BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe PHẦN I ĐỜI
SỐNG VÀ THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC PHẬT Chương 1 CUỘC
ĐỜI VÀ CON NGƯỜI CỦA ĐỨC PHẬT -ooOoo- ĐỨC PHẬT CỒ ĐÀM,
VỊ KHAI SÁNG ĐẠO PHẬT Đức Phật Cồ Đàm, người khai
sáng Đạo Phật, sống tại Bắc Ấn vào thế kỷ thứ sáu
trước Tây Lịch. Tên Ngài là Sĩ Đạt Ta, và họ Ngài là
Cồ Đàm. Người ta gọi Ngài là Đức Phật sau khi Ngài đạt
Giác Ngộ và tìm thấy Chân Lý. Tên này có nghĩa là "Người
Đã Tỉnh Thức" hay Người Đã Giác Ngộ". Ngài thường
tự gọi Ngài là Như Lai, và các đệ tử của Ngài gọi Ngài
là Đấng Thế Tôn, Đấng Thiện Thệ. Có người gọi là Đức
Cồ Đàm hay Đức Thích Ca Mâu Ni. Ngài sanh ra là một Hoàng Tử có
đầy đủ mọi thứ trên đời. Ngài được nuôi nấng trong
cảnh xa hoa và gia đình Ngài, cả hai bên bên nội ngoại, đều
thuộc dòng quý tộc. Ngài là người thừa kế ngai vàng,
diện mạo tuấn tú, phong thái uy nghi, trang nghiêm đẹp đẽ
khiến ai gặp cũng đem lòng cảm phục và tin tưởng. Vào năm
mười sáu tuổi Ngài kết duyên với Công Chúa Da Du Đà La và
hạ sanh một người con trai đặt tên là La Hầu La. Vợ Ngài,
nhan sắc yêu kiều diễm lệ, luôn luôn tươi cười khả ái,
đoan trang và thanh nhã. Mặc dù sống trong cảnh xa hoa nhưng
Ngài cảm thấy giống như con chim bị nhốt trong lồng vàng.
Một ngày nọ, trong một cuộc thăm viếng ngoài thành, Ngài
nhìn thấy "Bốn Cảnh", một người già, một người
bệnh, một người chết và một nhà tu khổ hạnh. Khi nhìn
thấy những cảnh tượng trên đây, Ngài nhận định "
Không ai thoát khỏi già và chết". Ngài tự hỏi: "Có
một cảnh giới nào mà đời sống không già không chết không?
Nhìn thấy một nhà tu khổ hạnh với phong thái an nhiên, bình
thản dường như không màng tục lụy, là đầu mối khiến
Ngài dấn thân trong bước đầu đi tìm Chân Lý và Từ Bỏ
thế tục. Nhất quyết tìm ra con đưòng thoát
khỏi trầm luân, Ngài bỏ gia đình để giải cứu chính Ngài
và cả nhân loại. Vào năm Ngài 29 tuổi, một đêm, Ngài
lặng lẽ từ giã vợ con đang thiêm thiếp giấc nồng,
thắng yên cương và phi ngựa trực chỉ rừng già. Sự từ bỏ của Ngài thật vô
tiền khoáng hậu trong lịch sử. Ngài ra đi trong lúc tuổi
thanh xuân đang thời kỳ sung mãn, bỏ lạc thú để đổi
lấy khó khăn, bỏ hoàn cảnh vật chất vững vàng để đổi
lấy hoàn cảnh thiếu thốn đầy bất trắc, bỏ địa vị
giàu sang và quyền uy để trở thành một nhà tu khổ hạnh
lang thang, sống trong hốc núi, rừng già với manh áo thô sơ
chống cái nắng hè gay gắt, gió mưa lạnh lẽo của trời
đông. Ngài bỏ địa vị giàu sang, một tương lai đầy
hứa hẹn của quyền uy tột đỉnh, một đời sống đầy tình
thương và hy vọng để đi tìm Chân Lý mà chưa hề có ai tìm
ra cả. Ròng rã sáu năm, Ngài đã cật
lực kiên trì đi tìm Chân Lý. Ngài đã tìm đến các trưởng
giáo danh tiếng thời bấy giờ để học hỏi, song không
một vị thầy nào có thể dạy được Ngài. Khi Ngài không
thể tìm được điều Ngài mong muốn, Ngài gia nhập vào đoàn
các nhà tu khổ hạnh, tự hành xác, phá sinh lực, phá sức
chịu đựng của thân xác, mà Ngài tưởng đó là con đường
tìm được Chân Lý. Với một năng lực phi thường và một
ý chí mãnh liệt, Ngài đã vượt qua những nhà tu khổ
hạnh về tất cả những khắc khổ họ thực hành ở thời
đó. Ngài nhịn ăn đến nỗi thân chỉ còn da bọc xương, có
thể lấy tay sờ thấy bao tử và xương sống. Ngài đã
tiến xa đến mức độ mà không thể có ai chịu đựng được
để sống. Ngài chắc chắn phải chết nếu Ngài không kịp
tỉnh ngộ, nhận thức ra được cái vô ích của sự hành
hạ xác thân, và Ngài đã quyết định thay thế bằng con
đường Trung Đạo. Vào ngày trăng tròn Tháng Vesakha,
Ngài ngồi tham thiền nhập định dưới cội bồ đề tại
Bồ Đề Đạo Tràng. Đó là lúc mà Trí Tuệ của Ngài đã
làm bung vỡ được lớp bóng ảo tưởng của vũ trụ và nhìn
thấy bản chất thật sự của đời sống và mọi sự
vật. Vào năm 35 tuổi, từ một kẻ tận lực đi tìm được
Chân Lý, Ngài đã trở thành Phật, Bậc Đại Giác. Trong gần một nửa thế kỷ, Ngài
đã dọc ngang trên các nẻo đường bụi bậm tại Ấn Độ,
đem giáo Pháp dạy cho mọi người, nhờ Ngài biết bao nhiêu
chúng sanh đã trở thành cao quý và được giải thoát. Ngài
đã sáng lập ra đoàn thể Tăng Già cho Tăng và Ni, xóa bỏ
giai cấp xã hội, nâng cao giá trị phụ nữ, dạy giáo lý
tự do và bình đẳng, mở cánh cửa giải thoát cho tất cả
mọi người, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù cao hay thấp,
các bậc thánh hay kẻ tội phạm, những kẻ giết người như
Angulimala, những kỷ-nữ như Ambapali, ai nấy đều nhờ Ngài
trở thành những người lương thiện, cao quý. Ngài đã đạt đến đỉnh cao
nhất của trí tuệ và trí năng. Mọi vấn đề đều được
mổ xẻ thành từng bộ phận nhỏ rồi được ráp lại thành
hệ thống hợp lý làm sáng tỏ ý nghĩa. Không ai có thể vượt
qua Ngài trong đàm luận. Là một đạo sự vô song, Ngài còn
là một nhà phân tích tâm lý và các hiện tượng lỗi lạc
nhất thời bấy giờ và ngay cả đến thời nay. Lần đầu
tiên trong lịch sử, Ngài cho con người toàn quyền dùng
sức mạnh của mình để tự tư duy, nâng cao giá trị của
nhân loại, và dạy cho con người biết là có thể đạt
được kiến thức cao cả nhất và giác ngộ tối thượng
do những nỗ lực của chính mình. Mặc dù với trí tuệ có một không
hai, dòng dõi hoàng tộc, nhưng chẳng bao giờ Ngài tách rời
người dân tầm thường. Địa vị và giai cấp xã hội vô
nghĩa đối với Ngài. Ngài sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai dù
người ấy là người cùng đinh, thấp hèn. Người bị phân
chia giai cấp, kẻ nghèo khó, kẻ bị hắt hủi, đến với
Ngài, đều tìm lại được nhân phẩm của mình, và thay đổi
từ cuộc sống hèn mọn trỏ thành cuộc sống cao quý. Với lòng từ bi vô biên, trí
tuệ tối thượng, Ngài biết cách dạy cho từng cá nhân tùy
theo trình độ và khả năng của chính họ đạt điều lợi
ích. Ngài đã không quản ngại đường sá xa xôi đến giúp
đỡ bất cứ ai cần đến Ngài. Ngài thương yêu các đệ tử và
hết lòng với họ, luôn luôn ân cần thăm hỏi về đời
sống và sự tiến bộ của họ. Khi ở tịnh xá, Ngài thường
ngày đến thăm các người bệnh. Ta thấy lòng từ bi của
Ngài như thế nào đối với những người bệnh qua lời
khuyến nhủ của Ngài: 'Ai chăm sóc người bệnh, tức chăm
sóc ta' . Ngài ban hành giới luật trên căn bản tương kính.
