TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ BẢO TÍCH (310 - 373)

BỘ BẢO TÍCH 4 – T045

SỐ 320 - PHỤ TỬ HỢP TẬP KINH (KINH CHA CON GẶP NHAU)

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Nhật Xưng

MỤC LỤC

QUYỂN 1

PHẨM 1: VUA TỊNH PHẠN MỚI PHÁT LÒNG TIN (PHẦN 1)

QUYỂN 2

PHẨM 1: VUA TỊNH PHẠN MỚI PHÁT LÒNG TIN (PHẦN 2)

PHẨM 2: VUA ĐẾN CHỖ PHẬT

QUYỂN 3

PHẨM 3: VUA TỊNH PHẠN ĐẾN ĐẢNH LỄ ĐỨC NHƯ LAI

PHẨM 4: THỌ KÝ A-TU-LA VƯƠNG

QUYỂN 4

PHẨM 5: BẢN HẠNH CỦA NHƯ LAI

PHẨM 6: THỌ KÝ CA-LÂU-LA VƯƠNG

QUYỂN 5

PHẨM 7: THỌ KÝ LONG NỮ

PHẨM 8: THỌ KÝ LONG VƯƠNG

QUYỂN 6

PHẨM 9: THỌ KÝ CƯU-BÀN-TRÀ VƯƠNG

PHẨM 10: THỌ KÝ CÀN-THÁT-BÀ VƯƠNG

PHẨM 11: THỌ KÝ DƯỢC-XOA VƯƠNG

QUYỂN 7

PHẨM 12: THỌ KÝ KHẨN-NA-LA VƯƠNG

PHẨM 13: THỌ KÝ BẢO ANH LẠC THIÊN

QUYỂN 8

PHẨM 14: THỌ KÝ BỐN ĐẠI THIÊN VƯƠNG

PHẨM 15: THỌ KÝ TAM THẬP TAN THIÊN

PHẨM 16: THỌ KÝ DIỆM-MA THIÊN

QUYỂN 9

PHẨM 17: THỌ KÝ ĐỔ-SỬ-ĐA THIÊN

PHẨM 18: THỌ KÝ LẠC BIẾN HÓA THIÊN

PHẨM 19: THỌ KÝ THA HÓA TỰ TẠI THIÊN

QUYỂN 10

PHẨM 20: THỌ KÝ ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG

PHẨM 21: THỌ KÝ QUANG ÂM THIÊN

QUYỂN 11

PHẨM 22: THỌ KÝ BIẾN TỊNH THIÊN

PHẨM 23: THỌ KÝ QUẢNG QUẢ THIÊN

QUYỂN 12

PHẨM 23: THỌ KÝ QUẢNG QUẢ THIÊN (TIẾP THEO)

QUYỂN 13

PHẨM 24: TỊNH CƯ THIÊN TỬ NÓI KỆ KHEN PHẬT (PHẦN 1)

QUYỂN 14

PHẨM 24: TỊNH CƯ THIÊN TỬ NÓI KỆ KHEN PHẬT (PHẦN 2)

QUYỂN 15

PHẨM 25: THỌ KÝ NGOẠI ĐẠO BÀ-LA-MÔN

QUYỂN 16

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 1)

QUYỂN 17

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 2)

QUYỂN 18

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 3)

QUYỂN 19

PHẨM 27: VUA TỊNH PHẠN TIN HIỂU (PHẦN 1)

QUYỂN 20

PHẨM 27: VUA TỊNH PHẠN TIN HIỂU (PHẦN 2)


QUYỂN 1

PHẨM 1: VUA TỊNH PHẠN MỚI PHÁT LÒNG TIN (PHẦN 1)

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Xá-vệ thuyết pháp giáo hóa đã xong, rồi đến nước Ca-tỳ-la và đang ở trong rừng Ni-câu-luật-đà, cách thành không xa, cùng với đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là A-la-hán, đã tận các lậu, không còn phiền não, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát, như đại long vương, việc làm đã xong, trút bỏ gánh nặng, hoàn tất việc lợi mình, dứt sạch các hữu kết, tâm được tự tại, có khả năng vượt qua bờ bên kia rốt ráo tối thượng. Tên của các vị là A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tầnloa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xálợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, các vị đều là đại A-lahán được nhiều người biết.

Lại còn có các chủng loại sai biệt bỏ tà quy chánh, ngoại đạo Ni-kiền tử, Sa-môn, Bà-la-môn, vô số chúng hội đều đến tập hợp. Đó là: Điều phục điều phục chúng, Tịch tĩnh tịch tĩnh chúng, Thiện siêu bỉ ngạn, Thiện siêu bỉ ngạn chúng; Thiện trụ an ổn, Thiện trụ an ổn chúng; Xuất ly phiền não, Xuất ly phiền não chúng; Năng ly tội ác, Năng ly tội ác chúng; Tốt trừ tội cấu, Tẩy trừ tội cấu chúng; Thiện siêu tam hữu thiện, Siêu tam hữu chúng; Viễn ly ngũ trần, Viễn ly ngũ trần chúng; Ly chư chướng ngại, Ly chư chướng ngại chúng; Thanh tịnh ý lạc, Thanh tịnh ý lạc chúng; Cụ túc chư căn, Cụ túc chư căn chúng; Vi thuận giải thoát, Vi thuận giải thoát chúng; Thiện hộ tự thân, Thiện hộ tự thân chúng; Cụ chư chánh niệm, Cụ chư chánh niệm chúng; Cụ tứ thần túc, Cụ tứ thần túc chúng; Lạc thuyết minh ký, Lạc thuyết minh ký chúng; Minh liễu duyên đế, Minh liễu duyên đế chúng; Thiện tịch chư căn, Thiện tịch chư căn chúng; Tín giải quyết định, Tín giải quyết định chúng; Lạc cầu nghĩa lợi, Lạc cầu nghĩa lợi chúng; Quán sát vô ngã, Quán sát vô ngã chúng; Ly chư phân biệt, Ly chư phân biệt chúng; Đoạn trừ nghi hoặc, Đoạn trừ nghi hoặc chúng; Thân hành khinh an, Thân hành khinh an chúng; Tự tại ái lạc, Tự tại ái lạc chúng; Tâm thiện giải thoát, Tâm thiện giải thoát chúng, Tuệ thiện giải thoát, Tuệ thiện giải thoát chúng; Trụ Thánh chủng tộc, Trụ Thánh chủng tộc chúng.

Các chúng hội như vậy thân ý thư thái, vui được thiện lợi, tất cả đều cùng với đồ chúng quyến thuộc đến chỗ Phật, như cây Bát-la-xa to lớn, nhánh lá sum suê, phát triển đều đặn, đứng yên sừng sững.

Đầu đêm hôm ấy, Đức Thế Tôn ngồi giữa đất trống, im lặng không động, tất cả đại chúng cung kính vây quanh. Đồng thời, Đức Thế Tôn quán sát chúng hội Tỳ-kheo rồi hỏi:

– Vị nào kham nhẫn đến giáo hóa vua Tịnh Phạn, khuyến khích hướng dẫn phát sinh lòng tin thanh tịnh?

Đức Phật vừa hỏi xong, Tôn giả Kiều-trần-như từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay đảnh lễ thưa:

– Thưa Thế Tôn! Con xin nguyện đi.

Đức Phật dạy:

– Này Kiều-trần-như! Ông là bậc Thượng thủ trong chúng Thanh văn, hiểu rõ đế nghĩa, danh xưng to lớn, tất cả chúng sinh tôn trọng phụng sự như thầy. Thôi đi, chớ nói như vậy, việc này không phải cần đến ông.

Lúc đó trong hội, bốn Đại Ca-diếp và Xá-lợiphất, Mục-kiền-liên đều đảnh lễ thưa:

– Thưa Thế Tôn! Con có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Thánh vương.

Nhưng Phật đều không chấp nhận như trước.

Sau khi Đức Phật không chấp nhận, Mục-kiền-liên liền nghĩ: “Không biết hôm nay Đức Như Lai sai ai đến chỗ phụ vương”. Nghĩ rồi liền nhập định quán thấy Tâm Quang Như Lai muốn nhìn thẳng đến Ưu-đà-di, như mặt trời chiếu xuyên qua lầu gác, từ tường phía Đông chiếu thẳng đến vách phía Tây.

Thấy vậy, Mục-kiền-liên liền xả định, đến chỗ Tôn giả Ưu-đà-di nói:

– Đức Thế Tôn sẽ sai Tôn giả đến giáo hóa phụ vương, cho nên tôi đến báo cho Tôn giả biết.

Ưu-đà-di nói:

– Nếu Đức Thế Tôn dạy thế thì tôi xin vâng lệnh.

Mục-kiền-liên nói:

– Tôn giả đến đó việc này rất khó, vậy nên xét kỹ lại để sau khỏi phải hối hận. Vì sao? Vì vua là dòng Sát-đế-lợi, có làm lễ quán đảnh, oai đức tôn nghiêm, tánh không sai phạm. Vậy làm sao để hướng dẫn, đối đáp thế nào, huống nữa là giáo hóa phát sinh lòng tin. Ví như người nọ sai trăm người trải qua nhiều năm mang vác củi khô chất thành đống lớn, rồi châm lửa đốt, lửa bốc lên cao, rồi lại dùng dầu tô đổ thêm lên trên. Lúc đó, có người đi trên đống lửa đang cháy đó mà không bị tổn hại. Lại như có người muốn lấy ngà ở nơi miệng của một con voi hung dữ. Nên biết, người này nhất định bị tổn hại. Nay Tôn giả muốn đến giáo hóa Tịnh Phạn Thánh vương, việc này cũng rất khó như vậy. Tôi nay chỉ nêu một vài ví dụ nhỏ, để khi gặp việc biết cách lo liệu cho được ý an ổn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn cho gọi Tôn giả Ưu-đàdi đến bảo:

– Trong chúng Thanh văn đệ tử của ta, ông là người dòng họ Thích, đầy đủ biện tài, khéo nói pháp yếu, vậy nay ông có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn phụ vương khéo dùng phương tiện khai phát đạo tâm.

Ưu-đà-di vâng lời Đức Phật dạy bạch:

– Bạch Thế Tôn! Con sẽ đi đến đó. Cúi xin Đại Từ chớ có lo. Giả sử phụ vương thấy con mà nổi giận thì mong nhờ từ quang cứu hộ.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Ưu-đà-di mà nói kệ rằng:

Lành thay, Ưu-đà-di
Nay lắng nghe ta nói
Ông đầy đủ biện tài
Là thượng thủ trong chúng.
Dòng Thích Tịnh Phạn vương
Thấy ắt sinh vui thích
Thế nên ông nên đi
Mau khiến vua phát tâm.
Nếu giáo hóa phụ vương
Phát sinh ý thanh tịnh
Chư Thiên và thế nhân
Đều tăng trưởng thiện lợi.
An nhàn không tu thiện
Như bờ sắp bị lở
Ở ngay trong đời này
Trừ ngã mạn nghi hoặc,
Sát-na được giàu có
Cùng phóng dật nhiễu trước
Như khách lữ không của
Suy nghĩ thêm khổ não.
Ở cung điện tối thắng
Thọ dục lạc quá lắm
Phật dạy không hiểu biết
Hết vui sinh buồn khổ.
Đủ bốn thứ binh chúng
Bảy báu các quyến thuộc
Tùy ý mà tự do
Hết vui sinh bi não.
Có Dạ-xoa quỷ thần
Ăn tinh khí chúng sinh
Khiến người nhiễm các bệnh
Sao không hộ thân này.
Tích tập các trân báu
Như núi Kế-la-bà
Bị ngu si trói buộc
Không thể tự quán sát.
Do ngu si che tâm
Không hiểu rõ thiện pháp
Như người ở trong mộng
Làm sao có tri giác.
Phàm phu mất tuệ sáng
Nhất định bị lo sợ
Ví như đi đường xa
Mà không có bạn bè.
Thế nên, Ưu-đà-di
Nên dùng thiện phương tiện
Khiến vua dừng tín tràng
Xô ngã mạn cống cao.
Người khác không thiện xảo
Trợ giúp khiến phát tâm
Ông đầy đủ biện tài
Chỉ rõ khổ ba cõi.
Ta nhớ kiếp quá khứ
Có vua hiện ở đời
Danh tiếng vang mười phương
Tên là Chân Thật Tụ
Đem thiện pháp trị đời
Cảnh giới rộng vô cùng
Đủ ức vạn muôn ngàn
Thần dân đều quy phụng,
Các tụ lạc thành ấp
Đầy đủ các hoa quả
Đất chỉ mọc cỏ mềm
Không ngói gạch gai gốc
Suối chảy và cây rừng
Vây quanh khắp mọi nơi
Trăm ngàn Càn-thát-bà
Tấu lên các âm nhạc,
Hiền thánh tập hợp lại
Dân, vật đều sung túc
Có nhiều chúng Tỳ-kheo
Nương tựa trì tịnh giới.
Lại có các ngoại đạo
Đại tiên, đại trí giả
Số ấy đến trăm ngàn
Rời bỏ tu khổ hạnh,
Đều sinh kiến chân thật
Tin thọ chánh pháp Phật
Lo sợ ba đường ác
Mong được sinh Thiên giới.
Vua ấy có thái tử
Tên là Kiên Cố Tuệ
Từng gặp Phật quá khứ
Đã trồng đức căn bản
Trong trăm ngàn muôn ức
Nhân dân đều thân cận
Quán lỗi lầm năm dục
Tâm thường sinh nhàm chán.
Thấy chỗ của vua ở
Như Thiên cung điện kia
Hậu, phi tranh vây quanh
Thọ dục lạc vô cực,
Khi ấy, Kiên Cố Tuệ
Liền tâu với vua rằng
Con nay rất thành tâm
Thệ cầu đạo Vô thượng,
Đối thể nữ quyến thuộc
Đều không sinh ham thích
Thiếu niên đắm trước dục
Hết vui khổ lại đến,
Như Đại tiên thuở xưa
Nghỉ ở tại hang núi
Không màng đến năm dục
Lấy tịch tĩnh làm vui
Vua bảo Kiên Cố Tuệ
Chớ nói lời như vậy
Nếu không thọ dục lạc
Sao gọi là con ta!
Có đất nước giàu sang
Khác gì Đa Văn thiên
Các lầu gác cung điện
Trang nghiêm bằng các báu,
Trăm ngàn thứ kỹ nhạc
Luôn sẵn sàng túc trực
Đủ sắc tướng tối thượng
Không khác gì Thiên nữ,
Diện mạo đều tròn đầy
Môi đỏ răng bằng khít
Trán rộng lại bằng thẳng
Mắt tợ hoa sen xanh,
Hình nghi đều đoan chánh
Da sạch như kha tuyết
Diễn xuất điệu ca múa
Làm vui thích lẫn nhau,
Niên thiếu sắc trắng đẹp
Như hoa tươi trên cành
Con nên ở nơi đây
Chớ bỏ sự giàu sang,
Ta thành thật bảo con
Không chê cũng không khen
Thái tử khéo hiểu biết
Vương vị không gì bằng.
Ta nghe lời ấy rồi
Rất khó cầu xuất ly
Đối cảnh ngũ dục kia
Không trước như giấc mộng.
Lại thưa với vua rằng
Tự nhớ đời vô thỉ
Bị dục nhận chìm đắm
Vui tình không xấu hổ,
Cũng như gã mù kia
Tự bỏ đường bằng thẳng
Đi vào đường nguy hiểm
Nương ai để cứu giúp,
Không hiểu rõ về dục
Do đâu thoát trói khổ
Nên xa lìa đường hiểm
Tâm này không điên đảo,
Nên lìa xa các dục
An ổn trừ lỗi lầm
Nên biết người trước dục
Như mù không thấy gì
Cảnh dục như thác mạnh
Chảy xiết khó phòng hộ
Có người trí sáng suốt
Nên sinh tâm chán sợ,
Dục là nhân các khổ
Tổn hại hơn rắn độc
Cùng đao, trượng, thuốc độc
Và lửa dữ thiêu đốt.
Vương tử Tuệ Kiên Cố
Rơi lệ tâu phụ vương
Chí con muốn rừng núi
Lìa dục cầu giải thoát,
Thân này thật đáng chán
Già bệnh khổ trói buộc
Không cần ngôi vua báu
Mong cha cho xuất gia.
Khi ấy trong dòng vua
Đồng tử tên Nguyệt Thí
Thấy thái tử xuất gia
Cũng theo tu phạm hạnh.
Thái tử xuất gia rồi
Đủ dũng mãnh tinh tấn
Được năm thứ thần thông
Khéo tu bốn Vô lượng.
Nhân Trung Thích Sư Tử
Nói pháp không sợ gì
Giáo hóa các chúng sinh
Đều khiến vào Phật đạo.
Đồng tử Nguyệt Thí kia
Dùng phương tiện thiện xảo
Chỉ lỗi lầm năm dục
Khiến vua phát đạo tâm.
Ưu-đà-di nên biết
Kiên Cố Tuệ thuở xưa
Ý ông nghĩ thế nào
Nay chính là ta đây.
Còn đồng tử Nguyệt Thí
Ưa tu hạnh chân thật
Cùng ở trong dòng Thích
Nay chính là ông đấy.
Vì thế Ưu-đà-di
Ông nay nên đến đó
Khuyên phụ vương phát tâm
Tăng trưởng các thiện lợi.

Nghe Đức Thế Tôn nói kệ rồi, Tôn giả Ưu-đàdi vâng lời Đức Phật dạy, đảnh lễ cáo lui.

Sáng sớm hôm sau, Ưu-đà-di ôm bình bát đi đến thành Ca-tỳ-la, vào cung vua, thấy trăm ngàn hoàng tộc dòng họ Thích tập hợp lại một chỗ.

Trong chúng ấy có một người tên là Nguyệt Diện là bạn tri thức trước kia của Ưu-đà-di. Từ xa trông thấy Tôn giả nên liền đến thưa hỏi:

– Vì duyên gì ngài đến đây?

Ưu-đà-di đáp:

– Nay tôi ở chỗ Thế Tôn trong rừng Ni-câuluật-đà vội vã đến đây. Vâng lời Đức Phật dạy đến giáo hóa Tịnh Phạn phụ vương khai phát lòng tin thanh tịnh.

Nguyệt Diện nghe rồi nói:

– Nếu xưa kia thái tử không xuất gia thì nay nhất định làm Chuyển luân thánh vương, đem mười điều thiện giáo hóa cai trị làm vua bốn Thiên hạ, có bảy báu tự nhiên xuất hiện như: Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, binh báu, chủ tạng thần báu, lại còn có ngàn con vây quanh, tất cả nhân dân cung kính tôn trọng. Nay đã xuất gia, chí thích vắng lặng, mất đi sự nghiệp giàu sang phú quý to lớn như vậy. Sở dĩ hôm nay chúng tôi tập hợp như thế là để bàn về việc này đây.

Nói chuyện chưa xong thì vua Tịnh Phạn cho triệu tập dòng họ Thích đến trước sân bảo:

– Các khanh nên biết! Thái tử Tất-đạt bỏ cả ngôi vua khoái lạc vi diệu tối thượng, thích ở rừng hoang, thật là một việc sai lầm. Từ nay trở đi, các khanh không được đến chỗ ấy cung kính cúng dường, nếu ai trái phạm thì sẽ đánh phạt.

Lúc đó, có người dòng họ Thích tên là Thiện Ngộ thông minh sáng suốt nhiều thiện xảo, đi ra cửa cũng gặp Ưu-đà-di và đưa đến chỗ vắng mới dám thăm hỏi:

– Thưa Tôn giả! Đức Thế Tôn đạo sư đi đứng nhẹ nhàng thư thái an ổn khoái lạc, bốn đại điều hòa, ít bệnh, ít não, hóa độ chúng sinh không biết mệt mỏi chứ?

Lại có người dòng họ Thích tên là Vô Ưu. Lại có người dòng họ Thích tên là Ly Ưu đến chỗ Tôn giả thăm hỏi Thế Tôn cũng như người trước:

– Chúng tôi đều muốn đến chỗ Thế Tôn, nhưng vừa nhận Thánh chỉ, các dòng họ Thích không được đến thân cận cúng dường Thế Tôn, nếu ai trái phạm nhất định trị phạt. Vì sợ sắc lệnh nghiêm khắc, nên không ai dám đến đó.

Nghe nói như vậy, Ưu-đà-di suy nghĩ: “Tại sao ý của vua Tịnh Phạn như vậy? Như Lai tuệ nhật xuất hiện thế gian làm nhiều việc lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tất cả nhân dân, bốn Đại Thiên vương, Đế Thích Thiên chủ, Phạm Thiên vương tranh nhau cúng dường chưa bỏ trống ngày nào. Vậy nay ta nên cầu kiến Tịnh Phạn phụ vương để trình bày việc trên”. Nghĩ vậy rồi liền nhập định quán, biết được vua Tịnh Phạn tín căn thành thục, nhất định giáo hóa được. Lúc đó, Tôn giả Ưu-đàdi kiểm thúc các oai nghi, ngồi kiết già bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, hiện đủ mọi thần thông biến hóa. Vua Tịnh Phạn từ xa trông thấy Tôn giả đi trên hư không, tâm sinh hoan hỷ, chắp tay chiêm ngưỡng nói kệ rằng:

Hy hữu thành tựu hạnh thù thắng
Hiện các thần biến đủ oai nghi
Nương không đến đây có duyên gì
Cúi xin Tôn giả cứ nói ra.
Khi ấy Tôn giả Ưu-đà-di dùng kệ đáp:
Tôi là con của Thánh vương tử
Nương vào chánh pháp của Như Lai
Xin vua mau phát tâm tịnh tín
Đối thắng phước điền khởi cúng dường.
Thái tử bỏ nước, thành Phật đạo
Đầy đủ tốt đẹp danh tiếng lớn
Thân quang thường chiếu khắp thế gian
Trí quang hay phá các si ám,
Như mặt trời sáng xua tan mây
Không trung phóng ra ánh sáng lớn
Trí quang Long tử cũng như vậy
Thường hay chiếu sáng khắp ba cõi,
Như mặt trời tròn sáng rực rỡ
Che khuất ánh sáng các vì sao
Trí sáng Long tử cũng như vậy
Nhiếp phục tất cả các ngoại đạo.
Lại như Sư tử rống hang sâu
Muông thú nghe rồi đều bỏ chạy
Long tử tuyên dương Diệu pháp âm
Bẻ gãy dị luận khiến khai giải.
Ngoại tiên khổ hạnh trí tà vọng
Không thể hiểu được trí vô ngã
Lưu chuyển luân hồi trong ba cõi
Do không thắng tuệ mê chân đế.
Tất cả hữu tình ở thế gian
Mù không mắt tuệ khó thoát ra
Như Lai khai phát trí chiếu sáng
Phá màn vô minh từ vô thỉ.
Thiện ác hai đường thật rõ ràng
Một là bằng phẳng, một hiểm trở
Như Lai khéo chỉ người mê ấy
Cứu người thoát khỏi sự chìm đắm
Ví như mây mang các hơi nước
Mưa khắp đại địa không cao thấp
Phật thí pháp vũ cũng như vậy
Tăng trưởng mầm thiện hàng trời người,
Mưa xuống thấm đều các núi rừng
Cây thuốc cành nhánh và rễ lá
Các hoa đẹp đẽ đều chớm nở
Trang nghiêm khắp tất cả mặt đất.
Cũng như Long tử mưa pháp vũ
Cây pháp Phật công đức tươi tốt
Mười Lực, Vô úy, pháp Bất cộng
Thành tựu Bồ-đề trí hoa quả.
Các núi báu Di-lê trong biển
Rực rỡ trơ trọi nhưng không động
Phật ở trong hội chúng Thanh văn
Sáng suốt quang minh không ai bằng.
Tam thập tam thiên Đế Thích chúa
Cúng dường rộng lớn trang nghiêm đẹp
Long tử nguy nguy Đại Sa-môn
Chư Thiên thấy Phật đều khai ngộ.
Muốn vào biển Phật pháp giải thoát
Thành tựu trí tuệ pháp bảo tạng
Nên dùng giới định làm thuyền bè
Đến thẳng Niệm xứ tụ ma-ni.
Thái tử xưa tu các khổ hạnh
Hoặc ở bờ ao, hoặc hang núi
Hoặc ở đồng hoang xa hẻo lánh
Khéo đạt Không, Vô tướng, Vô tác.
Mâu-ni Đại Tiên rống sư tử
Chỉ dụ quần mê sinh giác ngộ
Sức phương tiện khéo léo như vậy
Hóa người khó hóa khiến nhu thuận.
Phật là tối thắng Điều Ngự Sư
Hay thí pháp bảo cho chúng sinh
Tịch tĩnh diệu lạc Xa-ma-tha
Công đức giới định tạng kiên cố.
Nếu khéo lời dạy tu các hạnh
Trừ hoặc diệt tội khiến thanh tịnh
Vì thế Trời, Người, A-tu-la
Thường ưa nghe trì chánh pháp Phật.

Khi ấy, vua Tịnh Phạn vì Tôn giả Ưu-đàdi nói kệ:

Con ta xuất gia có vui gì
Ngọa cụ ăn uống đều thiếu thốn
Giống như sen xanh đang tươi tốt
Nhổ bỏ trên đất sẽ khô héo.

Tôn giả Ưu-đà-di dùng kệ đáp:

Như Lai du hý các thần thông
Thường dùng Thiền duyệt không đói khát
Do trụ tịch tĩnh thiền vi diệu
Như hoa sen vàng thể chắc chắn.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thái tử thuở xưa ở hoàng cung
Trăm ngàn thể nữ thường vây quanh
Ngủ nghỉ thường nghe tiếng ca hát
Nay ở núi rừng có vui gì.

Tôn giả Ưu-đà-di dùng kệ đáp:

Phật ở trong cảnh giới giải thoát
Thâm tâm y chỉ các thiền định
Đi đứng nằm ngồi trông oai nghi
Thường sinh vui thích có khổ gì.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thái tử thuở xưa ở hoàng cung
Nệm ấm chăn êm làm ngọa cụ
Trăm ngàn đèn đuốc luôn chiếu sáng
Chưa hề biết đến tối là gì.

Tôn giả Ưu-đà-di dùng kệ đáp:

Mâu ni tu mọi hạnh thù thắng
Dùng bốn Vô lượng làm mền nệm
Tâm thường lợi lạc các hữu tình
Trong cảnh trung dung không si độn.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thuở xưa thái tử ở điện sâu
Vui chơi thọ dụng các khoái lạc
Hầu hạ hai bên khéo nghênh đón
Ở rừng một mình được cái gì.

Tôn giả Ưu-đà-di dùng kệ đáp:

Như Lai ở chỗ tịnh tối thắng
Vui chốn vắng lặng A-lan nhã
Bình đẳng quán sát khắp thế gian
Thường được trời rồng đến cung kính.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thuở xưa Thái tử ở vương cung
Tắm rửa cung tần tranh hầu hạ
Hương xoa thượng diệu bôi lên thân
Nay ở núi rừng được cái gì.

Ưu đà di dùng kệ đáp:

Mâu ni tắm rửa bằng trì giới
Gột rửa các ác sạch không nhơ
Hay khiến mình người đều thanh tịnh
Lìa dơ trần cấu đến bờ giác.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thái tử mặc y rất thù diệu
Tơ vàng xâu kết châu anh lạc
Chiên-đàn trộn với hương xoa thơm
Nay ở núi rừng được cái gì.

Ưu-đà di dùng kệ đáp:

Mâu-ni dùng tàm làm trượng phu
Bồ-đề pháp phần như tràng châu
Hộ giới mát mẻ như hương xoa
Dùng để trang nghiêm thể công đức.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Thái tử ở chỗ thường canh gác
Trăm ngàn dũng sĩ cầm giáo mác
Tàn lọng để che nắng mặt trời
Một mình núi rừng ai thủ hộ.

Tôn giả Ưu-đà di dùng kệ đáp:

Mâu-ni đầy đủ mười Trí lực
Đối các sợ hãi tâm không động
Từ bi che khắp các quần sinh
Sa-môn Pháp tử thường vây quanh.

Vua Tịnh Phạn lại nói kệ:

Hay thay, khéo nói công Đức Phật
Không lâu tôi đến nghe pháp yếu
Xin trước lãnh thọ tôi cúng dường
Lại đem cơm thơm cúng Như Lai.

QUYỂN 2

PHẨM 1: VUA TỊNH PHẠN MỚI PHÁT LÒNG TIN (PHẦN 2)

Khi ấy, Tôn giả Ưu-đà-di biết vua Tịnh Phạn tâm sinh cảm ngộ, nói kệ tán thán rồi, lại nói:

– Này Đại vương! Nay Đức Phật Thế Tôn xuất hiện thế gian làm Đại Pháp Vương, thành tựu đầy đủ các thiện công đức, ở trong đại chúng Sa-môn, cũng như trăng tròn giữa các vì sao, ánh sáng của Đức Thế Tôn lại còn hơn thế nữa.

Này Đại vương! Đức Như Lai xuất thế như bầu trời mùa thu không có mây che, ánh sáng vằng vặc. Đức Phật ở trong đại chúng Sa-môn chiếu ánh sáng rạng ngời còn hơn thế nữa.

Lại ở giữa biển có núi Quang minh, ánh sáng chiếu tỏa ra các núi khác. Đức Phật ở trong đại chúng Sa-môn, ánh sáng chiếu ra còn hơn thế nữa. Lại như Đế Thích ở trong nhà thiện pháp, Thiên chúng vây quanh, ánh sáng rực rỡ hơn các chư Thiên khác. Đức Phật ở trong chúng Sa-môn, ánh sáng chiếu ra còn hơn thế nữa.

Lại như Đại phạm Thiên vương, trăm ngàn ức Phạm chúng vây quanh, tất cả ánh sáng từ thân phát ra không ai bằng. Đức Phật ở trong đại chúng Sa-môn phát ra ánh sáng lại hơn thế nữa.

Lúc đó, vua Tịnh Phạn nghe nói ánh sáng oai thần tối thắng của Đức Thế Tôn như vậy, lại suy nghĩ: “Thuở xưa, lúc thái tử mới giáng sinh, làm cho đất sáu cách chấn động như: Động biến, động cực biến động; khởi biến; khởi cực biến khởi; dũng biến, dũng cực biến dũng; chấn biến, chấn cực biến chấn; kích biến, kích cực biến kích; hống biến, hống cực biến hống. Lại có ánh sáng chiếu khắp trời đất không ai bằng. Lúc đó, Ngài bước đi bảy bước không cần sự dẫn dắt. Đồng thời, trên hư không xối xuống hai thứ nước ấm và lạnh trong sạch tắm rửa thân thái tử. Dưới đất tự nhiên vọt lên tòa báu; trên hư không lại treo tàn lộng thù thắng vi diệu, có các Thiên tử cung kính tôn trọng, tay cầm phất trắng đứng hầu hai bên. Cho đến lúc Bồtát trưởng thành, xuất gia nhàm chán năm dục lạc, thường trụ chánh niệm, nói lời thành thật, khiến cho các hữu tình không tổn hại lẫn nhau, mọi việc làm đều quyết định dũng mãnh kiên cố, nguyện thành Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Người chưa được độ khiến được độ, dần dần đưa đến bờ giải thoát rốt ráo.

Lúc đó, vua Tịnh Phạn vì Ưu-đà-di mà nói kệ rằng:

Nếu lúc người mới sinh
Nói năng mà quyết định
Đầy đủ tuệ tịch tĩnh
Người trí nào không tin.
Thái tử lúc mới sinh
Thế gian không ai bằng
Được thế gian tôn trọng
Người trí nào không tin.
Cho đến trong giấc mộng
Chưa từng nói hư dối
Như thuyết mà tu hành
Người trí nào không tin.
Đối cảnh không sinh tham
Không bị tham trói buộc
Không cần đến vàng bạc
Người trí nào không tin.
Sân như dao kiếm bén
Giận dữ làm người sợ
Khéo lìa lỗi lầm ấy
Người trí nào không tin.
Thường tương ưng thắng tuệ
Kinh bố không lay động
Do lìa lỗi ngu si
Người trí nào không tin.
Thọ dụng năm dục lạc
Không bị nó trói buộc
Thắng tuệ khéo lựa chọn
Người trí nào không tin.
Trăm ngàn thứ huyễn thuật
Không có gì chân thật
Người thiện không ham thích
Người trí nào không tin.
Vô số lời khéo léo
Rốt ráo là hý luận
Không thoát khỏi trói buộc
Người trí nào không tin.
Nếu ai lạc pháp lạc
Tương ưng các nghĩa lợi
Nhất định thoát trói buộc
Lời ấy sao không tin.
Sức phương tiện lìa cấu
Ai có thể phòng ngừa
Vượt thành, rời cung Thích
Lời ấy sao không tin.
Xả bỏ năm dục lạc
Ở núi như hươu nai
Chí ưa cầu Bồ-đề
Lời ấy sao không tin.
Sáu năm tu khổ hạnh
Vì độ các chúng sinh
Cầu Bồ-đề tối thượng
Lời ấy sao không tin.
Sáu năm ăn gạo mè
Không nghĩ đến vật ngon
Cầu Bồ-đề tối thượng
Lời ấy sao không tin.
Sáu năm ở hang núi
Chúng ma tìm sơ hở
Không thấy được lỗi nhỏ
Lời ấy sao không tin.
Người nào không cầu lợi
Không một chút hy vọng
Khéo lìa lỗi tham lam
Lời ấy sao không tin.
Vô thượng Chánh đẳng giác
Nếu ai chưa từng nghe
Khó tin lại khó hiểu
Lời ấy sao không tin.
Nếu Phạm Thiên thỉnh chuyển
Hoặc Thế Tôn tự nói
Pháp vi diệu như vậy
Lời ấy sao không tin.
Thương xót dòng họ Thích
Thị hiện vào vương cung
Khiến thoát khổ trói buộc
Lời ấy sao không tin.
Người chưa qua bờ kia
Dạy dỗ khiến được qua
Thường phát nguyện như vậy
Lời ấy sao không tin.
Thuở xưa Đức Thế Tôn
Thường khuyến hóa như vậy
Nên biết nay cũng thế
Lời ấy sao không tin
Vì thế hôm nay tôi
Cầu kiến Pháp Trung Vương
Quán chắc chắn như vậy
Thân tâm được thanh tịnh.

Vua Tịnh Phạn nói kệ rồi lại suy nghĩ nói với Tôn giả rằng:

– Còn bao lâu nữa thì thân này mới phát đạo tâm?

Lúc đó Ưu-đà-di vì vua Tịnh Phạn nói kệ rằng:

Đại vương nay làm chúa nhân gian
Phải nên tu tập các nghĩa lợi
Như Lai khen ngợi nhân phát tâm
Nên được sinh vào nơi tối thắng.
Nếu hay phát sinh ý thanh tịnh
Đến chỗ Mâu-ni Đại Thế Tôn
Công đức của Ngài khó lường được
Tăng trưởng thiện chủng do trời người.
Như Lai xưa làm Vương thái tử
Đại Bi thương tưởng các quần sinh
Rộng hành bình đẳng tâm vô lượng
Cũng như hoa sen không dính nước.
Tất cả hữu tình bị thác cuốn
Phật hay cứu vớt khiến ra khỏi
Gọi là Vô thượng Đấng Lưỡng Túc
Vua Tịnh Phạn tâm khéo điều phục
Trí Phật tối thượng tối đệ nhất
Nhổ tên nghi hoặc của chúng sinh
Lìa hẳn các khổ được an lạc
Thái tử vĩnh đoạn trói ba cõi
Hàng phục bốn loại chúng ma quân
Được chứng Vô thượng đại Bồ-đề
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Chỉ bày pháp cam lồ giải thoát
Đế Thích nhân vương đều khuyến thỉnh
Lợi lạc hữu tình trong ba cõi
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Hay chuyển tối thắng diệu pháp luân
Nhiếp hóa tất cả các ngoại đạo
Số ấy trăm ngàn đến vạn ức
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Tuệ nhãn Như Lai rất thanh tịnh
Chúng sinh bị vô minh che lấp
Nói pháp dứt trừ tối tăm ấy
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Chúng sinh già chết thêm bức bách
Như Lai nói pháp trừ lo sợ
Phương tiện khéo lên pháp thường lạc
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Hư không mưa xuống bốn thứ nước
Có thể dập tắt lửa ba độc
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Như Lai mười Lực trí sáng suốt
Diệt tội ba đời của chúng sinh
Xa lìa hoàn toàn mọi lỗi lầm
Như Lai thường dùng tâm đại Bi
Thương nhớ chúng sinh như con đẻ
Đều khiến lìa khổ được giải thoát
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Chúng sinh cang cường khó giáo hóa
Như Lai phương tiện khéo nhiếp thọ
Khiến trừ trạo cử và kiêu mạn
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Chúng sinh chìm đắm biển tham dục
Chư Thiên trước vui cũng như vậy
Phật rủ mười Lực đón tiếp họ
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Như Lai đại Bi không ai bằng
Trang nghiêm bằng vô lượng công đức
Cứu vớt chúng sinh khổ nhiều kiếp
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Như Lai đại Bi phương tiện lực
Như châu ma-ni làm nước trong
Khéo trừ đấu tranh nhân nhơ bẩn
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Như ma-ni báu tánh vốn tịnh
Chúng sinh thấy được đều hoan hỷ
Như Lai lìa hẳn nhân phiền não
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.
Trời người chịu nhiều khổ biệt ly
Như Lai khiến được vui tịch tĩnh
Thoát khỏi luân hồi nhân sinh tử
Như Lai thành tựu biển công đức
Nay tôi lược nói một phần nhỏ
Thí như hư không, không ngằn mé
Vua phát tịnh tâm khéo điều phục.

Nghe kệ rồi, vua Tịnh Phạn liền suy nghĩ: “Trước đây Bồ-tát chưa xuất gia, ta từng thấy Ngài làm những việc thù thắng, tương ưng chánh niệm phát nguyện quyết định rằng: Ta sẽ xuất gia, thệ thành Phật đạo, độ thoát chúng sinh đồng lên bờ giác”. Nghĩ vậy rồi, vua liền nói với Tôn giả Ưuđà-di:

– Nay Ngài chính là con của Như Lai, đã ăn rồi thì không còn nhận sự cúng dường riêng, sau đó tôi sẽ đến chỗ của Đức Thế Tôn.

Nghe vua nói thế, Ưu-đà-di sinh đại hoan hỷ liền đem cơm thơm về dâng lên cúng Như Lai. Đức Thế Tôn nhận rồi liền cho triệu tập các Tỳ-kheo lại và bảo:

– Ưu-đà-di này được ta sai đến giáo hóa vua Tịnh Phạn, nay vua đã tin hiểu.

Đức Phật khen Ưu-đà-di:

– Hay thay, hay thay! Nay ông được vô lượng phước uẩn, làm cho các thế gian, các hàng trời người nghe việc này rồi thiện căn càng tăng trưởng.

Lúc đó, có các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Ưu-đà-di được phước bao nhiêu?

Đức Phật dạy:

– Giả sử số cát sông Khắc-già trong mười phương vô lượng vô biên không thể đếm hết, phước báo của Ưu-đà-di ngang bằng với số cát ấy không khác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn ăn xong cất bát an trụ oai nghi, ngồi kiết già nhập định quán sát. Biết phụ vương sắp đến, liền triệu Đa Văn Thiên vương ở phương Bắc cùng với quyến thuộc trăm ngàn vạn ức và nhiều đại Dược-xoa tướng, rời khỏi cung nương hư không mà đến, chỉ trong khoảng co duỗi cánh tay đã đến chỗ Phật, chắp tay đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo, rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, Trì Quốc Thiên vương ở phương Đông, cùng với quyến thuộc trăm ngàn vạn ức chúng Càn-thát-bà, từ trên không đi đến chỗ Đức Phật, chắp tay đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, Tăng Trưởng Thiên vương ở phương Nam cùng với quyến thuộc trăm ngàn vạn ức chúng Củ-bạn-noa, từ trên hư không đi đến chỗ Đức Phật, chắp tay đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, Quảng Mục Thiên vương ở phương Tây, cùng với quyến thuộc trăm ngàn vạn ức các Đại Long chúng từ trên hư không đi đến chỗ Đức Phật chắp tay đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, chúa trời Đế Thích cùng với Tam thập tam thiên, vô số Thiên tử đi đến chỗ Đức Phật đảnh lễ cúng dường. Như vậy Diệm-ma thiên, Đổ-sử thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, Đại phạm vương thiên, Quan âm thiên, Quảng quả thiên, Tịnh cư thiên. Các Thiên tử này đều cùng trăm ngàn vạn ức Thiên tử quyến thuộc, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ cung kính cúng dường Phật và Tỳ-kheo tăng rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, cùng sáu mươi ức quyến thuộc, mặc áo mới sạch, chỉnh đốn thứ tự, từ trên hư không đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳkheo rồi đứng qua một bên.

Lại nữa, có Ca-lâu-la vương cùng với tám vạn sáu ngàn quyến thuộc, từ trên hư không đi đến chỗ Đức Phật, chắp tay đảnh lễ cúng dường Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo rồi đứng qua một bên.

Lại có ngoại đạo, đại tiên, Bà-la-môn… tám mươi vạn từ các phương đến chỗ Đức Phật, thân cận cúng dường. Thí như trăng tròn rạng rỡ giữa hư không, ánh sáng oai đức che khuất các sao.

Lúc đó, trong chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, Mahầu-la-già… nhất tâm đồng cất tiếng dùng kệ khen rằng:

Phật đủ trí sáng suốt
Tối thắng không ai bằng
Hàng phục A-tu-la
Diệt si ám ba độc.
Mặt Phật như trăng tròn
Các tướng đều trang nghiêm
Biện tài lại tối thượng
Phá tan các dị luận.
Nghiêm thân bằng trăm phước
Trời người không ai bằng
Dẫn dắt các Thanh văn
Như sen vượt nước bùn.
Như chúa trời Đế Thích
Thiên tử thường vây quanh
Oai đức hơn chư Thiên
Thân quang cũng như vậy.
Như Lai Đấng Lưỡng Túc
Pháp tử thường vây quanh
Khéo nói các pháp yếu
Khiến chúng sinh khai ngộ.
Như Diệm-ma Thiên chủ
Quyến thuộc thường vây quanh
Ngồi yên giữa đại chúng
Chư Thiên đều tôn trọng.
Thân Phật sáng vô biên
Chiếu đường ác hiểm nạn
Các chúng sinh đọa lạc
Nhờ ánh sáng lìa khổ.
Đổ-sử-đa Thiên chủ
Thiên chúng thường vây quanh
Nhờ phước báo thuở xưa
Thân chiếu sáng hơn hết.
Trời và A-tu-la
Cùng các Long thần khác
Ánh sáng Thích Sư Tử
Thanh tịnh hơn thế nữa.
Lạc biến hóa Thiên chủ
Đều đi đến chỗ Phật
Bị ánh sáng Phật che
Khiến biết phước nghiệp trước.
Ánh sáng Phật như vậy
Tối thượng không ai bằng
Hóa nhân chưa điều phục
Sinh tin hiểu thanh tịnh.
Tha hóa tự tại chủ
Thiên chúng thường vây quanh
Do thiện nghiệp đời trước
Thân chiếu sáng hơn hết.
Như Lai mười Lực tôn
Chánh hạnh đều viên mãn
Ở trong hàng trời người
Ánh sáng thật rạng ngời.
Sắc giới Đại phạm vương
Thân sáng hơn Phạm chúng
Tám âm thanh vi diệu
Chư Thiên không ai bằng.
Như Lai Đại Pháp Vương
Tám bộ thường cung kính
Pháp âm diễn bốn Đế
Chiếu sáng ba ngàn cõi.
Những hàng trời, rồng, thần
Đều đi đến chỗ Phật
Muốn nghe tiếng Phạm âm
Xin Phật khai chưa ngộ.
Biển sâu khó thể lường
Biết được mé hư không
Tu-di có thể biết
Công đức Phật vô cùng.

PHẨM 2: VUA ĐẾN CHỖ PHẬT

Khi ấy, vua Tịnh Phạn đến trước nói với Tôn giả Ưu-đà-di:

– Không bao lâu nữa tôi sẽ đến chỗ Phật, cúi xin Đức Thế Tôn tha tâm tiên giám.

Nói rồi, vua cho triệu tập dòng họ Thích, chọn ngày tốt chính là ngày Thiên tử mới ra đời, ta sẽ nghiêm giá quyết định đến đó.

Nghe vua ra lệnh như vậy, dòng họ Thích ai nấy đều vui mừng nói lên như vầy:

– Lành thay, Đại vương! Xin được hầu hạ.

Khi ấy, vua Tịnh Phạn ra lệnh chuẩn bị voi ngựa xe cộ, trang nghiêm các thứ báu lên xe cho đầy đủ dùng cát vàng vàng sạch rải khắp lên mặt đường. Xe màu xanh trang nghiêm bằng các báu màu xanh, ở trên xe treo tán lộng màu xanh, lưới báu bao xung quanh, tiếng linh báu hòa vang, tấu lên âm nhạc vi diệu, cộng thêm những giọng ca điệu múa, có trăm dũng sĩ mặc giáp trụ màu xanh mang dày xanh hộ vệ xung quanh, vô số người hầu hạ mặc áo màu xanh, mỗi mỗi đều cầm tràng phan màu xanh và phất xanh, cáng được trang sức bằng các thứ báu, trang sức bằng các thứ màu xanh tươi thấm theo thứ lớp lần lượt tiến đến. Xe màu vàng, trang nghiêm bằng vàng, ở trên xe căng tàn lọng màu vàng, lưới báu bao xung quanh, tiếng linh báu hòa vang, tấu lên âm nhạc vi diệu, xướng lên những giọng ca điệu múa, có trăm dũng sĩ mặc giáp trụ màu vàng, mang dày vàng hộ vệ xung quanh, vô số người hầu hạ mặc áo màu vàng, đều cầm tràng phan màu vàng và phất màu vàng, cáng được trang sức bằng các thứ báu, trang nghiêm các màu vàng tươi rực rỡ tinh khiết, theo thứ lớp lần lượt tiến tới. Xe màu hồng, trang nghiêm sáu màu hồng, trên xe căng tàn lọng màu hồng, lưới báu bao xung quanh, linh báu hòa vang, tấu lên âm nhạc vi diệu, lại thêm những giọng ca điệu múa có trăm dũng sĩ mặc giáp trụ màu hồng, mang dày hồng hộ vệ xung quanh vô số người hầu hạ mặc áo màu hồng đều cầm tràng phan màu hồng và phất hồng, cáng được trang nghiêm bằng các báu, trang nghiêm các loại màu hồng tươi, theo thứ lớp từ từ tiến tới. Xe màu trắng, trang nghiêm màu trắng, trên xe căng tàn lọng màu trắng, lưới báu bao xung quanh, linh báu phát tiếng hòa vang, tấu lên âm nhạc vi diệu, lại thêm những giọng ca điệu múa, có trăm dũng sĩ mặc giáp trụ màu trắng, mang dày trắng hộ vệ xung quanh, vô số người hầu hạ mặc áo màu trắng, cầm tràng phan màu trắng và phất trắng, cáng của nó được trang nghiêm bằng các báu, mọi vật đều trang nghiêm bằng các màu trắng tinh khiết, theo thứ lớp từ từ tiến tới. Xe nhiều màu trang nghiêm bằng các báu, trên xe căng tàn lọng nhiều màu, lưới báu bao xung quanh, tiếng linh báu hòa vang, tấu lên âm nhạc vi diệu, lại thêm những giọng ca điệu múa, có trăm dũng sĩ mặc giáp trụ nhiều màu, mang dày nhiều màu hộ vệ xung quanh, vô số người hầu hạ mặc áo nhiều màu, đều cầm tràng phan nhiều màu và phất nhiều màu, cáng của nó được trang nghiêm bằng các báu, tất cả đều trang nghiêm các màu sắc rực rỡ, theo thứ lớp lược tiến tới. Sau đoàn xe có tám vạn con voi, trên mỗi con đều có lầu gác bằng bảy báu, tràng màu vàng lớp lớp xen kẽ nhau thật đáng yêu thích. Ở sau đoàn voi có tám vạn con ngựa, cũng dùng vàng báu mà trang sức. Lúc đó, vua Tịnh Phạn cỡi voi tối thắng, từ trong cung vua ra khỏi thành Ca-tỳ-la, thẳng đến rừng Ni-câuluật-đà, các người thuộc dòng họ Thích tề chỉnh cung kính theo sau.

Từ xa trông thấy phụ vương dắt quần thần quyến thuộc dòng họ Thích và nhân dân trong thành dần dần đi đến, Đức Thế Tôn liền triệu tập các Tỳ-kheo ra khỏi rừng đón xem. Các Tỳ-kheo thấy thế rất sinh hoan hỷ, khen chưa từng có, mới nhìn đều cho là chúa trời Đế Thích Tam thập tam thiên đi đến. Trên đường vua đi, được làm bằng phẳng sạch sẽ, rải hoa năm sắc, đốt các danh hương, ở trên hư không lại treo các vòng lụa, các thứ kỹ nghệ, các âm nhạc vi diệu được bày ra hai bên đường đồng thời trổi lên, ý vua vui vẻ tiến về phía trước chỗ Đức Phật.

QUYỂN 3

PHẨM 3: VUA TỊNH PHẠN ĐẾN ĐẢNH LỄ ĐỨC NHƯ LAI

Khi ấy, vua Tịnh Phạn đưa dòng họ Thích trước sau vây quanh đến vườn Ni-câu-luật-đà, đến rồi, xuống xe báu cùng các quần thần đi bộ đến. Đức Thế Tôn biết rồi, vì muốn giáo hóa phụ vương xả trừ kiêu mạn, phát sinh lòng tin thanh tịnh, liền bay lên hư không, hiện thần thông biến hóa, tới lui qua lại tự tại vô ngại. Cùng lúc đó Đại phạm Thiên vương chúa cõi Ta-bà đứng phía bên trái Như Lai, chúa trời Đế Thích đứng bên phải Như Lai, Diệmma Thiên vương, Đổ-sử-đa Thiên vương, Lạc biến hóa Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, tất cả đều cầm các loại bảo cái theo Đức Như Lai nương hư không mà đi. Đa Văn Thiên vương, Trì Quốc Thiên vương chắp tay đảnh lễ đứng ở phía Đông. Tăng Trưởng Thiên vương, Quảng Mục Thiên vương chí thành đảnh lễ đứng ở phía Tây. Lại có quyến thuộc của chư Thiên ở sáu tầng trời cõi Dục mưa các loại hoa như hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-một-na, hoa Bôn-noa-lợi-ca, hoa Mạn-đà-la và mưa bột hương chiên-đàn, trầm thủy vi diệu tối thượng, các kỹ nhạc, các giọng ca điệu múa của chư Thiên ở trong hư không đồng thời trổi lên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng sức thần thông hiện vô số lầu gác bằng bảy báu, trang nghiêm vi diệu, ánh sáng rực rỡ. Lúc đó, trong hội hoặc trời, hoặc người đều được thấy sự qua lại lẫn nhau, cả chúng hội đều sinh tâm vui thích, từ xưa đến nay chưa từng có. vua Tịnh Phạn thấy điềm tốt này sinh tâm hy hữu nói rằng:

– Trước kia, khi Như Lai còn làm Thái tử không chịu làm Chuyển luân thánh vương vua bốn thiên hạ, giàu có tự tại khoái thích. Nay làm Pháp Vương trong tam thiên đại thiên thế giới, đầy đủ Thánh tài, thần thông tự tại, thường được chư Thiên cung kính vây quanh, còn hơn thế nữa không thể thí dụ. Ta nay chỉ có quyến thuộc dòng họ Thích và các nhân dân hầu hạ.

Vua Tịnh Phạn nói như vậy rồi, hoan hỷ vô lượng, sinh tâm thanh tịnh, bày vai bên phải, gối phải quỳ sát đất cung kính chiêm ngưỡng Như Lai, chí thành đảnh lễ bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn mới xuất sinh ra không ai bồng đỡ, bước đi bảy bước nhìn khắp mười phương xưng rằng: “Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, không còn ai hơn, vượt khỏi già bệnh chết, dứt sạch nguồn gốc đau khổ”. Lúc đó, tôi thấy việc này rồi tâm sinh hoan hỷ chí thành kính lễ. Lại nữa, khi Thế Tôn còn làm Thái tử, đi dạo xem nông dân cày ruộng, rồi đến nghỉ mát dưới cây Diêm-phù, trời đã xế chiều nhưng vẫn ngồi yên không động. Lúc đó lại có Lục dục Thiên tử chắp tay cung kính đứng hầu bên cạnh, khi đó con chí thành đảnh lễ. Nay thấy Thế Tôn hiện tướng tốt này, đây là lần thứ ba tôi đảnh lễ Thế Tôn.

Nói thế rồi, vua Tịnh Phạn muốn lập lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Phước trí vô song Đấng Lưỡng Túc
Mới sinh đã bước đi bảy bước
Nói rằng: Ta tối thắng thế gian
Lúc đó tôi chí thành đảnh lễ.
Lại xem dân cày đến nghỉ mát
Trời tuy xế chiều Ngài không động
Lục dục chư Thiên hầu bên cạnh
Lúc đó con chí thành đảnh lễ
Nay Phật hiện thần biến tướng này
Thương tưởng đến tôi và chúng sinh
Thế gian không có ai bằng Phật
Đây lần thứ ba tôi đảnh lễ.
Thuở xưa tôi đặt tên cho Ngài
Hiệu là Thành tựu tất cả nghĩa
Đã chứng quả Phật toại tâm xưa
Vui vẻ cũng như uống cam lồ.

