn. Như Phật Thế Tôn đã trải qua hằng hà sa số, ở chỗ của mỗi chư Phật phát tâm Bồ-đề, lại có khả năng an trụ bình đẳng như vậy, tinh tấn chứng quả Bồ-đề, có khả năng an ổn các Bồ-tát đạo. Vì sao? Vì trí tuệ chư Phật vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, không thể kể hết.
Thưa Thế Tôn! Nếu không khéo tu tập pháp này, phân biệt quái ngại, tuy có trải qua trăm ngàn câu-chi na-do-đa kiếp đối với quả Bồ-đề này cũng rất khó được.
Thưa xong, Nhân Thọ ở trước Đức Phật nói kệ rằng:
Trong ngàn câu-chi kiếp
Con phát tâm Bồ-đề
Thấy chúng sinh biếng nhác
Chìm đắm trong khổ não,
Giả sử thí đầu mắt
Chất hơn núi Tu-di
Luôn nhất tâm như vậy
Siêng năng không biếng nhác.
Nếu con trụ Phật đạo
Lợi lạc các hữu tình
Do nương vào Như Lai
Được sức tinh tấn này.
Thừa này là Đại thừa
Phật nói là Tối thượng
Người ham thích Bồ-đề
Nhất định không kiến thủ,
Cứu hộ các khổ não
Giải thoát mọi nẻo ác
Chánh giác nghĩa lợi này
Chỉ có Như Lai nói.
Nói kệ xong, Nhân Thọ khởi lòng tin hiểu pháp chư Phật, không đắm trước thú vui vợ con quyến thuộc thế gian, hướng về Phật Thế Tôn đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng, trong khoảng sát-na liền trở về chỗ cũ, cùng với quyến thuộc bảy vợ, bảy con trai, bảy con gái, bảy người ở, bảy kẻ hầu đều mang nhung lụa mịn màng, giá trị ngàn vạn và các thứ kỹ nhạc cùng với năm trăm người rời khỏi đại thành Vương xá đi đến chỗ Đức Phật. Lúc đó, mọi người thấy việc này rồi liền đến hỏi. Đợi mọi người hỏi xong, Nhân Thọ con trưởng giả trả lời:
– Các vị nên biết, Đức Như Lai hiện đang ở núi Kỳ-xà-quật, được vô lượng vô số trăm ngàn đại chúng cung kính vây quanh. Ngài chỉ dạy rộng rãi vô lượng thiện pháp, trí tuệ của Đức Phật không thể nghĩ bàn, không thể kể hết. Nay tôi và quyến thuộc đang đến chỗ ấy để nghe pháp nghĩa thậm thâm vi diệu của Như Lai, đem sức thiện căn giải quyết mọi điều nghi ngờ, vì mong muốn được nhiếp thọ Chánh đẳng Chánh giác. Các vị cũng nên thân cận Đức Phật ấy gieo trồng các căn lành.
Nghe thế mọi người đều hoan hỷ xin đi theo.
Lúc đó, con của trưởng giả cùng với quyến thuộc năm trăm kỹ nhạc và mọi người đến chỗ Đức Phật rồi, đem hoa, hương, anh lạc, hương xoa, hương bột, tràng hoa, bảo cái, kỹ nhạc, ca vịnh, cúng dường các món và đem nhung lụa mịn màng trị giá trăm ngàn tung rải lên Đức Phật, rồi đến trước Đức Phật nói kệ rằng:
Xưa trải qua nhiều kiếp
Siêng tu hạnh Bồ-đề
Tự tại trong các pháp
Lợi lạc các hữu tình.
Nay con sẽ như vậy
Cung kính dâng cúng dường
Thấy Đấng Lưỡng Túc Tôn
Thường tu hạnh thanh tịnh
Hiện chứng đạo Vô thượng
Nên con dâng cúng dường.
Con cùng các quyến thuộc
Dắt theo cả ngàn người
Đều thân cận Như Lai
Tất cả quy mạng lễ.
Con của trưởng giả nói kệ tán thán rồi lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Con và quyến thuộc hướng dẫn mọi người đến chỗ Thế Tôn, tất cả đều trụ tâm Chánh đẳng Chánh giác, trồng các căn lành, đối với đạo Vô thượng thệ không còn thoái chuyển.