Vua Ba Tư Nặc không hiểu làm sao Đức Phật lại có thể
duy trì được giới luật trong hàng ngữ các thầy tu, trong
khi chính nhà vua với quyền uy tột đỉnh để trừng trị,
cũng không duy trì được kỷ luật trong triều chính. Ngài có nhiều thần thông phép
lạ, nhưng Ngài coi những điều đó không quan trọng. Với
Ngài, phép mầu vĩ đại nhất là làm sao giải thích cho
mọi người hiểu được Chân Lý. Là vị đạo sư với
tấm lòng từ bi sâu xa, Ngài muốn chấm dứt cái khổ đau
của nhân loại, và quyết chí giải thoát con người khỏi gông
cùm bằng một hệ thống tư tưởng hữu lý, thích hợp
với đời sống. Đức Phật không tuyên bố là đã
"tạo" ra các điều kiện trần thế, hiện tượng vũ
trụ, hay Định Luật Vũ Trụ mà chúng ta gọi là Pháp. Mặc
dù người ta miêu tả Ngài là 'Lokavidu', "Người Hiểu Rõ
Thế Giới", Ngài không tự coi là người độc nhất
giữ Định Luật Vũ Trụ. Ngài thừa nhận Pháp, cùng với
sự vận hành của vũ trụ, vô tận, không ai tạo ra Pháp,
Pháp độc lập theo nghĩa tuyệt đối. Mỗi vật được
tạo thành, hiện hữu trong vũ trụ, đều bị chi phối bởi
tác động của Pháp. Cái mà Đức Phật làm (giống như
tất cả các Đức Phật có trước Ngài), là khám phá ra Chân
Lý xác thực này, và phổ biến Chân Lý ấy cho nhân loại.
Khi tìm ra Chân Lý, Ngài cũng tìm ra phương thức để ta có
thể tự giải thoát khỏi cái vòng luân hồi vô tận do
những điều tội lỗi và bất toại nguyện. Sau bốn mươi lăm năm hoằng pháp,
Ngài nhập diệt lúc tám mươi tuổi tại Kusinara, bỏ lại hàng
ngàn đệ tử, tăng và ni, và một kho tàng giáo Pháp vĩ đại.
Đến ngày nay chúng ta vẫn còn cảm thấy được tình thương
bao la vô bờ bến, sự tận tụy và gương sáng của Ngài. Trong cuốn Ba Vĩ Nhân Vĩ Đại
của lịch sử, H.G. Wells ghi nhận: 'Các bạn thấy rõ Đức
Phật là một con người giản dị, chân thành, đơn độc,
một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật
sống thực ch? không phải thần thoại. Ngài cũng đã gửi
một bức thông điệp bao quát cho nhân loại. Nhiều những tư
tưởng tuyệt diệu hiện đại rất gần gữi tương đồng
với thông điệp của Ngài. Tất cả những đau khổ, bất mãn
trong cuộc sống, theo Ngài dạy, đều do lòng ích kỷ. Con người,
trước khi muốn trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng
sống cho giác quan hoặc cho chính riêng mình. Rồi từ đó
mới trở thành một con người cao cả. Phật Giáo qua nhiều
ngôn ngữ khác nhau, từ 500 năm trước trước Chúa Christ, đã
kêu gọi con người đức tính vị tha. Trong nhiều phương
diện, Ngài rất gần gữi với chúng ta, và đáp ứng được
nhu cầu của chúng ta. Đức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn
Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ
hồ hơn đối với vấn đề trường tồn bất tử của
kiếp nhân sinh. TỪ BỎ THẾ TỤC Sự từ bỏ thế tục của Thái
Tử Tất Đạt Đa là một bước đi dững cảm nhất chưa
từng có một ai dám làm. Thái tử Tất Đạt Đa bị nhiều
người chỉ trích vì từ bỏ gia đình và vương quốc. Một
số người miêu tả việc trên là điều 'nhẫn tâm khi từ
bỏ vợ và gia đình'. Phải, nếu Ngài không đột ngột bỏ
gia đình và nếu Ngài từ giã những người thân yêu đúng
nghi thức thì việc gì sẽ xẩy ra? Đương nhiên, những người
thân yêu của Ngài sẽ năn nỉ Ngài thay đổi ý chí. Cảnh
biệt ly ắt hẳn não nùng thảm thiết và chắc chắn vương
quốc nhỏ bé của Vua Tịnh Phạn sẽ rơi vào vòng rối
loạn. Sự quyết tâm đi tìm chân lý của Ngài ắt hẳn bị
Vua Cha cản trở và vợ con sẽ nhất định không cho Ngài
thực hiện hoài bão từ bỏ thế tục. Vào lúc 29 tuổi, Ngài
đang ở lứa tuổi thanh xuân đầy nhựa sống, một thanh niên
bắt đầu vào cuộc đời. Khi ấy thì cái sức lôi kéo không
muốn từ bỏ tất cả những gì Ngài đã thụ hưởng và thương
yêu để đi tìm chân lý quả thật là một điều khốc
liệt. Trong giờ phút cuối cùng tại cung điện, Ngài đến
phòng ngủ nhìn vợ và đứa con trai mới sanh của Ngài đang
thiêm thiếp giấc nồng. Ý tưởng thôi thúc mạnh mẽ ở
lại và hủy bỏ chương trình chắc hẳn đã làm cho Ngài đau
đớn. Tại Ấn vào thời đó, một người từ bỏ gia đình
và những người thân yêu để trở thành một nhà tu khổ
hạnh, sống một cuộc đời thánh thiện là một điều
rất vinh dự. Sau khi cân nhắc tất cả các sự việc, Thái
Tử Tất Đạt Đa dững cảm quyết chí thực thi ngay chương
trình dự định. Ngài từ bỏ thế gian không phải
vì lợi ích cá nhân Ngài mà vì lợi ích và sự khổ đau
của nhân loại. Với Ngài, toàn thể nhân loại là một gia
đình. Sự từ bỏ thế tục của Tái Tử Tất Đạt Đa
giữa lúc tuổi thanh xuân là một bước tiến dững cảm mà
chưa ai có thể làm được. Từ bỏ thế tục là một yếu
tố rất quan trọng để đạt Giác Ngộ. Đạt Giác Ngộ
phải bằng cách dứt luyến ái. Nguyên nhân của tất cả
những khó khăn trong cuộc sống là do luyến ái. Chúng ta nóng
giận, lo lắng, trở nên tham dục, oán trách và cay đắng đều
