TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ BẢO TÍCH (310 - 373)

BỘ BẢO TÍCH 5 – T046

SỐ 342 - KINH NHƯ HUYỄN TAM MUỘI

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ


QUYỂN THƯỢNG

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa tại núi Linh Thứu, thuộc thành Vương-xá, cùng với sáu vạn hai ngàn vị Tỳ-kheo, tất cả đều là bậc Trưởng lão đã đạt trí tuệ thần thông. Bốn vạn hai ngàn vị Bồ-tát đều cùng hạng với Đồng Chân Phổ Thủ (Bồ-tát Vănthù-sư-lợi). Tên của những vị đó là: Bồ-tát Sư Tử Anh, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Quang Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Kiến Lập Viễn, Bồ-tát Sơn Đỉnh, Bồ-tát Sơn Tràng, Bồ-tát Vô Động, Bồ-tát Thiện Tư Nghị, Bồ-tát Sở Tư Nghị, Bồ-tát Tâm Dũng, Bồ-tát Tâm Chí, Bồ-tát Thiện Tâm, Bồ-tát Châu Tích, Bồ-tát Thạch Ma Vương, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Ngự Chúng, Bồtát Đốc Tấn, Bồ-tát Trụ Ngôn Hành Tương Ưng,

Bồ-tát Siêu Nguyện, Bồ-tát Lập Báo Đáp, Bồ-tát Đẳng Tư, Bồ-tát Khí Chư Ác Thú, Bồ-tát Độ Vô Lượng, Bồ-tát Độ Vô Động, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Thường Ý, Bồ-tát Trì Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Thuật Tường, Bồ-tát Chấp Tụng, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nguyệt Anh, Bồ-tát Quang Anh, Bồ-tát Quang Thủ, Bồ-tát Hoàn Nhã Can Quang, Bồ-tát Sư Tử Bộ Lôi Âm, Bồ-tát Biện Vô Ngại, Bồ-tát Diệu Biện, Bồ-tát Ứng Biện, Bồ-tát Độ Ý, Bồ-tát Hiển Nhật Nguyệt Quang, Bồ-tát Không Vô, Bồ-tát Chất Du, Bồ-tát Thường Tiếu, Bồ-tát Căn Hỷ, Bồ-tát Trừ Chư Cái, Bồ-tát Chuyển Nữ, Bồ-tát Chuyển Nam, Bồ-tát Chuyển Thai, Bồtát Bị Đức Khải, Bồ-tát Đại Tuệ, Bồ-tát Quang Diễm, Bồ-tát Chiếu Minh, Bồ-tát Vô Thọ, Bồ-tát Thọ Âm Vương, Bồ-tát Thâm Tạng, Bồ-tát Chúng Hương Thủ, cùng tám vị Chánh sĩ giải thoát hội đủ. Lại có Tứ Thiên vương, Thiên Đế thích, Phạm Nhẫn vương cùng với các vị vua trời khác gồm sáu vạn người đông đủ. Các Thiên tử Tu Thâm, Thiên tử Thiện Trụ Ý, trời Đại Thần Diệu, Thiện Ý, Đại Lạc, các vị vua trời như vậy gồm ba vạn người đều dốc cầu Đại thừa. A-tu-luân Yến Cư cùng với hai vạn ức A-tu-luân, chúa rồng biển cùng với sáu vạn chúng rồng từ biển hiện lên, cõi này và phương khác có vô số các chúng trời, rồng, quỷ thần, A-tuluân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, hàng trăm ngàn ức Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chúng cư sĩ nam, nữ không thể tính kể đều hội đủ, tất cả cùng vây quanh, Đức Phật từ bi vì họ mà thuyết pháp.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi an tọa tự tại một mình trong thiền thất, nhập Tam-muội chánh thọ “Không, vô tâm, lìa tâm” rồi từ Tam-muội đứng dậy, hiện bày sự an ổn làm chấn động khắp vô lượng cõi Phật nơi mười phương. Bồ-tát Văn-thùsư-lợi tự suy nghĩ: Như Lai Chí Chân bình đẳng giác, hiện đang an trụ nơi pháp hội, đối với việc mong cầu của thế gian thật khó đạt được, như hoa Linh Thụy lâu ngày mới nở một lần. Sự thị hiện của Phật rất khó gặp, chẳng phải là tâm tư duy, chẳng thể dùng lời nói để diễn tả được, thâm diệu, siêu việt không gì sánh bằng. Đức Phật thị hiện ở đời hoàn toàn không hư dối, nhờ đấy các chúng sinh được nghe pháp, nghe kinh điển chưa từng luống phí. Những chúng sinh như vậy đã diệt trừ được khổ đau, những pháp chân chánh ấy đều tạo được lợi ích. Hôm nay con đến chỗ Như Lai đúng thời sẽ thưa hỏi, tùy theo sự chất vấn đó khiến cho chúng sinh có được đầy đủ các gốc công đức. Giả sử có người tu học thừa Bồ-tát thì không còn nghi, lầm về pháp Phật vi diệu sâu xa, thông suốt nghĩa lý của đạo, che lấp cung điện của các ma. Những loài chúng sinh ở trong thế giới Kham Nhẫn này do tham, sân, si dấy khởi mạnh nên hay xa lìa pháp thanh tịnh, chỉ thực hành điều vô nghĩa, ngu tối giận dữ, tâm thường kiêu mạn, không cung kính. Do tạo nghiệp ác nên sự tu tập bị sai lầm, quên mất pháp Phật. Nay chúng sinh nếu được nghe pháp này sẽ khiến họ đạt được tuệ nhãn thanh tịnh.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại suy nghĩ: Ta nên đến thế giới của chư Phật khắp mười phương, cung thỉnh vô lượng trăm ngàn Bồ-tát tập hợp lại để lãnh thọ kinh điển của Đức Phật, tất đại chúng đều chứng được pháp nhẫn sâu xa ấy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ Tam-muội Ly cấu quang nghiêm tịnh đạt được chánh thọ, vào Tammuội rồi, phát ra ánh sáng chiếu khắp ức hằng sa thế giới chư Phật ở phương Đông, soi khắp mọi nơi, đều được thấm nhuần, hòa dịu, dứt trừ cấu uế, sáng chói rực rỡ. Ánh sáng thanh tịnh ấy lại chiếu đến bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng, trên, dưới nơi cõi Phật khắp mười phương, soi đến những nơi chưa từng được có ánh sáng, ở các chốn tối tăm mù mịt, những vùng núi đá, tường vách, hoa lá, cây cỏ, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Mục-lân, núi Đại-mục-lân, núi Tuyết và núi Tu-di, tất cả đều được soi sáng. Ánh sáng chiếu tỏa khắp không hề bị che khuất, chướng ngại.

Bấy giờ, thế giới chư Phật ở khắp mười phương, mỗi mỗi hằng hà sa ức cõi Phật, chư Phật Thế Tôn đều hiện đang thuyết pháp. Mỗi vị thị giả của chư Phật ở các cõi này đều thưa hỏi chư Phật của mình:

– Do nhân duyên gì bỗng nhiên có ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới, từ xưa đến nay chưa từng thấy nghe, ánh sáng này xuyên sâu và hòa dịu không bị che khuất. Hôm nay ánh sáng của chư Phật làm cho chúng con an ổn, tâm ý thanh tịnh, mọi cấu uế được nhổ sạch không còn lỗi lầm, lại không khởi dâm nộ si. Điềm lành đã hiển hiện là Thánh chỉ của ai, khiến ánh sáng rực rỡ càng tăng thêm.

Chư Phật Thế Tôn thấy thị giả thưa hỏi vẫn im lặng không đáp. Thế giới đó có âm thanh của chúng trời, rồng, quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lâu-la, chim cánh vàng, Càn-đạp-hòa, người, phi nhân, âm thanh của loài chim bay, nai chạy, gió, mưa, nước trong biển lớn, kỹ nhạc các loại, tất cả những thứ tiếng đó do oai thần của Phật nên đều lặng yên, không vang ra, hết thảy mọi tiếng vọng cũng đều vắng bặt nên các vị thị giả đã thưa thỉnh đến ba lần: Bạch Thế Tôn! Nguyện xin thuyết giảng vì người thế gian và chư Thiên luôn được thương xót, luôn khiến được an ổn, luôn được nhớ nghĩ, là do oai thần của ai mà xuất hiện những âm thanh đó cùng ánh sáng chiếu khắp cõi Phật?

Khi ấy, chư Phật ở ức hằng sa số cõi từ mỗi quốc độ đồng thời với một âm thanh được tập hợp chung, hòa dịu, rõ ràng, đều từ một Đức Phật phát khởi bao nhiêu lời giảng dạy vang ra như vậy, cùng lúc bảo các thị giả: Chư Phật Thế Tôn đã thuyết giảng khiến tất cả cõi Phật đều chấn động, trăm ngàn âm nhạc không tấu nhưng tự vang lên, chư Thiên, loài người, A-tu-luân đều vui mừng. Âm thanh đó cũng thuyết giảng về vô thường, khổ, không, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện, hư không. Âm thanh đó hiện bày không có nguồn gốc, không có giới hạn, trừ bỏ dâm nộ si, vượt khỏi ba cõi, luôn suy xét kỹ âm thanh của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Âm thanh của luôn biết hổ thẹn. Âm thanh của từ, bi, hỷ, xả. Âm thanh luôn tu tập, thực hành, không phóng dật. Bao nhiêu âm thanh như vậy luôn phát ra trăm ngàn tiếng nói về nghĩa pháp. Khi thuyết giảng pháp ấy khiến cho vô lượng vô số ức trăm ngàn người không thể tính kể, vững chắc trong chánh pháp, không còn thoái chuyển, tâm nguyện mong cầu nơi đạo Chánh chân. Pháp giáo hóa cho hàng Thanh văn, Duyên giác và những vị Đế thích, Phạm vương, Chuyển luân Thánh vương cũng vậy. Lúc này, chư Phật bảo các thị giả:

– Này các thiện nam! Các ông hãy yên lặng. Đây chẳng phải là quả vị Thanh văn, Duyên giác có thể đạt tới. Trời, A-tu-luân, Người nghe điều này đều hoảng sợ. Nhưng các Đức Như Lai tán thán về ánh sáng hiện bày công đức ấy là không thể nghĩ bàn, nơi tích tập công đức ấy là không thể suy xét, việc tu học tinh tấn, đạt trí tuệ nên mới hiện ra tất cả ánh sáng ấy một cách trọn vẹn. Nếu ở trong một kiếp hay hơn một kiếp tán dương về ánh sáng đó cũng không thể nói hết cội nguồn cùng biên vực của nó. Ánh sáng chói lọi này phát sinh từ tâm từ bi lớn rộng như vậy.

Các vị thị giả của chư Phật được nghe sự tán thán như thế càng tăng thêm tâm khao khát. Lại bạch Phật:

– Kính xin chư Đại Thánh đúng thời thuyết giảng về sự nhớ nghĩ, luôn tạo an ổn, xót thương đối với chư Thiên cùng với loài người trong mười phương và chúng Bồ-tát tu học Đại thừa, khiến họ thành tựu mọi công đức nơi căn lành.

Chư Phật bảo các thị giả:

– Này các thiện nam! Có một thế giới gọi là cõi Nhẫn, ở đó có vị Phật tên là Thích Ca Văn gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thị hiện ở đời năm trược hỗn loạn. Chúng sinh ở cõi ấy dâm nộ si luôn tăng trưởng, kiêu mạn, ít cung kính, xả bỏ tâm thanh tịnh và công đức nên xa lìa hổ thẹn, nhiều mê lầm nên thường tạo các nghiệp ác. Các loại chúng sinh ấy do ngu tối mê mờ, tạo tập các hạnh ác, Đức Phật kia đã sinh vào cõi ấy để hóa độ chúng sinh, đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đã vì họ mà thuyết giảng kinh pháp. Cõi đó có vị Bồ-tát hiệu là Văn-thù-sư-lợi, uy lực dũng mãnh, trí tuệ rộng lớn, tinh tấn vượt bậc, thần thông biến hóa không ai sánh kịp, khai thị, giáo hóa cho các Bồ-tát khiến họ hội nhập vào công đức lớn của Đại thừa, làm cha mẹ của các Bồ-tát, biết đúng thời thuyết pháp, trí tuệ vô biên, phân biệt câu nghĩa, biện tài vô ngại, độ thoát muôn người đạt đến bờ kia, chứng đắc Tổng trì, thấu tỏ nguồn gốc của các chúng sinh, từ sự nhận thức rõ ràng nên lưu truyền khắp nơi, công đức không thể nghĩ bàn. Các ông hãy đến thưa hỏi Đức Như Lai Chí Chân, sẽ biết được các hạnh nghiệp, khiến các Bồ-tát thành tựu những công đức căn bản, đến gặp các Bồ-tát ấy khiến cho các ông biết rõ hoàn toàn các pháp của Phật. Này thiện nam! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thỉnh các Bồ-tát nghe thuyết giảng pháp vi diệu, nên phóng ra hào quang làm cho vô lượng vô số ức Bồtát khắp mười phương đều hội đủ, để họ được thọ nhận pháp nêu giảng của Phật. Vì thế, Bồ-tát ấy đã thị hiện, phóng ra hào quang chiếu soi tới khắp các cõi Phật. Vị thị giả thưa:

– Định - Tam-muội này gọi là gì?

Phật dạy:

– Gọi là Tam-muội Ly cấu quang trang nghiêm. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tâm an trú trong định này nên thị hiện thần thông vĩ đại, hào quang vi diệu tỏa chiếu xa rộng như thế.

Các vị thị giả lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con từ xưa đến nay chưa từng thấy hình tượng như vậy. Âm thanh hòa nhã thanh tịnh, hào quang, tiếng vọng vi diệu. Vì nhân duyên ấy nên đã đem hết tâm từ bi, tùy thời phóng ra hào quang. Lành thay! Đạo đức thù thắng siêu việt không thể nghĩ bàn, làm cho mọi người đều vui mừng, hoan hỷ hết mực như thế.

Đức Phật bảo:

– Này thiện nam! Đúng vậy!

Khi ấy, các cõi liền rung động, hiện bày ánh sáng rực rỡ, tập hội các chúng Bồ-tát để tuyên giảng kinh điển và khai thị đạo lớn.

Bấy giờ, mười phương vô số khó tính kể, không thể nghĩ bàn, tám phương, trên dưới mỗi mỗi phía có cõi nước chư Phật nhiều như cát của ngàn ức sông Hằng, mỗi cõi có vô lượng không thể nghĩ bàn các chúng Bồ-tát đều đi đến chỗ Phật, đảnh lễ ngang chân Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đại Thánh chỉ bày, đây là ánh sáng gì mà từ xưa đến nay chúng con chưa từng thấy, nghe? Đây là ánh sáng ứng hiện về điềm lành gì?

Đức Phật bảo các Bồ-tát:

– Này Tộc tánh tử! Ở thế giới tên Nhẫn, có Đức Phật hiệu là Thích Ca Văn Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Giác, hiện đang thuyết pháp. Cõi đó có vị Bồ-tát tên là Phổ Thủ (Văn-thù-sư-lợi) đang phóng ra ánh sáng rực rỡ tên là “Thỉnh các Bồ-tát đều tập hội”. Đây là điềm lành ứng hiện.

Các Bồ-tát đều bạch Phật:

– Chúng con muốn đến cõi Nhẫn để được diện kiến Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chân, đảnh lễ, thưa hỏi, lãnh thọ những điều được nêu giảng và cũng muốn gần gũi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các vị Bồ-tát khác.

Đức Phật ấy bảo:

– Này thiện nam! Nay chính là đúng lúc.

Bấy giờ, vô số Bồ-tát không thể nghĩ bàn ở mười phương, ức trăm ngàn triệu nhiều như số vi trần, chỉ trong khoảng thời gian nhanh như tráng sĩ co duỗi cánh tay, mỗi mỗi vị bỗng nhiên biến mất khỏi cõi nước của các Đức Phật mình và xuất hiện ở cõi Nhẫn. Ở đó, các vị Bồ-tát liền mưa xuống các loại hoa đến nơi chỗ Đức Phật. Hoặc mưa vô số các loại hương hoa xen lẫn, các loại hương bột, các loại hoa sen màu xanh, hồng, vàng, trắng, hoa Tín thoát tư di, Ngô đồng tu man, hoa Nhu nhuyến, Đại nhu nhuyến, hoa Phổ niệm, Đại phổ niệm âm, hoa Nguyệt đại nguyệt, Duyệt lạc nguyệt. Mưa xuống ngần ấy loại hoa như vậy xong, chư vị Bồ-tát đều đem dâng lên cúng dường Đức Phật. Hoặc có Bồtát dùng một âm vang bảo khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tán thán công đức vô lượng của Như Lai rồi đến nơi Đức Phật. Hoặc quyến thuộc của Đế thích, hoặc tùy tùng của Phạm thiên, hoặc các thuộc hạ của Tứ Thiên vương, hoặc như các bộ chúng trời, rồng, quỷ thần, Càn-đạp-hòa, ngọc nữ v.v… đều tạo ra đủ các loại âm nhạc cùng các thứ liên hệ. Ngần ấy các loại biến hóa thù thắng, đặc biệt, khác lạ đều đem đến chỗ Đức Phật. Vừa đến phía trước thì các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trong ba ngàn đại thiên nơi thế giới Nhẫn này đều được tiêu trừ, hoàn toàn không còn các hoạn nạn, vô cùng an lạc, đều là sự cảm hóa từ oai thần các Bồ-tát. Các chúng Bồ-tát này, là trăm ngàn ức số, nhiều không thể nào tính kể lường xét cùng đến bên Đức Phật Thích Ca Văn, đảnh lễ nơi chân Ngài, nhiễu quanh ba vòng, rồi trụ trên hư không, nhập Tam-muội Ý phổ thân hành chánh thọ, tự nhiên hiện ra hoa sen rộng bảy tầm với rất nhiều màu sắc, các Bồ-tát liền bay lên, ngồi kiết già trên đó.

Bấy giờ, Trưởng lão Đại Ca-diếp liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai phải, đầu gối quỳ sát đất, chấp tay nói kệ tán thán Đức Phật:

Nếu ban trọn niềm vui
Các công đức lìa cấu
Vượt chúng sinh mười phương
Được tâm tịnh, thanh thoát.
Hiểu rõ các nẻo hành
Gọi là không ai bằng
Mở đạo dạy chúng con
Vô lượng không nghĩ bàn.
Thực hành pháp bố thí
Giữ giới ức cõi kiếp
Hành hóa không gì sánh
Ba cõi dứt mọi chấp.
Sức nhẫn nhục dũng mãnh
Diệu lực ấy gồm mười
Khó kịp, ưa công đức
Vì con đoạn lưới nghi.
Thấy chúng sinh khổ nạn
Tu hành trọn suốt kiếp
Chỗ hành không chán mệt
Tinh tấn thêm vô lượng.
Rộng thí, không ái nhiễm
Nam, nữ và vợ con
Sở hữu của đất nước
Ban cho theo sở thích.
Đoạn nghi ngờ về ngã
Vốn thí xe, voi, ngựa
Đầu, mắt, không trái ý
Y phục ức triệu số.
Những vật cần trang sức
Năng Nhân cho ăn uống
Thường thích việc bố thí
Muốn hỏi về an trụ.
Cắt thân thành từng đoạn
Vì lìa cấu không sân
Sức nhẫn bỏ các mạn
Nguyện nói ý nghĩa này.
Tu tập về hạnh không
Ý thường tư duy kỹ
Công đức thí an lạc
Hỏi về diệt phiền não.
Đã đoạn tham dục, giận
Chúng sinh bị tà kiến
Hết ngu si tăm tối
Không thích tưởng tôi, ta.
Xả bỏ về các cõi
Tu hành trăm ngàn kiếp
Hiển bày nguồn gốc đạo
Khiến con được trở về.
Trí tuệ đến bờ kia
Đang tu tập hạnh lành
Hiểu rõ tưởng tôi, ta
Thích tu tập pháp không.
Không chấp vào người, vật
Tâm thiện, không chỗ nương
Thiền định không nghĩ bàn
Trừ nghi, bỏ trần cấu.
Thuở xưa tu tập hạnh
Thí, giới, nhẫn, tinh tấn
Vào thiền định, trí tuệ
Hành từ không có hai.
Phụng đức không thể kể
Ví như nước biển rộng
Dung mạo rất tươi đẹp
Nguyện cứu giúp cho con.
Xin quy mạng Thế Tôn
Lìa cấu, không bỏ mất
Chia thân thành từng đốt
Quán thân thể không sắc.
Ý tư duy đường đạo
Giải quyết các lưới nghi
Như núi không thể động
An trú, không lưu luyến.
Ở cõi trời hành thiền
Không vướng các ngọc nữ
Mọi nơi chốn đến, đi
Chưa từng thấy ngăn che.
Tánh tốt không đổi khác
Miệng nói cũng như vậy
Đức rộng như hư không
Đảnh lễ đấng Vô thượng.

Trưởng lão Đại Ca-diếp dùng kệ tán thán Đức Phật xong, liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nay do nhân duyên gì mà có ánh sáng lớn hiện ra khắp nơi, lại hiện bày thêm sự thù thắng vi diệu, khó đạt được, chưa từng có pháp như vậy?

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Hãy dùng tâm chuyên chú để lãnh hội ý nghĩa ấy. Đó chẳng phải là cảnh giới của hàng Duyên giác và Thanh văn có thể đạt tới. Đối với chư Thiên và loài người còn ở trong mê lầm sẽ không bị rối loạn. Giả sử Như Lai trả lời sự thưa hỏi này thì những chúng sinh không hiểu biết sẽ chẳng rõ được chỗ hướng đến.

Tôn giả Ca-diếp lại thưa hỏi:

– Bạch Thế Tôn! Xin Ngài giảng thuyết về điều ấy, thể hiện nhiều sự thương xót, tạo nhiều an ổn, xin cứu giúp chư Thiên và loài người khắp mười phương.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Như Lai sẽ vì ông mà giảng nói.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn thuyết giảng, con muốn được nghe.

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có Tam-muội tên “Phổ quang ly cấu nghiêm tịnh”, dùng định ý ấy để hành chánh thọ, do đấy đã phóng ra ánh sáng này, chiếu đến cõi nước của chư Phật nhiều như số cát nơi vạn ức sông Hằng khắp mười phương. Trong mỗi mỗi cõi nước của chư Phật ở mọi nơi chốn đó có vô số, vô lượng không thể nghĩ bàn hàng trăm ngàn ức các chúng Bồ-tát, vì thấy được sự thỉnh mời từ ánh sáng ấy nên đều vân tập đến cõi Nhẫn này gần gũi bên Ta, đi quanh chỗ Phật ba vòng rồi phóng lên cao cách mặt đất bảy tầm, ở trong hư không hóa ra bao nhiêu là loại hoa sen đẹp, thân an tọa trên hoa ấy.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Nhân nơi tâm ý của bậc Thánh nên mưa xuống các thứ hoa kia, trăm ngàn loại nhạc không tấu nhưng tự vang lên, tất cả chúng hội đều hiện ra màu vàng ròng chăng?

Đức Phật bảo:

– Này Tôn giả Ca-diếp! Đó là sự cảm ứng từ oai thần của Bồ-tát.