Nói lời ấy rồi tất cả thưa rằng:
– Thưa Thế Tôn! Chúng con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, các Ưu-bà-tắc chúng con cúi xin nhiếp thọ, mong dứt được hình thọ, xa lìa giết hại, hướng đến cửa giải thoát, đồng thời phát đạo tâm vô thượng, cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà nói pháp vi diệu, xin Thế Tôn chớ bỏ rơi chúng con và chúng sinh khổ não ở đời vị lai. Nguyện xin cứu vớt, chúng này thưa ba lần như vậy.
Vì lòng thương xót vô biên, nên Đức Thế Tôn hiện đại thần thông bay lên hư không ngồi kiết già. Lúc đó con của trưởng giả và mọi người thấy việc này rồi đều khen chưa từng có. Đức Thế Tôn ấy dùng sức oai thần đưa cả đại chúng lên hư không. Con của trưởng giả cùng với quyến thuộc năm trăm kỹ nhạc vui mừng khôn xiếc, đứng giữa hư không chắp tay nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi đảnh lễ sát chân Đức Thế Tôn, trổi lên các loại kỹ nhạc ca vịnh công đức của Đức Phật. Lúc đó nhờ thần lực của Đức Phật nên khắp cả vô lượng vô biên trăm ngàn du-thiện-na ở giữa hư không bỗng nhiên hóa thành đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, cùng với quyến thuộc sáu vạn người, từ phương Đông đến muốn nghe Đức Thế Tôn nói pháp. Thấy đại chúng ấy, Đức Thế Tôn liền dùng thần lực hóa năm lầu các, trang nghiêm các thứ rất hiếm có, mỗi mỗi lầu các đều phát ra Phạm âm diễn nói pháp vi diệu. Lại có trăm ngàn câu-chi các chúng thiên tử đem Thiên hoa Mạn-đà-la rải lên Đức Phật. Nhờ thần lực của Đức Phật nên các hoa rải khắp không trung đó biến thành lầu các hoa. Lúc đó, con của trưởng giả và cả đại chúng thấy các đại thần thông biến hóa trang nghiêm thanh tịnh như vậy, phát sinh vô lượng thân cận ham thích. Biết được tâm niệm ấy, Đức Phật liền nhiếp thần lực, trở về phương Đông tướng hoàn như cũ.
Thấy điều đó, A-nan liền bày vai phải, chấp tay cung kính bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn hiện thần biến hóa, cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà nói.
Này A-nan! Nay ta vì Nhân Thọ con của trưởng giả cùng quyến thuộc, các chúng kỹ nhạc đã cúng dường ta, người này trải qua trăm ngàn câu-chi kiếp không đọa đường ác, thường sinh lên cõi trời, người, hưởng mọi thú vui thù thắng vi diệu, hết kiếp này rồi cũng lại tôn trọng cúng dường Đức Như Lai Đạo Hạnh Ứng Chánh Đẳng Giác, trong hai mươi lăm câu-chi kiếp không còn luân chuyển. Bảy người vợ khi bỏ thân mạng này rồi sẽ chuyển thân nữ thành tướng đại trượng phu, lại cùng Bồtát Nhân Thọ ở trong một kiếp tu hạnh Bồ-tát. Này A-nan! Bồ-tát Nhân Thọ đương lai sẽ được thành
Phật hiệu là Đẳng Tâm Như Lai, đầy đủ mười hiệu, cùng với quyến thuộc lần lượt thọ ký đều được thành Phật. Chúng kỹ nhạc năm trăm người, do cúng dường Đức Phật, nhờ nhân duyên ấy nên trải qua a-tăng-kỳ kiếp không đọa đường ác, ngàn câuchi kiếp thường làm Chuyển luân thánh vương, quá số này rồi cúng dường tôn trọng mười ngàn Đức Như Lai, trong một kiếp đều sẽ thành Phật cùng một danh hiệu. Còn một ngàn người dân theo kia, sau khi Đức Từ Thị Như Lai Niết-bàn, quá hằng hà sa kiếp tôn trọng cúng dường ngàn câu-chi Đức Phật, rồi sẽ được thành Phật hiệu là Hy Thắng Như Lai, đầy đủ mười hiệu.
Khi ấy, Đức Phật bảo Bí-sô Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Vua A-xà-thế cùng Bà-lamôn Cụ Túc Đăng và ngàn người, sau khi chánh pháp diệt rồi, quá kiếp đao binh, vào đời vị lai có Phật ra đời hiệu là Từ Thị, lúc đó tuổi thọ của hữu tình sống rất lâu đến tám vạn tuổi, lại có ngàn Bíchchi-phật ra đời, lúc đó các người này thân cận cúng dường tôn trọng tán thán, cũng lại tôn trọng tán thán cúng dường Đức Từ Thị Như Lai. Trải qua hai mươi lăm câu-chi na-do-đa kiếp không còn thoái chuyển, trồng các căn lành, rời nhà xuất gia thành quả Bồ-đề và thấy ngàn người đồng thời phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, sáu mươi nado-đa trời người xa lìa trần cấu, được Pháp nhãn tịnh.