Lúc đó Lục dục Thiên tử biết vua Tịnh Phạn nhất tâm khát ngưỡng muốn thấy Như Lai, trước ở trong rừng Ni-câu-luật-đà vì Phật Thế Tôn trải tòa Sư tử cao tối thắng trang nghiêm bằng các báu, rồi dùng Thiên y kiêu xa xà trắng vi diệu tối thượng trải lên trên. Lại ở trong rừng ấy hóa ra các y phục vi diệu, tất cả mọi nơi đều được trang nghiêm rủ xuống. Thiết tòa xong, Lục dục chư Thiên cung thỉnh Đức Thế Tôn ngồi lên tòa ấy.

Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ta từ lúc xuất gia cho đến khi thành Phật đây là lần đầu tiên ta gặp lại phụ vương”. Nghĩ thế rồi, Đức Thế Tôn liền từ trên không đi xuống. Vua Tịnh Phạn được gặp Như Lai tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có, mắt chiêm ngưỡng mãi không nháy, tôn trọng tán thán an ủi thăm hỏi. Đức Phật ngồi trên tòa, vua cùng dòng họ Thích ngồi qua một bên.

Khi ấy, lại có chư Thiên Sắc giới đều đến hội Phật, chư Phạm chúng Thiên, Phạm phụ Thiên, Đại Phạm vương Thiên, Thiểu quang Thiên, Vô lượng quang Thiên, Cực quang tịnh Thiên, Biến tịnh Thiên, Vô lượng tịnh Thiên, Vô vân Thiên, Phước sinh Thiên, Quảng quả Thiên, Vô phiền Thiên, Vô nhiệt Thiên, Thiện hiện Thiên, Thiện kiến Thiên, Sắc cứu cánh Thiên thấy Phật Thế Tôn vì muốn giáo hóa phụ vương, nên hiện tướng tốt này, đều hoan hỷ cùng nhau an ủi. Tất cả đều cầm Thiên hoa như: Hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la rải lên

Đức Phật, lại đem Thiên y vi diệu treo trên hư không mà cúng dường; lại dùng các món trang nghiêm thân như: Mũ báu, ngọc châu đeo tai, vòng ngọc đeo tay, châu bội anh lạc, trân kỳ thúc đới; hoặc dùng huỳnh kim làm vòng, các loại báu xen kẽ, tinh xảo vi diệu, ánh sáng rực rỡ dâng lên Đức Thế Tôn; lại dùng các loại bảo cái báu, tràng báu phan báu vi diệu tối thượng bày ra cúng dường. Các Thiên tử cúng dường rồi, chí thành đảnh lễ, đứng trên hư không rải các nước hoa lấm tấm như mưa, tất cả đều chắp tay dùng kệ khen Phật:

Quy y Đại Trượng Phu tối thắng
Hay khéo nhiếp hóa các quần sinh
Đầy đủ phước trí và danh tiếng
Tất cả thế gian không ai bằng.
Quy y Đại Trượng Phu tối thắng
Thắng tuệ thâm sâu khó nghĩ bàn
Đại Bi thương xót các hữu tình
Vì nói bốn Đế pháp chân thật.
Quy y Đại Trượng Phu tối thắng
Lìa hẳn cấu tham nhuế ngu si
Trang nghiêm bằng tướng hảo đẹp đẽ
Cũng như núi vàng rực biển cả.
Quy y Đại Trượng Phu tối thắng
Bẻ gãy dị luận không khiếp nhược
Đều khiến xả trừ mê vọng tình
Tu hành chánh kiến hạnh thanh tịnh.
Chúng con nhớ lại phước thuở xưa
Được gặp Năng Nhân vừa ra đời
Đem ít thiện căn cúng dường này
Hồi hướng mình người đều thành Phật.

PHẨM 4: THỌ KÝ A-TU-LA VƯƠNG

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì muốn giáo hóa phụ vương, hiện thần biến rồi, trong hội có các A-tu-la vương thấy tướng tốt này tâm đều vui thích, lại thấy sự cúng dường rộng lớn của chư Thiên sắc giới rất sinh hoan hỷ. Lúc đó, có thượng thủ Vĩ ma, tức Đát-la A-tu-la vương nói lời như vầy: – Nay ta là người đầu tiên cúng dường Đức Phật.

Nói rồi liền dùng sức thần thông, ngay ở trong vườn hóa thành sáu mươi vạn màn lưới báu có nhiều màu sắc xen kẽ nhau che trên hư không. Dưới màn báu đó lại hiện sáu mươi vạn loại báu để trang nghiêm trên đất. Trên đất báu lại hiện sáu mươi vạn lầu gác vi diệu thù thắng. Cửa của mỗi lầu gác ấy đều làm bằng báu. Như lầu gác vàng thì dùng bạc làm cửa, lưu ly làm cửa sổ, xa cừ làm trụ, pha lê làm đèn, mã não làm đất, chân châu, các loại báu được trang nghiêm xen nhau. Lầu bạc thì dùng vàng làm cửa, lưu ly làm cửa sổ, san hô làm trụ, xa cừ làm đòn, pha lê làm đất, chân châu, các báu được trang nghiêm xen nhau. Cho đến lầu gác bằng mã não, thì lấy pha lê làm cửa. Như vậy, bảy báu làm thành lầu gác, cửa, cửa sổ, trụ, đòn, trang nghiêm theo thứ lớp. Trong mỗi cửa đều hiện các tòa Sư tử báu, hai bên tòa đều có đồng nam, đồng nữ A-tu-la, tay cầm phất trắng, hoặc cầm quạt báu đứng hầu bên cạnh. Trên mỗi tòa có các bảo cái, ở trước lại hiện tràng báu các sắc. Ở cửa vàng lại hiện tràng xanh, màu vàng làm đảnh, huỳnh kim làm cáng; ở cửa bạc hiện ra tràng vàng, màu xanh làm đảnh, xích bảo làm cáng; ở cửa lưu ly hiện ra tràng màu hồng, màu đỏ làm đảnh, vàng ròng làm cáng; ở cửa được làm bằng nhiều loại báu hiện ra các màu rực rỡ, các sắc làm đảnh, bạc làm cáng, cũng hiện như trên. Các màn lưới báu, đài lầu gác báu, tràng phan bảo cái quay tròn trên hư không nhiễu Phật ba vòng rồi bày ra đứng yên. Như Tam thập tam thiên, Y-la-bát-na Đại Long tượng vương, đi từ từ nhiễu quanh chúa trời Đế Thích cũng lại như vậy.

Lại mưa các loại Thiên hoa vi diệu, nào là hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, hoa Ba-lỗ-sa-ca, hoa Maha ba-lỗ-sa-ca, hoa Ca-rị-ca-la-phược, hoa Ma-ha ca-rị-ca-la-phược, hoa Bát-tra-la, hoa Ma-ha báttra-la, hoa Tức-đát-la-bát-tra-la, hoa Ma-ha tứcđát-la-bát-tra-la. Rồi lại mưa tiếp bằng bảy báu như: hoa vàng ròng, hoa bạc, hoa xa cừ, hoa mã não, hoa phệ-lưu-ly, hoa pha-chi-ca, hoa trân châu, rồi lại mưa các món trang sức quý như trân kỳ ngoạn. Khi ấy, trong hội muốn thứ gì đều được như ý. Lại mưa các nước hương thơm, hương xoa, hương bột, hương trầm thủy. Lúc đó thành Ca-tỳla hoa cúng dường ngập đến bảy thước, rộng sáu do-tuần, cùng với nước hoa hòa hợp thành bùn. Nhờ thần lực của Đức Như Lai, nên hương xông khắp tam thiên đại thiên thế giới. Chúng sinh trong thế giới ấy hoặc trời hoặc người nghe hương này rồi đều phát tâm Chánh đẳng giác, được không thoái chuyển. A-tu-la cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen:

Bậc tối thắng không động
Viên thành quả Bồ-đề
Hóa độ các hữu tình
Vượt ra khỏi ba cõi.
Con với tâm thanh tịnh
Hiện tiền dâng cúng dường
Nguyện được như Thế Tôn
Vĩnh viễn thoát luân hồi.
Mâu-ni Đại Thánh chúa
Lìa nhiễm trừ các hoặc
Kham làm thầy trời người
Cứu vớt lên bờ giác.
Khéo nói pháp vi diệu
Điều phục các chúng sinh
Thoát khỏi ách già chết
Nên con tán thán lễ.

Lúc đó, Vĩ-tức-đát-la A-tu-la vương nói kệ tán thán rồi lại nói:

– Nay con cúng dường tâm còn chưa đủ, muốn đem tất cả trân báu vô giá nhất trong biển dâng lên cúng dường Như Lai.

Nói rồi, liền dùng sức thần thông hóa thành sáu mươi vạn xe báu vi diệu, mỗi xe báu lại dùng ngựa điều thuận móc vào. Các xe ấy đi trang trí bằng các vàng báu, trên mỗi xe đều có tàn lộng vi diệu, treo các linh báu phát ra tiếng hòa nhã. Trên mỗi xe có A-tu-la nữ sắc tướng tuyệt vời, hiến dâng những giọng ca điệu múa hay; kỹ nhạc tấu lên, phát ra tiếng véo von, làm cho người nghe không bao giờ chán. Nhờ thần lực của Đức Phật khiến tiếng nhạc này vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Hữu tình trong các thế giới ấy nghe tiếng nhạc rồi thân ý thư thái, lìa các nhiễm trước, tâm không còn thoái chuyển đối với Chánh đẳng giác. A-tu-la cúng dường rồi, cùng với quyến thuộc tâm rất hoan hỷ, chắp tay hướng lên Phật lập lại kệ rằng:

Con nguyện luôn thân cận
Mâu-ni Đại Đạo sư
Dâng cúng dường tối thượng
Dứt tận gốc đau khổ.

Lúc đó, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Cực Hỷ phát tâm thanh tịnh, cúng dường rộng lớn, mỗi món cúng dường không khác gì Vĩ-ma-tứcđát-la A-tu-la vương. Cúng dường xong, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Quy y Vô Thượng Mười Lực Tôn
Tu hành vô biên hạnh chân thật
Nhất định thông đạt tất cả pháp
Vĩnh đoạn các hoặc được vô úy.
Quy y Bậc Thầy trong ba cõi
Thoát khỏi trói buộc của hữu ái
Đã qua bờ giác tối thắng kia
Lại hay cứu vớt người chìm đắm.
Như Lai khéo nói đạo xuất ly
Chúng sinh nghe rồi đều tin thọ
Đều khiến thanh tịnh gột các nhiễm
Cũng như hoa sen không dính nước.
Mâu-ni thắng trí khéo quán sát
Rõ các pháp không cũng vô tướng
Không trước tất cả hạnh hữu vi
Ví như hư không không chỗ nương.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Diệu Tý phát tâm thanh tịnh, cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Cực Hỷ A-tula vương. Cúng dường rồi đi xe bảy báu nhiễu Phật ba vòng, tay bưng bột vàng rải lên Đức Như Lai, rồi chắp tay hướng lên Phật dùng kệ khen rằng:

Đảnh lễ cát tường Điều Ngự Sư
Trời người thế gian không ai bằng
Rõ biết chúng sinh tánh vốn không
Chỉ có giả tướng như sóng nắng,
Không làm, không thọ, không chúng sinh
Không ngã, không nhân, không bỉ thử
Không ngôn, không thuyết, tự tánh không
Các pháp xưa nay thường vắng lặng,
Tìm cầu các pháp không thể được
Vâng lời Phật dạy khéo biết rõ
Người này được gọi con Pháp vương
Tùy thuận sở hành của Phật trước.
Con nay cúng dường lên Thế Tôn
Điều phục chúng sinh khó điều phục
Đem ít căn lành tán thán này
Hồi hướng mình người đều thành Phật.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Đại Lực phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Diệu Tý A-tula vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng các hoa báu rải lên Đức Phật, rồi chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Đảnh lễ Đại Pháp Vương
Tuệ nhãn chiếu ba cõi
Vượt qua biển sinh tử
Đến bờ giác rốt ráo.
Dạy dỗ các hữu tình
Trừ hoặc không sợ hãi
Thoát bốn dòng thác mạnh
Được đến chỗ an ổn.
Tuệ thậm thâm vi diệu
Tận nguồn của thế gian
Biết chúng sinh muốn gì
Bám chặt tướng điên đảo.
Thường đem tâm đại Bi
Khai thị khiến giác ngộ
Phá trí tà vọng ấy
Đủ tri kiến chân thật.
Thông đạt tất cả pháp
Không dơ không đắm trước
Như sóng nắng huyễn hóa
Như bóng trăng in nước.
Mâu-ni bậc tối thắng
Xem chúng sinh như con
Đều khiến tu chánh hạnh
Không trước vào ba đời.
Như Lai hiện thế gian
Rõ pháp đều giả dối
Tự tánh không sở đắc
Tha tánh đều trống rỗng.
Như người ngu thế gian
Trong mộng thọ dục lạc
Rốt ráo không thể được
Nên suy nghĩ đúng lý.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là La-hầu, phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, tất cả sự cúng dường không khác gì Đại lực A-tula vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi lại đem hoa Tức-đátla-bát-tra-la vi diệu tối thượng rải lên Đức Phật, chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Nguy nguy Vô Thượng Sĩ
Thân quang sáng rạng ngời
Chư Thiên và người đời
Không có ai như Phật.
Cũng như đem hạt cải
Để so núi Di-lô
Như nước đọng chân bò
So với nước bể lớn.
Như Lai diệu sắc tướng
Thế gian không ai bằng
Mỗi mỗi tướng đoan nghiêm
Nhìn mãi tâm không chán.
Diệu tướng khó nghĩ bàn
Vượt hơn tất cả sắc
Như nhật chiếu thế gian
Che khuất ánh sáng khác.
Oai Đức Phật sáng ngời
Che khuất các Thiên chúng
Như nguyệt giữa hư không
Các sao đều mờ mịt.
Tuệ sâu như biển cả
Thân tướng như núi vàng
Thân Phật trí sáng suốt
Ba cõi không ai bằng.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Tịnh Giới, phát tâm thanh tịnh, cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì La-hầu Atu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lại dùng hoa Ma-ha tứcđát-la-bát-tra-la rải lên Đức Phật, chắp tay dùng kệ khen rằng:

Mâu-ni thắng trí sáng ngời ngời
Phá trừ tham nhuế ngu si ám
Thành tựu tối thượng Xa-ma-tha
Mưa xuống chánh pháp nhuần chúng sinh.
Như Lai kim cang ngồi đạo tràng
Trí sáng rực rỡ chiếu ba cõi
Thiêu sạch củi phiền não chúng sinh
Đốt rụi tất cả thành tro tàn.
Vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp
Tích tập giữ gìn diệu pháp tạng
Thí khắp quần mê đang nhiệt não
Nghe rồi đều như uống cam lồ.
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Chỉ Chánh pháp nhãn cho chúng sinh
Vô minh sinh tử trong nhiều kiếp
Trí tuệ ma-ni chiếu rõ ràng.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Hỷ Đấu Chiến, phát tâm thanh tịnh, cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Tịnh Giới A-tu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lại đem hoa Báttra-la rải lên Đức Phật chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Quy y Thánh chúa Thích Sư Tử
Ở trong các pháp được vô úy
Cũng như dũng tướng mặc giáp trụ
Hàng phục quân giặc không khiếp nhược.
Năng Nhân các căn thường tịch tĩnh
Không bị phiền não làm động loạn
Diệt sạch ba độc tất cả nhơ
Các tập khí khác không khởi lại.
Như Lai sáu lần quán chúng sinh
Không thương, không ghét, không phân biệt
An trụ Vô duyên từ rộng lớn
Đối cảnh oán thân đều bình đẳng.
Phật biết các tưởng của chúng sinh
Mỗi mỗi khai thị trừ các vọng
Đều khiến khéo trụ chánh tư duy
Rõ tâm như huyễn không đắm trước.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Diệu Nhãn, phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Hỷ Đấu Chiến A-tu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lại đem hoa Ma-ha bát-tra-la rải lên Đức Thế Tôn chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Thế Tôn oai đức lớn
Rõ thật tướng các pháp
Tất cả các pháp ấy
Từ nhân duyên nên có.
Không pháp, không phi pháp
Tìm cầu không thể được
Nếu có pháp để nói
Thì đó chỉ giả danh.
Các thứ tướng như vậy
Xưa nay thường vắng lặng
Không danh cũng không tướng
Mâu-ni đã từng nói.
Tuy nói mà không nói
Phần nhỏ không thể được
Người nói cũng là không
Người nghe cũng như vậy.
Khéo đạt nghĩa như thế
Không đắm trước mọi pháp
Hay thực hành đại hạnh
Đây là chân Phật tử.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Việt Tam Giới, phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Diệu Nhãn A-tu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, lại dùng chân châu anh lạc dâng cúng Như Lai, chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Như Lai đầy đủ các công đức
Tịnh giới oai nghi đều viên mãn
Trí sáng phục trừ bốn ma quân
Ba cõi không ai sánh bằng Phật.
Định lực Như Lai không thể động
Người trí kém cỏi không lường được
Đi đứng nằm ngồi định tương ưng
Hiện các thần thông làm lợi lạc.
Thắng tuệ Như Lai không ai bằng
Rống tiếng Sư tử giữa đại chúng
Khéo nói diệu pháp trừ nghi hoặc
Nhiếp hóa tất cả các ngoại đạo.
Thân sắc Như Lai hơn ba cõi
Trang nghiêm bằng các tướng tốt
Ánh sáng rực rỡ như núi vàng
Rộng tu bố thí được như thế.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Phổ Diệu, phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Việt Tam Giới A-tu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng các trân báu vi diệu rải lên Đức Như Lai, chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Chúng con xả bỏ năm dục lạc
Lại đến chỗ Phật dâng cúng dường
Đều thấy Như Lai đứng trước mặt
Đức bất cộng này khó nghĩ bàn.
Một âm diễn nói pháp bất cộng
Hoặc thích nói rộng hoặc nói lược
Đều tùy ý muốn mà hiểu rõ
Đức bất cộng này khó nghĩ bàn.
Một âm diễn nói pháp thanh tịnh
Tùy theo từng loại mà hiểu rõ
Như Lai thiện xảo hợp căn cơ
Đức bất cộng này khó nghĩ bàn.
Một âm diễn nói pháp thanh tịnh
Hoặc khiến tu tập hoặc điều phục
Hoặc có người chứng được quả lợi
Đức bất cộng này khó nghĩ bàn.

Khi ấy, trong hội lại có A-tu-la vương tên là Mục-chân-lân-đà, phát tâm thanh tịnh cúng dường rộng lớn, các món cúng dường không khác gì Phổ Diệu A-tu-la vương. Cúng dường rồi, đi xe bảy báu nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng chân châu đỏ rải lên Đức Phật, chắp tay hướng đến Phật dùng kệ khen rằng:

Như Lai khéo giáo hóa phụ vương
Xả trừ kiêu mạn và tà kiến
Phát lòng tin thanh tịnh kiên cố
Đây là người tối thượng vô song.
Pháp không tự tánh do duyên sinh
Như mộng thọ vui không phải thật
Nên biết vui ấy tùy tưởng khởi
Đó là rõ được tánh các pháp.
Ví như trời thu nổi mây bay
Vọng tình chấp có không vững chắc
Ở trong giáo pháp của Mâu-ni
Người trí không nên tăng ngã mạn.
Tâm khéo quán sát không buông lung
Nhất định không trước vào thế gian
Đó là an trụ trong pháp Phật
Sẽ chứng Như huyễn Tam-ma-địa.

Cúng dường xong, các A-tu-la vương đều chắp tay đứng trước Đức Phật, thân ý thư thái, vui được thiện lợi, đều phát tâm Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc đó, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các A-tu-la vương, nên ở trong đại chúng hiện tướng vi tiếu, tức thời từ nơi mặt phóng ra năm tia sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp thế giới Phật, rồi lại nhiễu Đức Phật ba vòng xong nhập vào đảnh Phật. Thấy tướng này rồi, Tỳ-kheo Mã Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai phải, gối phải quỳ sát đất đảnh lễ thưa:

– Thưa Thế Tôn! Vì lý do gì Thế Tôn hiện điềm tốt này?

Rồi lại chắp tay hướng lên Phật dùng kệ thưa:

Nhân Trung tối thắng Thích Sư tử
Hiện điềm tốt này có duyên gì
Cúi xin đại Bi vì con nói
Nghe rồi khiến tâm được thư thái.
Sáu mươi na-do A-tu-la
Tịnh tâm rộng lớn khởi cúng dường
Rồi đây Như Lai sẽ thọ ký
Khiến chúng nghe rồi sinh hoan hỷ.
Khi ấy cả hội đều suy nghĩ
Phóng ánh sáng này duyên không nhỏ
Cúi xin Như Lai thương chúng con
Mà nói lý do hiện tướng này.
Hoặc có người phát tâm Bồ-đề
Hoặc có người mới sinh tịnh tín
Tất cả Như Lai đều biết rõ
Giải quyết các nghi mau nên nói.

Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Hay thay, Mã Thắng đại Tỳ-kheo
Khéo hỏi Như Lai phóng quang này
Nay ta ở trong chúng hội này
Ký biệt tối thượng quả chân thật.
Các A-tu-la hưng phước nghiệp
Chí cầu Vô thượng đại Bồ-đề
Tham nhuế chướng nhiễm đều trừ sạch
Như tay sờ không, không chướng ngại.
Do đó phát sinh ý thanh tịnh
Rộng phát vô biên diệu cúng dường
Đời sau xả trừ thân Tu-la
Sinh chỗ tối thắng tuệ sáng suốt.
Vị lai quá hằng hà sa kiếp
Thân cận thừa sự các Như Lai
Thân sau được làm Pháp Trung Vương
Kế nhau thành Phật đồng danh hiệu,
Đều xưng Tối Thượng Đăng Như Lai
Danh tiếng vang khắp mười phương giới
Giáo hóa sáu mươi trăm vạn ức
Chúng sinh nghe pháp đều được độ.
Quốc độ rộng lớn thật nghiêm tịnh
Giáp tận tam thiên đại thiên giới
Trong đó chúng sinh được thọ hóa
Đầy đủ phước đức và trí tuệ.
Không tạo tất cả nghiệp phi pháp
Đều tu bình đẳng hạnh an lạc
Phật ấy đều nói pháp không tranh
Người nghe không trước cũng không ngại.
Phật thọ sáu mươi vạn ức kiếp
Thọ mạng chúng sinh cũng như vậy
Các Như Lai ấy hóa duyên xong
Cơ bản cùng nhau vào Niết-bàn.
Thứ lớp thiệu long được thành Phật
Quốc độ, thọ lượng đều như nhau
Hóa độ hữu tình cũng như trên
Thọ trì chánh pháp làm con Phật.

QUYỂN 4

PHẨM 5: BẢN HẠNH CỦA NHƯ LAI

Khi ấy, Tôn giả đại Ca-diếp-ba thấy các A-tula vương ở trong hội Phật, dùng sức thần thông hóa các món cúng dường rộng lớn rồi khen ngợi chưa từng có. Lại suy nghĩ: “Thuở xưa, khi Như Lai hành đạo Bồ-tát trồng những căn lành gì mà nay được quả báo thù thắng tối thượng như vậy”.

Suy nghĩ vậy rồi liền nhập Tam-ma-địa nhất tâm quán sát. Nhờ sự gia trì của Phật nên liền nhớ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, Đức Thế Tôn dù ở nơi nào cũng siêng năng tu tập vô lượng vô biên phước nghiệp rộng lớn, nhất nhất hiển hiện rõ ràng chắc chắn, không còn nghi ngờ. Giả sử mười phương hằng hà sa số thế giới có tất cả chúng sinh đều được thân người. Lại ở trong hằng hà sa kiếp ấy, mỗi mỗi hữu tình đều phát khởi cúng dường như Vĩ-ma-tức-đát-la A-tu-la vương, nhưng phước đó không bằng công đức của Như Lai chỉ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, không thể so sánh.

Lúc đó, Tôn giả Ca-diếp-ba xả định, hoan hỷ chắp tay dùng kệ khen Phật:

Thuở xưa Mâu-ni Đại Thánh Vương
Thệ cầu Vô thượng đại Bồ-đề
Tu la cúng dường tuy rộng lớn
Nhưng không bằng phước phát đại tâm.
Như Lai Thánh đức vượt ba cõi
Ở trong trời người không ai bằng
Chứa hương chiên-đàn như Tu-di
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Hương xoa thượng diệu rất thanh tịnh
Lượng ấy to lớn như biển cả
Nhân Trung Sư Tử hiện thế gian
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Hoặc rải các hoa thơm tuyệt đẹp
Chứa nhóm cao như đảnh luân vi
Thánh đức Như Lai khó nghĩ bàn
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Đem nước biển cả làm dầu thắp
Lượng nước Tô-di để làm tim
Đốt lên phụng cúng Đại Đạo Sư
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Hoặc đem vô số vòng hoa đẹp
Dâng cúng Như Lai và tháp miếu
Oai đức Thế Tôn thật to lớn
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Giá như vô lượng vạn ức kiếp
Đem vạn ức bảo cái tuyệt đẹp
Như Lai khéo giáo hóa phụ vương
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Trong vạn ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Dùng tràng báu khắp mười phương giới
Như Lai thành tựu đại Từ môn
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Lại trong vô lượng vạn ức kiếp
Dùng hà sa số phan lụa đẹp
Mâu-ni lợi lạc các chúng sinh
Kham nhận cúng dường lớn như thế.
Như Lai khéo nói các pháp yếu
Tất cả chúng sinh đều lắng nghe
Pháp Trung Vương biện tài vô ngại
Ngôn từ khéo léo không trùng lập.
Giả sử hằng hà sa thế giới
Chúng sinh ở trong thế giới ấy
Đều vì mười lực Thiên Nhân Sư
Đồng hiện thế gian thành Phật đạo.
Vô số hà sa Phật như vậy
Mỗi mỗi hóa ra vô lượng đầu
Mỗi mỗi đầu hiện trăm ngàn miệng
Miệng ấy lại có trăm ngàn lưỡi.
Ở trong hằng hà sa kiếp ấy
Khen biển công đức của Như Lai
Thọ lượng trí tuệ và phát tâm
Không thể hiểu biết một phần nhỏ.

Lúc đó, Đức Thế Tôn khen Tôn giả Ma-ha Cadiếp-ba:

– Hay thay, hay thay! Này Ca-diếp-ba! Nay ông ở trong chúng Thanh văn tu hành phạm hạnh, thông đạt các pháp, hiện chứng thật tế, tâm được tịch tĩnh, đối với công đức uẩn sở chứng của ta khéo hiểu rõ, suy nghĩ quán sát. Ta đã thành tựu vô lượng vô biên phước đức chẳng thể nghĩ bàn, đã đến bờ giác ngộ tối thượng đệ nhất.

Này Ca-diếp! Như Lai chỉ phát một đại tâm mà được phước báo như thế, dù có sắc tướng trong mười phương hằng hà sa thế giới cũng không dung thọ nổi. Giả sử mười phương hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn đồng ra đời, trải qua hằng hà sa số kiếp để nói công đức có được của Như Lai phát một đại tâm cũng không thể hết được. Vì sao? Vì thuở xưa, khi Như Lai tu hạnh Bồ-tát, không một phát tâm nào mà không vì nhiếp thọ, lợi ích an lạc tất cả hữu tình. Nhưng hữu tình giới thì không có hạn lượng, Như Lai phát tâm cũng không có hạn lượng. Vì hữu tình giới rốt ráo vô tận, nên Như Lai phát tâm cũng vô tận. Thế nên, ta nay được các hàng Trời, Người, A-tu-la, cúng dường như vậy. Giả sử tất cả chúng sinh trong mười phương hằng hà sa thế giới đều phát tâm cúng dường như A-tula vương kia, nhưng cũng không bằng công đức phát một đại tâm. Vì sao? Vì các hữu tình kia tâm không thanh tịnh, đắm trước quả báo. Ca-diếp nên biết! Quá khứ chư Phật xuất thế, mới phát đại tâm đều vì thương xót tất cả hữu tình khiến thoát luân hồi được vui Niết-bàn. Nay việc ta làm cũng lại như vậy.

Lại nữa, này Ca-diếp-ba! Ta nhớ quá khứ vô lượng vô biên không thể kể hết, a-tăng-kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn. Khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Đế Tràng Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Chúng sinh trong cõi Phật ấy không tạo tội ác, tâm không tán loạn, không khởi suy nghĩ tà vạy, không có tri kiến điên đảo và kiêu mạn, ba nghiệp thân, ngữ, ý hoàn toàn thanh tịnh phục trừ phiền não, lìa nhân ác thú, siêng năng tu tập, sách tấn lẫn nhau, hay ở trong nhiều kiếp sinh tử phát tâm dũng mãnh, hâm mộ Đại thừa, lắng nghe chánh pháp, như thuyết tu hành. Trong cõi Phật ấy có năm thứ vui:

1. Muốn vui.

2. Xuất ly vui.

3. Định vui.

4. Đẳng trì vui.

5. Bồ-đề vui.

Các chúng sinh ấy thường thọ vui như vậy. Tuy có thọ vui, nhưng không đắm trước. Như ong hút mật hoa chỉ để kéo dài mạng sống; như chim bay trên hư không không bị chướng ngại. Các chúng sinh này cũng lại như vậy. Lại nữa, các hữu tình này không có tham lam sân nhuế, ngu si và các nghiệp phiền não lỗi lầm, tùy theo thiện nghiệp đời trước mà thọ vui. Vì sao? Vì Đức Phật ấy khi tu hạnh Bồ-tát, giáo hóa chúng sinh chỉ thuần với thiện hạnh. Giá như đời trước có nghiệp bất thiện, thì sức thiện căn hiện tại tiêu diệt không cho khởi lại. Thế nên, tất cả hữu tình ở cõi ấy chỉ có thọ vui, tương ưng hiện hành.

Lại nữa, cõi Phật ấy không có các nạn bạo ác, mưa, gió, lạnh rét, nóng bức, tùy thời mong muốn liền mưa nước ngọt. Lại các chúng sinh ấy thường thích nghe pháp, đều có khả năng thông đạt các pháp, tôn trọng cung kính, hoặc kinh hành, hoặc ngồi, hoặc đứng, suy nghĩ nghĩa thú pháp vị thậm thâm, không biết mệt mỏi, chưa từng ngủ nghỉ, trong bốn oai nghi siêng năng tu tập. Do pháp lạc này, nên không sinh lao khổ, chỉ tu chánh đoạn không có tri kiến điên đảo, nếu như có sai lầm thì liền cải đổi ngay, cho nên không có khổ thọ. Thuở xưa, Đức Như Lai kia tu hành thân, ngữ, ý nghiệp chưa từng sai lầm, hễ có làm việc gì đều có người trí hướng dẫn, nói pháp Bồ-tát giáo hóa chúng sinh. Người nghe pháp rồi tùy theo trí tuệ mà thực hành, làm các việc nghĩa lợi, không phải vì si ái cho nên không có khổ, không có thọ vui. Chúng sinh trong cõi ấy tâm đều bình đẳng, dù bất cứ nơi nào cũng như lý an trụ, cho nên không có khổ oán ghét gặp nhau. Lại các chúng sinh ấy không có kia đây, đối với tất cả pháp không bị đắm trước, cho nên không có khổ thương yêu chia lìa. Lại các chúng sinh ấy đối với các thiện pháp không sinh khinh mạn, cũng không hủy báng, cho nên không có khổ cầu không được. Chúng sinh ở cõi ấy bị hữu vi dời đổi nên có hành khổ. Vì sao? Vì Đức Phật kia nói pháp Đệ nhất nghĩa đế vi diệu.

Lại nữa, này Ca-diếp! Đức Đế Tràng Như Lai xuất hiện thế gian, thọ mạng lâu dài vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp. Chúng sinh trong thế giới ấy đầy đủ biện tài, khéo nói pháp yếu. Các chúng sinh này đều là do chư Phật Thế Tôn quá khứ giáo hóa thành thục, đời vị lai sẽ sinh vào cõi ấy.

Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn như vậy, có các hữu tình nào mà không có lòng tin, không có giới, không có định, không có tuệ, ít nghe biếng nhác mà được sinh vào cõi ấy không?

Ca-diếp-bạch Phật:

– Không thể được, thưa Thế Tôn.

Đức Phật bảo:

– Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn như vậy, lại có chúng sinh thiện căn nhỏ nhoi, thiện căn kém cỏi, thiện căn yếu đuối, nghiệp tập phiền não, bị khổ nhiếp thuộc. Đem bất tịnh như vậy mà hồi hướng thì có thể sinh vào cõi ấy không?

Ca-diếp-bạch Phật:

– Không thể được, thưa Thế Tôn! Chúng sinh muốn sinh vào cõi Phật ấy thì phải đầy đủ thiện căn thuần tịnh không tạp, suy nghĩ chân chánh, giải thoát các khổ, đa văn tinh tấn, hồi hướng thanh tịnh, đều được Phật trước hóa độ. Chúng sinh như vậy mới được sinh vào cõi ấy.

Đức Phật khen Ca-diếp:

– Hay thay, hay thay! Như lời ông nói, việc ấy đúng như vậy, ý ông nghĩ sao? Ông có biết Như Lai Đế Tràng thuở xưa nay là ai không? Lúc đó, các Tỳ-kheo đều im lặng không ai trả lời. Đồng thời ở phương Đông cách thế giới này quá hằng hà sa thế giới có nước tên là Nguyệt Quang trang nghiêm, có Phật hiệu là Quang Minh Tụ hiện đang nói pháp. Trong hội Phật ấy có đồng tử Diệu Cát Tường, từ xa nghe thế giới này thưa hỏi nhân duyên, biết các đại chúng không ai có thể đáp. Đồng tử Diệu Cát Tường bạch Phật Quang Minh Tụ:

– Bạch Thế Tôn! Con nay sẽ qua thế giới Tabà, chỗ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, vì chúng hội mà giải đáp câu hỏi của Đức Thích-ca Mâu-ni.

Lúc đó, Quang Minh Tụ Như Lai bảo đồng tử:

– Tùy ý ngươi nên đi.

Ngay khi ấy, đồng tử liền rời khỏi thế giới đó, dùng sức thần thông chỉ trong khoảng co duỗi cánh tay đã đến thế giới Ta-bà chỗ Phật Thích-ca Mâuni. Đến rồi, đảnh lễ sát chân và đứng qua một bên.

Lúc đó, Đức Phật Thế Tôn hỏi đồng tử:

– Vì lý do gì mà ông đến đây?

Đồng tử Diệu Cát Tường chắp tay bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con vì chúng hội trả lời câu hỏi của Thế Tôn, cho nên mới từ xa đến đây. Bạch Thế Tôn! Đức Đế Tràng Như Lai thuở đó đâu phải người nào lạ, nay chính là Thế Tôn Thích-ca Mâuni Như Lai. Vì sao? Vì Phật Thế Tôn thành tựu đầy đủ công đức vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, phương tiện khéo léo, thương xót hữu tình, đều khiến an trụ trong đạo Bồ-đề.

Nghe như vậy cả chúng hội đều khen:

– Hay thay! Đồng tử khéo trả lời câu hỏi này giải quyết các lưới nghi, nay lời ông vừa nói mới là đúng, là lời chân thật, là lời tối thượng.

Lúc đó, đồng tử vì chúng hội nói kệ rằng:

Thánh chúa Thích Sư tử
Đủ dũng mãnh tinh tấn
Thương xót khắp thế gian
Hiện việc chẳng nghĩ bàn
Đức Mâu-ni Thế Tôn
Quá khứ đã từng làm
Tám mươi ức Đức Phật
Thành tựu các hữu tình.
Thường dùng tâm đại Bi
Nghiêm tịnh quốc độ Phật
Ngu muội không thể biết
Đủ mọi phương tiện hay.
Không bỏ tâm mới phát
Tùy cơ mà ứng hiện
Cũng ở đời vị lai
Lại hiện vô lượng thân.
Hoặc hiện làm Thích, Phạm
Hoặc hiện làm Ma vương
Hữu tình khắp pháp giới
Phần nhỏ cũng không biết.
Hoặc hiện sinh vương cung
Thành đạo chuyển pháp luân
Cho đến nhập Niết-bàn
Hiển hiện công đức Phật.
Hoặc tùy theo chủng loại
Hiện làm tướng người nữ
Không nhiễm pháp thế gian
Như sen tánh vốn sạch.
Hoặc buồn rầu khóc lóc
Hoặc ca múa giỡn cười
Hoặc đi trên hư không
Đều vì làm Phật sự.
Người sợ khiến an ổn
Kiêu mạn khiến nhu thuận
Vì lợi ích chúng sinh
Hiện các thứ điều phục.
Người si khiến lìa si
Người ngu được trí sáng
Vì lợi ích chúng sinh
Bày phương tiện khéo léo.
Người cuồng được chánh niệm
Người què đi an ổn
Vì lợi ích chúng sinh
Hiện các việc thần biến.
Thế nên con đảnh lễ
Tinh tấn không nghĩ bàn
Hóa độ các hữu tình
Đều khiến vào Phật đạo.

PHẨM 6: THỌ KÝ CA-LÂU-LA VƯƠNG

Khi ấy, trong hội có sáu vạn tám ngàn Ca-lâu la vương thấy các A-tu-la vương cúng dường rồi, lại nghe Như Lai thọ ký cho các A-tu-la, phát tâm tùy hỷ cúng dường rộng lớn, liền dùng sức thần thông hóa thành sáu vạn tám ngàn lầu gác thù thắng vi diệu. Tất cả lầu gác ấy đều làm bằng bảy báu như kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, pha lê, đều có bảy tầng. Tầng thứ nhất, vàng ròng làm trụ, bạc làm kèo, cột, trính, xà ngang được trang trí bằng các thứ báu. Tầng thứ hai, bạc làm trụ, vàng ròng làm kèo cột, trính, xà ngang trang nghiêm bằng các ngọc trân. Cho đến tầng thứ bảy san hô làm trụ, chân châu... các báu trang trí xen kẽ nhau. Lầu gác như vậy mỗi mỗi đều có lưới báu phủ lên trên, hoặc vàng ròng làm lưới, hoặc bạc làm lưới, cho đến chân châu làm lưới. Lại treo vô số các linh báu vi diệu, gió thổi nhè nhẹ khua phát ra tiếng, làm cho người nghe đều ham thích. Lại hiện sáu vạn tám ngàn bảo cái, các ngọc trân được kết xen nhau ánh sáng chiếu rực rỡ. Lại hiện sáu vạn tám ngàn tràng báu, trang trí trân châu các màu sắc xen nhau. Lại hiện sáu vạn tám ngàn phan lụa, năm sắc đang chéo nhau trông rất thích. Lại hiện sáu vạn tám ngàn màn báu, hoặc làm bằng chỉ vàng ròng, hoặc bằng chỉ bạc, chỉ lưu ly, chỉ chân châu... trang nghiêm khéo léo.

Lúc đó, Ca-lâu-la vương đem sáu vạn tám ngàn lầu gác bảy báu, các màn lưới báu, tràng phan báu đã hiện ở trên dâng cúng Như Lai, bày ra thứ lớp trên hư không quay tròn từ từ nhiễu Đức Phật ba vòng. Như Tam thập tam thiên, Ái-la-phược-noa, Đại Long tượng vương nhiễu Thiên đế rồi đứng qua một bên.

Lúc đó, Ca-lâu-la vương chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Đảnh lễ quy y Vô Thượng Sĩ
Tất cả thế gian không ai bằng
Thoát khỏi nhân sinh, già, bệnh, chết
Giải thoát luân hồi các khổ ách.
Con nguyện mau thành tựu thân Phật
Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt
Tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân
Như Na-la-diên sức kiên cố.
Con nguyện như Phật sắc vàng ròng
Trượng sáu rạng ngời thường chiếu sáng
Đi đứng nằm ngồi trong oai nghi
Nhiếp hóa hữu tình khiến xuất ly.
Con nguyện kiên trì các cấm giới
Trụ Tam-ma-địa thật tối thượng
Dùng trí phương tiện lợi quần sinh
Đều khiến được thành đạo Bồ-đề.
Con nguyện thân này vĩnh viễn đoạn
Vì người chế ngự tâm sân nhuế
Như Phật đầy đủ đại Từ bi
Đạt được mười tám pháp Bất cộng.
Rõ biết các pháp từ duyên khởi
Như huyễn như mộng như tiếng vang
Đều đồng Mâu-ni Đại Đạo Sư
Ở trong trời người rộng khai thị.

Lúc đó, Đức Thế Tôn biết Ca-lâu-la vương tâm thông đạt sâu xa, ý chí tinh tấn kiên cố, liền hiện tướng vi tiếu phóng ra năm tia sáng. Thấy việc ấy, Tỳ-kheo Mã Thắng đảnh lễ Đức Thế Tôn, chắp tay cung kính dùng kệ thưa hỏi:

Quy y Vô Thượng Thiên Nhân Sư
Hiện việc hy hữu khó nghĩ bàn
Phóng ánh sáng này vì nhân gì
Thương xót chúng sinh mà diễn nói.
Ca-lâu-la vương khởi cúng dường
Màn báu che phủ trên hư không
Thế gian xưa chưa từng nghe thấy
Xin Đấng Lưỡng Túc nói nghĩa này.
Nay các trời người trong chúng hội
Chắp tay vui vẻ trong hy vọng
Nguyện nghe việc Ca-lâu-la vương
Diễn nói vị lai quả giải thoát.
Phật là Bậc tối thượng trời người
Đáp ứng những gì chúng sinh muốn
Cúi xin Như Lai vì chúng nói
Khiến cho đại chúng trừ nghi sợ.
Khi chúng đã được lìa nghi sợ
Thì sẽ phát tâm sinh hoan hỷ
Nếu nghe lời Như Lai thọ ký
Xin phụng hành trọn lời Phật dạy.
Cúi xin đại Bi thương hộ niệm
Trừ nghi, tăng trưởng các căn lành
Tất cả chắp tay nguyện muốn nghe
Ca-lâu-la vương được Phật đạo.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng khéo thưa hỏi
Vì sao phóng quang hiện vi tiếu
Nay ta sẽ nói nên lắng nghe
Khiến ông trừ nghi sinh vui vẻ.
Ca-lâu-la chúng khởi phước hạnh
Thệ cầu Vô thượng đại Bồ-đề
Sẽ thành Vô úy, mười Lực tôn
Được thắng báo này xưng là Phật.
Do tâm cúng dường thanh tịnh ấy
Nhất định trang nghiêm bằng tướng đẹp
Mười tám pháp Bất cộng khó bàn
Thoát Na-la-diên được thừa ngự.
Do vậy nên kiên trì tịnh giới
An trụ Tam-ma-địa thanh tịnh
Tu tập thắng tuệ sáu thần thông
Nghiêm tịnh tất cả các cõi Phật.
Với tâm thanh tịnh cúng dường ta
Thân sau thoát khỏi báo bàng sinh
Vĩnh viễn không còn sinh ác thú
Thường thọ phước vui của trời người.
Quá hơn hằng hà sa số kiếp
Cúng dường thừa sự các Như Lai
Khéo hay điều phục các căn môn
Rồi sau sẽ đều được thành Phật
Đều xưng Di Lô Tràng Như Lai
Mười hiệu đầy đủ cõi nghiêm tịnh
Kiếp ấy gọi là Tự Nhiên sinh
Cõi ấy không có ba đường ác
Chúng sinh ở trong cõi nước đó
Dung nghi đặc biệt không khiếm khuyết
Thọ mạng của Phật rất lâu dài
Tám vạn bốn ngàn ức triệu năm
Như vậy lần lượt được thành Phật
Quốc độ thọ mạng đồng như nhau
Mỗi mỗi hóa độ các chúng sinh
Đến tám mươi vạn ức triệu số
Đều khiến trừ hết tập khí kiêu mạn
Dứt sạch triền cái được mát mẻ
An trụ vô sinh môn giải thoát
Xa lìa trần cấu tâm thanh tịnh,
Vì đã từng được thân sắc vàng
Dựa vào thế lực sinh kiêu mạn
Chúng ở quá khứ vô số kiếp
Từng làm Đại tiên nhân khổ hạnh
Số ấy tám vạn lẻ tám ngàn
Thường ưa tu tập phép thần thông
Chư Tiên nhân ấy được thông rồi
Chính mình tự tại đời hiếm có
Tuy trì cấm giới đủ oai nghi
An trụ rừng núi sinh ngã mạn
Do vậy đọa vào loài Kim sí
Duyên thần thông xưa có đại lực
Nhờ trì tịnh giới nên thấy thân ta
Quên mất Bồ-đề nhân ngã mạn.
Ta nay thọ ký sẽ thành Phật
Lược nói nhân trước khiến hiểu rõ
Vì lợi lạc hết các chúng sinh
Người nghe thảy đều sinh hoan hỷ.

QUYỂN 5

PHẨM 7: THỌ KÝ LONG NỮ

Khi ấy, trong hội có chín mươi sáu ức Long nữ thấy A-tu-la vương, Ca-lâu-la vương ở chỗ Thế Tôn cúng dường rồi lại nghe Như Lai thọ ký cho họ thành Phật, tâm rất hoan hỷ, phấn khởi vô cùng, phát tâm thanh tịnh, cúng dường rộng lớn.

Các Long nữ này dùng sức thần thông hóa ra chín mươi sáu ức tàn lọng màu xanh, cốt của mỗi tàn lọng đều làm bằng ngàn cọng sườn phệ-lưu-ly báu khéo léo tinh xảo, cáng làm bằng vàng ròng, trân châu làm lưới, rũ các vòng hoa, trang trí bằng các ngọc trân. Lại hóa ra chín mươi sáu ức ngựa tốt tối thượng, cũng dùng các loại để trang sức, phệ-lưu-ly báu làm dàm ngựa. Lại biến hiện các màn lưới báu rộng lớn đến sáu mươi do-tuần che khắp tất cả các đại chúng. Dưới màn báu lại hiện một Ma-ni bảo châu thù thắng vi diệu, ánh sáng hiển hiện chiếu sáng khắp nơi. Lại hiện chín mươi sáu ức các vòng hoa báu khéo léo tuyệt vời, rủ xuống giáp vòng. Lại treo vô số linh báu, gió thổi nhè nhẹ khẽ động phát ra tiếng hòa nhã. Cũng như nhạc trời người nghe không chán. Lại dùng bột mịn hương Đa-ma-la bạc chiên-đàn, hương Trần thủy... rải lên Đức Như Lai. Lại rải hoa Ưu-bát-la, hoa Chiêm-bát-ca và tung ra vô số y phục vi diệu tối thượng, vô lượng anh lạc đủ loại màu sắc, vô lượng vòng hoa màu sắc sặc sỡ.

Các Long nữ này đều cỡi ngựa, bung tàn lọng ở trong hư không, nhiễu Đức Phật ba vòng. Lại tấu lên các loại âm nhạc ở long cung, tiếng kêu thanh tao uyển chuyển, cả chúng đều thích nghe. Rải hương xoa và các nước hương xuống thành Ca-tỳla như mưa, hòa hợp với các hương hoa thành bùn rộng đến sáu mươi do-tuần. Nhờ oai đức gia trì của Như Lai nên khiến tiếng nhạc và nước hương bay khắp tam thiên đại thiên thế giới. Các chúng sinh trong các thế giới ấy nghe tiếng nhạc và hương thơm đều không còn thoái chuyển với Chánh đẳng Chánh giác.

Các Long nữ cúng dường rồi, đảnh lễ cung kính, chắp tay hướng Phật dùng kệ khen rằng:

Chúng con vui mừng xưa gặp Phật
Tịnh tâm phấn khởi hưng phước nghiệp
Cúng dường Mâu-ni Đại Đạo Sư
Mong thoát được thân Long nữ này.
Hóa hiện ra chín mươi sáu ức
Các tàn cái báu trang nghiêm đẹp
Cúng dường Vô Thượng Điều Ngự Sư
Đem nhân lành này cầu xuất ly.
Lại hóa ra chín mươi sáu ức
Ngựa long xanh biếc được điều thuận
Trang nghiêm bằng báu xanh vi diệu
Đều vì cúng dường Đức Như Lai.
Lại hóa ra chín mươi sáu ức
Tràng báu màu xanh quay trên không
Mỗi mỗi đều đem thân ngữ ý
Cúi đầu đảnh lễ xin hồi hướng.
Đem âm nhạc hay ở long cung
Đồng thời tấu lên tiếng trong suốt
Mâu-ni xuất hiện ở thế gian
Kham nhận cúng dường lớn như vậy.
Đủ loại âm nhạc tiếng phát ra
Vang khắp tam thiên đại thiên giới
Chúng sinh trong đó nếu được nghe
Đều được Bồ-đề không thoái chuyển
Lại hiện một màn báu to lớn
Ngàng dọc rộng sáu mươi do-tuần
Che khắp giáp vòng trên hư không
Che cả đại chúng đến tập hội,
Giữa hiện châu Ma-ni tối thượng
Ánh sáng rực rỡ chiếu mọi nơi
Tất cả trời người trong đại hội
Tịnh tâm vui thích vì cúng dường.
Chúng con đem thiện căn nhỏ này
Chí cầu quả Bồ-đề tối thượng
Cũng như Mâu-ni Đại Đạo Sư
Thành tựu tuệ thậm thâm vi diệu
Giáo hóa nhiêu ích các chúng sinh
Giải thoát trần lao các trói buộc
Cũng như mười lực Vô Thượng Tôn
Diễn nói pháp vô biên thanh tịnh.
Các pháp hữu vi như huyễn hóa
Cũng như bọt tụ không chắc gì
Như trời mưa xuống nổi bong bóng
Tự tánh hư dối không chủ tể,
Người trí quán các pháp thế gian
Ví như bóng hiện ở trong gương
Thể tánh chúng sinh cũng như vậy
Chỉ Phật hiện chứng nói như thật.
Người ngu không rõ cho là thật
Đối cảnh hư vọng sinh chấp trước
Các pháp xưa nay rốt ráo không
Người ngu si này tự khi dối
Do đó mê vọng không biết gì
Không rõ các pháp tánh chân thật
Do vậy Như Lai hiện thế gian
Chỉ rõ vô ngã không thể được.
Ví như trời thu nổi mây bay
Tạm thời hiển hiện rồi chợt mất
Nên biết ngã tướng xưa nay không
Người trí quán kỹ có từ đâu,
Như vậy tất cả pháp thế gian
Tự tánh đều không chẳng chân thật
Chỉ hay lừa dối các căn môn
Người ngu do đó thêm cuồng loạn.
Như Lai vượt ra khỏi ba cõi
Rõ tánh các pháp không phân biệt
Nên phụng hành lời dạy Như Lai
Tất cả thế gian đều giải thoát.
Nếu người nghe pháp sâu xa này
Tâm sinh vui thích nghĩ đúng đắn
Thì mới vượt khỏi biển sinh tử
Đây không phải cảnh giới người ngu.
Vì thế nay con cúi đầu lạy
Bậc không phiền não Thiên Nhân Sư
Đại Bi hay cứu khổ chúng sinh
Làm thuyền làm nhà làm chỗ nương.
Chúng con cúng dường Đức Như Lai
Vì muốn cầu Bồ-đề vô thượng
Nên tuyên pháp yếu tỉnh quần mê
Nguyện hết mình người đều thành Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Long nữ muốn được thọ ký, liền hiện tướng tốt phóng ánh sáng lớn. Tôn giả Mã Thắng thấy tướng này rồi, cúi đầu đảnh lễ chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Thế xuất thế gian bậc thắng trí
Bỗng hiện thần biến phóng ánh sáng
Chúng hội thấy vậy khen tốt đẹp
Lẽ nào không nhân hiện điềm này?
Nhân Trung tối thượng Mâu-ni chúa
Xin nói nguyên do phóng quang này
Các trời, người dân, rồng, quỷ, thần
Nghe rồi đều sinh niệm hoan hỷ.
Như Lai oai đức Thánh Trung Thánh
Hiểu rõ mọi pháp ở thế gian
Thương xót nhiếp thọ các chúng sinh
Nói việc thần biến phóng quang này.
Tuệ lực Như Lai khó nghĩ bàn
Cùng tận các pháp nghĩa thật tướng
Chúng hội chiêm ngưỡng nguyện muốn nghe
Khiến cho biết rồi tâm an ổn.
Như Lai thành Chánh giác đã lâu
Hay vì quần sinh làm nghĩa lợi
Nhân gì phóng ánh sáng lớn này
Nguyện nói khiến được trừ nghi hoặc.
Nay đại chúng này tâm vắng lặng
Kham năng hiểu được pháp nghĩa sâu
Nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Như Lai
Nghe rồi đều phát tâm Bồ-đề.
Nếu người chưa hiểu được việc ấy
Tâm liền trạo động sinh phiền não
Do đó đều rơi vào lưới nghi
Cúi mong Hồng Từ mau khai thị.
Ai người hôm nay phát đại tâm
Phương khác Phật nào nói đại pháp
Ai được Bồ-đề phá quân ma
Phóng ánh sáng này rất hy hữu.
Người nào rộng khởi phước nghiệp tịnh
Phật vì thương xót phóng tịnh quang
Thánh chúa Sư Tử mười lực tôn
Ở trong đại chúng nói không sợ.
Chúng con nếu được Phật chỉ rõ
Lìa các nghi sợ tâm thư thái
Đều sinh tâm thanh tịnh hoan hỷ
Mỗi mỗi phụng hành lời Phật dạy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tôn giả Mã Thắng mà nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng đại Tỳ-kheo
Ông hay thưa hỏi việc phóng quang
Ta nay ở trong chúng hội này
Vì nói quả vị lai Long nữ
Các ông nên nhất tâm lắng nghe
Lìa các tán loạn nhiễm nhân duyên
Nghe ta nói nhân phóng quang này
Tăng trưởng thiện lợi cho trời người.
Các Long nữ này tâm khai mở
Hay dùng trí tuệ quán thật tướng
Hiểu rõ các pháp tánh vốn không
Không trước thế gian nghiệp quả báo
Không nhân, không ngã, không chúng sinh
Cũng không, tác giả, không thọ giả
Bổ-đặc-già-la tự tướng không
Cũng như sóng nắng, bóng trong gương.
Các Long nữ trồng đức căn bản
Cùng với phước nghiệp tịnh rộng lớn
Khéo hay an trụ trong pháp Phật
Rõ pháp thế gian đều như huyễn
Phát tâm cúng dường như vậy rồi
Thệ cầu Phật quả đại Bồ-đề
Đời sau xả trừ thân Long nữ
Được sinh lên Tam thập tam thiên
Được làm Đế Thích chúa Thiên cung
Thọ dụng tự tại không chửi bới
Thọ lượng chư Thiên danh tiếng lớn
Sau lại ở trong Diệm-ma Thiên.
Sinh vào cung Diệm-ma Thiên rồi
Thọ đủ thú vui rất thù thắng
Phật tử an trụ trong cõi ấy
Tự tại đến khi thọ mạng hết.
Sau lại sinh vào trời Đâu-suất
Đều được các Thiên chúng kính mến
Tuy thọ khoái lạc tâm không trước
Cũng như hoa sen tánh vốn sạch
Do trước tích tập trí xuất thế
Thường quán các pháp đều vắng lặng
Như khắc bia đá mãi vẫn còn
An trụ chánh niệm không di động.
Sau sinh vào Lạc biến hóa thiên
Thiên tử, Thiên nữ thường vây quanh
Không bị người chửi có danh tiếng
Khi ở cõi trời thọ mạng hết
Hưởng thọ vui năm dục tối thượng
Nhưng thường tương ưng với chánh niệm
Khéo tu ba pháp giải thoát môn
Hiểu rõ rốt ráo pháp chân không.
Lại sinh Tha hóa tự tại thiên
Được Thiên chúng ấy thường cung kính
Sống trong vui vẻ ý thanh tịnh
Gìn giữ chánh pháp tâm không động
Thọ dụng mong muốn đều tha biến
Không khởi nhiễm trước tâm si ái,
Phật tử an trụ cung Thiên ấy
Đến khi thọ mạng cõi trời hết
Đối với dục lạc sinh nhàm chán
Mong cầu định địa phục các hoặc
Đạt được các thiền giải thoát môn
Do đó được sinh lên Phạm thiên.
Nhờ định đó sinh các căn lành
Thọ dụng vui thích trong một kiếp
Trong định vui thích khó nghĩ bàn
Dần dần tiến đến đạo Bồ-đề,
Ở cung Phạm ấy trải một kiếp
Chuyên tu chánh hạnh tịnh không tạp
Phương tiện khéo léo lợi hữu tình
Không tưởng oán thân tâm bình đẳng,
Đối hỷ diệu lạc đều thông đạt
Cũng không vị trước các thiền định
Khéo hay giác ngộ tịnh các căn
Con của Mâu-ni thật tối thượng,
Phạm thiên kia nói pháp tự nhiên
Không tương ứng cùng lý nghiệp báo
Đây chỉ chân thật giải thoát môn
Rốt ráo siêu việt khỏi ba cõi,
Nếu ai từ đó sinh tin hiểu
Khéo hay dẫn dắt các chúng sinh
Mau thành Vô thượng diệu Bồ-đề
Đây là mắt sáng của thế gian.
Các Long nữ kia sinh Phạm thế
Nhiêu ích lợi lạc các trời người
Giáo hóa khiến phát tâm thanh tịnh
Có thể tiến đến đạo Bồ-đề
Đi đến quốc độ Phật vô biên
Cúng dường hầu hạ các Như Lai
Quá hơn vị lai Tinh tú kiếp
Đồng thành Phật hiệu Tịch Chư Căn,
Các Long nữ nghe Phật thọ ký
Tâm tịnh phấn khởi chí kiên cố
Cả hội đều sinh tâm hoan hỷ
Tất cả đảnh lễ sát chân Phật.