Tôn giả Ca-diếp lại thưa:

– Bạch Đại Thánh! Con hoàn toàn không thấy được chỗ an tọa của các chúng Bồ-tát.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Tất cả các hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể thấy được. Vì sao? Vì chúng Thanh văn, Duyên giác ấy chưa từng ở các trụ xứ tu tập giống như vậy về hạnh đại từ, đại bi vô tận, thể hiện nghĩa không biên vực, các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ cũng đều như vậy, tuân tu, chí tánh cũng không bằng Bồ-tát. Các Bồtát này đã nhập vào khắp các Tam-muội chánh thọ, mỗi mỗi đều thị hiện các thân tướng. Hình dáng của thân ấy, Thanh văn và Duyên giác không thể nhìn thấy, chỉ có Như Lai mới thấy rõ. Người nào đạt được định này mới có thể trông thấy. Nếu có Bồ-tát bắt đầu tu tập quả vị này ở trong Đại thừa thì Tộc tánh tử ấy hãy còn không thể thấy được, huống gì là hàng Thanh văn và Duyên giác lẽ nào có thể thấy sao? Chưa từng có điều như thế.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Bồ-tát có mấy việc thông suốt hoàn toàn hạnh ấy? Dùng công đức gì để đạt được Tam-muội hội nhập khắp các thân?

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Bồ-tát có mười pháp để đạt được Tam-muội hội nhập khắp các thân. Những gì là mười để tâm tánh thanh tịnh và chỗ đến luôn thông đạt? Một là không bỏ tất cả chúng sinh. Hai là không chống trái, xa rời tâm đại bi vô tận. Ba là thường hiểu rõ sự vướng mắc của các tưởng, tuyên giảng các pháp của chư Phật, tánh không vội vàng. Bốn là nếu thuyết giảng điều gì thì không khinh mạn, không nêu bày chỗ thiếu sót của hàng Thanh văn, Duyên giác, không yêu chuộng Thanh văn, Duyên giác, dốc tâm học Đại thừa. Năm là bố thí tất cả vật hiện có mà không hối tiếc, xả bỏ sự tham chấp thân, mạng, huống gì là những việc khác tạo ích lợi cho mình. Sáu là cứu độ vô lượng nạn khổ sinh tử, tâm luôn nhớ nghĩ để hành trì tinh tấn. Bảy là tu tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ không giới hạn, nhằm đạt đầy đủ các pháp Độ vô cực. Tám là đối với các pháp Độ vô cực cũng không có vọng tưởng. Chín là phải khuyên bảo tất cả chúng sinh khiến họ trụ trong pháp Phật, sau đó mới đến an tọa nơi cội cây Bồ-đề. Mười là lại xem xét Phật đạo không còn có chúng sinh mê lầm. Đó là mười pháp, Bồ-tát cần thực hành để đạt được Tam-muội nhập vào các thân.

Tôn giả Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, thật là chưa từng có! Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác chưa thể phát hạnh nhất tâm. Giả sử tất cả chúng sinh đều trụ nơi quả vị A-la-hán hãy còn không thể sánh kịp huống gì là người còn đang tìm hiểu về tên gọi của Tammuội này nơi các pháp Phật, sao có thể hành chánh thọ nơi pháp chưa nhận biết?

Tôn giả Ca-diếp lại bạch Phật:

– Con xin muốn được thấy các Bồ-tát ấy. Vì sao? Vì nếu được gần gũi, gặp gỡ những vị Chánh sĩ với những hình tướng hiện bày ấy là niềm vui lớn.

Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Hãy im lặng chờ đợi. Hiện nay Bồ-tát Vănthù-sư-lợi và các Bồ-tát đang ra khỏi Tam-muội, sau đó ông sẽ đích thân gặp được những vị Bồ-tát ấy. Này Tôn giả Ca-diếp! Giả sử bày ra trăm ngàn Tam-muội phương tiện để suy nghĩ, tìm cầu các Bồ-tát ấy thì cũng không thể biết về nơi chốn đến đi, oai nghi, phép tắc của các vị ấy được.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp nghe nói về ý nghĩa này, liền nương theo oai thần của Đức Phật, dùng năng lực nơi thiền định và thần túc của mình, nhập vào hai vạn định để hành chánh thọ, lại càng phát ra ý muốn được thấy sự tu tập và oai nghi của các vị Bồ-tát ấy, do những điều gì mà không thể thấy được chỗ đến đi, không biết được sự lui tới, qua lại, đi đứng, kinh hành, ở đâu thuyết giảng, khai thị giáo hóa cho chúng sinh nơi cõi nào? Hoàn toàn vắng lặng không thể nhìn thấy. Tôn giả Ca-diếp bèn ra khỏi Tam-muội đến trước Đức Phật và bạch: – Bạch Thế Tôn! Thật khó đạt đến được! Rất đáng ngạc nhiên. Vừa rồi, con đã nhập vào hai vạn Định để hành chánh thọ, cầu gặp các Bồ-tát mà không biết chỗ hiện trụ của các vị ấy, nên con chưa thành tựu được sự thấy biết rộng khắp và trí tuệ nơi các thần thông. Làm sao có thể đạt được định ý của Tam-muội tịch nhiên như vậy? Đúng thời nên đạt được Chánh chân Vô thượng Tối chánh giác không? Nếu thiện nam, thiện nữ thấy được sự biến đổi này mà không phát tâm đạo Chánh chân vô thượng chăng? Kính thưa bậc Thiên Trung Thiên! Nếu có Bồ-tát cầu Tam-muội nhập vào khắp các thân này thì phải mặc áo giáp giới đức, tự phát lời thề, tâm không xa rời định ý của Tam-muội ấy.

Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông đã nói, Tam-muội này chẳng phải là chỗ các hàng Thanh văn, Duyên giác có thể đạt đến, huống gì là những chúng sinh phàm phu khác!

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất tự suy nghĩ: “Như Lai đã khen ngợi ta là bậc nhất trong hàng trí tuệ. Ta có thể cầu biết chỗ đến đi của các Bồ-tát này là như thế nào?” Tôn giả Xá-lợi-phất liền nhập vào ba vạn Tam-muội để hành chánh thọ, quan sát các Bồ-tát ở nơi nào nhưng đều không thể thấy, cũng không thể biết hình tượng, ảnh hưởng và sự ứng hiện điềm lành của họ là những tướng mạo gì? Tôn giả Tu-bồ-đề tự suy nghĩ: “Ta có thể tìm cầu xem các Bồ-tát ở nơi đâu?”. Bèn dùng sức Tam-muội, nương theo uy thần nơi Phật, nhập vào bốn vạn Tam-muội, thuận hành chánh thọ, muốn được thấy các Bồ-tát nhưng không thể thấy, không thể nhận biết chỗ ở, lui tới, đi đứng, kinh hành của các Bồ-tát. Tôn giả Tu-bồ-đề liền ra khỏi Tammuội, đến trước Đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài và thưa:

– Như Lai khen ngợi con là hành không bậc nhất nhưng con vẫn không thể đạt được định ý của Tam-muội ấy. Giả sử khiến cho ba ngàn thế giới tạo thành cái trống lớn, có vị trượng phu đi đến, sức lực dũng mãnh tột bậc, cầm lấy núi Tu-di, lúc này con đang an trụ trong Tam-muội và ngồi trước. Vị ấy dùng núi Tu-di để đánh trống lớn, suốt một kiếp không dừng nghỉ, cũng không thể làm cho tâm con loạn động. Thần thông về hành không của con rộng lớn như thế, tiếng trống vang khắp mười phương đều nghe, suốt một kiếp không chút ngừng trễ còn không tạo được sự lay động, tiếng trống không hề đến nơi tai, lẽ nào có thể khiến con ra khỏi Tam-muội chăng? Chưa từng có nghĩa ấy. Nẻo hành không của con luôn hiện bày thù thắng như vậy. Trái lại vừa rồi con đã nhập vào định ý của bốn vạn Tam-muội, tâm muốn quan sát các chúng Bồ-tát nhưng hoàn toàn không thể thấy được. Cúi xin Thế Tôn giảng nói về nguồn gốc tu tập của những vị ấy, ắt biết được trí tuệ của các Bồtát, đạo đức vượt cao lên trên mọi người, uy quang luôn rực rỡ. Như người trong hằng hà sa kiếp ở nơi địa ngục lớn bị thiêu đốt, nhẫn chịu khổ hoạn như thế để cầu đạo Bồ-tát, không xả bỏ, không xa rời trí tuệ rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn, giả sử thân không đạt được lậu tận, ý chưa thông tỏ, nhưng ở trong vô số kiếp có thể nhẫn chịu lao khổ nơi chốn sinh tử, trọn không xa lìa, như vậy là sánh bằng với đại tuệ vô cực.

Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi Tôn giả Tu-bồđề:

– Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Tôn giả nói. Chí tánh ôn hòa nhân từ nên đã thưa hỏi lời này. Giả sử nay ông không dùng thân này để chọn lấy sự diệt độ, nhân nơi gốc công đức nhiều như số cát sông Hằng làm Chuyển luân vương, duy trì chánh pháp, thì sẽ thành tựu đạo quả Chánh chân vô thượng là bậc Tối Chánh Giác. Lại nữa, này Tubồ-đề! Các loài chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới là nhiều chăng?

Tôn giả Tu-bồ-đề thưa:

– Bạch đấng Thiên Trung Thiên! Rất nhiều, là hết sức nhiều.

Phật bảo:

– Khiến cho tất cả chúng sinh ấy đều đầy đủ trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất, đều đạt hành không bậc nhất như Tôn giả Tu-bồ-đề, như vậy, các đại Thanh văn với trăm ngàn ức số không thể xưng kể đó, nếu muốn được thấy những Bồ-tát này cũng không thể thấy được. Vì sao? Vì hàng Thanh văn và Duyên giác không tu tập theo giáo pháp ấy. Đối với nẻo tu trì hành hóa của những Bồ-tát, Đại sĩ thì chẳng phải là chỗ đạt đến của hàng Tiểu thừa.

Khi thuyết giảng pháp này, có tám vạn bốn ngàn chư Thiên và loài người đều phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh chân vô thượng, ba ngàn đại thiên thế giới đều cùng chấn động mạnh. Bồ-tát Vănthù-sư-lợi ở tại chỗ của mình, tâm khởi suy nghĩ: “Nay các Bồ-tát đều đến hội lớn, số lượng ấy là vô số ức trăm ngàn, ta phải làm cho các hàng chư Thiên đều vân tập đông đủ”.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tức thì nhập vào Tam-muội chánh thọ Như kỳ tượng để thị hiện thần túc, liền như điều đã suy nghĩ, đúng thời hóa thành tám vạn bốn ngàn ức trăm ngàn số hoa sen báu màu hồng, lớn như lọng nơi xe, vàng ròng làm cánh, bạc trắng làm cành, ngọc khôi kỳ và các châu báu xa cừ làm hạt; cùng hóa ra các Bồ-tát đều an tọa trên đó, thân thể màu vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, dáng vẻ oai nghiêm, thần thông hiện rõ. Lại nữa, ánh sáng của hoa sen và các vị Bồ-tát được hóa ra chiếu đến trời Tứ-vương, trời Đao-lợi, trời Diệm, trời Đâu-suất, trời Vô Kiêu Lạc, trời Hóa Tự Tại, trời Phạm, trời Đại Phạm, trời Phạm Ca Di, trời Phạm Mãn cho đến trời Nhất Thiện, rộng ra đến ba ngàn đại thiên thế giới, đến các cung điện hiện có của trời Dục Hành và trời Sắc Hành. Các vị Bồ-tát ngồi trên những hoa sen hiện bày khắp mười phương diễn xướng tiếng pháp, giáo hóa rất nhiều chúng sinh. Những Bồ-tát này cùng dạo khắp ba ngàn đại thiên thế giới, dùng kệ tán thán:

Chư Phật vượt thời gian
Lâu xa mới xuất hiện
Ví như hoa Linh Thụy
Còn khó gặp hơn nữa.
Bậc Thích Sư Tử nhân
Nay xuất hiện ở đời
Khi thuyết giảng kinh điển
Diệt hết tất cả khổ.
Được an vui cõi Trời
Đâu có thể còn mãi
Trở lại đọa địa ngục
Chịu thêm vô lượng khổ.
Nếu hành theo tham dục
Theo đó ái lớn mạnh
Ba cõi không an lạc
Chớ đến vực sinh tử.
Người trí được sáng suốt
Đức Phật khó gặp gỡ
Buông lung không hiểu rõ
Không thể diệt các hoạn.
Nên đến gặp Chánh giác
Vâng lãnh pháp Vô thượng
Nhân Tôn diệt độ rồi
Sẽ không còn buồn lo.
Người giong ruổi phóng túng
Có nạn của lưới ma
Làm sao được giải thoát
Mê lầm mất đường chánh.
Người đời trước có phước
Đáng được nói nghĩa này
Phật quán nguồn gốc ấy
Ba mươi hai tướng tốt.
Người khác không chịu đựng
Cũng không thể cứu giúp
Chỉ có Phật - Thế Hùng
Tâm từ không nghĩ bàn.
Trăm ngàn kiếp tu hành
Vô lượng không nghĩ bàn
Tích lũy pháp bậc Thánh
Thích Sư Tử vời vợi.
Nay giảng pháp tột bậc
Nghĩa này rất khó đạt
Chúng sinh không nắm bắt
Không mạng cũng không nhân.
Phải dứt bỏ chấp thường
Đoạn diệt cũng như thế
Bỏ tất cả các tưởng
Thuyết pháp cho chúng sinh.
Chỉ bày bản tế thật
Với đời không chỗ chấp
Không ấy chẳng có tướng
Không tạo ra các nguyện.
Không hình, chẳng chỗ nương
Chẳng sinh, không chỗ diệt
Nơi đến không đâu đến
Mắt sáng thuyết chánh pháp.
Không tưởng, không chỗ sinh
Vốn thanh tịnh, không hình
Chẳng thấy không điềm lành
Không nhớ có thuyết pháp.
Xét chúng sinh không sinh
Cũng không có người chết
Người vốn không chỗ sinh
Cũng không có diệt độ.
Dùng lời thuyết kinh pháp
Pháp không nơi tích tụ
Theo văn tự gọi pháp
Pháp Đạo sư đã thuyết.
Pháp ấy không chấp gió
Cũng không theo nước, lửa
Không nhớ nghĩ về đất
Sự khen ngợi mắt sáng.
Sắc, thọ cùng với tưởng
Sinh tử hành cũng vậy
Nói thức cũng là không
Năm ấm không nơi chốn.
Mắt, tai, mũi của mình
Hoặc miệng và thân, ý
Biết rõ thanh tịnh, không
Không ấy chẳng nắm bắt.
Sắc, thanh, vị, các hương
Xúc, nơi ý ưa thích
Từ nhớ nghĩ mà sinh
Tưởng cũng tự nhiên không.
Cõi dục và cõi sắc
Cõi vô sắc cũng thế
Phân biệt giống như huyễn
Không thật cũng không hình.
Chánh giác vi diệu ấy
Thuyết pháp cho nhân loại
Diệt trừ các khổ hoạn
Sẽ được đến đạo tràng.

Những Bồ-tát được hóa ra ở trong ba ngàn đại thiên thế giới nói kệ này xong, tất cả đều được nghe, có chín mươi sáu ức người ở cõi trời Dục

Hành, trời Sắc Hành xa trần, lìa cấu đạt được pháp nhãn thanh tịnh; hai vạn người đều được lìa dục, các Thiên tử nơi cõi trời Ba Mươi Ba do đời trước có đầy đủ công đức, nên đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Ngay lúc ấy, các vị Bồ-tát được hóa ra đã có thể khuyến phát vô lượng ức trăm ngàn na thuật các Thiên tử, đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Ngài, đi quanh chỗ Phật ba vòng rồi đứng sang một bên, dùng hoa sen xanh, vàng, hồng, trắng của cõi trời và các hoa thiên ý rải lên bên trên Đức Phật, đốt các loại hương thơm quý, ở giữa hư không đánh trống trời và trỗi các thứ âm nhạc. Các Thiên tử vân tập đến rất đông không thể tính đếm được, có mặt đầy khắp bốn phía của khu vực này. Phía Đông là cõi Phất-vu-đãi, phía Nam là cõi Diêm-phù-đề, phía Tây là châu Câu-da-ni, phía Bắc là châu Uất-đan-việt, không có một khoảng trống nào, cho dù một đầu gậy cũng không đặt được xuống đất. Các vị thiên nhân này, oai thần tôn quý, chí khí cao thượng, ở khắp bốn phương cõi, gom chứa những hương hoa, cao đến đầu gối.

Khi ấy, Thiên tử Thiện Trụ Ý, Danh Ly Cấu và Hoài Sỉ, những vị Thiên tử này cùng với chín mươi sáu ức các Thiên tử quyến thuộc, đều mong cầu pháp Đại thừa, cùng đi đến bên ngoài phòng của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ở trong phòng của mình, dùng các loại hoa để cúng dường Như Lai, làm cho nơi hư không khắp cõi Đại thiên đều có hoa đan xen qua lại với nhau.

Những loại hoa này tỏa ra ánh sáng chiếu đến khắp các cõi nước Phật. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi tâm ý an ổn, hòa nhã, từ Tam-muội xuất, đi ra khỏi phòng mình, lùi đứng qua một bên, tự khảy móng tay, âm thanh ấy làm chấn động cả ba ngàn đại thiên thế giới đủ sáu cách. Tức thì ở dưới đất ấy vụt hiện ra tòa ngồi cao lớn, vô số châu báu xen lẫn làm thành, không thể kể hết các thứ vải vóc phủ lên trên. Lại nữa, ánh sáng của tòa cao ấy vời vợi, chiếu đến những cảnh giới rộng lớn cách xa trăm ngàn dotuần, che lấp ánh sáng của các Thiên tử. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền ngồi trên tòa ấy.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý đến nơi tòa ngồi của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đảnh lễ nơi chân Bồ-tát, rồi lui ra đứng một bên. Tất cả chư Thiên cũng làm như thế. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi suy nghĩ: “Ta sẽ cùng với ai ở trước Đức Thế Tôn thưa hỏi để được giảng nghĩa, khiến thông suốt các dấu tích khó hiểu của câu chương, ứng hợp không thể nghĩ bàn, dấu tích không có sở hữu, dấu tích không chỗ chấp, dấu tích không chỗ bỏ, dấu tích không thể nắm bắt, dấu tích không chỗ nói, dấu tích của sự thâm diệu, dấu tích của chân đế; dấu tích của thành tín không có ngăn ngại, mê lầm; dấu tích không bị hủy hoại, dấu tích của không không, dấu tích của vô tướng, dấu tích không chỗ nguyện, dấu tích về vốn không, dấu tích đối với các pháp không có chỗ trụ, dấu tích giảng rộng giáo pháp một cách tận cùng, dấu tích của bản tế, dấu tích của bậc thượng, dấu tích không có chỗ nhập vào, dấu tích của pháp giới, dấu tích không hình tượng, dấu tích không so sánh về chủng loại, dấu tích chứng hư không, dấu tích không có chỗ nâng lên, dấu tích không có chỗ hạ xuống, dấu tích theo giáo pháp của Phật, dấu tích đạt đến thánh chúng, dấu tích của trí tuệ đầy đủ, dấu tích ở trong ba cõi không ai bằng, dấu tích đối với tất cả pháp giảng thuyết không khởi chấp, dấu tích đối với đạo pháp không chỗ đạt đến; dấu tích của các Thích, Phạm; dấu tích tu tập một cách dũng mãnh, dấu tích đối với tất cả pháp không ngăn che, dấu tích của “cú, vô cú”, dấu tích vượt khỏi các “cú” nhằm vượt qua các ứng khí của hàng Thanh văn”. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại suy nghĩ: “Thiên tử Thiện Trụ Ý, trong thời Đức Phật quá khứ đã tạo lập, tu hành, gieo trồng các công đức, nhập vào pháp nhẫn sâu xa, biện tài thông suốt, nay sẽ cùng ta ở trước Đức Thế Tôn thưa hỏi, bàn luận”.

Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Này Nhân giả! Nay ông đã nhập vào pháp nhẫn sâu xa, tôi muốn cùng với Nhân giả bàn luận pháp Phật.

Thiên tử Thiện Trụ Ý thưa Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:

– Tôi sẽ cùng bàn luận với Nhân giả. Giả sử không có ngôn thuyết, không lời bàn luận thì không ghi nhớ báo ứng. Nếu không thưa hỏi về pháp Phật, Thánh chúng thì không Thanh văn, không Duyên giác, không Phật đạo, không chung, thỉ, không sinh tử, không Niết-bàn, không thiện, chẳng phải không thiện, không tội, chẳng phải không tội, vô lậu, không vô lậu, không xuất hiện ở đời, không cứu đời, không hòa hợp, không phân tán, không giải bày, không mở ra, không diễn nói văn tự, không âm thanh.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Tôi đã giảng thuyết như vậy. Nếu Nhân giả không nghe, cũng không thích, không thọ trì, không đọc tụng, không nhớ, không biết, cũng không phân biệt, không lấy, không bỏ, cũng không chỗ vâng theo, không giảng cho người khác, không thuyết chánh pháp thì không làm cho chúng sinh ở nơi sinh tử đến chỗ diệt độ. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn dùng không văn tự đạt được đạo Chánh chân vô thượng, làm bậc Tối Chánh Giác. Tuy nói có tâm tức là không có tâm, không hiện tôi, ta đó gọi là “vô xứ”.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại thưa Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Nhân giả giảng thuyết tôi sẽ vâng lãnh lời dạy, xin Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đúng lúc ban bố pháp, khiến cho tâm được vui mừng. Các vị Thiên tử muốn nghe Tôn giả diễn nêu chánh pháp, nói về bản tế.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Pháp tôi đã thuyết giảng không nhằm để lắng nghe, không khiến được lãnh thọ. Vì sao? Vì người còn muốn nghe pháp tức là nhận thấy có tôi, ta, còn chấp nhân, thọ mạng nên muốn nghe pháp. Giả sử Thiên tử từ sự điên đảo nhận lấy sự hư dối, xét mình có ngã, tham thân, nối tiếp hữu, liền có niệm này: “Người kia nói thì ta nghe”. Nhân sự vướng bận ấy nên có ba chướng ngại. Những gì là ba? Một là nhớ nghĩ điên đảo, chấp vào tôi, ta. Hai là không thuận theo giáo pháp vì xét có người khác. Ba là lãnh thọ pháp muốn có chỗ chứng đắc. Đó là ba chướng ngại. Giả sử Thiên tử không xét có tôi, ta, thanh tịnh nơi ba tràng mới gọi là nghe pháp, không tưởng báo, không tư niệm, không xem xét. Những gì gọi là ba tràng? Một là không “thủ đắc” nơi con người, cũng không có tưởng về quả báo. Hai là không có pháp, chẳng có chỗ mong cầu. Ba là không có tôi, ta, không có chỗ suy xét mến mộ. Nếu Thiên tử nghe được pháp như vậy, đó là bình đẳng nghe, không phải là nghe sai lầm.

Thiên tử Thiện Trụ Ý tán thán Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Lành thay! Lành thay! Lời Bồ-tát giảng nói thật thấu đạt! Chỗ trụ để thuyết giảng là không còn thoái chuyển.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Hãy ngừng lại! Này Thiên tử! Chớ suy nghĩ về Bồ-tát thoái chuyển. Vì sao? Nếu có Bồ-tát khi thành tựu đạo quả Tối Chánh Giác thì cũng không chấp nơi sự chứng đạo.