do luyến ái. Tất cả những nguyên nhân của bất hạnh phúc,
tinh thần căng thẳng, ương ngạnh, và phiền não đều do
luyến ái. Khi xét bất cứ một khó khăn nào hay một phiền
muộn nào của chúng ta, ta thấy nguyên nhân chính cũng vẫn
là do luyến ái. Nếu như Thái Tử Tất Đạt Đa luyến ái
vợ, con, vương quốc và lạc thú trần tục, thì Ngài
chẳng bao giờ có thể tìm được chân lý giải thoát cái
đau khổ của nhân loại. Cho nên Ngài đã hy sinh tất cả
mọi thứ kể cả những lạc thú trần gian, tâm trí Ngài không
còn vương mắc một điều gì trần tục, để có thể tìm
ra Chân Lý giải thoát nhân loại khỏi khổ đau. Dưới mắt của Vị Thái Tử
trẻ tuổi, thế giới đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa
tham sân, si và các ô trược khác. Ngọn lửa này bốc cháy
do tham dục của chúng ta. Ngài nhìn thấy mỗi chúng sinh
trong thế giới này, kể cả vợ và con Ngài, đều đau khổ
về vật chất và tinh thần. Bởi vậy, Ngài nhất quyết đi
tìm giải pháp để chấm dứt cải khổ đau của nhân
loại, và Ngài chấp nhận hy sinh tất cả mọi thứ. Hai Ngàn Năm Trăm Năm sau cuộc
từ bỏ trần tục vĩ đại của Ngài, một số người với
nước mắt cá sấu, phê bình hành động của Ngài. Vợ Ngài
không hề kết tội Ngài về việc Ngài bỏ ra đi khi Bà
nhận thấy việc từ bỏ của Ngài thật vĩ đại và cao
cả. Bà đã từ bỏ nếp sống vương giả, sống đơn giản
để tỏ lòng thành kính Ngài. Mấy vần thơ nổi tiếng nhận định về sự ra đi của
Đức Phật: Chẳng phải vì ghét đứa con yêu CON NGƯỜI CỦA ĐỨC
PHẬT - ÁNH SÁNG CỦA THẾ GIỚI "Đã hiểu được những điều
cần phải hiểu 'Này các thầy, chừng nào mà
Mặt Trăng và Mặt Trời, không mọc ở thế giới này thì lúc
ấy không có ánh sáng rạng ngời của vầng quang minh rực
rỡ. Tối tăm sẽ lan tràn, cái tối tăm của hoang mang bối
rối. Sẽ không phân biệt được trăng tròn, trăng khuyết,
cả đến tiết mùa, năm, tháng. Nhưng này các thầy, khi Mặt Trăng
và Mặt Trời mọc ở thế giới này, ánh sáng rạng ngời
của của vầng quang minh rực rỡ chiếu rọi khắp nơi nơi.
Cái tối tăm mờ mịt kia, cái tối tăm của hoang mang bối
rối không còn nữa. Năm, Tháng, các mùa trong năm và Ngày
rằm đều tỏ rạng. 'Cũng giống như vậy, này các
thầy, bao lâu mà Đức Phật là một vị A La Hán, Đức
Phật Tối Thượng không xuất hiện, thì ánh sáng rạng
ngời của vầng quang minh rực rỡ không có. Chỉ có cái
tối của mờ mịt, cái tối của hoang mang bối rối lan tràn.
Không có tuyên ngôn, không có giáo lý, không có trình bày,
không có bố trí, không có cởi mở, không có phân tách, không
có làm sáng tỏ Tứ Diệu Đế. ' Thế nào là Bốn? Đó là Chân Lý
của Khổ, Nguyên nhân của Khổ, Chấm dứt Khổ, và con Đường
để diệt Khổ. 'Vì thế, này các thầy, các
thầy phải cố gắng để thân chứng được: "Đây là
Khổ, đây là Nguyên nhân Khổ, đây là sự Chấm dứt Khổ
và đây là con Đường diệt Khổ'". Những lời dạy trên đây cho chúng
ta bức tranh rõ ràng về giá trị cao cả của sự xuất
hiện của Đức Phật trên thế gian này. Đức Phật xuất
hiện cùng thời với nền triết học Tây Phương được
mở đầu bởi người Hy Lạp với Triết Gia Heraclites đã đem
lại khúc ngoặt cho tôn giáo sơ khai của các vị thần
Olympian. Cũng là thời gian mà Ngài Jeremiah gửi một thông điệp
mới cho người Do Thái tại Babylon. Cũng là thời gian mà Pythagoras trình
bày thuyết luân hồi tại Ý. Cũng là thời gian mà Đức
Khổng Tử khai sáng lý thuyết nhân trị áp dụng vào đời
sống quốc gia Trung Hoa. Cũng trong thời gian này, cơ cấu
xã hội Ấn bị bao phủ nặng nề bởi sự lững đoạn
của hàng tăng lữ, sự tự hành xác, chia rẽ giai cấp,
phong kiến tham những, coi rẻ phái nữ và lo âu sợ hãi dưới
thế lục của Bà La Môn. Chính trong thời gian này, Đức
Phật, đóa hoa thơm ngát nhất của nhân loại, xuất hiện
trên mảnh đất mà những bậc thánh và những nhà hiền
triết đã tận tụy hiến hết đời mình để tìm cầu chân
lý. Ngài là một vĩ nhân đã đem
ảnh hưởng phi thường đến cho mọi người ngay trong khi còn
đang tại thế. Sức hấp dẫn cá nhân, uy tín đạo đức và
kết quả rực rỡ trong việc tìm ra chân lý, đã khiến Ngài
thành công khắp nơi. Là một đạo sư lúc còn tại thế, Ngài
đã giúp biết bao nhiêu người nghe theo lời dạy của Ngài
được giác ngộ. Ngài thu hút mọi hạng người, kẻ sang,
người hèn, kẻ giàu người nghèo, người học thức kẻ mù
chữ, nam hay nữ, nội trợ, các nhà tu khổ hạnh, người quý
tộc kẻ bần hàn. Ngài tìm đến những kẻ độc ác để
giáo hóa họ, trong lúc những người thanh tịnh đạo đức
thì tìm đến Ngài để học hỏi. Tất cả, ai nấy đều
được ân hưởng món quà tinh thần quý giá "Chân Lý"
mà Ngài đã tìm ra được. Trong các đệ tử của Ngài có các
vua chúa, quân binh, thương gia, triệu phú, hành khất, kỷ
nữ, người tu hành, kẻ lừa đảo. Ngài đem hòa bình khi có
chiến tranh giữa người dân. Ngài giác ngộ kẻ lầm lạc.