Đức Phật bảo A-nan:
– Này A-nan! Những kẻ ngu không thể phát sinh lòng ngưỡng mộ tin hiểu thanh tịnh tôn trọng tán thán Đức Phật. Vì sao? Vì những người một chút thiện căn còn không có thay, huống là chứng đại Niết-bàn của Như Lai.
Lúc đó Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền lập lại bằng kệ rằng:
Nhờ tôn trọng chư Phật
Được cát tường tối thắng
Cúng dường bậc Điều Ngự
Được đại quả tối thắng.
Sau chư Phật diệt độ
Được thấy xá-lợi Phật
Cũng như số hạt cải
Nên tu tập rộng lớn.
Lại sau Phật diệt độ
Người cúng dường xá-lợi
Nên sinh tâm bình đẳng
Hệt Như Lai trụ thế.
Bởi do phát tâm này
Cúng dường Đấng Vô Thượng
Ngộ Bồ-đề bình đẳng
Quả báo cũng như vậy.
Được Thiện Thệ nhiếp thọ
Xa lìa các đường ác
Người này hướng Niết-bàn
Không có gì là khó.
Khai thị cấm giới Phật
Tam-ma-địa tối thượng
Và thắng, giải thanh tịnh
Được quả Phật vô thượng.
Khi cúng dường thế rồi
Mau hướng thiện tu tập
Được chánh giác vô thượng
Tuyên nói pháp đệ nhất.
Nếu người muốn biết rõ
Thân cận pháp chư Phật
Muốn đạt được đa văn
Thâm tâm không nhàm chán.
Chuyển luân vương tự tại
Và dòng hạ tịnh hạnh
Đủ phước tướng trang nghiêm
Cùng thời được xuất ly.
Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Bí-sô Xá-lợi Tử:
– Này Xá-lợi Tử! Nếu thiện nam, thiện nữ an trụ Đại thừa, muốn mau chóng thành Chánh đẳng Chánh giác, nên đối với chánh pháp Bồ-tát tạng nghĩa lợi thù thắng, ham muốn đa văn, thọ trì đọc tụng, cho đến khai thị rộng rãi, diễn nói cho mọi người. Nếu làm được như thế thì chính là nối nắm Tam bảo khiến không bị đoạn diệt, đạt được bốn Vô lượng tâm không bị thoái chuyển, sáu pháp Bala-mật, bốn Nhiếp sự, nhiêu ích hữu tình đều được tương ưng.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chánh pháp Bồ-tát tạng này chính là đạo Bồ-đề. Vì sao? Vì Chánh pháp Bồ-tát tạng này nhiếp thọ Chánh đẳng Chánh giác. Đó chính là tư lương của Bồ-tát. Nên học như vậy, không để đoạn tuyệt.
Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Điều mà gọi là thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, tất cả Ba-la-mật-đa, có khả năng đối với tất cả Ba-la-mật-đa của Như Lai khéo tu xuất ly, đối với địa vô lượng đạt được tất cả khinh an của Như Lai, cho đến được địa vị của Như Lai. Nếu đối với Ba-la-mật-đa mà được như vậy thì được an trụ tất cả Ba-la-mật-đa.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên liền nói bằng kệ rằng:
Người phát sinh trí tuệ
Nói tất cả hữu vi
Do trí và vô minh
Nên các khổ hữu vi.
Đối nghiệp và nghiệp báo
Phải nên biết như vậy
Nếu không nghiệp không báo
Hiện tiền được xuất ly.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ rồi, Cụ thọ Xá-lợi Tử, các Đại Bồ-tát, các chúng Tỳ-kheo, tất cả thế gian Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà… nghe Đức Phật dạy đều hết sức hoan hỷ tín thọ phụng hành.
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[Mục lục bộ Bảo Tích][310.1][310.2][310.3][311][312][313][314][315][316][317][318][319][320][321][322][323][324][325][326][327][328][329][330][331][332][333][334][335][336][337][338][339][340][341][342][343][344][345][346][347][348][349][350][351][352][353][354][355][356][357][358][359][360][361][362][363][364][365][366][367][368][369][370][371][372][373]