Thiên tử lại hỏi:

– Tâm được kiên cố sao bị thoái chuyển?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời:

– Tham dục, giận dữ, ngu si chuyển nên gọi là chuyển; là báo ứng chuyển; là sự chuyển của sáu mươi hai thứ tà kiến, nghi; sự chuyển của vô minh; sự chuyển của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc; sự chuyển của quả vị Thanh văn, Duyên giác; sự chuyển của tương ưng và không tương ưng; là các ái, thủ, vọng tưởng bị chuyển; là sự chuyển của các xứ, tiến, thoái, vọng kiến; là các chấp thường, đoạn diệt bị chuyển; là sự chuyển của tiến, bất tiến, hợp, tan; là đối tượng bị chuyển của ngã, nhân, thọ mạng; là điều đáng vui mừng, mong cầu ưa thích bị chuyển; luôn có sự thanh tịnh, an ổn và điên đảo của thân ta bị chuyển. Đó là sự chuyển của các niệm chướng ngại. Sự chuyển của tham thân, các tập, các quán; sự chuyển của tham dục, sân hận, thùy miên, hý luận, trạo, nghi, sáu mươi hai kiến và các sự ngăn che mê tối; sự chuyển của các ấm, các nhập, bốn đại; tưởng chuyển về pháp Phật; tưởng chấp cho chúng sẽ thành Phật nên gọi là thoái chuyển. Tôi sẽ thuyết pháp độ thoát chúng sinh, đạt được trí tuệ của bậc Thánh. Do đó, tưởng chuyển giả sử được tu tập thì tưởng về mười lực, mười tám pháp bất cộng của chư Phật, cũng tưởng về căn, lực và bảy giác ý, chấp về tướng tốt, cũng lại vọng tưởng về sự làm trang nghiêm, thanh tịnh cõi Phật để thành chúng Thanh văn, đó gọi là thoái chuyển. Tất cả pháp tương ưng, không tương ưng tưởng cùng với không tưởng, này Thiên tử! Giả sử Bồ-tát thực hành những pháp thoái chuyển ấy thì được không thoái chuyển.

Thiên tử hỏi:

– Sao gọi là không chuyển?

Đáp:

– Thông đạt trí tuệ của Phật tức là không thoái chuyển. Không, vô tướng, vô nguyện là không thoái chuyển. Đối với nguồn gốc không thực hành là không thoái chuyển. Đối với pháp giới hiểu rõ về bản tế của nó là không thoái chuyển. Vì sao? Vì dùng hạnh bình đẳng nên không thoái chuyển.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Như lời Nhân giả đã nói, giả sử đối với các pháp tương ưng không tương ưng, tưởng và không tưởng, chấp trước nơi Phật đạo nên cùng với ma giống nhau. Vì sao? Vì chấp là có pháp.

Hỏi tiếp:

– Bồ-tát có thoái chuyển hay là không thoái chuyển chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời:

– Không bị thoái chuyển và không thoái chuyển?

Hỏi tiếp:

– Sao bị thoái chuyển?

Trả lời:

– Đều do tất cả từ sự nhận lấy hư dối. Sự nhận lấy hư dối ấy là nhân nơi thọ. Nếu đối với các thọ, không nhận, không bỏ, không vì nhàm chán thì có thể tin thuận về tất cả các pháp, thuyết giảng kinh điển chẳng có, chẳng không, nói nêu cũng không trụ. Vì sao? Vì giả sử nhớ nghĩ lui sụt thì cái này có, cái này không tức bị rơi vào chỗ thiếu sót. Nếu nói có là chấp thường, nếu nói không giảng kinh pháp thì không nói đoạn diệt, không nêu bày thường, không tưởng về các pháp.

Khi thuyết giảng pháp này, có một vạn Thiên tử đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Hãy cùng nhau đi đến chỗ Như Lai, để chiêm ngưỡng, đảnh lễ và thưa hỏi những điều nghi vấn.

Vì sao? Vì Như Lai Chí Chân luôn đoạn trừ được những kiết sử, nghi ngờ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời Thiên tử:

– Hãy chờ đợi giây lát, chớ có vọng tưởng.

Ngay bây giờ sẽ gặp Như Lai. Lại hỏi:

– Bây giờ chờ đợi điều gì?

Đáp:

– Nay đang ở trước mặt.

Hỏi tiếp:

– Điều gì ở trước mặt?

Trả lời:

– Hư không.

Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi về chỗ trụ của Như Lai. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời:

– Đang ở trước mặt.

Lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Nay tôi không nhìn thấy Đức Như Lai.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Thấy được Như Lai thì phải hành pháp quán này. Nếu có người hỏi: Ai ở phía trước? Thì nên trả lời: Cõi hư không ở phía trước. Hãy quan sát Như Lai giống như cõi hư không. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều bình đẳng như hư không. Như Lai hiểu rõ các chánh tuệ này nên được mọi người nói Như Lai giống như hư không. Hư không và Như Lai tức chẳng phải hai. Cho nên, Thiên tử muốn nhìn thấy Như Lai thì phải hiểu rõ bản tế, chớ nên vọng tưởng.

Thiên tử Thiện Trụ Ý nói với Bồ-tát Văn-thù:

– Tôi muốn tiếp tục đi đến chỗ Đức Như Lai.

Bồ-tát đáp:

– Thiên tử hãy tiếp tục đến tại nơi đây, chớ bước tới nữa.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý liền cùng với vô số chư Thiên đi đến chỗ Phật. Bồ-tát Văn-thù-sưlợi hóa làm ba mươi hai tòa lầu gác nhiều tầng lớp chồng chất, đan xen lẫn nhau, vuông tròn tương xứng, bốn góc có trụ, mái nhà, song cửa đẹp đẽ, khác lạ; oai thần cao tột, từ xa trông thấy đều vui mừng. Trong các tầng lầu hóa đủ các loại giường bằng các thứ châu báu, dùng y trời phủ lên, trên mỗi mỗi giường đều có Bồ-tát được hóa ra an tọa, có đủ ba mươi hai tướng để trang nghiêm nơi thân. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhập định Như kỳ tượng để tạo lập thần lực. Các vị Bồ-tát ngồi trên những hoa sen màu sắc rực rỡ và ba ngàn đại thiên thế giới đều bay đi cùng với các lầu gác, giường tòa đến chỗ Đức Phật, nhiễu quanh bảy vòng, rồi các Thánh chúng ấy đều vọt lên giữa hư không, hào quang tỏa chiếu tới chỗ chúng hội và đến khắp bốn phương. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bỗng nhiên nhanh chóng đến chỗ Phật. Thiên tử Thiện Trụ Ý đến sau, khi tới nơi, thấy Bồ-tát liền hỏi:

– Nhân giả từ đường nào mà đến đây trước? Tôi phát khởi trước mà lại đến sau.

Bồ-tát Văn-thù trả lời:

– Giả sử cúng dường hằng hà sa các Đức Như Lai Chí Chân, cung kính đảnh lễ thì cũng không thể thấy tôi đến, đi, lui, tới.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thị hiện sự việc chưa từng thấy. Những người vân tập đến đều trở về nơi ở của mình. Bấy giờ, những Bồ-tát ngồi trên hoa sen và trong lầu gác đều cùng một âm thanh, phát ra tiếng vang ở trước Đức Phật, dùng kệ tán thán Đức Thế Tôn:

Vì đã từng cúng dường
Vô lượng số ức Phật
Ví như hằng hà sa
Người không thể nghĩ bàn.
Dùng để cầu Phật đạo
Tuệ đặc biệt bậc thượng
Nhân Tôn không chỗ chấp
Thù thắng nên cao vời.
Dung mạo rất khó sánh
Oai lực chiếu ba đời
Các tướng tốt của Phật
Bao nhiêu thứ khác lạ.
Nếu thuyết giảng kinh điển
Đạo sư từ nguyện mình
Chỗ phân biệt của Ngài
Không có nhân, thọ mạng.
Cách dẫn dắt mọi người
Bố thí, giữ giới cấm
Nhẫn nhục, tu tinh tấn
Thiền định và trí tuệ.
Ba nơi không chỗ chấp
Dùng tuệ vượt bờ kia
Quy mạng lễ Tối Thượng
Cung kính chư Chánh giác.
Theo tất cả chư Phật
Cung kính trọn ba cõi
Làm vua của các pháp
Được trời, người cúng dường.
Dốc tâm tin không không
Vững chắc không gì sánh
Nhân đấy được thành tựu
Bậc Thánh giữa loài người.
Ngài có từ thuở xưa
Chư Như Lai quá khứ
Nay xuất hiện ở đời
Bậc nhất trong loài người.
Phụng hành những việc ấy
Thường hiểu tuệ tịnh, không
Cũng không có tưởng, nguyện
Xét chúng không có tướng.
Rốt ráo chọn lựa chúng
Vốn tịnh, không chúng sinh
Lại không có sự sinh
Cũng không có sự chết.
Không có người cứu độ
Cũng không người giải thoát
Tất cả các pháp sự
Ví như cõi hư không.
Như con vốn đã hiện
Chỗ làm của Chánh sĩ
Xét ba việc của thân
Đều là không thật có.
An trụ nơi pháp thuyết
Nghĩa ấy là như vậy
Thấy chúng như huyễn hóa
Như điều thấy trong mộng.
Thế giới của chư Phật
Nhiều hơn số hằng sa
Nếu người đủ vật dụng
Đem bố thí tất cả.
Giả sử thực hành nhẫn
Pháp ấy cũng là không
Ở đây khởi bố thí
Đặc biệt làm bậc nhất.
Ví như hằng hà sa
Có bao nhiêu số kiếp
Cúng dường chư Như Lai
Tối thượng trong loài người.
Các hoa và hương đốt
Thức ăn uống theo đó
Nếu có Bồ-tát học
Chí cầu nghĩa Phật đạo.
Nếu nghe kinh điển này
Như vậy các lời dạy
Nếu hiểu rõ không nhân
Thọ mạng nơi muôn loài.
Mau đạt được pháp nhẫn
Thanh tịnh nên tỏa sáng
Người này tức cúng dường
Bậc tối thượng trong đời.
Trong vô số ức kiếp
Thường thực hành bố thí
Các vật cúng thực phẩm
Xe ngựa các chỗ ở.
Cũng không dùng hạnh này
Mau thành tựu Phật đạo
Nhớ lại các vọng tưởng
Mà xét có con người.
Bậc cao trong loài người
Đã trở về diệt độ
Từng độ các chúng sinh
Cứu giúp vô lượng số.
Pháp ấy vốn thanh tịnh
Xét chúng không thật có
Các trí tuệ giải thoát
Chỗ học là như vậy.
Gặp được Phật xuất hiện
Thời gian dài chứng đắc
Nếu khi nghe kinh điển
Kính tin cũng như thế.
Để được làm thân người
Cũng lại là rất khó
Lành thay! Tu tinh tấn
Theo lời dạy Tối thắng.
Thường phải diệt trừ sạch
Tám nạn lo, không an
Thời cơ khó gặp lại
Khi tự tại hiếm có.
Nên phát khởi tâm tin
Thưa hỏi lời Phật dạy
Phải ân cần gắng sức
Dũng mãnh thường vâng làm.
Nếu được đến nghe pháp
Mau chóng tu tập đúng
Tiếng lớn đến vô cực
Đã vượt tới bờ kia.
Thường phải tự nuôi dưỡng
Chuyên tu nơi vắng lặng
Bậc nhất trong loài người
Đảnh lễ không trái lời.
Theo bậc tri thức thiện
Thông đạt các pháp khí
Tâm thường bỏ điều quấy
Hạnh xấu, tri thức ác.
Tất cả tu bình đẳng
Tùy các tâm phương tiện
Tuy ở nơi chúng sinh
Cẩn thận, chớ vọng tưởng.
Người vâng theo giới cấm
Những bậc kiến thức rộng
Bình đẳng xét người khác
Thường tu hạnh khất thực.
Luôn tu tập, điều phục
An tọa cạnh gốc cây
Thuốc cỏ dùng trị thân
Bậc nhất không nghi ngờ.
Tất cả các hữu vi
Xét chúng cũng vô vi
Đều cùng tướng bình đẳng
Chúng giống như sóng nắng.
Người có thể hiểu rõ
Bản tế bậc nhất này
Thì mau thành Phật đạo
Không có ai sánh kịp.
Phật thấu rõ năm ấm
Giống như người ảo thuật
Tự xét bên trong mình
Lại quán vật bên ngoài.
An trụ nơi phân biệt
Tức chính là không tụ
Thận trọng chớ thương, ghét
Nương tựa ở nơi đó.
Người dâm nộ si ấy
Vốn tịnh như hư không
Việc ngu si, sân giận
Cũng từ tưởng sinh ra.
Lại xét tưởng niệm mình
Cũng không có nơi chốn
Đệ tử của Đạo sư
Đã hiểu rõ như vậy.
Cho nên người có trí
Là mắt sáng trong đời
Giả sử muốn xét đoán
Đạo tuệ của chư Phật.
Bỏ bớt các chướng ngại
Mê lầm của hữu vi
Những người dũng mãnh ấy
Ắt thành tựu Phật đạo.

Chư vị Bồ-tát được hóa ra nói kệ xong, những người đến nghe trong chúng hội có hai vạn hai ngàn người đều phát đạo tâm Chánh chân vô thượng, năm trăm Tỳ-kheo dứt sạch các lậu, ý được giải thoát, ba trăm Tỳ-kheo-ni chứng được pháp nhãn thanh tịnh, bảy ngàn Ưu-bà-tắc, bảy ngàn Ưu-bà-di, hai vạn năm ngàn Thiên tử xa trần, lìa cấu, được các pháp nhãn thanh tịnh, ba trăm Bồtát chứng đắc pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách, ánh sáng lớn đó chiếu đến khắp mười phương.

Trưởng lão Xá-lợi-phất bạch Phật:

– Bạch Đại Thánh! Đây là oai đức của ai khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới này hiện đủ sáu cách chấn động, chư Bồ-tát được hóa ra ngồi trên hoa sen ở nơi lầu gác, diễn nói pháp thâm diệu, ý nghĩa của pháp ấy rất đặc biệt, ánh sáng tỏa chiếu khắp, những người đến pháp hội này gồm vô lượng số ức chúng Bồ-tát đều vân tập đông đủ, các vị Thiên tử cũng không thể tính đếm hết.

Đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất:

– Đó là sự ứng cảm từ oai thần của Bồ-tát Vănthù-sư-lợi, khiến cho tất cả Bồ-tát đều vân tập. Vì sao? Vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa hỏi Như Lai về chỗ cốt yếu của Tam-muội “Hủy phục ma tràng”, thành tựu đầy đủ các pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật, gọi là “Tịch nhiên không hành” cùng với Thiên tử Thiện Trụ Ý.

Trưởng lão Xá-lợi-phất bạch Phật:

– Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi không đến chúng hội chăng? Tại sao không xuất hiện?

Đức Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất:

– Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhập Tam-muội chánh thọ “Hàng hủy chư ma”, oai đức rộng lớn che lấp cung điện của ma, hiện bày thần biến đến chỗ Như Lai, lúc này Bồ-tát Văn-thù nhập Tam-muội chánh thọ “Hàng hủy ma tràng”, cùng lúc trăm ức cung điện của ma nơi ba ngàn đại thiên thế giới đều bị che lấp, khiến chúng không còn vui thích nơi chỗ ở của mình, nên mỗi mỗi đều lo sợ. Khi ấy, ma Batuần tự nhìn thấy sự già yếu, hơi thở ngắn, chống gậy bước đi, bao nhiêu cung nhân, mỹ nữ cũng trở nên già nua. Lại thấy cung điện điêu tàn, hư hoại, tối tăm mù mịt không còn nhận biết điều gì. Ma Ba-tuần vô cùng lo sợ, lông tóc dựng đứng, tự suy nghĩ: “Đây là sự biến đổi gì khiến cung điện của ta điêu tàn đến thế? Sắp bị tội chết, thọ mạng hết, trời đất gặp kiếp tai họa sẽ bị thiêu đốt chăng?”. Ma Ba-tuần lúc này không còn cao ngạo, bỏ các tưởng xấu ác. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa ra trăm ức Thiên tử ở trong hư không đứng trước mặt các ma, bảo ma Ba-tuần:

– Đừng lo sợ! Thân của các ông hoàn toàn không có hoạn nạn. Có vị Bồ-tát Đại sĩ Bất thoái chuyển tên Văn-thù-sư-lợi, oai lực tột bậc, thu tóm cả mười phương, công đức cao hơn núi Tu-di, trí sâu hơn sông biển, tuệ rộng vượt hư không, hiện đang dùng Tam-muội chánh thọ “Hàng hủy ma tràng”,. Đấy là oai thần của vị ấy.

Các Thiên tử đúng lúc nói lời này, khiến các ma nghe xong càng thêm lo sợ đối với Bồ-tát Vănthù-sư-lợi. Các cung điện của ma bỗng chấn động, các ma của Ba Tuần thưa với Bồ-tát được hóa ra:

– Xin cứu giúp chúng con!

Bồ-tát đáp:

– Hãy yên tâm, chớ lo sợ! Các ông nên đi đến chỗ Đức Phật Thích Ca Văn Như Lai Chí Chân, có tâm bi vô tận, đầy đủ tâm từ vô cực. Giả sử chúng sinh nào có sự lo sợ lớn thì an ủi thương yêu, khiến không còn lo sợ.

Các Bồ-tát được hóa ra nói lời này xong, bỗng nhiên ẩn tàng, không hiện. Các ma vô cùng vui mừng, cùng với các tòa ngồi của Bồ-tát nơi lầu gác ở giữa hư không, hết thảy đều đồng tâm đi đến chỗ Đức Phật. Những kẻ già cả thì chống gậy, cùng lúc lên tiếng ở trước Đức Phật, bạch:

– Xin nguyện Đại Thánh cứu giúp chúng con, khiến thoát khỏi nạn lớn này, mong được gặp công đức, danh xưng của trăm ngàn ức Đức Phật, để không bị sự bức bách của riêng Bồ-tát Văn-thù-sưlợi. Vì sao? Vì chúng con trước đây nghe tên của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều rất sợ hãi, không thể tự an ổn, sợ mất thân mạng.

Đức Phật bảo các ma:

– Như lời các vị nói, trăm ngàn ức Đức Phật đã tạo lợi ích cho chúng sinh không bằng sự giáo hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mỗi mỗi đều dẫn dắt vô lượng số chúng sinh khiến được giải thoát. Vì sao? Vì các ông chưa nghe danh hiệu, công đức của trăm ngàn ức Đức Phật, gặp phải khổ não, tâm luôn lo sợ, nhưng nhờ sự phát khởi biến hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mọi khổ nạn đều được cứu giúp.

Các ma bạch Phật:

– Chúng con xấu hổ về thân già nua này! Nay nhờ Đức Thế Tôn mà tự quay về, tăng thêm tâm bi, nguyện xin thân hình, trang sức, y phục trời đều trở lại như cũ.

Đức Phật bảo các ma:

– Hãy đợi giây lát! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến ngay đây, sẽ giải thoát những nạn này cho các ông. Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù an ổn thư thả cùng với vô số chư Thiên tử, có trăm ngàn na-do-tha các quyến thuộc vây quanh, không thể tính đếm được số chúng Trời, Rồng, Quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lâula, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, ức trăm triệu vô số Bồ-tát, trước sau nối tiếp nhau trỗi lên trăm ngàn thứ nhạc, mưa xuống các loại hương thơm, hoa sen màu xanh, hồng, vàng, trắng, oai thần biến hóa vô tận, thanh tịnh, trang nghiêm, ai cũng ưa thích ngắm nhìn, cùng nhau đi đến đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh chỗ Phật ba vòng, rồi lui ngồi qua một bên.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Nhân giả hãy thực hành đúng Tam-muội “Hàng hủy ma”.

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:

– Vâng, con xin nghe theo lời dạy.

Đức Thế Tôn lại hỏi:

– Nhân giả nhờ vào phương tiện nào, từ Như Lai lãnh thọ định này và trong bao lâu thành tựu Tam-muội ấy?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch:

– Bạch Đại Thánh! Khi con chưa phát tâm đạo Chánh chân vô thượng, được nghe tên của định, liền thành tựu Tam-muội ấy.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Từ đâu nghe được Tam-muội ấy và danh hiệu của chư Như Lai đó là gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

– Về thuở quá khứ xa xưa, trải qua hằng hà sa không thể tính kể a-tăng-kỳ kiếp không thể tính kể, bấy giờ có Đức Phật gồm đủ mười tôn hiệu là Ý Hoa Hương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy diễn nói về phẩm hành của Tam-muội kia, đích thân con được nghe tuệ âm của Tam-muội Hàng hủy ma tràng này.

Đức Phật hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Thế nào gọi là tuệ âm của Tam-muội do Đức Như Lai Ý Hoa Hương kia đã giảng thuyết?

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:

– Bồ-tát có hai mươi việc để đạt được định ý của Tam-muội Hàng hủy ma tràng.

Đức Phật hỏi:

– Những gì là hai mươi?

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:

Một là loại trừ tham dâm, diệt sạch tâm dục của mình. Hai là loại trừ giận dữ, diệt trừ tâm cấu bẩn. Ba là loại trừ ngu si, dứt bỏ tâm tăm tối. Bốn là loại trừ kiêu mạn, xả bỏ oán ghét. Năm là loại trừ sân hận, không còn nhiệt não. Sáu là bỏ các tưởng chấp và các tà kiến. Bảy là loại bỏ tạp niệm đã sinh ra các việc lãnh thọ và phóng xả. Tám là xa lìa các thứ sở hữu và không sở hữu. Chín là vượt qua tưởng chấp thường và đoạn diệt. Mười là loại bỏ các ấm, nhập, bốn đại. Mười một là tâm không chấp trước vào ba cõi. Mười hai là rời xa tâm

Thanh văn. Mười ba là buông bỏ ý cầu Duyên giác. Mười bốn là từ bỏ các ganh ghét, tham khác. Mười lăm là xa rời nạn phá hủy giới, trái nghịch điều răn cấm. Mười sáu là đoạn trừ các việc chống trái không nên làm. Mười bảy là dứt sạch sự biếng nhác, do dự. Mười tám là nhổ hết các ý buông lung, rối loạn. Mười chín là bỏ các tà trí và việc không đúng đắn. Hai mươi là hàng phục các thứ phiền não, ái dục, lưới kiết sử. Đây là hai mươi việc mà Bồ-tát thực hành để đạt được Tam-muội này.

Bồ-tát Văn-thù lại bạch Phật:

– Bồ-tát lại có bốn việc để đạt được Tam-muội này. Những gì là bốn? Một là nơi hành hóa xây dựng tâm thanh tịnh, điều hòa. Hai là chí tánh hòa dịu, nhuần nhuyễn không dua nịnh. Ba là đi vào pháp nhẫn sâu xa, không khởi sinh diệt. Bốn là đối với các vật bố thí chưa từng tham tiếc. Đây là bốn việc. Lại có bốn pháp để đạt đến Tam-muội này.

Những gì là bốn? Một là thực hành sự chân thật, không dối trá. Hai là tu tập hạnh ở nơi vắng lặng. Ba là lãnh thọ kinh điển, đọc tụng các pháp. Bốn là hoàn tất các hạnh, xả bỏ nghĩa trái quấy. Đây là bốn pháp. Bồ-tát lại có bốn việc. Những gì là bốn? Một là gần gũi bạn lành. Hai là biết giới hạn để dừng lại. Ba là ở một mình chuyên suy tư. Bốn là không ở nơi ồn ào. Đó là bốn việc. Bồ-tát lại có bốn việc để đạt đến Tam-muội này. Những gì là bốn? Một là tâm không thích hàng Thanh văn. Hai là xả bỏ ý cầu Duyên giác. Ba là hướng cầu đạo Bồ-tát. Bốn là đạt được pháp nhẫn. Đó là bốn việc. Lại có bốn pháp đạt đến Tam-muội này. Những gì là bốn? Một là tu tập pháp không, không chấp có nhân. Hai là tuân theo vô tưởng, bỏ các mong cầu. Ba là không buông lung, loại trừ các sở nguyện. Bốn là biết đủ, thích xả bỏ tất cả sở hữu. Đó là bốn việc. Lại có bốn pháp để đạt đến Tam-muội này. Những gì là bốn? Một là quay trở lại trong vô lượng khổ nạn sinh tử. Hai là bình đẳng cứu độ tất cả muôn loài. Ba là thường nhất tâm tư duy đúng thời. Bốn là không giong ruổi, dốc vượt đến bờ kia. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Ý Hoa Hương Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã thuyết giảng hành âm của Tam-muội này. Bấy giờ, từ Đức Phật ấy, được nghe Tam-muội ấy, sau đấy lại có Đức Phật tôn hiệu là Minh Châu Nhật Nguyệt Quang Diệu, nhờ đức Như Lai ấy mà thành tựu Tam-muội ấy.