Những kẻ bị lửa tham dục và sân si thiêu đốt, Ngài cho
họ nước cam lồ của Chân Lý. Khi họ bị bỏ rơi khốn
khổ, Ngài đem cho họ tình thương bao la từ tấm lòng bi
mẫn của Ngài. Đức Phật không sắp xếp gì để
tái tạo thế gian. Ngài là "Lokavidu", 'Người Hiểu
R‚ Thế Gian'. Ngài quả hiểu rõ thế gian nên không còn
một ảo ảnh nào về bản chất thực sự của nó hoặc tin
rằng các định luật của nó có thể hoàn toàn tái lập
cho thích hợp với dục vọng của con người. Ngài hiểu
rằng thế giới không phải tồn tại cho lạc thú của con
người. Ngài hiểu rõ tính thăng trầm của kiếp nhân sinh.
Ngài hiểu rõ cái phù phiếm của óc tưởng tượng hay mơ
mộng của con người về thế gian này. Ngài không khuyến khích tư tưởng
ước mong thành lập một thế giới 'Không Tưởng '. Nhưng
Ngài dạy mỗi chúng ta Con Đường có thể chinh phục thế
giới riêng tư của mình - cái thế giới chủ quan nội tâm
trong địa hạt riêng tư của mỗi cá nhân. Bằng một ngôn
ngữ đơn giản, Ngài nói cho chúng ta biết rằng cả cái
thế giới này là ở trong chúng ta và thế giới chỉ huy
bởi tâm thức cho nên tâm thức phải được huấn luyện và
thanh lọc một cách đứng đắn. Giáo Lý của Ngài căn bản rất
đơn giản và có ý nghĩa: 'Không làm điều ác ; làm mọi điều
thiện; và thanh lọc tâm ý. Đó là lời dạy của Chư
Phật.' (Kinh Pháp Cú, Câu 183) Ngài dạy chúng ta cách nhổ tận
gốc rễ vô minh. Ngài khuyến khích ta hãy có thái độ tự
do khi tư duy. Nghi thức cứng rắn, giáo điều khắt khe,
niềm tin mù quáng và hệ thống giai cấp, tất cả những
thứ đó không có trong cuộc đời của Ngài. Mọi người đều
là một dưới mắt của Đức Phật. Qua mọi trắc nghiệm về những gì
Ngài đã nói, đã làm, đã biểu lộ Đức Phật đã tự
chứng minh Ngài là một con người phi thường trong thời
bấy giờ. Ngài thể hiện cho niềm tin của hạnh phục vụ,
cho thiên chức của tinh thần hy sinh và hoàn tất nhiệm
vụ. Ngài khuyên chúng ta nên, ngay từ hôm nay, bắt đầu
cuộc sống như mới vào đời, nên chu toàn trách nhiệm và
bổn phận trong cuộc sống thường nhật ngay bây giờ và
tại đây và không nên ỷ lại vào người khác làm thế cho
chúng ta. Ngài trình bày cho thế giới một
giải thích mới về vũ trụ. Ngài đem đến cho ta một nhãn
quan mới về Hạnh Phúc vĩnh cửu, đó là đạt đến toàn
hảo để trọn thành Phật Đạo. Ngài vạch ra con đường
tiến đến tình trạng vĩnh viễn vượt khỏi mọi vô thường,
con Đường tiến đến Niết Bàn, sự giải thoát cuối cùng
khỏi cuộc sống khổ đau. Thời gian của Ngài cách đây 2500
năm, nhưng ngày nay vị Đạo Sư Vĩ Đại này, không những
được vinh danh bởi những người đạo hạnh, mà còn được
quý trọng bởi các sử gia, các nhà duy-lý-luận, người
theo chủ nghĩa vô thần, và các nhà trí thức trên toàn
thể thế giới, tất cả đều công nhận Ngài là Đấng Giác
Ngộ, Bậc Đạo Sư phóng khoáng và từ bi nhất. 'Sukho Buddhanam Uppado' PHẢI CHĂNG ĐỨC
PHẬT LÀ HÓA THÂN CỦA THƯỢNG ĐẾ? Đức Phật không bao giờ tuyên
bố Ngài là con hay là một sứ giả của Thượng Đế. Đức Phật là một con người độc
nhất đạt được tự Giác Ngộ. Không ai là người được
coi như là Thầy của Ngài. Ngài đạt giác ngộ là do những
cố gắng của chính Ngài, và do Ngài tu tập hoàn bị mười
đức tính tối thượng (Thập Độ Ba La Mật) 'bố thí, trì
giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, quyết định,
tâm từ và tâm xả. Do thanh lọc được tâm ý, Ngài đã
mở được cánh cửa tri thức. Ngài biết tất cả những điều
gì cần biết, trau dồi tất cả những điều gì cần trau
dồi, và đoạn trừ tất cả những điều gì cần phải đoạn
trừ. Thật vậy, không có một vị thầy của một tôn giáo
nào khác có thể so sánh với Ngài được trong phạm vi tu
tập và đạt được cứu cánh. Phẩm tính đặc biệt và sức
thuyết phục của thông điệp của Đức Phật mạnh mẽ đến
nơi nhiều người phải hỏi Ngài "Ngài là Gì" (không
nhiều như "Ngài là Ai"). Những câu hỏi '"Ngài
là Ai" ắt liên quan đến tên tuổi, gốc gác, tổ tiên
của Ngài.... trong khi câu hỏi "Ngài là Gì" ắt
muốn biết về đẳng cấp chúng sanh nào mà Ngài tùy thuộc
. Ngài có vẻ thần thánh và gây nhiều cảm kích đến nỗi
ngay cả vào thời Ngài tại thế, có nhiều người đã toan
phong cho Ngài là một vị thần linh hay hóa thân của Thượng
Đế. Ngài chẳng bao giờ đồng ý về điều trên đây.