PHẨM 8: THỌ KÝ LONG VƯƠNG

Khi ấy, Nan-đà Ô-ma-nan-đà Long vương cùng quyến thuộc chín mươi ức long chúng thấy các long nữ cúng dường Như Lai và được Phật thọ ký, thân ý thư thái thật chưa từng có, nên đã tán thán Như Lai rốt ráo đầy đủ, oai đức to lớn thần thông vô ngại, biết được tâm niệm của chúng sinh, mọi sự nghiệp thảy đều nghe biết, mỗi mỗi hiện chứng, không việc gì là không biết. Đức Như Lai đại Bi tăng thượng, hoặc không đợi thỉnh mà vì nói pháp, hoặc không phải thời nói pháp, tất cả đều là vì giáo hóa thành thục hữu tình, trừ phiền não thiêu đốt, được vui Niết-bàn, tùy căn cơ mà trao truyền giáo pháp, nhất định được quả. Cho đến người nữ chí ý động loạn, đối với việc dâm dục, sân hận, si mê, tự tánh tăng thượng, giá như nghe pháp yếu mà không hiểu cũng được Như Lai hóa độ. Như sáu mươi ức Long nữ kia cũng được Phật thọ ký, huống nữa là chúng ta đây không mong được lợi ích.

Long vương nói lời như vậy rồi, ở chỗ Thế Tôn sinh ý tưởng khó gặp, liền dùng sức thần thông nổi lên mây thơm lớn khắp cả Diêm-phù-đề, che phủ tất cả các núi biển cả, mưa nước hương thơm, bột hương chiên-đàn, hương ấy lan xa khắp thế giới Phật. Lại nữa, mưa chân châu đổ xuống thành Catỳ-la cao đến ngang gối, ngang rộng sáu mươi dotuần. Lại ở trong rừng Ni-câu-luật-đà rải khắp vô lượng hoa Long tự tại, rải rồi lại rải nữa biến thành điện hoa, lượng ấy cũng rộng sáu mươi do-tuần, trụ làm bằng bảy báu xen nhau. Lại dùng đá Bán noa cam-mạt-la để lót đất, đá ấy mềm mại, sờ vào cảm thấy mát lạnh, ai nấy cũng thích xem, thật hiếm có trên đời. Lại hiện chín mươi ức các vòng hoa báu xung quanh rủ xuống. Lại còn treo các y phục nổi tiếng có nhiều màu sắc. Lại hiện các loại phan lọng tinh xảo vi diệu, tràng hương, vòng báu, vòng trân châu trang nghiêm khắp mọi nơi thanh tịnh thù thắng vi diệu. Lại tung ra vô số bảo tạng, sắp xếp trong cung điện để dâng lên cúng dường. Lại xuất hiện gương làm bằng châu Ma-ni báu vô giá tối thượng, trong sáng vô ngàn, không chỗ não là không chiếu đến. Đại chúng hội trong thành Ca-tỳla cúng dường các món trang nghiêm thù thắng vi diệu cũng đều hiện rõ trong gương ấy. Lại có chín mươi ức Long mã, dàm ngựa làm bằng các trân báu vi diệu, cổ ngựa được treo vô số linh báu, khi nó chạy phát ra tiếng vang. Các Long vương đều cỡi ngựa này, bay trong hư không nhiễu Đức Phật ba vòng, lại tấu lên vô lượng âm nhạc của Long cung và mưa các loại trân báu vi diệu thù thắng rải lên Như Lai cùng chúng Thanh văn. Cúng dường rồi, lại đảnh lễ sát chân Đức Như Lai, chiêm ngưỡng Thế Tôn mắt không tạm rời, nguyện đem công đức thiện căn đã được tích tập cùng với chúng sinh đồng thành Phật đạo, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ tụng:

Đã tu từ nhẫn hạnh đại Từ
Thành tựu trăm phước tướng trang nghiêm
Xuất gia vượt thành Ca-tỳ-la
Cố chí vì cầu đạo Vô thượng
Sáu năm thị hiện tu khổ hạnh
Nhiếp hóa ngoại đạo không mệt mỏi
Đến thẳng Bồ-đề tòa Kim cang
Thí pháp cam lồ khắp quần sinh.
Thuở xưa Như Lai Điều Ngự Sư
Vứt bỏ vương cung cùng dục lạc
Cắt tóc trên đảnh ở núi rừng
Tâm không đoái tưởng đến phù vinh
Mâu-ni xưa đã bỏ đầu mắt
Tích công đầy đủ nhân Bồ-đề
Phàm phu nghe thấy còn không thích
Huống nữa học tu tập khổ hạnh.
Như Phật xưa làm Tiên nhẫn nhục
Bị vua Ca-lợi vô cớ hại
Cắt xẻo tai mũi và thân phần
Không sinh nhuế não tâm hoan hỷ.
Thời có Bà-la-môn ngu si
Đến cân thịt thân lại treo ngược
Khi nói khổ hạnh khó làm này
Chúng con nghe rồi sinh áo não.
Nhân gì Như Lai không nổi sân
Thương nhớ chúng sinh như con mình
Do nổi ý hại đọa Nê-lê
Lúc đó Từ tâm hay cứu giúp.
Như Lai đầy đủ tuệ vô thượng
Dù ai hại mình không báo lại
Xưa tu nhân an lạc to lớn
Nên thân bình phục lại như cũ.
Chúng con đều sinh tâm tịnh tín
Khen ngợi Như Lai hạnh chân thật
Như Đức Mâu-ni lợi hữu tình
Đều nguyện mau lên Vô thượng giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết các Long vương tin hiểu kiên cố phát thệ nguyện lớn, nên liền từ mặt phóng các tia sáng. Các ánh sáng ấy chiếu đến Phạm thiên rồi lại nhập vào đảnh Như Lai.

Lúc đó, Tôn giả Mã Thắng chắp tay quỳ gối bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp thường của chư Phật hễ phóng ánh sáng nhất định là có lý do. Cúi xin Như Lai phương tiện diễn nói. Tôn giả liền nói kệ rằng:

Lành thay, Vô úy Thích Sư Tử
Vì nhân duyên gì phóng quang này
Từ môn quảng lợi các trời người
Cúi xin Như Lai vì con nói.
Các Long vương này và quyến thuộc
Tất cả chúng hội đều im lặng
Cúi xin Mâu-ni chấn pháp âm
Nói việc phóng quang hiếm có này.
Ai ở trong pháp Phật Thích-ca
Mới phát đại tâm cảm điềm này
Ai hay phá trừ các quân ma
Khiến chúng hoảng sợ đều biến mất.
Từ lâu long chúng đã tu hành
Đã được các công đức vô tận
Nguyện nghe lý do hiện điềm này
Đoạn trừ nghi hoặc tâm thanh tịnh

Khi ấy Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Ta đem công đức thật tối thượng
Tám thứ Phạm âm tiếng sâu xa
Đã nói chân thật lợi chúng sinh
Ông nên lắng nghe việc phóng quang.
Các Long vương này tin thanh tịnh
Thiết cúng dường lớn thật hiếm có
Chí tâm nguyện chứng Phật Bồ đề
Vì muốn hóa độ các quần sinh.
Thường dùng Bi tâm quán thế gian
Khiến hết chúng sinh thoát khổ ách
Tâm chưa lúc nào sinh mệt mỏi
Tinh tấn kiên cố không thoái chuyển
Tu tập thanh tịnh Xa-ma tha
Đầy đủ trí lực không khuất phục
An trụ vào ba giải thoát môn
Là Không, Vô tướng và Vô nguyện,
Thành Phật vô thượng tuệ thậm thâm
Rõ tất cả pháp đều hư giả
Đại Bi thương nhớ các hữu tình
Lìa tưởng oán thân đều bình đẳng.
Quá hơn hằng hà sa kiếp số
Lần lượt thành Phật hiện thế gian
Đồng tên Tịch Tĩnh Tuệ Như Lai
Đầy đủ mười hiệu, cõi nghiêm tịnh.
Thường nói pháp cam lồ vô ngã
Không các ngoại đạo và ma oán
Phương tiện khéo léo ứng quần cơ
Không trái thế tục nói chân đế,
Các chúng sinh này nghe pháp rồi
Rõ tự tánh pháp thảy đều không
Đại Bi phương tiện diễn ba thừa
Trong pháp thắng nghĩa không ngôn thuyết.
Pháp này phi xuất đối tự nhiên
Cầu một phần nhỏ cũng không được
Cho đến không có một chúng sinh
Nghe Phật chỉ dạy mà không hiểu.
Do uống vị giải thoát cam lồ
Nhất định thoát khỏi sinh, già, chết
Cho đến cờ ngã mạn lo buồn
Đều nhờ nghe Phạm âm của Phật.
Thích Tôn vô úy Thích Sư Tử
Nói ý Long vương đáp câu hỏi
Phật tử thường làm theo trí tuệ
Chóng được Bồ-đề quả Vô thượng.
Như Lai thọ ký các Long chúng
Khi chúng nghe rồi sinh vui thích
Thảy đều quy y Mâu-ni Tôn
Ở trong pháp Phật tâm vắng lặng.

QUYỂN 6

PHẨM 9: THỌ KÝ CƯU-BÀN-TRÀ VƯƠNG

Khi ấy, trong hội có mười tám ức Cưu-bàn-trà vương, thấy các A-tu-la và Ca-lâu-la, các Long vương cúng dường rồi tâm sinh vui thích. Lại nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có, cùng nhau tán thán:

– Đức Như Lai thành tựu trí tuệ tối thượng, đối với tất cả pháp không có nghi hoặc, không mừng không giận, không sinh phân biệt, kham nhận sự cúng dường của hàng trời người. Cũng như biển cả rộng lớn thênh thang không động, không vọt, vắng lặng yên tĩnh. Công đức của Như Lai cũng như vậy.

Lúc đó, Cưu-bàn-trà vương cùng các quyến thuộc đều phát tâm thanh tịnh cúng dường, dùng sức thần thông hóa ra mười tám ức màn báu, các màn báu này khéo léo thù thắng vi diệu tuyệt vời, đều dùng chỉ báu trang trí thứ tự như: Màn bằng chỉ vàng ròng, màn bằng chỉ bạc, màn bằng phệlưu-ly, màn bằng pha-chi-ca, màn bằng chân châu đỏ, màn bằng tạng sử tạng, màn bằng châu mã tạng... Nếu màn chỉ vàng thì rủ tràng hoa bạc; nếu màn bằng chỉ bạc thì rủ tràng hoa vàng; nếu màn phệ-lưu-ly thì rủ tràng hoa pha-chi-ca; nếu màn pha-chi-ca thì rủ tràng hoa phệ-lưu-ly; màn chân châu đỏ thì rủ tràng hoa châu sử tạng; nếu màn bằng châu sử tạng thì rủ tràng chân châu đỏ; nếu màn châu mã tạng thì rủ tràng bằng các báu đang xen kẽ nhau trông rất ham thích. Lại hóa ra mười tám ức xe báu vi diệu, nào là xe vàng cho đến xe châu mã tạng. Trên xe ấy lại hiện mười tám ức tàn lộng vi diệu tối thượng. Mỗi mỗi tàn lọng tinh xảo khéo léo khác nhau, sườn được đan bằng trăm cộng làm cốt trang trí các báu, hoặc có cáng làm toàn bằng vàng, lần lượt cho đến cáng làm bằng phệlưu-ly. Dưới tàn lọng ấy rủ các vòng hoa như vòng hoa vàng ròng, cho đến vòng hoa, làm bằng bảo châu Ma-ni. Các tàn lọng này được dùng chân châu đỏ đen khéo léo thành lưới bao phủ lên trên. Khi ấy Cưu-bàn-trà đều đi trên xe báu ấy cầm tàn lọng trổi các kỹ nhạc, ở trên hư không nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng hoa bảy báu rải lên Như Lai, rải rồi lại rải nữa, rồi lại bước xuống xe lễ sát chân Đức Như Lai, xong đứng qua một bên chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Mâu-ni Thánh chúa hiện thế gian
Như núi Lô sơn rực biển cả
Lìa mọi lo sợ không động xuất
Kham nhận cúng dường vi diệu này.
Thường trụ Tam-ma-địa vắng lặng
Diễn nói các pháp không đắm trước
Xả trừ kiêu mạn các cấu nhiễm
Quán sát thế gian chỉ danh tưởng.
Rõ biết các pháp như huyễn hóa
Cũng như trong mộng thọ dục vui
Như trăng in nước thể không thật
Người trí nên quán sát như vậy.
Thành Càn-thát-bà vốn không có
Dù cầu chỗ nào cũng không được
Nên biết chỉ dùng giả danh nói
Các pháp thế gian đều như vậy.
Chúng con đã nhất tâm cúng dường
Xe báu lọng báu và màn báu
Cho đến các giọng ca âm nhạc
Như Lai quán đó như tiếng vang.
Con nguyện thành Phật như Thế Tôn
Vì chúng sinh nói pháp như huyễn
Đều khiến xa lìa nhân hoặc nghiệp
Cùng chứng Bồ-đề đạo vắng lặng.

Biết được tâm niệm của các Cưu-bàn-trà, từ trong miệng Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn. Tỳ-kheo Mã Thắng thấy ánh sáng này rồi chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Điều Ngự thị hóa vì nhân gì
Hào quang thanh tịnh khó nghĩ bàn
Chúng đây muốn biết lý do ấy
Cúi xin Như Lai mau diễn nói.
Thấy từ mặt Phật hiện điềm này
Chư Thiên nhân dân đều nghi ngờ
Xin Phật thương xót các quần sinh
Nói việc phóng quang hy hữu này.
Ai ngày hôm nay phát đại tâm
Muốn ở chỗ Phật nghe chánh pháp
Người nào phát tâm cúng dường Phật
Vì nói công đức đã đạt được.
Người nào đạt hạnh hữu vi ấy
Sát-na lìa được các lỗi lầm
Người nào chứng được môn thật tướng
Ý vui tịch tĩnh không lay động.
Người nào được đạo hàng các ma
Người nào tán thán công đức Phật
Người nào đoạn hoặc vượt ba cõi
Dứt trừ triền cái tâm thư thái.
Đại chúng đều sinh ý cung kính
Muốn nghe tiếng vi diệu Như Lai
Nhân gì phóng ánh sáng tịnh này
Xin quyết chúng nghi phân biệt nói.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng hỏi nghĩa này
Vì làm nhiêu ích lợi thế gian
Ta nay nói rõ việc phóng quang
Các ông nên nhất tâm lắng nghe.
Nay đây cả chúng Cưu-bàn-trà
Cúng dường rộng lớn tịnh phước nghiệp
Đang đứng chắp tay ở trước ta
An trụ thật tế tâm không động.
Dùng sức trí tuệ khéo tu tập
Khởi tâm đại Bi lợi hữu tình
Sau sẽ thoát khỏi thân quỷ thú
Quyết định vãng sinh cõi thù thắng.
Được làm chủ Đao-lợi Thiên cung
Thân cận hầu hạ các Như Lai
Thông đạt các pháp không nghi ngờ
Như đèn sáng lớn xua bóng tối.
Vị lai lại quá hơn ức kiếp
Nghiêm tịnh vô biên quốc độ Phật
Cúng dường hà sa Phật Thế Tôn
Mặc giáp tinh tấn tu các hạnh.
Nhiêu ích nhiếp thủ các hữu tình
Quyết định tự biết sẽ thành Phật
Và sẽ giáng sinh vào trong thành
Do vậy có hiệu Trừ Nghi Phật.
Thường nói pháp tịch tĩnh tối thượng
Người nghe tâm tịnh lìa các nghi
Đều nguyện cầu đến đại Bồ-đề
Cứu vớt chúng sinh lên bờ giác.
Ta nay đã đáp lời ông hỏi
Khiến cả chúng hội tâm an ổn
Nên nay thọ ký Cưu-bàn-trà
Ở đời vị lai được thành Phật.

PHẨM 10: THỌ KÝ CÀN-THÁT-BÀ VƯƠNG

Khi ấy lại có ba mươi sáu ức Càn-thát-bà vương, thấy các A-tu-la, Ca-lâu-la, các Rồng quyến thuộc, Cưu-bàn-tra cúng dường Như Lai rồi, lại nghe Như Lai thọ ký cho họ thành Phật, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có. Lại nghe tán thán pháp tánh của Như Lai xưa nay thanh tịnh vắng lặng không cấu nhiễm, không có một pháp nhỏ nào là không hiển bày, tất cả đều là vì tăng trưởng căn lành của chúng sinh, phát sinh lòng tin hiểu sâu sắc, xả bỏ mọi xan lận, phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề.

Lúc đó, các Càn-thát-bà vương vì cúng dường Đức Phật nên dùng sức thần thông hóa ra ba mươi sáu ức ái-la-phược-noa đại Long tượng vương. Mỗi một Long tượng đều có sáu ngà, trên mỗi ngà đều có bảy ao, trong mỗi ao đều có hoa sen, mỗi hoa sen đều có ngàn cánh, giữa mỗi cánh có bảy Thiên nữ, mỗi Thiên nữ lại có bảy người nữ hầu hạ bảo vệ. Lại trên mỗi đảnh của Long tượng hóa ra ba mươi sáu ức cái lộng vi diệu tối thượng, màn lưới làm bằng bảy báu, vòng báu chiếu sáng nhau. Lại hiện màn báu bao phủ lên, khắp cả mọi nơi đều treo vòng hoa. Trong hoa sen ấy có các Thiên nữ, hoặc ca múa, hoặc tấu âm nhạc, hoặc nói kệ tán thán công đức của Phật, hoặc rải bột hương chiênđàn, Trầm thủy, hoặc rải các loại Thiên hoa đẹp, hoặc tung các loại y phục đẹp vi diệu tối thượng, hoặc rải các vật báu trang nghiêm thân như ngọc châu đeo tai, vòng vàng đeo tay, vòng báu, đai vàng, hoặc có Thiên nữ cầm các loại tràng báu, phan cái nhiều màu sắc, hoặc rưới các nước hương thơm thanh tịnh từ rên không xuống như mưa.

Khắp thành Ca-tỳ-la nước hương ấy cùng với các loại hoa hòa hợp thành bùn rộng đến sáu mươi do-tuần, gió thổi hương bay khắp mọi nơi.

Lúc đó, các Càn-thát-bà vương mỗi mỗi đều cỡi một Long tượng vương lớn tranh nhau trổi lên trăm ngàn các thứ âm nhạc hay, đi từ từ trên hư không nhiễu quanh bên phải ba vòng, dùng sức thần thông khiến các tiếng âm nhạc và hương thơm đã rải trước bay khắp tam thiên đại thiên thế giới. Chúng sinh trong các thế giới ấy nghe được tiếng nhạc và hương thơm đều không còn thoái chuyển đối với Chánh đẳng Chánh giác. Trên hư không, các Càn-thát-bà nhiễu Phật rồi xuống voi đến chỗ Phật lại nhiễu quanh ba vòng, đảnh lễ sát chân Đức Phật rồi lui ra đứng một bên, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Như Lai đầy đủ các tướng tốt
Ở trong ba cõi không ai bằng
Giải thoát phiền não nhân sinh tử
Đã dứt luân hồi tận nguồn khổ.
Hiển hiện oai thần thật vô biên
Thật là hy hữu trong trời người
Thành tựu giải thoát môn vắng lặng
Không có phi nhân làm động loạn.
Như Lai đầy đủ đạo thanh tịnh
Vốn không sở chứng không thể nói
Phật tánh chân thường vốn vắng lặng
Dựa thế tục đế gượng phân biệt.
Vị lai chư Phật hiện thế gian
Cũng hay an trụ pháp như vậy
Pháp không tự tánh, tánh vốn không
Không có tác giả và chủ tể.
Biết rõ mình người không sở tác
Đây là người trí ở thế gian
Các pháp mỗi mỗi không biết nhau
Phật đối vô tác chỉ hữu tác.
Ví như nhiều thứ làm thành xe
Nhưng nó không biết tự nghiệp dụng
Chỉ nhờ vận chuyển gọi là xe
Phật nói ngã tướng cũng như vậy.
Pháp ấy không pháp để dạy dỗ
Pháp ấy không pháp để suy nghĩ
Pháp ấy không pháp khiến giải thoát
Pháp ấy không pháp khiến biến đổi,
Như Lai biết rõ như vậy rồi
Vì chúng sinh nương thế tục nói
Chỉ rõ các hành môn hữu vi
Tướng thế tục kia cũng không được.
Lần lượt phân biệt tánh các pháp
Khiến người trí kém được trừ nghi
Các pháp không tướng cũng không tên
Rốt ráo không trụ cũng không tác.
Chúng con nguyện ở đời vị lai
Thành Phật như Đức Mâu-ni Tôn
Vô biên công đức trang nghiêm thân
Thường nói pháp thắng nghĩa như vậy.
Người trí đầy đủ lợi thế gian
Và các chúng sinh tà kiến kia
Thường khởi tâm đại Bi như vậy
Khiến thoát biển luân hồi sinh tử,
Hữu tình khổ não ở thế gian
Đều do tà tuệ tâm siểm khúc
Như khỉ chạy nhảy không tạm yên
Chỉ Phật đại Từ hay cứu độ.
Dựa vào tham nhuế si tà mạn
Cứ nổi trôi theo dòng thức ấy
Nhào lên lộn xuống trong biển khổ
Chỉ Phật đại Từ hay cứu độ.
Chúng sinh ngu si không mắt tuệ
Không biết tự nghiệp đọa đường ác
Vĩnh viễn mất đi cõi trời người
Chỉ Phật đại Từ hay cứu độ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Càn-thát-bà vương, liền từ trong miệng phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp chúng hội. Lúc đó, Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy ánh sáng này rồi, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Hôm nay Như Lai hiện điềm này
Tịch nhiên phóng ra ánh sáng lớn
Chúng hội nhìn nhau đều nghi sợ
Chưa từng thấy việc hy hữu này.
Người nào cầu mong Phật nhiếp thọ
Sinh đại hoan hỷ lìa các chướng
Nay Phật phóng ánh sáng thế này
Khiến chúng tin hiểu thêm kiên cố.
Người nào phụng hành pháp lớn ấy
Như Phật đã nói không sai khác
Nay Phật phóng ra ánh sáng này
Gia trì hộ niệm thương xót họ.
Các đại chúng này sinh khát ngưỡng
Nguyện nghe Phật nói duyên phóng quang
Chắp mười ngón tay đứng trước Phật
Chiêm ngưỡng tôn nhan không tạm rời.
Như Lai mắt sáng của thế gian
Lìa các cấu nhiễm và lo sợ
Đại Bi thương xót các quần sinh
Khiến trừ lưới nghi tâm thanh tịnh.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng hỏi việc này
Ta vì nhiêu ích khắp thế gian
Hoặc khiến tăng trưởng các căn lành
Nay phóng ánh sáng sẽ thọ ký.
Tôn giả Mã Thắng đại Tỳ-kheo
Nghe Phật hứa nói việc phóng quang
Vui vẻ chắp tay không duyên khác
Mong tiếng Phạm âm lần lượt nói.
Càn-thát-bà vương khởi cúng dường
Vì nghe đại pháp chân thanh tịnh
Pháp này chỉ nương vào thật tế
Tự tánh xưa nay không tăng giảm.
Nếu người chấp tướng mà phân biệt
Thì là như huyễn không thể được
Pháp này không thật cũng không hư
Do pháp tánh không Phật không nói.
Thát-bà cúng dường như vậy rồi
Thân sau sẽ làm Thước-ca-la
Là thân cuối cùng trong sinh tử
Tăng tiến tịnh hạnh tâm không nhác.
Từ một cõi Phật đến cõi Phật
Phụng thờ hà sa các Như Lai
Hóa độ vô lượng các hữu tình
Quả mãn được thành Ly Trần Phật.
Đức Ly Trần Phật hiện thế gian
Thọ mạng vô lượng vô kiếp số
Thường nói các pháp tự tánh không
Lại hay chỉ rõ Nhất thiết trí.
Như vậy mỗi mỗi danh hiệu Phật
Trụ thế chánh pháp và tượng pháp
Nói pháp hóa độ lợi chúng sinh
Ngang bằng Phật trước không khác gì.
Mã Thắng, ông hỏi nhân phóng quang
Nên ta lược nói công đức ấy
Như vậy lần lượt đều thành Phật
Hàng phục Thiên ma vô số ức.
Càn-thát-bà vương thọ ký rồi
Chúng hội trừ nghi tâm vui thích
Thảy đều quy y Mâu-ni Tôn
Cùng nhau chắp tay đứng một bên.

PHẨM 11: THỌ KÝ DƯỢC-XOA VƯƠNG

Khi ấy, trong hội có tám mươi ức đại Dược-xoa vương thấy A-tu-la vương cho đến Càn-thát-bà vương ở chỗ Như Lai cúng dường rộng lớn, lại nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho họ, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có, cung kính tôn trọng sinh tưởng khó gặp, tán thán trí tuệ sâu xa của Như Lai, những pháp đã được nghe tâm hiểu rõ, vui thích sâu sắc, phát lòng tin thanh tịnh, dùng sức thần thông hóa hiện cúng dường rộng lớn thù thắng vi diệu không khác gì sự cúng dường của A-tu-la vương. Các Dược-xoa vương cúng dường rồi nhiễu Phật ba vòng và đứng qua một bên, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen:

Nhân Trung vô tỷ Thích Sư Tử
Đầy đủ thần thông và trí tuệ
Như biển sâu rộng không bờ mé
Thế nên nay con đảnh lễ Ngài.
Núi Tô-di-lô lượng biết được
Kiếp thiêu rụi hết biết được mé
Chỉ trí tuệ Phật khó nghĩ bàn
Tất cả không thể biết cùng cực.
Quá, hiện, vị lai các thế gian
Tất cả các nẻo loại hữu tình
Dù họ tạo tác nghiệp thiện ác
Phật hay biết hết không ai bằng.
Hoặc có người thích A-lan-nhã
Tu hạnh vắng lặng trừ ồn ào
Tùy họ tu tập tánh không đồng
Phật đều biết hết không ai bằng.
Hoặc đủ lỗi lầm tham nhuế si
Kiêu mạn tật đố các ác hạnh
Hoặc có đẳng phần hoặc tùy tăng
Phật đều biết hết không ai bằng.
Hoặc người mê lầm mất chánh đạo
Trầm luân khổ báo không kỳ ra
Hoặc đủ tin hiểu tùy pháp hành
Phật đều biết hết không ai bằng.
Hữu tình ưa làm các hạnh ác
Nghiệp kia theo mãi không buông tha
Đến khi sắp chết tâm lo sợ
Chỉ có Như Lai mới cứu độ.
Hoặc trì tịnh giới sinh Thiên cung
Hoặc tạo hắt nghiệp chịu các khổ
Thọ báo tốt xấu lý không sai
Chỉ có Như Lai mới thấy biết.
Hoặc có trí tuệ cầu giải thoát
Ở trong Phật pháp được xuất gia
Ưa tu Thánh đạo lợi hữu tình
Được chứng Niết-bàn vui tịch diệt.
Lại có người ngu tuy xuất gia
Nương vào chánh pháp của Như Lai
Đối pháp thậm thâm không thể hiểu
Do không trí lại sinh hủy báng.
Đối với Phật dạy sinh lăng mạ
Tạo ra vô lượng nhân duyên khổ
Mạng chung đọa vào đại địa ngục
Kiếp hết lại sinh khổ thú khác.
Nếu người tin vững tâm tăng thượng
Thích nghe chánh pháp hay hộ trì
Thông đạt các pháp tánh vốn không
Lìa tất cả tướng không đắm trước.
Rõ biết thế gian không chắc thật
Thân này như huyễn, như tiếng vang
Thường dùng Bi nguyện lợi quần sinh
Không còn thoái chuyển Phật Bồ-đề.
Con nay tán thán công Đức Phật
Tất cả thế gian không ai bằng
Hồi hướng thiện nhỏ đến hữu tình
Vị lai cùng được thành Phật đạo.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Dược-xoa vương, liền từ miệng phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phật. Lúc đó, Tỳ-kheo Mã

Thắng thấy ánh sáng này rồi, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Lớn thay, Đấng Lưỡng Túc tối thắng
Bỗng phóng tịnh quang khó nghĩ bàn
Hào quang hy hữu vì nhân gì
Chiếu sáng thế gian hơn trăng tròn.
Nay chúng hội này đều chắp tay
Đồng thanh xưng tán công Đức Phật
Cúi xin Như Lai chấn Phạm âm
Vì nói tại sao phóng quang này.
Người nào đối Phật sinh tịnh tín
Người nào ngộ nhập pháp chân tịnh
Người nào tâm Bồ-đề kiên cố
Cúi xin Như Lai phân biệt nói.
Đại Từ Bi chúa hiện thế gian
Giải quyết lưới nghi của quần sinh
Các trời rồng và nhân phi nhân
Nghe rồi tâm sinh rất vui thích.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng đại Tỳ-kheo
Ông khéo thưa hỏi nghĩa như vậy
Nhân gian thưa thỉnh lợi trời người
Đều khiến an trụ thấy chân thật.
Dược-xoa vương kia khởi cúng dường
Tăng trưởng thấy nghe thiện căn tốt
Nên ta mới phóng ánh sáng này
Nay sẽ thọ ký họ thành Phật.
Các chúng Dược-xoa kia như vậy
Đều rõ các pháp từ duyên sinh
Do vì nguyện lực thọ thân này
Tâm thường an trụ đạo Bồ-đề.
Hay dùng trí tuệ khéo quán sát
Biết uẩn, xứ, giới đều hư giả
Vượt khỏi nhân luân hồi khổ não
Cũng như hoa sen không dính nước.
Mình người hòa hợp nhiễm nhân duyên
Tất cả giác liễu đều như huyễn
Quán sắc tự tánh không cũng vậy
Được chứng tịch diệt lý vô vi.
Nếu hay giác liễu các pháp không
Cũng đạt vô tướng và vô nguyện
Đối với ba giải thoát môn này
Bình đẳng quán khắp không chướng ngại.
Hay quán trí tuệ tánh vốn không
Lại quán cảnh giới có gì đâu
Rõ biết tâm cảnh đều là không
Đó là đầy đủ hạnh Bồ-đề.
Chư Thiên và người nghe pháp này
Tâm sinh hoan hỷ chưa từng có
Mỗi mỗi tin hiểu hành theo pháp
Dần dần tu tập Nhất thiết trí.
Chúng Mật Tích Dược-xoa như vậy
Đem tâm thanh tịnh khởi cúng dường
Sau sẽ chuyển thân ác thú này
Vãng sinh chư Thiên hưởng vui thích.
Chúng Dược-xoa này đời vị lai
Phụng thờ vô lượng vô biên Phật
Hiệu là Tịch Tĩnh Tuệ Như Lai
Trụ thế thọ mạng rất lâu dài.
Giáo hóa vô số chúng Thanh văn
Cũng như các sao giữa hư không
Người đầy đủ trí sinh cõi ấy
Quốc độ nghiêm tịnh không có khổ.
Tất cả nhân gian, Nhân phi nhân
Nghe Phật giảng nói không mệt mỏi
Đều phát tâm dũng mãnh thanh tịnh
Giải thoát phiền não các trói buộc.

QUYỂN 7

PHẨM 12: THỌ KÝ KHẨN-NA-LA VƯƠNG

Khi ấy, trong hội có tám ức Khẩn-na-la vương, vị đứng đầu tên là Đại Thọ, thấy các A-tu-la vương cho đến chúng Dược-xoa vương cúng dường Đức Phật; lại nghe Như Lai riêng thọ ký cho họ, tâm sinh nghi sợ khen chưa từng có. Nghĩ rằng: “Nếu Phật nói tất cả thế gian các uẩn, xứ, giới chỉ có giả danh, không có một phần nhỏ nào khiến chúng sinh thấy. Nếu Phật Bồ-tát cũng không thể thấy thì tại sao Đức Thế Tôn ở trong đại chúng lần lượt thọ ký các hàng trời, rồng, lại hóa độ vô lượng hữu tình từ một cõi Phật đến một cõi Phật. Phụng thờ Như Lai trải qua hằng hà sa kiếp, rộng tu các hạnh, được thành Phật đạo, tướng tốt đầy đủ, quốc độ trang nghiêm thanh tịnh, thọ mạng, kiếp số, tượng pháp bằng nhau, cho đến duyên hết nhập vào Bát-niếtbàn. Đã nói các pháp cũng đều vắng lặng thì tại sao kiến lập việc thọ ký”?

Lúc đó, Đại Thọ Khẩn-na-la vương sinh tâm nghi này mà chưa được giải quyết, liền chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Con nghe Như Lai nói như vậy
Đối diệu tuệ Phật tâm còn nghi
Đã nói không rồi lại thọ ký
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Lại nói pháp giới vốn vắng lặng
Lại nói như trăng hiện mặt nước
Đã nói vắng lặng lại hiện hình
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao các pháp vốn không sinh
Lại nói người vui cầu Bồ-đề
Đã nói không sinh sao có cầu
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao các pháp vốn vô tận
Lại nói Như Lai có diệt độ
Con nay thỉnh hỏi Mâu-ni Tôn
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao các pháp đều như huyễn
Lại nói mạng chung được sinh Thiên
Đã nói như huyễn sao có sinh
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao các pháp không chỗ nương
Lại nói nương vào Thiện tri thức
Đã nói không nương sao nhờ người
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao thế gian không tác giả
Lại nói có thể đoạn các hoặc
Đã nói vô tác đoạn từ đâu
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Tại sao các pháp tự tánh không
Lại nói quán không được giải thoát
Đã nói không rồi quán cái gì
Nghĩa này thậm thâm không thể biết.
Sao nói các pháp sát-na diệt
Lại nói các pháp thường không diệt
Đã nói thiên biến hoặc phi thường
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Sao nói phước nghiệp không tích tụ
Mà nói tu tập thành Bồ-đề
Đã nói không tập đâu thể thành
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Sao nói các pháp không sở thuyết
Lại nói hủy báng đọa đường ác
Nói không thuyết hủy báng sinh đâu
Nghĩa này thậm thâm không thể hiểu.
Không ai hơn nữa để tuyên nói
Mỗi thứ sai khác khó hiểu nỗi
Mắt Phật thanh tịnh chiếu thế gian
Thí khắp chúng sinh vị cam lồ,
Không ai có thể vì chúng con
Giải quyết những điều nghi ở trên
Chỉ có Như Lai mới đoạn trừ
Nên con đảnh lễ Nhất Thiết Trí.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Đại Thọ Khẩn-na-la vương giải thích những điều nghi ngờ bằng kệ đáp: Khẩn-na-la vương điều ông hỏi

Không dựa vào đâu để thọ ký
Do vì đạt pháp tánh vốn không
Nên được Đức Như Lai thọ ký.
Vì nhân duyên gì nói lời này
Nếu như các pháp có thật tánh
Thì nó không giảm cũng không tăng
Bất cứ lúc nào không chuyển đổi.
Ví như gương tròn treo trên không
Nhờ ánh sáng soi hiện sắc tượng
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tự tánh thanh tịnh vốn như vậy.
Pháp tánh không nhơ vốn vắng lặng
Cũng không động loạn và biến đổi
Ông quán nhân phước nghiệp cúng dường
Ở trong pháp nào có tướng ấy.
Nên biết pháp giới vốn vắng lặng
Người trí quán pháp không thể được
Người phàm phu chấp vào các tướng
Do vậy nghi hoặc không thể hiểu.
Ông hỏi các pháp vốn không sinh
Lại nói phát tâm cầu Phật đạo
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Mười lực diệu trí khó nghĩ bàn.
Phàm ngu chìm đắm trong ba cõi
Đối các cảnh dục sinh đắm trước
Do đó thường sinh tâm điên đảo
Nên chịu sinh tử các khổ não.
Từ xưa chưa từng nghe chánh pháp
Nếu có nghe rồi nhưng không hiểu
Khiến cho an trụ trong thật trí
Dần dần cầu hướng quả Bồ-đề.
Ông hỏi các pháp vốn không diệt
Cớ gì Như Lai có diệt độ
Vì phá chúng sinh chấp thường kiến
Không có pháp nhỏ nào là thường.
Ông hỏi các pháp cũng như huyễn
Thấy người sinh Thiên nên hoài nghi
Vì hóa phàm ngu các chúng sinh
Cậy vào chính mình sinh kiêu mạn.
Ông hỏi các pháp không chỗ nương
Mà thấy nương vào Thiện tri thức
Nếu không nương vào thầy dạy pháp
Thế gian nhất định không thoát khỏi.
Ông hỏi các pháp không chủ tể
Mà thấy thế gian có tác giả
Hãy xem xe do các vật thành
Nên có việc tác dụng vận tải.
Vì hóa độ chúng sinh chấp ngã
Và những ai chấp vào ngã sở
Ta vì họ nói không kham nhậm
Thế nên chỉ có tưởng giả danh.
Ông hỏi các pháp tự tánh không
Lại nói quán không được giải thoát
Do vì tâm phân biệt chấp trước
Nên đối nghĩa không không hiểu rõ.
Ông hỏi các hành sát-na diệt
Lại nói các pháp tánh không diệt
Vì phá chúng sinh đắm trước dục
Ở chỗ không tịnh sinh tưởng tịnh,
Giống như từ xa thấy sóng nắng
Người khác đến đó để tìm nước
Đều từ vọng tưởng sinh phân biệt
Nên biết thể nước không thể được.
Chỗ sóng nắng kia vốn không nước
Trong tự tánh tịnh vốn không nhiễm
Do người ngu kia tâm điên đảo
Nên luôn bị nó trói buộc.
Ông hỏi các pháp không sở thuyết
Nên người hủy báng đọa đường ác
Người ngu nghe rồi ôm nghi sợ
Người trí nghe rồi trừ chướng ngại.
Các pháp thế gian vốn vắng lặng
Người vô trí vọng chấp là ngã
Nếu như họ nghe các pháp không
Thì sinh tưởng đoạn diệt lo sợ.
Nếu như người hủy báng pháp không
Đều do chấp trước tướng nhân ngã
Cũng như trói buộc treo hư không
Tăng trưởng ngu si đọa đường ác.
Hoặc nói thiện nghiệp sinh chư Thiên
Hoặc sinh nhân gian thọ vui thích
Tác giả không thật nghiệp không mất
Như cảnh trong mộng chỉ tâm tạo.
Nên biết các nẻo đều như mộng
Do mê chân nên không biết gì
Trong mộng làm gì có đến đi
Người ngu vọng cho là cảnh thật.
Ta tuy nói có chỗ tạo nghiệp
Tìm cầu mười phương không tác giả
Ví như gió mạnh thổi lay cây
Do ma sát nhau sinh ra lửa,
Gió ấy và cây không nghĩ rằng
Ta đây có thể phát ra lửa
Làm nhân cho nhau phát ra lửa
Vốn không tác giả cũng như vậy.
Ông hỏi phước nghiệp không tích tụ
Sao nói có thể được Bồ-đề
Như thế gian có người trăm tuổi
Tuy có trải qua năm không tụ.
Ông hỏi các pháp không thể tận
Tại sao lại nghiệp có thể tận.
Người quán lý không nói vô cùng
Tùy theo thế tục nói có tận
Ta tuy diễn nói chân thật tế
Do vì điên đảo cầu bên ngoài
Chúng sinh hoặc nghiệp chướng duyên thâm
Không thể hiểu pháp thắng nghĩa này.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Đối với thắng nghĩa khéo an trụ
Tất cả các tướng đều nhất tướng
Người khéo thông đạt gọi vô tướng.
Tất cả sở hành của Bồ-tát
Tất cả các pháp đều vô tác
Đó là chữ “A” môn Tổng trì
Do đó hiểu được tất cả pháp,
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp vốn vắng lặng
Đây nói vô tướng Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không phân biệt
Đây nói bình đẳng Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không tự tánh
Đây nói thanh tịnh Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không có tận
Đây nói ly chướng Tổng trì môn
Từ môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không nghĩ bàn
Đây nói thật tướng Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không chỗ hướng
Đây nói giải thoát Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp vốn không động
Đây nói chứng tịnh Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp giả danh nói
Đây nói chân thật Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp không thể được
Đây nói ly tướng Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Khẩn-na-la vương ông nên biết
Tất cả các pháp lìa suy nghĩ
Đây nói tĩnh lự Tổng trì môn
Do môn chữ “A” mà hiểu được.
Pháp này không thấy, không đối trị
Cả hai tướng ấy không thể được
Hiểu biết không tướng cũng không danh
Thì mới đầy đủ đạo Bồ-đề.
Nếu pháp thấy được, đối trị được
Pháp này không thật, không bình đẳng
Pháp này tự tánh lìa nói năng
Ví như hư không không giống nhau.
Pháp tánh không có các thứ tướng
Cũng không một tướng, không tướng khác
Không có tướng lạnh và tướng nóng
Như bóng trong gương không thể được.
Không có tướng cong và tướng thẳng
Cũng lại không có tướng tối sáng
Xa lìa tướng nam và tướng nữ
Đó là hiểu rõ tướng chân thật.
Không siểm, không cuồng, không động loạn
Không có mở xếp tướng vi tế
Cũng không tướng giận dữ vui thích
Không tướng khiếp nhược, tướng khởi tận,
Không có tướng nhập và tướng xuất
Cũng không tướng tiến và tướng lùi
Cũng không tướng thức và tướng ngủ
Lại không tướng khứ, lai, hiện tại,
Không phải tướng mắt và nhìn thấy
Cũng không mù lòa và mắt màng
Không phải điều thuận, không cang cường
Không có che giấu và bày ra
Không phải động chuyển và đứng yên
Lìa các hý luận thường vắng lặng
Người trí phải nên quán như thế
Đây là hiểu biết cảnh giới Phật.
Vì muốn điều phục các thế gian
Nên lìa ngôn pháp gượng phân biệt
Đối với thắng nghĩa khéo biết rõ
Thì mới thông đạt tất cả pháp.

Nghe Phật Thế Tôn giải thích những điều nghi rồi và còn được nghe diễn nói Tổng trì tự môn, Đại Thọ Khẩn-na-la vương hiểu rõ một cách sâu xa, tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có, dùng sức thần thông hóa ra tám ức lầu gác thù thắng khéo léo tuyệt vời. Hoặc đứng đảnh núi, hoặc ven rừng cây, hoặc hóa hiện ở trên hoa sen, các từng lầu gác đều làm bằng bảy báu, lấy hoa hợp thành lọng treo lên trên, mỗi mỗi đều có tràng phan báu, màn báu, vòng, hoa trang nghiêm theo thứ lớp. Tám ức Khẩn-na-la vương này đều bay lên lầu gác, ở giữa hư không nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lại dùng các loại hoa trên đồng bằng cho đến dưới nước rải lên Đức Phật. Rải rồi bước xuống lầu gác đi đến chỗ Đức Phật lại nhiễu ba vòng nữa, chiêm ngưỡng tôn nhan mắt không tạm rời, nhất tâm chắp tay đứng qua một bên suy nghĩ: “Đức Như Lai tích tập vô lượng công đức thù thắng từ quá khứ đến hiện tại”.

Đức Phật biết được suy nghĩ ấy liền từ miệng phóng ra ánh sáng thanh tịnh.

Lúc đó Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy tướng ấy rồi, đảnh lễ Phật dùng kệ thưa hỏi:

Nay Đức Như Lai phóng ánh sáng
Tịnh diệu khó lường rất hy hữu
Chúng hội chiêm ngưỡng từ dung Phật
Cũng như vén mây xem trăng tròn.
Người nào nay ở chỗ Thế Tôn
Thích nghe pháp vi diệu tối thượng
Dùng trí chân thật khó biết rõ
Phóng ánh sáng này chắc ấn khả.
Người nào mới phát tâm Bồ-đề
Cảm Phật gia trì hiện điềm này
Cúi xin nói nhân duyên phóng quang
Nhiếp các ngoại đạo sinh niềm tin.
Khi ấy chúng hội đến tập hợp
Thảy đều hoan hỷ phát tịnh tâm
Mong nghe tiếng cam lồ thanh tịnh
Nghe rồi phụng hành lời Phật dạy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Tỳ-kheo Mã Thắng hỏi nghĩa này
Nên nhất tâm nghe chớ vọng ngoại
Ta nay sẽ vì Khẩn-na-la
Thọ ký vị lai thành Phật sự.
Những điều họ hỏi rất khó giải
Đều vì lợi lạc các thế gian
Ta nay vì đoạn tâm nghi ấy
Khiến đối pháp pháp khéo an trụ.
Đại Thọ Khẩn-na-la vương này
Cùng với tám ức chúng quyến thuộc
Do khởi cúng dường nhân tịnh phước
Mạng chung sẽ được sinh chư Thiên.
Ở trên cõi trời thọ vui thích
Mãn đủ chín mươi ức năm rồi
Đạt được năm thần thông như ý
Thân cận phụng thờ hà sa Phật.
Trải qua vô lượng các quốc độ
Thường nói pháp thắng nghĩa đệ nhất
Hóa độ vô biên các hữu tình
Được thành Vô thượng đạo Bồ-đề.
Hiệu là Vô Lượng Quang Như Lai
Kiếp, danh, quốc độ đều không khác
Nhân Trung Sư Tử mười lực tôn
Đầy đủ vô biên đại trí tuệ.
Các Bồ-tát ở trong nước ấy
Tu tập thiện căn đều viên mãn
Không có người cầu đến Nhị thừa
Đều là Nhất sinh ở Bổ xứ.
Các chúng Bồ-tát kia như vậy
Với lòng Bi nguyện lợi quần sinh
Hay ban ánh sáng cho thế gian
Sau sẽ lần lượt được thành Phật.
Các quốc độ ấy rất trang nghiêm
Lìa các uế ác không phiền não
Cũng như Đổ-sử-đa Thiên cung
Thọ dụng thanh tịnh biết tri túc.
Tất cả lỗi lầm và tám nạn
Cho đến danh tự chưa từng nghe
Hữu tình sống trong đó an ổn
Thường dùng pháp vi vui thiền duyệt.
Lớn thay, Thiện Thệ Thiên Trung Thiên
Thọ ký Khẩn-na-la thành Phật
Chúng hội nghe rồi tâm thư thái
Cúi đầu đảnh lễ Vô Thượng Sĩ.

PHẨM 13: THỌ KÝ BẢO ANH LẠC THIÊN

Khi ấy, trong hội có tám ức Bảo Anh Lạc Thiên tử thấy các A-tu-la cho đến Khẩn-na-la ở chỗ hội Phật cúng dường rộng lớn và nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ, tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có.

Lúc đó, các Thiên tử vì muốn cúng dường Đức Phật, nên phát tâm dũng mãnh nhiễu quanh thành Ca-tỳ-la sáu mươi do-tuần, ở trên hư không mưa hoa Mạn-đà-la từ từ rải xuống chứa cao đến ngang gối. Cúng dường rồi, nhiễu Đức Phật ba vòng và đứng sang một bên, chắp tay hướng lên Phật dùng kệ khen:

Bậc đầy đủ đại Bi mười Lực
Hay cứu tất cả loại chúng sinh
Các căn tịch tĩnh phóng ánh sáng
Nên con đảnh lễ Thánh Trung Thánh.
Các Trời và Rồng, Nhân phi nhân
Đối với pháp Phật sinh hâm mộ
Mâu-ni tối thượng Đại Đạo Sư
Vì thế nay con quy mạng lễ.
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Ví như trăng tròn giữa các sao
Vô biên phước trí trang nghiêm thân
Chúng sinh quán thấy tâm không chán.
Đầy đủ tất cả pháp thanh tịnh
Sáu Thông, ba Minh, bốn Vô úy
Mười tám pháp Bất cộng khó lường
Thế nên nay con quy mạng lễ.
Ba mươi tướng đều viên mãn
Tám mươi vẻ đẹp diệu nghiêm thân
Nguy nguy giống như tràng Thiên đế
Thế nên nay con quy mạng lễ.
Thành tựu Tam-ma-địa tối thắng
Hay đoạn luân hồi các trói buộc
Hàng phục vô số ức ma quân
An trụ vắng lặng không lay động.
Như Lai trí tuệ lực kiên cố
Thường nói bốn Đế pháp chân thật
Hóa độ lợi ích khắp trời người
Đều khiến vượt qua đến bờ giác.
Nhân Trung tối thượng Thích Sư Tử
Phá các tà kiến và dị luận
Con nguyện sẽ được như Thế Tôn
Nói pháp khiến lìa các tối tăm.
Siêu xuất thế gian thành Chánh giác
Thường hay phát bốn Tâm vô lượng
Thương xót nhiếp thọ các chúng sinh
Đồng chứng Bồ-đề đạo vô thượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Thiên tử, liền từ trong miệng phóng ánh sáng lớn. Thấy tướng này rồi, Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng chắp tay hướng lên Phật dùng kệ thưa hỏi:

Mâu-ni hiện tướng hy hữu này
Chúng hội thấy rồi tâm vui thích
Tất cả chiêm ngưỡng Đại Từ nhan
Xin nói lý do phóng quang này
Như Lai nay phóng tịnh quang ấy
Ắt khởi lên việc lợi ích lớn
Chúng con đảnh lễ Đấng Vô Thượng
Cúi xin hồng âm vì khai thị.