Khi giảng nói Tam-muội Hủy phục ma tràng này, trong chúng hội có một vạn Bồ-tát đối với các sắc tượng cảm ứng biến hóa như vậy, đều chứng được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh.

Đức Phật hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Ý của Tôn giả là thế nào? Ở trong ba ngàn đại thiên thế giới này chỉ có sự biến hóa hàng phục các ma ấy mà thôi chăng? Chớ nên quán sát như thế. Vì sao? Vì tất cả hằng hà sa cõi nước của chư Phật khắp mười phương đều có các ma Ba-tuần luôn tạo mọi trở ngại cho con người, đều gặp phải sự xử trị như vậy, khiến không còn được mặc ý, tất cả đều do sự kiến lập của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù:

– Nhân giả hãy xả bỏ sự kiến lập oai thần khiến các loài ma trở lại thân hình cũ với trang sức, y phục của cõi trời.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù bảo các loại ma:

– Này các Hiền giả! Thân này thật là cấu uế.

Các ma nói:

– Thật như thế.

Bồ-tát bảo các ma:

– Các ông phải nên nhàm chán những việc tham dục, không trụ nơi ba cõi.

Các ma nói:

– Lành thay Bồ-tát Văn-thù! Chúng con sẽ theo lời dạy, xin Bồ-tát tăng thêm oai thần, khiến chúng con thoát khỏi loại thân hình này, dùng oai nghi để trang nghiêm.

Bồ-tát Văn-thù liền xả bỏ oai thần biến hóa, khiến cho các ma trở lại hình tướng như cũ. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với các ma:

– Các Nhân giả muốn biết đối tượng của mắt mình ghi nhận thì luôn suy nghĩ: Mắt có nơi chấp trước tức là nhãn căn. Theo sự suy nghĩ về mắt cho là có ngã sở, nương vào nhân của mắt, sinh ở nơi mắt, chỗ hướng đến của mắt là tâm, trở lại bảo vệ mắt, mở mắt, nhắm mắt tức là cảnh giới của các ông, là nghiệp ma. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Giả sử, có mắt mà không có đối tượng để nhìn thấy, có tai mà không có đối tượng để nghe, có mũi mà không có hương, có lưỡi mà không có vị, có thân mà không có xúc, có tâm mà không có pháp, đều không có đối tượng nắm bắt thì chẳng phải là cảnh giới của các ông. Không cùng bạn khó nhọc, không có sức lực, không có niềm vui thì không có nghiệp ma, cũng không bị ảnh hưởng. Lại nữa, các ông tự chấp vào ngã và ngã sở, theo suy nghĩ cho là có thân, hướng đến hoạn nạn này. Các ông nhờ nhân duyên gì mà ở trong chúng hội, muốn đạt được sự vắng lặng chưa từng có?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, đúng lúc ở nơi đó, vì các quyến thuộc của ma thuyết giảng đạo Chánh chân vô thượng, khiến tám vạn bốn ngàn ma xa trần, lìa cấu, chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Các chúng ma khác trở về cung điện, đều cùng tán thán, chúc mừng nhau: Chúng ta đã thoát khỏi sự sợ hãi lớn.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo với các quyến thuộc của ma đã đạt được pháp nhẫn:

– Các ông vì sao không trở về cung điện?

Các ma thưa:

– Chúng tôi hôm nay bỗng nhiên không còn thấy nhà cửa mình nữa, huống gì là còn thấy cung điện của ma tự nhiên an trụ.

Bồ-tát lại hỏi:

– Cung điện của các ông ở đâu?

Các ma trả lời:

– Tất cả các pháp không có chủ, không có niệm. Đó là cung điện của các pháp. Các pháp không, vô tướng, vô nguyện, rỗng lặng mới là cung điện. Ở đó không có người đến cũng không có người đi.

Tôn giả Đại Ca-diếp đến trước Đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từ cung điện kia đến chăng? Chúng con muốn được gặp những Bồ-tát đi cùng. Vì sao? Vì những vị Bồ-tát này thật khó gặp gỡ.

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù:

– Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Ông nên hiện bày về số lượng các Bồ-tát ở khắp mười phương thế giới cùng đến cõi Nhẫn và các chúng hội hiện tại đều thiết tha muốn được gặp ông.

Ngay lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo các Bồtát Pháp Luân, Bồ-tát Pháp Trụ, Bồ-tát Nhược Can Biện, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Nhu Nhuyến Âm, Bồ-tát Diệt Chúng Ác, Bồ-tát Tịch Nhiên, Bồtát Tuyển Trạch, Bồ-tát Pháp Vương, Bồ-tát Hoài Âm cùng bảo với các chúng Bồ-tát:

– Này các thiện nam! Tất cả chư vị Bồ-tát hãy tự hiện bày về cung điện của mình, hiện bày cõi Phật và thân hình cũ của mình.

Bồ-tát vừa nói ra lời này thì các Bồ-tát liền vâng theo, ra khỏi Tam-muội, hiện ra thân ban đầu. Hoặc có Bồ-tát thân cao lớn như núi Tu-di. Hoặc có Bồ-tát thân cao lớn ba trăm hai mươi vạn dặm, hoặc hai trăm tám mươi vạn dặm, hoặc hai trăm bốn mươi vạn dặm, hoặc hai trăm vạn dặm, hoặc một trăm sáu mươi vạn dặm, hoặc một trăm hai mươi vạn dặm, hoặc tám mươi vạn dặm, hoặc bốn mươi vạn dặm, hoặc ba mươi sáu vạn dặm, hoặc ba mươi hai vạn dặm, hoặc hai mươi tám vạn dặm, hoặc hai mươi bốn vạn dặm, hoặc hai mươi vạn dặm, hoặc mười sáu vạn dặm, hoặc mười hai vạn dặm, hoặc tám vạn dặm, hoặc bốn vạn dặm, hoặc ba mươi sáu ngàn dặm, hoặc ba mươi hai ngàn dặm, hoặc hai mươi tám ngàn dặm, hoặc hai mươi bốn ngàn dặm, hoặc hai mươi ngàn dặm, hoặc mười sáu ngàn dặm, hoặc mười hai ngàn dặm, hoặc tám ngàn dặm, hoặc bốn ngàn dặm, hoặc ba ngàn sáu trăm dặm, hoặc ba ngàn hai trăm dặm, hoặc hai ngàn tám trăm dặm, hoặc hai ngàn bốn trăm dặm, hoặc hai ngàn dặm, hoặc một ngàn sáu trăm dặm, hoặc một ngàn hai trăm dặm, hoặc tám trăm dặm, hoặc bảy trăm sáu mươi dặm, hoặc bảy trăm hai mươi dặm, hoặc sáu trăm tám mươi dặm, hoặc sáu trăm bốn mươi dặm, hoặc sáu trăm dặm, hoặc ba trăm sáu mươi dặm, hoặc ba trăm hai mươi dặm, hoặc hai trăm tám mươi dặm, hoặc hai trăm bốn mươi dặm, hoặc hai trăm dặm, hoặc một trăm sáu mươi dặm, hoặc một trăm hai mươi dặm, hoặc tám mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, hoặc ba mươi sáu dặm, hoặc ba mươi hai dặm, hoặc hai mươi tám dặm, hoặc hai mươi bốn dặm, hoặc hai mươi dặm, hoặc mười sáu dặm, hoặc mười hai dặm, hoặc tám dặm, hoặc bốn dặm, hoặc có thân dài ngắn, cao thấp giống như người ở cõi Nhẫn này. Như vậy, thân hình của các Bồ-tát cao lớn, dài, ngắn khác nhau.

Bấy giờ, các Bồ-tát đầy khắp ở trong ba ngàn đại thiên thế giới này, không có một chỗ trống dù chỉ bằng đầu sợi lông. Các vị ấy đều có thần thông vi diệu, khí tiết cao thượng, trí tuệ sáng suốt đặc biệt khác thường, công đức vời vợi không gì có thể ví dụ được. Thân của những Bồ-tát này đã phóng ra hào quang chiếu suốt khắp trăm ngàn cõi Phật ở mười phương không thể tính đếm. Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng Tam-muội chánh thọ Phật trang nghiêm để phát khởi định ấy. Ngay lúc đó, cõi Nhẫn bỗng nhiên xuất hiện rất nhiều lọng hoa không thể tính kể, vô số trăm ngàn thứ nhạc vang lên, đủ loại trang sức, cờ phướn, lụa là vô lượng để trang hoàng cõi Phật, khắp nơi sáng tỏ như mặt trời, mặt trăng. Các chúng Bồ-tát từ cõi Phật có màu vàng ròng đến đây thì thấy cõi Phật này màu vàng ròng. Các Bồ-tát từ cõi Phật có màu bạc trắng đến thì thấy cõi này màu bạc trắng. Những vị từ cõi Phật có màu thủy tinh đến thì thấy cõi Phật này đều là màu thủy tinh. Những vị từ cõi Phật có màu lưu ly đến thì thấy cõi Nhẫn này đều là màu lưu ly. Những vị từ cõi Phật có màu xa cừ đến thì thấy cõi Phật này đều là màu xa cừ. Những vị từ cõi Phật có màu mã não đến thì thấy cõi Phật này đều là màu mã não. Những vị từ cõi Phật có hương thơm ngào ngạt đến thì thấy cõi Phật này đều do hương thơm tạo thành. Những vị từ cõi Phật có hoa đẹp đến thì chỉ thấy các loài hoa. Những vị từ cõi Phật có châu báu đến thì chỉ thấy các châu báu, hoặc từ thế giới bảy báu, sáu báu, năm báu, hoặc từ thế giới bốn báu, ba báu, hai báu đến cõi Nhẫn này thì thấy cõi Phật này dài ngắn, rộng hẹp, các báu kỳ lạ, hơn kém, đẹp xấu như cõi Phật gốc. Bấy giờ, mỗi vị Bồ-tát tự suy nghĩ về cõi Phật của mình. Những vị này thấy đức Thích Ca Văn Như Lai Chí Chân, thân tướng, y phục mỗi mỗi đều giống như chư Phật ở cõi Phật gốc, oai nghi, phép tắc, truyền trao chánh pháp, ăn uống v.v… không có gì sai khác. Bồ-tát này không thấy sự trang nghiêm nơi cõi nước của Bồ-tát kia mà chỉ thấy cõi mình, cất tiếng nói:

– Cõi này đều màu vàng ròng.

Vị Bồ-tát thứ hai nói:

– Cõi này màu bạc trắng. Mỗi mỗi sự du hóa là hạnh thanh tịnh.

Mỗi vị đều tự ngạc nhiên, kỳ lạ thấy việc chưa từng có, đều cất tiếng lớn vang xa khắp để tán thán: – Thế giới của chư Phật thật khó sánh kịp, khó sánh kịp, không thể đạt đến! Oai đức hiện bày khắp mười phương, hoàn toàn không thể đạt được!

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo:

– Này các thiện nam! Việc ấy không có gì lạ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều là một Đức Phật. Tất cả các cõi đều là một cõi. Tất cả chúng sinh đều là một thân. Tất cả các pháp đều là một pháp, chắc chắn như vậy nên gọi là một, cũng chẳng phải chắc chắn là một, cũng chẳng phải là từng ấy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nêu ra nghĩa quan trọng này mà không dùng nhiều lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặc áo bày vai phải, đầu gối phải quỳ sát đất, chấp tay bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con xin muốn được thưa hỏi.

Nếu Ngài cho phép con mới dám thưa rõ.

Phật dạy:

– Cho phép thưa hỏi. Như Lai sẽ giải thích rõ mọi chỗ nghi ngờ, khiến tâm ông được vui mừng, vừa ý.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thưa:

– Sao gọi là chỗ trở về theo nghĩa của Bồ-tát?

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù:

– Hiểu rõ các pháp, thông suốt tất cả nên gọi là Bồ-tát.

Lại hỏi:

– Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu rõ các pháp?

Đức Phật dạy:

– Bồ-tát hiểu rõ mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm không bị che lấp, chướng ngại.

– Sao gọi là người hiểu rõ về sáu tình?

Hiểu rõ về mắt tức là vốn thanh tịnh, không. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy, đều là vốn không, thanh tịnh; không tự nhớ nghĩ cho là ta hiểu rõ chúng. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là không, vốn thanh tịnh; không nghĩ là mình đã hiểu rõ. Lại nữa, này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Hoặc có Bồ-tát hiểu biết về năm ấm. Sao gọi là hiểu rõ? Hiểu về không, vô tướng, vô nguyện, xa lìa phiền não, tham dục, vắng lặng không có chỗ nắm giữ, trở về với sự thanh thoát, không chỗ sinh ra, không đến, không đi. Ví như sóng nắng, huyễn hóa, trăng dưới nước, cây chuối, đối tượng thấy trong mộng, đều là không tồn tại lâu dài, không vững chắc, không có nơi chốn. Nếu người nào có thể hiểu rõ nghĩa như vậy thì gọi là Bồ-tát. Lại nữa, này Bồtát Văn-thù-sư-lợi! Hiểu rõ về tham dục, sân hận, ngu si, năm ấm, sáu suy (trần) đều nhân nơi tưởng sinh ra. Người tham dục ấy cũng từ tưởng sinh ra. Tưởng ấy cũng là không, rỗng lặng, không hình tướng, không có lời nói, cũng không có sự giáo hóa. Sự tham dục, sân giận, ngu si ấy đối với pháp không có nguồn gốc, không thể làm nhiễm ô, không mê hoặc.

Đức Phật dạy tiếp cho Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Bồ-tát hiểu rõ hành của chúng sinh. Người này nhiều tham dục, kẻ kia nhiều sân giận, người nọ lắm ngu si. Người nhiều tham dục là ân ái quá tràn đầy. Ví như năm loại thóc đậu, cỏ cây tươi tốt, phân bố không phù hợp một chỗ. Người nhiều sân giận là sự tức giận bừng bừng giống như ngọn lửa dữ thiêu đốt cỏ cây, thành ấp, nhà cửa, mọi nơi đều bị thiệt hại. Người nhiều ngu si là tối tăm mù mịt như không có ánh sáng mặt trời. Nếu ở trong nhà ấy bị che phủ thì nơi đó bị mê lầm cùng cực, không nhận biết điều gì. Bồ-tát Đại sĩ hiểu rõ bản hạnh, từ trong tâm ý của mình thấu suốt nơi tăm tối, nguồn gốc, chỗ hướng đến, các căn cơ hơn kém, vì họ mà thuyết pháp, mỗi mỗi khiến đi vào trong phép tắc nhằm độ thoát họ.

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Bồ-tát hiểu rõ tất cả chúng sinh. Thế nào là hiểu rõ tất cả chúng sinh đều là giả danh? Nếu quan sát về chân đế là giả gọi, tên ấy cũng không có nơi chốn. Chúng sinh đều là một thân, xét về chúng sinh không có chúng sinh. Người hiểu rõ nghĩa ấy không có tưởng chấp gọi là Bồ-tát. Đối với sự giác ngộ này, những ai không hiểu biết thì hóa độ họ đạt đến bờ kia gọi là Bồ-tát. Những người chưa đạt được đều khiến được thông suốt nên gọi là Bồ-tát. Người đã và đang quan sát đều thấy được gốc, ngọn, sinh diệt, nhân duyên, nguyên do, chỗ hướng đến, luôn luôn đầy đủ, trước nhận biết vô cùng, lại thấu tỏ vô tận nên gọi là Bồ-tát. Nhân nơi giả danh ấy, tùy theo lời nói, phong tục nơi địa phương mà có tên gọi này. Người đối với các việc ấy không có chỗ vướng mắc nên gọi là Bồ-tát.

Khi ấy, Đức Phật dùng kệ khen ngợi:

Hiểu rõ mắt, tai mình
Là không, là tự nhiên
Người đạt không nhớ nghĩ
Mới gọi là Bồ-tát.
Người hiểu rõ mũi, miệng
Vốn tịnh, không hình tướng
Người biết không vọng tưởng
Mới gọi là Bồ-tát.
Người trí hiểu rõ thân
Ý mình như hư không
Phân biệt vốn thanh tịnh
Bồ-tát là sáng suốt.
Sắc, thanh và hương vị
Xúc và vật vừa ý
Có thể biết như huyễn
Phân biệt tất cả không.
Cũng không cầu vọng tưởng
Mới gọi là Bồ-tát
Hiểu rõ sắc là không
Thọ, tưởng cũng như vậy.
Hành, thức được nhận biết
Tất cả giống như huyễn
Tâm không luôn vọng tưởng
Mới gọi là Bồ-tát.
Năm ấm giống như mộng
Nhất tướng không có tướng
Sáng suốt, không vọng tưởng
Mới gọi là Bồ-tát.
Không sinh, không chỗ sinh
Không lời tức vô vi
Giả danh, mượn tên gọi
Danh này không hình loại.
Hiểu rõ tham, sân giận
Phân biệt các tưởng niệm
Tưởng ấy không chân thật
Rốt ráo không nhàm chán.
Biết si cũng không thật
Do tạo nhiều nhớ nghĩ
Duyên các tà kiến sinh
Chắc chắn không chỗ thấy.
Phải nhớ tham dục, sân
Các pháp đều bình đẳng
Chúng không nhiễm, không uế
Pháp cũng không mê vọng.
Biết rõ niệm như vậy
Bồ-tát không tham dục
Vắng lặng, diệt các pháp
Mới gọi là Bồ-tát.
Hiểu rõ cả ba cõi
Là không, chẳng chân thật
Với chúng không vượt qua
Mới gọi là Bồ-tát.
Không thành tựu cõi dục
Do điên đảo phát ra
Là sắc, là vô sắc
Đấy cũng đều hư dối.
Chỗ chúng sinh tạo nghiệp
Người trí hiểu rõ hết
Hành tham dục, sân giận
Cùng trở về ngu si.
Tất cả giả gọi người
Người cũng không nắm bắt
Sáng suốt đạt thành tựu
Không vọng tưởng chúng sinh.
Tất cả các pháp này
Người biết là điên đảo
Tri thức thiện cẩn thận
Phân tích không có tưởng.
Phương tiện theo các pháp
Không chấp các chướng ngại
Nếu đạt không chỗ chấp
Mới gọi là Bồ-tát.
Bố thí thịt thân mình
Không hành các chỗ nương
Hiểu rõ như xét kỹ
Mới gọi là Bồ-tát.
Giữ giới luôn thanh tịnh
Cũng không tưởng tự đại
Thuận theo nghĩa giới Phật
Không khởi, không hiện có.
Ta vốn đã tu tập
Nghiệp thân, miệng và ý
Đó gọi là giới cấm
Đều không chấp nơi chốn.
Thương yêu khắp muôn loài
Cũng không chấp chúng sinh
Biết chúng là tạm bợ
Do giả mà có tên.
Người thực hành tinh tấn
Diệt tất cả các khổ
Xét bỏ ba cõi không
Thành tựu đạo tối thượng.
Đặc biệt tu thiền định
Cũng không có chỗ chấp
Không trụ, không nắm bắt
Bậc trí hiểu như vậy.
Dao trí tuệ chặt dứt
Các ác kiến, phiền não
Thấy rõ các pháp giới
Không đoạn, không chỗ hoại.
Hiểu rõ về các pháp
Đúng lúc dạy chúng sinh
Bồ-tát hiểu như vậy
Mới gọi là Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật:

– Bạch Đại Thánh! Đại Thánh đã nói về người ban đầu phát tâm. Vậy thế nào gọi là Bồ-tát ban đầu phát tâm?

Đức Phật dạy:

– Giả sử Bồ-tát nghĩ khắp ba cõi là ban đầu phát tâm. Người đã phát tâm thì bình đẳng như đất. Bồtát ấy không có chỗ khởi phát cũng không nhớ nghĩ đến tịnh và bất tịnh. Điều Bồ-tát nhận biết là không hấp tấp, không vội vàng, đứng vững không lay động, luôn an ổn, không gì có thể quấy nhiễu, nhẫn nhục nơi mọi khổ, vui, vượt qua tám pháp của thế gian, không gì hủy hoại được, đều không có đối tượng tạo tác, có thể phát tâm phù hợp, được lãnh thọ tất cả công đức, cũng không tự nghĩ mình có danh tiếng, công đức. Đó gọi là ban đầu phát tâm thành tựu tâm Bồ-tát.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Đức Phật:

– Như con được nghe đại Thánh giảng nói về nghĩa lý, có Bồ-tát phát khởi tham dục, sân giận, ngu si mới là phát tâm.

Khi ấy, Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Phát khởi tham dục, sân giận, ngu si mới là ban đầu phát tâm thành Bồ-tát, thì tất cả kẻ phàm phu ngu si đều nên ban đầu phát khởi. Tại sao những người ấy phát khởi tham dục, sân giận, ngu si nên không bỏ được ba độc?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Kẻ phàm phu ngu si không thể chấp nhận sự sinh khởi tham dục, sân giận, ngu si. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Bất thoái chuyển mới có thể phát khởi tham dục, sân giận, ngu si ấy, còn hàng phàm phu thì không thể được.

Thiên tử Thiện Trụ Ý nói với Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Sự thuyết giảng hôm nay thật đáng lo sợ. Chúng hội này khởi tâm nghi ngờ do nghe Nhân giả giảng nói về nghĩa lý ấy, đều không thể hiểu rõ, khiến tâm họ trở nên tăm tối.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Ý ông nghĩ sao? Ví như chim bay trong hư không, liệu có sợ bay qua bị chướng ngại chăng?

Thiên tử trả lời:

– Bay qua không sợ hư không.

Bồ-tát Văn-thù nói:

– Này Thiên tử! Đạo không có chỗ sinh, có đối tượng ghét sự xấu ác tức là không phát khởi, không có đối tượng ghét sự xấu ác mới là phát khởi. Nếu không chỗ chấp, không giữ tâm ghét điều ác, không có chỗ nương tựa mới gọi là phát khởi. Cho phát khởi và không có nhớ nghĩ, không có đối tượng sinh ra gọi là không phát khởi. Không tự nhiên mới là phát khởi. Không có dấu tích của câu mới gọi là phát khởi. Không có dấu tích của sự đến đi mới gọi là phát khởi. Không có dấu tích của thân tuệ, không có chỗ nhớ nghĩ mới gọi là phát khởi. Không có dấu tích của sự thọ nhận, không có dấu tích của sự đạt đến mới gọi là phát khởi. Không có dấu tích của sự hủy hoại, không có dấu tích của sự nắm giữ mới gọi là phát khởi. Không có dấu tích của văn tự, không có dấu tích của sự quyến luyến, đó gọi là phát khởi. Không siêng năng, không lười biếng, không đôi, không chiếc, đó gọi là phát khởi. Không cầu xin giúp đỡ cũng không có chỗ trở về nương tựa, đó gọi là phát khởi.