Trong kinh Anguttara Nikaya, Ngài nói: 'Quả thực Như Lai chẳng
phải là thiên nhân, chẳng phải là càn-thát-bà, chẳng
phải là quỷ thần, chẳng phải là nhân mà Như Lai là
Phật'. Sau khi Giác Ngộ, không thể sắp Đức Phật là một
chúng sinh bình thường vì Ngài thuộc về giống Phật, một
loại giống đặc biệt hay loại các chúng sinh đạt giác
ngộ, tất cả những gì thuộc về Chư Phật. Thỉnh thoảng Chư Phật xuất
hiện nơi cõi trần. Nhưng có một số người lầm lẫn coi
là chỉ vẫn một Đức Phật đó luân hồi hay thị hiện
xuống trần nhiều lần. Thật sự không phải chỉ có một
Đức Phật, mà có nhiều Đức Phật, nếu không chẳng ai có
thể thành Phật được cả. Nguời Phật Tử tin rằng bất
cứ ai cung có thể thành Phật nếu người đó phát triển
những phẩm tính đến mức toàn hảo, và khi người đó có
thể diệt vô minh bằng những cố gắng của chính mình. Sau
khi Giác Ngộ, Chư Phật đều giống nhau trong cứu cánh và
kinh nghiệm về Niết Bàn. Tại Ấn, tín đồ của nhiều giáo
phái chính thống cố gắng kết tội Đức Phật vì giáo lý
phóng khoáng của Ngài đã cách mạng xã hội Ấn thời đó.
Nhiều người coi Ngài như kẻ thù, nhất là khi thấy một
số đông trí thức và những người thuộc đủ các gia
cấp trong xã hội theo tôn giáo của Ngài. Khi âm mưu tiêu
diệt Ngài không thành, họ thay đổi chiến lược và gán
cho Ngài là một hóa thân của một trong các thần linh của
họ. Làm như vậy, họ có thể đem Phật Giáo vào tôn giáo
của họ. Ở một mức độ nào đó, chiến lược này đã
thành công tại Ấn, và do đó qua nhiều thế kỷ, đã làm
suy thoái Phật Giáo và hậu quả là đã làm bật gốc đạo
Phật ra khỏi mảnh đất khởi thủy của tôn giáo này. Ngay cả đến ngày nay một số các
nhà tôn giáo đã cố gắng đem Đức Phật vào tín ngưỡng
của họ, ngõ hầu quy nạp người Phật Tử theo đạo họ.
Chủ yếu làm như để nói là chính Đức Phật đã tiên đoán
có một Vị Phật khác ra đời, và Đức Phật cuối cùng này
lại rất đại chúng hơn. Một nhóm khác lại phong cho một
đạo sư sống 600 năm sau Đức Phật Cồ Đàm là Vị Phật
cuối cùng. Một nhóm khác nói là vị Phật kế tiếp đã đến
Nhật Bản vào Thế Kỷ Thứ 13. Lại cũng có một nhóm khác
tin là vị khai sáng ra đạo của họ thuộc dòng dõi các Đại
Đạo Sư (như Đức Cồ Đàm và Chúa Jesus), và vị khai sáng
này là Đức Phật cuối cùng. Những nhóm này khuyến cáo người
Phật Tử nên bỏ Đức Phật cũ và nên theo Đức Phật
mới. Đồng thời với cái nhìn tốt của ta về họ vì họ
đã coi Đức Phật như những Đạo sư của họ, chúng ta cũng
cảm thấy được thâm ý muốn lôi cuốn ngưòi Phật Tử vào
một niềm tin khác bằng cách xuyên tạc chân lý, quả là
cực kỳ chua cay. Những kẻ cho là Đức Phật mới
đã ra đời rõ ràng xuyên tạc lời Đức Phật nói. Dù Đức
Phật có tiên đoán một vị Phật tương lai sẽ xuất
hiện, nhưng Ngài có nêu rõ có một số điều kiện cần
phải có trước khi điều này có thể xẩy ra. Do đặc tính
của Phật Quả nên Vị Phật Tương Lai sẽ không thị hiện
khi nào mà Giáo Pháp của Đức Phật hiện tại vẫn còn
hiện hữu. Vị Phật tương lai chỉ thị hiện khi Tứ Diệu
Đế và Bát Chánh Đạo hoàn toàn bị quên lãng. Con người
sống thời bấy giờ sẽ được hướng dẫn đúng cách để
hiểu rõ vẫn cái Chân Lý đã được giảng dạy bởi các
Đức Phật trước. Chúng ta hiện nay đang sống trong hệ
thống Giáo Pháp của Đức Phật Cồ Đàm. Mặc dù nền đạo
đức bị suy thoái ở một số người, với rất ít ngoại
lệ, nhưng Đức Phật tương lai chỉ thị hiện sau một
thời gian không thể tính được khi mà nhân loại hoàn toàn
lạc mất con Đường đi tới Niết Bàn và chính lúc đó là
lúc con người sẵn sàng tiếp đón Vị Phật tương lai này. ÂN ĐỨC CỦA ĐỨC
PHẬT Đức Phật xuất hiện để phá
tan cái tăm tối của vô minh và để chỉ cho nhân gian biết
phương pháp giải thoát khỏi khổ đau.
Đức Phật là hiện thân của
tất cả những phẩm hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành
quả của 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển lời nói
thành hành động. Không lúc nào mà Ngài không trình bầy
bất cứ cái yếu đuối của con người hay bất cứ dục
vọng căn bản nào. Giới luật của Đức Phật là giới
luật toàn hảo nhất mà thế giới từng được biết đến. Trên 25 thế kỷ qua, hàng triệu
người đã tìm được nguồn cảm hứng và an ủi trong Giáo
Lý của Ngài. Ngày nay sự vĩ đại của Ngài vẫn rực rỡ
như vầng thái dương chiếu sáng nơi tối tăm. Giáo Lý của
Ngài vẫn đem yên ổn và bình an của Niết Bàn cho người hành
hương lo âu. Không có ai đã hy sinh quá nhiều lạc thú
trần gian để cứu khổ cho nhân loại như Ngài. Đức Phật là vị lãnh đạo tôn
giáo đầu tiên trong lịch sử thế giới khiển trách việc
dùng sanh mạng con vật để hy sinh bất cứ vì lý do gì, và
kêu gọi con người không nên hại bất cứ sinh vật nào. Với Đức Phật, tôn giáo không
phải là chuyện mặc cả nhưng là đường lối để tiến
tới giác ngộ. Ngài không muốn tín đồ của Ngài mù quáng;
Ngài muốn họ suy gẫm một cách tự do và trí tuệ. Toàn thể nhân loại được Ngài
ban phước do sự hiện diện của Ngài. Chưa có lúc nào Ngài dùng đến
những lời bất nhã với bất cứ một ai. Ngay cả đến
những người chống đối Ngài, những kẻ thù xấu nhất,
Ngài cũng không bao giờ tỏ ra thiếu thân thiện với họ.