Lúc đó Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng hỏi nghĩa này
Nay sẽ vì ông phân biệt nói
Ta vì lợi lạc các trời, người
Thọ ký Anh Lạc thiên thành Phật.
Như Lai nếu không nhân thỉnh hỏi
Do đâu ký biệt cho đệ tử
Đáp lời ông hỏi dứt các nghi
Đã lìa nghi rồi tâm an trụ.
Bảo Anh Lạc thiên ở chỗ ta
Với tịnh ý vui khởi cúng dường
Từ đó lần lượt sinh chư Thiên
Trăm ngàn Thiên tử thường vây quanh.
Lại đem hương hoa trời vi diệu
Cúng dường vô lượng vô biên Phật
Ở chỗ Phật ấy phát tịnh tâm
Hâm mộ tu hành đạo Bồ-tát.
Tinh tấn cúng dường như vậy rồi
Lại ở vị lai làm Phật sự
Phụng thờ vô lượng vô biên kiếp
Thường nói kệ khen công đức Phật.
Như lý tu hành hạnh thanh tịnh
Được thân Na-la-diên chắc chắn
Sinh vào ở kiếp hoan hỷ ấy
Đầy đủ viên thành Nhất thiết trí.
Hiệu là Hoa Tràng Thắng Như Lai
Lại có danh tiếng không ai bằng
Và tám ức Thiên tử khác
Cũng trong một kiếp đều thành Phật.
Trong cõi Phật ấy không địa ngục
Cũng không ngạ quỷ và bàng sinh
Và A-tu-la tâm kiêu mạn
Lìa khỏi tám nạn các khổ ách.
Các Thiên tử ấy thành cõi Phật
Đều như cõi Tam thập tam thiên
Quốc độ giàu vui trang nghiêm đẹp
Thọ lượng lâu dài đều giống nhau.
Cõi ấy không có tên ác thú
Huống lại có người tạo nghiệp ác
Chúng sinh mỗi mỗi tùy pháp hành
Đều không tranh cãi hạnh thanh tịnh.
Giáo hóa chúng sinh vô cùng tận
Quá hơn lượng hằng hà sa số
Lúc Đức Phật kia hiện thế gian
Thường nói pháp Thắng nghĩa đệ nhất.
Hóa duyên như vậy quy tịch rồi
Rộng chia xá-lợi xây tháp miếu
Mỗi mỗi xá-lợi khó nghĩ bàn
Trong đó đều có tướng thân Phật,
Thảy đều xưng tán công đức Phật
Ở giữa hư không hiện thần biến
Giáo hóa vô lượng các chúng sinh
Đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
Mâu ni mười Lực sức phương tiện
Vì Thiên tử kia thọ ký đạo
Lúc đó đại chúng nghe Phật nói
Trụ chánh tư duy tâm vắng lặng.

QUYỂN 8

PHẨM 14: THỌ KÝ BỐN ĐẠI THIÊN VƯƠNG

Khi ấy, bốn Đại Thiên vương cùng với chín vạn Thiên tử quyến thuộc thấy các A-tu-la vương cho đến Bảo Anh Lạc thiên ở chỗ Thế Tôn phát tâm cúng dường; lại nghe Như Lai thọ ký cho họ thành Phật, tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có, thấy oai thần của Đức Phật sinh lòng tôn trọng sâu sắc, đối với pháp Phật muốn cầu xuất ly, phát tâm dũng mãnh siêng năng tu tập. Ví như có người bơi một chiếc thuyền bằng đất giữa dòng thác lớn, muốn vượt qua bờ bên kia, người ấy suy nghĩ: “Thuyền đất này nó không chắc chắn, không lâu nó sẽ rã ra, vậy ta phải vượt cho nhanh, dùng sức gấp rút để thoát khỏi nạn này”. Tâm dũng mãnh cũng lại như vậy.

Lúc đó, bốn Thiên vương và các Thiên tử vì cúng dường Đức Phật nên dùng sức thần thông hóa ra chín vạn tràng báu, các màu xen nhau, trang trí bằng các báu rộng lớn thật hiếm có trên đời. Nào là màn trân châu đỏ, màn châu ma-ni, màn phệlưu-ly, màn kim cang báu, màn vàng ròng. Hóa các màn báu như vậy rồi, ở trên hư không tấu lên những âm nhạc vi diệu để cúng dường. Lại mưa các loại hoa như: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạnđà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa rải lên Đức Phật, rải rồi lại rải nữa, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi đứng qua một bên, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen:

Kính lễ Đấng Lưỡng Túc
Hay cứu người thế gian
Lìa trạo cử hôn trầm
Và tham dục dối trá,
Hay đoạn các hữu kết
Nhổ gai độc các căn
Xô gãy cờ ngã mạn
Phá vô minh tối tăm.
Bốn đại khéo điều hòa
Không tiện lợi cấu uế
Không bao giờ trúng độc
Chín lỗ thường thanh tịnh
Giải thoát trói phiền não
Dứt sạch tận gốc khổ
Người cang cường khó hòa
Mâu-ni trước nhiếp thọ.
Các Thiên nhân chúng con
Đi đến chỗ Đức Phật
Chiêm ngưỡng công đức Phật
Tán thán không cùng tận,
Đối ba giải thoát môn
Không, Vô tướng, Vô nguyện
Chỉ Phật mới chứng biết
Thông đạt không chướng ngại.
Chân như thật tế đó
Làm chỗ nương các pháp
Nếu người ngu được nghe
Như nai sợ thợ săn,
Chúng sinh chấp các tướng
Không thể đạt pháp tánh
Khởi lên bốn điên đảo
Đó là nghiệp luân hồi.
Phật biết rõ pháp tánh
Quán đời như hư không
Các uẩn xưa nay không
Xứ giới cũng như vậy,
Nếu pháp cùng phi pháp
Dùng danh tự để nói
Tất cả pháp như vậy
Phật chưa nói lời nào.
Như người làm trò huyễn
Hóa đủ các hình tượng
Đó thật không chủ tể
Chỉ giả danh bày ra,
Như vậy uẩn cùng xứ
Cùng với mười tám giới
Đều từ huyễn vọng sinh
Thể tánh không chắc chắn.
Cũng như người họa sĩ
Vẽ ra hình người nữ
Thân thể đẹp tròn trịa
Tướng mạo đều đoan chánh,
Tướng này không thật có
Chỉ lừa mắt người ngu
Người trí khéo biết rõ
Pháp giới vốn bình đẳng.
Người khác nào pháp Phật
Không có nghi hoặc gì
Ví như đem đặt trái
Am-la vào bàn tay,
Như Lai trí sáng suốt
Chiếu sáng loại quần sinh
Chuyển pháp luân tối thượng
Khiến họ được hiểu rõ.
Con nguyện khi thành Phật
Cũng nói pháp như vậy
Hóa tất cả chúng sinh
Đồng thành Vô thượng giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Thiên tử, liền từ nơi mặt phóng ánh sáng lớn chiếu khắp chúng hội.

Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy tướng này rồi, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Đại Thánh Vô Thượng Tôn
Cớ gì hiện điềm này
Chắc là có lý do
Xin vì chúng con nói.
Nay các Thiên vương này
Và Thiên tử quyến thuộc
Thấy Phật phóng tịnh quang
Đều sinh tâm nghi hoặc.
Người nào phát đại tâm
Và sẽ được thọ ký
Ai nay hàng các ma
Xin vì chúng con nói.
Người nào ở chỗ Phật
Phát tâm cúng rộng lớn
Khéo điều phục các căn
Mong Phật hiện điềm này.
Rồi đây Phật Thế Tôn
Thọ ký cho chư Thiên
Xin Đấng Lưỡng Túc nói
Nghe rồi đều hoan hỷ.
Khiến tất cả chúng sinh
Thành thục các nghĩa lợi
Cầu chứng đạo Bồ-đề
Như Phật không khác gì.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Đại Tỳ-kheo Mã Thắng
Khéo hỏi việc như vậy
Nay ta phóng ánh sáng
Sẽ vì ông chỉ rõ.
Chín ức Thiên tử kia
Đều đến chỗ của ta
Nói nhân duyên phóng quang
Và thọ ký thành Phật.
Các chúng Thiên tử này
Đã từng gặp chư Phật
Thông đạt các pháp không
Nói kệ khen Đức Phật.
An trụ trong pháp Phật
Tâm tin hiểu quyết định
Vì cầu đạo Bồ-đề
Phát tinh tấn dũng mãnh.
Lại ở đời vị lai
Phụng thờ hà sa Phật
Nếu người không cúng dường
Thề không thành Chánh giác.
Cúng dường như vậy rồi
Sẽ được thành Phật đạo
Hiệu là Trì Quang Minh
Tối thắng ở thế gian.
Đức Phật kia xuất thế
Như đèn thường chiếu sáng
Độ thoát chúng Thanh văn
Số đủ tám mươi hội.
Các chúng Tỳ-kheo này
Khéo tu trí như thật
Ở thân cuối cùng này
Đều được Pháp nhãn tịnh.
Trong quốc độ Phật ấy
Tất cả các chúng sinh
Thọ mạng rất lâu dài
Trọn đủ tám ức năm.
Sau khi Phật diệt độ
Thảy đều hoài thương nhớ
Xây vô số tháp nước
Và cúng dường tôn trọng.
Vô số các hữu tình
Hộ trì chánh pháp Phật
Hoặc người phát đại tâm
Hoặc người nhập Niết-bàn.
Bốn Đại Thiên vương ấy
Muốn Như Lai thọ ký
Tâm rất sinh vui thích
Kính thuận đảnh lễ Phật.

PHẨM 15: THỌ KÝ TAM THẬP TAN THIÊN

Khi ấy, chúa trời Đế Thích Tam thập tam thiên cùng với tám mươi ức Thiên tử quyến thuộc đến chỗ hội Phật, thấy các A-tu-la vương cho đến bốn

Đại Thiên vươn ở chỗ Thế Tôn cúng dường rộng lớn; lại nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ, ở trong hội Phật pháp cùng tăng trưởng mến mộ, phát tâm hy hữu cầu đạo vô thượng.

Lúc đó, chúa trời Đế Thích vì cúng dường Đức Phật, dùng sức thần thông hóa ra tám mươi ức màn báu. Các màn báu này hiếm có số một, lấy các báu làm thành anh lạc, hoặc trân châu đỏ làm anh lạc, hoặc phệ-lưu-ly, hoặc châu ma-ni, hoặc dùng vàng ròng làm anh lạc treo khắp trong màn báu thả rủ xuống, hoặc hóa tám mươi ức lầu gác thanh tịnh, cửa, vách, lan can trang trí bằng các báu, tàn lọng, tràng phan trang nghiêm theo thứ lớp. Mỗi mỗi lầu gác đều có tòa Sư tử vi diệu tối thượng, các linh, lưới báu treo phủ lên trên, bên mỗi tòa có vô số Thiên nữ đứng hầu hạ. Sau lầu gác lại hóa tám mươi ức xe báu, trên xe được cắm các tàn lọng nhiều màu, dùng ngựa điều thuận móc vào. Lại hóa ra tám mươi ức ái La-phược-noa đại long tượng vương, mỗi một tượng vương có tám mươi cái đầu, mỗi một đầu đều có sáu ngà, trên mỗi ngà đều có bảy ao, trong mỗi ao đều có bảy hoa sen ngàn cánh, trong mỗi cánh đều có bảy Thiên nữ; mỗi Thiên nữ đều có bảy người hầu hạ, thân được trang nghiêm bằng các loại báu anh lạc. Trong cánh sen và trong lầu gác có các Thiên nữ hoặc có Thiên nữ cầm tràng phan, màn báu, hoặc ca múa, hoặc tấu âm nhạc, hoặc rảy nước chiên-đàn, trầm thủy, hoặc rải hoa trời Mạn-đà-la, cho đến hoa làm bằng bảy báu ở trong hư không rải xuống như mưa khắp cả thành Ca-tỳ-la rộng sáu mươi do-tuần, rải rồi lại rải nữa hoa phủ đến ngang gối.

Lúc đó, tám mươi ức Thiên tử vì muốn cúng dường, cũng dùng thần lực hóa ra tám mươi ức long tượng, trên mỗi long tượng đều có cắm tràng phan bảo cái, cũng dùng các báu trang nghiêm. Lại hóa ra tám ức xe báu vi diệu tối thượng. Lại hóa ra tám ức Thiên nữ đẹp tuyệt vời. Lại hóa ra tám ức thứ kỹ nhạc của chư Thiên. Các Thiên nữ đều đi xe báu, trổi nhạc ca múa rải các hương hoa, ở trong hư không nhiễu quanh bên phải ba vòng. Như vừa rồi đã nói sự cúng dường này không khác gì A-tula vương. Thiên chủ và các Thiên tử cúng dường rồi lại suy nghĩ: “Các hóa Thiên nữ này cúng dường rồi, lại còn hiểu rõ các pháp như thật đã nói đều như huyễn hóa, lại quán tự thân cũng đồng huyễn hóa, biết những món cúng dường và thân Như Lai cũng là huyễn hóa, pháp mà Đức Phật đã nói cũng là huyễn hóa”.

Biết đầy đủ rồi lìa mọi nghi hoặc, ở chỗ Đức Thế Tôn nhiễu quanh bên, phải ba vòng, đảnh lễ cung kính đứng qua một bên chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Hóa nhân đã khởi các cúng dường
Biến hiện khéo léo không ai bằng
Cho đến quán sát tướng tự thân
Thảy đồng huyễn hóa có khác gì.
Nếu như Phật nói tất cả pháp
Cùng với việc thọ ký thành Phật
Khiến chư Thiên phát tâm hoan hỷ
Tất cả đều đồng như huyễn hóa.
Đây nói Mâu-ni thân thanh tịnh
Và việc nói pháp đều như huyễn
Cúi xin Như Lai dứt chúng nghi
Đối với thọ ký tâm khai mở.
Với các người ngu dị sinh kia
Mê nơi sở hành hạnh chân thật
Do đó không rõ pháp như huyễn
Mới nói thế gian không thọ ký.
Nếu như hữu học và vô học
Và cầu đệ tử của Duyên giác
Họ đều biết rõ pháp như huyễn
Đối với pháp Phật không nghi hoặc.
Nếu người thích tu hạnh vắng lặng
Một mình cầu chứng quả Độc giác
Họ hay biết rõ pháp như huyễn
Đối với pháp Phật không nghi hoặc.
Có người thích hành hạnh Bồ-tát
Lợi lạc thế gian không phóng dật
Như vậy Phật tử rõ pháp huyễn
Đối tất cả pháp không phân biệt.
Tối thượng Thiện Thệ Điều Ngự Sư
Đầy đủ đại Bi không ai bằng
Mười lực thắng tuệ khó nghĩ bàn
Đối với pháp này đạt tự tánh.
Hoặc có người sống A-lan-nhã
Lìa các nhiệt não không mong cầu
Vì họ biết rõ pháp như huyễn
Đối với pháp Phật không nghi hoặc.
Nếu đạt các pháp như huyễn hóa
Thật không được một pháp nhỏ nào
Liền được xa lìa tất cả nghi
Đối với Phật dạy sinh tôn trọng.
Con nguyện thành Phật xuất thế gian
Thường nói các pháp đều như huyễn
Đều khiến giải thoát nhân hư vọng
An trụ cảnh giới Phật chân thường.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm sâu xa của Thiên chủ và các Thiên tử, nên từ mặt phóng ra ánh sáng thanh tịnh. Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy tướng này rồi, liền chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Mâu-ni đầy đủ đại danh xưng
Hôm nay bỗng phóng ánh sáng này
Vì lý do gì phóng ánh sáng
Cúi xin Đại Từ vì con nói.
Từ mặt Như Lai hiện điềm này
Chúng hội thấy rồi hoặc có nghi
Chúng con mong nói lý do ấy
Người nghe đều được tâm thanh tịnh.
Chư Thiên xưng tán công đức Phật
Cúng dường rộng lớn thật vi diệu
Khi Đức Như Lai phóng quang này
Khiến các Thiên tử tâm vui sướng.
Phật phóng vô biên ly cấu quang
Ánh sáng thanh tịnh hơn Kha nguyệt
Lúc đó chư Thiên đạt pháp huyễn
Mười Lực ấn khả thường ban cho.
Mâu-ni tích tập hạnh Bồ-đề
Thường tu bố thí tâm không lận
Cúi xin Như Lai quyết chúng nghi
Khiến đối pháp Phật khéo an trụ

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng mà nói kệ rằng:

Hay thay, Đại Tỳ-kheo Mã Thắng
Ông hay thỉnh hỏi việc phóng quang
Ta nay vì nói lý do ấy
Thọ ký các Thiên tử thành Phật.
Như vậy các chúng Thiên tử kia
Rõ được tất cả pháp như huyễn
Thành tựu vô biên trí tuệ sáng
Diệt các tối tăm trừ nghi hoặc.
Từng bị sinh tử trong quá khứ
Thân cận phụng trừ hà sa Phật
Từ đó nghe pháp suy nghĩ đúng
Biết rõ được các pháp như huyễn.
Nay ở trước ta khởi cúng dường
Cũng biết các pháp đều như hóa
Đối với pháp Phật lìa các nghi
Tâm được quyết định không tổn giảm.
Các Thiên tử này đời vị lai
Được thành tối thượng đạo Bồ-đề
Hiệu là Đế Tràng Vương Như Lai
Công đức vời vợi rất cao xa,
Giáo hóa vô biên các chúng sinh
Vì nói pháp như huyễn như vậy
Các Thiên tử này cùng danh hiệu
Lần lượt đều sẽ được thành Phật.
Chư Thiên các ông bỏ phóng dật
Quán các cảnh giới cũng như huyễn
Dần dần tu tập Xa-ma-tha
Mau được vô thượng quả Bồ-đề.

PHẨM 16: THỌ KÝ DIỆM-MA THIÊN

Khi ấy, Diệm-ma Thiên vương cùng bốn ức Thiên tử đến chỗ Phật, thấy các A-tu-la vương cho đến chúa trời Đế Thích Tam thập tam thiên ở chỗ Thế Tôn cúng dường rộng lớn, lại nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có, sinh mến mộ sâu sắc đối với pháp Phật. Lại suy nghĩ: “Đức Phật chứng được pháp cam lồ tối thượng đệ nhất, đối với thế gian không có một pháp nhỏ nào mà không biết, không có cái gì là không thấy, không có điều gì là không hiểu, không có cái gì là không hiện chứng. Do Đức Thế Tôn đối với thế tục đế và thắng nghĩa đế thông đạt rõ ràng không có hạn ngại”.

Thế tục đế nghĩa là hạnh thế gian, hoặc nghiệp hoặc báo đã sinh, chưa sinh đều biết rõ ràng không có sai lầm.

Thắng nghĩa đế là thanh tịnh đệ nhất không thể đem thức để phân biệt, không thể đem trí để biết, không thể bàn nói, không thể chỉ bày, không phải thấy, không phải nghe, không phải lấy, không phải bỏ, không phải động, không phải tịnh, không phải được; không phải mất, không phải đến, không phải đi, không phải nhẹ, không phải nặng, không phải chê, không phải khen, không phải lợi, không phải suy, không phải khen, không phải trách, không phải vui, không phải khổ, không phải sắc, không phải không sắc, không phải số, không phải không số, không phải phân biệt, không phải lìa phân biệt, không phải phiền não, không phải lìa phiền não, dứt các hý luận, vượt ra ngoài ngôn thuyết, cho đến cái gọi là sắc tướng cũng không thể được, tương thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể được, nhãn tướng cũng không thể được, tướng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng không thể được, sắc tướng cũng không thể được, thanh, hương, vị, xúc, pháp tướng cũng không thể được; nhãn thức không thể được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức cũng không thể được; nhãn xúc không thể được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không thể được; nhãn xúc sinh ra các thọ cũng không thể được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh ra các thọ cũng không thể được; sắc tưởng cũng không thể được, cho đến pháp tưởng cũng không thể được; địa giới không thể được, thủy, hỏa, phong, không, thức, giới cũng không thể được; dục giới tướng không thể được, Sắc giới, Vô sắc giới tướng không thể được; hữu vi tướng không thể được, vô vi tướng cũng không thể được.

Nếu người nào đối với pháp thắng nghĩa này, tìm cầu các pháp và tự tánh đều không thể được. Lại các người ngu dị sinh, vô văn nghe pháp này chắc sinh kinh sợ, đối với pháp Phật tâm sinh hối hận áo não, đối với Nhất thiết trí liền thoái lui, các hàng trời người đều sinh khinh chê hủy báng. Người như vậy luôn ở trong luân hồi, bị các khổ trói buộc.

Lúc đó, Diệm-ma Thiên và các Thiên tử quán sát thế gian tất cả chúng sinh thường ở trong sinh tử các khổ bức bách, đối với pháp Phật sinh tôn trọng sâu sắc, dùng sức thần thông cúng dường rộng lớn không khác gì sự cúng dường của Tam thập tam thiên. Các Thiên tử này cúng dường rồi, nhiễu quanh bên phải ba vòng, đảnh lễ sát chân Đức Thế Tôn, rồi đứng qua một bên, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Quán Phật các uẩn đều vắng lặng
Xứ, giới các pháp cũng như vậy
Các căn cảnh giới thường vắng lặng
Thì thấy tánh chân thật Như Lai.
Người trí thế gian đối Phật pháp
Không từ người khác tự nhiên hiểu
Đó là Thế tục và Thắng nghĩa
Lìa nó không có pháp thứ ba.
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Tùy cơ diễn nói pháp Thế tục
Chúng sinh nếu phát tâm thanh tịnh
Thường được khoái lạc của trời người.
Nhân Trung vô úy Thích Sư Tử
Dựa Thế tục đế nói sáu nẻo
Chư Thiên, Người và A-tu-la
Địa ngục, ngạ quỷ cùng bàng sinh,
Giàu sang sung túc dòng tôn quý
Dòng họ thấp hèn nhà nghèo cùng
Nô tỳ, sai sử, người kỹ nhạc
Và bị tàn tật các đau khổ.
Như vậy đã nói pháp thế tục
Rộng vì lợi ích người phàm phu
Do chúng sinh khởi tâm khát ái
Không lìa tám pháp của thế gian,
Đó là lợi, suy và khen, chê
Tán tụng, gièm pha, khổ, vui thảy
Người được càng tăng tâm ham thích
Người mất lại sinh ra khổ não.
Dựa vào thế tục nói chân đế
Do vì ngu si khởi điên đảo
Bất tịnh là tịnh, khổ là vui
Đối pháp vô ngã chấp là ngã,
Còn pháp vô thường cho là thường
Khởi tưởng hư vọng lại chấp trước
Dù họ đã nghe được Phật dạy
Tâm sinh kinh sợ không tin thọ.
Do hủy báng chánh pháp Như Lai
Ở trong địa ngục chịu các khổ
Người tham dục ngu si như vậy
Lần lượt chìm đắm mãi không thôi.
Nếu có ai đối với pháp Phật
Dùng tuệ lựa chọn không điên đảo
Lìa bỏ luân hồi nhân khổ não
Dần dần tu tập đạo Bồ-đề.
Tự tánh các pháp vốn thanh tịnh
Và Thắng nghĩa đế không tuyên bày
Nếu người nghe sinh tâm ham thích
Nên biết người này chân Phật tử.
Con nương Như Lai nói lời này
Chư Thiên nhất tâm sẽ mong cầu
Nếu hay như lý hành đúng pháp
Rốt ráo đều sẽ thành Phật đạo.

Biết được tâm niệm sâu sắc của các Thiên tử, Đức Thế Tôn liền từ nơi miệng phóng ra ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp chúng hội. Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy ánh sáng này rồi, nhất tâm chắp tay dùng kệ thưa hỏi:

Hôm nay Như Lai phóng ánh sáng
Chúng hội thấy rồi sinh nghi hoặc
Xin vì chúng con nói việc ấy
Khiến đại chúng này tâm an ổn.
Hoặc nếu chư Thiên được thọ ký
Thảy đều tôn trọng sinh tùy hỷ
Người đủ trí tuệ cũng hy vọng
Đối với pháp Phật thường tinh tấn.
Các Thiên tử này đứng trước Phật
Đều là người công đức tối thượng
Cúi xin Như Lai xiển đại Từ
Dùng tiếng Phạm âm thương nhiếp thọ.
Họ nghe Đức Phật tâm vui thích
Con đây sẽ không còn nghi ngờ
Nếu được Như Lai thọ ký cho
Dũng mãnh siêng năng không thoái chuyển.
Lớn thay, Vô thượng Thiên Nhân Sư
Phá người dị luận về chánh lý
Chúng hội muốn nghe âm vi diệu
Mau nói việc thọ ký chư Thiên.

Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Tỳ-kheo Mã Thắng nên lắng nghe
Ta vì tuyên nói việc phóng quang
Các Thiên nhân hội hợp lớn này
Muốn nghe công đức của Như Lai.
Đời có người phàm phu hạ liệt
Nghe công đức Phật không ham thích
Luôn bị tham nhuế nó thiêu đốt
Trong trăm ngàn đời nhiều tranh cãi.
Nếu đối pháp Phật sinh tin thích
Người này nhiều kiếp từng huân tập
Đại Bi nguyện lực thường tương ưng
Nên được công đức Phật như vậy.
Nếu thấy người thế gian suy khổ
Thường khởi tâm Bi vì thương xót
Khen công đức Phật chẳng nghĩ bàn
Khiến họ tịnh tín sinh ham thích
Chư Thiên từng ở Phật quá khứ
Tu tập các căn lành to lớn
Nay nghe Phật, đức khó nghĩ bàn
Cũng như vòng hoa đội lên đảnh.
Diệm-ma thiên kia và quyến thuộc
Ở trong pháp ta cần được độ
Đầy đủ tịnh tuệ tâm đại Bi
Nhàm chán thế gian các hữu kết,
Phụng thờ cúng dường các Như Lai
Cũng như hằng hà sa số lượng
Tích tập vô biên nhân thắng phước
Vì cầu Vô thượng đạo Bồ-đề.
Nhân Trung Sư Tử xuất thế gian
Bày ra vô biên pháp tịch tĩnh
Chúng sinh chìm đắm trong phiền não
Dùng tâm đại Bi mà cứu vớt.
Quán các chúng sinh hoặc nghiệp trói
Khi thuyết pháp xuất ly tối thượng
Họ nghe pháp rồi suy nghĩ đúng
Biết các pháp không lìa tự tánh,
Các căn tịch tĩnh không đắm trước
Rõ tất cả pháp đều như huyễn
Đều thông đạt pháp tánh vốn không
Do đó hiểu được tướng chân thật.
Các Thiên tử kia ở trước ta
Đã phát tâm cúng dường rộng lớn
Đến đời vị lai kiếp Tinh tú
Được thành vô thượng quả Bồ-đề.
Các Như Lai này hiện thế gian
Trọn đủ bốn mươi bốn ức kiếp
Độ thoát vô lượng khổ chúng sinh
Đều khiến thanh tịnh lìa các hoặc.
Diệm-ma thiên kia được thọ ký
Đồng hiệu Đại Tiên Hàng Oán Phật
Nay vì Mã Thắng đáp nghi này
Đại chúng đến hội đều vui thích.

QUYỂN 9

PHẨM 17: THỌ KÝ ĐỔ-SỬ-ĐA THIÊN

Khi ấy, trong chúng hội có tám mươi ức Đổsử-đa Thiên thấy các A-tu-la vương cho đến Diệmma thiên ở chỗ Thế Tôn cúng dường rộng lớn; lại nghe Đức Thế Tôn thọ ký thành Vô thượng Bồ-đề, tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có. Các Thiên tử suy nghĩ: “Pháp Bồ-đề này vốn không sắc tướng; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại không tướng, vậy thì hôm nay Đức Thế Tôn sẽ dùng pháp nào để thọ ký? Vì sao? Vì sắc vốn không sinh, Bồ-đề cũng không sinh; cho đến thức không sinh cho nên Bồđề cũng không sinh. Tại sao pháp không sinh mà được Bồ-đề ư? Như vậy, sắc không diệt nên Bồ-đề cũng không diệt, cho đến thức không diệt cho nên Bồ-đề cũng không diệt; tại sao pháp không diệt mà có thể được Bồ-đề? Như vậy, sắc vắng lặng cho nên Bồ-đề cũng vắng lặng, cho đến thức vắng lặng cho nên Bồ-đề cũng vắng lặng. Như vậy, sắc không hai cho nên Bồ-đề cũng không hai, cho đến thức không hai cho nên Bồ-đề cũng không hai. Như vậy, sắc không động nên Bồ-đề cũng không động, cho đến thức không động nên Bồ-đề cũng không động. Như vậy sắc không thể thấy cho nên Bồ-đề cũng không thể thấy, cho đến thức không thể thấy nên Bồ-đề cũng không thể thấy. Tướng Bồ-đề kia lìa tự tánh thì sao nói không sinh, không diệt, tịch diệt, không hai vắng lặng không động và không thể thấy. Đối với các pháp cái nào gọi là danh sắc? Tự tánh sắc không; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều không. Sao gọi là Phật? Sao gọi là Bồ-tát? Sao gọi là thọ ký? Phật tự tánh Phật không, người tự tánh Bồ-tát không, Bồ-đề tự tánh Bồ-đề không, thọ ký tự tánh thọ ký không.

Điều mà gọi là Phật là chỉ dựa vào thế tục giả danh kêu gọi hy vọng phân biệt. Những người có trí thức nghe các pháp không không sinh chấp trước, còn người ngu si nghe liền nổi sân giận không thể hiểu được.

Ví như có người trong mộng hưởng thọ năm thứ dục lạc khoái thích, đến khi thức giấc nhớ lại thật không được gì. Người trí biết rõ nên không sinh buồn khổ mà an trụ vào Bồ-đề thừa, rõ tánh Bồ-đề xưa nay vắng lặng thật không sở đắc. Không sinh lo sợ cũng lại như vậy. Vì sao? Vì biết rõ các pháp đều như mộng. Sự lãnh hội của người phàm phu ngu si đều khác, đối với các vọng pháp mà sinh chấp trước, các pháp như vậy đều không thể được. Phàm phu không thể được, pháp phàm phu cũng không thể được; Thanh văn không thể được, pháp Thanh văn cũng không thể được; Duyên giác không thể được; pháp Duyên giác cũng không thể được; Bồ-tát không thể được, pháp Bồ-tát cũng không thể được; Phật không thể được, pháp Phật cũng không thể được; Bồ-đề không thể được, pháp Bồ-đề cũng không thể được; Niết-bàn không thể được, pháp Niết-bàn cũng không thể được”. Đổsử-đa thiên nghĩ như vậy rồi liền bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn! Con nay đối với Đệ nhất nghĩa không có nghi hoặc, phát tâm thanh tịnh cúng dường các món vi diệu tối thượng hơn cả Diệm-ma thiên không thể so sánh.

Cúng dường rồi, cung kính đảnh lễ sát chân Phật Thế Tôn, nhiễu quanh bên phải ba vòng, rồi đứng qua một bên chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ tán thán:

Nếu người phụng hành lời Phật dạy
Thì là an trụ công đức Phật
Đối với ba pháp môn giải thoát
Thâm đạt nghĩa vị không trở ngại.
Trong đó không sắc và thọ, tưởng
Cũng không hành, thức, tâm cùng cảnh
Rõ năm uẩn kia chỉ giả danh
Đây là trí tuệ Nhân Sư Tử.
Như vậy trí tuệ thắng trượng phu
Không chấp phần nhỏ tướng Bồ-đề
Đã ngộ uẩn không được thiện lợi
Đối công đức Phật không nghi hoặc.
Thâm đạt Bồ-đề nghĩa thật tướng
Không khởi hy vọng, không khen chê
Cũng không vui thích tâm mặc tình
Đó là khéo trụ hạnh Bồ-đề.
Nếu người bình đẳng thấy pháp tánh
Thì đối các pháp không sợ gì
Phật tử đối với thế gian này
Tu chứng đầy đủ thắng công đức.
Thông đạt sắc tướng thảy đều không
Đối các cảnh dục đều xả bỏ
Quán sát luân hồi trong ba cõi
Cũng không mong cầu, không ham thích.
Nếu người rõ được pháp năm uẩn
Phật và Bồ-đề cùng thọ ký
Người nói người nghe thảy đều không
Hiểu rõ như vậy không ngại gì.
Pháp công đức Phật pháp phàm phu
Tất cả tướng này vốn không sinh
Hay rõ pháp tánh môn tối thượng
Thì mới gọi là chân Phật tử.
Lại nữa, biết rõ pháp như vậy
Năm uẩn, xứ, giới vốn không diệt
Phật và Bồ-đề lời thọ ký
Các pháp như thế đều đồng nhau.
Người trí hiểu được pháp môn này
Nhưng không xa lìa hành Bồ-đề
Do rõ pháp tánh là không diệt
Đối Phật Bồ-đề không thể được.
Lại nữa, các uẩn và xứ giới
Phật và Bồ-đề đều vắng lặng
Nếu người không mong cầu pháp này
Tức là trì chánh pháp của Như Lai.
Các uẩn, xứ, giới đều vô tác
Phật và Bồ-đề việc thọ ký
Các pháp như thế thảy đều không
Hiểu biết như vậy là Phật tử.
Các uẩn, xứ, giới tự tánh không
Phật và Bồ-đề việc thọ ký
Người trí quyết định khéo biết rõ
Đó mới gọi là chân Phật tử.
Các uẩn, xứ, giới đều hư vọng
Cùng với Đấng Lưỡng Túc tối thắng
Bồ-đề thọ ký cũng như vậy
Hiểu biết như thế là Phật tử.
Pháp này phi ly, phi bất ly
Cũng không phải có, không phải không
Không tướng hữu vi và vô vi
Hiểu biết như vậy là Phật tử
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Thông đạt nghĩa vi diệu như vậy
Đây là Bậc Trượng Phu tối thắng
Kham nhận cúng dường của chư Thiên.
Con nay khen ngợi công đức Phật
Được các phước báo lợi quần sinh
Chỉ có Như Lai mới chứng biết
Hồi hướng mình người đều thành Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các chư Thiên muốn được Đức Như Lai thọ ký thành Phật, từ ngay tòa phóng ra ánh sáng thanh tịnh. Thấy được tướng này, Tôn giả Mã Thắng chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Hôm nay Thế Tôn vì duyên gì
Dùng sức thần thông hiện điềm này
Xin vì chúng hội nói việc ấy
Tất cả thế gian đều vui thích.
Thấy trong miệng Phật phóng tịnh quang
Chư Thiên thảy đều sinh nghi hoặc
Tất cả chiêm ngưỡng từ dung Phật
Nhất tâm muốn nghe lời Phật dạy.
Ví như người bệnh gặp lương y
Mong được cứu chữa trao linh dược
Nay đây các chúng đứng trước Phật
Khát ngưỡng cần cầu cũng như vậy.
Các chúng trời người đến tập hội
Đều được đầy đủ tuệ thanh tịnh
Nhất tâm lắng nghe không duyên ngoài
Những gì Phật dạy hay hiểu được.
Như Lai thường dùng tâm đại Bi
Phá trừ tất cả lưới nghi hoặc
Khi họ nghe rồi đều phụng trì
Nhiếp các dị luận sinh chánh kiến.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng ông nay hỏi việc này
Vì lợi thế gian làm ánh sáng
Người trí hay dứt các chúng nghi
Nên được trời người đều tôn trọng.
Đổ-sử Thiên vương và Thiên tử
Đạt pháp tối thượng vị cam lồ
Cúng dường rộng lớn diệu trang nghiêm
Thế nên nay ta sẽ thọ ký.
Hay dùng thắng tuệ quán thế gian
Tuy thấy pháp tánh nhưng không trước
Khéo đạt ba pháp môn giải thoát
Điều này người ngu không thể biết.
Họ ở chỗ Phật thời quá khứ
Đã từng thỉnh hỏi nghĩa như vậy
Quán các pháp tánh rốt ráo không
Như những gì Phật trước đã nói.
Nay ở chỗ ta lại cúng dường
Tối thượng tối thắng không gì bằng
Hay thường nghĩa không khen Như Lai
Đều vì lợi lạc các hữu tình.
Tất cả các pháp đều không sinh
Phật và Bồ-đề cùng thọ ký
Cho đến người tu tập Bồ-đề
Bản tánh không sinh cũng bằng nhau.
Nếu người rõ pháp tánh như vậy
Quyết định chứng được đại Bồ-đề
Các Thiên tử kia xưa nghe trì
Nên hay tuyên dương Đệ nhất nghĩa.
Hay dùng tuệ sáng khéo lựa chọn
Biết rõ pháp tánh thường không giảm
Các Thiên tử kia lìa các nghi
Tự nhiên thành tựu trí vô sư.
Pháp tánh chẳng nắm cũng chẳng cầu
Rốt ráo không nương lìa phân biệt
Các Thiên tử kia lìa các nghi
Người ngu tâm hay sinh sợ hãi.
Tất cả các pháp lìa tự tánh
Bồ-đề và tâm Bồ-đề kia
Các Thiên tử ấy khéo biết rõ
Xưa nay thanh tịnh không nhiễm trước.
Đổ-sử Thiên vương và Thiên tử
Trụ tuệ kiên cố không sở trụ
Không lâu sẽ được Phật Bồ-đề
Thành tựu đầy đủ Nhất thiết trí.
Vào đời vị lai kiếp Tinh tú
Lần lượt xuất hiện ở thế gian
Độ thoát vô biên các chúng sinh
Đồng hiệu Quyết Định Trí Vương Phật.
Như Lai biết được tâm niệm họ
Nên liền phóng ánh sáng thanh tịnh
Vì họ thọ ký nhân thành Phật
Khiến cho chúng hội sinh vui thích.

PHẨM 18: THỌ KÝ LẠC BIẾN HÓA THIÊN

Khi ấy, Lạc biến hóa Thiên chủ cùng bảy mươi ức Thiên tử quyến thuộc thấy các A-tu-la vương cho đến Đổ-sử-đa Thiên và các Thiên tử ở chỗ Phật cúng dường rộng lớn, tùy hỷ sâu sắc phấn khởi vô lượng, lại nghe Như Lai thọ ký cho họ. Các Thiên tử nghe lời nói này rồi thân ý thư thái, được trụ thật tế, đối với pháp thắng nghĩa lìa các nghi hoặc.

Khi ấy Lạc biến hóa Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Đức Thế Tôn chắp tay cung kính bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn! Như con hiểu được nghĩa Đức Phật đã nói, tất cả các pháp gọi là thật tế, là vô lượng tế, vô ngại tế, vô trụ tế, vô tận tế, vô nhị tế, phi tế, vô tế gọi là thật tế.

Thưa Thế Tôn! Nói thật tế nghĩa là không điên đảo. Vô lượng tế là không có phần hạn. Vô ngại tế là không phải hòa hợp. Vô trụ tế là lìa tự tánh. Vô lượng tế là không có sinh. Vô nhị tế là chỉ có một tướng. Phi tế là thể chẳng phải có. Vô tế là vốn vô cùng cực.

Thưa Thế Tôn! Pháp thật tế này là khắp mọi nơi, hữu vi vô vi thông đạt vô ngại, không có một pháp nào là không phải thật tế, cho đến Bồ-đề cũng là thật tế.

Pháp nào gọi là Bồ-đề? Tất cả pháp gọi là Bồđề, cho đến nghiệp ngũ vô gián cũng gọi là Bồ-đề.

Vì sao? Vì pháp Bồ-đề lìa tự tánh, nghiệp ngã vô gián cũng lìa tự tánh. Thưa Thế Tôn! Lại nghiệp ngũ Vô gián tức là cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Vì sao? Vì tánh của các pháp lìa tướng tội. Thế nên, nghiệp vô gián gọi là cảnh Niết-bàn. Thưa Thế Tôn! Người trụ luân hồi có thể cầu Niết-bàn. Trong thật tế ấy không có hai tướng, không có sinh tử có thể lìa, không có Niết-bàn có thể chứng. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Thưa Thế Tôn! Nay con đối với lý thật tế này không có nghi hoặc. Nếu người nào đối với pháp này mà lìa nghi hoặc, nên biết người này đã từng ở chỗ Phật quá khứ, được thọ ký Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe Thiên vương nói lời như vậy, muốn khiến cho đại chúng tịnh tâm tin hiểu thanh tịnh hoan hỷ, liền từ nơi tòa phóng ánh sáng lớn. Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng dùng kệ thưa hỏi:

Điều Ngự Sư thương xót thế gian
Ở giữa đại chúng hiện điềm này
Trong miệng phóng ra ánh sáng lớn
Tướng này không phải là không nhân.
Nay đây những người đến tập hội
Đều sinh tâm cung kính thanh tịnh
Xin nói nhân duyên phóng quang này
Để trừ tất cả các nghi hoặc.
Nếu như họ nghe lời Phật dạy
Nhất tâm lắng nghe và tin thọ
Tôn trọng lời Phật phụng hành theo
Thệ cầu quả Vô thượng Bồ-đề.
Cúi xin Như Lai mau diễn nói
Thương xót quần sinh tâm khát ngưỡng
Chư Thiên thân ta đều thư thái
Quyết định tự biết sẽ thành Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng nay hỏi việc phóng quang
Như Lai phóng quang đều có nhân
Ông nay lắng nghe chớ nghĩ gì
Nay ta thọ ký cho chư Thiên.
Hóa Lạc Thiên vương và quyến thuộc
Lần lần thành tựu Nhất thiết trí
Ở trong đại chúng các trời người
Rống tiếng sư tử nhiếp dị luận.
Ví như tất cả trong hang núi
Không sinh châu ngọc không có lầm
Như vậy Hóa lạc các trời người
Quyết định đương lai sẽ thành Phật.
Ví như khi mặt trời lặn xuống
Thì không lâu mặt trăng xuất hiện
Các Thiên tử ấy đạt pháp tánh
Tự biết nhất định thành Chánh giác.
Ví như thế gian mặt trời sáng
Quán sát sắc tượng đều thấy rõ
Các Thiên tử ấy đạt pháp tánh
Sẽ được Như Lai Nhất thiết trí.
Ví như thế gian khi trời tối
Hữu tình đều biết mặt trời lặn
Các Thiên tử kia đạt pháp tánh
Sẽ được minh tuệ chiếu sáng tỏ.
Ví như thế gian các suối sông
Thảy đều chảy ra ngoài biển cả
Các Thiên tử kia đạt pháp tánh
Nhất định mau chứng đại Bồ-đề.
Như dùng ngói gạch ném hư không
Lực hết rớt xuống ắt như vậy
Các Thiên tử kia đạt pháp tánh
Không lâu thành Phật không còn nghi.
Nếu người thông đạt pháp tánh này
Nhập Phật tri kiến lìa hý luận
Họ sẽ chứng được công đức lớn
Hướng đến Bồ-đề không bao xa.
Giả sử hai mươi na-do-tha
Tệ ma nói ta không thành Phật
Do đủ chánh kiến đạt pháp tánh
Không thể thoái chuyển tâm Bồ-đề.
Như vậy các chúng Thiên tử kia
Hiểu rõ pháp tánh tâm không trước
Mỗi mỗi hy vọng được thọ ký
Ta chuyển cố gắng sinh vui thích.
Các Thiên tử ấy tu từ lâu
Không từ người khác mà hiểu rõ
Tự biết quyết định được Bồ-đề
Những người có trí đều tùy hỷ.
Tỳ-kheo Mã Thắng nên biết rõ
Nếu người cầu Bồ-đề vô thượng
Thường ưa thân cận Phật Thế Tôn
Quán các pháp tánh không chướng ngại.
Tự mình biết rõ được chánh lý
Lại khiến người khác khéo thông đạt
Tùy theo năng lực mà hiểu biết
Đó là người hành pháp đệ nhất.
Nếu trăm ngàn kiếp hành khổ hạnh
Đem thân máu thịt mà bố thí
Trong khoảng sát-na rõ pháp tánh
Phước này rộng lớn lại hơn kia.
Tất cả chư Phật thời quá khứ
Hiện tại cứu độ các chúng sinh
Cho đến vị lai các Thế Tôn
Thảy đều theo đó mà tu tập.
Hóa Lạc Thiên vương và quyến thuộc
Nay ở trước ta khởi cúng dường
Thuở xưa đã từng trồng nhân phước
Nên nói hiểu rõ pháp thậm thâm này.
Những người trí tuệ ở thế gian
Phải nên tu chứng Tam-ma địa
Nếu nương vào Đẳng trì tối thắng
Người này đến được đường Phật đi.
Tỳ-kheo Mã Thắng nên biết rõ
Các Phật tử này ngộ pháp tánh
Thường hay thọ chơi cảnh giới Phật
Nhiếp phục tất cả các dị luận.
Thế nên siêng tu nghiệp thanh tịnh
Nhất định xa lìa nghiệp khổ não
Thích luôn thân cận thầy nói pháp
Được thành đạo Bồ-đề vô thượng.

PHẨM 19: THỌ KÝ THA HÓA TỰ TẠI THIÊN

Khi ấy, Tha hóa tự tại Thiên vương cùng tám mươi vạn Thiên tử quyến thuộc, thấy các A-tu-la vương cho đến Lạc biến hóa Thiên vương ở chỗ Như Lai cúng dường rộng lớn và lại nghe Như Lai thọ ký cho họ, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có, liền bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn! Lạc biến hóa Thiên vương đã nói thật tế, nay con đối với thật còn không được thì làm sao nói có tế? Vì sao? Thưa Thế Tôn! Nếu người nào thấy Phật tức là thấy tế. Nên biết, người này trụ vào hai tướng, đã trụ vào hai tướng thì làm sao hiểu được Bồ-đề. Nên biết, nếu nói như vậy là chẳng phải đạo hạnh. Nếu thiện nam tử nào lìa hai tướng này tức là khéo an trụ, trụ không sở trụ thì không có ngôn thuyết. Người cầu Bồ-đề không có một pháp nhỏ nào có thể thấy, có thể giác ngộ được Bồ-đề ấy. Vì sao? Vì pháp thật tế này không phải có, không phải không, lìa tất cả tướng, không phải quá khứ, không phải hiện tại, không phải vị lai, không phải hữu vi, không phải vô vi, không phải đem thức để nhận thức, không phải dùng trí để biết, không phải quán sát tế, không phải hiện chứng, không có một pháp nhỏ nào là đối trị, cũng không có một pháp nhỏ nào là bị trị. Vì sao? Vì pháp không phải bị phiền não làm nhiễm ô, pháp không có tự tánh không thể được. Nếu mỗi mỗi pháp có chỗ đối trị thì có pháp nhỏ có thể thấy tự tánh.

Thưa Thế Tôn! Nếu sắc sinh thì sắc kia lìa sinh tướng; thọ, tưởng, hành, thức sinh thì thọ, tưởng, hành, thức lìa sinh tướng.

Thưa Thế Tôn! Nếu sắc diệt thì sắc kia lìa diệt tướng; thọ, tưởng, hành, thức diệt thì thọ, tưởng, hành, thức lìa diệt tướng.

Thưa Thế Tôn! Nếu quá khứ thì lìa tướng quá khứ, vị lai thì lìa tướng vị lai, hiện tại thì lìa tướng hiện tại.

Thưa Thế Tôn! Nếu hữu vi thì lìa tướng hữu vi, vô vi thì lìa tướng vô vi. Như vậy, năm uẩn sở nhiếp, ba tế sở nhiếp, hữu vi sở nhiếp, vô vi sở nhiếp. Các pháp như thế đều không thể được. Do không thể cho nên pháp kia không thể biết, không thể thấy, không thể nói, không thể hiểu, không thể quán, không thể chứng.

Thưa Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào vì cầu Bồ-đề, phát tâm quyết định. Tu hành như vậy thì gọi là khéo an trụ Bồ-tát thừa.

Khi ấy, Tha hóa tự tại Thiên tử nói pháp đã ngộ rồi, chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ khen rằng:

Như Lai chỉ bày luận hồi tế
Vô thỉ kiên cố khó vượt thoát
Các phàm phu vô trí thế gian
Ưa trụ biển sinh tử ba cõi.
Các uẩn xưa nay tự tánh không
Tất cả hữu tình không thế được
Không có pháp nhỏ để đối trị
Nên biết các pháp đều không tướng.
Sắc tự tánh không vốn không có
Không trí, không thức, không quán sát
Không thấy, không chứng, không phải không
Nương chánh lý này khéo hiểu rõ.
Bồ-đề không tướng có thể được
Pháp phần Bồ-đề cũng như vậy
Phật, Bồ-tát, Tăng chỉ giả danh
Lìa tâm giữ tướng đều không tướng.
Người ngu trước dục chấp các tướng
Tự cho ta được tâm Bồ-đề
Là đi trong cảnh giới điên đảo
Nhiễm tuệ khó chứng lý chân thường.
Người đối cảnh giới Phật là tướng
Thì là người trí hành theo pháp
Xa lìa các tướng như không tướng
Và cũng lìa không và bất không.
Nương đó tu tập hạnh Bồ-đề
Đạt được vui tối thượng đệ nhất
Tất cả ngoại đạo không thể biết
Cũng không phải pháp Thanh văn học,
Không phải Bích-chi-ca-phật-đà
Tâm khéo giải thoát lìa trần cấu
Không phải A-la-hán vô lậu
Đối với chánh lý hay biết rõ.
Mâu-ni vô tướng hành Bồ-đề
Chỉ người đại trí khéo biết rõ
Nếu nương chánh lý mà nói không
Không phải sở đắc của Nhị thừa.
Thông đạt thật tướng chẳng nghĩ bàn
Rõ tất cả pháp không tự tánh
Thiển thức không thể biết Bồ-đề
Thượng căn thông tuệ nghe liền hiểu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Tha hóa tự tại Thiên tử, liền từ chỗ ngồi phóng ra ánh sáng thanh tịnh. Thấy tướng này rồi, Tỳkheo Mã Thắng chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Phật biết ý vui Tha hóa Thiên
Bỗng phóng ánh sáng lớn thanh tịnh
Chỉ có Như Lai tự chứng biết
Xin vì chúng hội phân biệt nói.
Chư Thiên đều khởi tâm suy nghĩ
Lẽ nào không nhân Phật phóng quang
Cốt vì nhiêu ích các quần sinh
Khiến sinh niềm tin tâm khát ngưỡng.
Nay đại chúng này còn do dự
Do thấy nhân hy hữu Như Lai
Miệng phóng ánh sáng thanh tịnh này
Thọ ký thành Phật cho chư Thiên.
Họ đều rời bỏ nẻo luân hồi
Hướng đến tịch tĩnh thành Niết-bàn
Đợi nghe tiếng Phạm âm Như Lai
Vô ngại biện tài mau diễn nói.
Chúng con tôn trọng lời Phật dạy
Đạt các pháp tánh không có nghi
Văn trì kiên cố tâm tin hiểu
Khen biển công đức của Mâu-ni.
Như Lai chánh giáo chẳng nghĩ bàn
Khiến chúng sinh đến chỗ an ổn
Nếu hay tu hành dùng như lý
Rốt ráo được thành đạo Vô thượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tôn giả Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Đại Tỳ-kheo Mã Thắng
Thưa hỏi vì lợi các quần sinh
Nay ta phóng ánh sáng lớn này
Là thọ ký Bồ-đề tối thượng.
Tha Hóa Tự Tại các Thiên chủ
Tin hiểu kiên cố đều lợi căn
Đều hay phụng trì lời chư Phật
Tu tập Bồ-đề đã từ lâu.
Hiểu rõ thế gian các vọng tưởng
Như thấy sóng nắng biết không đạt
Người ngu tưởng nước khởi tâm vọng
Người cầu Bồ-đề chớ như vậy.
Những người chấp trước vào tưởng kiến
Vô trí lại sợ nơi vô tướng
Người ngu vọng tưởng hướng phi đạo
Lìa đó sẽ được đạt Bồ-đề.
Vọng tưởng nghĩ tà là gốc khổ
Tùy sinh phân biệt tức là trói
Người trí biết rõ đó là không
Được thắng tổng trì vui tịch tĩnh.
Nếu tâm vọng tưởng không bình đẳng
Nhất định đọa lạc vào các nẻo
Trong trăm ngàn đời làm duyên khổ
Ba đời Như Lai đều nói thế.
Nếu người còn chấp trước vào tưởng
Thì bị ấm giới nó trói buộc
Người khéo quán sát dứt vọng chuyên
Tất cả đều không, không có tướng.
Do tưởng tướng nên các hoặc tăng
Lại còn tổn giảm các phước nghiệp
Nếu đối các tướng là hồ nghi
Mau chứng quả Bồ-đề vô thượng.
Nếu người phân biệt cầu Thánh đạo
Phân biệt cầu đạo tức là trói
Người trí tại dục nhưng hành thiền
Tức là khéo tu hạnh vô tướng.
Các pháp không thể, không thể nói
Phân biệt tánh các pháp đều không
Pháp không tướng ấy lìa suy nghĩ
Như vậy Bồ-đề không thể được.
Nghe Phật Thế Tôn nói như vậy
Chúng lìa nghi hoặc được vô ký
Như đem vòng hoa Đảm-bác-ca
Trao rồi vui thích đeo vào đảnh.
Các Thiên chúng này tâm khai ngộ
Khiến ở chỗ Phật khởi cúng dường
Rõ biết pháp tánh xưa nay không
Đến đời vị lai đều thành Phật.