Này Thiên tử! Tên gọi đối với Bồ-tát là ban đầu phát tâm. Bồ-tát đối với pháp này không nhớ nghĩ, không nương tựa, không suy xét, không tưởng, không biết, không thấy, không nghe, không nhận thức, không lấy, không bỏ, không sinh không diệt.

Này Thiên tử! Gọi là Bồ-tát dùng nhân duyên này, theo pháp này nên từ đó đạt được bình đẳng. Phương tiện thiện xảo của bản tế như vậy là phát khởi tham dục, sân giận, ngu si, phát khởi đối tượng nương dựa của mắt. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như thế, phát khởi chỗ chấp về sắc cũng lại hiển bày, đối với thọ, tưởng, hành, thức không nên sinh sắc tương ưng. Các tà kiến, vô minh, hữu ái cùng với pháp mười hai duyên khởi, các dục nương tựa vào ba cõi cũng chẳng hiện phát chỗ tạo tác, ngã, ngã sở, chấp thân sáu mươi hai tà kiến cũng phải phát khởi, hoạn nạn của năm sự ngăn che, bốn điên đảo, tám tà, mười nghiệp ác khiến cho trở về nguồn cội của chúng. Nhận lấy lời nói cần thiết ấy, tất cả tịnh, bất tịnh, tương ưng không tương ưng, các tưởng, ngôn từ, tất cả nơi chốn, chỗ nương tựa, tư tưởng, các niệm, lưu luyến, chướng ngại, đối tượng đáng nêu bày gọi là phát khởi tưởng Nêhoàn. Bồ-tát Đại sĩ đều hiển phát những điều này cho nên nay Thiên tử hãy nên hành pháp quán ấy, trong đó các pháp có chỗ nương tựa, không có sự ghét thương, gọi là phát khởi.

Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết giảng về pháp ban đầu phát tâm này thì ba ngàn đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu cách chấn động, có hai ngàn Bồtát chứng được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh.

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Lành thay! Lành thay! Chỉ Bồ-tát mới có thể giảng nói về sự phát tâm nơi Bồ-tát. Nhân giả đã từng phụng sự hằng hà sa chư Phật Thế Tôn nên có thể diễn bày đạo tuệ vô tận này.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đến trước Đức Phật và bạch:

– Vừa rồi, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã tuyên thuyết, tán thán về các việc của Bồ-tát mới phát tâm, hoặc người đạt đến pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Xem xét hai việc này có ý nghĩa giống nhau chăng?

Đức Phật bảo:

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đúng như vậy. Đúng như lời ông nói. Khi Đức Phật Đỉnh Quang thọ ký pháp yếu cho Ta sẽ thành tựu đạo quả Chánh chân vô thượng, làm bậc Tối Chánh Giác, vào đời vị lai vô lượng số kiếp thành Phật hiệu là Thích Ca Văn

Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nhờ Đức Phật ấy, Ta đã phát tâm không có trái mất, đúng thời đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vừa rồi đã giảng nói về Bồ-tát mới phát tâm.

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:

– Chính con giác ngộ chỗ trở về của pháp nghĩa mà bậc đại Thánh đã nêu dạy. Tất cả Bồ-tát phát tâm này gọi là mới phát tâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn. Vì những vị phát tâm ấy đều là bậc không chỗ sinh, bậc không chỗ sinh ấy tức là Bồ-tát mới phát tâm.

Khi giảng nói lời này có hai vạn ba ngàn người an trú nơi địa bất thoái chuyển, sẽ thành tựu đạo quả Chánh chân vô thượng; năm ngàn Tỳ-kheo tâm ý được khai thông, không còn khởi các lậu khác; sáu vạn Thiên tử xa trần, lìa cấu, được các pháp nhãn thanh tịnh.

Lúc ấy, Trưởng lão Đại Ca-diếp đến trước Đức Phật và bạch:

– Việc làm của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là rất khó! Là hết sức khó! Giảng nói về kinh điển, giáo hóa, làm lợi ích cho vô số chúng sinh.

Bồ-tát Văn-thù nói với Tôn giả Đại Ca-diếp:

– Việc làm của tôi không gì khó. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có sự tạo tác, chẳng phải là tạo tác, chẳng phải là không tạo tác. Này Tôn giả Đại Ca-diếp! Tôi đối với các pháp không tạo tác, chẳng phải là không tạo tác, cũng không có chỗ xả bỏ, không cứu độ chúng sinh, cũng không có chỗ trói buộc. Vì sao? Vì chúng sinh vốn bị vô minh ngăn che nên gọi là chúng sinh, nên chẳng phải là rất khó. Vừa rồi, Tôn giả Ca-diếp bảo là rất khó, nhưng việc làm của bản thân tôi không có gì khó, cũng không phải là không khó, chẳng phải là Như Lai, chẳng phải là Duyên giác, chẳng phải là Thanh văn. Này Tôn giả Ca-diếp! Muốn biết chỗ bàn luận về cái rất khó, trình bày nghĩa lý rất khó thì sự tạo tác của hàng phàm phu mới là kỳ lạ, gọi chung là rất khó. Vì sao? Này Tôn giả Ca-diếp! Tất cả diệu lực, oai thần của chư Phật chưa từng trái bỏ chúng sinh nhưng họ cũng không thể chứng đắc Thanh văn, Duyên giác. Diệu lực của chư Phật, họ không thể nắm bắt, không thể chứng đắc, chỉ riêng hàng phàm phu mới tạo nên lực này.

Tôn giả Đại Ca-diếp nói với Bồ-tát Văn-thù:

– Ý của Bồ-tát nghĩ thế nào? Chỗ chứng đắc của chư Phật là không có chứng đắc, chẳng chứng đắc, chẳng phải là Thanh văn, chẳng phải là Duyên giác?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời Tôn giả Đại Cadiếp:

– Không thủ đắc về ngã, nhân, thọ mạng, không hình tướng, cho đến không có hữu tình; không chấp về đoạn diệt, thường còn. Các ấm nhập, danh sắc, ba cõi, tương ưng, không tương ưng, tưởng, vô tưởng, phát khởi báo ứng trong hiện tại và đời sau, tham dâm, sân giận, ngu si đều không thể nắm bắt. Tôn giả Ca-diếp nên hiểu, nói tóm lại, tất cả các pháp đều không có chỗ thủ đắc, chẳng thủ đắc, không chỗ nương tựa, không nhận lấy, không xả bỏ, không bố thí, không điều dạy bảo, cũng không thân cận, không có gì truyền trao, không gì để giải thích. Vì thế, này Tôn giả Ca-diếp! Phải hiểu rõ về hàng phàm phu ấy. Không nghe nghĩa lý mới là chỗ chứng đắc. Chư Phật Thế Tôn thật không có chỗ chứng đắc, cho nên việc làm không khó. Chư Phật, Thanh văn đều không có tạo tác. Sự tạo tác của phàm phu là không thể đạt tới. Sự tạo tác là gì? Là sự đoạn diệt, là chấp thường, nhiều sự chấp trước, nương tựa, ân cần cầu nguyện, tâm chứa các niệm, tạo tác và không tạo tác, hoặc đưa lên, hoặc hạ xuống, phân biệt, giảng thuyết, vọng tưởng, vướng bận, buồn bã, lo lắng nhớ đến sự nguy hiểm. Đảnh lễ, quy y Đức Phật Thế Tôn, không tạo, không tác, cũng không bám víu, chỉ có ngu si làm những điều này. Cho nên, sự tạo tác không cho là khó.

Bồ-tát Văn-thù đến trước Đức Phật và bạch:

– Gọi là không chỗ sinh, nghĩa ấy là thế nào? Sao gọi như thế? Thế nào là Bồ-tát đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh?

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù:

– Chấp vào các pháp thì không thể chứng đắc. Vì sao? Vì có người chứng đắc tức rơi vào điên đảo, không có người chứng đắc mới chính là chứng đắc pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Cho nên, không có người chứng mới gọi là chứng. Không nắm bắt, không chấp, không nương tựa, không bám víu, tâm như hư không vắng lặng, không có dấu vết, đó mới gọi là pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Tất cả các pháp không có chỗ sinh ra, không có chủ thể mới gọi là pháp nhẫn. Đối với tất cả các pháp không có chỗ nương tựa, không mong cầu, hy vọng; các pháp không tiến, không lùi, không đôi, không đơn, mới gọi là pháp nhẫn. Các pháp không hình tướng, lìa tự nhiên, không hủy hoại, không đoạn diệt, không thức, không trần, không ngôn, không từ, không vô tướng, vô nguyện mới gọi là pháp nhẫn. Các pháp lìa dục, vắng lặng, thanh thoát, pháp giới không nguồn gốc, an lập từ “bản tế”, không có tương ưng, không có không tương ưng, không có tưởng, không có không tưởng, không niệm, không thuyết giảng, không tư duy, không tạo tác, không sức lực, tất cả đều yếu kém, rỗng lặng, không rõ ràng, không vững chắc, không lâu dài, không tịnh, chẳng không tịnh, chẳng phải thường, khổ, không, vô ngã, tịch tĩnh, giống như huyễn, hóa, như việc thấy trong mộng, như tiếng vang, như sóng nắng, cây chuối, bọt nước. Pháp nhẫn giải thích về các pháp là như vậy. Đối tượng đáng nhẫn cũng không có chỗ nhẫn. Tất cả các pháp không có pháp, chẳng phải pháp, không có pháp khác, cũng không có vật khác hướng đến chiếu sáng, các pháp được giải thích như vậy. Quán sát những pháp này gọi là bản tịnh, nhận biết về không, không có, đó gọi là nhẫn. Không dốc tâm tin tưởng vượt qua các dòng, không giữ tâm nghi ngờ, không sợ, không hãi, cũng không gì để lo sợ, tu thân với hạnh chân chánh, hoàn toàn không chấp nơi thân, không thấy có nơi chốn che chở của thân. Này Bồ-tát Văn-thùsư-lợi! Chỗ đạt đến của Bồ-tát là pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, chưa từng phế bỏ tất cả các tưởng.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật:

– Gọi là nhẫn thì không có gì làm tổn hại mới gọi là pháp nhẫn.

Khi ấy Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Thế nào là pháp làm tổn hại?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Này Thiên tử! Nên biết, đối tượng làm tổn hại mắt có thể là sắc, không thể là sắc; tai đối với âm thanh; mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với cánh (xúc); điều suy nghĩ của ý có thể là pháp, không thể là pháp. Này Thiên tử, nếu có Bồ-tát mắt thấy sắc mà hoàn toàn không có tưởng thọ nhận, không phân biệt đẹp, xấu, không luôn ghi nhớ, không có sự tương ưng, chẳng phải là không tương ưng, không tăng, không giảm, thấy rõ sắc vốn thanh tịnh thì đạt được ”không tuệ”; không nhớ nghĩ, hiểu rõ không phải là sự tổn hại của các sắc. Tai, mũi, miệng, thân, ý cũng như vậy, đối với sáu tình (căn) không có gì tổn hại, không có chỗ chấp thì Bồ-tát này an trụ trong pháp nhẫn; đối với các pháp sinh không có vọng tưởng thì đối với các pháp không sinh cũng không có tưởng; đối với các pháp hữu lậu không có vọng tưởng thì đối với các pháp vô lậu cũng không có tưởng, không tưởng về pháp có tội, không tưởng về pháp vô tội, không nhớ pháp hữu vi, không tưởng pháp vô vi, không nghĩ về pháp thế gian, không nhớ về pháp vượt thế gian; đối với các pháp này không có tưởng nhớ nghĩ, đó là đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh.

Khi giảng nói pháp này có sáu vạn ba ngàn người đều phát đạo tâm Chánh chân vô thượng, một vạn hai ngàn Bồ-tát chứng được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Học đạo nhập vào bậc đạo là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù bảo Thiên tử:

– Nay Nhân giả hỏi về nhập vào bậc đạo chăng?

Thiên tử trả lời:

– Mong muốn được nghe để biết bậc đạo của Bồ-tát, Bồ-tát Văn-thù thường nói có mười bậc đạo lẽ nào không có nghĩa này sao?

Bồ-tát Văn-thù hỏi:

– Vừa rồi, Nhân giả hỏi về chỗ nhập vào địa?

Thiên tử đáp:

– Bồ-tát không nhập vào mười địa.

Bồ-tát Văn-thù nói:

– Ông không nghe Đức Thế Tôn nói tất cả các pháp giống như huyễn hóa sao? Ông tin lời này không?

Thiên tử đáp:

– Vâng, tôi tin.

Bồ-tát Văn-thù nói:

– Sự biến hóa của nhà ảo thuật lẽ nào có đầy đủ mười trụ địa sao?

Thiên tử đáp:

– Không có.

Bồ-tát Văn-thù nói:

– Ví như ảo thuật gia biến hóa ra có chỗ đến, có chỗ vào, tôi nghe đức Thế Tôn giảng thuyết tất cả các pháp đều như huyễn hóa nên không có chỗ nhập vào. Này Thiên tử! Giả sử có người muốn giảng thuyết về chỗ nhập vào địa thì phải nói là không nhập, không có nơi đến. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có chỗ nhập vào, pháp không đến pháp, sắc không nhập vào thống (thọ), thống không nhập vào tưởng, tưởng không nhập vào hành, hành không nhập vào thức, thức không nhập vào sắc, sắc không nhập vào thức. Nói tóm lại, tất cả đều do bốn chủng, bốn đại tạo thành. Mắt không nhập vào tai, tai không nhập vào mắt; mũi, miệng, thân, ý cũng lại như vậy. Thân không nhập vào ý, ý không nhập vào thân. Tại sao? Vì các pháp này, chỗ hướng đến của chúng đều có cảnh giới đặc biệt khác nhau, vì tối tăm, không có tưởng, không có sự nhận thức phân biệt về uế tạp, chướng ngại. Ví như cỏ cây, gạch, đá, tường vách, hình ảnh, tiếng vang, không có ngôn từ tức là cùng một loại tướng nên không có chỗ nhập vào, không đến, không đi. Thiên tử nên biết, nếu có Bồ-tát hiểu pháp như vậy thì đối với các pháp không có nhập vào, chẳng phải không có nhập vào, không có tưởng, chẳng phải không có tưởng, không thấy nhập vào đạo, không bỏ địa, đối với đạo Chánh chân vô thượng không hề thoái chuyển. Không có chỗ nhập vào là ở nơi pháp không mất. Vì sao? Vì các ấm, nhập đều là tự nhiên; không mất tất cả sự chân chánh, thanh tịnh của chúng sinh. Đó là Bồ-tát nhập vào địa. Ví như nhà ảo thuật biến hóa ra lầu gác gồm mười tầng chồng lên nhau, lại hóa ra nhiều người ở khắp trên đó. Này Thiên tử! Ý ông nghĩ thế nào? Có người ở trong các lầu gác đó chăng?

Thiên tử đáp:

– Không có.

Bồ-tát Văn-thù bảo Thiên tử:

– Mười địa của Bồ-tát nên quán sát như thế, cũng giống như huyễn hóa.

Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:

– Giả sử có người đến xin muốn được xuất gia làm Sa-môn, thì giáo hóa như thế nào? Tại sao phải cạo bỏ râu tóc? Sao phải thọ giới cụ túc? Tại sao vị giáo thọ bảo họ nên tự giữ gìn?

Bồ-tát Văn-thù bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Giả sử có người đến chỗ ta xin làm Sa-môn, thì ta bảo với thiện nam ấy: Nếu không phát tâm muốn được xuất gia thì tôi sẽ cho ông làm Sa-môn. Vì sao? Vì vị ấy có lập chí muốn xuất gia thì tâm không có chỗ trở về. Vị ấy không có chỗ trở về, cũng không có chỗ đến. Vị ấy không từ đâu đến thì không đi về đâu, trụ vào tất cả pháp không có chỗ đoạn dứt, tức là trụ nơi “không gốc”. Vị ấy trụ nơi “không gốc” rồi, qua lại trong pháp giới mà không hề chuyển động. Vị ấy ở trong pháp giới mà không có sự chuyển động tức là không chấp tâm. Vị ấy không chấp tâm là không mong muốn xuất gia.

Vị ấy không mong muốn xuất gia tức là không phát tâm làm Sa-môn. Vị ấy không phát tâm làm Sa-môn tức là không sinh. Vị ấy không sinh tức là diệt sạch các khổ. Vị ấy diệt sạch các khổ tức là hoàn toàn giải thoát. Vị ấy hoàn toàn giải thoát tức là không có sự giải thoát, không có sự giải thoát tức là không thể tận diệt. Vị ấy không thể tận diệt là không có chỗ hành. Thiên tử hiểu như vậy rồi thì nên vì người ấy giải thích nghĩa này. Vị ấy đến chỗ ta cầu xin xuất gia, ta bảo thiện nam ấy chớ phát tâm làm Sa-môn. Vì sao? Vì tâm vốn không khởi, liền xa lìa tăm tối.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bảo thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Giả sử có người đến chỗ ta cầu xin xuất gia, Ta sẽ bảo: “Này thiện nam! Ông không cạo bỏ râu tóc mới là đầy đủ nghiệp Sa-môn.

Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:

– Lời này là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Như Lai thuyết pháp không có chỗ trừ bỏ, cũng không có chỗ hủy hoại.

Lại hỏi:

– Không trừ bỏ cái gì?

Đáp:

– Không trừ bỏ sắc, cũng không có chỗ hủy hoại, không trừ bỏ thọ, tưởng, hành, thức, cũng không có chỗ hủy hoại. Giả sử nghĩ: “Ta bỏ râu tóc” tức là trụ nơi ngã, chấp mình có thân; không chấp ngã, không tự tham thân thì thấy bình đẳng. Tham chấp thân mình mới chấp râu tóc thì thành chúng sinh. Nhớ nghĩ đến sự trừ bỏ, vị ấy không nắm bắt mình, không nắm bắt người khác, không ta, không người, tức là không có ngã; đã không có ngã, không chấp có thân thì bỏ râu tóc không có nhớ, không có nghĩ. Vị ấy không có nhớ, không nghĩ, không tương ưng chẳng phải không tương ưng, không trụ nơi các loại tưởng. Vị ấy không trụ vào các loại tưởng thì không có lời dạy bảo. Vị ấy không có lời dạy bảo thì không tiến, không lùi, không đôi, không đơn, không tham đắm thân mình, không mặc ca-sa. Ca-sa của vị ấy là không cấu nhiễm. Vị ấy không có cấu nhiễm thì không sở hữu. Vị ấy không sở hữu tức là không có chỗ trụ. Vị ấy không có chỗ trụ tức là rỗng không, vắng lặng. Vị ấy rỗng không, vắng lặng chính là xuất gia.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Gọi là nhớ nghĩ, vậy điều nhớ nghĩ của vị ấy là gì?

Bồ-tát Văn-thù trả lời:

– Bình đẳng đối với các pháp, không có hình tướng, không tên gọi, chỗ khởi niệm của phàm phu ngu muội là có nhiều vọng tưởng. Cho nên, Đức Thế Tôn dạy, đối với các pháp không có chỗ tạo tác, cũng không có hao mất, đó gọi là nhớ nghĩ.

Lại hỏi:

– Thế nào gọi là tạo tác?

Đáp:

– Này Thiên tử! Phải bình đẳng hóa độ, đã bình đẳng hóa độ rồi, vị ấy đối với các pháp không có thủ đắc, không chứng đắc cũng không có chỗ đạt đến, không xét đoán, không thực hành, cũng không phải là không thực hành. Đối với các pháp ấy không khởi trụ bình đẳng, không tưởng về ngã, lại cũng không chấp nhân, thọ mạng, thức, chúng sinh ưa thích, đoạn diệt, chấp thường còn, các ấm, nhập tưởng, pháp Phật, chúng sinh, cũng không nhớ nghĩ đây là giới, đây là phá giới, phiền não, điên đảo, tạo lập, chứng quả, vọng tưởng, cầu vượt qua, dấu tích của đạo, đến, đi, không trở lại, không chấp trước, vọng tưởng về Duyên giác, bám víu vào Chánh giác; đây là thiện, đây là ác, đây là tội, đây là phước, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là nghiệp thế tục, đây là nghiệp xuất thế tục, đây là hữu vi, đây là vô vi, đây là không, vô tướng, vô nguyện, đây là minh, vô minh, đây là giải thoát, đây là lìa dục, đây là sinh, đây là tử, đây là diệt độ, phát khởi bao nhiêu là loại tưởng như thế, tập đạo, hành pháp như vậy, là sự nhớ nghĩ của phàm phu ngu muội. Còn việc làm của phàm phu ngu si là cao ngạo, tự đại. Những người này bị che phủ do chỗ kiến chấp của ma và quyến thuộc của ma. Vì thế, Đức Như Lai vì những hạng người này mà diễn bày ngôn từ, khiến cho họ cạo bỏ râu tóc, ở năm ấm, phụng tu năm phẩm: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý tán thán Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Lành thay! Lành thay! Bồ-tát đã thật khéo nêu giảng! Đúng như lời Nhân giả đã chỉ dạy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Giả sử có người đến xin xuất gia, ta sẽ bảo: Nếu thiện nam không thọ giới cụ túc thì chính là ông đã đạt đầy đủ sự xuất gia.

Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Lời nói này là thế nào?

Đáp:

– Chỗ hướng đến của Thiên tử Thiện Trụ Ý là gì? Sao gọi là giới cụ túc? Giới cụ túc có hai loại. Một là giới chánh chân, hai là giới tà vạy. Giới tà vạy là thế nào? Là rơi vào điên đảo. Sao gọi là điên đảo? Là chấp lấy ngã, nhân, thọ mạng, trói buộc nơi đoạn diệt, chấp có thường còn, hoặc rơi vào tà kiến, tham dục, sân giận, ngu si, cao ngạo, tâm tự đại, hoặc ở nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc mà nhớ đến sự buông lung, vọng tưởng, rơi vào sinh, diệt, khơi dậy dấu tích của tà vạy, không phân biệt thiện ác, tìm cách diễn bày lời sai quấy, không nhận biết chỗ hướng đến, rơi vào vô minh, trụ nơi các tà kiến. Giáo pháp như vậy đều trái với chánh luật, gọi chúng là tà vạy. Vì sao? Vì đạo vốn rỗng lặng, bình đẳng. Pháp bình đẳng theo chỗ hành của Bồ-tát vẫn không bị thoái chuyển. Này Thiên tử! Tuy không theo bạn ác nhưng không hiểu điều cốt yếu, vững chắc của sự quay về nên đối với các sự thọ nhận, nhận lấy điều không nên nhận rồi thực hành một cách buông thả, đó gọi là giới tà. Hoặc hỏi về tuổi tác và sự tu hành để theo người đó thọ nhận thực phẩm của tín thí, rồi lại theo người khác xuất gia làm Sa-môn, mong cầu người đảnh lễ, đón tiếp, không thể trừ diệt tham dục, sân giận, ngu si, đó là giới tà. Thế nào gọi là giới chánh? Giả sử tu tập một cách đúng đắn, không tưởng về bình đẳng. Đó là giới chánh. Tất cả các pháp hiểu rõ chúng là không, vô dấy khởi khởi niệm tu chứng, thực hành một cách kỹ càng, không có tưởng, chẳng phải là không có tưởng, không có tương ưng, chẳng phải là không tương ưng. Đó là giới chánh.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiện Trụ ý:

– Giả sử ở nơi chốn tham dục, sân giận, ngu si, vô minh, khát ái, rơi vào nơi tham thân, theo sáu mươi hai thứ kiến chấp, hoặc bốn điên đảo, ba phẩm hành ác, tám tà, chín phiền não, chín thần chỉ xứ, mười nghiệp bất thiện, tuy ở trong đó nhưng không bị ràng buộc thì đấy là giới chánh. Ví như tất cả vạn vật, trăm thứ thóc lúa, cỏ cây, các loại thuốc được sinh ra là đều do từ đất mọc lên và được nuôi lớn. Đất ấy thản nhiên không hề nhớ nghĩ, cũng không cho ta là mảnh đất tốt tươi. Này Thiên tử! Việc giáo hóa lớn thành tựu được là đều do giới lập nên. Muốn thành tựu đầy đủ về việc kiến lập đạo pháp thì hành giả tu ba mươi bảy phẩm, không tưởng về pháp, không có chỗ đặt để, không niệm về giới đầy đủ, thành tựu và không thành tựu, không chấp vào cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, không bị mê lầm, nương tựa ba cõi. Đó gọi là giới cụ túc. Nếu lập giới cấm làm thành các pháp tín, các pháp nhẫn, tâm tánh hòa dịu, nuôi dưỡng thành đạo, kiến lập hạnh như vậy, dốc tâm tin giới, liền thành tựu chỗ cốt yếu của ba mươi bảy phẩm đạo pháp. Đó là Giới cụ túc của Thanh văn, Duyên giác, chư Phật trong đời quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến ba môn giải thoát, hóa độ những người xuất gia được siêu việt.