Một số người có thành kiến, chống đối Ngài và muốn
giết Ngài, nhưng với họ, Đức Phật vẫn không coi họ là
kẻ thù. Đức Phật có lần nói: 'Như voi chiến ra trận,
hứng lãnh làn tên mữi đạn, cũng thế ấy, Như Lai phải
chịu đựng lời nguyền rủa'. (Kinh Pháp Cú, Câu 320). Trong biên niên sử, không có một
nhân vật nào đã hy sinh đem hạnh phúc cho nhân loại như Đức
Phật đã làm. Từ giờ Giác Ngộ cho đến lúc Nhập Diệt,
Ngài không ngừng tranh đấu để nâng cao nhân loại. Ngài
chỉ ngủ có hai giờ một ngày. Hai Mươi Năm Lăm thế kỷ
trôi qua từ khi Vị Đại Đạo Sư này đã qua đời, thông
điệp tình thương và trí tuệ của Ngài vẫn hiện hữu
thuần khiết như lúc ban đầu. Thông điệp của Ngài vẫn
ảnh hưởng sâu xa đến vận mệnh của nhân loại. Ngài là
một Đấng Từ Bi cao cả nhất đã soi sáng thế giới với
tình thương thân ái. Sau khi nhập Niết Bàn, Ngài đã
để lại bức thông điệp bất tử cho chúng ta. Ngày nay hòa
bình thế giới của chúng ta bị đe dọa khủng khiếp. Không
bao giờ trong lịch sử của thế giới thông điệp của Ngài
lại thiết yếu hơn như cho thời đại này. Đức Phật đản sanh để xóa tan
cái tăm tối của vô minh, chỉ cho thế gian làm sao thoát
khỏi khổ đau, bệnh não, suy tàn, cái chết và tất cả lo
âu, đau đớn khổ sở của chúng sanh. Theo một số tín ngưỡng, một đấng
thiêng liêng nào đó sẽ thỉnh thoảng xuất hiện để
diệt kẻ ác, và che chở người lương thiện. Đức Phật
không xuất hiện trên thế gian này để diệt kẻ ác nhưng
để dạy họ con đường chân chính. Trong lịch sử thế giới cho đến
thời kỳ Đức Phật, chúng ta chưa hề nghe thấy một vị
thầy trong bất cứ tôn giáo nào lại chan chứa tình cảm thương
yêu đối với nhân loại khổ đau như Đức Phật? Đồng
thời với Đức Phật, chúng ta có nghe thấy một số nhà
hiền triết Hy Lạp như Socrates, Plato, và Aristotle. Nhưng các
vị này chỉ là những triết gia, những nhà tự do tư
tuởng và những người đi tìm chân lý; họ đều thiếu
sự phát triển tình thương trước sự đau khổ bao la của
chúng sanh. Con đường cứu độ nhân loại
của Đức Phật là dạy cho con người làm sao tìm được
giải thoát. Ngài không chú trọng đến làm nhẹ bớt một vài
trường hợp về thân và tâm bệnh. Ngài quan tâm nhiều đến
việc vạch ra con Đường để mọi người đi theo. Chúng ta hãy lấy tất cả những
triết gia, tâm lý, những nhà tự do tư tưởng, khoa học
gia, duy lý luận, xã hội, các nhà cách mạng vĩ đại nhất
của tất cả các đạo sư của các tôn giáo khác, và với
một tinh thần không thiên vị, chúng ta đem so sánh những vĩ
đại của họ, đức hạnh của họ, ân đức phục vụ
của họ, và trí tuệ của họ với đức hạnh, lòng từ tâm
và sự giác ngộ của Đức Phật. Ta có thể thấy ngay Đức
Phật đứng trong một vị thế nào giữa những người này. BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ VÀ ĐỨC
PHẬT Đức Phật là người chiến
thắng vĩ đại nhất mà thế gian từng được thấy. Giáo lý
của Ngài soi sáng con đường cho nhân loại để vượt
khỏi thế giới tối tăm, hận thù, và đau khổ để tiến
tới một thế giới mới của ánh sáng, tình thương và
hạnh phúc. Đức Phật Cồ Đàm không phải là
một nhân vật huyền thoại nhưng là một con người thật
với nhân cách lịch sử, là người khai sáng ra Đạo Phật.
Bằng chứng xác nhận cuộc sống của vị Đại Đạo Sư
ấy cho thấy trong những sự kiện sau: 1. Lời chứng của những người
đích thân biết Ngài. Những lời chứng này được ghi trên
tảng đá, trụ đá, và các chùa vinh danh Ngài. Những lời
chứng và những lâu đài kỷ niệm Ngài tạo dựng bởi các
vị Vua và nhiều người, rất gần với thời của Ngài nên
có thể kiểm chứng tiểu sử của Ngài. 2. Công trình khám phá những nơi
chôn và tàn tích của những kiến trúc được ghi trong
những bài tường thuật thời Ngài. 3. Tăng Già, đoàn thể thánh
thiện do Ngài khai sáng, vẫn được duy trì hiện hữu cho
đến ngày nay. Tăng Già có những dữ kiện về đời
sống và giáo lý của Ngài được truyền thừa qua nhiều
thế hệ tại nhiều nơi trên thế giới. 4. Sự kiện vào năm Ngài nhập
diệt và vào nhiều thời điểm khác với các cuộc đại
hội được kiết tập bởi Hội Đồng Tăng già để
kiểm chứng giáo lý hiện tại của Vị Khai Sáng. Giáo lý
kiểm chứng được truyền thừa từ Bậc Đạo Sư đến các
môn đồ từ thời Ngài cho đến ngày nay. 5. Sau khi Ngài nhập diệt, xác
thân của Ngài được hỏa táng, và xá lợi của Ngài được
chia cho tám vương quốc tại Ấn. Vua nào cũng đều xây
dựng chùa tháp để thờ xá lợi của Ngài. Phần xá lợi
chia cho Vua Ajata Satthu được thờ trong một ngôi Chùa xây
dựng bởi vị Hoàng Đế này tại Rajagriha. Gần hai thế
kỷ sau, Hoàng Đế Asoka (A Dục) đem xá lợi này chia cho
khắp nước. Những chữ khắc trên những Chùa Tháp xác
nhận xá lợi thờ tại nơi đó là của Đức Phật Cồ Đàm. 6. 'Mahavansa', cuốn lịch sử
thời cổ trung thực nhất cho chúng ta thấy chi tiết về
đời sống của Hoàng Đế A Dục và tất cả những chư
hầu liên hệ đến lịch sử Phật Giáo. Lịch sử Ấn cũng
dành những trang sử vẻ vang nói về đời sống, hành
hoạt của Đức Phật, truyền thống và tập tục của người
Phật Tử. 7. Một vài thế kỷ sau khi Đức
Phật nhập diệt, chúng ta có thể tìm thấy những tài
liệu tại các nước tiếp nhận giáo lý của Ngài như Tích
lan, Miến Điện, Trung Hoa, Tây Tạng, Nepal, Triều Tiên, Mông
Cổ, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên và Lào, đều