QUYỂN 10

PHẨM 20: THỌ KÝ ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG

Khi ấy, trong hội có sáu mươi ức chúng Phạm Thiên tử, thấy các A-tu-la cho đến Tha hóa tự tại thiên cúng dường Thế Tôn, lại nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ, hoan hỷ phấn khởi kinh ngạc chưa từng có. Ở đời chư Phật quá khứ, các Thiên tử này thân cận cúng dường tích tập căn lành, tu tập thiền định sâu xa, vượt pháp thế tục; đối với chánh pháp của Đức Phật đều được pháp lạc tối thượng thậm thâm, thông đạt lìa mọi lý luận, sinh lòng tin hiểu quyết định. Biết rõ các pháp không phải làm, không phải không làm; không phải sinh, không phải không sinh; không phải được, không phải không được; không phải tận, không phải không tận, không phải lìa, không phải không lìa, không phải dơ không phải không dơ; không phải ngu, không phải không ngu, không phải trí; không phải không trí, không phải thấy không phải không thấy; không phải thủ, không phải không thủ; không phải không, không phải không không, không phải tướng, không phải không tướng; không phải nguyện, không phải không nguyện. Các Thiên tử này biết như vậy cho nên tâm không đắm trước, xa lìa các tưởng, không có chỗ nương tựa mong cầu, không có các thứ cầu tưởng, không có tác giả tưởng, không có pháp tác giả tưởng, không có phàm phu tưởng, không có pháp phàm phu tưởng, không có Thanh văn tưởng, không có pháp Thanh văn tưởng, không có Duyên giác tưởng, không có pháp Duyên giác tưởng; không có Bồ-tát tưởng, không có pháp Bồ-tát tưởng; không có Như Lai tưởng, không có pháp Như Lai tưởng; không có Niết-bàn tưởng, không có pháp Niết-bàn tưởng; không có luân hồi tưởng, không có pháp luân hồi tưởng. Các Thiên tử này rõ được pháp tánh như hư không, không có nhiễm trước, đối với pháp Phật lìa tưởng phân biệt.

Lúc đó, Phạm Thiên vương chắp tay hướng lên Đức Phật với ý vắng lặng nói kệ khen Phật:

Như Lai đầy đủ tuệ bình đẳng
Tu hạnh vắng lặng đến bờ giác
Thuyết pháp tịch tĩnh độ quần sinh
Quán các thế gian thường vắng lặng.
Bồ-đề tịch tĩnh vốn không nhiễm
Nương cảnh vắng lặng không động loạn
Thường ăn vị cam lồ tịch tĩnh
Đối với tất cả đều thông đạt.
Đạo tịch tĩnh tối thượng như vầy
Người khéo quán sát được diệu lạc
Nương tám Chánh đạo từng huân tu
Hay đoạn phiền não trói thế gian.
Tu pháp tịch tĩnh chứng Bồ-đề
Đó là lời Phật trước đã nói
Nhất định đến được thành Niết-bàn
Như Phật Thế Tôn không có khác.
Nếu người chánh giác giáo của Phật
Thọ trì đọc tụng siêng tu tập
Cầu hướng vắng lặng môn giải thoát
Tất cả thế gian không ai bằng.
Khéo tu bình đẳng đạo vắng lặng
Các căn hóa vui thường thanh tịnh
Đủ các phước tuệ trang nghiêm khắp
Như Na-la-diên có sức mạnh.
Nếu rõ pháp cam lồ tịch tĩnh
Thì mới dứt sạch các hữu tướng
Quán sát thế gian không chỗ nương
Là con tối thượng của Như Lai.
Người này đã từng gặp chư Phật
Gieo trồng vô biên thắng thiện căn
Đạt môn Đẳng trì vắng lặng này
Dứt trừ các hoặc không nhiễm trước.
Do đủ chánh niệm lực tinh tấn
Lìa mọi siểm khúc tưởng biếng nhác
Biết rõ sinh tử tức Niết-bàn
Hay lìa xa các tướng thế gian.
Chư Phật xuất hiện ở thế gian
Diễn nói pháp vắng lặng giải thoát
Người trí thông đạt không có nghi
Vĩnh thoát biển sinh tử luân hồi.
Nếu người dối uẩn cầu giải thoát
Đối pháp tịch tĩnh không ham thích
Chỉ ngộ pháp uẩn không chắc chắn
Đối Phật Bồ-đề sinh sợ hãi.
Lìa dục tâm tịnh cầu giải thoát
Hay dùng minh tuệ khéo lựa chọn
Các người ngu trước dục chấp tướng
Nên Phật chưa khai thị cho họ.
Nếu chấp tịch diệt cũng là trói
Không thể thành tựu Nhất thiết trí
Không khởi tất cả tâm chấp trước
Đó là khéo trụ hạnh vô tướng.
Hay đến chỗ vô danh an ổn
Đạt được công đức Phật thanh tịnh
Dứt trừ tranh luận phục ma oán
Hay đoạn tất cả trói phiền não.
Con dùng ý tịch tĩnh bình đẳng
Tán thán công đức tụ Mâu-ni
Hồi hướng pháp giới các hữu tình
Đồng chứng quả Bồ-đề vô thượng.

Lúc đó, Đại phạm Thiên vương biết các Phạm chúng Thiên tử khát ngưỡng công đức của Phật, chắp tay hướng lên Đức Phật nói kệ rằng:

Mâu-ni rõ được pháp thế gian
Quyết định hư giả như hư không
Cũng như mây thu và điện chớp
Phật thường chỉ rõ dứt các vọng.
Như người trong mộng bị đói bứt
Gặp thức ăn ngon thật tối thượng
Nhưng thật không ăn cũng không người
Pháp Như Lai chứng cũng như vậy.
Lại như người trong mộng đói khát
Được uống nước cam lồ mát mẻ
Nên biết khát uống thảy đều không
Pháp Như Lai chứng cũng như vậy.
Như ở trong mộng nghe tiếng hay
Những lời nói ấy thật không được
Cũng không người nói và người nghe
Rõ pháp như vậy không nghi hoặc.
Lại như tiêu sáo phát tiếng hay
Tiếng ấy vốn không có tự tánh
Người trí quán uẩn lý như vậy
Biết uẩn tự tánh không thể được.
Không làm không thọ không chúng sinh
Không có tạo nghiệp và thọ báo
Cũng không người thọ quả báo kia
Đức Phật biết rõ được lý này.
Ví như ma-ni thể trong suốt
Để nó trên áo tùy sắc biến
Tự tánh các pháp vốn không trần
Tùy theo phân biệt nhiễm càng tăng.
Lại như thổi ốc phát tiếng lớn
Nhưng tìm tiếng vang không được gì
Tự tánh tiếng ấy xưa nay không
Phật rõ các pháp cũng như vậy.
Lại như thức ăn ngon thế gian
Bởi do các vị hợp lại thành
Quán tự tánh nó xưa nay không
Phật rõ các pháp cũng như vậy.
Như tràng Đế Thích cực kỳ cao
Vô tư mà hiện các sắc tượng
Tự tánh tràng ấy xưa nay không
Thế Tôn chứng pháp cũng như vậy.
Ví như thân mượn các duyên thành
Tìm thể tướng ấy không thể được
Nên biết các uẩn vốn như vậy
Pháp Như Lai chứng cũng như thế.
Như khi đánh trống phát ra tiếng
Làm cho người nghe sinh vui thích
Nhưng tiếng vang ấy xưa nay không
Pháp Như Lai chứng cũng như vậy.
Như người dùng đùi đánh vào trống
Hãy tìm xem tiếng hiện nơi đâu
Đến khi tiếng lặng hướng phương nào
Pháp Như Lai chứng cũng như vậy.
Lại như tiếng trống không yêu ghét
Lìa duyên ẩm ướt tiếng mới vang
Thân này hư giả cũng như vậy
Pháp Như Lai chứng cũng như thế.
Như người đánh trống phát tiếng vang
Tiếng ấy mặc tình không sở triệu
Rõ thân như thế tự tánh không
Pháp Như Lai chứng cũng như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Phạm chúng Đại Phạm vương với ý tịch tĩnh khen ngợi Như Lai, liền từ trong miệng phóng ra ánh sáng lớn, khiến chúng hội thấy ánh sáng này rồi, chánh kiến kiên cố, tuệ thanh tịnh tăng trưởng. Lúc đó, Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng dùng kệ thưa hỏi:

Hôm nay Như Lai hiện tướng lạ
Phóng quang thanh tịnh rất hiếm có
Các hàng trời, người, rồng, quỷ, thần
Thấy thần biến này đều nghi hoặc.
Mâu-ni tối thượng Điều Ngự Sĩ
Hiện điềm tốt này vì nhân gì
Xin Phật khai diễn nhân phóng quang
Khiến các chúng hội tâm vui thích.
Chúng con nhất tâm sinh khát ngưỡng
Chiêm ngưỡng từ dung không tạm rời
Nếu được nghe tiếng phạm âm Phật
Mỗi mỗi trừ nghi sinh tin hiểu.
Như Lai hiện việc thần thông này
Là vì tự niệm các chúng sinh
Duyên gì phóng quang thanh tịnh này
Nay đã đúng lúc xin khai thị.
Đại Thánh Mâu-ni phương tiện lực
Khiến thời có phát tâm tăng thượng
Các chúng chắp tay đứng trước Phật
Cúi xin Như Lai mau diễn nói.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng ông thấy ánh sáng này
Vì muốn thành thục hết hữu tình
Chúng hội nếu nghe lời ta nói
Thì đối Bồ-đề không thoái chuyển.
Đại phạm Thiên vương các phạm chúng
Thông đạt pháp tánh trừ nghi hoặc
Ở trong vô lượng vô biên kiếp
Tu tập vô biên hạnh thanh tịnh.
Đối các cảnh giới không nhiễm trước
Tâm như hư không không trở ngại
Thường ưa lợi lạc các hữu tình
Nhưng lại không chứng quả Bồ-đề.
Như vậy họ ở đời vị lai
Quá hơn vô lượng hằng sa kiếp
Tu chứng đầy đủ môn giải thoát
Thành tựu vô biên nhẫn lực lớn.
Rồi sau mới thành đạo vô thượng
Hiệu là Đại Nhẫn Lực Như Lai
Điều phục nhiếp hóa các quần sinh
Quán các thế gian đều vắng lặng.
Phật ấy thọ mạng rất lâu dài
Xưa cùng tu hành các kiếp số
Đủ đại oai đức và danh xưng
Cứu khổ sinh tử của hữu tình.
Cõi Phật kia thật là nghiêm tịnh
Giàu có sung túc không ai bằng
Dù có trải qua vô lượng kiếp
Nói công đức ấy không thể hết.
Phật kia nói pháp chẳng nghĩ bàn
Tự tánh không tịnh không chỗ nương
Tất cả chúng sinh trong cõi ấy
Thành thục thiện căn không tổn giảm.
Dứt sạch tận nguồn khổ luân hồi
Không còn ai thọ thân sau nữa
Cũng không tên quỷ, súc, địa ngục
Chỉ có các hành khổ Thiên lưu.
Do ngộ các hành là vô thường
Đều phát thắng nguyện sinh nhàm chán
Thế nên hữu tình ở cõi kia
Vĩnh viễn xa lìa già, bệnh, chết.
Lại hữu tình kia khéo tu hành
Tai không nghe đến các tiếng khác
Chỉ nghe vô ngã và vô thường
Khổ, không, tịch tĩnh pháp vô tướng.
Phụng trì lời Phật không buông lung
Thường tu thuần định hạnh chân thật
Hướng cầu cam lồ môn giải thoát
Tối thượng tối thắng đạo Bồ-đề.
Tất cả chùa tháp ở cõi kia
Hoặc tường, hoặc vách và cây rừng
Đều phát tiếng Phạm âm thanh tịnh
Người nghe đều lên địa không thoái.
Là sức thần thông của Như Lai
Diễn tám thứ tiếng Phạm âm này
Nghe rồi xả bỏ dòng sinh tử
Cầu chứng tịch tĩnh vui chân thường.
Tất cả chúng sinh ở cõi ấy
Ở thời quá khứ hằng sa kiếp
Vì Bồ-đề nên từng tu hành
Nay theo thứ tự được thành Phật.
Đại Phạm Thiên vương các Phạm chúng
Do thường tu chứng lý tịch diệt
Lúc đó Phật kia và chúng sinh
Đồng ăn vị cam lồ tịch diệt.
Lại quán chúng sinh giới vốn không
Chưa từng tạm khởi tưởng mệt mỏi
Nên hay biến nhập các pháp tánh
Thường tu hạnh vô tướng vắng lặng.

PHẨM 21: THỌ KÝ QUANG ÂM THIÊN

Khi ấy, trong hội có tám mươi ức Quang âm thiên, thấy các A-tu-la vương cho đến Phạm Thiên vương ở chỗ Đức Thế Tôn đều hiện thần biến cúng dường các món; lại nghe Như Lai thọ ký cho họ thành Chánh đẳng Chánh giác, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có.

Lúc đó, Thiên chủ từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai phải cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng trước Đức Phật bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn! Có Tam-ma-địa tên là Chiếu sáng các pháp. Nếu có Bồ-tát nào khéo tu tập Tamma-địa này thì có khả năng hiểu được tất cả các pháp, lại còn có thể đạt được vô lượng biện tài như: Vô trước biện tài, Gia trì biện tài, Thiện xảo biện tài, Mỹ diệu biện tài, Thích ý biện tài, Ly phược biện tài, An ổn biện tài, Thậm thâm biện tài, Vi diệu biện tài, Vô đẳng biện tài, cho đến đạt được Như Lai sở hữu tối thượng biện tài.

Thưa Thế Tôn! Sao gọi là Tam-ma-địa Chiếu sáng các pháp? Nếu Đại Bồ-tát nào được Tam-mađịa này, đối với tất cả pháp không có tầm từ và tác ý. Nếu lìa những tâm sở ấy thì không có nghi hoặc. Như vậy đối với các pháp đoạn trừ nghi hoặc, đối với tất cả mọi nơi thông đạt không ngại. Vì sao? Vì các pháp lìa tự tánh. Nếu rõ được các pháp tự tánh không có thì Bồ-tát ấy có thể hiểu được nghĩa môn chữ A.

Chữ A là vô tác, A là biến khắp, A không phải là hữu vi, A không phải vô vi, A không phải không thành tựu, A không chỗ nương tựa, A là không động, A là không loạn, A không phải phân biệt, A không phải lìa phân biệt, A không phải rốt ráo, A không phải tan hoại, A không phải hình sắc, A không phải hiển sắc, A không phải trụ trì, A không phải định trụ, A không phải biết, A không phải thấy, A không phải ngôn thuyết, A không phải lìa ngôn thuyết, A không phải nghĩ bàn, A không phải lìa nghĩ bàn, A không phải đến đi, A không phải ra vào, A không phải hữu biểu, A không phải vô biểu, A không phải danh, A không phải tướng, A không phải đối trị, A không phải che lấp, A không phải tận, A không phải vô tận, A không phải hai, A không phải không hai, A không phải chân thật, A không phải hư vọng, A không phải cấu, A không phải tịnh, A không phải lìa tịnh, A không phải chấp, A không phải lìa chấp, A là không sinh, không thể không sinh, không có một pháp nhỏ nào có thể sinh, A là không diệt, không thể không diệt, không có một pháp nhỏ nào có thể diệt, A là bất không, không thể bất không, A là không tướng, không thể không tướng, A là không nguyện, không thể không nguyện. Khi hiểu được như vậy rồi biết không phải là hý luận. Đó gọi là hiểu được nghĩa môn chữ A.

Thưa Thế Tôn! Lại các pháp từ ý mà sinh, do chữ A cho nên dẫn sinh chữ Đạt. Nếu có thể hiểu được chữ Đạt thì có thể hiểu được tất cả giáo pháp. Điều mà gọi là hiểu rõ pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu biểu, pháp vô biểu, pháp thế tục, pháp thắng nghĩa.

Thưa Thế Tôn! Pháp thắng nghĩa chỉ là một chân như. Dùng lời nói để diễn đạt cho rõ thì do đâu mà có thể hiểu.

Thưa Thế Tôn! Như người trong mộng làm tất cả mọi việc. Cảnh mộng không phải thật, chỉ có giả danh. Khi thức rồi biết rõ đều do tâm tạo.

Thưa Thế Tôn! Như tiếng vang trong hang trống, tự tánh không thật, do hòa hợp mà sinh.

Thưa Thế Tôn! Như người huyễn hóa làm việc huyễn, người ngu không rõ cho là có thật.

Thưa Thế Tôn! Như sóng nắng vọng sinh tưởng là nước, người trí biết rõ thể của nó vốn không.

Thưa Thế Tôn! Lại như các sắc tượng hiện trong gương, vọng sinh phân biệt thật không thể được. Các pháp tánh không cũng lại như vậy, chỉ làm cho người ngu vui thích, các pháp xưa nay rốt ráo vắng lặng.

Thưa Thế Tôn! Con xưa từng nghe Phật trước đã nói pháp thắng nghĩa đế, thấy được chân thật.

Các Thiên tử này nói vậy rồi, Đức Phật liền ấn khả, cúi đầu đảnh lễ dùng kệ khen Phật:

Thế Tôn thông đạt Đệ nhất nghĩa
Nên hay lần lượt nói các pháp
Những người chân Phật tử thông tuệ
Đối lời Phật dạy hay du hý.
Người đời ngu si lại ít trí
Do trước ngã nên không thể hiểu
Ngã và ngã sở xưa nay không
Tìm cầu mười phương không thể được.
Như thấy sóng nắng không phải nước
Người ngu vọng tưởng cho là nước
Điên đảo như vậy chấp là ngã
Đều do nhiễm tuệ mê chân trí.
Đối với năm dục sinh ham thích
Chịu mọi sinh tử các khổ độc
Tự tánh các uẩn xưa nay không
Người ngu đọa lạc vào các nẻo.
Do không chánh trí tâm cuồng loạn
Đối các cảnh khổ vọng là vui
Bị ba lửa độc luôn thiêu đốt
Chưa từng giác ngộ sinh sợ hãi.
Người ngu không chán các cấu hoặc
Như theo giặc oán làm bạn thân
Nghe Như Lai nói thắng nghĩa không
Hoặc sinh sợ hãi, hoặc khinh chê.
Cũng như người yếu đuối thế gian
Tuy cầm kiếm bén tâm lo sợ
Như Lai diễn nói pháp chân chánh
Đó là một chữ A vi mật.
Phát sinh tuệ tối thượng chân thật
Cũng như đất bằng sinh cây cao
Khéo hay điều phục các quân ma
Mau chứng đạo Vô thượng Bồ-đề.
Mâu-ni có các đệ tử giỏi
Thông đạt đệ nhất nghĩa như vậy
Đã tự tiêu phục cấu ba độc
Thấy người bị độc ban pháp dược.
Dùng tám Chánh đạo làm thuyền lớn
Chuyên chở quần sinh thoát biển khổ
Khiến biết các pháp xưa nay không
Dứt các dị luận vọng phân biệt.
Người sáng bỏ tà về chánh đạo
Do xưa đã tu căn lành ấy
Rõ thể tánh pháp xưa nay không
Tâm không đắm trước liền giải thoát.
Nếu đạt pháp tánh tức bằng Phật
Đây là đại trí Na-la-diên
Các pháp tánh không không thể không
Cũng không trói buộc và người trói.
Chân như vắng lặng lìa các tướng
Thể không cấu nhiễm cũng không tịnh
Do vì pháp ấy vốn như vậy
Không phiền não trói cũng không đoạn.
Biết rõ các pháp tánh như vậy
Người này không lâu được Bồ-đề
Tự mình được độ lại lợi tha
Bàn bạc chánh lý không mong đáp.
Hữu tình thường sinh tưởng hư vọng
Đối cảnh chấp trước tướng nam nữ
Tăng trưởng ngu si tâm nhiễm ô
Cũng như quá khát theo sóng nắng.
Do tạo mỗi nghiệp sinh các nẻo
Nghiệp này đều do vọng tưởng sinh
Rõ thể tánh nghiệp xưa nay không
Rốt ráo không thể có tác giả.
Chúng con đã hiểu nghĩa Phật dạy
Biểu thị pháp môn khó nghĩ bàn
Quy mạng Mâu-ni Đại Đạo Sư
Các căn vắng lặng không đắm trước.
Như Lai thanh tịnh không cấu uế
Thành tựu vô biên biển công đức
Làm đèn sáng soi cho ba cõi
Kham nhận cúng dường của chư Thiên.
Chúng con nay ở trong đại hội
Tán thán Năng Nhân đại phước tụ
Lành thay, Vô tỷ Đấng Lưỡng Túc
Rốt ráo các pháp nghĩa thật tướng.
Do vậy nên được sức thiện căn
Hồi hướng chúng sinh trong ba cõi
Nguyện đời vị lai ở cõi tịnh
Nhất định thành tựu quả Bồ-đề.

Biết được tâm niệm của Quang âm Thiên tử, thông đạt được pháp Phật, đầy đủ biện tài thù thắng to lớn, hy vọng được Như Lai thọ ký thành Phật, Đức Thế Tôn từ trong miệng phóng ra ánh sáng lớn. Tôn giả Tỳ-kheo Mã Thắng thấy việc này rồi, liền chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Đại Bi cứu hộ khắp thế gian
Thành tựu công đức tụ tốt đẹp
Dùng sức phương tiện dứt các nghi
Phóng ánh sáng này rất hy hữu.
Chúng hội đều nghe lời Phật dạy
Tâm sinh tịnh tín nhất định hiểu
Siêng Tu-diệu hạnh hướng Bồ-đề
Vượt khỏi biển sinh tử luân hồi.
Tất cả Trời, Người, A-tu-la
Bị già bệnh chết nó bức bách
Như Lai thường dùng tâm đại Bi
Cứu giúp khiến tu tám Thánh đạo.
Do nhờ dũng mãnh siêng tinh tấn
Thâm tâm kiên cố không thoái lui
Ưa tu pháp môn hay như vậy
Thệ chứng Bồ-đề cầu trí Phật.
Khiến chúng hội này không nghĩ khác
Nhất tâm chiêm ngưỡng từ dung Phật
Nguyện nghe âm vi diệu Như Lai
Cắt đứt lưới nghi sinh vui thích.
Thấy Phật hiện việc thần biến này
Từ miệng phóng quang rất thanh tịnh
Thí như bệnh nặng gặp lương y
Cũng như con thơ nhìn cha mẹ.
Người nào thỉnh hỏi pháp tạng sâu
Đầy đủ rộng lớn sức Bi nguyện
Đạt được môn bí mật tối thượng
Cảm Phật hiện việc hy hữu này.
Chúng hội tâm đều rất hoan hỷ
Muốn nghe Phật nói nhân phóng quang
Đều được đầy đủ tâm thanh tịnh
Tu tập Tam-ma-địa như vậy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng đầy đủ diệu biện tài
Hay hợp quần tâm nên thưa hỏi
Nay chính là lúc nói nhân này
Đây là sức thần biến Như Lai.
Các chúng Quang Âm Thiên tử này
Thuở xưa từng cúng vô số Phật
Quán sát khổ chúng sinh thế gian
Thệ cầu Phật đạo mà cứu độ.
Đã tu hạnh chân thật rộng lớn
Quyết định sẽ được Nhất thiết trí
Vì họ đã bám chặt vào tà kiến
Chỉ bày đều khiến về chánh đạo.
Và cũng nhờ nghe chánh giáo Phật
Thâm nhập nghĩa vị sinh tôn trọng
Cũng như các người nữ thế gian
Muốn được sinh nam tâm đầy đủ.
Các Thiên tử này tâm thanh tịnh
Chí cầu vô thượng Phật Bồ đề
Từng trong vô lượng vô biên kiếp
Tu tập lợi tha hạnh thù thắng.
Giáo hóa chúng sinh không hạn lượng
Đều hay phát khởi tâm Đại thừa
Đầy đủ phước trí tướng nghiêm thân
Đến kiếp Tinh tú đều thành Phật.
Các Thiên tử ấy khi thành Phật
Quốc độ vô lượng trăm ức kiếp
Rộng lớn thù diệu khó nghĩ bàn
Trang nghiêm mọi thứ không gì bằng.
Các cõi Phật kia chưa từng nghe
Đến ba đường ác và tám nạn
Cũng không người chứng quả Nhị thừa
Mỗi mỗi đều lên địa không thoái.
Lại ở trong các cõi Phật kia
Thọ lượng hữu tình đều bằng nhau
Đầy đủ mười ức hằng hà sa
Thường hay phụng thờ các Đức Phật.
Nếu khiến vô số các chúng sinh
Y pháp Nhị thừa thủ diệt độ
Không bằng giáo hóa nơi một người
Hoặc nam hoặc nữ tu đại hạnh.
Đem phước tụ kia so với đây
Trăm ngàn vạn phần không bằng một
Huống nữa là khuyên nơi nhiều người
An trụ Đại thừa đạo Bồ tát.
Mã Thắng ông nay nên lắng nghe
Như Lai xuất thế rất hiếm có
Ví như hoa Ưu-đàm-bát la
Trải vô biên kiếp khó gặp được.
Phương tiện khéo léo mà nói pháp
Khai thị đạo chân thật vô vi
Người chí cầu Bồ-tát tịch tĩnh
Phải nên cung kính luôn thân cận.
Vô biên vô số các Thiên tử
Tung y báu đẹp trên không xuống
Lại dùng kệ hay rất thanh tịnh
Khen ngợi công đức của Như Lai.
Phật nói pháp cam lồ tịch tĩnh
Trừ khử nhiệt phiền não chúng sinh
Nếu phụng hành theo lời Phật dạy
Lần lần được thành Vô thượng giác.

QUYỂN 11

PHẨM 22: THỌ KÝ BIẾN TỊNH THIÊN

Lúc đó, trong hội có mười hai ức Biến tịnh Thiên tử, thấy các A-tu-la vương cho đến Quang âm thiên ở chỗ Thế Tôn cúng dường các thứ, lại nghe Đức Như Lai thọ ký cho họ thành Phật, tâm sinh hoan hỷ thật chưa từng có. Các Thiên tử này đã từng gặp vô lượng chư Phật thời quá khứ trồng các đức căn bản, hiểu rõ chánh pháp, đầy đủ pháp tài, có đại thần lực, tự tại vô ngại, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật thưa:

Thưa Thế Tôn! Có Tam-ma-địa tên là Siêu chư pháp lạc. Nếu có Bồ-tát nào chứng được Tam-ma-địa vi diệu này thì có khả năng làm được mọi sự nghiệp, lìa các phan duyên, được vui tối thượng không sinh khổ thọ, không có một nhân nào là không phải tưởng vui. Giả sử có vào các địa ngục, chịu đủ mọi hình phạt khổ cực bức bách, do nhờ sức Tam-ma-địa của Bồ-tát nên tất cả mọi khổ não thảy đều thành vui thích. Như các loại hữu tình ở thế gian kia tạo ra các ác, không làm theo luật nghi, cướp đoạt tài sản của người khác, bị phép vua bắt chém, hoặc cắt tai, mũi, hoặc chặt tay chân, hoặc bị đánh đập, hoặc bị trói buộc, bị các ngục tốt tống vào tù. Tuy bị khổ sở như vậy nhưng tâm không hối hận, hay bị tham lam che lấp, ngược lại tưởng là vui; hoặc các hữu tình tự dùng sức lực đi làm thuê mướn, vượt qua mọi gian truân đau khổ để tìm cầu, lấy khổ làm vui như các nghề may vá, làm đèn đuốc, ép nước mía, làm kỹ nhạc, làm các món thức ăn, hoặc cho voi uống rượu, hoặc đốt đèn tô và đèn dầu. Những người như vậy làm tất cả mọi việc, hoặc không như pháp, hoặc biếng nhác bị chủ quở trách chửi mắng đuổi việc, chịu mọi sự lăng nhục đều tưởng như vui. Lại như những người phường chèo ở thế gian, làm vui cho người khác, thay hình đổi dạng, vẽ mặt hình con cò tai mèo, hoặc mặt sư tử, hoặc đánh, hoặc trói, nhưng lại tưởng là vui. Vì sao? Vì chúng sinh ấy tạo nghiệp quyết định, bị tham sai khiến, tâm không hối hận. Đại Bồ-tát cũng như vậy, vì lợi hữu tình mà nhiều kiếp ở trong sinh tử, tu tập mọi khổ hạnh khó làm, chí cầu Chánh đẳng Chánh giác, cho đến cứu giúp chúng sinh đói khát, cho họ ăn thịt uống máu mình, thường sinh tưởng vui; hoặc đối với Bồ-tát chửi mắng đánh đập trói buộc và giết chết. Tuy chịu khổ não nhưng vẫn sinh tưởng vui, đầy đủ nguyện lực rộng lớn như vậy, có thể cùng với mọi vui thích chúng sinh. Đến khi lớn lên tu hành không có gián đoạn thì mới có thể đạt được Tam-ma-địa đó không bị ác ma làm động loạn, lại còn có khả năng phá hoại tất cả ma nghiệp. Nhờ thế mà được năm thứ tự tại:

1. Thọ mạng tự tại.

2. Chỗ sinh ra được tự tại.

3. Nghiệp báo tự tại.

4. Tầm từ tự tại.

5. Thọ dụng tự tại

Bồ-tát kia nếu cầu một đời thành Chánh đẳng Chánh giác, nhờ Tam-ma-địa vi diệu này nên được như ý mãn nguyện. Nếu Bồ-tát không chóng cầu Bồ-đề vô thượng thì có thể sống lâu vô lượng, vô số a-tăng-kỳ kiếp lợi lạc hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm đã vì nhiếp thọ hết tất cả hữu tình, không sợ đường ác, thọ sinh vào trong đó đều khiến tập học các hạnh Bồ-tát, phương tiện khéo léo, thông đạt các pháp, thành thục Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đây là người khéo trụ Bồ-tát thừa. Thưa Thế Tôn! Nếu Bồ-tát thích tu Tam-mađịa như vậy, nên biết người này đều là nhờ sức gia trì công đức oai thần của Như Lai thì mới có thể quyết định hiểu được các pháp tự tánh vốn không, không có nghi hoặc.

Biến tịnh Thiên tử nói như vậy rồi, liền chắp tay đảnh lễ khen ngợi Đức Phật:

Chúng con Biến tịnh các Thiên tử
Biết rõ được chánh pháp của Phật
Cúi đầu đảnh lễ Điều Ngự Sư
Các căn vắng lặng không sợ gì.
Như Lai dùng sức đại trí tuệ
Hay phá hoại các bọn ma quân
Quy y Đấng Tối Thượng Mâu-ni
Dẫn dắt quần sinh lên bờ giác.
Tự tánh các pháp không có gì
Cũng lại rốt ráo không chỗ trụ
Vọng tưởng phan duyên đều biết rõ
Như người ảo thuật biết việc huyễn.
Như vậy chúng sinh ở sáu nẻo
Đều từ nhân duyên hư vọng có
Tìm cầu tiếng vang tự tánh không
Như Lai chứng pháp cũng như vậy.
Nhân Trung tối thượng Thích Sư Tử
Quán các pháp vọng thảy đều không
Nó không ngã tướng cũng không nhân
Không tưởng chúng sinh và thọ giả.
Như Lai đại Từ không ai bằng
Vì độ người ngu hiện thế gian
Diễn pháp thật tướng khó nghĩ bàn
Tất cả đều không thể lường được.
Phật quán chúng sinh giới bình đẳng
Thường khởi Vô duyên từ thanh tịnh
Nên hay thương xót các thế gian
Rốt ráo không thấy tướng chúng sinh.
Nay con đối biển trí tuệ Phật
Tâm không cấu nhiễm lìa các nghi
Từ môn thanh tịnh lợi hữu tình
Kham nhận cúng dường của chư Thiên.
Như Lai tối thắng Thiên Trung Thiên
Đối với chúng sinh khởi từ hộ
Nhưng ở trong mười phương thế giới
Tìm tánh khổ kia không thể được.
Đã không chúng sinh cũng không khổ
Thế nên Như Lai không sở duyên
Có thể trừ khử mọi nghi lo
Chứng được chân thường vui tịch tĩnh
Phật ở các nẻo không thấy khổ
Cũng không sở chứng đại Bồ-đề
Đem lòng thương xót các hữu tình
Đều khiến lìa bỏ trói sinh tử.
Không khổ, không cứu, không chúng sinh
Cũng không Bồ-đề có thể được
Phật biết pháp tánh vốn như vậy
Nên con cung kính cúng dường Phật.
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Dùng bốn vô lượng lợi hàm thức
Không thấy tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả
Cũng không thấy có tướng chúng sinh,
Cũng không thấy có người buông lung
Cũng lại không thấy tu Thánh đạo
Biết môn phương tiện Phật như vậy
Nên con cúng dường lên Đức Phật.
Như Lai thường nói bốn Niệm xứ
Quán thân rốt ráo không thể được
Nay con biết rõ lời Phật dạy
Nên khởi cúng dường Bậc Cứu Thế.
Phật nói quán thọ không thể được
Vì thọ không có tánh chân thật
Cho đến thọ giả cũng như vậy
Nên con cúng dường Đức Thế Tôn.
Phật nói quán tâm và quán giới
Tìm hai tướng đó không thể được
Cũng không thấy có chỗ tu niệm
Cho đến người an trụ Niệm xứ.
Con nay không thấy có các pháp
Cũng lại không thấy người tu pháp
Phật dùng Niệm xứ độ chúng sinh
Nghĩ rằng tự tánh thường vắng lặng.
Lại nói niệm cùng pháp hòa hợp
Muốn cầu giải thoát nên tu tập
Nên con biết được lời Phật dạy
Nay được cúng dường Nhất Thiết Trí.
Niệm xứ một còn không thể được
Thì làm gì có hai ba bốn
Thế nên con nay đạt ý Phật
Rốt ráo không còn thọ khổ vui.
Như Lai thường nói bốn Chánh cần
Có các Tỳ-kheo chuyên tu tập
Đây chính là nhân của giải thoát
Thoát khỏi biển sinh tử luân hồi.
Như vậy không mở cũng không buộc
Không Phật, không pháp và Bồ-đề
Nhưng giả danh ấy lại không hoại
Nên con cung kính đảnh lễ Phật.
Phật nói như ý bốn Thần túc
Thù thắng tối thượng vui an ổn
Các căn tịch tĩnh được giải thoát
Nên tu như vậy được Niết-bàn.
Còn như ý và thần túc kia
Quán kỹ thể ấy không thể thấy
Không động, không tịnh, không vô tác
Hiển hiện như vậy khó nghĩ bàn.
Nay chúng hội các Thiên tử này
Lại không thấy có tưởng chúng sinh
Con đã biết rõ lời Phật dạy
Nên hay xa lìa mọi nghi hoặc.
Đó là pháp cúng dường tối thượng
Chỉ Phật kham thọ cúng dường này
Như Lai diệu trí không ai bằng
Nên con nhất tâm sinh tán thán.
Lại nữa, Mâu-ni nói năm Căn
Pháp này có thể được Bồ-đề
Phát sinh phước trí hai tư lương
Người khéo quán sát trừ nghi hoặc.
Đó là tín, tấn, niệm, định, tuệ
Không thấy năng tu và sở đắc
Con đối pháp Phật không có nghi
Thế nên con nay khởi cúng dường.
Như Lai tuyên nói năm thứ Lực
Trừ khử tà kiến tâm siểm khúc
Dứt các phiền não phá các ma
Hướng đến vô vi đạo tịch tĩnh.
Như vậy các lực không khuất phục
Không có bị trói và người trói
Con đối pháp Phật lìa nghi ngờ
Nay con cúng dường Điều Ngự Sĩ.
Thế Tôn khai thị bảy Giác phần
Thanh tịnh tối thượng đạo Bồ-đề
Nên các hữu tình khéo tu tập
Được chứng chân thường chỗ an ổn.
Mâu-ni lại nói tám Thánh đạo
Thành thục chúng sinh các thiện căn
Thường tu Thánh trí hiện ra trước
Dứt sạch nguồn khổ các trói buộc.
Thánh trí như vậy và các hoặc
Rốt ráo thanh tịnh không có gì
Chư Thiên từ đó không còn nghi
Nên con cúng dường Nhân Trung Thánh.
Khéo hay tu tập Xa-ma-tha
Tỳ-bát-xá-na cũng như vậy
Như Lai nhiều kiếp đã viên thành
Hay đoạn các hoặc và tập khí.
Như vậy tương ứng nhân và quả
Và người quán sát thảy đều không
Chư Thiên nhờ đó không còn nghi
Nên con cúng dường Mâu-ni chúa.
Nói quán bất tịnh trừ tham dục
Từ tâm đối trị các giận dữ
Dùng trí tuệ kia dứt ngu si
Vì lợi chúng sinh Phật đã nói.
Nhưng rồi tội tác không tội tướng
Thế nên không dơ cũng không sạch
Chư Thiên nhờ thế không còn nghi
Do đó cúng dường Vô Thượng Sĩ.
Lại nữa, Phật nói mười bất thiện
Sát, đạo, dâm, vọng và lưỡng thiệt
Ác ngôn, ỷ ngữ, tham, nhuế, si
Như vậy gọi là mười nghiệp đạo.
Chúng sinh không có cũng không sát
Còn chín lỗi ác lý cũng vậy
Không tướng thiện ác không đối trị
Vì tánh tội kia vốn vắng lặng.
Nghĩa này chính là lời Phật dạy
Nhưng nó không hoại pháp thể tánh
Pháp Mâu-ni tối thượng như vậy
Tuyên dương dẫn dắt các quần mê
Như lý tác ý suy nghĩ đúng
Đây là tối thượng chân Phật tử.

Khi Biến tịnh chư Thiên nói kệ này rồi đều im lặng đứng qua một bên.

Lúc đó, Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Thiên tử mong được Phật thọ ký, liền từ trong miệng phóng ra ánh sáng thanh tịnh. Thấy việc này rồi, Tôn giả Mã Thắng chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Hay thay, Điều Ngự Đại Thánh Chúa
Vì lợi quần sinh hiện thế gian
Trí tuệ thậm thâm khó nghĩ bàn
Hóa độ điều phục các Thiên chúng.
Cũng tận các pháp bậc cứu thế
Hiện tướng lạ này vì nhân gì
Đạo sư dẫn dắt các chúng sinh
Cúi xin Năng Nhân vì diễn nói.
Các chúng Biến tịnh Thiên tử này
Chắp tay tán thán rất hiếm có
Chiêm ngưỡng Như Lai núi công đức
Nghe rồi nhất tâm mà đảnh thọ.
Phật là tối thượng Thiên Nhân Sư
Thông đạt các pháp không trở ngại
Nên nguyện thương xót các chúng sinh
Nói việc phóng quang thần biến này.
Người nào từ đó sinh tịnh tâm
Hiểu rõ cam lồ vi diệu ấy
Ở trong mười phương thế giới đó
Sẽ được viên minh Nhất thiết trí.
Ai ở vị lai quốc độ Phật
Nhiêu ích nhiếp thọ các quần mê
Khéo tuyên diệu pháp luân vô thượng
Hàng phục ma quân và dị luận.
Các Thiên tử này nghe Phật dạy
Thâm nhập nghĩa vị tâm quyết định
Cúi xin Như Lai chấn pháp âm
Khiến các chúng hội trừ lưới nghi.
Trăm phước trang nghiêm Vô Thượng Sĩ
Từ tâm phủ khắp các thế gian
Tám thứ tiếng Phạm âm công đức
Đều nguyện nghe trì lời Phật dạy.
Nếu có chúng sinh ở chỗ Phật
Muốn nghe chánh pháp siêng tu tập
Tâm Bồ-đề vững chắc không lùi
Dần dần thành tựu Nhất thiết trí.
Như Lai khéo nói pháp vi diệu
Dứt sạch khổ sinh tử hữu tình
Phật tử tịnh tâm nên phụng trì
Khiến cho Phật chủng mãi không đoạn.

Khi ấy Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng khéo hỏi việc phóng quang
Ta vì lợi lạc các trời người
Phước ông có được khó nghĩ bàn
Tỷ dụ nói ra còn không hết.
Hay thay, Tôn giả ứng căn cơ
Tất cả đại chúng tâm vui thích
Các chúng Biến tịnh trời người này
Ở trong pháp ta được giải thoát.
Thuở xưa từng cúng dường chư Phật
Số ấy ngàn ức na-do-tha
Đạt các pháp tánh không có nghi
Đối với Phật ấy hỏi nghĩa này.
Do nhờ nhân duyên thuở xưa ấy
Dùng kệ vi diệu tán thán Phật
Đời này lại đem tâm thanh tịnh
Xưng dương các Thiện Thệ hiền kiếp.
Về sau kiếp Ưu-đàm-bát-la
Thành Phật hiệu là Na-la-diên
Giáo hóa vô số ức chúng sinh
Đều chứng vô vi vui tịch tĩnh.
Đồng cùng một kiếp hiện thế gian
Đều hiệu Pháp Tràng Chánh Đẳng Giác
Hóa độ chúng sinh số bằng nhau
Lần lượt đều sẽ thành Phật đạo.
Các Như Lai này hóa duyên xong
Phân bố di hình các xá-lợi
Xây dựng vô lượng vô số tháp
Như rải hoa trang nghiêm cõi Phật.
Như vậy tất cả loại chúng sinh
Đều khởi cúng dường nơi xá-lợi
Đều lên cửa cam lồ thanh tịnh
Tất cả Như Lai đều khen ngợi.
Nếu có ai xưng danh Phật ấy
Phát sinh tâm tịnh tín hoan hỷ
Nên biết nhờ nhân duyên thiện ấy
Đương lai được gặp Phật Di-lặc.
Họ được Từ Tôn nhiếp thọ cho
Siêng năng tinh tán đoạn các kết
Thích tu tịch tĩnh Xa-ma-tha
Lần lần được thành quả vô học.
Từ một cõi Phật đến cõi Phật
Cúng dường thân cận không mệt mỏi
Ở trong các trời, người, đại chúng
Khen ngợi công đức Phật tối thượng.
Nay đây các Biến tịnh Thiên tử
Đều đủ oai đức danh tiếng lớn
Thâm đạt Phật trí không nghĩ bàn
Đều đảnh lễ sát chân Như Lai.

PHẨM 23: THỌ KÝ QUẢNG QUẢ THIÊN

Lúc đó trong hội có tám ức Quảng quả Thiên tử, thấy các A-tu-la cho đến Biến tịnh Thiên tử ở chỗ Thế Tôn bày ra các thứ cúng dường dâng lên Như Lai, lại nghe Như Lai thọ ký cho họ thành Phật, tâm rất hoan hỷ thật chưa từng có. Các Thiên tử suy nghĩ: “Đức Như Lai đã nói tất cả các pháp ở trong ba tế cầu không thể được, tất cả các căn đều không thể nói. Nếu ai hiểu rõ pháp giới ấy thì có thể thông đạt tất cả các pháp. Nếu có thể biết rõ tất cả các pháp thì có thể chứng được bốn Đế chân thật. Đó là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Như Thế Tôn nói, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không tưởng, không tác. Thiên tử chúng con đối với pháp này tâm được quyết định không sinh nghi hoặc”.

Thưa Thế Tôn! Vì các chúng sinh vốn vắng lặng cho nên không có khổ, nên biết như vậy. Vì sao? Vì chúng sinh không cho nên khổ đế cũng không. Do không cho nên tập đế cũng không. Vì sao? Vì không có nhân này cho nên không có quả kia.

Thưa Thế Tôn! Do tập không cho nên diệt đế cũng không. Vì sao? Nếu không có tập đế thì không có đoạn tập. Do không diệt cho nên đạo đế cũng không. Vì sao? Vì không có đạo này cho nên không có đoạn tập.

Thưa Thế Tôn! Nghiệp phiền não kia không thể được, đoạn phiền não diệt cũng không thể được. Vì diệt không thể được cho nên đạo cũng không thể được, chưa có đạo này thì không có quả kia. Bốn Thánh đế này chỉ là phân biệt giả danh thi thiết mà có. Do không có cho nên không thể nói là quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì sao? Vì quá khứ đã diệt, hiện tại không dừng trụ, vị lai thì chưa đến; đối với ba tế đều không thể được, dựa vào thế tục tế mà có đủ các tướng. Nếu ba tế không có thì nó không sinh cũng không diệt, không tướng, không làm, không thí, không nhận, không nói, không nghe, không có nói pháp, không người giác ngộ. Do vì ba đời chưa từng có hoặc pháp hoặc không đều không thể nói. Chúng sinh điên đảo không thể hiểu được, không nhân, không duyên, không danh, không tướng, không có nêu ra, không chỗ hướng đến. Vì lìa tự tánh cho nên đều không thể được. Kia không thể được thì đây cũng không thể được. Vì sao? Vì chúng sinh giới vốn không có. Nếu mỗi mỗi pháp kia đều không thể được thì không có nhiễm tịnh, không làm, không chứng, không địa vị phàm phu, không địa vị Thanh văn, không địa vị Duyên giác, không địa vị Bồ-tát, không địa vị Như Lai, không địa vị không phải không địa vị. Đây là vô tướng tịch tĩnh chân như. Nếu nói hữu biểu, hữu vị hạn lượng thì gọi là Như Lai. Đó là dựa vào Thế tục tế mà nói chứ không phải trong Thắng nghĩa đế nói có Như Lai. Vì sao? Vì pháp không được. Nếu Đức Như Lai tuyên nói rộng lớn sắc giới cho đến thức giới, như vậy ý giới cho đến pháp giới. Nếu không pháp giới, không nơi nương tựa, cũng không nêu ra, không bốn Đế, không năm Căn, không duyên sinh. Thưa Thế Tôn! Tất cả pháp kia tùy theo nơi nào mà an bố kiến lập đủ mọi danh tự nhưng không thể hoại tánh của pháp giới ấy. Thưa Thế Tôn! Như địa giới tùy theo phương xứ nào kiến lập danh tự cũng không hoại bản tánh của địa giới ấy. Như vậy thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, lập thành danh tự khác cũng lại như vậy.

Thưa Thế Tôn! Nếu người chứng nhập pháp giới ấy thì mới có thể hiểu được hai mươi hai căn. Đó là: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, nữ căn, nam căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, ý căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.

Thưa Thế Tôn! Hoặc nhãn, thể của nhãn không thể được; hoặc căn, thể của căn không thể được. Vì sao? Vì nhãn lìa tự tánh không thể thấy. Nếu tự tánh pháp không có thì không phải vật. Do không phải vật cho nên không thể làm. Nếu không thể làm thì không sinh. Nếu không sinh thì không diệt. Do không sinh diệt thì không thể nói là quá khứ, hiện tại, vị lai; ở trong ba đời không có sinh diệt. Đó tức là không phải nhãn cũng không phải nhãn căn thì làm gì có tác dụng thế tục nêu ra.

Thưa Thế Tôn! Ví như trong hư không không có vật, chỉ là cuồng ngu của trẻ con, chỉ là giả danh mà thôi. Trong Thắng nghĩa đế cho đến hư không, chỗ lập danh tự cũng không thể được. Như vậy, cho đến nhãn và nhãn căn ở trong thắng nghĩa cũng lại không có.

QUYỂN 12

PHẨM 23: THỌ KÝ QUẢNG QUẢ THIÊN (TIẾP THEO)

Thưa Thế Tôn! Như vậy sắc uẩn không có phần lượng, không có nắm giữ, cũng không phải hiểu rõ. Vì sao? Vì tự tánh của sắc không thể được. Nếu các pháp không phải thi tác thì không tích tụ. Do không tích tụ cho nên gọi là uẩn. Cũng như thế gian xây dựng nhà ở, cung điện, lầu gác, cửa, tường vách, lan can, vườn rừng, khe rạch, tường thành bao quanh, nhiều vật tích tụ lại gọi là thành ấp. Nên biết, ấp ấy xưa nay không có. Vậy lại dùng pháp nào mà gọi là tích tụ? Do không tích tụ cũng không có uẩn, thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nếu hiểu rõ được các uẩn, sở tạo tịnh sắc, nắm giữ tự tánh đều không thể được. Nên biết, địa giới, tánh địa giới rốt ráo thanh tịnh; cho đến phong giới, tánh phong giới đều rốt ráo thanh tịnh. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Sao lại nói có quá khứ, hiện tại, vị lai, sinh diệt các tướng. Thế nên, sắc uẩn không thể phân biệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể phân biệt.

Thưa Thế Tôn! Nếu nhãn xứ tự tánh không phải có, xưa nay thanh tịnh, cũng không có khổ chỉ là thế tục giả danh, hiển thị danh và thể ấy đều không thể được. Vì sao? Vì thật ra không có một pháp nhỏ nào được gọi là nhãn, cũng không có một pháp nhỏ nào gọi là xứ. Như vậy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tự tánh không có, xưa nay thanh tịnh khổ và tên khổ đều không thể được. Thưa Thế Tôn! Lại nhãn giới kia không có pháp nhỏ nào có thể được. Vì sao? Vì nhãn lìa nhãn tánh, hoặc giới lìa giới tánh, cho đến pháp giới cũng lại như vậy. Do lìa tự tánh cho nên không có vật. Do không vật cho nên không phải sở tác; không có sở tác thì không có sinh, nếu không sinh thì không diệt; nếu không sinh không diệt thì không quá khứ, hiện tại, vị lai kiến lập đặt ra. Nên biết, các pháp vốn lìa tự tánh. Nếu Phật lìa tự tánh thì không có danh tướng, không có tác dụng, không thể nói, không khen ngợi, không thọ ký.

Các Thiên tử nói vậy rồi, người trong hội nghe tâm sinh vui thích hoan hỷ phấn khởi quyết định được thiện lợi.

Lúc đó, Thiên chủ từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật bạch rằng:

– Bạch Thế Tôn! Có Tam-ma-địa tên là Vô lượng nghĩa môn. Nếu Đại Bồ-tát nào hay tu tập Tam-ma-địa này thì có thể được vô lượng biện tài như: Tương tục biện tài, Tương ưng biện tài, Chánh thuyết biện tài, Vô trước biện tài, Bất mậu biện tài, Vi mật biện tài, Thậm thâm biện tài, Thiện xảo biện tài, Mỹ diệu biện tài, Chánh luận biện tài. Được các biện tài thù thắng vi diệu như vậy, mỗi mỗi đều hiểu rõ vô lượng pháp môn, đầy đủ chánh kiến, đạt các pháp tánh, xả bỏ phan duyên, diệt trừ si ám, hiểu pháp môn tổng trì nghĩa thù thắng thậm thâm, hiểu rõ uẩn, hiểu rõ xứ, hiểu rõ giới, hiểu rõ các căn, hiểu rõ bốn đế, hiểu rõ duyên sinh, hiểu rõ chúng sinh, hiểu rõ không chúng sinh, hiểu rõ có tưởng, hiểu rõ không tưởng, hiểu rõ có hình, hiểu rõ không hình, hiểu rõ ngã, hiểu rõ vô ngã, hiểu rõ không, hiểu rõ bất không, hiểu rõ tướng, hiểu rõ không tướng, hiểu rõ nguyện, hiểu rõ không nguyện, hiểu rõ xuất ly, hiểu rõ không xuất ly, hiểu rõ hữu vi, hiểu rõ vô vi. Đối với lời dạy của Như Lai không thể nêu ra, chỉ là giả danh thế tục phân biệt không phải ngôn thuyết, không phải không ngôn thuyết, không phải nghĩ bàn, không phải không nghĩ bàn, không thấy, không phải không thấy, không nghe, không phải không nghe, không giác, không phải không giác, không biết, không phải không biết, không liễu biệt, không phải không liễu biệt, không ngộ, không phải không ngộ; không được, không phải không được; không đối, không phải không đối; không chứng, không phải không chứng; không phải trắng, không phải đen; không phải sáng, không phải tối; không phải cạn, không phải sâu, không phải sạch, không phải dơ; không phải yên, không phải động; không phải buộc, không phải mở, không phải thuận, không phải nghịch, không phải nhiễm, không phải tịnh, không phải đến, không phải đi, không phải sinh, không phải diệt, không phải trí, không phải ngu, không phải thành, không phải hoại, không phải đạo, không phải không đạo, không phải chấp, không phải lìa chấp, không phải chúng sinh, không phải không chúng sinh, không phải thọ giả, không phải không thọ giả, không phải ngã, không phải vô ngã, không phải có, không phải không có, không phải không, không phải không không, không phải tướng, không phải không tướng, không phải nguyện, không phải không nguyện, không phải xuất ly, không phải không xuất ly, không phải hữu vi, không phải vô vi, không phải đoạn, không phải thường, không phải tà, không phải chánh, không phải chân, không phải giả, không phải thật, không phải vọng, không phải trụ, không phải không trụ, không phải y chỉ, không phải không y chỉ, không phải giải thoát, không phải lìa giải thoát, không phải giám sát, không phải hiện chứng, không phải luân hồi, không phải Niết-bàn, không phải cảnh giới phàm phu, không phải cảnh giới Thanh văn, không phải cảnh giới Duyên giác, không phải cảnh giới Bồ-tát, không phải cảnh giới Phật, không phải cảnh giới, không phải không cảnh giới. Nếu hiểu rõ pháp giới như vậy thì mới có thể hiểu được mười hai duyên sinh. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, cho đến ưu, bi, khổ, não là khổ tụ lớn. Thưa Thế Tôn! Tánh vô minh kia không thể được. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nếu lìa pháp tự tánh thì không phải vậy. Do không phải vật cho nên rốt ráo thanh tịnh, cũng không sinh diệt, không phải nhiếp ba đời, không danh, không tướng, không thể hiển thị, cũng không ký biệt, chỉ là vì thành thục người ngu dị sinh giả danh an lập sinh các hý luận, ở trong thắng nghĩa thật, không thể được.