Thiên tử Thiện Trụ Ý nói:

– Rất hay, thật khó sánh kịp! Bồ-tát Văn-thùsư-lợi khéo giảng nói về giới cụ túc. Người có thể thọ giới cụ túc như vậy tức là hành nghiệp chân chánh, chẳng phải là nghiệp tà vạy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Giới cụ túc của người xuất gia như vậy, nếu ở đấy được vị giáo thọ truyền trao, ban bố đầy đủ như thế thì thiện nam ấy không phát sinh giới. Đó là học giới.

Thiên tử hỏi:

– Lời nói này nghĩa là gì?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Tất cả các pháp đều không có chỗ sinh khởi, cũng không có chỗ thọ nhận. Vị ấy có thọ lãnh giới tức là thọ nhận ngã, cũng chấp vào ba cõi nên sinh ở trong đó. Ý của Thiên tử nghĩ sao? Thế nào gọi là giới?

Thiên tử đáp:

– Giữ gìn hạnh Sa-môn, gồm có hai trăm năm mươi điều.

Lại hỏi:

– Sao gọi là giữ gìn?

Đáp:

– Bảo vệ thân, miệng, ý gọi là giữ gìn.

Hỏi:

– Hai trăm năm mươi điều đầy đủ đều là giới cụ túc, không phải là thân hành, cũng không có đối tượng tạo tác, cũng không nên tạo tác thì sao có thể ở chỗ có nơi chốn? Màu xanh, vàng, trắng, đen, hồng, tím, là có chỗ hướng đến chăng?

Đáp:

– Không có.

Lại hỏi:

– Cớ sao không có?

Đáp:

– Do chúng không thể có nơi chốn.

Hỏi:

– Vì sao?

Đáp:

– Vì không có chỗ hành.

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi:

– Cái không có, có thể gọi là thuyết giảng chăng? Sự vật là như vậy chăng?

Đáp:

– Không thể.

Bồ-tát Văn-thù nói:

– Này Thiên tử! Vì vậy ông nên dấy khởi pháp quán này: Đã gọi là giới cấm thì không thể thọ lãnh. Ở đây nói ưa thích giới cấm tức là đầy đủ giới đức. Tâm của vị ấy thanh tịnh, hòa dịu, trí tuệ thông suốt, hành giả như vậy đều không có sở hữu thì không có gì làm lay động, hoàn toàn không có chỗ hướng đến. Giới không có cái để đạt được là giới chân thật, không nắm bắt nơi chốn của tâm là tâm thanh tịnh, không đạt đến trí tuệ là trí tuệ chân thật, tâm không tạo tác là không có chỗ nhớ nghĩ. Vị ấy không có chỗ phát sinh, đó gọi là giữ gìn tâm. Giới được đầy đủ đều như vậy. Thực hành giới, trí tuệ như thế, không nắm bắt chỗ của tâm, không nghĩ về giới cấm, không đạt đến trí tuệ. Nếu có thể hiểu rõ về trí tuệ không nơi chốn thì tất cả đều hòa hợp không có các nghi ngờ, nhận thức rõ về đạo giáo, không thấy nghĩa bất thiện của các pháp. Vị ấy đối với các pháp không thấy bất thiện thì không thọ giới. Vị ấy không thọ giới cũng không phá giới. Vị ấy muốn học giới tức vị ấy tu giới. Vị ấy tu giới tức không bị lùi lại. Vị ấy không bị lùi lại nên được gọi là giải thoát. Vị ấy giải thoát tức không bị ràng buộc. Vị ấy không bị ràng buộc tức là vô lậu. Vị ấy vô lậu tức là thực hành bình đẳng. Vị ấy thực hành bình đẳng tức là không không có chỗ chứng đắc, cũng không thọ giới. Vì vậy, các pháp bình đẳng như hư không, vì biết chúng là không. Vì sao? Vì hư không ấy tức là không có chỗ hành. Này Thiên tử! Học giới như thế thì không có giới cấm. Cấm giới ấy thì cái gì gọi là giới! Vị ấy không học giới, học giới nên như vậy tức là học cái không. Sao gọi là không? Không ưa thân, miệng, không thích tâm ý của mình, không có nhiễm, chẳng phải là không có nhiễm, đó là giới của Hiền Thánh.

Người trụ như vậy tức là không có chỗ trụ. Vị ấy không có chỗ trụ là học giới bình đẳng. Thiên tử hãy lắng nghe, người xuất gia làm Sa-môn như vậy là đầy đủ giới, hoặc đấy là ý nghĩa của giới cấm. Giả sử người ấy có thực phẩm, y phục đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới thì những vật hiện có trong đó đều có thể thanh tịnh cả. Công dụng của vật thực là cứu giúp rất nhiều đối tượng, hoàn toàn là có thực, tất cả đều nhờ giới thanh tịnh đưa đến như vậy.

Thiên tử lại hỏi:

– Hôm nay Bồ-tát Văn-thù thuyết pháp này cho ai?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Vì những người thọ nhận sự bố thí, những người có thể gần gũi. Những người ấy hoàn toàn thanh tịnh, có thể đạt đến nghĩa này, như vậy mới là thanh tịnh. Vị ấy không gần gũi, không thọ nhận, không đạt đến người này, không nhớ nghĩ, không tu tập, không tư duy về ai thọ nhận, ai gần gũi, ai có thể hoàn toàn thanh tịnh, như vậy mới chính là chánh tịnh. Vị này đáng xưng dương là Đấng Chúng Hựu (Thế Tôn). Tất cả các pháp rốt ráo đều là không, không có chỗ phát sinh trí tuệ. Đó là đấng Chúng Hựu vô cùng thanh tịnh. Hàng phàm phu có thể đầy đủ bậc Chúng Hựu nhưng La-hán thì không thể. Vì sao? Vì hàng phàm phu có thể thọ nhận, gần gũi, đạt đến sự nhận thức phân biệt, tư duy tinh tường. Ta nên thưa hỏi, thọ nhận, tư duy quán sát, thực hành, có thể bố thí, có thể thương yêu, tức là có thể hoàn toàn thanh tịnh: Sao gọi là hoàn toàn thanh tịnh? Xoay vần qua lại, chết rồi lại sinh. Chỗ sinh ra, các căn được trong sạch. Bậc A-la-hán không có nghĩa của các ấm, nhập, không thể xoay vần thì sao có thể hoàn toàn thanh tịnh? Ai là người thanh tịnh thì vị ấy nhận lãnh phước đức khất thực, do chủ bố thí, làm thanh tịnh ba phẩm tràng, sau đó nhận thức ăn. Ba phẩm là gì? Một là không chấp ngã, cũng không có người nhận. Hai là không chấp người thí cũng không vật bố thí. Ba là không chấp nơi sinh tử xoay vần và cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh. Đó là ba. Người thanh tịnh như vậy thì không có cái hoàn toàn thanh tịnh. Này Thiên tử! Vì thế ta nói lời này, thực phẩm, y phục, hiện có khắp ba ngàn đại thiên thế giới đều có thể hoàn toàn thanh tịnh, không có chút gì chướng ngại. Đó là Đấng Chúng Hựu chân chánh ở đời, mới là người xuất gia, gọi là Sa-môn.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử Thiên Trụ Ý:

– Người xin xuất gia, ta phải bảo: Nếu muốn xuất gia làm Sa-môn thì thiện nam không ở nơi nhàn rỗi thanh vắng, không ở nhân gian, không xa, không gần, chẳng sinh, chẳng diệt, không ở một mình, không ở nơi nhiều người, không ở trong chúng hội, không ở nơi che khuất, không đi khất thực, không nhận người mời, không mặc y rách, không mặc y phục chằm vá nhiều mảnh, không mặc y phục bạch y, tại gia, không ở nơi hoang vắng, không ở phòng nhà, không cầu ít, cũng không cầu nhiều, không biết vừa đủ, cũng không có gì không đủ, không tu hành, cũng không phải là không tu hành, không gò bó cũng không buông thả, không trí, không ngu, không tuệ, không ám; thực hành về những thứ không như vậy không như đây mới là đầy đủ. Vị ấy chấp thân ta có cử động, lui tới, nếu ở nơi vắng lặng thì hành khất thực, quán sát trí tuệ của mình, không xa lìa sự sáng suốt. Này Thiên tử, những người này không đạt được nghĩa chân chánh về sự quán sát không tuệ. Đây là phát khởi tâm có sự tao tác. Vì sao? Vì đối với vị ấy như thế là mong cầu vọng tưởng, vướng mắc nhiều chỗ, thân mình còn không có huống gì có người khác, các pháp trở về ”không tuệ” thì thấu đạt về vô sinh, sao lại muốn gò bó về công đức, ở nơi vắng vẻ một mình? Chưa từng có việc ấy! Này Thiên tử! Vì vậy, vị nào có thể chế ngự như vậy, bình đẳng trong việc tu hành, không vọng tưởng thì ta bảo vị ấy biết chế ngự lớn. Nếu Thiên tử chế ngự tham dục, sân giận, ngu si thì hiểu rõ năm ấm, bốn đại, các loài ở trong ba cõi, nhập vào sự chế ngự vô tận này để biết vừa đủ, không nhận lấy, không xả bỏ, không để tu hành cũng không phải là không tu hành, không có sự điều hòa, không phải là không điều hòa, không vắng lặng, không khiến cho diệt tận. Vị ấy có thể chế ngự được. Pháp như vậy là không cùng hòa hợp với phiền não trong ba cõi. Vị ấy mới gọi là người biết chế ngự, chỗ dừng thanh tịnh là không nơi chốn, không có chỗ chấp. Lại nữa, này Thiên tử! Giới cụ túc của Như Lai, nếu có người đến cầu xin đầy đủ giới cấm thì ta sẽ vì người đó mà nói: Này thiện nam! Không biết Khổ đế, không đoạn Tập đế, không chứng Diệt đế, không tu Đạo đế, hành giả như thế thì có thể thấy đế chân chánh. Vì sao? Vì đế chân chánh thì không có Khổ đế, không có đoạn Tập, không có Tập, chẳng tu tập, cũng không có Diệt, không vì chứng Diệt, cũng không có Đạo, hành không mục đích. Này thiện nam! Không phụng hành bốn ý chỉ mới là bình đẳng. Vì sao? Vì cho là không có ý cũng không có niệm, không cầu các pháp, đó là thân mình, tạo dựng chỗ trụ của ý thì vị ấy không có ý, không có chỗ nhớ nghĩ, không có thân thọ, không có tâm, không có pháp, thì lo sợ gì có hoạn nạn? Nếu không thực hành Bốn ý chỉ, đó là thành tựu đầy đủ pháp thiện. Vì sao? Vì pháp thiện thì không có chỗ bất thiện ở trước nó, cũng không có pháp thiện, không đoạn diệt, không sinh khởi. Không đoạn diệt, không sinh khởi, đó gọi là nghĩa Đế bình đẳng, chân chánh, an ổn. Vị ấy đạt đến bình đẳng, như vậy mới gọi là hạnh bình đẳng. Này thiện nam! Nếu không thực hành Bốn thần túc, không có buông lung, thực hành Bốn đẳng tâm, Năm căn, Năm lực và Bảy giác ý, Tám chánh đạo, thì ngang bằng với việc phụng hành ba mươi bảy phẩm pháp, không đề cao, không hạ thấp, không nói năng. Đó gọi là hành đạo. Này thiện nam! Chú tâm vào ba mươi bảy pháp đạo phẩm thì đối với các âm thanh từ lời dạy của Hiền Thánh không bị cuốn theo dòng chảy. Nếu có thể chuyên tu tập noi theo sự tu hành ấy thì không nhận biết các pháp, cũng không tạo sự tu chứng. Vì sao? Vì điều này có thể cho ba mươi bảy pháp đạo phẩm chỉ có giả danh thôi, quán sát về giả danh ấy do vọng tưởng sinh ra, xem xét tướng của chúng cũng không có tướng thì bị nước cuốn trôi cũng nhờ đó xoay vần trở lại, sự xoay vần ấy không có tác hại, loại bỏ danh này rồi thì không có chỗ chứng đắc, giống như quán sát ba mươi bảy pháp đạo phẩm, cũng không có chỗ đoạn trừ.

Thiên tử lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Thế nào gọi là Tỳ-kheo ưa thích tu hành một mình ở nơi thanh vắng?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Giả sử phân biệt các pháp cùng một loại tướng bình đẳng như hư không, đều không có pháp tu tập, không có chúng sinh, đó gọi là tu hành. Lại nữa, tu hành là không ở đời này, không do đời sau, ở trong ba đời đều không có chỗ tu hành, cho đến tất cả pháp cũng không có gì tu tập, hiểu rõ các pháp hư giả, không thật, đó là tu hành. Việc tu hành ấy tức là đối với các pháp không có đôi, không có đơn, không có tương ưng, chẳng phải là không có tương ưng, đó là tu hành.

Khi đó, vô số người trong chúng hội đều ngần ngại không quyết định, tâm sinh ra nghi ngờ: “Đây là nghĩa gì? Phải tu tập như thế nào? Do gì mà bày tỏ? Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác diễn nói ba môn giải thoát, chứng được Niết-bàn, nếu có thể tạo được sự tu chứng ba mươi bảy pháp đạo phẩm thì đạt đến diệt độ. Nay Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói như thế không phải là điều làm rối loạn giáo pháp sao?”.

Ngay lúc ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhận biết sự hoài nghi trong tâm của tất cả chúng hội và các Tỳ-kheo, nên nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Này Nhân giả! Ông vì đại chúng gánh vác việc lớn nên làm cho hết thảy đều tin tưởng đó là điều được Như Lai, bậc Đại Trí Tuệ tối thắng khen ngợi. Lại nữa, này Hiền giả! Thân xa lìa pháp dục nơi trần tục để tạo lập sự tu chứng. Nhân giả! Từ lâu chỉ mong đạt được bốn đế và tạo sự tu chứng ba mươi bảy phẩm và ba môn giải thoát sao?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Không. Tôi không nắm bắt pháp, nên đâu có thể tạo lập sự tư duy và tu hành. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có chỗ nhận thấy, cũng không có chỗ sinh ra, rỗng lặng, không có lời dạy về “không”, không chứng “không”.

Khi giảng nói lời này, có ba vạn Tỳ-kheo dứt sạch hết các lậu, tâm ý giải thoát.

Thiên tử Thiện Trụ Ý khen ngợi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Đúng là Nhân giả đã dùng trí tuệ để tuyên giảng pháp nhẫn sâu xa vi diệu, làm phát khởi hạnh “không”.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Tôi không dùng trí tuệ, chỉ tất cả kẻ phàm phu mới mong cầu dùng trí tuệ. Vì sao? Vì những hạng ấy luôn nắm giữ, khiến chuyển thành hai thứ chỗ chấp, rơi vào các nẻo địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, các trời và loài người, điều nhận biết bị dẫn dắt. Giả sử Thiên tử vì ba cõi mà lần lượt dẫn dắt, xoay vần không có giới hạn thì chỗ hướng đến chẳng phải là một, chỗ thọ thân sinh ra cũng đều khác nhau, đó là sự dẫn dắt, theo sự xuống lên của nó. Sự dẫn dắt, như vậy nối tiếp không ngừng, do đó, họ không nhận biết “bản tế”, ở trong nguồn gốc phiền não khổ vui của sinh tử. Lại nữa, này Thiên tử! Phàm phu ngu muội không có trí, không nghe biết, cùng với dục hòa hợp; đối với sân giận, ngu si cũng hòa hợp như vậy. Báo ứng, các kiến chấp, danh sắc cùng lẫn lộn với phiền não. Chư Phật, Bồtát, Duyên giác, Thanh văn đạt đến pháp nhẫn nên không bị sự dẫn dắt xuống lên. Vì sao? Vì những bậc này, thân miệng ý chưa từng sinh khởi tạo lập, chỗ xoay chuyển không nắm bắt thì lên xuống nơi chỗ nào trong ba cõi? Cho nên, những vị ấy luôn dẫn dắt trí tuệ. Nếu càng thọ thân không buông bỏ là nắm giữ trí tuệ.

Thiên tử lại hỏi:

– Nhân giả đã nói đến sự hủy hoại trí tuệ chăng?

Đáp:

– Không.

Lại hỏi:

– Vì sao phải hủy hoại khiến không còn có chỗ đoạn trừ?

Đáp:

– Những người học này là những người hủy hoại trí tuệ. Nếu không hủy hoại, không có chỗ đoạn trừ thì không có trí tuệ tịch diệt.

Lại hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Nhân giả không có điều này chăng?

Đáp:

– Không có.

Lại hỏi:

– Vì sao vậy?

Đáp:

– Vì có dẫn đi thì có trở lại. Nếu có đi lại thì có việc này. Nếu ai không có đi thì không có trở lại, hiểu rõ các pháp có xoay vần thì không có sự dẫn đi, cũng không có sự trở lại.

Lại hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Chương cú nào là đứng đầu?

Đáp:

– Câu nêu về “Ngã” như vậy là đứng đầu.

Lại hỏi:

– Nghĩa là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

Nếu có Bồ-tát đối với nghĩa của một chữ, một câu mà không động thì đối với câu ấy còn trở lại phân biệt về bốn nghĩa. Những gì là bốn câu giải thích? Một là luôn luôn xét kỹ. Hai là hiểu rõ nghĩa “không”. Ba là phân biệt không có hình tướng nên đều không có chỗ sinh khởi. Bốn là đối với các đối tượng nhận biết không cho là nhận biết, không cho là hoạn nạn, không tạo tác hai việc. Đó là các câu đứng đầu.

Khi ấy, Đức Phật khen ngợi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:

– Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mới có thể tuyên giảng, đạt đến nghĩa “Tổng trì”.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

– Con không có “Tổng trì”. Vì sao? Vì không có chỗ chứng đắc nên không có thể nắm giữ. Kẻ phàm phu ngu muội mới đạt đến “Tổng trì”. Chư Phật, Bồ-tát không có chỗ đạt đến. Vì sao? Vì người mê lầm thì có nhiều chỗ nắm giữ. Nắm giữ ở đâu? Nương vào ngã chấp nhân, thọ mạng, nắm giữ đoạn diệt và chấp có thường còn, chấp chặt về tham dục, sân giận, ngu si, ôm giữ vật sở hữu, khát ái, tham thân, tự thấy năm ấm, bốn đại và các nhập, tư tưởng nhiều suy nghĩ để trở lại mong cầu, rơi vào sáu mươi hai thứ nghi của bao nhiêu tà kiến, có chỗ đạt được thì vội nắm giữ. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Kẻ phàm phu ngu muội đạt được “Tổng trì”. Vì sao? Vì phàm phu ôm giữ pháp ở trong tâm niệm. Chư Phật Thế Tôn đều không có chỗ nắm giữ. Thanh văn, Duyên giác, các Bồ-tát cũng như vậy. Cho nên, phàm phu đạt được Tổng trì.

Bấy giờ, Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Vănthù-sư-lợi:

– Vừa rồi Nhân giả nói không đạt được Tổng trì thì phải dùng ý nào để giáo hóa năm đường?

Đáp:

– Năm đường ấy không có chỗ tạo tác. Vì sao? Vì ta đã tiêu trừ đầu mối của năm đường rồi, khiến các đường đó không biết nơi chốn. Chỗ hướng đến của chư Phật, Duyên giác, Thanh văn, kẻ phàm phu ngu muội không thể hướng đến được. Vì sao? Vì phàm phu phần nhiều rơi vào sinh tử. Các bậc minh trí tiêu trừ các đường, bậc Tu-đà-hoàn (Đạo tích) cũng vậy, còn không xa lìa sinh tử, huống gì đối với phàm phu ngu muội? Cho nên, thân ta tiêu trừ các đường tức không đạt được “Tổng trì”. Vì sao? Vì không có chỗ đạt đến được thì nắm giữ cái gì?

Khi giảng nói lời này, trong chúng hội có năm trăm Tỳ-kheo phỉ báng kinh này, bỏ đi, thân hiện tại liền bị rơi vào địa ngục lớn.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Nhân giả hãy dừng lại, chớ giảng tiếp pháp sâu xa ấy! Năm trăm Tỳ-kheo nghe kinh này đã nghi ngờ, không bằng lòng hội nhập, tự ý nhục mạ, tự cho mình tôn quý, nên bỏ đi. Tâm phỉ báng, làm rối loạn kinh điển rộng lớn thì thân hiện tại bị rơi vào đại địa ngục.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chớ có nói lời này, chớ giữ tâm nghi ngờ, chớ có xét đến đúng sai, chớ do dự, không thấy có pháp rơi vào địa ngục, chỉ quán sát các pháp không có phỉ báng. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có chỗ sinh khởi, chỉ nhằm vì Tôn giả mà nói lời ấy. Tôn giả khiến tôi ngừng nghỉ không giảng nói kinh điển này. Giả sử, thiện nam từ thiện nữ nhầm lẫn, nương chấp vào tưởng ngã, nhân, thọ mạng, hoặc hằng hà sa kiếp cúng dường Như Lai, hầu hạ Thánh chúng, tùy theo nhu cầu an ổn, đều cung cấp mọi sự cần thiết, suốt cả cuộc đời cũng không lười nghỉ; hoặc có người nghe giáo pháp sâu xa vi diệu này cho là khó hiểu. Pháp khiến tất cả thế gian có thể mong nghe là ý nghĩa về không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát, vắng lặng, trở về nơi diệt độ, không sinh, không diệt, không nhân, thọ mạng, vô thường, khổ, không, vô ngã, hoặc có thể được nghe những kinh như thế này; nghe mà phỉ báng thì thiện nam thiện nữ ấy bị rơi vào địa ngục lớn; ở trong địa ngục bỗng nghe kinh này liền được thoát ra, luôn tin tưởng kinh sâu xa mà được giải thoát. Thiện nam thiện nữ trải qua hằng hà sa kiếp cung kính Như Lai, cúng dường Thánh chúng, nhưng vì chấp vào ngã, nhân và thọ mạng mà không đạt đạo thì nghe pháp này mau được giải thoát.