một loạt ghi lịch sử, văn hóa, đạo lý, văn học và các
bằng chứng truyền thừa lại do vị Đại Đạo Sư của
Ấn tức Đức Phật Cồ Đàm. 8. Tam tạng kinh điển, hồ sơ
không hề bị gián đoạn trong suốt 45 năm hoằng Pháp
của Ngài thừa đủ để chúng minh là Đức Phật thực
sự sống trên thế giới này. 9. Sự chính xác và trung thực
trong kinh điển Phật giáo cung cấp tài liệu cho những nhà
viết sử Ấn ghi chép lịch sử Ấn trong thế kỷ thứ 5 và
thứ 6 trước Tây Lịch. Các bản văn, tiêu biểu là
những tài liệu cổ điển được tin cậy ghi chép trong
thời thượng cổ Ấn, cho thấy sự thấu hiểu tường t?n
tình trạng xã hội, kinh tế, văn hóa, môi sinh chính trị,
và những hoàn cảnh trong thời Đức Phật cũng như những
người đương thời với Ngài chẳng hạn như Đức Vua Bình
Sa Vương. GIẢI THOÁT QUA QUẢ THÁNH A LA HÁN. Đạt Niết Bàn do quả thánh A La
Hán không phải là ích kỷ. Một số Phật Tử tin giải thoát
bằng cách trở nên A La Hán là một động cơ vị kỷ; vì
lẽ mọi người đều tuyên bố, phải cố gắng thành Phật
để cứu độ người khác. Niềm tin đặc biệt này không có
một chút liên quan gì đến Giáo Lý của Đức Phật. Đức
Phật chẳng bao giờ nói là Ngài muốn cứu độ tất cả các
chúng sanh trên toàn thể vũ trụ này. Ngài chỉ giúp những
ai có tinh thần chấp nhận lối sống cao quý của Ngài. 'Cánh cửa của bất tử đang
mở rộng! Trong giáo lý nguyên thủy của Đức
Phật, không có việc 'cứu người khác'. Theo như phương pháp
chỉ dẫn bởi Đức Phật, mỗi người hay bất cứ ai phải
cố gắng tu hành để thanh tịnh chính mình hầu đạt giải
thoát bằng cách thực hành lời dạy của Ngài. Ta luôn luôn
nhớ tới lời khuyên của Đức Phật: Chính tự các con
phải kiên trì cố gắng để được giải thoát. Chư Phật
chỉ là các vị thầy chỉ đường cho các con' (Kinh Pháp Cú,
câu 276). Niềm tin là mỗi người phải
cố gắng để trở thành Phật hầu đạt giải thoát không
hề được đề cập đến trong Giáo Lý nguyên thủy của Đức
Phật. Nếu tin như vậy thì chẳng khác gì đòi hỏi mỗi người
chúng ta phải trở nên một bác sĩ để chữa bệnh cho chính
mình và cho người. Lời đòi hỏi như vậy không thể thực
thi được. Nếu người bệnh muốn chữa bệnh, phải tuân
theo lời chỉ dẫn của một vị lương y giỏi. Bệnh nhân
dễ dàng làm việc trên mà chẳng cần phải chờ đợi cho
đến khi thành bác sĩ mới chữa được bệnh. Nếu mọi người
đều trở thành bác sĩ hết, thì ai là bệnh nhân? Cũng như
vậy nếu tất cả ai ai cũng thành Phật cả thì ai cứu ai?
Đương nhiên, ai muốn trở thành bác sĩ có thể thực hiện
được ý nguyện mình. Nhưng người đó phải thông minh, can
đảm và có các phương tiện cần thiết mới học thuốc
được. Tương tự như vậy, không phải là bất cứ ai bắt
buộc trở thành Phật, mới có thể giải thoát cho chính mình
được. Ai ước muốn thành Phật, người đó có thể làm
được. Tuy nhiên hành giả phải can đảm, có kiến thức,
hy sinh các tiện nghi của chính mình, từ bỏ trần tục để
đạt Phật Quả. Cũng có những người không mong ước gì hơn
là được mạnh khỏe. Muốn được Quả Thánh A-La-Hán,
ta phải nhổ hết gốc rễ tham ái, và ích kỷ. Điều này hàm
ý trong khi liên hệ với người khác, Vị A-La-Hán phải hành
hoạt với lòng từ bi và cố gắng ảnh hưởng người khác
để họ tiến tu trên đường giải thoát. Vị đó đó là
bằng chứng sống động của những kết quả tốt lành mà
một người đạt được do theo phương pháp chỉ dạy của
Đức Phật. Không thể đạt được Niết Bàn, khi ta hành động
với động cơ ích kỷ. Do đó, thật là vô căn cứ khi nói
rằng nỗ lực để trở thành A La Hán là một hành động
ích kỷ. Phật quả là lý tưởng tối thượng
và cao quý nhất trong ba lý tưởng (Phật, Bích-Chi Phật và
A-La-Hán). Nhưng không phải là bất cứ ai cũng đạt được
lý tưởng tối thượng ấy. Dĩ nhiên tất cả các khoa học
gia không thể trở thành Einsteins và Newtons được. Tuy vậy
cũng vẫn có chỗ cho những khoa học gia kém lỗi lạc hơn
phục vụ cho thế giới tùy theo khả năng của họ. BỒ TÁT Bồ Tát là một chúng sanh hiến
đời mình để Giác Ngộ. Là một đấng từ bi, một vị
Bồ Tát nhắm mục đích đạt Phật quả và qua sự trau
dồi tâm ý, sẽ trở thành Vị Phật tương lai. Muốn đạt Giác Ngộ Tối Thượng,
Bồ Tát thực hành các phẩm hạnh siêu việt (Ba La Mật) đến
mức toàn hảo. Những phẩm hạnh ấy là bố thí, trì
giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, thành
thực, quyết định, tâm từ và tâm xả. Vị Bồ Tát trau
dồi các phẩm hạnh ấy với lòng từ bi, trí tuệ, không
mảy may vì động cơ ích kỷ hay tự phụ. Bồ Tát làm vì
hạnh phúc và an vui của chúng sanh, tìm hiểu cái đau khổ
của người khác qua hàng loạt các kiếp sống không kể
siết. Trên con đường tiến đến toàn hảo, Bồ Tát luôn
luôn sẵn sàng thực hành các phẩm hạnh này đôi khi phải
hy sinh cả thân mạng. Trong Kinh Điển Pali, Thái Tử
Tất Đạt Đa trước khi Giác ngộ, và trong các tiền kiếp
của Ngài, được gọi là Bồ Tát. Chính Đức Phật đã dùng
từ ngữ này khi nói về đời sống của Ngài trước khi Giác
Ngộ. Trong các bản văn bằng tiếng Pali, không có chỗ nào
ghi là Bồ Tát Đạo là con đuờng duy nhất để đạt mục
tiêu tối hậu, hạnh phúc Niết bàn. Rất hiếm có một đệ
tử trong thời Đức Phật bỏ dịp đạt thánh quả mà tuyên
bố Bồ Tát thừa là nguyện vọng của mình. Tuy nhiên, qua vài
hồ sơ cho thấy có một số đệ tử của Đức Phật uớc
nguyện thành Bồ Tát để đạt Phật quả. Trong tư tưởng Đại Thừa, tu hành