Thưa Thế Tôn! Nếu vô minh không có tự tánh thì làm sao có thể sinh chi hành kia? Do vô minh không cho nên chi hành cũng không cho đến không có sinh duyên lão tử.

Thưa Thế Tôn! Nếu pháp không sinh thì làm sao có già. Nếu không có già thì cũng không có bệnh và chết. Ba đời chư Phật Bồ-đề chỉ dựa theo danh tự Thế tục đế mà đặc ra, chứ trong Thắng nghĩa đế không nói như vậy.

Điều mà gọi là vô minh tức là Bồ-đề, các chi hữu cũng là Bồ-đề. Như vậy, hiểu rõ mười hai duyên sinh tức là hiểu rõ pháp giới chân thật.

Thưa Thế Tôn! Như Lai không sinh, tất cả pháp không sinh. Thế nên pháp không sinh tức là Như Lai. Như Lai không diệt, tất cả pháp không diệt. Vì tất cả pháp không diệt nên gọi là Như Lai.

Thưa Thế Tôn! Như Lai không tướng, tất cả pháp cũng không tướng. Thế nên pháp không tướng tức là Như Lai.

Nói tóm lại, như vậy không danh, không tướng, không dơ, không sạch, không thương, không ghét, pháp giới không thể biết cũng lại không thể tri.

Thưa Thế Tôn! Chân như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chân như. Thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Thưa Thế Tôn! Thật tế tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là thật tế. Thế nên tất cả các pháp tức là Như Lai.

Thưa Thế Tôn! Tùy theo pháp sở hữu tức là Như Lai, trong pháp ấy có tất cả pháp. Thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai chứng Chánh đẳng Chánh giác thì nên biết người này chấp trước kiến. Vì sao? Vì Như Lai không hai, Bồ-đề cũng không hai. Do không hai cho nên không có sở đắc.

Thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai chuyển pháp luân vô thượng thì nên biết người này chấp trước kiến. Vì sao? Vì thật ra không có một pháp nhỏ nào Như Lai được. Do tánh các pháp không phải tùy chuyển.

Thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai hóa độ vô lượng chúng sinh thì nên biết người này chấp trước kiến. Vì sao? Vì thật không có chúng sinh mà Như Lai hóa độ.

Thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai duyên hết nhập Bát-niết-bàn thì nên biết người này là chấp trước kiến. Vì sao? Vì pháp tánh thường trú chẳng phải sinh diệt. Nếu có chúng sinh ở chỗ ta mà nói pháp yếu như vậy, ai có khả năng tin hiểu thì nên biết người này không còn thoái chuyển đối với Chánh đẳng Chánh giác.

Thưa Thế Tôn! Giả sử pháp giới có sự biến đổi ấy, nếu thiện nam, thiện nữ thâm tín pháp này mà còn thoái chuyển đối với Bồ-đề thì không có điều đó.

Lúc đó, các Quảng quả Thiên tử ở trước Như Lai nói về pháp thắng nghĩa mà mình đã chứng rồi đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, nhất tâm chắp tay dùng kệ khen Phật:

Quy mạng Mâu-ni đại Thánh Chúa
Đầy đủ thắng tuệ không ai bằng
Thương xót các hữu tình thế gian
Thường nói Đệ nhất nghĩa như vậy.
Thánh tựu vô lượng công đức tụ
Cứu vớt luân hồi các nhân khổ
Tự mình thông đạt tánh các pháp
Lại hay khai thị các quần mê.
Tự tánh năm uẩn vốn không có
Nên biết chỉ người cuồng ngu ấy
Ví như bôi keo trên thân khỉ
Không trí nghi hoặc không thể thoát.
Tìm cầu thể uẩn không thể được
Không chỗ nương tựa dứt phan duyên
Đem anh lạc trang sức hư không
Người trí từ đó được giải thoát.
Lại nữa, Như Lai nói như vầy
Tự tánh các nhập thảy đều không
Cũng như tiếng vang trong hang sâu
Tìm tiếng vang đó có từ đâu.
Ngu si phàm phu do đó trói
Đối pháp chân đế không biết rõ
Như đem châu báu trang nghiêm gió
Người trí quán đó không đắm trước.
Bậc Nhất Thiết Trí nói như vầy
Các giới xưa nay thường vắng lặng
Như nắm hư không chỉ có tên
Lừa dối trẻ ngu thật không được.
Phàm ngu vọng tưởng chấp là có
Do đối thắng nghĩa không thể hiểu
Lần lượt luân hồi trong ba cõi
Ví như khách buôn lần biển cả.
Lại nữa, Như Lai nói lời này
Tự tánh các căn thường thanh tịnh
Như các hình bóng hiện trong gương
Tìm mãi rốt cuộc vốn không có.
Vô trí nghi hoặc không thể hiểu
Mê pháp chân thật vọng sinh ái
Như cá vực sâu dính vào lưới
Do bị trói buộc thoát từ đâu.
Chúng sinh vốn không, pháp cũng không
Nương nghĩa chân thắng không thể được
Như hình sĩ phu dựa vào vách
Người trí quán biết không có ngã.
Người ngu chấp trước sinh vui thích
Đều do không đạt nơi chánh giáo
Tự tánh nhân duyên không chỗ nương
Như loài noãn sinh ra khỏi trứng.
Pháp duyên sinh trong sát-na có
Mới khởi liền diệt không chắc chắn
Như người trong mộng thọ ngũ dục
Thức dậy tìm cầu có vui gì.
Hữu tình vô thỉ vọng phân biệt
Luôn bị cảnh giới nó trói buộc
Nếu hay thông đạt pháp tánh không
Như loài phi cầm thoát lồng lưới.
Các pháp vắng lặng lìa ngôn thuyết
Phật đối với đó chứng pháp tánh
Các pháp vắng lặng xưa nay không
Phật hay như vậy về vắng lặng.
Các pháp tịch tĩnh lìa các tướng
Phật hay tuyên xướng Đệ nhất nghĩa
Phật đối ba cõi không đắm trước
Như Lai do vậy hiện thế gian.
Phật đối các pháp lìa lo sợ
Do không khởi lên tưởng tự tha
Rộng tuyên chánh giáo phá quần mê
Nên xứng bậc khéo dắt chúng sinh.
Phật đối các pháp lìa phân biệt
Mà hay trợ hiển Đệ nhất nghĩa
Là môn phương tiện của Như Lai
Không phải cảnh giới của phàm phu.
Hoặc có chúng sinh nói như vầy
Như Lai đã chứng đại Bồ-đề
Hoặc có chúng sinh nói như vầy
Như Lai hay chuyển diệu pháp luân,
Hoặc có chúng sinh nói như vầy
Như Lai đã độ hà sa chúng
Hoặc có người nói lời như vầy
Phật thoát luân hồi đã từ lâu,
Nhiêu ích vô lượng chúng sinh rồi
Nhập vào tịch tĩnh đại Niết-bàn
Đều là phàm phu sở chấp kiến
Luôn bị lũ ma nó dắt dẫn.
Đối pháp thắng nghĩa không biết rõ
Do không rõ nên không biết Phật
Nếu có người đạt chánh pháp này
Người này quyết định được Bồ-đề,
Rộng hay cứu độ các thế gian
Đầy đủ công đức tụ tối thắng
Pháp tốt đẹp vắng lặng như vậy
Thể tức chân như không biến đổi.
Chỉ có Mâu-ni mới chứng biết
Ta đã thông đạt nghĩa thật tướng
Nay Quảng quả các Thiên tử này
Đối pháp thậm thâm tâm quyết định
Cung kính chắp tay không duyên ngoại
Đang đứng trước Phật rộng tuyên nói.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết Quảng quả các Thiên tử rốt ráo ngộ nhập Đệ nhất nghĩa đế và có khả năng tăng trưởng các căn lành, liền từ trong miệng phóng ra ánh sáng lớn. Thấy tướng này rồi, Tôn giả Mã Thắng chắp tay hướng lên Đức Phật dùng kệ thưa hỏi:

Đầy đủ phước trí Vô Thượng Sĩ
Nhân gì hiện thần biến tướng này
Thuở xưa con từng nghe lời Phật
Nếu phóng tịnh quang là đại lợi.
Như Lai hiện tướng lạ này rồi
Hay khiến chúng hội tâm thư thái
Các hàng Trời, Người, A-tu-la
Đều nguyện đích thân nghe Phật nói.
Hôm nay Mâu-ni vì cớ gì
Trong miệng bỗng phóng quang thanh lương
Đại chúng chắp tay đứng trước Phật
Chiêm ngưỡng dung nhan không tạm rời.
Phật là vô lượng Thiên Nhân Sư
Nguyện mau nói tướng hy hữu này
Tất cả Tịch tuệ ở thế gian
Nếu nghe Phật nói trừ do dự.
Nay đây các vị trời Quảng quả
Mỗi mỗi tự biết việc thành Phật
Họ không sở chứng cũng không tu
Người nào làm gì được cái gì.
Tám thứ tiếng Phạm âm Như Lai
Chúng sinh nghe rồi đều ham thích
Tùy thuận chánh lý làm như pháp
Đều hay hộ trì lời Phật dạy.
Các hội chúng con sinh khát ngưỡng
Muốn ở chỗ Phật đích thân nghe
Nếu được Phật nói nhân tu xưa
Trời người tăng trưởng các thiện lợi.
Các Thiên tử ấy đã gieo trồng
Quyết định thành tựu Nhất thiết trí
Sẽ độ vô lượng chúng sinh khổ
Khiến ngộ chân như tự tánh pháp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Hay thay, Mã Thắng hỏi việc này
Ta sẽ vì ông phân biệt nói
Vì lợi Quảng quả các trời người
Ở trong đại chúng hiện điềm này.
Như Lai đầy đủ Nhất thiết trí
Có ba nguyên nhân phóng ánh sáng
Tùy thuận quán sát cơ duyên ấy
Hiện việc thần biến tốt đẹp này.
Hoặc có người ưa trụ Niết-bàn
Hoặc người tiểu trí cầu Thanh văn
Hoặc lại có người thích im lặng
Chí cầu Duyên giác quả Bồ-đề,
Hoặc làm Đạo sư cho thế gian
Cầu Phật Bồ-đề lợi hàm thức
Nếu ta quán sát thiện căn ấy
Tùy theo ham thích mà đặt ra.
Nếu người cầu Thanh văn được độ
Vì những hạng ấy phóng hạ quang
Vì người cầu Duyên giác giải thoát
Phóng quang trung phẩm mà tế độ.
Mã Thắng nên biết tối thượng quang
Là thọ ký chư Thiên thành Phật
Như vậy thứ lớp hạ trung thượng
Hiển thị ba thừa được chứng quả.
Nếu vì Thanh văn phóng ánh sáng
Quang ấy phóng rồi nhập vào chân
Nếu vì Bích-chi-phật tịnh quang
Hiện rồi liền nhập vào nơi rún.
Nếu vì người cầu đạo Vô thượng
Quang ấy nhập vào đảnh của Phật
Tùy theo thắng liệt mà nêu ra
Nay thọ ký chư Thiên thành Phật.
Tỳ-kheo Mã Thắng nên biết rõ
Ta nay lại nói tướng ánh sáng
Nếu như ánh sáng càng tăng rộng
Uyển chuyển trên không quay bên phải.
Ngang bằng thân Phật trang nghiêm khắp
Rực rỡ cũng như đống vàng ròng
Biến hiện ánh sáng tịnh như vậy
Nên biết ký biệt quốc độ Phật.
Nếu quang phóng rồi như cái lọng
Che phủ phía trên thân Như Lai
Có quang như hoa trụ hư không
Rực rỡ hiển phát tướng đoan nghiêm.
Hoặc quay ba vòng vào thân Phật
Đây là ký biệt Phật thọ mạng
Nên biết Như Lai hiện các tướng
Khéo ứng quần cơ tâm vui tin.
Nay đây Quảng quả các Thiên tử
Đầy đủ tám mươi câu-chi số
Đã trải qua vô lượng số kiếp
Phụng thờ cúng dường các Đức Phật.
Thường ưa nói pháp thắng nghĩa này
Hóa lợi hàm thức không mệt mỏi
Thệ cầu Vô thượng đại Bồ-đề
Dũng mãnh siêng tu không thoái chuyển.
Trải qua ba mươi sáu ức kiếp
Tu đủ phước tuệ trồng căn lành
Cứu độ vô biên các hữu tình
Đều khiến lìa khổ được an vui.
Về sau đều sẽ được thành Phật
Cùng đồng danh hiệu Na-la-diên
Kiếp ấy tên là Thắng kim chàng
Đều ở cõi khác thành Chánh giác.
Mỗi Đức Như Lai hiện thế gian
Quốc độ thanh tịnh trang nghiêm đẹp
Thân Phật cũng như mặt trời sáng
Đầy đủ trí sáng công đức tụ.
Các Như Lai ấy thọ lâu dài
Trụ thế quá hơn vô số kiếp
Mỗi mỗi hóa độ các Thanh văn
Số ấy quá nhiều không hạn lượng.
Giả sử thầy toán và học trò
Tỷ dụ tính đếm không thể biết
Hóa chúng Bồ-tát cũng vô biên
Bằng chúng Thanh văn có khác gì.
Như vậy các chúng Bồ-tát này
Tu hành đồng với chư Phật trước
Do nhờ tâm Bồ-đề kiên cố
Đều được thành tựu Nhất thiết trí.
Các Như Lai ấy hóa duyên xong
Chánh pháp tồn tại mãi thế gian
Trong mười hai na-do-tha kiếp
Vì các Phật tử thường giữ gìn,
Nên chánh pháp ấy lưu bố mãi
Có người phát đại tâm Bồ-đề
Số lượng cũng như hằng hà sa
Mỗi mỗi siêng tu hạnh Bồ-tát.
Như vậy Phật kia diệt độ rồi
Những người chứng ngộ quả Thanh văn
Thảy đều cầu hướng vào Niết-bàn
Cũng như củi hết lửa liền tắt.
Đại chúng hôm nay nghe Phật nói
Đều phát địa tâm sinh tin hiểu
Hoan hỷ đang đứng ở trước Phật
Nhất tâm đảnh lễ chân Như Lai.
Cúng dường vô lượng không ai bằng
Dâng lên Điều Ngự Thiên Nhân Sư
Đều phát tâm tinh tấn dũng mãnh
Như cứu đầu cháy cầu thoát khỏi.
Siêng tu Thắng tuệ ba-la-mật
Thường ưa thân cận bậc Pháp sư
Đây là môn chân thật tối thượng
Tỳ-kheo các ông khéo tu học.

QUYỂN 13

PHẨM 24: TỊNH CƯ THIÊN TỬ NÓI KỆ KHEN PHẬT (PHẦN 1)

Khi ấy, trong hội có vô số Tịnh cư Thiên tử và vô lượng chúng sinh đối với pháp Phật tâm được giác ngộ, lìa mọi nghi hoặc, sinh lòng ưa thích sâu xa, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có, nhất tâm chắp tay đứng trước Đức Phật đều dùng kệ khen Phật:

Thiên tử Thiện Thí nói kệ:

Xưa Phật xả thân mạng
Đất nước và vợ con
Viên mãn hạnh thí ấy
Nên con đảnh lễ Ngài.

Thiên tử Tịnh Giới nói kệ:

Trì tịnh giới kiên cố
Lìa tất cả cấu nhiễm
Vượt qua bờ giác ngộ
Đảnh lễ Bậc đủ giới.

Thiên tử An Nhẫn nói kệ:

Phật tu mọi hạnh nhẫn
Vì người đoạn chi tiết
Không sinh tâm oán hận
Được thành Tuệ vô thượng.

Thiên tử Tinh Tấn nói kệ:

Đại hùng mãnh Thế Tôn
Bỏ gánh nặng sinh tử
Siêng tu không thoái chuyển
Mau đạt đến Bồ-đề.

Thiên tử Tĩnh Lự nói kệ:

Như Lai oai đức lớn
Thường sống trong thiền định
Không đắm trước thế gian
Ba tế đều bình đẳng.

Thiên tử Thắng Tuệ nói kệ:

Sức thắng tuệ Như Lai
Biết các hạnh chúng sinh
Như nghiệp mà thọ báo
Tùy giới thú lưu chuyển.

Thiên tử Minh Phước Nghiệp nói kệ:

Nếu tu phước nghiệp ấy
Thắng báo thường hiện tiền
Ngoài ra không ai biết
Đó là cảnh giới Phật.

Thiên tử Liễu Tội Tánh nói kệ:

Chúng sinh do hoặc nghiệp
Thường tham cầu vật ấy
Nếu liễu ngộ được tâm
Tất cả đều thông đạt.

Thiên tử Thiện Xảo Trí nói kệ:

Nếu người đối trí Phật
Khéo suy nghĩ phân biệt
Thường nhớ như vật mình
Bồ-đề rất dễ được.

Thiên tử Thiện Xả Hạnh nói kệ:

Nếu khởi các hoặc nghiệp
Nội tâm không suy nghĩ
Rõ tội tánh vốn không
Đó là người chứng pháp.

Thiên tử Biến Thú Hạnh nói kệ:

Nếu người tạo các nghiệp
Theo thiện ác lưu chuyển
Chịu quả báo tốt xấu
Phật nhãn đều thấy biết.

Thiên tử Ly Phan Duyên nói kệ:

Nếu đối với thọ báo
Biết rõ được phan duyên
Tuy sinh vào các nẻo
Thường cùng trí tùy chuyển.

Thiên tử Tùy Thuận Thiện Xảo nói kệ:

Nếu tạo ra các ác
Hoặc tu tập các thiện
Đều là do nghiệp trước
Tùy chỗ sinh thọ quả.

Thiên tử Nghiệp Thiện Xảo nói kệ:

Rõ hạnh nghiệp ba đời
Đoạn trừ không tạo mới
Ngu phu không chánh tuệ
Theo ác chịu vần xoay.

Thiên tử Quả Thiện Xảo nói kệ:

Hoặc nhân ít quả nhiều
Hoặc nhân nhiều quả ít
Không biết rõ điều đó
Là ngu si ngoại đạo.

Thiên tử Liễu Tri Nghiệp Hạnh nói kệ:

Nhân lành sinh chỗ tốt
Nghiệp ác sinh hiểm nạn
Tùy hành nghiệp chúng sinh
Như Lai đều biết rõ.

Thiên tử Kiến Pháp Lạc nói kệ:

Nếu người thọ phước báo
Mà không rõ thiện pháp
Đó là tự dối gạt
Không lâu sẽ đọa lạc.

Thiên tử Thiện Thọ Sinh nói kệ:

Nếu tạo các thắng nghiệp
Thuận sinh thọ báo ấy
Chỉ Phật mới biết đúng
Thế gian không thể hiểu.

Thiên tử Thiện Thọ Danh nói kệ:

Nếu nghiệp trải nhiều đời
Hoặc vô số ức kiếp
Lần lượt đến thân này
Thọ báo Phật đều rõ.

Thiên tử Thọ Báo Thành Thục nói kệ:

Nếu nghiệp này hòa hợp
Hữu tình ấy thọ sinh
Đều từ nhân duyên xưa
Như Lai đều hiểu rõ.

Thiên tử Căn Vị Thành Thục nói kệ:

Căn ấy chưa thành thục
Ưa làm hạnh bất thiện
Lìa xa Đấng Lưỡng Túc
Không mong cầu giải thoát.

Thiên tử Thiện Thành Thục nói kệ:

Nếu nghiệp đã thành thục
Và người chưa thành thục
Nghiệp tánh xưa nay không
Đều tùy tâm tạo ra.

Thiên tử Quyết Định Thọ nói kệ:

Chúng sinh tạo tác nghiệp
Hoặc nặng hoặc rất nhẹ
Như Lai đều chứng biết
Thọ báo không sai khác.

Thiên tử Liễu Tội Tướng nói kệ:

Nếu tạo các hạnh ác
Sẽ đọa vào đường ác
Hoặc người gặp duyên tốt
Chuyển nặng khiến chịu nhẹ.

Thiên tử Minh Nghiệp Báo nói kệ:

Tích tập các tội ác
Nhất định chịu trói buộc
Không sợ khổ vị lai
Là tà kiến ngoại đạo.

Thiên tử Thiện Tư Duy nói kệ:

Khéo lựa chọn thiện hạnh
Thiểu thiện chiêu thắng báo
Như dùng những giọt nước
Đổ xuống biển không giảm.

Thiên tử Nhập Giải Chư Pháp nói kệ:

Nếu người vĩnh viễn tận
Nghiệp hữu lậu phân biệt
Sẽ chứng quả Vô học
Là lời Như Lai dạy.

Thiên tử Chứng Phật Trí nói kệ:

Phật nhãn đều hiểu rõ
Các nghiệp quả ba đời
Chủng tập không dư lại
Kính lễ Bậc Biến Tri.

Thiên tử Nghiệp Vô Dư nói kệ:

Các hữu tình thế gian
Hoặc sinh đây chết kia
Như Lai đã dứt hẳn
Được xưng Bậc Vô Úy.

Thiên tử Ly Phan Duyên Hạnh nói kệ:

Hành nghiệp của chúng sinh
Chỉ hướng đến sinh diệt
Quả báo như mộng huyễn
Là lời Như Lai dạy.

Thiên tử Phục Chư Hoặc nói kệ:

Ngu si đắm trước dục
Như khát nước uống muối
Thế nên Điều Ngự Sư
Quán nó như việc mộng.

Thiên tử Ly Phân Biệt nói kệ:

Do lỗi lầm tham si
Khởi phân biệt chấp trước
Người trí khéo biết rõ
Trong mộng có vui gì.

Thiên tử Tức Hư Vọng nói kệ:

Trong mộng nói việc mộng
Khởi lên từ điên đảo
Như Lai đã chỉ dạy
Nên cầu pháp vắng lặng.

Thiên tử Quán Sát Lậu Tận nói kệ:

Như người ở trong mộng
Thấy trời đổ mưa to
Rõ mộng thể vốn không
Nên biết lậu không có.

Thiên tử Liễu Mộng Cảnh nói kệ:

Cảnh mộng vốn là giả
Từng thấy gì lậu ấy
Lần lượt vọng tưởng sinh
Mà hiểu được lậu ấy.

Thiên tử Đạt Chân Thường nói kệ:

Như đồng nữ thế gian
Mộng thấy sinh con trai
Sinh rồi lại chết yểu
Sao có khổ biệt ly?

Thiên tử Tầm Mộng Cảnh nói kệ:

Như người ở trong mộng
Bị người chặt đầu mình
Kia biết vốn không có
Vậy ai là người chặt?

Thiên tử Chánh Quán Sát nói kệ:

Người trí rõ các pháp
Như cảnh mộng hòa hợp
Không vui không biệt ly
Đây là nghĩa chân thắng.

Thiên tử Trí Tâm nói kệ:

Nghe chánh pháp từ Phật
Tâm rõ như hư không
Trong mộng tìm nhân mộng
Pháp tánh vốn như thật.

Thiên tử Ý Hỷ nói kệ:

Hàng trời người các ông
Thường vui trong thiền định
Biết rõ thế gian kia
Cũng như bóng trong gương.

Thiên tử Thiện Tuệ nói kệ:

Như Lai đã nói pháp
Như tiêu, sáo phát tiếng
Nhiêu ích các trời người
Nên con xưng tán lễ.

Thiên tử Liễu Huyễn Hóa nói kệ:

Người huyễn làm trò huyễn
Người ngu không thể rõ
Người trí đã biết rõ
Tất cả đều như huyễn.

Thiên tử Định Trung Biến Hóa nói kệ:

Như Lai hiện thế gian
Như trong mộng thấy huyễn
Người thông đạt lý Phật
Không nghi hoặc điều này.

Thiên tử Như Huyễn Hóa nói kệ:

Người huyễn biết pháp huyễn
Đối huyễn hay biến hiện
Do biết rõ huyễn ấy
Là thấy tánh các pháp.

Thiên tử Phân Biệt Quán Trí nói kệ:

Ngươi quán Phật thế gian
Khởi suy nghĩ phân biệt
Trong mộng thấy thân Phật
Đối với pháp nói gì.

Thiên tử Ly Tư Duy nói kệ:

Không vật không sinh tham
Do tham mà tích tụ
Không nghĩ cũng không tham
Thấy Phật cũng như thế.

Thiên tử Chánh Trí nói kệ:

Hang sâu vốn không tiếng
Cũng không người nghe tiếng
Như vậy đạt lý Phật
Đối thế gian không trước.

Thiên tử Thiện Thuyết nói kệ:

Nếu người nghe tiếng vang
Tiếng ấy không thể được
Người ngu không biết rõ
Vọng chấp cho là thật.

Thiên tử Các Các Nhập Giải nói kệ:

Các người ngu chấp trước
Không đạt pháp thắng nghĩa
Nếu người rõ pháp tánh
Mình người không nghi hoặc.

Thiên tử Cầu Lợi Ích nói kệ:

Pháp thắng nghĩa tối thượng
Bằng chư Phật không khác
Không nói cũng không nghe
Và không người lãnh ngộ.

Thiên tử Nhập Giải Pháp nói kệ:

Đoạn các cấu phiền não
Phân biệt sở phân biệt
Lìa nhiễm được thanh tịnh
Mâu-ni đã nói thế.

Thiên tử Thiện Tư Duy nói kệ:

Đối danh số các pháp
Đoạn phiền não hữu lậu
Tâm tịnh không dơ uế
Đây là chân Phật tử.

Thiên tử Vô Y Chỉ nói kệ:

Tâm bằng với hư không
Không đắm trước ba cõi
Khéo thí không mong đáp
Bậc tịch tĩnh vô úy.

Thiên tử Vô Nhiễm Ô nói kệ:

Đối dục lìa các tham
Sắc vô sắc cũng vậy
Tâm Mâu-ni bình đẳng
Như không, không chướng ngại.

Thiên tử Vô Hy Vọng nói kệ:

Đối dục không hy vọng
Sắc vô sắc cũng vậy
Lìa hòa hợp tương ưng
Quy y Vô Thượng Vương.

Thiên tử Bạt Ái Dục nói kệ:

Do đoạn ái cấu đó
Nhổ tên độc ba cõi
Kính lễ Điều Ngự Sư
Vĩnh viễn qua bờ giác.

Thiên tử Hàng Phục Ái nói kệ:

Phát tinh tấn tối thượng
Trừ tham ái thế gian
Thường khởi tâm đại Bi
Ngài là bậc cứu thế.

Thiên tử Ly Tương Ưng Ái nói kệ:

Lìa ái dục tương ưng
Không lại thọ luân hồi
Quy y Bậc Vô Thượng
Như sen vượt nước bùn.

Thiên tử Đạt Pháp Tánh nói kệ:

Quy y Bậc lìa trói
Thông đạt nghĩa thật tướng
Hiểu rõ tánh các pháp
Tâm ấy không sợ gì.

Thiên tử Siêu Dục Nê nói kệ:

Tham dục như bùn nhơ
Dũng mãnh hay thoát khỏi
Kính lễ Đấng Mâu-ni
Không sinh lại ba cõi.

Thiên tử Khí Trân Ngoạn nói kệ:

Nếu người truy tìm xa
Thì hay lìa các ác
Không tham lam trân ngọc
Tâm tịnh hơn thế nữa.

Thiên tử Ly Ưu nói kệ:

Nếu người đối cảnh dục
Tâm không sinh buông lung
Thì vượt khỏi lưới ma
Đây là bậc Đại trí.

Thiên tử Thí Vô Úy nói kệ:

Mình người tu chánh hạnh
Lìa nhiệt não lo sợ
Phật dùng vô ngại biện
Khiến chúng sinh hiểu rõ.

Thiên tử Trì Dự nói kệ:

Nếu nghe lời Phật dạy
Khéo suy nghĩ phân biệt
Người này ở thế gian.
Hay tận các gốc khổ.

Thiên tử Vô Sở Úy nói kệ:

Thích Sư Tử cứu thế
Biển trí rộng mênh mang
Quyết định rõ các pháp
Hay khởi đạo đối trị.

Thiên tử Ly Chư Bố nói kệ:

Kính lễ Thiên Trung Tôn
Vô cấu không đắm trước
Khéo nhổ tên phiền não
Lìa tất cả sợ hãi.

Thiên tử Vô Sở Trước nói kệ:

Nếu chư Thiên, Ma, Phạm
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Giữa đại chúng tập hội
Chỉ Phật được vô úy.

Thiên tử Sư Tử Phấn Tấn nói kệ:

Khéo nói tất cả pháp
Thành tựu Nhất thiết trí
Kính lễ Thích Sư Tử
Ba cõi không ai bằng.

Thiên tử Trừ Kinh Bố nói kệ:

Sư tử ở hang núi
Tâm không có sợ gì
Rống vang dội rừng núi
Các thú nhỏ chạy dài
Thánh chúa Thích Sư Tử
Trí tuệ khó nghĩ bàn
Diễn pháp các ma sợ
Hàng phục các ngoại đạo.

Thiên tử Hàng Phục Ma Oán nói kệ:

Như Lai chứng đắc pháp
Thế gian không ai bằng
Nên con cúi đầu lễ
Bậc Thánh hơn các Thánh.

Thiên tử Sư Tử Tuệ nói kệ:

Kính lễ Mâu-ni chúa
Đạo sư của các Thánh
Thành tựu Nhất thiết trí
Thông đạt pháp vô biên.

Thiên tử Tùy Phật Thọ Sinh nói kệ:

Như Lai chứng các pháp
Không ai có thể hỏi
Tùy chỗ Phật thọ sinh
Thỉnh tuyên nghĩa diệu pháp.

Thiên tử Trì Tạng nói kệ:

Phật trì tạng chánh pháp
Vô úy khéo tuyên nói
Hữu tình trăm ngàn ức
Đều khiến sinh giác ngộ.

Thiên tử Tùy Pháp Hành nói kệ:

Tùy pháp tu các hạnh
Hay phát tâm Bồ-đề
Dũng mãnh ở thế gian
Là trượng phu tối thượng.

Thiên tử Nhạo Pháp Lạc nói kệ:

Chúng sinh đại tâm ấy
Do nghe lời Phật dạy
Như pháp mà tu học
Được thành quả vô thượng.

Thiên tử Tịnh Tâm nói kệ:

Tiếng Phạm âm Như Lai
Nghe rồi tâm thanh tịnh
Tuy vạn loại cơ duyên
Không ai có thể hỏi.

Thiên tử Thanh Tịnh Quyến Thuộc nói kệ:

Phật ở trong nhiều kiếp
Như lý tu các hạnh
Đủ tướng đẹp sáng ngời
Được viên mãn quyến thuộc.

Thiên tử Vô Lậu Pháp nói kệ:

Như Lai tận các lậu
Rống tiếng rống Sư tử
Đối pháp vị tằng hữu
Phân biệt trừ nghi hoặc.

Thiên tử Đạt Thắng Nghĩa nói kệ:

Như Lai đạt trí lực
Rõ tự tánh các pháp
Các hàng trời và người
Không có ai bằng Phật.

Thiên tử Tận Chư Lậu nói kệ:

Đại Sa-môn tối thắng
Rốt ráo tận các lậu
Nay trong đại hội này
Không ai khởi chất vấn.

Thiên tử Thường Dũng Mãnh nói kệ:

Đại hùng đại trí lực
Thấy rõ được các pháp
Dứt sạch tận nghiệp hoặc
Đối vấn nạn không não.

Thiên tử Tịch Ý nói kệ:

Vĩnh viễn lìa lỗi tham
Sân si cũng như vậy
Không suy nghĩ ác nghiệp
Kính lễ Bậc Tịch Tĩnh.

Thiên tử Tương Ưng Hạnh nói kệ:

Quy y Thiện Thệ Sư
Dứt sạch các hoặc nghiệp
Thường tương ưng chánh hạnh
Đạt đến Nhất thiết trí.

Thiên tử Tương Ưng Trí nói kệ:

Vô biên hạnh tương ưng
Là hành xứ của Phật
Chủng hiển tập đều trừ
Được thành Nhất thiết trí.

Thiên tử Tương Ưng Tuệ nói kệ:

Phật dùng tuệ tương ưng
Làm ánh sáng thế gian
Căn bản nhân các hoặc
Rốt ráo vĩnh viễn trừ.

Thiên tử Tịch Tĩnh Thọ nói kệ:

Đoạn sạch tất cả hoặc
Thân tâm thường vắng lặng
Phật tử siêng tinh tấn
Như vậy còn sợ gì.

Thiên tử Trí Hiện Chứng nói kệ:

Phật tận các phiền não
Chủng hiện và câu sinh
Phá vô minh chúng sinh
Đại Bi không ai bằng.

Thiên tử Bạt Trừ Tùy Hoặc nói kệ:

Mâu-ni Thiên Trung Thiên
Dùng trí để giác ngộ
Đoạn tăng thượng tùy hoặc
Và trừ tập khí khác.

Thiên tử An Ẩn Trụ nói kệ:

Năng Nhân hiện thế gian
Đoạn các nhân hữu lậu
Thị hiện từ mẹ sinh
Là vì lợi hữu tình.

Thiên tử Ly Chư Nhiễm nói kệ:

Điều Ngự Thiên Nhân Sư
Lìa phiền não sợ hãi
Thiêu sạch gốc rễ khổ
Không còn chủng tử nào.

Thiên tử Trừ Hư Vọng nói kệ:

Phật dùng Nhất thiết trí
Vứt sạch cấu vô minh
Sống với hạnh thanh tịnh
Là Bậc khéo điều phục.

QUYỂN 14

PHẨM 24: TỊNH CƯ THIÊN TỬ NÓI KỆ KHEN PHẬT (PHẦN 2)

Thiên tử Thiện Xưng Tán nói kệ:

Phật vượt biển ba cõi
Hóa những ai khó hóa
Thế nên đối thế gian
Được xưng Bậc Vô Úy.

Thiên tử Đạt Chân Đế nói kệ:

Thành tựu Nhất thiết trí
Diệt trừ các hoặc nghiệp
Dứt sạch không còn gì
Đó là đại tịch tĩnh.

Thiên tử Pháp Tràng nói kệ:

Dựng pháp tràng cao thắng
Xô ngã mạn kiên cố
Sức dũng kiện vô lượng
Chỉ chánh đạo chúng sinh.

Thiên tử Pháp Hải nói kệ:

Mâu-ni nói các pháp
Là đại pháp bảo tạng
Khai đạo cho quần sinh
Khiến đến chỗ an ổn.

Thiên tử Pháp Y nói kệ:

Phật tử trụ đại pháp
Tâm ấy không nhàm chán
An nhẫn lìa sợ hãi
Rống lên tiếng sư tử.

Thiên tử Cầu Pháp Nghĩa nói kệ:

Phật tử khéo biết rõ
Nên siêng cầu chánh pháp
Nghe rồi hành như giáo
Mau được đạo Bồ-đề.

Thiên tử Khát Ngưỡng Pháp nói kệ:

Vô lượng trăm ngàn vạn
Muôn ức các hữu tình
Muốn nghe âm thanh thật
Chí vững thường tinh tấn.

Dũng Pháp Thiên tử nói kệ:

Đầy đủ đại biện tài
Loại trừ các dị luận
Ưa tu hạnh thù thắng
Được Bồ-đề tối thượng.

Thiên tử Trì Pháp nói kệ:

Phật nói pháp đệ nhất
Thậm thâm rất khó hiểu
Ấn thắng nghĩa đều không
Khiến được đạo tịch tĩnh.

Thiên tử Lạc Dũng Thí nói kệ:

Phật tử khéo hành thí
Xả bỏ thân mạng mình
Nhờ nhân duyên thế này
Được thành tối Chánh giác.

Thiên tử Ly Nhiễm Tuệ nói kệ:

Trì tịnh giới kiên cố
Tâm ấy không sợ gì
Nghe chánh pháp âm Phật
Đảnh thọ không quên mất.

Thiên tử Vô Dị Duyên nói kệ:

Thánh Chúa pháp trung vương
Khéo léo nói các pháp
Không cầu quả Nhị thừa
Siêng tu đạo Vô thượng.

Thiên tử Cận Trụ nói kệ:

Thế hùng Đấng Lưỡng Túc
Xuất hiện vì chúng sinh
Phân biệt nói ba thừa
Chỉ trí Phật rốt ráo.

Thiên tử Thành Tựu Biện Tài nói kệ:

Danh Phật khắp mười phương
Biện tài không hạn ngại
Đều dùng tâm thanh tịnh
Đối sở thuyết tùy hỷ.

Thiên tử Các Các Thành Tựu Biện Tài nói kệ:

Nếu người không biện tài
Cầu nguyện nơi Đức Phật
Nói pháp trừ sợ hãi
Người nghe không khinh chê.

Thiên tử Thường Hỷ nói kệ:

Phật tử trụ nhẫn nhục
Không sợ hãi, sân nhuế
Chí tâm cầu Bồ-đề
Thường vui không khiếp nhược.

Thiên tử Ly Nhị Thừa nói kệ:

Là trưởng tử Như Lai
Không ưa thừa thấp kém
Nếu nghe âm thanh Phật
Hướng đến đạo vô thượng.

Thiên tử Vô Năng Thắng nói kệ:

Dũng mãnh đại tinh tấn
Không sợ các phiền não
Xả Duyên giác, Thanh văn
Thệ cầu Tuệ vô thượng.

Thiên tử Tương Tục Thiện Pháp nói kệ:

Ưa tu pháp thanh tịnh
Liên tục không gián đoạn
Mâu-ni Đại Đạo Sư
Biết chỗ nương tựa ấy.

Thiên tử Thiện Thuyết Pháp nói kệ:

Nhiếp thọ chánh pháp ấy
Như Lai đã ấn khả
Trụ tinh tấn kiên cố
Như trăng tròn không giảm.

Thiên tử Thiện Pháp Tánh nói kệ:

Tự tánh pháp trong sạch
Bị khách trần che lấp
Đều do tâm ô nhiễm
Như Lai đã hiện chứng.

Thiên tử Đạt Chánh Lý nói kệ:

Pháp tánh vốn không nhiễm
Trắng đen không cùng chung
Tương ưng chánh lý này
Đức Như Lai đã nói.

Thiên tử Phân Biệt Thiện Ác nói kệ:

Tất cả pháp bất thiện
Sức thiện có thể diệt
Nếu ác pháp tăng nhiều
Sẽ tổn hại bạch nghiệp.

Thiên tử Nhập Chánh Giải nói kệ:

Do hạnh nhiễm ô ấy
Bạch pháp không tăng trưởng
Nhất định tổn hại duyên
Là lời Như Lai nói.

Thiên tử Cầu Giải Thoát nói kệ:

Sức nhiễm ô rất mạnh
Tâm không mong giải thoát
Che lấp Nhất thiết trí
Do vậy khéo lựa chọn.

Thiên tử Minh Tâm nói kệ:

Nếu tâm thoát các dục
Nghiệp ác không sinh lại
Như Lai đã chứng biết
Vì chúng sinh diễn nói.

Thiên tử Kiến Phiền Não nói kệ:

Nếu không rõ chánh pháp
Không biết hạnh nhiễm ô
Thường trái lời Phật dạy
Cách Thánh đạo càng xa.

Thiên tử Kiến Tội Hạnh nói kệ:

Nếu không tạo các ác
Thiện nghiệp càng tăng lên
Thế nên người trí ấy
Thích giải thoát an lạc.

Thiên tử Tín Lực nói kệ:

Lìa hạnh tham nhuế si
Thì vượt khỏi đường ác
Như Lai xuất thế gian
Thường răn dạy như vậy.

Thiên tử Tri Thiện Ác nói kệ:

Nếu đối pháp nhiễm tịnh
Tâm không hay phân biệt
Đức Phật nói người này
Là người thân ngu si.

Thiên tử Giải Thoát Hạnh nói kệ:

Tùy thuận lời Phật dạy
Bỏ các điều bất thiện
Người này đối Thánh đạo
Quyết định được thành tựu.

Thiên tử Giải Thoát Hiện Tiền nói kệ:

Nếu bỏ các pháp ác
Bạch nghiệp liền hiện tiền
Siêng năng tu không lùi
Ma không được tiện lợi.

Thiên tử Thuận Chánh Lý nói kệ:

Chư Phật đã nói pháp
Lợi lạc các quần sinh
Khiến lìa xa phi xứ
Không theo sự khuyến thỉnh.

Thiên tử Cát Tường Vô Úy nói kệ:

Quán bất tịnh tự tham
Là tương ưng chánh hạnh
Khi đã trừ tham rồi
Nghiệp chướng càng chuyển xa.

Thiên tử Tấn Thú Thắng Tuệ nói kệ:

Quán tâm Từ trị sân
Được giải thoát sân ấy
Nếu giải các oán sâu
Không còn sợ hãi gì.

Thiên tử Tịnh Nhãn nói kệ:

Tịnh tuệ đoạn si hoặc
Đó là pháp đối trị
Đã khiến trừ si ấy
Không theo lời người dạy.

Thiên tử Phá Nghi Hoặc nói kệ:

Trụ chánh niệm tư duy
Hay lìa các nghi hoặc
Nếu gặp thầy bạn tà
Y pháp khéo điều phục.

Thiên tử Đạt Vô Tướng nói kệ:

Như Lai nói pháp không
Nương không khéo an trụ
Đã đạt được chánh lý
Ngộ không do người khác.

Thiên tử Trừ Ngã Mạn nói kệ:

Rõ ngã, mạn tự tha
Cao ngạo do đâu có
Tương ưng cùng chánh hạnh
Thảy đều khiến trừ đoạn.

Thiên tử Tịch Ý nói kệ:

Vĩnh viễn đoạn nghi hoặc
Thâm tâm thường vắng lặng
phiền não không sinh lại
An ổn mà được độ.

Thiên tử Quán Chiếu nói kệ:

Biết rõ đạo phi đạo
Nương tịnh mà lìa nhiễm
Tùy thuận lời chư Phật
Trừ sợ được giải thoát.

Thiên tử Liễu Thế Tục nói kệ:

Thế tục chỉ giả danh
Hay khởi đạo đối trị
Nên biết Thế Tôn ấy
Cũng giả danh đặt ra.

Thiên tử Thân Oai Nghi nói kệ:

Dùng trí để dẫn đường
Thân nghiệp theo pháp hành
Lợi lạc chúng hữu tình
Đắc thành Nhất thiết trí.

Thiên tử Tịnh Thân Nghiệp nói kệ:

Thân Phật nghiệp thanh tịnh
Việc làm không lầm lỗi
Thương xót các chúng sinh
Nay con quy mạng lễ.

Thiên tử Thân Nghiệp Quyết Định nói kệ:

Thân nghiệp khéo lựa chọn
Phương tiện lợi quần sinh
Tín lễ Điều Ngự Sư
Làm ánh sáng thế gian.

Thiên tử Thiện Quán Thân nói kệ:

Khéo quán sát thân nghiệp
Đủ tướng tốt thanh tịnh
Là Trượng phu vô thượng
Hay ban tất cả vui.

Thiên tử Thành Tựu Ngữ Nghiệp nói kệ:

Xa lìa lời nói ác
Đủ công đức tốt đẹp
Trụ chánh niệm tư duy
Là điều Như Lai dạy.

Thiên tử Ứng Biện nói kệ:

Tiếng Phạm âm Như Lai
Thế gian đều tôn trọng
Khéo xét thời cơ ấy
Lời phi nghĩa không nói.

Thiên tử Thành Tựu Nghĩa Lợi nói kệ:

Xa lìa không nhiêu ích
Tương ưng cùng an lạc
Không hoại mất quả báo
Lời Phật trước đã nói.

Thiên tử Bất Tương Vi nói kệ:

Chưa từng sống tà mạng
Cầu lợi mà vọng ngữ
Phật danh tiếng to lớn
Thế gian không thể hoại.

Thiên tử Thật Ngữ nói kệ:

Phật xuất hiện thế gian
Nói ra đều chân thật
Thế nên các trời người
Đều thích nghe diệu pháp.

Thiên tử Liễu Thật Tế nói kệ:

Phật dùng lời chân thật
Được thành tối Chánh giác
Rõ các pháp duyên sinh
Là Bậc Chánh Biến Tri.

Thiên tử Siêu Duyên Sinh nói kệ:

Nếu các pháp hữu vi
Và thật tánh các pháp
Mâu-ni Pháp Trung Vương
Như lý đều thấy biết.

Thiên tử Quyết Định Hạnh nói kệ:

Đối việc làm tự tha
Nghiệp hành thân ngữ ý
Phật dùng trí thanh tịnh
Đều phân biệt diễn nói.

Thiên tử Định Ý nói kệ:

Phật dùng ý thanh tịnh
Sáu lần quán chúng sinh
Quy mạng đấng cứu thế
Đại Bi không ai bằng.

Thiên tử Thiện Tý Sát nói kệ:

Những gì Như Lai làm
Oai nghi không khuyết giảm
Bi trí thường tương ưng
Thương nhớ đến ba cõi.

Thiên tử Giác Ý nói kệ:

Nơi mà tâm Phật duyên
Thân ngữ thảy đều nhu
Ở trong các đại chúng
Chưa từng có sai lầm.

Thiên tử Minh Liễu Ý nói kệ:

Ý của Phật như đất
Đại Bi quán chúng sinh
Biết pháp tự tánh không
Phương tiện khiến khai ngộ.

Thiên tử Quá Khứ Thiện Xảo nói kệ:

Nếu người ở thuở xưa
Đã tu các hành nghiệp
Thí, giới, nhẫn, tấn, thiền
Như Lai đều hiểu rõ.

Thiên tử Quán Sát Quá Khứ nói kệ:

Xưa trồng các cội đức
Phụng thờ muôn ức Phật
Nay mãn tâm thuở đó
Đạt được quả Bồ-đề.

Thiên tử Cụ Túc Tương Ưng Hạnh nói kệ:

Phật ở vô lượng kiếp
Tùy chỗ tu thắng hạnh
Thường tương ưng chánh niệm
Không xả bỏ Bồ-đề.

Thiên tử Quán Sát Tiên Hạnh nói kệ:

Thân cận các Như Lai
Tu tập khéo thưa hỏi
Khéo trụ Tam-ma-địa
Phát sinh chủng chủng pháp.

Thiên tử Bản Hạnh Tương Ưng nói kệ:

Quá khứ chỗ chư Phật
Thỉnh hỏi hành như giáo
Đối với Tam-ma-địa
Quán sát không mệt mỏi.

Thiên tử Trí Túc Trụ nói kệ:

Sinh tử nhiều lỗi lầm
Nên làm không nên làm
Như Lai biết rõ rồi
Vì nói pháp giải thoát.

Thiên tử Quán Tiên Nghiệp Hạnh nói kệ:

Xưa cùng tạo các ác
Giống với nghiệp nhiễm ô
Hoặc ăn nuốt lẫn nhau
Hoặc cùng nhau vui chơi.

Thiên tử Liễu Tiền Tế nói kệ:

Như Lai xuất thế gian
Dùng thiền định trí lực
Biết rõ đời quá khứ
Các nẻo không có ngại.

Thiên tử Tri Hậu Tế nói kệ:

Phật biết đời vị lai
Trí tuệ không chướng ngại
Diệt đây và sinh kia
Nghiệp báo cũng như vậy.

Thiên tử Tri Hậu Tế Cảnh Giới nói kệ:

Như Lai biết đời sau
Trí lực không hạn ngại
Việc làm của chúng sinh
Tùy nghiệp chịu báo ấy.

Thiên tử Ly Luân Hồi nói kệ:

Như Lai đại dũng mãnh
Thành tựu tuệ vô thượng
Không đắm trước ba cõi
Trụ cảnh giới tối thắng.

Thiên tử Liễu Thế Tục nói kệ:

Chỗ chúng sinh quy thú
Khởi lên vô lượng tưởng
Chỉ là tự giả danh
Chính là Như Lai nói.

Thiên tử Quán Hiện Tại nói kệ:

Đấng dũng mãnh hiện tại
Trí lực không thể hoại
Hà sa các cõi Phật
Phân biệt không hạn ngại.

Thiên tử Trụ Vô Úy nói kệ:

Thánh chúa Pháp Trung Vương
Chiếu ba đời bình đẳng
Các pháp không tự tánh
Người ngu không thể hiểu.

Thiên tử Trí Vô Trước nói kệ:

Như Lai khéo điều phục
Ba đời không chỗ trụ
Do pháp lìa tự tánh
Tất cả không được gì.

Thiên tử Minh Tam Thế Tuệ nói kệ:

Rõ quá vị không thể
Uẩn khởi chợt quy diệt
Tướng luân hồi như vậy
Mâu-ni đã nói thế.

Thiên tử Ý Vô Trước nói kệ:

Các pháp đều huyễn hóa
Như sóng nắng tiếng vang
Hữu tình và thế gian
Tự tánh không chân thật.

Thiên tử Hỷ Tam Thế nói kệ:

Như Lai tuệ vô song
Hay hiểu rõ ba đời
Các căn tự tánh không
Tất cả đều như huyễn.

Thiên tử Lạc Dục Hạnh nói kệ:

Như Lai ở giữa đêm
Thị hiện thành Chánh giác
Phát siêng năng ham muốn
Chưa từng có thoái giảm.

Thiên tử Phát Khởi Lạc Dục nói kệ:

Quang minh Phật ở đời
Tinh tấn không tập diệt
Do đại dũng mãnh ấy
Siêu vượt thành Chánh giác.

Thiên tử Siêu Dục Tưởng nói kệ:

Phật xuất hiện thế gian
Thật dũng mãnh tinh tấn
Thoát khỏi bùn đục nhơ
Như sen không dính nước.

Thiên tử Lạc Dục Giải Thoát nói kệ:

Như Lai hiện thế gian
Nói pháp giới bình đẳng
Chỉ một không hai tướng
Nên con xưng tán lễ.

Thiên tử Phát Khởi Tinh Tấn nói kệ:

Như Lai oai đức lớn
Hay cảnh giác quần sinh
Siêng tu không biếng nhác
Thiên ma không thể hoại.

Thiên tử Cụ Chánh Niệm nói kệ:

Dù Phật ở nơi nào
Thường khởi tâm chánh niệm
Thế nên thành đạo rồi
Đạt được niệm không giảm.

Thiên tử Trụ Đẳng Dẫn nói kệ:

Như Lai thường tại định
Biết tánh dục chúng sinh
Tùy theo sự tu hành
Mà vì nói các pháp.

Thiên tử Tôn Trọng Chánh Trí nói kệ:

Như Lai biển trí lớn
Không hạn lượng ngằn mé
Trải qua trăm ngàn kiếp
Nói ra cũng không hết.

Thiên tử Lạc Giải Thoát nói kệ:

Trượng phu không ai bằng
Ưa giải thoát tối thượng
Do vì chứng giải thoát
Không đắm trước ba cõi.

Thiên tử Tương Ưng Giải Thoát nói kệ:

Mâu-ni Đại Thánh chúa
Đủ giải thoát tri kiến
Độ chúng sinh vô tận
Chân trí không có giảm.

Thiên tử Quán Vãng Hạnh nói kệ:

Xưa ở Phật Nhiên Đăng
Đạt thắng nghĩa pháp hạnh
Siêng tu không thoái chuyển
Chứng được đại Bồ-đề.

Thiên tử Thậm Thậm Hạnh nói kệ:

Phật đã lìa các ác
Không như hữu tình khác
Biết pháp tự tánh không
Đối ba tế không ngại.

Thiên tử Quảng Tuệ nói kệ:

Phật đối Nhất thiết trí
Tâm không sinh si hoặc
Chánh niệm thường hiện tiền
Như cầm bát dầu đầy.

Thiên tử Vô Tán Loạn nói kệ:

Tâm Phật thường vắng lặng
Chưa từng có tán loạn
Pháp tánh vốn không nhiễm
Chúng sinh không thể hiểu.

Thiên tử An Trụ Trí nói kệ:

Pháp bất cộng Như Lai
Thậm thâm khó nghĩ bàn
Đối tất cả chúng sinh
Chưa từng không chọn bỏ.

Thiên tử Siêu Chư Hữu nói kệ:

Phật là Thiên Trung Tiên
Ba cõi không ai bằng
Thông đạt tất cả pháp
Thắng trí không ai hơn.

Thiên tử Kiên Cố Bất Thoái nói kệ:

Bậc kiên dũng tối thắng
Đối pháp không sợ gì
Giác ngộ các hữu tình
Tâm ấy đều bình đẳng.

QUYỂN 15

PHẨM 25: THỌ KÝ NGOẠI ĐẠO BÀ-LA-MÔN

Lúc đó, trong hội có ngoại đạo Bà-la-môn tên là Bát-rị-một-la-nhạ-ca cùng với quyến thuộc sáu vạn người, thấy các A-tu-la vương, La-hầu-la vương, các đại Long vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà... và An lạc thiên, Tứ thiên vương thiên, Tam thập tam thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên phát tâm cúng dường rồi, được Phật thọ ký và nghe các Thiên tử Tịnh cư dùng lời hay nói kệ khen Phật, hoan hỷ phấn khởi thật chưa từng có.

Lúc đó, ngoại đạo từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng lên Đức Phật thưa:

– Con nghe Đức Cù-đàm nói pháp vô ngã tâm không ham thích, trái lại sinh nghi hoặc, không thích trụ xứ, không thích xuất gia.