Đức Phật khen ngợi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Bồ-tát đã nói! Kinh này tôn quý vi diệu, nếu xuất hiện trong đời giống như Đức Phật xuất hiện không có gì sai khác. Đối với Đạo tích, Vãng lai, Bất hoàn, Vô trước (Bốn quả Thanh văn) và đối với thừa Duyên giác, Bồ-tát, Đại thừa đều được thọ ký. Đây là tôn quý nhất, rất ít kinh sánh bằng. Vì sao? Vì không chấp ngã, nên chỗ tu tập bình đẳng, không có gì nắm bắt, cho đến Niết-bàn cũng lại như vậy. Giả sử có nhớ nghĩ, nhận biết, nói có chỗ chứng đắc tức là rơi vào điên đảo.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Năm trăm vị Tỳ-kheo này ở trong địa ngục, mau chứng được diệt độ hơn người ngu ở nơi đây trăm năm giữ gìn giới luật; hết thảy dù biết ngừng đủ cũng rơi vào sáu mươi hai tà kiến điên đảo. Vì sao? Vì chưa từng được nghe pháp thâm diệu này, không có tướng giải thoát. Thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh sâu xa này lãnh hội, suy nghĩ, thì mau chứng đạt đạo quả Chánh chân vô thượng, hơn những người nghi ngờ khác, mê lầm rơi vào điên đảo. Trong khoảng khắc phát tâm, vị ấy tin tưởng, ưa thích kinh sâu xa này, tức mau chóng được giải thoát.

Thiên tử Thiện Trụ Ý hỏi Bồ-tát Văn-thù-sưlợi:

– Nhân giả! Lạc, Ngã, Tịnh, tu phạm hạnh không có cấu nhiễm chăng?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Này Thiên tử! Đúng vậy! Chính là tu phạm hạnh. Giả sử thân ông không khuyến khích phạm hạnh, không tu phạm hạnh mới có thể như vậy.

Hỏi:

– Nghĩa là thế nào?

Đáp:

– Vị ấy có sự nhận lấy, đó là tu hành. Vị ấy không nhận lấy thì tu tập ở đâu? Có thể gọi là tu hành chăng?

Thiên tử lại hỏi:

– Như hiện nay Nhân giả không tu phạm hạnh sao?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Không.

Lại hỏi:

– Chẳng hành tịnh hạnh chăng?

Đáp:

– Không tu tịnh hạnh. Như Thiên tử nói, thì vì những gì nên không tu phạm hạnh? Không nhà cửa, không phạm hạnh, không nhận lấy, không mê lầm, không có sự tu tập, cũng không phạm hạnh, không phải là không phạm hạnh. Giả sử người học đạo thanh tịnh; phạm hạnh thì không có sự tu tập, cũng không phải là chẳng tu tập, như vậy mới gọi là đại tịnh phạm hạnh. Này Thiên tử! Hành tham dục, sân giận, ngu si mới là chánh hành. Ra vào trong cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đó là tịnh hạnh. Thương xót chúng sinh, vị ấy không hành tham dục, sân giận, ngu si, không du hành nơi ba cõi, đó không phải là chỗ tịnh tu, cũng không có chỗ tu tập, mới gọi là hành.

Thiên tử Thiện Trụ Ý nói:

– Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã diễn bày biện tài không có chướng ngại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Giả sử ông nêu bày biện tài cũng không có chướng ngại, chứng được vô ngại biện, có chỗ thủ đắc chăng? Vì sao? Vì chấp ngã nên có chỗ bám víu tức là chướng ngại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Người muốn dùng hình tượng này để cầu phạm hạnh thanh tịnh thì dù Nhân giả không cần đao, kiếm, nhưng lại sát hại tất cả thân mạng chúng sinh; dù không cầm mâu, kích, ngói, đá, gậy to mà tự nhiên gây nguy hiểm mới là tâm từ.

Thiên tử lại hỏi:

– Lời này nghĩa là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Đó là nghĩa hướng đến của các loài chúng sinh.

Thiên tử nói:

– Giả có tên gọi thôi nhưng chấp có ngã, mới có chúng sinh, loài hữu tình nhận lấy tư tưởng nên gọi là chúng sinh; nương tựa nơi điên đảo, tham chấp có thân nên gọi là chúng sinh. Vì sao?

– Này Thiên tử! Tham chấp ngã, tưởng nhân, thọ mạng, do có giả hiệu mà diễn bày danh tự. Tôi sẽ dùng gươm trí tuệ sắc bén chặt bỏ sự nguy hại đó; luôn dùng nghĩa này để bảo vệ chúng sinh, khiến không thấy bị trói buộc, phải làm cho tiêu tan hết, không nhận biết chỗ trở về của các thọ, không có chỗ đoạn trừ. Này Thiên tử! Nên hiểu nghĩa này, trừ bỏ tưởng về ngã, tức là làm tiêu tan tất cả vọng tưởng của chúng sinh, không rơi vào sát sinh, không giữ tâm làm hại.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại nói với Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Muốn khiến cho thân ông được thanh tịnh, tu phạm hạnh thì hoặc có thể phạm mười nghiệp ác, cũng tùy thuận theo tất cả những việc tối tăm, lại không tu các pháp thiện.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Lời nói này nghĩa là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Làm bình đẳng những việc tối tăm, làm bình đẳng những việc trong sạch cũng như vậy.

Lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Những việc tối tăm dùng cái gì làm bình đẳng?

Đáp:

– Vì không có sự tạo tác, không lui sụt nên gọi là bình đẳng. Sự tối tăm của tất cả các pháp cũng như vậy. Sự tối tăm mà bình đẳng thì sự sáng tỏ cũng bình đẳng, vì không nghĩ tưởng.

Bồ-tát Văn-thù hỏi:

– Dùng duyên gì để tin tưởng nơi pháp trong sạch?

Thiện Trụ Ý đáp:

– Sở dĩ tin tưởng pháp trong sạch là dùng pháp giới không có nguồn gốc của chúng.

– Ý của Thiên tử Thiện Trụ thế nào? Có thể khiến không có nguồn gốc và pháp giới thì việc tu hành trở thành lẩn quẩn chăng?

Đáp:

– Không!

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo:

– Vì vậy, tôi nói, giả sử có thể thực hành bình đẳng những việc tối tăm, không tu trong sạch thì như vậy chính là tướng có thể tu tập phạm hạnh thanh tịnh.

Lại bảo Thiên tử:

– Nếu dùng kiếm đâm vào đầu, sát hại người ấy thì mới là tu phạm hạnh.

Lại hỏi:

– Nghĩa là thế nào?

Đáp:

– Diệt trừ tham dục, sân giận, ngu si, tự đại, cao ngạo, ganh ghét, dua nịnh, phóng túng v.v… để nhận lấy sự hy vọng theo các hành ấm, đó gọi là làm tổn thương. Này Thiên tử! Nếu có người tu hành tinh tấn, tự bảo vệ mình, tâm tham dục khởi lên liền diệt trừ, ngoài ra không xa lìa tịch diệt. Đó gọi là “không”, không nhập vào các điều trái nghịch. Hiểu rõ tâm dục, nhận biết như Chân đế nó vốn không thật có. Tâm này không từ đâu sinh cũng không từ đâu diệt thì ai đến làm cấu nhiễm? Ai bị cấu nhiễm? Lẽ nào có cấu nhiễm sao? Lại càng suy nghĩ, quán sát thì dục không thể nắm bắt được; không thấy người cấu nhiễm, cũng không bị cấu nhiễm, tức là không có chỗ chứng đắc; không có chỗ chứng đắc thì không có chỗ sinh khởi; không có chỗ sinh ra thì không có chỗ xả bỏ; không có chỗ xả bỏ thì không có chỗ nhận lấy; không có chỗ nhận lấy thì không có chỗ tu tập; không có chỗ tu tập thì gọi là thành tựu. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Năm ấm, sáu suy (sáu trần), mười hai nhân duyên, tâm không cấu nhiễm; hễ có phát khởi là có làm tổn hại, như vậy mới gọi là giết người, gây tổn hại; đánh vỡ đầu đó là nghĩa trở về.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Thiên tử Thiện Trụ Ý:

– Vì thế, tôi bảo nên làm hại như vậy là tu phạm hạnh thanh tịnh, cũng nên xa lìa Phật, pháp, và Thánh chúng.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Lời nói này nghĩa là như thế nào?

Bồ-tát Văn-thù đáp:

– Nghĩa là đạo tuệ.

Lại hỏi:

– Nên tin tưởng ở đâu?

Đáp:

– Nên tin tưởng ở chỗ “không gốc” và pháp giới.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Có thể nắm giữ “không gốc” và pháp giới không?

Đáp:

– Không. Vì vậy, tôi nói là nên xa lìa đối với Phật, pháp.

– Thánh chúng là thế nào?

Đáp:

– Nhân duyên hòa hợp nên gọi là Thánh chúng. Thánh chúng ấy không có tập hợp mà làm đệ tử của Phật nên gọi là Thánh chúng.

Lại hỏi:

– Ý của Thiên tử thế nào? Thánh chúng không có tạo tác, không có tập hợp thì có thể lìa dục không?

Đáp:

– Không.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Vì vậy tôi nói, nếu xa lìa Thánh chúng thì thích tu phạm hạnh. Lại nữa, này Thiên tử Thiện Trụ! Người nắm bắt quả vị Phật thì gọi là chấp, nắm bắt Thánh chúng thì gọi là chấp, không được lìa dục. Người xả bỏ chúng hội tức là lìa dục. Gọi là lìa dục tức là dấu tích của pháp giới.

Thiên tử Thiện Trụ Ý tán thán Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Khó sánh kịp! Khó sánh kịp! Thật chưa từng có!

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo:

– Thiên tử nên tu tập những việc không trở lại chuyển đổi, chớ nắm bắt sự hiếu thuận.

Lại hỏi:

– Thế nào là không hiếu thuận?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp

– Này Thiên tử Thiện Trụ Ý, tôi không trở lại cũng không phải là chẳng trở lại. Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Lời này nghĩa là gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời:

– Hễ có tạo tác hoặc hủy hoại thì đều phát khởi bao nhiêu sự việc nên đều hướng đến đường khác, thọ thân không giống nhau, đều chịu sự báo ứng. Kẻ ngu muội hiếu thuận đều có sự tạo tác liền chịu sự báo ứng, chấp vào vô lượng sự việc mà người ngu đã tạo ra, vì thân mà lâm cảnh hoạn nạn, hoặc bị thương tổn, hủy hoại; việc tiếp nhận những kiến chấp đều sai khác, hoặc chấp hoặc không chấp, lấy, bỏ, tiến, lùi, đó gọi là trở lại, hoặc không trở lại. Như Đức Phật, Thế Tôn đã diễn bày về bình đẳng, nghĩa là tất cả pháp đều không có sự tạo tác, không tạo tác nên cũng không vời lại, đều ở trong bình đẳng, chẳng có gì vượt qua, không thọ nhân cái gì khác, cũng không tạo tác vật gì khác. Đó gọi là không trở lại.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi:

– Nay Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trụ ở đâu mới có thể giảng nói kinh này? Trụ ở pháp nhẫn nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Không trụ nơi pháp nhẫn.

Lại hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Trụ ở đâu để nêu giảng như vậy?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Trụ ở chỗ người tạo các sự huyễn, thân cũng trụ ở đó.

Lại hỏi:

– Chỗ trụ của người tạo các huyễn như thế nào? Đáp:

– Như trụ nơi “không gốc”, người tạo các huyễn cũng trụ chỗ đó. Như vừa rồi Nhân giả hỏi trụ ở đâu để giảng nói về pháp nhẫn? Tôi đã nói pháp nhẫn chỉ là giả gọi mà thôi thì sao có chỗ trụ? Các pháp cũng vậy. Tất cả đều không có sự tạo tác, cũng không có nhớ nghĩ. Chúng không có chỗ trụ và nơi chốn. Người trụ như vậy mới vì chúng sinh giảng thuyết đạo pháp. Chỗ trụ của Như Lai cũng như vậy, để giảng nói nghĩa kinh. Vì sao? Vì trụ như “không gốc” mới có chỗ thuyết giảng. Tất cả chúng sinh cũng ở đó, trụ ở “không gốc” để có chỗ thuyết giảng. “Không gốc” của Như Lai không có cội gốc nên cũng không có khác, tất cả chúng sinh đều không lay động, “không gốc” cũng như vậy, cũng không lay động. Giống như chỗ tương ưng với “không gốc” của Như Lai, “không gốc” của chúng sinh cũng như thế, đều chỉ một “không gốc” không có hai, không có nhiều nên gọi là “không gốc”.

Thiên tử Thiện Trụ Ý lại hỏi Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Sa môn đã được nói là thế nào?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

Chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là Phạm chí mới là Sa-môn. Vì sao? Vì không chấp cõi Dục, không nương tựa cõi Sắc, không ở trong cõi Vô sắc thì ta mới cho đấy là Sa-môn. Nếu người mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không bám víu vào phiền não mới là Sa-môn. Người không có tâm tánh, không hòa hợp với các tình, không có nhân duyên cũng chẳng phải là không có nhân duyên mới là Sa-môn. Lại nữa, này Thiên tử! Người không chấp pháp, không chấp phi pháp, thực hành vắng lặng, không có tâm thị phi, an nhiên không dấu vết, đó gọi là Sa-môn. Vì sao? Vì ý nghĩa báo ứng của pháp nhân duyên ấy đều từ đấy sinh ra. Các pháp này cũng là hư giả. Người không chấp, không bị trói buộc, không thoát ra, đó gọi là Sa-môn. Người không có đi, cũng không trở lại, không tiến, không lùi, không bệnh, không tật, không thương tổn, không lành lặn, đó gọi là tu phạm hạnh thanh tịnh. Vì vậy, ta nói, chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là Phạm chí mới là Sa-môn.

Thiên tử Thiện Trụ Ý tán thán:

– Thật chưa từng có! Ý chí vững chắc, pháp thuyết giảng không có tên gọi, không dấu tích qua lại, không có chương cú. Ý nghĩa thành tựu không thể quên.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Ý của ta không mạnh mẽ. Vì sao? Vì thân tự phóng xuất ý, nên ý yếu không mạnh.

Thiên tử lại hỏi:

– Lời nói này nghĩa là gì?

Đáp:

– Ta dùng ý ở địa Thanh văn, trụ nơi cảnh giới Duyên giác, nên phóng ý. Lại phóng ý ở nơi các phiền não không ghét ái dục, các hoạn nạn tăm tối nên phóng ý.

Thiên tử Thiện Trụ Ý tán thán:

– Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi do đời trước đã cúng dường chư Phật, đầy đủ các hạnh nên giảng nói về thọ mạng của Như Lai như vậy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Ta không cúng dường chư Phật quá khứ. Vì sao? Vì ta chưa từng trải qua ở đời trước, cũng không có vị lai, không từ chư Phật kiến lập hạnh của pháp, không tạo tác, chẳng phải là không tạo tác, vì vậy đã tạo tác, nhưng không có chỗ tạo tác, tức không đầy đủ các hạnh.

Thiên tử Thiên Trụ Ý lại nói:

– Thưa Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, tôi chưa từng được nghe Tam-muội Như huyễn, mong Bồ-tát hiển bày về định ý, chỉ dạy về pháp chánh thọ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

– Ông muốn được nhìn thấy cảnh giới của Tam-muội Như huyễn chăng?

Đáp:

– Mong muốn được thấy.

Bồ-tát Văn-thù liền nhập vào Tam-muội Như huyễn. Lúc ấy, khắp mười phương, hằng hà sa cõi nước của chư Phật tự nhiên xuất hiện. Thiên tử Thiện Trụ Ý tự nhìn thấy hằng hà sa cõi nước của chư Phật ở phương Đông. Những cõi nước xuất hiện ấy đều có Bồ-tát Văn-thù, hoặc hiện thân mình, hoặc hiện hình Tỳ-kheo giảng thuyết kinh điển, hoặc lại hiện hình Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc như hình Đế thích, Phạm thiện, Tứ Thiên vương, Chuyển luân vương; hoặc giống như thân hình các chúng trời, rồng, quỷ thần, Càn-đạphòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưulặc. Hoặc hiện thân loài cầm thú v.v… bao nhiêu là loại hình. Ở tất cả cõi nước đều hiện ra vô lượng tướng mạo đẹp, xấu khác nhau để thuyết pháp nơi hằng hà sa cõi Phật. Xuất hiện ở khắp mười phương cũng đều như vậy, không có gì khác, đều là thuyết giảng kinh điển. Thiên tử Thiện Trụ Ý thấy việc này nên vô cùng vui mừng, không thể tự kìm chế. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ra khỏi Tam-muội. Thiện Trụ Ý cung kính đảnh lễ, bạch Bồ-tát Vănthù:

– Vừa rồi, tôi đã nhìn thấy cõi nước của chư Phật không thể tính kể, hình tượng vô lượng, mỗi mỗi đều khác nhau để thuyết giảng kinh điển.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi:

– Ý của Thiên tử nghĩ thế nào? Sự xuất hiện ở phương Đông là đúng thật chăng? Sự xuất hiện ở tám phương trên dưới là thật chăng, là giả chăng? Sự xuất hiện ở mười phương thì phương nào là chính xác?

Thiên tử Thiện Trụ Ý đáp:

– Tất cả đều là giả, không thật. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không có sinh khởi, giống như huyễn hóa, như tướng của người ảo thuật. Tất cả các pháp bị hoại diệt, không thường còn, tạo tác tự tại, hiện bày biến hóa, truy tìm tận gốc ngọn thì không sinh, không khởi, cũng không có chỗ diệt.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền khen ngợi:

– Lành thay! Lành thay! Thuyết giảng pháp phải như vậy. Đúng như lời đã nói!

Khi giảng nói lời này, trong chúng hội có năm trăm Bồ-tát, nhờ chứng được bốn thiền, đạt đến năm thứ thần thông nên nhận biết được đời sống trước đây của mình, những việc thiện ác đã tạo tác thuở xưa liền tự nhìn thấy. Lại nhận biết những việc đã làm như nghịch hại cha mẹ, giết A-la-hán, làm rối loạn Thánh chúng, phá hủy chùa, tháp Phật. Những nghiệp tội ác vốn đã phạm, những tai nạn còn chưa hết, luôn làm tổn thương tâm, ôm giữ những điều lo lắng, rơi vào các lưới nghi. Do những điều này nên không thể lãnh hội được pháp yếu sâu xa, chấp có ngã, ngã sở, ở trong sự che lấp nhỏ nhặt, vốn không dám xả bỏ, không đạt đến pháp nhẫn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn mở bày giáo hóa năm trăm vị Bồ-tát ấy, liền dùng oai thần thị hiện bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Bồ-tát Vănthù-sư-lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo bày vai phải, tay phải cầm kiếm đi đến chỗ Phật. Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Hãy dừng lại! Hãy dừng lại! Chớ tạo các điều nghịch hại, nên làm điều thiện. Vì sao? Vì tất cả đều từ tâm phát khởi, do tâm sinh sinh ra sát hại. Trong khoảnh khắc tâm khởi liền thành việc giết hại.

Khi ấy, vô lượng số Bồ-tát ở trong chúng hội, ai cũng suy nghĩ: “Tất cả các pháp ấy đều như huyễn, chúng không có ngã, nhân, thọ mạng”. Các vị ấy đã nhớ nghĩ, quán sát gốc ngọn của sự việc, không có cha mẹ, không có Phật, Pháp, Thánh chúng, cũng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ, không tu hành, chẳng phải là không tu hành, cũng không có quả báo, ý tự tham thân mà rơi vào điên đảo. Kẻ phàm phu ngu muội đều không thể hiểu được. Do tâm trở lại ở trong điên đảo nên chấp có cha mẹ của ta. Vì sao? Vì sự thông minh thánh đạt của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã được chư Phật Thế Tôn khen ngợi, công đức không thể nghĩ bàn, đạo đức siêu việt không ai có thể sánh kịp, vời vợi sáng ngời không gì có thể ví dụ, vào sâu pháp nhẫn, hiểu rõ “bản tế” của pháp, cúng dường vô số hằng hà sa chư Phật, Đại Thánh để tuyên bày đạo giáo, đã hoàn tất những việc làm ở chỗ Phật quá khứ, hiểu rõ các pháp, trí tuệ không gì sánh kịp. Pháp do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết giảng luôn đúng thời, gặp được chư Như Lai, thường cung kính, đảnh lễ, quay về nương tựa, nay đang cầm kiếm sắc bén đi đến chỗ Như Lai.

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Hãy dừng lại! Hãy dừng lại! Văn-thù-sư-lợi chớ tạo điều nghịch hại, nên làm điều thiện. Nếu phân biệt các pháp này, quán sát “bản tế” của chúng thì không thể phân biệt đâu gọi là Phật, Pháp và Thánh chúng, cha mẹ, A-la-hán, và tên của chùa, miếu? Sự lãnh hội ấy là rỗng không thì không có nơi trở về, cũng không có báo ứng.

Nếu tất cả các pháp là hư giả, không thật thì sự lãnh hội các pháp cũng hư vọng, huyễn hóa, giống như không, như cây chuối, như hình ảnh trong mộng, như sóng nắng, lìa dục hư vọng mà không kiên cố. Do những điều này nên người kia không có tội, cũng không có người bị hại. Ai là người sát hại? Sao lại gọi là nhận tai vạ? Quán sát như vậy, suy nghĩ về gốc ngọn thì có thể nhận biết rõ tất cả các pháp vốn đều thanh tịnh, không có sự sinh khởi.

Năm trăm vị Bồ-tát nghe những lời như thế, liền đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, có một ngàn Tỳ-kheo xa trần, rời cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Năm trăm vị Bồ-tát vô cùng vui mừng, tâm thiện sinh khởi, tâm nhàm chán lắng yên, bèn vọt lên trên hư không, cách đất bốn trượng chín thước, dùng kệ tán thán Đức Phật:

Các pháp đều như huyễn
Từ tưởng mà sinh ra
Thành hình, không thật có
Các pháp đều là không.
Lại tự phát vọng tưởng
Có ngã để hại thân
Nhận biết đời sống trước
Đã gây tội rất nặng.
Thuở xưa ôm đại nghịch
Mưu toan hại cha mẹ
Hại La-hán, Tỳ-kheo
Gây tai họa rất lớn.
Do những tội nặng này
Khổ thêm không thể kể
Nay rơi vào lưới nghi
Được nghe nghĩa pháp không.
Thánh Tôn trừ lưới nghi
Rủ bỏ ung ưu não
Hiểu rõ về pháp giới
Vắng lặng không phiền não.
Chư Phật quyền phương tiện
Theo dòng tiếp độ người
Muốn cứu giúp chúng sinh
Quyết trừ chỗ chìm đắm.
Không Phật, không kinh pháp
Cũng không có Thánh chúng
Họ cũng không cha, mẹ
Đều là không, như nhiên.
Thì không ta và người
Không thọ cũng không mạng
Không thường, không đoạn diệt
Các pháp như hư không.
Không tội, không báo ứng
Không làm, chẳng không làm
Chớ tham thân, chấp ngã
Nhận thêm nhiều khổ não.
Chúng không có sự sinh
Cũng không có sự chết
Tử sinh như huyễn hóa
Đó là tướng các pháp.
Văn-thù, bậc Đại Trí
Các pháp đều vượt bờ
Tự tay cầm kiếm bén
Đi thẳng đến Như Lai.
Phật cũng như kiếm bén
Hai việc cùng một tướng
Không sinh, không sở hữu
Cũng không có người hại.
Đức Phật thấy việc ấy
Chúng sinh đã tạo tội
Khiến biết nghiệp họa, phước
Cũng thảy đều là “không”.
Người có thể đạt “không”
Ba đời không thọ mạng
Do nhân duyên hợp thành
Biết không từ đâu sinh.
Không tội, không báo ứng
Cũng lại không khổ vui
Cái ta cũng là “không”
Nhớ nghĩ cầu an ổn.
Chúng sinh nơi điên đảo
Không thể biết “bản tế”
Vô thường, khổ đều không
Vô ngã cũng không có.
Người hiểu được như vậy
Thì thoát ba đường ác
Chư Phật không tạo nghiệp
Hiểu rõ không chỗ tạo.
Xét tội, Phật cũng như
Cho nên gọi là Phật
Như điều Phật giác ngộ
Rõ ràng biết như vậy.
Nhận biết rỗng không sinh
Do đó nói Thánh tuệ
Trụ vào nghĩa hư không
Diễn thuyết không chỗ trụ.
Thân ấy như hư không
Hai việc đều tự nhiên
Nếu muốn cầu tuệ Phật
Pháp kia không chướng ngại.
Đã biết “bản tế” này
Thành Phật đạo vô thượng
Đạt bậc Thánh ở đời
Cứu chúng sinh khổ não.
Trừ hết báo nhân duyên
Tu đại đạo của Phật
Sẽ làm đấng Pháp vương
Mắt sáng, mới diệt độ.

Khi năm trăm Bồ-tát tuyên bày đoạn kinh điển cầm kiếm này thì hằng hà sa cõi Phật ở mười phương đều chấn động đến sáu cách, hào quang rực rỡ chiếu khắp các thế gian. Chư vị thị giả ở bên cạnh chư Phật Đại Thánh khắp mười phương đều tự hỏi Phật:

– Đây là oai đức gì làm cho đại địa chấn động mạnh, hào quang chiếu khắp nơi?

Chư Phật bảo các vị thị giả:

– Thiện nam nên biết! Có thế giới tên là Nhẫn, Đức Phật Thế Tôn hiệu là Năng Nhân đang thuyết giảng kinh điển. Ở đó có Bồ-tát tên Văn-thù-sư-lợi, đạt được quả vị Bất thoái chuyển, tay cầm kiếm bén, đi thẳng đến chỗ Phật, muốn khai hóa cho các Bồ-tát chưa thông đạt.

Vì vậy, khi đó Đức Phật Đại Thánh tay cầm dao trí tuệ chặt đứt nguồn gốc sinh tử, theo căn cơ mà thuyết pháp, khuyến khích vô lượng số chúng sinh, khiến mắt được thanh tịnh, tâm được giải thoát, đạt đến pháp nhẫn, học ở đạo lớn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng phương tiện, tùy theo căn cơ, kiến lập thần thông giáo hóa. Ở trong chúng hội kia có những người mới học đạo, gốc đức cạn mỏng, ôm nhiều vọng tưởng, không thấy cầm kiếm, không nghe thuyết pháp là Thánh chỉ của Phật, nên khiến cho họ được thấy, hiểu như vậy.

Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Bồ-tát Văn-thùsư-lợi:

– Thưa Nhân giả! Vừa rồi Nhân giả đã tạo điều bạo nghịch, lấy gì làm niềm tin mới có thể cầm kiếm đi thẳng đến chỗ Phật?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời Tôn giả Xá-lợiphất:

– Như lời Tôn giả nói, Tôn giả cũng đã tạo tội nghịch không thể tính đếm, nên không thể đạt được sự báo đáp. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người hiểu nghĩa ấy nhận biết như nhà ảo thuật đã tạo ra các việc trái nghịch. Người huyễn hóa ấy há có trái nghịch chăng? Báo đáp cũng như vậy. Vì sao? Vì người do nhà ảo thuật hóa ra đó không có nhớ nghĩ nên các pháp cũng như vậy. Này Tôn giả Xá-lợiphất! Tôi muốn hỏi Tôn giả, hãy trả lời thành thật là có kiếm ấy chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

– Không có!

– Có tội chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

– Không có!

– Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nghiệp tội là hư giả, báo ứng cũng là hư giả. Nghiệp tội, báo ứng đều là hư giả thì tại sao lại muốn biết nơi chốn của chúng?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Như lời Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã nói, không có tội, không có báo ứng, tất cả các pháp đều không có tội, không có báo ứng. Lời nói này nghĩa là gì?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Ý của ông nghĩ như thế nào? Này Tôn giả Xálợi-phất! Tôi đã cầm kiếm, vậy kiếm đó do thợ ở chỗ nào rèn thành? Ai cầm đến để trao?

Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:

– Không người làm thành kiếm này, không có người cầm đến để trao. Nó chỉ là sự hóa hiện của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà thôi.

Bồ-tát Văn-thù lại hỏi:

– Nhân giả có thể thấy được chỗ của người biến hóa không? Chỗ của dao, kiếm chăng? Đức Như Lai đã nói, tất cả các pháp đều như huyễn hóa, tướng của chúng là vô tướng, không thể có nơi chốn. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ông nên hiểu rõ nghĩa này. Đức Như Lai Chí Chân cũng như kiếm bén. Văn-thù-sư-lợi và Xá-lợi-phất cũng như vậy, không có nguồn gốc. Chúng sinh cũng như thế, các pháp cũng như vậy, không có nguồn gốc. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy, tất cả các pháp đều không có nguồn gốc. Tội tôi đã tạo, báo ứng, cầm kiếm, điều ấy cũng giống như vậy, chỗ tích chứa tai họa cũng không có nguồn gốc, báo ứng cũng như vậy.

Tôn giả Xá-lợi-phất lại hỏi thêm:

– Bồ-tát cớ sao tay cầm đao kiếm muốn tranh với Đức Phật?

– Ví như tu tập ở nơi vắng lặng, siêng năng hướng về Thế Tôn, tâm niệm không xa lìa mới được giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi-phất lại hỏi:

– Vắng lặng tư duy tu tập những gì? Thế nào gọi là Thế Tôn?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Tham dục, vọng tưởng tức là vắng lặng, tư duy tu hành. Thế Tôn nghĩa là đối với tham dục, sân giận, ngu si, dứt trừ ba độc này vĩnh viễn không còn, vắng lặng, thanh thoát như vậy mới là an nhiên. Không thể dứt sạch tất cả phiền não thì không phải là Thế Tôn. Diệt nạn tham dục, sân giận, ngu si, khát ái mới là Thế Tôn. Nếu ý phát sinh tham dục thì nắm giữ tâm dục này, nhất tâm niệm Phật, tham dục liền tiêu diệt, đối với sân giận, ngu si cũng làm như vậy mà đạt được giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôi cầm kiếm bén đi thẳng đến nơi Thế Tôn cũng giống như huyễn, không hại. Người ôm giữ ba độc, tâm luôn niệm Phật thì các phiền não đều diệt trừ, cũng như tu hành chuyên tinh tấn ở nơi vắng lặng, nhất tâm niệm Phật mới được giải thoát.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

– Lành thay! Lành thay! Rất hay! Đúng như lời Bồ-tát đã nói.

Bấy giờ, các chúng hội Bồ-tát ở khắp mười phương đều thưa thỉnh các Đức Thế Tôn:

– Bạch Đại Thánh! Xin Đại Thánh khuyên bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khởi tâm nhớ nghĩ đến các cõi nước chư Phật của chúng con, ở trong các cõi ấy thuyết giảng kinh điển, đều khiến cho chúng sinh hiểu được ý nghĩa này.

Bồ-tát Văn-thù nói với các Bồ-tát:

– Này các Nhân giả! Mỗi vị hãy tự quán sát về cõi Phật của mình.

Các thiện nam liền vâng theo lời dạy, ai cũng quán sát nơi chốn của mình trong khắp mười phương, đều nhìn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đang ở bên cạnh chư Phật khắp các nơi ấy để giảng thuyết kinh điển. Thiên tử Thiện Trụ Ý thưa hỏi, lãnh thọ, nói về ý nghĩa tu hành như huyễn này là chỗ cốt lõi của kinh điển. Các Bồ-tát vân tập cũng như vậy không thể tính đếm, số các Thiên tử tụ hội nhiều, ít cũng không khác. Những cõi nước của chư Phật kia cũng gồm bấy nhiêu yếu tố: Thanh tịnh, trang nghiêm, rộng lớn vô lượng cũng như cõi Nhẫn không có gì khác biệt, từ xa thấy như vậy, không ai là không vui mừng. Tất cả đều cất tiếng khen ngợi, cho là niềm vui lớn. Uy đức của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thật tuyệt vời, oai thần tỏa sáng, trí tuệ không ai sánh, oai đức thù thắng hơn cả mặt trời, mặt trăng, trụ nơi cõi Nhẫn không hề di chuyển mà lại có mặt khắp cõi nước của chư Phật nơi mười phương.

Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù đưa ra ví dụ:

– Này các thiện nam! Giống như nhà ảo thuật học những thứ huyễn thuật tuyệt thế không ai bằng được, không rời khỏi chỗ ngồi mà đã biến hóa ra bao nhiêu là hình tướng. Bồ-tát cũng như vậy, học đúng, hiểu rõ về Bát nhã Ba-la-mật, phân biệt các pháp huyễn hóa, thông đạt ý chỉ, thì dù ở nơi cõi mình, lúc đầu không di chuyển, nhưng những người muốn được nhìn thấy ở khắp mười phương cõi Phật, Bồ-tát liền hiện thân mình ở các cõi nước của chư Phật đó. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều như huyễn, do đấy nên việc hiện thân không có gì khó, giống như vầng trăng du hành trong hư không, không đi trong nhân gian, không nghĩ đến sự qua lại, nhưng ánh sáng của nó tỏa chiếu khắp nơi, tuy có sự chiếu sáng nhưng không nhớ nghĩ. Bồ-tát cũng vậy, ở nơi “bản tế” chưa từng di chuyển mà hiện hữu khắp cõi nước của chư Phật nơi mười phương, hiện làm thân Phật, Thanh văn, Duyên giác, hiện làm thân Chuyển luân, Đế thích, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, hoặc hiện làm thân người sang giàu, quyền quý, bần cùng, khốn khổ, hoặc vào ba ác, chịu các khổ não, hoặc làm người học rộng, vua chúa, đại thần, hoặc ở đạo khác phỉ báng Đức Phật, hoặc vào núi sâu học làm tiên nhân v.v… Chỗ hiện thân không có giới hạn, tất cả nương vào nhân duyên khiến đạt đến Chánh chân vô thượng. Sự hiện thân tuy như vậy, nhưng không hề nhớ nghĩ.

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Giả sử có người gặp được pháp này và được nghe thì giống như Đức Phật xuất hiện ở đời không có gì khác. Nếu có Bồ-tát ngồi nơi gốc cây sắp thành Phật đạo, và có người nghe kinh này thì phước đức như nhau không khác, cũng ngang bằng với các quả Đạo tích, Vãng lai, Bất hoàn và Vô trước. Vì sao? Vì đó là đạo cốt yếu của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:

– Đúng như lời Phật dạy. An trụ nơi chỗ giáo hóa, luôn luôn lãnh hội lời dạy. Như các pháp không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng, pháp này cũng như vậy. Lại như “vô bản”, “bản tế” bình đẳng, cũng như lìa dục, định ý bình đẳng, pháp này bình đẳng cũng như vậy.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại bạch Phật:

– Bạch Đại Thánh! Xin Đại Thánh rủ lòng thương, kiến lập pháp này, khiến cho những chúng sinh ở vị lai ở trong đời năm trược tạp loạn có nơi nương tựa. Nếu người nam, người nữ nào học theo Bồ-tát cầu Đại thừa, và chúng sinh nào được nghe pháp này, muốn cầu diệt độ, đều nhờ ánh sáng của pháp đạo đức ấy mà đạt được.

Đức Phật im lặng nhận lời. Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách, các thứ âm nhạc không trỗi đều tự vang lên, các loại cây không có hoa quả và cây khô đều đơm hoa kết trái. Hào quang lớn của Đức Phật chiếu khắp thế giới, che lấp cả ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, làm cho chúng không còn tỏa sáng, trăm ngàn ức chư Thiên ở giữa hư không vô cùng vui mừng, tuôn xuống các loại hoa, đốt các hương thơm, lại rải xuống hương tạp, hương bột, những loại hương ấy xông thơm ngào ngạt, lan tỏa khắp chốn. Trống trời, kỹ nhạc, âm thanh êm dịu. Chư Thiên chấp tay, khác miệng cùng lời, cất tiếng ca tụng:

– Hay thay! Hay thay! Pháp này thật là khó gặp! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đã thuyết giảng, chúng con may mắn được nghe sự giáo hóa lớn này, ngày nay lại được gặp chuyển pháp luân: Người cõi Diêm-phù-đề nhờ phước đức lớn mà được nghe kinh này. Phước đức ấy hoàn toàn không hư dối nên mau chóng được thọ ký sẽ thành tựu Phật đạo, giáo hóa nhiều nơi.

Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi các Bồ-tát và các Thiên tử:

– Lành thay! Lành thay! Như lời các ông nói. Người nào được nghe pháp này, Như Lai chứng minh cho những người ấy sẽ thành tựu Phật đạo để nhập Niết-bàn. Nghe kinh này mà không hoảng sợ, không kinh hãi, dốc tâm tin tưởng, ưa thích thì không ở trong sinh tử cũng không vào diệt độ.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sự kiến lập kinh điển này, nay hiện bày sự cảm ứng về điềm lành trước, như vậy vào đời sau sẽ lưu truyền khắp mười phương.

Đức Phật bảo:

– Đúng vậy! Này Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi! Nay đã hiện điềm lành, đều là sự kiến lập oai thần, ân đức của kinh này, tâm từ rộng lớn của Như Lai, ý chỉ của bậc Thánh khiến cho tất cả đều được cứu giúp.

Đức Phật lại nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Phải hiển bày lại kinh điển sâu xa này. Lời Phật dạy là chân thật, hoàn toàn không hư vọng. Ba môn giải thoát ấy cứu độ rất nhiều, nên phải làm cho pháp ấy đời sau được lưu truyền khắp.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

– Con cũng gánh vác trách nhiệm kiếp lập pháp này, diễn thuyết đúng chương cú, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, không ý, không thể thủ đắc, không rơi vào đoạn diệt, không rơi vào chấp thường, không có phiền não, cũng không tranh cãi, tức là hiển bày rõ ràng về kinh điển này. Như lời con đã nói rất thành thật, không hề hư vọng, về sau con sẽ khiến cho kinh này lưu hành rộng rãi trong đời năm trược. Nay con xin thề không thành Phật, không có Pháp, Thánh chúng, không có tội, báo ứng, không đến, không đi, dùng lời chí thành này làm cho pháp yếu đó được lưu truyền rộng rãi vào đời vị lai, người hiểu được kinh này thì không thọ dục, cũng không lìa dục, không có sân giận, ngu si, không có tâm từ, không có trí tuệ, không có danh, không có sắc, không duyên, không kiến chấp, không khởi sinh tử, không có thân, chẳng sinh thân, không tâm, chẳng sinh niệm, không tư duy pháp, không ý chỉ, không có năm ấm, không có bốn đại, không có các nhập, mắt đối với sắc, tai đối với tiếng, mũi đối với hương, miệng đối với vị, thân đối với xúc, tâm đối với pháp cũng lại như vậy; không ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc, tâm bình đẳng như đất, không có yêu ghét, các pháp không tổn giảm, cũng không tăng trưởng, tức là thuyết giảng kinh này. Như vậy, kinh điển này lưu truyền rộng rãi vào đời sau, không ở tại chí thành, không thấy rõ sự thật, không khen ngợi đạo, không đạt đến đạo quả, cũng không có các quả Đạo tích, không có Vãng lai, không có Bất hoàn, không có Vô trước, không có Duyên giác, không có các quả chứng, không Như Lai, không pháp Phật, không vô úy, không có trí tuệ, chẳng hiểu biết, không bậc Thánh; chẳng không, chẳng thọ, không tướng, không vô tướng, không nguyện, không vô nguyện, không đạt quả chứng, không thấy, chẳng phải là không thấy, không đạt đến đạo, không sáng suốt, chẳng tăm tối, cũng không giải thoát, không cứu độ, chẳng phải là không cứu độ, không bờ kia, không bờ này, không giữa dòng, không danh, chẳng phải là không danh. Do lời nói chân thật sẽ khiến cho kinh này càng lưu hành rộng khắp ở đời sau.

Lại cho kinh này không tương ưng, không giải thoát, không tinh tấn, không lười biếng, không nỗ lực, không mệt nhọc, để pháp chân thật này sẽ được lưu truyền rộng rãi. Tìm về chỗ phát sinh thì không đến, không đi, không có con người quá khứ, không độ chúng sinh, cũng không có diệt độ, con người không thể nắm bắt, pháp không có gì siêu việt, cũng không có đối tượng diệt, không có người tạo tác, cũng không có người hủy diệt, không tới, không lui, không đi, không lại, không ngẩng lên, không cúi xuống, không có Phật đương lai, tượng pháp như vậy không có chỗ chiếu soi, không có

Phật hiện tại, cũng không diễn bày pháp, vì vậy nên pháp sẽ được lưu truyền rộng rãi. Kinh này đã nêu, không trì giới, không phạm giới, không định, không loạn, không tuệ, không ngu, không cởi, không trói, không tuệ kiến, không vô tuệ; lời chân chánh này làm cho kinh được lưu truyền rộng khắp.

Không bố thí, không keo kiệt, không giữ giới, không phá giới, không nhẫn nhục, không tranh cãi, không tinh tấn, không lười biếng, không thiền định, không loạn động, không trí tuệ, không ngu tối. Này Bồ-tát Đại sĩ! Lời chân thật này làm cho pháp được lưu hành rộng rãi. Không có phàm phu, không người có học, không A-la-hán, không Duyên giác, không Phật đạo, không nhân, không duyên, nên khiến cho pháp này được lưu truyền rộng khắp thế gian. Không ngồi nơi cội cây Bồ-đề, không chuyển pháp luân, không tán thán Phật, Phật không xuất hiện, không chúng sinh, không diệt độ, không Như Lai. Vì sao? Vì tất cả các pháp hoàn toàn đưa đến diệt độ nên làm cho kinh này lưu truyền rộng khắp thế gian.

Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi giảng nói về điều cốt yếu của kinh được kiến lập này thì ba ngàn đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu thứ chấn động, hào quang lớn chiếu khắp mười phương, ở trên hư không vang lên âm thanh vô tận:

– Lành thay! Lành thay! Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thật đúng như lời thề nguyện. Giả sử, có hằng hà sa các loài ma và quyến thuộc của chúng muốn tìm phương cách hủy hoại kinh này, muốn làm cho tiêu tan nhưng hoàn toàn không thể làm loạn động được, không thể làm cho pháp vi diệu này không lưu thông, vì vậy nên kiến lập pháp yếu ấy. Nếu thiện nam thiện nữ nào lãnh hội kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, lắng nghe, tin ưa thì tất cả đều thoát khỏi các việc làm của ma, nhập vào trí tuệ Phật đạo.

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc đến trước Đức Phật, bạch:

– Bạch Thế Tôn! Hôm nay, vì duyên gì mà đại địa chấn động mạnh? Ánh sáng tỏa chiếu khắp nơi, trong hư không vang lên những âm thanh?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Đâu cần phải hỏi? Vì sao? Vì những kẻ căn tánh thấp kém tức không thể nhận biết ý nghĩa rộng lớn, rơi vào kiêu mạn. Những người ấy lâu ngày ở trong sinh tử tăm tối, không được an ổn.

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

– Xin Phật giảng nói về điều ấy, những điều Phật nói sẽ mang lại nhiều thương yêu, nhiều an ổn! Chắc chắn chư Thiên, loài người đều tin tưởng, ưa thích kinh này.

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Kinh điển ấy đã có bốn mươi bảy ức trăm ngàn triệu chư Phật nơi cõi này kiến lập, thuyết giảng, cũng đều do Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi phát khởi và Thiên tử Thiện Trụ ý cùng thưa hỏi. Bồ-tát Di-lặc vào đời vị lai sẽ thành tựu đạo quả Chánh chân vô thượng, khi thành bậc Tối Chánh Giác cũng lại giảng nói kinh này. Ở Hiền kiếp khác, chư Như Lai xuất hiện cũng đều như vậy.

Bồ-tát Di-lặc lại bạch Phật:

– Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và Thiên tử Thiện Trụ Ý từ rất lâu đã nghe kinh điển này.

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và Thiên tử Thiện Trụ Ý đã nghe pháp này từ bảy trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp rồi, được nghe từ Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác Phổ Hoa Siêu Sư Tử Bộ Đức Vương Quang Thủ. Vị ấy ở trong hư không xướng lên âm thanh lớn, chư Thiên ở cõi trời Tịnh Cư nghe giảng pháp này, ai cũng khuyến khích lẫn nhau, tán thán và thực hành, vì vậy mà đại địa chấn động.

Bồ-tát Di-lặc lại bạch Phật:

– Nếu thiện nam, thiện nữ nào lãnh hội kinh này, thọ trì, đọc tụng, vì người khác thuyết giảng thì được công đức gì?

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ý ông nghĩ thế nào? Chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại dùng giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến để giảng thuyết, phát khởi về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhất tâm, trí tuệ, khiến cho chúng sinh đều thành tựu đạo tuệ Chánh chân vô thượng, có người đã thành tựu, đang thành tựu và sẽ thành tựu, tập hợp công đức của họ thì công đức ấy có nhiều không?

Bồ-tát Di-lặc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Nhiều, không thể nghĩ bàn. Công đức của một Như Lai còn khó tính kể, huống gì là công đức của tất cả Phật. Giả sử công đức có hình tướng thì các cõi Phật nơi mười phương cũng không thể nào chứa hết.

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Vì vậy, Như Lai đã ân cần dặn bảo bằng tướng dụ. Thiện nam, thiện nữ ấy nghe kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng thuyết thì công đức đó nhiều hơn công đức kia, huống gì là phụng hành! Vì sao? Vì chỗ giảng thuyết của chư Phật thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều do đây sinh ra.

Khi Đức Phật thuyết giảng kinh này, có hằng hà sa chúng sinh phát tâm Bồ-tát, lại gấp bội số ấy đạt được quả vị Bất thoái chuyển, người chứng được pháp nhẫn, pháp nhãn thanh tịnh nhiều hơn gấp nhiều lần. Như vậy, tất cả những người đến pháp hội, chư Bồ-tát nơi mười phương đều vô cùng vui mừng, tâm thiện phát sinh, đảnh lễ nơi chân Phật, tán thán pháp này, ước mong được nghe lại, rồi bỗng nhiên biến mất, trở về nước mình.

Hiền giả A-nan đến trước Đức Phật và bạch:

– Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Nên phụng trì như thế nào?

Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:

– Kinh này gọi là “Yếu Phẩm Tam Muội Không Khởi Không Diệt Trong Tất Cả Pháp”, lại gọi là “Phá Dẹp Ma Giáo”. Nên theo đấy mà thọ trì. Lại gọi là “Những Điều Thuyết Giảng Của Văn Thù Sư Lợi Về Định Ý Yếu Tuệ Phổ Biến Khắp Mười Phương”. Lại gọi là “Những Điều Thuyết Giảng Về Như Huyễn”. Nên theo đấy mà phụng trì kinh này. Kinh điển này có thể giáo hóa mọi người. Tôn giả A-nan phải nên thọ trì, đọc tụng, vì người khác thuyết giảng.

Khi Đức Phật giảng nói như vậy, các Tỳ-kheo, Bồ-tát, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Thiên tử Thiện Trụ Ý, Bồ-tát Di-lặc, Hiền giả A-nan, chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, nhân loại nghe kinh rồi đều vô cùng vui mừng.


[Đầu trang][QUYỂN THƯỢNG][QUYỂN HẠ]


[Mục lục bộ Bảo Tích][310.1][310.2][310.3][311][312][313][314][315][316][317][318][319][320][321][322][323][324][325][326][327][328][329][330][331][332][333][334][335][336][337][338][339][340][341][342][343][344][345][346][347][348][349][350][351][352][353][354][355][356][357][358][359][360][361][362][363][364][365][366][367][368][369][370][371][372][373]


[Mục lục tổng quát]