Thưa Sa-môn Cù-đàm! Nếu nói vô ngã thì cớ gì thân này từ nhân duyên sinh? Con thấy thần thông sắc tướng của Cù-đàm thật là đệ nhất trong hàng trời người, thành tựu đầy đủ oai đức rộng lớn, khiến cho những người thấy đều sinh hoan hỷ, lại thường vì các Thiên tử Quảng quả nói tất cả pháp tức là Như Lai. Như vậy thì tại sao nói là vô ngã?

Thưa Sa-môn Cù-đàm! Xin vì chúng hội phân biệt như thật, con xin lắng nghe và ghi nhận; chỉ có Đức Như Lai mới có khả năng biết được tâm người khác và làm cho con được hiểu rõ, đoạn trừ lưới nghi.

Đức Phật khen:

– Hay thay ngoại đạo! Giả sử ông có đưa ra trăm ngàn vấn nạn ta đều có thể giải đáp không có khó gì. Nay ta hỏi lại ông tùy ý ông trả lời.

– Này ngoại đạo! Tại sao lúc đầu hữu tình kết sinh vào thai mẹ ông có biết không?

Ngoại đạo thưa:

– Việc đó con cho rằng có ba nguyên nhân. Một là cha, hai là mẹ, ba là hòa hợp thì mới thành thai.

Đức Phật hỏi ngoại đạo:

– Thai ấy là từ lòng tham của mẹ khởi lên ư?

Ngoại đạo thưa:

– Không phải thế.

Đức Phật hỏi ngoại đạo:

– Thai ấy là từ sự suy nghĩ của mẹ khởi lên ư?

Ngoại đạo thưa:

– Không phải thế.

Đức Phật hỏi ngoại đạo:

Thai ấy là từ trên trời đọa xuống vào thai mẹ ư?

Ngoại đạo thưa:

– Con không biết.

Đức Phật hỏi:

– Này ngoại đạo! Thai ấy là từ loài người đọa vào thai mẹ ư?

Ngoại đạo thưa:

– Con không biết.

Đức Phật hỏi:

– Này ngoại đạo! Thai ấy là từ A-tu-la, địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ mà đọa vào thai mẹ ư?

Ngoại đạo thưa:

– Con không biết.

Đức Phật hỏi:

– Này ngoại đạo! Ý ông nghĩ sao? Thai ấy là từ sắc sinh vào thai mẹ ư?

Ngoại đạo thưa:

– Con không biết.

Đức Phật hỏi ngoại đạo:

– Ý ông nghĩ sao? Thai ấy là từ thọ, tưởng, hành, thức sinh vào thai mẹ ư?

Ngoại đạo thưa:

– Con không biết.

Nói vậy rồi, Đức Phật liền bảo ngoại đạo:

– Này ngoại đạo! Pháp này rất là vi tế khó biết, điều đó chẳng phải là điều mà ông có thể luận nghị, đo lường và hiểu được; chỉ có người đầy đủ chánh kiến, chuyên tâm tu học đối với lý thú này mới có thể biết rõ. Ví như có người bị đau mắt, được gặp thầy thuốc giỏi chữa lành mắt ấy, nhờ đó mà thấy lại được các sắc.

Này ngoại đạo! Nếu hay thân cận các Thiện tri thức thì được tuệ nhãn thanh tịnh. Nhờ Tuệ nhãn đó mà thấy được pháp thậm thâm. Nếu không đầy đủ năm Căn là tín mà hiểu rõ pháp thậm thâm thì không thể có điều đó. Thế nên, ngoại đạo các ông thuở xưa đã từng ở trong nhiều kiếp sinh tử, bị các tà luận làm cuồng hoặc, khởi lên dị kiến, chấp chặt không xả; đối với phi pháp ấy lại cho là chánh pháp, sau đó, tùy theo sự thích ứng y vào pháp tam thừa dần dần tu tập hướng đến xuất ly, hoặc chứng được Niết-bàn Thanh văn, hoặc chứng được Niếtbàn Độc giác, hoặc chứng được Niết-bàn Vô thượng, rốt ráo an vui. Không giải thoát lại cho là giải thoát, đối với không xuất ly mà cho là xuất ly, thầy của các ông đã tự hoại rồi lại hại luôn cả các ông.

Này ngoại đạo! Ví như có người mù dắt dẫn các người mù. Nên biết, số người này nhất định rơi vào hiểm nạn. Như vậy Sa-môn, Bà-la-môn thật không phải là tiên giác mà tự xưng là tiên giác, tự ở chỗ chẳng phải đạo mà cho là chánh đạo, tự chưa điều phục mà cho là đã điều phục, tự sống trong tà niệm mà cho là chánh niệm, tự chưa cứu độ mà cho là có thể cứu độ, tự không biết đạo xuất ly mà cho là ta có thể biết đạo xuất ly.

Này ngoại đạo! Như người chăn bò, dắt bò qua sông mà không biết được chỗ nước cạn, lầm vào chỗ nước xoáy mạnh, bò ấy xoay tròn theo dòng nước xoáy, chưa đến bờ bên kia mà đã bị nhận chìm khốn ách không ai cứu. Vì sao? Vì người chăn bò không biết hướng dẫn.

Này ngoại đạo! Như bọn các người thật chẳng phải là đạo sư mà cho là đạo sư, khiến những người chịu giáo hóa trở lại chịu khổ ách cũng như vậy.

Này ngoại đạo! Ta xưng Đạo Sư thật khéo điều phục, khiến ở trong chánh pháp quyết định được an ổn. Ta là Chánh giác biết rõ như thật khiến các hữu tình được giác ngộ chân thật. Ta thường chánh niệm nhớ nghĩ thọ trì không quên, cũng khiến chúng sinh lìa các tán loạn. Ta đã xuất ly vĩnh viễn, thoát khỏi luân hồi, khiến người được giáo hóa tận các gốc khổ. Ta chỉ dạy chánh đạo quyết định không khác, khiến người được giáo hóa đến bờ giác ngộ.

Này ngoại đạo! Nay ông muốn cầu pháp giải thoát thì nên khởi lòng ham muốn thanh tịnh nhất tâm tôn trọng, siêng năng tu học, trước chưa được nghe pháp yếu xuất ly thì nên sinh lòng tin thanh tịnh, khiến ngươi được hiểu. Các tông phái luận nghị của các ông đã học thì nay nên xả bỏ không nên tìm cầu, chánh pháp tạng trước nay chưa được thì nay khiến ngươi ngộ nhập thông đạt không ngại.

Này ngoại đạo! Ở trong pháp của ta có ba thứ hòa hợp tương ưng thì mới được vào thai. Cha làm cái nhân nghiệp trước đời quá khứ. Mẹ làm duyên nghiệp trước đời quá khứ. Trước hết là kết sinh Yết-la-lam, nghiệp chiêu thức ấy gá vào thai mẹ, nghiệp này thành thục nên thọ sinh vào nơi ấy. Như thành Tầm hương tùy theo tâm mà hiện. Thức nương vào thai dần dần lớn lên. Thí như các cây thuốc đều nương vào đại địa mà phát triển.

Này ngoại đạo! Thức kia vào thai mẹ rồi dần dần thành tựu thân chi đầy đủ, cho đến kỳ sinh sản thân hình hiển hiện, nhân duyên hòa hợp liên tục không gián đoạn.

Này ngoại đạo! Trong thai trước hết là kết sinh phần vị sai khác, chỉ trừ Như Lai đầy đủ Nhất thiết trí hiệu Chánh Biến Tri thông đạt chân thật, còn những người ngu vô tri không thể hiểu nổi.

Này ngoại đạo! Nếu như hữu tình từ địa ngục được sinh vào cõi người, nhập vào thai mẹ, sinh ra thế gian sẽ có các tướng này: Tiếng nói khàn khàn không rõ ràng, nếu có nói ra điều gì người ta không tin dùng, việc làm thì hấp tấp vội vàng lo sợ và mau quên mất, tâm luôn sợ hãi, lông trên thân thì rung động, trong mộng thì thấy lửa dữ thiêu đốt, búa chém, vạc nước sôi phun lên, lúc đó chạy trốn ngục tốt La-sát cầm gậy rượt theo, hoặc thấy bị trói vào trụ cột dùng gậy đánh đập mong thoát không được, hoặc thấy voi say, rắn độc đuổi mổ dày xéo ngang dọc không biết chạy phương nào, bị người khinh chê coi mình như giặc.

Này ngoại đạo! Đó là từ địa ngục được thoát sinh còn sót lại những tập nghiệp như vậy. Người trí biết rõ, người ngu không thể hiểu.

Này ngoại đạo! Nếu hữu tình ấy từ loài súc sinh sinh vào loài người, vào trong thai mẹ rồi sinh ra thế gian sẽ có những tướng như vầy: Làm người đần độn, biếng nhác ưa ngủ, thích ăn bùn đất, gặm nhắm cỏ cây và luôn làm bạn với người ngu, thường ở những nơi đen tối và bùn nhơ, hoặc ngồi hoặc đứng tay chân luôn đào bới đất, đầu thì hôi thối ruồi lằn bu ăn, lanh chanh lóc chóc không khi nào yên, thường khổ đói khát, hoặc được thức ăn dơ bất tịnh liền sinh vui thích cho là đầy đủ, những gì được nghe thấy phần nhiều là bị dối trá hư thuyết, hoặc ở trong mộng thấy thân đọa vào chỗ hôi thối, hoặc ở đồng hoang ăn cỏ uống nước; hoặc mộng thấy ở trong hang núi rừng rú bị trăn lớn quấn vào mình, chịu mọi sợ hãi không ai cứu hộ.

Này ngoại đạo! Đó là từ súc sinh sinh ra còn có các tập nghiệp sót lại như vậy, dù có trải qua một kiếp cũng không nói hết. Người trí biết rõ, người ngu không thể hiểu nổi.

Này ngoại đạo! Nếu hữu tình ấy từ ngạ quỷ sinh vào loài người, vào trong thai mẹ sinh ra thế gian sẽ có các tướng như vầy: Tóc thì vàng đỏ, mắt thì giận dữ ngó thẳng, thường bị đói khát làm khổ, tánh chỉ xan tham tật đố, tâm ưa tài lợi không bao giờ biết đủ, nếu thấy của cải người khác liền khởi tưởng về cho mình, đối với vật tốt của người khác lại muốn trộm lấy, ăn thức ăn thừa thải bất tịnh mà không biết xấu hổ, thấy người khác có vườn rừng hoa quả thì muốn hái trộm và phá hoại.

Này ngoại đạo! Đó là từ ngạ quỷ sinh ra còn có các tập nghiệp như vậy. Người trí biết rõ, người ngu không thể hiểu nổi.

Này ngoại đạo! Nếu hữu tình từ Tu-la sinh vào loài người, vào trong thai mẹ rồi sinh ra thế gian sẽ có các tướng như vầy: Tâm luôn giận dữ ngã mạn cống cao, ưa tranh đấu kết oán không thôi, khỏe mạnh nhiều sức lực, rất thích chiến đấu, cậy vào mồm mép lăng miệt người khác, cũng có trí lực và vô minh lực, công phá luận của người khác để tự nuôi sống.

Này ngoại đạo! Đó là Tu-la sinh ra còn có các tập nghiệp như vậy. Người trí biết rõ, người ngu không thể hiểu nổi.

Này ngoại đạo! Nếu hữu tình ấy từ loài người sinh vào cõi người, vào trong thai mẹ sinh ra thế gian sẽ có các tướng như vầy: Người này chất trực thích thân cận người hiền thiện, tránh xa người ác, đốc tín thủ tiết, luôn nghĩ đến danh tốt, tánh thích công xảo, luôn biết hổ thẹn, ưa làm việc bố thí, đối với người tốt tâm không trái nghịch, trước quán sát rồi sau mới làm, lời nói không sai lầm, có khả năng biện luận hợp với căn cơ, có thể làm sứ mạng, nếu có dạy gì thì nhớ mãi không quên, đối với xứ phi xứ đều có thể lựa chọn.

Này ngoại đạo! Đây là người từ loài người sinh ra còn có những tập nghiệp như vậy. Người trí biết rõ, người ngu không thể hiểu nổi.

Lại nữa, này ngoại đạo! Nếu hữu tình ấy từ Thiên giới sinh vào loài người, vào trong thai mẹ sinh ra thế gian sẽ có các tướng như vầy: Làm người đoan chánh, tốt đẹp thanh khiết trong sạch, thích mang tràng hoa, xông hương, xoa hương, tắm rửa thân thể, chán ghét trần cấu, đối với năm dục ca múa âm nhạc, chỉ chọn thượng diệu không có dâm dục, thường cùng giao hảo ước hẹn với người thiện, ưa lên lầu gác hoa lệ, tánh luôn từ nhẫn làm cho người ưa thích, thường dùng thượng phục anh lạc để trang nghiêm thân thể, đến đi trong oai nghi, tâm không biếng nhác.

Này ngoại đạo! Đây là từ Thiên giới sinh ra có những tập nghiệp như vậy. Người trí biết rõ, người ngu không hiểu nổi.

Này ngoại đạo! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Thiện tri thức thân cận cung kính lễ bái cúng dường, ưa nghe chánh pháp, tác ý đúng lý, liền được siêu thoát, như vừa rồi đã nói các sắc tướng ác.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ địa ngục sinh vào nhân gian, do nhân đời trước tạo nghiệp sân, tổn hại hữu tình, đọa vào địa ngục chịu các khổ não. Nay được làm người còn ôm giữ sân hận não hại, gặp Thiện tri thức vì nói thiện pháp đối trị tương ưng, khiến khởi tâm Từ, dần dần tu tập Trì giới ba-la-mật.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ súc sinh sinh vào nhân gian, do nhân duyên đó đời trước tích tập ngu si, tạo tác vô số hạnh bất tịnh. Nay được làm thân người nhưng còn nhiều dâm dật, gặp Thiện tri thức vì nói mười hai duyên sinh quán hạnh đối trị vô minh, khiến sinh giác ngộ phát sinh tuệ thanh tịnh, dần dần tu tập Bố Bát-nhã ba-la-mật đa.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ ngạ quỷ sinh vào nhân gian, do nhân duyên đời trước đã tạo tham lam tật đố, cho đến khi lớn lên vẫn luôn tạo tác không có gián đoạn. Nay được thân người, tánh còn nhiều thô bỉ xan lận, gặp được Thiện tri thức vì nói pháp bố thí tương ưng với thiện pháp đối trị xan tham, dần dần khiến tu tập Thí ba-la-mật đa.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ A-tu-la sinh vào nhân gian thì trước hết phải tạo phước hạnh rộng lớn, thường sinh ngã mạn lăng mạ Mụckiền-liên khác. Nay được sinh vào loài người tánh nhiều cao ngạo, gặp Thiện tri thức vì nói lục xứ và pháp môn không đối trị ngã mạn, dần dần tu tập Nhẫn nhục ba-la-mật.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ loài người sinh vào nhân gian, do trước quen tu mười nghiệp thiện, thích gần thiện hữu, cùng ở với nhau nhu hòa, quán sát chánh lý, ngộ pháp vô thường, chán khổ sinh tử, thích vui chân thường, dần dần tu tập sáu Ba-la-mật hay phát đạo tâm Vô thượng Bồ-đề, sẽ được Nhất thiết chủng trí của Như Lai.

Ngoại đạo nên biết! Nếu hữu tình từ chư thiên sinh vào nhân gian, thân đời trước của người này đã tu thí giới, không thể quên tướng, đều mong quả báo, nhờ duyên đó cho nên được sinh lên trời hưởng thọ nhiều thú vui, mạng chung sinh vào nhân gian, nhờ phước tuệ đời trước, nhớ lại nghiệp đời trước của mình nhất định là từ cõi trời đọa xuống, đối với thân này gia công siêng năng tinh tấn, siêng làm việc bố thí nhưng không mong đáp lại. Nếu người trụ vào tướng thì đó là lỗi lầm, nên trụ vô tướng được phước vô lượng, khuyến khích tu tịnh giới không mong cầu báo đáp. Nếu người chấp tướng thì là cấu bẩn, phải nên thuần tịnh lìa các nhiễm ô. Trì giới như vậy được phước vô lượng đối với Phật Bồ-đề không còn thoái chuyển.

Lại nữa, này ngoại đạo! Hữu tình từ địa ngục sinh lên cõi người, người này phải nên gần Thiện tri thức, ưa nghe ba đời chư Phật nói pháp, trụ Alan-nhã, chuyên tu phạm hạnh, siêng năng học tập, tâm không mệt mỏi, giỏi về vấn nạn, phân biệt nghĩa thú, rõ được tất cả pháp không có tự tánh. Do hiểu được pháp cho nên thích nói cho người khác, hoặc ở trong làng xóm thành ấp hóa các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... giảng nói chánh pháp, hay khiến cho mình và người đoạn ác tu thiện, dần dần tu tập được đạo vô thượng.

Lại nữa, này ngoại đạo! Hữu tình thoát khỏi thân súc sinh sinh vào cõi người, người này nên thân cận bạn lành duyên tốt, được nghe chánh pháp, xả trừ ngu si. Nhờ sức thiện hữu đa văn tu tập, quán các pháp không lìa mọi trói buộc, nhưng đối với tự thân khởi tưởng không phải có, ở trong đại chúng tâm không sợ gì, tự nhiên chứng đắc pháp tánh bình đẳng, hiểu rõ tất cả pháp vốn không có tự tánh, mau chóng đạt được Nhất thiết chủng trí.

Lại nữa, này ngoại đạo! Hữu tình từ ngạ quỷ thoát sinh vào cõi người, người này phải nương tựa thiện hữu tri thức, trước hết tập bố thí trừ xan tham ấy. Do hành thí cho nên phát sinh thiện tuệ, ưa cầu xuất ly, tu hạnh thanh tịnh; đối với việc bố thí không có chấp trước, biết rõ các pháp ba đời bình đẳng, chỉ có một tướng đó là vô tướng, lần lần tu tập được Nhất thiết trí.

Lại nữa, này ngoại đạo! Hữu tình từ Tu-la sinh cõi người, trước nên phát tâm nương tựa Thiện tri thức, phải tích cực chiến đấu với ma phiền não. Phiền não ma là ngã mạn phải nên suy nghĩ. “Thế nào là mạn? Ai khởi lên mạn này? Ai chịu mạn này? Cũng không thấy có người xả cái mạn này”. Tác ý như vậy, suy nghĩ quán sát, rõ được tướng ngã mạn không thể được, tự lừa dối thân mình, đều không có thật tánh. Nếu hiểu như vậy thì mới có thể thông đạt các pháp là vô tánh. Nếu tự tánh của pháp không có thì đó không phải là vật. Nếu không phải là vật thì không thể thành tựu. Nếu không thành tựu thì không sinh diệt. Nếu không sinh diệt thì không thể phân biệt. Nếu không phân biệt thì không có quá khứ, vị lai và hiện tại. Nếu ba đời không thể được thì nên biết pháp ấy không thể phá hoại.

Này ngoại đạo! Pháp tánh như vậy không biến không đổi, thể tức là chân như, là Như Lai. Nên biết, ngã tướng thật không thể được. Do vì khởi lên ngã mạn nên sinh vào A-tu-la, hoặc người, hoặc trời, lưu chuyển các nẻo. Thế nên quán sát tướng của ngã mạn vốn không có thể tánh, tự tha bình đẳng, đoạn trừ tập nghiệp còn lại, tâm được thanh tịnh.

Này ngoại đạo! Đây gọi là lìa bỏ ngã mạn phương tiện thiện xảo Ba-la-mật đa. Ngươi đối với pháp này phải siêng năng tu tập.

Lúc đó, trong hội sáu vạn ngoại nghe nói pháp này được Nhẫn vô sinh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Đức Phật, nhất tâm chắp tay nói kệ khen Phật:

Trí lực Như Lai không ai bằng
Hiểu rõ hành nghiệp của chúng sinh
Cũng biết chỗ quy thú các pháp
Như xem trái Am-la trong tay.
Quán các ác nghiệp ở thế gian
Cũng như mây mù che hư không
Người ngu không rõ bị trầm luân
Cũng như người mù mất đường ngay.
Có thuyết thế gian là vô thường
Hoặc nói thế gian không vô thường
Hoặc nói phi thường, phi không thường
Ví như voi say bị trói buộc.
Có thuyết thế gian không có biên
Hoặc nói thế gian là có biên
Lại nói phi biên, phi vô biên
Như loài phi cầm nhốt vào lồng.
Có thuyết chấp thân này là ngã
Hoặc nói lìa thân riêng có ngã
Đó đều là vọng kiêu mê hoặc
Như thú mắc lưới tâm sầu não.
Có thuyết Đại tự tại thiên hóa
Cũng nói không phải nhân sinh ra
Như vậy ác kiến che hữu tình
Như mây che trăng in bóng nước.
Cũng như chim bị nhốt trong lồng
Mắt nhìn lồng cố muốn thoát ra
Ngoại đạo nên biết người ngu si
Họ không giải thoát cũng như vậy.
Có người quy y Đại Phạm thiên
Na-la-diên thiên, Đa Văn thiên
Như người trong tối bị giặc chiếm
Họ không giải thoát sinh sợ hãi.
Ngoại đạo ngu phu trước tà kiến
Tâm cầu xuất ly không chỗ nương
Như người bị trói tống vào ngục
Như kẻ thiếu thốn đi xin ăn.
Nếu hay bỏ tà tu chánh hạnh
Như Lai khởi Từ tâm với họ
Mau khiến thoát khỏi cảnh luân hồi
Như vua tha thứ các lỗi lầm.
Như Lai tu đủ các khổ hạnh
Mới chứng Phật Bồ-đề tối thượng
Vì độ người ngu si tà kiến
Thảy đều giải thoát trói vô minh.
Nhân Trung Sư Tử Đấng Lưỡng Túc
Ở trong các pháp được tự tại
Thương kẻ trầm luân trong biển khổ
Dùng sức phương tiện mà cứu vớt.
Nếu mong Như Lai đại trí lực
Tiêu trừ hết thảy bọn ma oán
Con nguyện sẽ được như Thế Tôn
Rống tiếng Sư tử trong đại chúng.
Như Lai chấn động ba ngàn cõi
Phóng vô lượng quang chiếu tất cả
Thành thục tất cả các hữu tình
Cúi xin thọ ký quả Bồ-đề.

Biết được tâm tin hiểu của các ngoại đạo, Đức Thế Tôn liền từ trong miệng phóng tịnh quang. Lúc đó, Tôn giả Mã Thắng dùng kệ thưa hỏi:

Oai đức Như Lai không ai bằng
Khiến các ngoại đạo sinh lòng tin
Nay đối trời người và đại chúng
Phóng ánh sáng lớn khó nghĩ bàn.
Thấy Phật phóng tịnh quang từ miệng
Cũng như mặt trăng tròn mùa thu
Các hàng trời người đều nghi hoặc
Nguyện nghe nhân duyên Phật phóng quang.
Người nào khởi cúng dường Đức Phật
Người nào xưng tán tâm Như Lai
Người nào trụ trong công đức Phật
Cảm được Như Lai hiện điềm này.
Ngoại đạo nay nghe Phật thọ ký
Tất cả chúng sinh cũng phát tâm
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Vì nhiếp thọ họ khiến nhiếp phục.
Hay thay, Mâu-ni Đại Thánh chúa
Đoạn trừ tất cả các nghi hoặc
Nay chúng hội này đều muốn nghe
Đối với pháp Phật sinh vui thích.

Vì Tỳ-kheo Mã Thắng, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Tỳ-kheo Mã Thắng ông nên biết
Nay đã đúng lúc hỏi lời này
Vì muốn lợi lạc các hữu tình
Thỉnh hỏi Như Lai việc phóng quang.
Nay ta vì ông phân biệt nói
Hãy nên lắng nghe chớ nghĩ gì
Việc Như Lai làm đều có nhân
Tuyên sinh vui thích trụ chánh niệm.
Các ngoại đạo này thảy đều phục
Xả bỏ tà kiến được chánh kiến
Do nhập chánh pháp khởi đối trị
Nên hay an trụ đạo Bồ-đề.
Rõ biết pháp vô cấu tịch tĩnh
Đối với kiến thủ tâm nhàm chán
Nghe được lời thọ ký của Phật
Quyết định tự biết sẽ thành Phật.
Thuở xưa đã từng tu chánh hạnh
Được gặp hai mươi ức Đức Phật
Phụng thờ cúng dường không mệt mỏi
Vì muốn cầu Vô thượng Bồ-đề.
Luôn hành tuệ thí tâm không xan
Kiên trì tịnh giới tu nhẫn lực
Siêng năng tu tập môn Tổng trì
Nương Tam-ma địa phát tịnh tuệ.
Đầy đủ Lục độ các công đức
Niệm niệm tăng tiến không thoái chuyển
Bẻ gảy dị luận bỏ tông tà
Trăm ngàn vấn nạn khéo phân biệt.
Do xưa thân cận ác tri thức
Nương vào những kẻ tà dị kiến
Được gặp Như Lai Đại Đạo Sư
Buông bỏ những hạnh tu tà giáo.
Ở vào vị lai kiếp Tinh tú
Đều sẽ thành Phật đồng một hiệu
Mỗi mỗi xuất hiện ở thế gian
Hiệu là Phổ Kiến Thắng Danh Xưng.
Quốc độ Phật ấy rất nghiêm tịnh
Trang nghiêm bằng các loại trân báu
Các chúng sinh lìa bỏ tà kiến
Y lời Phật dạy sinh tuệ sáng.
Cõi đó không có ba đường ác
Và không có tám nạn bức não
Thọ mạng chư Phật rất lâu dài
Ngang bằng tám vạn bốn ngàn năm.
Nếu người nghe danh hiệu Phật này
Xa lìa vĩnh viễn mọi tham dục
Người nữ được chuyển thành nam tử
Công đức nhờ nghe danh hiệu Phật.
Như Lai khéo phục các ma oán
Thọ ký ngoại đạo được thành Phật
Nghe rồi đều sinh tâm hoan hỷ
Đều sẽ thành tựu Nhất thiết trí.

QUYỂN 16

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 1)

Lúc đó, vua Tịnh Phạn và các người hầu quyến thuộc thấy các A-tu-la vương cho đến ngoại đạo Bà-la-môn đều mong Phật thọ ký, phát tâm hy hữu khen chưa từng có. Tiếng nói của Đức Thế Tôn hay vi diệu thông suốt, tất cả người thế gian nghe đều sinh vui thích, lúc ấy vua Tịnh Phạn mới thấy Như Lai, vì thương mến nên tình ý ân cần.

Biết được tâm niệm của phụ vương, Thế Tôn bảo rằng:

– Này Đại vương! Những lời thuyết pháp của ta đầu, giữa, cuối đều thiện; nghĩa ấy vi diệu thanh tịnh nhất tướng, phạm hạnh viên mãn. Nay đến lúc nói về sự phân biệt phần vị pháp môn sai khác của lục giới, Đại vương nên lắng nghe khéo suy nghĩ điều đó.

Vua Tịnh Phạn khen Đức Phật:

– Hay thay, thưa Thế Tôn! Rất muốn được nghe. Thế Tôn nên vì con mà tuyên nói, con luôn nhớ nghĩ và thọ trì tin theo.

Đức Phật bảo Đại vương:

– Này Đại vương! Như vậy sáu giới, sáu xứ, mười tám ý sở từ sát là Bổ-lỗ-sa nhờ duyên mà được sinh.

Thế nào là sáu giới? Là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới.

Thế nào là sáu xúc xứ? Là nhãn xúc xứ mới thấy được sắc. Nhĩ xúc xứ mới nghe được tiếng. Tỷ xúc xứ mới ngửi được mùi hương. Thiệt xúc xứ mới nếm được vị. Thân xúc xứ mới biết cảm giác. Ý xúc xứ mới biết được pháp.

Thế nào là mười tám ý sở từ sát? Đó là mắt thấy sắc rồi hoặc sinh vui thích, hoặc sinh lo buồn, hoặc trụ vào xả. Như vậy sáu căn mỗi mỗi duyên vào đối tượng hoặc vui hoặc buồn hoặc trụ vào xả. Đó gọi là mười tám ý sở từ sát.

Này Đại vương! Thế nào là địa giới bên trong? Là trong thân sinh ra thô rít, tóc, long, móng, răng, da, thịt, gân, xương. Nếu địa giới bên trong không sinh cũng không có diệt thì không có tập hạnh.

Này Đại vương! Nếu trong tâm người nữ, suy nghĩ Bố-lỗ-sa ấy thì Bố-lỗ-sa ấy cũng sinh yêu thích. Do cả hai hòa hợp nên sinh Yết-la-lam.

Lại nữa, nếu suy nghĩ hóa hợp tương tự mà được sinh thì không có điều đó. Hoặc là cùng hai người cũng không có điều đó. Hai Bổ-lỗ-sa cũng không có điều đó. Nếu mỗi mỗi suy nghĩ mà được sinh thì cũng không có điều đó, tự thể không thật, chẳng phải tương ưng. Tại sao nói tánh này là thô cứng?

Này Đại vương! Tánh thô cứng này giống nhau mà thành lập, thân này rốt cuộc tan rã hoại diệt, cũng không phải bốn phương trên dưới mà đi. Đại vương nên biết, địa giới bên trong như vậy.

Này Đại vương! Thế nào là tánh thô cứng của địa giới bên ngoài? Như thế giới kia ban đầu kiến lập chỗ ở cung điện của Phạm vương làm bằng đại bảo mà thành, rồi lại sinh chỗ ở cung điện của chư Thiên Tha hóa tự tại đều làm bằng bảy báu.

Này Đại vương! Nếu không có địa giới thì tánh thô cứng kia từ đâu mà sinh? Lại thành đại địa dày tám vạn bốn ngàn do-tuần, ngang rộng sáu vạn do-tuần. Lại sinh sinh núi Luân vi, Đại luân vi đứng vững kiên cố giống như một khối kim cang. Lại sinh núi Tô-di-lô, núi Lưu-kiến-đà, núi Ninh-dẫn-đà, núi Y-xá-đà cho đến núi Đen. Như vậy, tam thiên đại thiên thế giới lần lượt thành rồi an trụ kiên cố. Nếu không có địa giới thì tánh thô cứng kia từ đâu mà đến?

Này Đại vương! Khi địa giới muốn hoại diệt hoặc bị lửa đốt, hoặc bị nước cuốn trôi, hoặc bị gió thổi. Ví như đốt dầu tô lửa ấy càng cháy mạnh, đốt cho đến thành tro không còn thấy gì; hoặc bị nước cuốn, cũng như đem muối bỏ vào nước chỉ trong chốc lát bị tiêu tan. Nếu bị cuồng phong thổi, lúc đó tam thiên đại thiên thế giới đều tan hoại sạch không còn sót gì.

Này Đại vương! Lúc địa giới bên ngoài sinh vốn không, lúc diệt cũng không, tự tánh không, không có tướng nam cũng không có tướng nữ, chỉ dùng lời nói để chỉ rõ. Như vậy, địa giới và tánh của địa giới đều không thể được, chỉ có chánh tuệ của Đức Phật mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là thủy giới bên trong? Đó là những tính ẩm ướt ở bên trong thân như nước giải, nước miếng, mỡ, tủy, mũ máu, tiện lợi. Đó là thủy giới ở bên trong.

Này Đại vương! Nếu như chợt thấy người thân yêu, mắt liền rơi nước mắt, hoặc bị bức não mà rơi nước mắt, hoặc nghe pháp thậm thâm tin hiểu tôn trọng mà rơi nước mắt, hoặc bị gió lạnh thổi vào mắt mà rơi nước mắt. Như vậy, thủy giới từ đâu mà đến? Vậy khi nước khô thì lại đi về đâu? Cho đến lúc giới này hoại nổi lên mây đen ba mươi hai lớp, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, mưa xuống hồng vũ, giọt mưa lớn như con voi, mưa suốt ngày đêm liên tục không dứt. Như vậy, thời phần trải qua năm mươi kiếp, nước mưa ấy dâng đến Phạm thế.

Này Đại vương! Thủy giới bên ngoài này từ đâu mà đến? Lại khi thế giới này sắp hoại, lúc đó có hai mặt trời xuất hiện, hai mặt trời xuất hiện rồi các sông suối nhỏ thảy đều khô cạn. Khi ba mặt trời xuất hiện, ao Vô nhiệt não phát sinh ra bốn sông cũng đều bị khô cạn. Khi bốn mặt trời xuất hiện, nước của biển cả giảm xuống một do-tuần, hoặc hai, hoặc ba; dần dần giảm đến mười do-tuần, hai mươi do-tuần, lần lượt khô đến tám mươi dotuần, mặt nước chỉ còn lại chỉ bằng một cây Đa-la, hoặc sâu ngang ngực, hoặc bằng dấu chân bò, cạn cho đến bằng đầu ngón tay, đến lúc đó nước biển cả thảy đều khô sạch không còn chút nào.

Này Đại vương! Tướng của thủy giới này sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu; lúc sinh cũng không, lúc diệt cũng không, tự tánh cũng không, không có tướng nam, cũng không có tướng nữ, chỉ dùng lời nói để chỉ bày. Như vậy thủy giới và tánh của thủy giới đều không thể được, chỉ có chánh trí của Đức Phật mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là hỏa giới thân? Là độ ấm trong thân này, khi ăn thức ăn này nó làm cho biến hoại thành thục an hòa hơi ấm gọi là hỏa giới.

Thế nào là hỏa giới bên ngoài? Không nắm giữ hơi ấm, tướng nóng sinh. Nếu có người ở giữa đồng hoang muốn kiếm lửa hoặc dùng ngải cứu, hoặc phân bò khô, hoặc bông vải, rồi tìm cách làm phát sinh ra lửa khi phát sinh ra lửa rồi, hoặc đốt cỏ, cây, núi, rừng, xóm làng, cho đến các chỗ khác đều bị đốt sạch.

Này Đại vương! Tánh của hỏa giới này sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu, lúc sinh vốn không, lúc diệt cũng không, tự tánh cũng không, chỉ dùng lời nói để chỉ rõ. Như vậy, hỏa giới cùng với tánh của hỏa giới đều không thể được, chỉ có chánh trí của Đức Như Lai mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là phong giới trong thân? Là các tướng động nhẹ. Gió trong thân này có lúc đi lên, có lúc đi xuống, hoặc ở trong bụng, hoặc ở bên hông, hoặc sau lưng, hoặc phát ra chấn thủy, hoặc tụ thành khối, hoặc như dao cắt, hoặc như kim chích, hơi thở ra vào luồng khắp cả thân thể.

Thế nào là phong giới bên ngoài? Nếu gió này từ bốn phương thổi đến, hoặc thổi mạnh bạo làm gãy cây cối, núi non sụp đổ, nếu thổi nhẹ làm bay vạt áo mặc, lay động cây Đa-la. Đây gọi là phong giới bên ngoài.

Này Đại vương! Tướng phong giới này sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu, lúc sinh vốn không, lúc diệt cũng không, tự tánh cũng không, không có tướng nam, cũng không có tướng nữ, chỉ dùng lời nói để biểu thị. Như vậy, phong giới cùng với tánh của phong giới đều không thể được, chỉ có chánh trí của Như Lai mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là không giới bên trong? Nếu bên trong thân da, thịt, máu... hiển hiện tăng trưởng lìa tánh chất ngại. Nếu lỗ mắt, lỗ tai, mặt, yết hầu, ăn uống thức ăn vào bên trong, ở khoảng trống của ruột, dạ dày thông suốt đưa ra ngoài. Nếu nghiệp duyên đưa đến sinh vào sáu xứ, sinh vào các xứ rồi vây quanh không giới. Đây gọi là nhập nội không giới số. Không ấy từ đâu mà đến? Nếu như phương xứ bên ngoài hiển hiện lìa tánh chất ngại. Đây gọi là không giới bên ngoài.

Này Đại vương! Nếu sắc biến hoại tất cả đều không. Vì sao? Vì hư không giới ấy vốn là vô tận, yên tịnh không động cũng như Niết-bàn, khắp tất cả mọi nơi không có chướng ngại.

Này Đại vương! Ví như có người đào giếng ở nơi cao nguyên, ý Đại vương nghĩ sao? Trong ao giếng ấy chỗ có tướng không từ đâu mà đến?

Vua thưa:

– Không từ đâu đến, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Giả sử người ấy lấp giếng lại, ý Đại vương nghĩ sao? Cái không ấy đi về đâu? Vua thưa:

– Cái không ấy không đi về đâu. Vì sao? Vì như không giới không có đến đi, không trụ tướng nam cũng không phải tướng nữ.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Hư không giới bên ngoài xưa nay không động, lìa tự tánh, chỉ dùng lời nói để biểu thị, chỉ có chánh trí của Phật mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là thức giới? Nếu nhãn căn là chủ duyên vào hình sắc và biểu sắc thì gọi là nhãn thức giới. Nếu năm căn kia duyên vào tự cảnh đều khác mà kiến lập thì gọi là năm thức giới. Không trước vào căn, không trụ vào cảnh, không phải trong, không phải ngoài, không ở chính giữa, nhưng thức giới này, mỗi mỗi liễu biệt các cảnh giới kia rồi liền diệt mất. Sinh không từ đâu đến, diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Lúc thức sinh vốn không, lúc diệt cũng không, lìa tự tánh, không trụ tướng nam, cũng không phải tướng nữ, chỉ dùng lời nói mà biểu thị. Như vậy, thức giới và tánh của thức giới đều không thể được, chỉ có chánh tuệ Phật mới có thể biết rõ.

Này Đại vương! Thế nào là nhãn xứ? Đó là bốn đại chủng địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới tạo ra tịnh sắc. Nếu địa giới thanh tịnh thì nhãn xứ thanh tịnh. Nếu thủy, hỏa, phong giới thanh tịnh thì nhãn xứ thanh tịnh. Vì sao? Vì địa giới thanh tịnh thì nhãn xứ mới sinh, trong đó không được một pháp nhỏ nào. Như vậy, cho đến phong giới thanh tịnh thì nhãn xứ mới sinh, trong đó không có một pháp nhỏ nào có thể được. Vì sao? Vì không có chủ tể, không có tạo tác, cũng như Niết-bàn tự tánh thanh tịnh.

Này Đại vương! Như vậy tìm cầu nhãn xứ không thể được. Vì sao? Vì địa giới không, cho nên địa giới thanh tịnh; cho đến phong giới không, cho nên phong giới thanh tịnh. Nếu tự tánh của các pháp thì giới kia có gì thanh tịnh, cũng không giận dữ tranh cãi, hoặc tịnh hoặc tranh cãi cả hai đều không thể được. Lại có sắc nào mà có thể thấy? Nên biết, nhãn xứ rốt ráo không có nên tự tánh cũng không, tiền tế hậu tế đều không thể được, vị lai tạo tác cũng không thể được. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nếu tự tánh không có thì không có tướng nam, cũng không có tướng nữ, vậy thì có vui gì? Nếu sinh vui thích thì là cảnh giới của ma; nếu không yêu thích thì là cảnh giới Phật. Vì sao? Vì không yêu thích thì có thể xa lìa tất cả các pháp.

Này Đại vương! Thế nào là nhĩ xứ? Là bốn đại chủng tạo ra tịnh sắc, phân biệt hành tướng như trước đã nói. Này Đại vương! Pháp giải thoát quyết định hiện tiền, như pháp giới không thể bày ra. Này Đại vương! Các căn mỗi mỗi vui thích đắm trước vào cảnh giới. Khi nhãn duyên sắc liền sinh yêu thích. Thế nên nói sắc là cảnh giới của mắt. Lại nhãn căn này duyên với sắc cảnh có ba tướng là:

Thấy sắc đáng yêu khởi lên tưởng tham; thấy sắc không đáng yêu nổi lên sân giận; thấy sắc không yêu không ghét khởi lên tưởng xả. Như vậy, cho đến ý đắm trước, pháp xứ làm cảnh giới của ý. Nếu ý xứ ấy duyên vào sắc đáng yêu thì sinh yêu thích vô cùng, bị nó dắt dẫn sinh ra nghiệp tham; sắc không đáng yêu thì nổi lên sân giận; thấy sắc yêu không yêu khởi lên nghiệp si. Như vậy, thanh, hương, vị, ba thứ phan duyên lãnh nạp các tướng, chiếu theo trước mà nói.

Này Đại vương! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng. Ví như người trong mộng thấy mình cùng với các cô gái đẹp vui thích. Ý Đại vương nghĩ sao? Sau khi thức giấc, người mộng ấy nhớ nghĩ lại việc vui thích trong mộng. Vậy cái vui ấy thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Người này chấp cảnh trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì các cô gái đẹp trong mộng rốt ráo không có thì làm gì có chuyện vui thích với nhau. Nên biết, người này nhớ lại cảnh trong mộng luống tự mệt mỏi lại không được gì.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Này Đại vương! Chúng sinh ngu si, mắt thấy sắc đẹp tâm sinh yêu thích lại khởi lên tham trước, bị nó dắt dẫn tạo ra nghiệp tham. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, vừa tạo tác sát-na liền diệt mất. Nghiệp này không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến khi chết mạng căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như sau khi tỉnh mộng, nhớ nghĩ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức làm chủ, nghiệp phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng đến địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới và A-tu-la, hoặc người, hoặc trời. Thức đầu sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển; thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Rõ biết thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt biểu thị.

Này Đại vương! Ví như có người trong mộng thấy đánh nhau với người thù oán, ý Đại vương nghĩ sao? Khi người này thức rồi nhớ lại việc đánh nhau trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật có, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì trong mộng thật không có kẻ thù oán thì làm gì có chuyện đánh nhau. Nên biết, người này chỉ luống sức tự lo buồn áo não, đều không thật có.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh mắt thấy sắc xấu liền sinh áo não, nhàm chán xa lìa, phá hoại, lỗi lầm, khinh chê, tạo ra nghiệp sân hận. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, mới tạo tác đó sát-na liền diệt mất. Nghiệp này không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến khi chết mạng căn liền diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ nghĩ lại việc trong mộng. Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng đến địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc người hoặc trời. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức sau cùng diệt gọi là từ uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi nghiệp kia sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Khi thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh, biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả, cũng không có thọ giả, chỉ có danh tướng phân biệt hiển bày.

Này Đại vương! Ví như có người trong mộng bị Tất-xá-giá nhiễm hại, tâm sinh sợ hãi si mê buồn rầu, ý Đại vương nghĩ sao? Người này thức rồi nhớ lại việc bị quỷ nhiễm hại ở trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì trong mộng thật không có quỷ hại thì làm gì nói có si mê buồn rầu. Nên biết, người này chỉ luống sức mệt mỏi, đều không có thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Người ngu si dị sinh mắt thấy sắc này mê hoặc không rõ tạo nghiệp si mê. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, mới tạo tác đó sát-na liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi, không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ. Khi chết mạng căn liền diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như thỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới và A-tu-la hoặc người hoặc trời. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Khi thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì tự tánh. Biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ là danh tướng phân biệt chỉ bày.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng, gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không có tướng thì không nguyện cầu, gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Ba pháp này cùng đi đối với không. Đó là con đường đầu tiên đi đến Niết-bàn, nên học như vậy.

QUYỂN 17

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 2)

Này Đại vương! Ví như có người trong mộng nghe tiếng nhạc hay, tâm sinh vui thích. Khi thức giấc nhớ nghĩ lại tiếng nhạc hay vi diệu ở trong mộng. Như vậy tiếng nhạc đó có thật không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp việc trong mộng là thật. Như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì tiếng nhạc hay trong mộng thật không có thì làm gì có chuyện sinh vui thích. Nên biết, người này chỉ luống, sức mệt mỏi tất cả đều không thật.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Đúng vậy, đúng vậy, kẻ ngu dị sinh nghe tiếng vừa ý khởi lên yêu thích, sinh ra nhiễm trước tạo các nghiệp ác. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp này rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ, đến cuối cùng mang căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới và A-tu-la, hoặc trời hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đầu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Biết rõ như vầy: thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt chỉ rõ.

Này Đại vương! Nghe tiếng xấu thì sinh ưu não. Như người trong mộng thấy chia lìa người thân yêu, buồn rầu khóc lóc sinh đại sầu khổ. Ý Đại vương nghĩ sao? Khi người này thức rồi nhớ lại việc trong mộng có thật không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp người trong mộng là thật. Như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì việc thân yêu trong mộng rốt ráo không có thì làm gì có việc chia lìa. Nên biết, người này chỉ luống sức mệt mỏi, tất cả đều không có thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Này Đại vương! Kẻ ngu si dị sinh nghe tiếng dở liền sinh sầu não, khởi lên tâm sân giận, tạo ra nghiệp sân. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến cuối cùng mang căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện hiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Khi thức đầu tiên sinh không từ đâu đến lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Này Đại vương! Tai nghe tiếng xả khởi lên tưởng xả. Như người trong mộng nghe người khác tuyên nói nhưng không rõ nghĩa cú. Ý Đại vương nghĩ sao? Khi người này thức rồi nhớ lại tiếng đã nghe trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp việc trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì tiếng trong mộng thật không có thì làm gì có chuyện không rõ nghĩa cú. Nên biết, người này chỉ uổng công mệt sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh tai nghe tiếng xả không đạt nghĩa thú, khinh mạn chê bai tạo ra nghiệp si. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, mới vừa tạo tác thì liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; cuối cùng mạng căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại cú nghĩa mà mình đã nghe không rõ ở trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la hoặc trời hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Khi nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả, cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không nguyện cầu, đó là Vô nguyện giải thoát môn. Ba pháp này cùng đi đối với không, là con đường đầu tiên đi đến Niết-bàn, quyết định như pháp giới, rộng lớn như hư không, đối với thí dụ này nên biết như vậy.

Này Đại vương! Ví như có người trong mộng dùng hương Chiên-đàn hoặc hương Đa-ma-la diệp và các loại hương khác xoa vào thân. Ý Đại vương nghĩ sao? Khi người thức rồi nhớ lại việc xoa hương vào thân là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp việc trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì các loại hương trong mộng thật không có, thì làm gì có chuyện xoa vào thân. Nên biết, người này chỉ luống công mệt sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh mới nghe hương thơm liền sinh ham thích, tâm khởi nhiễm trước tạo nghiệp như vậy. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi liền tiêu diệt mất. Nghiệp này diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ. Cho đến thức cuối cùng diệt, tự nghiệp hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh khởi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến, đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không. Thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để biểu thị.

Này Đại vương! Như người trong mộng thấy đem rắn chết, chó chết và người chết buộc vào cổ mình tâm sinh sợ hãi. Ý Đại vương nghĩ sao? Khi người này tỉnh giấc nhớ lại những việc đã thấy là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì rắn chết trong mộng thật không có thì làm gì có chuyện đeo vào cổ. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh thấy cảnh hôi thối nổi lên sân giận, chê bai tạo ta nghiệp này. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, tạo nghiệp này rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp này không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới chính giữa mà trụ; đến cuối cùng mạng căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để biểu thị.

Này Đại vương! Ví như có người ở trong mộng bị phi nhân cắt mũi. Ý Đại vương nghĩ sao? Người này thức rồi nhớ lại việc cắt mũi trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong mộng cho là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì mũi ở trong cảnh mộng thật không có thì làm gì có chuyện xẻo cắt. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Này Đại vương! Kẻ ngu si dị sinh thấy cắt mũi khởi lên tưởng sợ hãi, tạo nghiệp si mê. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba, tạo nghiệp này rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi không nương tựa vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến cuối cùng mạng căn diệt tận, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng, gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không có tướng thì không nguyện cầu, gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Ba pháp này cùng đi với không, là con đường đầu tiên đi đến Niết-bàn, quyết định như pháp giới, rộng lớn như hư không, đối với thí dụ nên biết rõ như vậy.

Này Đại vương! Ví như có người ở trong mộng bị đói khát bức bách được gặp các món ăn ngon mặc ý mà ăn. Ý Đại vương nghĩ sao? Sau khi thức giấc, người này nhớ nghĩ lại các món ăn ngon trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong mộng là thật như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì thức ăn ngon trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện ăn. Nên biết, người chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh thấy thức ăn ngon rồi tâm sinh đắm trước khởi lên nghiệp tham. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba; mới vừa tạo tác sát-na liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi, không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ, đến cuối cùng mạng căn diệt tận, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la hoặc trời hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Này Đại vương! Ví như người trong mộng bị đói bức bách, ăn phải những món dưa đắng như Câu-xá-đát-kế tử, Tất-thô-ma-rị-nại tử, tâm sinh sân hận. Ý Đại vương nghĩ sao? Sau khi người này thức rồi nhớ lại việc ăn dưa đắng trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật có, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì dưa đắng trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện ăn. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh trong mộng bị đói khát bức bách, ăn phải vị đắng tâm sinh sân hận, tạo ra nghiệp này. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến cuối cùng mạng căn diệt, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc người, hoặc trời. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Này Đại vương! Như người trong mộng thấy mình bị cắt lưỡi. Ý Đại vương nghĩ sao? Sau khi người này thức giấc nhớ lại việc trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp việc trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì lưỡi ở trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện cắt lưỡi. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh này thấy bị cắt lưỡi tâm sinh sân nhuế buồn rầu tạo ra nghiệp này. Thân nghiệp có ba ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp này rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp này không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến cuối cùng mạng căn diệt tự phần nghiệp báo đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi hoặc hướng vào địa ngục hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tánh sinh diệt. Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thân thức thân thức không, tự nghiệp tự nghiệp không, thức đầu tiên thức đầu tiên không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không. Biết rõ nghiệp chuyển không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không có tướng thì không có nguyện cầu, gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Ba pháp này cùng đi đối với không, là con đường đầu tiên đi đến Niết-bàn, quyết định như pháp giới, rộng lớn như hư không, đối với thí dụ này nên biết rõ như vậy.

QUYỂN 18

PHẨM 26: SỰ SAI KHÁC CỦA LỤC GIỚI (PHẦN 3)

Này Đại vương! Ví như người trong mộng thấy mình ở chung với các cô gái đẹp, sau khi thức giấc, nhớ lại việc xúc chạm ở trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp việc trong mộng cho là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì các cô gái đẹp trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện xúc chạm cảm khoái. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật. Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh vô trí kiến thức thấp kém đối với việc xúc chạm vừa ý lại sinh yêu thích, tâm sinh nhiễm trước tạo nghiệp như vậy. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, trên dưới, bốn phía, chính giữa, mà trụ; đến khi mạng chung thấy những việc trước kia đã làm hiện ra trong tâm tưởng. Như người tỉnh mộng, nhớ lại việc trong mộng; cuối cùng thức diệt tự nghiệp hiện tiền.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp thọ báo đến không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người, đồng phần chủng loại liên tục không dứt.

Này Đại vương! Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên kia khởi không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì lìa tự tánh. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không, không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ tùy theo thế tục mà chỉ bày rõ ràng, không phải đệ nhất nghĩa nói như thế.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không có nguyện cầu, gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có khả năng hiểu rõ ba giải thoát môn này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết như vậy.

Này Đại vương! Ví như người trong mộng lấy đồng dát mỏng nóng làm y phục quấn vào thân. Khi người này tỉnh giấc nhớ lại việc đồng dát mỏng nóng áp vào thân thể khổ não như vậy là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp cảnh trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì đồng mỏng nóng trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện áp vào thân nóng bức khổ não. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không có thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh nhận thức thấp kém thấy việc sợ hãi tâm sinh hiềm ghét, vọng sinh chấp trước tạo ra ác này. Thân nghiệp có ba, ngữ nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba; tạo nghiệp này rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp này diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến khi mạng chung thấy việc làm đời trước tâm sinh hoảng hốt. Như người tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng. Thức cuối cùng diệt tự nghiệp hiện tiền.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp chịu quả báo đều không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm, liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tự tánh không. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không. Biết rõ nghiệp báo tự tánh chẳng phải có, không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không có nguyện cầu, gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có khả năng hiểu rõ ba giải thoát môn này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết rõ như vậy.

Này Đại vương! Như người trong mộng thấy thân mình bị hoại không còn biết cảm giác. Khi người này tỉnh giấc nhớ lại thân bị tan hoại trong mộng sinh ra lo buồn sầu não là thật có có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp việc trong mộng là thật như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì thân căn trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện tan hoại. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh phàm phu nhận thức kém cỏi, tự thấy thân tan hoại tâm sinh chấp trước, lại khởi lên sợ hãi tạo ra nghiệp si này. Thân nghiệp có ba khẩu nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ, đến khi mạng chung thấy việc làm trước kia tâm sinh sợ hãi bàng hoàng. Như người tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng. Thức cuối cùng diệt tự nghiệp hiện tiền.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp chịu quả báo đều không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm, liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thức đầu tiên khởi không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tự tánh không. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không. Biết rõ nghiệp báo tự tánh chẳng phải có, không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không có nguyện cầu, đó là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có thể hiểu rõ ba pháp môn giải thoát này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết rõ như vậy.

Này Đại vương! Như người trong mộng thấy người làm trò ảo thuật làm ra năm thứ dục và các thứ dục khác, tự thấy thân mình được hưởng các thứ dục lạc ấy. Sau khi tỉnh giấc, người này nhớ lại việc đã làm trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp cảnh trong mộng cho là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì người làm trò ảo thuật ở trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có việc biến hiện năm thứ dục lạc và các việc cảm khoái khác. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh phàm phu nhận thức kém cỏi ý đắm trước vào pháp, tâm sinh tham nhiễm, lại khởi lên tìm cầu càng thêm si ái bị nó dắt dẫn tạo ra tội này. Thân nghiệp có ba, khẩu nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến khi mạng chung thấy những việc làm thuở trước hiện trong tâm tưởng, tự phần nghiệp báo thảy đều hiện tiền. Cũng như tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp chịu quả báo đều không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm, liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tự tánh không. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không, tạo nghiệp không thể được, thọ báo không thể được, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Đại vương nên biết! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng.

Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không có nguyện cầu, đây gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có khả năng biết rõ ba giải thoát môn này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết như vậy.

Này Đại vương! Ví như có người ở trong mộng thấy mình và cả quyến thuộc đều bị nước mạnh nhận chìm, chịu các nỗi kinh hồn và khổ não. Sau khi tỉnh giấc, người này nhớ lại việc bị nước nhận chìm ở trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Người này chấp cảnh trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì bị nước nhận chìm ở trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì có chuyện kinh hoàng khổ não. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh phàm phu nhận thức kém cỏi, ý đắm trước vào các pháp sinh ra lo sợ sầu não, lần lượt tìm cầu không có đạo đối trị. Do không hiểu cho nên khởi các ác nghiệp, thân nghiệp có ba, khẩu nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo ra nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, ở giữa mà trụ; đến khi mạng chung, tâm sinh hoảng sợ, thấy việc đời trước đã làm đều hiện ra cả. Như người trong tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp chịu quả báo đều không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm, liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thức đầu tiên sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên ấy sinh không từ đâu đến lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tự tánh không. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không, không có tác giả cũng không có thọ giả, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Này Đại vương! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không có nguyện cầu, đây gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có khả năng hiểu rõ ba giải thoát môn này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết như vậy.

Này Đại vương! Ví như có người trong mộng, tự thấy mình uống rượu quá say không biết thiện pháp và các ác hạnh, công đức và lỗi lầm. Sau khi tỉnh giấc, người này nhớ lại việc trong mộng là thật có không?

Vua thưa:

– Không thật, thưa Thế Tôn!

Đức Phật hỏi:

– Này Đại vương! Ý Đại vương nghĩ sao? Người này chấp việc trong mộng là thật, như vậy có phải là người trí không?

Vua thưa:

– Không phải, thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì việc uống rượu trong mộng hoàn toàn không có thì làm gì chuyện say mê. Nên biết, người này chỉ luống công nhọc sức, tất cả đều không thật.

Đức Phật khen:

– Đúng vậy, đúng vậy! Kẻ ngu si dị sinh nhận thức kém cỏi, ý đắm trước vào các pháp, khởi tâm ái nhiễm, tạo ra nghiệp si này. Thân nghiệp có ba, khẩu nghiệp có bốn, ý nghiệp có ba. Tạo ra nghiệp ấy rồi sát-na liền diệt mất. Nghiệp ấy diệt rồi không nương vào Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới, chính giữa mà trụ; đến khi mạng chung thấy những việc làm thuở trước, tự phần nghiệp báo hiện trong tâm tưởng. Như người tỉnh mộng nhớ lại việc trong mộng.

Này Đại vương! Thức là chủ, nghiệp là phan duyên, cả hai làm nhân cho nhau. Thức đầu tiên sinh khởi tạo nghiệp chịu quả báo đều không hoại mất, hoặc hướng vào địa ngục, hoặc đọa vào bàng sinh, Diệm-ma-la giới, A-tu-la, hoặc trời, hoặc người. Thức đầu tiên sinh rồi đều chịu quả báo ấy, đồng phần tâm phẩm, liên tục tùy chuyển. Thức cuối cùng diệt gọi là tử uẩn, thức đầu tiên khởi gọi là sinh uẩn.

Này Đại vương! Lúc thân thức sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc duyên ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu. Lúc nghiệp ấy sinh không từ đâu đến, lúc diệt không đi về đâu.

Này Đại vương! Không có một pháp nhỏ nào từ đời này đến đời khác. Vì sao? Vì tự tánh không. Nên biết rõ như vầy: Thức đầu tiên thức đầu tiên không, tự nghiệp tự nghiệp không, thân thức thân thức không, hoặc diệt diệt không, hoặc sinh sinh không, luân hồi luân hồi không, Niết-bàn Niết-bàn tự tánh đều không, không có tác giả cũng không có thọ giả, hoặc nghiệp hoặc báo đều không thể được, chỉ dùng danh tướng phân biệt để chỉ rõ.

Này Đại vương! Các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, tất cả các pháp thảy đều vắng lặng. Đây gọi là Không giải thoát môn. Không vô không tướng gọi là Vô tướng giải thoát môn. Nếu không tướng thì không nguyện cầu, đây gọi là Vô nguyện giải thoát môn. Nếu ai có khả năng biết rõ ba môn giải thoát này cùng đi đối với không thì đó là con đường đầu tiên đi đến Bồ-đề, rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, đối với thí dụ này nên biết như vậy.

QUYỂN 19

PHẨM 27: VUA TỊNH PHẠN TIN HIỂU (PHẦN 1)

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tịnh Phạn:

– Này Đại vương! Như trên đã nói pháp môn giải thoát, Đại vương nên để tâm chánh niệm quán sát dũng mãnh tinh tiến quyết định tu hành. Chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại đều nương vào đó mà chứng Bồ-đề vô thượng. Do đó nên hưởng tất cả mọi sự vui sướng của thế gian, tiêu trừ tất cả khát ái ở thế gian, có khả năng nhiếp phục tất cả ngã mạn thế gian, hay phá tất cả tà kiến thế gian, diệt trừ mọi tội ác của hữu tình, khiến cho kẻ phàm phu dị sinh chưa đạt Sơ địa đều được pháp tánh bình đẳng. Các pháp yếu như vậy không phải là cảnh giới sở hành của Thanh văn và Bích-chi-phật. Đó chỉ là việc tu hành của các Bồ-tát.

Này Đại vương! Nên suy nghĩ như vầy: “Ta làm thế nào để làm con mắt sáng nhiều đời cho hàng trời người và làm thuyền bè ở trong sông ái, làm đạo sư ở nơi đường hiểm, làm chủ cho những ai không chỗ nương tựa, tự độ rồi lại độ cho nhiều người khác, tự giải thoát rồi khiến cho người khác được giải thoát, tự được an ổn khiến cho người khác được an ổn, tự chứng Niết-bàn rồi khiến cho người khác được chứng”.

Này Đại vương! Không nên quán pháp ấy thọ hưởng vui sướng, phóng túng theo năm dục hiện tại thế gian. Các căn như huyễn cảnh giới như mộng. Đó là đối với sắc cảnh thanh hương vị xúc tâm sinh tham trước không bao giờ biết đủ.

Này Đại vương! Thời quá khứ vô lượng vô biên kiếp, có Chuyển luân vương tên là Vô Biên Xưng, giàu có tự tại, oai đức to lớn, voi ngựa xe cộ và các loại xe báu, luân báu tối thắng, không ai có thể phá hoại; đã từng thân cận vô lượng chư Phật và đã trồng nhiều căn lành ở nơi các Đức Phật ấy, tùy theo ý nghĩ đều được thành tựu.

Này Đại vương! Hôm nọ, vua Vô Biên Xưng suy nghĩ: “Ta nên thử xem năng lực của phước đức, nhờ phước của ta khiến cho tất cả cây cối hoa quả trong bốn thiên hạ đều được tươi tốt, thọ dụng không bao giờ hết”. Vừa nghĩ xong, tất cả cây cối hoa quả trong bốn thiên hạ đều được tươi tốt.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng nghĩ như vầy: “Nay ta hãy thử xem năng lực thiện căn của ta khiến tất cả nhân dân trong bốn thiên hạ nếu ai có nguyện gì đều được tùy ý không có sai trái”. Nghĩ như vậy rồi, nhân dân trong bốn thiên hạ tất cả sự mong cầu đều được như ý.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại nghĩ: “Nhờ sức thiện căn của ta khiến mưa nước hương thơm xuống bốn thiên hạ”. Vừa nghĩ xong liền mưa nước hương thơm xuống khắp cả bốn thiên hạ.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Nhờ sức thiện căn của ta khiến cho mưa hoa đẹp xuống bốn thiên hạ”. Y như ý nghĩ, mưa đủ loại hoa đẹp tối thượng xuống bốn thiên hạ.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Nhờ sức thiện căn của ta khiến mưa xuống y báu khắp bốn thiên hạ”. Y như ý nghĩ, liền mưa y báu xuống bốn thiên hạ.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Nhờ sức thiện căn của ta khiến mưa bạc xuống bốn thiên hạ”. Y như ý nghĩ, liền mưa bạc xuống bốn thiên hạ.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại nghĩ: “Nhờ sức thiện căn của ta khiến mưa vàng ròng xuống bốn thiên hạ”. Y như ý nghĩ, liền có mưa vàng đổ xuống khắp bốn thiên hạ. Vì sao? Vì thuở xưa Vua Vô Biên Xưng cùng với các chúng sinh đồng tu thiện nghiệp cho nên được như vậy.

Này Đại vương! Đại địa trong Diêm-phù-đề này ngang rộng một vạn tám ngàn du-thiện-na, lại có sáu mươi ức thành quách lớn. Trong đó có một thành tên là Bảo trang nghiêm, rộng ngang bằng mười hai du-thiện-na, bốn phía bằng phẳng thành tựu khéo léo. Bên ngoài thành có cây Đa-la xòe ra bảy lớp, tạo thành bằng bốn thứ báu như vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, trang nghiêm tuyệt diệu, trông thật yêu thích. Nếu cây bằng vàng thì lá hoa quả đều là bạc; cây bằng bạc thì lá hoa quả đều là vàng ròng. Cây phệ-lưu-ly thì lá hoa quả đều là pha-chica. Cây pha lê lá hoa quả đều là lưu ly. Bảy lớp thành báu ấy đều có linh báu và các thứ trân kỳ vi diệu phủ lên trên. Ngoài thành lại có bảy lớp hào báu đều bằng bảy thứ báu, mỗi mỗi hào báu sâu nửa do-tuần, rộng một do-tuần, đáy trải bằng cát vàng, chứa đầy nước tám công đức mát mẻ trong trẻo. Các loại chim tập hợp lại nơi ấy kêu hót phát ra tiếng vi diệu. Hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-một-na, hoa Bát-nột-ma, hoa Phân-đà-lợi nở rộ cả. Thềm bệ xung quanh đều làm bằng bốn thứ báu. Vàng ròng làm thềm, bạc làm bệ; bạc làm thềm, vàng ròng làm bệ. Lưu ly làm thềm, pha lê làm bệ; pha lê làm thềm, lưu ly làm bệ. Mỗi mỗi thềm đều làm bằng bảy thứ báu, cạnh thềm đều trồng cây chuối màu vàng. Lại ở đầu thềm đặt các tòa báu, trang trí khéo léo thật đáng yêu thích. Trang nghiêm phong phú như vậy đều là nhờ sức thiện căn tích tập của vua Vô Biên Xưng nên nới được như vậy. Xung quanh thành Bảo Trang Nghiêm ấy lại có tám vạn bốn ngàn vườn rừng thanh tịnh, trong mỗi vườn có tám ao lớn, mỗi ao đều rộng nửa du-thiện-na, bờ của mỗi ao đều có bốn bực thềm cấp, được làm bằng bốn thứ báu trang nghiêm khéo léo. Ao ấy chứa đầy nước tám công đức, các loại hoa sen nhiều màu sắc nở rộ trên mặt ao ấy. Trên bờ ao lại có các loại hoa như: Hoa A-đề-mục-các-đa, hoa Chiêm-bát-ca, hoa Phược-thỉ-kế, hoa Tô-mạn-na, hoa A-du-ca, hoa Bà-sư-ca. Các loại hoa thơm đẹp này làm chỗ để cho vua Vô Biên Xưng cùng các nhân dân du ngoạn thưởng thức vui chơi.

Này Đại vương! Cung thành của vua ấy cao rộng đẹp đẽ. Cây Đa-la báu được trồng thẳng hàng, phía trên đó lưới báu giăng khắp, linh báu phát tiếng vi diệu như là tiếng của năm thứ nhạc. Nhân dân ấy nhờ đức giáo hóa của vua nên được giàu có vui sướng tự tại, sống đời sống an ổn.

Này Đại vương! Hôm nọ vua Vô Biên Xưng suy nghĩ: “Nay ta nên đến Đông thắng thần châu”. Nghĩ thế rồi, vua liền dẫn bốn bộ binh bay lên hư không để đến nơi ấy. Các vua nhỏ nơi đó đều ra nghênh đón cung phụng. Tất cả đều đem đất nước chí thành dâng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở nơi đó trải qua trăm ngàn vạn năm.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Nay ta nên đến Tây ngưu hóa châu”. Nghĩ vậy rồi liền dẫn bốn binh chúng bay lên hư không để đến châu ấy. Các vua nhỏ ở nơi ấy đều đến nghênh đón cung phụng. Tất cả đều đem đất nước chí thành dâng hiến. Vua ở châu ấy trải qua trăm ngàn vạn năm.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Ta nay nên đến Bắc câu-lô châu. Nghĩ vậy rồi liền dẫn bốn bộ binh bay lên hư không để đến châu đó”. Các nhân dân châu ấy đều hoan hỷ quy hóa. Vua ở châu đó trải qua trăm ngàn vạn năm.

Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng lại suy nghĩ: “Ta nghe nói có Tam thập tam thiên ở trên đỉnh núi Tu-di, nay ta nên đến đó”. Nghĩ vậy rồi liền cỡi long tượng cùng với bốn binh chủng bay lên hư không để đến đảnh Tu-di. Lúc đó vua Vô Biên Xưng hỏi ngự thần:

– Ngươi thấy Tu-di cho đến biển cả và bốn thiên hạ việc ấy như thế nào?

Ngự thần tâu:

– Hạ thần thấy tướng ấy quay tròn không cố định. Cũng như cái khuôn của người thợ gốm.

Những gì ngươi thấy long tượng vương này đi nhanh chưa dừng. Vua lại đến trước hỏi tiếp ngự thần:

– Ngươi thấy Tu-di tướng ấy thế nào?

Ngự thần tâu:

– Nay hạ thần thấy Tu-di, biển cả thảy đều chấn động.

Nay sắp đến đảnh núi Tu-di, long tượng vương đi chậm chưa dừng. Vua lại tiến đến trước hỏi tiếp ngự thần:

– Ngươi thấy Tu-di tướng ấy thế nào?

Ngự thần tâu:

– Nay hạ thần thấy Tu-di và biển cả không còn lay động.

Long tượng vương này nay đã đến đảnh núi Tudi. Khi vua Vô Biên Xưng và bốn binh chúng đến Tu-di, chúa trời Đế Thích từ xa trông thấy liền hoan hỷ đến nghênh đón nói như vầy:

– Lành thay! Đại vương!

Nói thế rồi chia nửa tòa mời vua đến ngồi. Lúc đó, vua Vô Biên Xưng đến ngồi vào nửa tòa đó, ở lại cõi trời đó trải qua vô lượng năm cùng với chúa trời chia đôi cai trị. Ở được thời gian lâu vua lại suy nghĩ: “Ta có thể rời cõi trời này một mình làm vua”. Vừa khởi lên ý nghĩ như thế, vua và binh chúng tức thời đọa xuống vườn báu trong thành Bảo trang nghiêm. Lúc đó, người giữ vườn thấy việc ấy rồi nói với người trong thành rằng: “Nay có Thiên nhân xuống nơi đây”. Vua cai trị đương thời tên là Tác Ái nghe nói như vậy liền vội nghênh giá đến vườn ấy, thấy việc trên hết sức kinh ngạc, liền cho bày biện các thứ hương hoa, hương bột, hương xoa đến trước vua ấy, bày vai phải gối phải quỳ sát đất chắp tay thăm hỏi an ủi thưa:

– Thánh vương là ai và từ đâu đến đây?

Vua ấy đáp:

– Ngươi đã từng nghe thuở xưa có Chuyển luân thánh vương tên là Vô Biên Xưng không?

Vua Tác Ái thưa:

– Tôi có nghe các bậc kỳ cựu nói thuở xưa có vua tên là Vô Biên Xưng, oai đức tự tại thống lãnh bốn thiên hạ cùng với bốn binh chúng bay lên hư không đến Tam thập tam thiên.

Vị vua ấy bảo:

– Người mà ngươi đã nghe đó đâu phải ai lạ chính là ta đây.

Lúc vua Vô Biên Xưng từ trên trời đọa xuống rồi, đầu tiên nghe nhân gian ăn uống khí vị không thể kham nhận. Cũng như dầu tô để trên cát nóng.

Lúc đó, vua Tác Ái thấy vị vua ấy thay đổi không thể đứng yên liền thưa:

– Ngài có gì để chỉ dạy, đời tương lai tôi tuyên truyền những gì?

Vua Vô Biên Xưng bảo:

– Này Tác Ái! Ta từ xưa đến nay, giàu có tự tại làm vua trong bốn thiên hạ, tất cả những gì cần dùng đều được như ý, được chúa trời Đao-lợi chia nửa tòa. Do lòng tham không chán nên từ trên trời đọa xuống đây, các việc như trên nên nói như vậy.

Vua nói lời ấy rồi liền mạng chung.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Vua Vô Biên Xưng thuở đó đâu phải người nào lạ, nay chính là thân ta đây. Vì thế nên biết, các căn như huyễn, cảnh giới như mộng, buộc tâm chánh quán chớ sinh nghi hoặc.

Lúc đó Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Muốn cầu chánh pháp tài
Tịnh tâm luôn chất trực
Năm dục không bền vững
Người trí nên xa lìa.
Nếu rõ được các pháp
Thì chán vui năm dục
Khéo hàng phục tâm ấy
Hay phá các phiền não.
Do nhờ đoạn phiền não
Không thọ các đường ác
Người lìa được nghiệp ấy
Được thế gian cung kính.
Lìa tham dục nhiễm ô
Chỉ rõ lỗi của dục
Tâm làm lợi quần sinh
Xưng tối thắng thế gian.
Nghe lỗi lầm năm dục
Mau sinh tướng nhàm chán
Dùng trí tịnh tâm ấy
Thế gian không ai bằng.
Đại trượng phu tối thắng
Hay diệt ác chúng sinh
Khiến lìa nghiệp tham ấy
Thế gian không ai bằng.
Đại trượng phu tối thắng
Hay diệt ác chúng sinh
Khiến lìa nghiệp sân hận
Thế gian không ai bằng.
Đại trượng phu tối thắng
Hay diệt ác chúng sinh
Khiến lìa tâm si mạn
Là bậc Trí thanh tịnh.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ rồi lại vì vua Tịnh Phạn nói pháp yếu.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Đời quá khứ vô lượng kiếp có Chuyển luân vương tên là Địa Sinh, trị thế bằng thiện pháp, đầy đủ bảy báu như: Luân báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, binh báu, nữ báu, chân tạng thần báu. Vua có thái tử tên là Địa Thiên kế thừa ngôi vị của vua cha Chuyển luân vương. Phụ tướng đại thần quán đảnh cho vua, làm Sát-đế-lợi quán đảnh thánh vương. Đến ngày mười lăm tháng trăng tròn tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc áo mới thanh tịnh, dùng các vòng hoa ma-ni, đội mũ thiên quan, các loại anh lạc để trang nghiêm thân, trên lầu cao được các thể nữ vây quanh. Phương Đông có kim luân báu, thiên bức đầy đủ, hạt võng viên mãn, ánh sáng chiếu đến bảy thước.

Lúc đó, Địa Thiên vương thấy việc này rồi liền nói:

– Ta xưa từng nghe các bậc kỳ cựu nói: “Nếu lúc Sát-đế-lợi làm lễ quán đảnh thì có kim luân hiện”. Như trước đã nói nên quyết định biết làm Chuyển luân vương. Nay ta hãy thử nghiệm việc đó xem sao”.

Địa Thiên vương liền từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai phải gối phải, quỳ sát đất, hướng về kim luân chắp tay nói như vầy:

– Kim luân này sẽ rơi xuống đất.

Khi vua cầu như vậy, Kim luân liền rơi đến trước vua. Vua dùng hương vi diệu, y phục tối thượng, dùng bánh xe báu đặt trong lòng bàn tay phải mà nói với bánh xe rằng:

– Ta nay muốn đến Đông Thắng thần châu.

Vừa nói xong, Kim luân bay lên hư không đến châu ấy. Địa Thiên Thánh vương xuất hiện nơi đó, đất ấy bằng phẳng, trải các hoa báu, nhờ oai lực của vua đất đều chấn động. Những nơi như giếng, ao, sông, hồ, lâu nay khô cạn, nay chứa đầy nước tám công đức, đó là: nhẹ, sạch, ngọt, trơn, không dơ, không hôi, người uống vào không chán, khoái thích không đau bụng. Tất cả rừng cây hoa quả sum suê, các cây khô héo đều được tươi tốt. Những nơi vua đi đều được kim luân hướng dẫn trước; đến các quốc độ các vua lớn nhỏ đều dùng mâm vàng đựng đầy bạc, hoặc dùng mâm bạc đựng đầy vàng để cung phụng nghênh đón thăm hỏi rằng:

– Lành thay, Thánh vương! Nay quốc độ an ổn, cúi xin Thánh vương hãy ở nơi đây cai trị hóa độ nhân dân, chúng tôi sẽ cung cấp những người hầu hạ.

Thánh vương nói:

– Ta nay không cần quốc độ, trân báu. Các ngươi nên tùy thuận những lời răn dạy, hãy xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm; cũng chớ có vọng ngữ cho đến tà kiến; mười nghiệp bất thiện. Các ngươi nên sống với mười điều thiện, cũng dạy người khác thực hành mười điều thiện, hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng thờ, sư trưởng, chớ làm các việc phi pháp, tu hành thiện hạnh, cũng khuyến khích người khác tu các việc thiện.

Lúc đó, Địa Thiên và bốn binh chúng từ nơi Đông thắng thần châu qua hết cảnh giới của con người, vượt qua đại hải đến Tây ngưu hóa châu và Bắc câu-lô châu, tuyên dương công đức giáo hóa của vua. Sau khi tất cả đều được hàng phục, vua cùng bảo luân trở về Diêm-phù-đề, trụ trên hư không nơi cửa cung vua. Lúc đó, bốn thiên hạ biến thành bảy báu, tất cả các khổ của ba đường ác và tiếng bất thiện, tám vạn thảy đều tiêu diệt huống nữa lại có người tạo nghiệp ác. Vì sao? Vì bản nguyện của Địa Thiên Chuyển luân thánh vương. Lại luân báu ấy ở trong hư không xoay tròn qua lại trong bốn thiên hạ, tất cả mọi nơi đều mọc lúa thơm tự nhiên không cần phải gieo trồng. Lại luân báu quay tròn trên thiên hạ các cây Kiếp-ba, phát sinh ra y báu, tất cả hữu tình thọ dụng như ý. Lại luân báu ấy quay tròn trong thiên hạ, những ai mang bệnh nặng đều được thuyên giảm. Chỉ có ba bệnh. Một là ý vui, hai là đoàn thực, ba là già suy. Các chúng sinh ấy sống đến ngàn năm. Nếu như có khổ nhỏ thì tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng vô biên việc hy hữu như vậy đồng thời xuất hiện. Lúc đó, Địa Thiên vương bỗng suy nghĩ: “Nay ta ở đây giàu có tự tại, lại còn có nhiều chỗ hơn cả nơi đây”. Vua lại nghĩ tiếp: “Ta xưa từng nghe trên đỉnh núi Tudi có Tam thập tam thiên khoái lạc vô cùng, nay ta nên đến đó”. Nghĩ thế rồi liền cùng bốn binh chúng đến nơi ấy. Lúc đó, chúa trời Đế Thích thấy Địa Thiên vương từ xa đi đến liền đứng dậy nghênh đón, dùng lời hay để thăm hỏi, chia tòa mời ngồi và cùng nhau cai trị. Vua ở nơi ấy trải qua đã lâu, Địa Thiên vương muốn rời khỏi Đế Thích để làm vua một cõi. Nghĩ như vậy rồi vua cùng binh chúng đọa xuống Diêm-phù-đề nơi thành Mạt-độ-la. Địa Thiên vương ở lâu nơi Thiên cung hưởng thọ các thú vui vi diệu tối thượng, bỗng đọa vào nhân thế, không có tạm an ổn. Cũng như dầu tô để trên cát nóng, thân tâm bỗng biến đổi không thể kham nhận.

Lúc đó, Địa Thiên vương nói kệ rằng:

Vương giả xưng tự tại
Nhưng chưa đoạn tham dục
Như lửa thêm củi khổ
Thế nên mau xa lìa.
Như khát uống nước muối
Thì tâm càng khát thêm
Nên biết người trước dục
Không chán cũng như vậy.
Như các sông chảy biển
Chưa bao giờ tràn đầy
Nên biết người trước dục
Không chán cũng như vậy.
Như gương soi hình dung
Hiển hiện luôn thay đổi
Nên biết người trước sắc
Không chán cũng như vậy.
Như tiếng vang hang trống
Ứng đáp không dừng dứt
Nên biết người trước thanh
Không chán cũng như vậy.
Cũng như đựng đầy hương
Thọ luân chưa từng đủ
Nên biết người trước hương
Không chán cũng như vậy.
Như trộn thức ăn ngon
Lúc nào cũng ăn dùng
Nên biết người trước vị
Không chán cũng như vậy.
Như gió thổi hư không
Chuyển động mãi không dừng
Nên biết người trước xúc
Không chán cũng như vậy.
Như uống nước trong mộng
Không thể hết tưởng khát
Người ý trước các pháp
Không chán cũng như vậy.
Nếu ham thích các dục
Lửa tham càng cháy thêm
Nên dùng nước tịnh trí
Dập tắt không còn gì.

Khi Địa Thiên Chuyển luân thánh vương nói kệ rồi, liền diệt mất.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Địa Thiên vương đâu phải ai lạ, chính là ta đây.

QUYỂN 20

PHẨM 27: VUA TỊNH PHẠN TIN HIỂU (PHẦN 2)

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Nay ta nói tiếp, vào thời xa xưa có Chuyển luân thánh vương tên là Mạn-đạtđa có oai thế lớn, phước đức đầy đủ, sinh ra từ đảnh của vua cha. Đời trước đã từng tu phạm hạnh, từng gặp vô lượng vô biên chư Phật, ở chỗ Đức Phật ấy trồng các công đức căn bản, kế thừa ngôi vị quán đảnh của phụ vương, thống trị bốn thiên hạ, giàu có tự tại, xuất hiện ở Diêm-phù-đề cai trị giáo hóa, vui thích năm dục thù thắng số một, an ổn sung túc, nhân dân đông nhiều, làng xóm thành ấp gà bay đến nhau, đất không có ngói gạch sạn đá gai gốc. Giá như có gò núi thì phần nhiều phát sinh ra vàng báu, ao suối vườn rừng trang nghiêm. Trong nước có một thành lớn tên là A-du-xà, phía Đông tây của thành ấy rộng mười hai do-tuần, Đông bắc rộng bảy do-tuần, lưới báu, linh báu được treo phủ lên trên. Vua có nhiều quyến thuộc cung kính vây quanh. Cũng như thành lớn Diệu kiến của Đế Thích. Vua Mạn-đạtđa xây cung điện hợp với ba mùa. Cung thứ nhất tên là Nguyệt Quang, mùa nóng thì vua ở cung này. Cung điện thứ hai tên là Lưu ly tạng, vào mùa mưa thì vua ở cung này. Cung điện thứ ba tên là Nhật quang, mùa lạnh thì vua ở cung này. Nếu khi vua vào điện Nguyệt Quang cùng với hậu phi, thế nữ, quyến thuộc vây quanh trước sau thì thân thể mát mẻ. Cũng như hương Ngưu đầu chiên-đàn xoa vào thân, thân thể của vua an ổn điều hòa cũng lại như vậy. Cũng như Đế Thích cùng các Thiên tử ở tại điện Quảng thắng, hưởng thọ vui thích tối thắng vi diệu. Nếu gặp mùa mưa thì vua và quyến thuộc vào điện Lưu ly. Ví như dùng hương Đa-ma-la-bạt-đát-la xoa vào thân, ý vua khoái thích cũng lại như vậy. Nếu mùa lạnh vua và quyến thuộc vào điện Nhật quang. Như dùng hương trầm thủy xoa vào thân, thân thể của vua ấm áp khi vào điện ấy cũng như vậy.

Này Đại vương! Bỗng nhiên trong cung của vua Mạn-đạt-đa trong bảy ngày mưa xuống các vàng báu. Mãn bảy ngày rồi vua khen chưa từng có, phước nghiệp thanh tịnh cẩm báo đến như vậy. Vua trụ thế cai trị giáo hóa trải qua vô lượng năm.

Lúc đó, vua Mạn-đạt-đa suy nghĩ: “Ta nghe phía Tây có Đại Ngưu hóa châu”. Nghĩ vậy rồi cùng với bốn binh chúng bay lên hư không, từ Diêm-phù-đề dần dần đến châu ấy. Đến rồi, vua thọ dụng những món ăn uống tối thượng, quốc độ nhân dân an ổn vui sướng sung túc, ở trong cung vua mưa xuống châu báu trong bảy ngày, bằng với Diêm-phù-đề không khác. Vua ở châu đó trải qua trăm ngàn vạn năm.

Lúc đó, vua Mạn-đạt-đa suy nghĩ: “Ta nghe phương Đông có Đại Thắng thân châu”. Nghĩ vậy rồi cùng với bốn binh chúng bay lên hư không, từ Ngưu hóa châu dần dần đến nơi ấy. Vua đến nơi ấy rồi thọ dụng các món ăn ngon vi diệu tối thượng, cai trị giáo hóa nhân dân an ổn vui sướng sung túc, trong cung cũng mưa châu báu bảy ngày bằng với Ngưu hóa châu không khác. Vua ở châu đó trải qua trăm ngàn vạn năm.

Này Đại vương! Vua Mạn-đạt-đa tự suy nghĩ: “Ta nghe phương Bắc có câu-lô châu, nhân dân châu ấy không sinh tưởng phân biệt ngã và ngã sở, ta nay nên đến đó thử xem”. Nghĩ vậy rồi cùng với bốn binh chúng bay lên hư không, từ Thắng thân châu dần dần đi đến châu ấy. Đến rồi vua thử xem quyến thuộc mới biết đúng như vậy. Ở châu ấy vua hưởng thọ khoái lạc trải qua vô lượng năm. Này Đại vương! Vua Mạn-đạt-đa lại suy nghĩ: “Ta từng nghe có Tam thập tam thiên an trụ trên đảnh núi Tu-di, nay ta đích thân đến đó quán sát”. Nghĩ vậy rồi cùng bốn binh chúng bay lên hư không, từ Câu-lô châu liền đến nơi ấy. Lúc đó, Thiên chủ cùng các Thiên tử tập hợp tại Diệu pháp đường đàm luận việc trời. Thấy Mạn-đạt-đa từ xa đến, chúa trời Đế Thích liền chia nửa tòa mời vua ngồi. Khi vua Mạn-đạt-đa vừa ngồi vào tòa có mười điều hơn Thiên chủ. Đó là:

1. Thọ mạng.

2. Dung nghi.

3. Danh xưng.

4. Khoái lạc.

5. Tự tại.

6. Đoan chánh.

7. Âm thanh.

8. Trong thân luôn thoảng mùi hương thơm.

9. Hương vị thức ăn.

10. Xúc chạm mịn màng.

Sự thọ dụng của vua Mạn-đạt-đa và Thiên chủ đều giống nhau, chỉ có mắt nháy là khác biệt. Các Thiên tử đem việc đó để bàn luận, biết được Thiên chủ và Nhân vương hai thứ có khác.

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Vua Mạn-đạt-đa tuy sinh ở nhân gian nhưng hình nghi cùng với Thiên chủ như nhau không khác, phước báo thù thắng chưa từng có. Vua ở cõi trời ấy trải qua vô lượng năm được làm Thiên chủ tự tại tối thắng, ở trong bốn thiên hạ giàu có vui sướng hơn hết. Mặc dù được Đế Thích chia nhau cai trị, nhưng tâm vẫn chưa thấy đủ. Hôm nọ, vua Mạn-đạt-đa bỗng đổi ý: “Nay ta một mình có thể làm Thiên chủ, cần gì Đế Thích, vậy mau rời nơi đây”. Vừa khởi ý nghĩ như vậy, vua cùng bốn binh chúng từ cõi trời đọa xuống Diêmphù-đề trong vườn Tối thắng thuộc thành A-du-xà. Khi rơi xuống, oai quang của vua chiếu khắp Diêm-phù-đề, ánh sáng ấy che cả ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Lúc đó, nhân dân ra khỏi thành để xem, thấy việc ấy rồi kinh ngạc chưa từng có, liền vào thành rao lên như vầy: “Nay có Thiên nhân và bốn binh chúng từ trên hư không rơi xuống trong vườn Tối thắng”.

Này Đại vương! Lúc đó, vua và nhân dân trong thành liền sửa soạn các thứ hương xoa, hương bột, ca múa, kỹ nhạc, tràng phan, bảo cái, vòng hoa, anh lạc, các món trang nghiêm thân vội vã đến vườn Tối Thắng.

Này Đại vương! Lúc vua Mạn-đạt-đa mới rơi xuống nhân gian, đất sáu cách chấn động. Lúc đó, nhân dân có tất cả hương trang nghiêm thù thắng tối thượng đều đem đến vườn Tối thắng để xoa lên thân vua cúng dường. Vua Mạn-đạt-đa từ lâu đã hưởng thọ khoái lạc tối thượng vi diệu của thiên cung nên không thể kham nhận những thứ của con người. Thí như dầu tô để trên cát nóng, thân thể chi phần của vua mệt mỏi biến đổi không khi nào yên.

Lúc đó, vua trong thành thưa hỏi:

– Ngài là vị trời nào đọa xuống đây?

Vua Mạn-đạt-đa đáp:

– Ngươi từng nghe xưa có Chuyển luân thánh vương tên là Mạn-đạt-đa không?

Vua và nhân dân thưa:

– Chúng tôi từng nghe có Chuyển luân thánh vương tên là Mạn-đạt-đa có oai đức lớn, thống lãnh bốn thiên hạ, rời cõi người cùng với bốn binh chúng bay lên Tam thập tam thiên.

Vị trời mới rơi xuống nói:

– Vua Mạn-đạt-đa thuở xưa đó chính là ta đây, do không biết nhàm chán nên mới như thế này. Ai đối với phước báo mà biết đủ ư?

Lúc đó, vua và các thần dân trong thành dùng kệ hỏi:

Tôi nghe kỳ cựu nói
Xưa có Chuyển luân vương
Tên là Mạn-đạt-đa
Có oai thế to lớn
Cùng bốn binh quyến thuộc
Lên Tam thập tam thiên
Giáo hóa các Thiên nhân
Vì họ nói chánh pháp.
Vua Mạn-đạt-đa ấy
Bỏ vui trời chịu khổ
Sức vô thường gia hại
Do tâm không biết đủ,
Nhân dân đều chắp tay
Đảnh lễ chân Đại vương
Vua di chúc lời gì
Vị lai tôi sẽ nói.
Lúc đó Mạn-đạt-đa
Nói với mọi người rằng
Ta do đắm trước vui
Từ trời mà đọa xuống,
Có sức oai đức lớn
Thống lãnh bốn thiên hạ
Thọ dục lạc không chán
Từ trời mà đọa xuống,
Xưa tự ở trong cung
Bảy ngày mưa trân báu
Thọ dục lạc không chán
Từ trời mà đọa xuống
Chúa trời Đế Thích kia
Chia nửa tòa cùng trị
Bị ác giác não loạn
Từ trời đọa xuống đây.
Đối dục lạc không chán
Không tin lời của Phật
Tự phá hoại phước nghiệp
Lưu chuyển biển luân hồi.
Đời có bậc Đại trí
Hay lìa dục si ám
Và giáo hóa người khác
Biết đủ khéo quán sát,
Nếu suy nghĩ chân chánh
Tùy thuận các thiện pháp
Phá hoại nghiệp luân hồi
Và khổ sinh, già, chết.
Quán xúc như lửa cháy
Quán thọ cũng như vậy
Biết rõ như thế rồi
Không còn khởi tham lam.
Người ngu trước cảnh giới
Như nghe tiếng âm nhạc
Rõ căn cảnh vốn không
Biết pháp lìa tự tánh.
Sáu xứ không vắng lặng
Chỉ biến kế phân biệt
Nếu rõ được sắc không
Thì không sinh tham trước.
Người trí khéo phòng hộ
Nhàm chán khổ luân hồi
Mắt tuệ thường chiếu sáng
Lìa hết mọi lỗi lầm.

Đức Phật nói:

– Này Đại vương! Vua Mạn-đạt-đa thuở đó đâu phải người nào lạ, Đại vương chớ nhìn đâu khác, nay chính là thân ta đây. Do cậy vào oai lực phước đức tự do, tham lam không chán, cho nên phải chịu đọa lạc. Thế nên, Đại vương! Hãy xả bỏ giàu có kiêu mạn tự do mà an trụ tịnh tâm chớ sinh buông lung. Nếu lìa buông lung thì được lợi ích cả mình và người, sinh các căn lành, trụ lý bình đẳng và có khả năng chứng nhập pháp tánh chân như.

Đại vương nên biết! Nếu hữu vi giới, vô vi giới cả hai bình đẳng, không có tướng nam, cũng không có tướng nữ, không có quá khứ, hiện tại, vị lai, nên đối với pháp này an trụ tự tâm, quyết định chánh quán chớ chạy theo lời người khác.

Này Đại vương! Thuở xưa có vua tên là Nê-di xuất hiện ở thế gian, đem chánh pháp cai trị hóa độ, tâm thường vắng lặng không sinh buông lung, dù ở bất cứ đâu cũng xa lìa hạnh buông lung, vì sợ các tội ác nên không dám tái phạm.

Này Đại vương! Vua Nê-di chú ý kiên cố, thường hay quán sát ba đời bình đẳng; quán tất cả các pháp thời quá khứ trụ lý bình đẳng vốn lìa tự tánh; tất cả các pháp hiện tại, vị lai lìa tự tánh cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Vua Nê-di quán pháp ba đời bình đẳng bình đẳng, không sinh chấp trước. Lại quán tất cả chúng sinh ở thế gian bị bốn điên đảo làm mê hoặc, đối với bất tịnh lại tưởng là tịnh, đối với bức bách lại tưởng an lạc, đối với vô thường lại khởi tưởng thường, đối với vô ngã mà tưởng là ngã. Lúc đó vua Nê-di suy nghĩ: “Người ngu thế gian thật đáng thương xót. Tất cả các pháp tự tánh vắng lặng, do si vọng che lấp nên không biết gì. Vậy nên bày phương tiện dùng bốn nhiếp pháp giáo hóa các hữu tình khiến sinh lòng tin tùy thuận”.

Vua mới bảo rằng: “Các ngươi nên biết rõ tất cả các pháp vốn lìa tự tánh, nếu pháp lìa tự tánh thì nên biết pháp ấy không phải quá khứ, hiện tại, vị lai”. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh là không. Nếu tự tánh pháp là không thì không thể phân biệt mà nói là quá khứ, hiện tại, vị lai.

Này Đại vương! Vua Nê-di chỉ rõ pháp ba đời bình đẳng rồi, lúc đó chúng hội trăm ngàn vạn ức chúng sinh nghe pháp hiểu rõ và đạt được Vô sinh pháp nhẫn.

Lúc đó, Tam thập tam thiên và các Thiên tử tập hợp tại Diệu pháp đường cùng nhau bàn luận, dùng thiên nhãn xa thấy trong Diêm-phù-đề có vua Nêdi đem mười điều thuận giáo hóa cai trị, tất cả nhân dân đều được pháp lợi, phương tiện khéo léo lợi ích chúng sinh.

Khi ấy, chúa trời Đế Thích ở các chỗ khác dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe nói như trên, mỗi mỗi Thiên chủ đều đến và ngồi trong hội hỏi các Thiên tử vừa rồi nói việc gì. Các Thiên tử đáp:

– Nay người ở Diêm-phù-đề vui được pháp lợi, có vua Nê-di thâm hiểu thông đạt các pháp, phương tiện khéo léo, nhiếp hóa chúng sinh, khiến người điên đảo lìa điên đảo. Vừa rồi bàn luận chính là việc này đây.

Lúc đó, Thiên chủ nói với các Thiên tử:

– Vua Nê-di đời trước đã trồng công đức căn bản, thành tựu sức oai thần đầy đủ, các ngươi muốn thấy vua Nê-di kia không?

Các Thiên tử đều đáp:

– Chúng tôi đều muốn thấy.

Lúc đó, Đế Thích ra lệnh lính ngự tên là Mađa-lê:

– Ngươi nên trang nghiêm ngàn cổ xe báu cùng những hầu hạ đến Diêm-phù-đề chỗ vua Nê-di tâu như vầy: “Tâu Đại vương. Đây là ngàn xe báu của Đế Thích sai tôi đến đón Đại vương. Cúi xin ngài lên xe chớ sinh sợ hãi, các Thiên tử muốn thấy Thánh vương”.

Lính ngự thưa:

– Nay Đại vương bay lên trời có hai con đường để đến. Một là từ con đường điên đảo của chúng sinh mà đến; hai là từ con đường không điên đảo của chúng sinh mà đến.

Vua Nê-di bảo:

– Ngươi nên dắt ta đi giữa hai con đường ấy.

Lúc đó, lính ngự Ma-đa-lê vâng lệnh vua dạy, đi theo con đường giữa.

Vua Nê-di lại bảo:

– Ngươi nên dừng xe tạm nghỉ giây lát để ta quán sát con đường điên đảo mà chúng sinh ở. Lúc đó, vua Nê-di dùng nguyện lực, trong khoảng chốc lát khiến vô lượng chúng sinh đều được Tịch tĩnh thần thông du hý Tam-ma-địa và đạt Vô sinh pháp nhẫn. Chỉ trong giây lát mà vua Nê-di thành tựu đại lợi như vậy. Vì sao? Vì vua đã tích tập hạnh không buông lung, phương tiện khéo léo, lợi lạc chúng sinh.

Lúc đó, Ma-đa-lê lần lượt tiến đến trước hướng dẫn vua đến đảnh núi Tu-di. Trước hết, vua thấy cây rừng xanh tươi rồi hỏi lính ngự:

– Trong đây nhất định là chỗ ở của chúng sinh không điên đảo.

Lính ngự thưa:

– Rừng này là của Tam thập tam thiên, các Thiên tử đang ở trong Diệu Pháp đường, nhất tâm chiêm ngưỡng muốn thấy Đại vương, xin chớ nghi sợ, nên vào nhà này.

Lúc đó vua Nê-di dung nghi hòa duyệt, thân tâm không động. Đế Thích từ xa trông thấy liền đứng dậy nghênh đón.

– Lành thay, Đại vương! Từ xa dùng oai thần đến đây không biết mệt mỏi.

Nói rồi liền chia nửa tòa mời ngồi, cùng nhau thăm hỏi. Vua Nê-di mới ngồi vào tòa, Đế Thích khen:

– Lành thay, Đại vương! Vui được thiện lợi, có khả năng khiến cho pháp Phật hưng thạnh lâu dài.

Đế Thích bảo các Thiên tử:

– Vua Nê-di đây từ lâu đã trồng các thiện căn, thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, phương tiện khéo léo, chỉ trong giây lát giáo hóa tám mươi ức hữu tình lìa điên đảo, trụ vào pháp Phật.

Ma-đa-lê lúc đó không biết gì, vua Nê-di vì các Thiên tử mà nói pháp yếu, rồi thưa với Thiên chủ rằng:

– Tôi nay trở về cõi Diêm-phù-đề. Vì sao? Vì muốn hộ trì chánh pháp của Đức Phật.

Thiên chủ nói:

– Xin Đại vương cứ tùy ý.

Đức Phật nói:

– Này Đại vương! Vua Nê-di thuở xưa chính là thân ta, sức không buông lung không thể nghĩ bàn. Đế Thích chia tòa còn không ham thích. Vì thế nên biết, đối với pháp Phật phải siêng năng tinh tấn trụ không buông lung.

Này Đại vương! Sao gọi là pháp Phật? Tất cả các pháp đều là pháp Phật.

Vua Tịnh Phạn nghe lời ấy rồi bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều là pháp Phật, thì tất cả chúng sinh cũng đều là Phật?

Đức Phật bảo:

– Này Đại vương! Chúng sinh không trụ vào kiến chấp điên đảo thì là Phật.

Này Đại vương! Phật cũng gọi là chân như, là thật tế, là pháp giới. Tất cả những danh từ đó đều dựa vào thế tục đế mà tìm cầu đưa ra chứ chẳng phải thắng nghĩa đế nói như thế.

Này Đại vương! Tất cả các pháp vốn không sinh diệt. Đây gọi là A tự Đà-la-ni môn, không có tự tánh, không có tạo tác, không có tướng mạo, không có nhân duyên, không có đến đi, không có chúng sinh, không có thọ giả, không có người nuôi dưỡng, không có Bổ-đặc-già-la, không có hý luận, không có hình trạng, không có biên tế, không có nhiễm ô, không có tập nghiệp sót lại, không có sai sử, không có đoạn trừ, không trói, không mở; không tới, không lui; không thắng, không liệt; không tán loạn, không quên mất, không biết, không phải không biết, không thấy; không phải không thấy, không giới; không phải không giới, không phải hối; không phải lìa hối, không phải vui; không phải không vui, không phải ái; không phải không ái; không phải yên, không phải không yên; không phải định; không phải không định, không phải tịnh, không phải không tịnh; không phải tham, không phải lìa tham; không phải thoát, không phải lìa thoát; không phải trí, không phải không trí, không phải làm; không phải không làm, không phải báo, không phải không báo.

Này Đại vương! Nếu ai có khả năng hiểu được pháp môn chữ “A” này thì có thể hiểu rõ tất cả các pháp.

Này Đại vương! Sắc lìa tự tánh, không phải đã có, không phải hiện có và không phải sẽ có; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh ấy, ba đời không có cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Ví như tiếng vang trong hang không phải đã có, không phải hiện có và không phải sẽ có. Sắc cho đến thức ba đời không có cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Ví như sóng nắng không phải đã có, không phải hiện có và không phải sẽ có. Sắc cho đến thức ba đời không có cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Ví như bọt nước không phải đã có, không phải hiện có và không phải sẽ có. Sắc cho đến thức ba đời không có cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Ví như người nữ bằng đá trong mộng sinh con không phải đã có, không phải hiện có và không phải sẽ có. Sắc cho đến thức ba đời không có cũng lại như vậy.

Này Đại vương! Hư không không nương vào sắc, cho đến thức cũng không chỗ nương.

Này Đại vương! Sắc không có sinh, cho đến thức cũng không có sinh.

Này Đại vương! Sắc không có diệt, cho đến thức cũng không có diệt.

Này Đại vương! Niết-bàn giới không sinh diệt; sắc cho đến thức cũng không sinh diệt.

Này Đại vương! Pháp giới không sinh diệt; sắc cho đến thức cũng không sinh diệt.

Này Đại vương! Pháp này chính là Sở hành của Như Lai, cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn, chẳng phải lấy, chẳng phải bỏ, không phải được, không phải mất. Điều đó, các hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật và phàm phu không thể hiểu được. Vì sao? Vì tất cả các pháp vốn không có tự tánh, hoặc lấy hoặc bỏ đều không thể được. Đại vương đối với pháp này nên tự an ý chánh niệm quán sát, chớ có chạy theo lời người khác.

Vua Tịnh Phạn nghe lời dạy ấy rồi thông đạt rõ ràng, do đó mới biết được không có một pháp nhỏ nào có thể được và không thể được.

Khi Đức Phật nói kinh này, vua Tịnh Phạn cùng với bảy vạn người dòng họ Thích đều được Vô sinh pháp nhẫn.

Lúc đó, Đức Phật biết được vua Tịnh Phạn ngộ pháp này rồi, thâm tâm quyết định, liền từ trong miệng phóng ra đủ loại ánh sáng chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới vượt quá Phạm thế, rồi lại nhập vào đảnh Phật.

Tôn giả Mã Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay đảnh lễ dùng kệ thưa hỏi:

Đại Thánh Tôn dũng mãnh
Hiện việc hy hữu này
Phóng ánh sáng chiếu khắp
Chiếu đến cả Phạm thế.
Đạo Sư Nhất thiết trí
Cớ gì hiện điềm này
Xin nói lý do đó
Trừ nghi hoặc chúng con.
Như Lai thành đạo rồi
Nhiêu ích khắp chúng sinh
Vì độ dòng họ Thích
Làm trời người hoan hỷ.
Như Lai phóng ánh sáng
Giác ngộ các Phật tử
Như pháp mà tu hành
Sẽ được trí vô thượng.
Phật là chúa ba cõi
Tối thắng không ai bằng
Hay phá các chúng nghi
Tâm thanh tịnh an ổn.

Lúc đó, Đức Thế Tôn vì Tỳ-kheo Mã Thắng nói kệ rằng:

Mã Thắng nên lắng nghe
Ta phóng ánh sáng này
Vì lợi lạc dòng Thích
Khiến thấy trí chân thật.
Họ hiểu rõ được rằng
Các pháp không thể được
Đối với chánh pháp ta
Vắng lặng tâm an trụ.
Dòng Thích tiếng tăm lớn
Rõ pháp không chỗ nương
Lìa được tâm nghi ấy
Vị lai sẽ thành Phật.
Từ thân cuối cùng này
Được sinh nước Cực lạc
Hóa sinh từ hoa sen
Phụng thờ Vô Lượng Thọ.
An trụ cõi Phật ấy
Tinh tấn không hiện chuyển
Du hóa khắp mười phương
Phụng thờ trăm ức Phật.
Ở mỗi mỗi thế giới
Khởi cúng dường các món
Vì lợi các hữu tình
Siêng cầu đạo Vô thượng.
Trải qua mỗi cõi Phật
Kiến lập các Phật sự
Được Như Lai gia trì
Tâm dũng mãnh kiên cố.
Trong vô lượng ức kiếp
Đem hương hoa thơm đẹp
Phụng hiến các Thế Tôn
Sau sẽ thành Chánh giác.
Ở mỗi mỗi chỗ Phật
Tuyên dương trợ pháp hóa
Thành thục các hữu tình
Tâm đều được sáng suốt.
Ở các cõi Phật ấy
Không Duyên giác, Thanh văn
Chỉ có trụ Đại thừa
Chúng Bồ tát thanh tịnh.
Tuổi thọ mỗi Đức Phật
Vô lượng vô biên tuổi
Giáo hóa lợi chúng sinh
Duyên hết như đèn tắt.
Phật kia diệt độ rồi
Các Phật tử giữ gìn
An trụ ở thế gian
Tuyên nói pháp vắng lặng.
Chúng đệ tử như vậy
Nhiếp hóa các chúng sinh
Khéo điều phục tự tâm
Đối pháp không được chứng.
Trụ hạnh không buông lung
Quán pháp tự tánh không
Như lý khéo tu hành
Sẽ thành Nhất thiết trí.
Các dòng họ Thích này
Nghe pháp đều khai ngộ
Các hàng trời và người
Tâm xuất sinh vui mừng.

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Nay ta nói Tam-ma-địa vi diệu thấy tánh chân thật. Nếu các Bồ-tát nghe pháp này rồi thì mau chóng được giác ngộ đến bờ giải thoát. Vì sao? Vì Tam-ma-địa này rõ được tất cả pháp tự tánh chẳng phải có, không có Bổ-đặc-già-la, không có một pháp nhỏ nào có thể được. Nếu người nào có sở đắc thì người ấy không phải giác ngộ. Nếu không giác ngộ thì không nói. Nếu không nói thì không hiểu biết. Nếu không hiểu biết thì là pháp của ba đời chư Phật.

Này Xá-lợi-phất! Ta nay đem Tam-ma-địa thấy tánh chân thật này phó chúc cho ông, các ông nên thọ trì đọc tụng và đem truyền bá rộng rải giáo hóa người khác.

Này Xá-lợi-phất! Nếu thiện nam, thiện nữ nào an trụ Đại thừa, trong mười kiếp hành năm Ba-lamật, trừ Bát-nhã ba-la-mật. Nếu người nào đối với Tam-ma-địa thấy tánh chân thật này mà thân cận lắng nghe thọ trì, thì được công đức nhiều hơn người kia.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu có người nào ở trong mười kiếp nghe pháp này rồi đem thuyết giảng cho một người thì được công đức nhiều hơn người kia.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu có người trong mười kiếp nghe pháp này rồi, đem dạy lại cho người khác, công đức không bằng người chỉ trong khoảng sát-na tu tập quán sát.

Này Xá-lợi-phất! Ông nên nhất tâm vì các Bồtát phân biệt khai thị khiến không cho dứt mất. Vì sao? Vì người chứng Tam-ma-địa này thì mau chóng được Vô sinh pháp nhẫn, sẽ chứng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp này rồi, Tôn giả Xálợi-phất, các Tỳ-kheo, vua Tịnh Phạn, Thích, Phạm, chư Thiên, A-tu-la, Càn-thát-bà, Nhân phi nhân... nghe rồi đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.


[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]


[Mục lục bộ Bảo Tích][310.1][310.2][310.3][311][312][313][314][315][316][317][318][319][320][321][322][323][324][325][326][327][328][329][330][331][332][333][334][335][336][337][338][339][340][341][342][343][344][345][346][347][348][349][350][351][352][353][354][355][356][357][358][359][360][361][362][363][364][365][366][367][368][369][370][371][372][373]


[Mục lục tổng quát]