hạnh Bồ Tát giữ vai trò rất quan trọng. Lý tưởng Đại
Thừa coi Bồ Tát là chúng sanh đã tiến tới Niết Bàn nhưng
tình nguyện hy sinh đắc quả này trở lại thế gian để cúu
độ các chúng sanh khác. Vị Bồ Tát này vui lòng trì hoãn
việc giải thoát khỏi luân hồi hầu chỉ cho chúng sanh con
đường đạt Niết Bàn. Mặc dù Phật Giáo Nguyên Thủy kính
trọng Bồ Tát, nhưng không cho rằng các Bồ Tát có thể giác
ngộ hay cứu độ các người khác trước khi chính bản thân
các vị này chưa giác ngộ. Cho nên các vị Bồ Tát không
được coi như là các vị cứu thế. Muốn đạt được
giải thoát cuối cùng, tất cả chúng sanh phải theo phương
pháp do Đức Phật dạy và theo gương Ngài. Chúng sanh phải
tự mình nhổ hết gốc rễ ô trược tinh thần và phát
triển tất cả những hạnh lành. Phật Giáo Nguyên Thủy không đồng
ý niềm tin cho rằng mọi người phải tranh đấu để trở
thành Phật hầu đạt Niết Bàn. Tuy nhiên, từ ngữ 'Bồ Đề'
là để dùng khi nói đến các đức tính của một Đức
Phật, một Bích Chi Phật, hay một A-La-Hán để diễn tả
Samma SamBodhi (Giác Ngộ hoàn toàn), PaccekaBodhi (Giác ngộ
của các Bích Chi Phật), và SavakaBodhi (Giác Ngộ của các
Bậc A-La-Hán). Ngoài ra, có nhiều Vị Phật ghi trong các trường
Phái Đại Thừa không phải là các Đức Phật lịch sử,
cho nên Phật Giáo Nguyên Thủy không mấy quan tâm đến. Quan
điểm cho rằng một số các Đức Phật và Bồ Tát lúc nào
cũng đang ở một cảnh giới thanh tịnh chờ đợi những ai
cầu đến các Ngài hoàn toàn xa lạ với giáo lý căn bản
của Đức Phật. Một số Bồ Tát được mô tả là tình
nguyện ở trong các cảnh giới thanh tịnh, tự mình không
cần đến giác ngộ và chỉ giác ngộ khi không còn một chúng
sanh nào cần được cứu độ. Do tầm rộng lớn của vũ
trụ và số lượng chúng sanh không kể siết trong vòng vô
minh và vị kỷ cho thấy rõ ràng là nhiệm vụ đó không
thể thành tựu được, và vì số lượng của chúng sanh có
bao giờ chấm dứt. Có bắt buộc một Vị Bồ Tát
bao giờ cũng phải là một Phật Tử không? Chúng ta có thể
tìm thấy giữa những người Phật Tử, một số có hạnh
hy sinh và rất mến mộ các vị Bồ Tát. Đôi khi có thể
họ cũng không để ý gì đến nguyện vọng cao thượng,
họ chỉ tự nhiên hăng say làm việc để phục vụ người
khác và trau dồi đức tính ban sơ của họ. Tuy nhiên các
Vị Bồ Tát không những tìm thấy trong số Phật Tử mà cũng
có thể tìm thấy ở những người có tôn giáo khác. Những
chuyện tiền thân của Đức Phật, miêu tả gia đình và hình
thái sinh sống Đức Bồ Tát. Đôi khi Ngài tái sanh làm
kiếp thú. Thật là khó có thể tin được là Đức Bồ Tát
này được sanh trong một gia đình đạo Phật vào mỗi
kiếp sống. Tuy nhiên dù sanh duới hình thái nào, hay vào
một gia đình nào, Đức Bồ Tát vẫn tranh đấu cam go để
phát triển phẩm hạnh. Đại nguyện đạt được toàn hảo
từ kiếp này đến kiếp khác cho đến lần sanh chót khi
được thành Phật, là đức tính phân biệt rõ ràng một
vị Bồ Tát với chúng sanh khác. ĐẠT PHẬT QUẢ Đạt Phật Quả là một nhiệm
vụ khó khăn nhất cho một con người theo đuổi trên thế
gian này. Phật Quả không phải chỉ để dành
riêng cho một số người được lựa chọn hay cho các siêu
nhân. Ai cũng có thể thành Phật. Không có một vị khai sáng
tôn giáo nào lại tuyên bố cho tín đồ của mình là họ có
cơ hội và khả năng đạt được địa vị như chính vị
khai sáng đó. Tuy nhiên, đạt được Phật Quả
là một nhiệm vụ khó khăn nhất cho một con người theo đuổi
trong thế gian này. Con người đó phải hết sức nỗ lực,
hy sinh mọi lạc thú trần tục. Người đó phải trau dồi,
thanh lọc tâm ý khỏi tất cả những tư tưởng xấu xa
hầu đạt được sự Giác ngộ này. Con người đó phải
tự thanh tịnh hóa qua vô lượng kiếp, phát triển tâm linh
để trở thành Phật. Rất cần thiết phải qua những quãng
thời gian dài với cố gắng vượt bực mới có thể hoàn
thành được tiêu chuẩn cao tột của sự tự tu này. Tiến
trình tu học tột bực để đạt Phật quả gồm có kỷ
luật tự giác, tự kiềm chế, nỗ lực siêu phàm, quyết tâm,
và thiện chí chịu đựng mọi loại đau khổ vì lợi ích
cho chúng sanh đang đau khổ trong thế gian này. Điều trên đây cho thấy rõ ràng
Đức Phật không đạt Giác Ngộ Tối Thượng chỉ đơn
giản bằng cầu nguyện, sùng bái, hay dâng hiến lễ vật
cho những đấng siêu nhiên. Ngài đạt Phật quả do sự
thanh lọc tâm ý Ngài. Ngài đạt Giác Ngộ Tối Thượng không
do ảnh hưởng của một sức mạnh siêu nhiên bên ngoài nào
mà do do chính sự phát triển tuệ giác của chính Ngài. Như
vậy chỉ ai có quyết tâm, can đảm vượt qua các chướng
ngại, nhược diểm và vị kỷ mới có thể đạt được
Phật quả. Thái Tử Tất Đạt Đa đạt
Phật quả không phải chỉ đơn giản qua một đêm bình thường
ngồi dưới cội cây Bồ Đề. Không có một đấng siêu nhiên
nào xuất hiện và tiết lộ ra một điều gì bằng cách thì
thầm bên tai Ngài lúc Ngài đang nhập định duới cội Bồ
Đề. Đã có một lịch sử dài với nhiều kiếp trước
của Ngài trước khi ngài đạt Phật Quả Tối Thượng.
Nhiều chuyện tiền thân của Ngài cho chúng ta thấy Ngài đã
tận tụy, hy sanh mạng sống trong nhiều kiếp như thế nào
mới đạt Phật quả. Không ai có thể đạt Phật quả mà
không thực hành viên mãn mười điều toàn thiện hay Ba La
Mật. Thời gian cần thiết để phát triển mười điều toàn
hảo này giải thích tại sao một Đức Phật chỉ ra đời
sau một thời gian rất dài. Cho nên lời khuyên của Đức
Phật dặn dò các môn đồ là muốn được giải thoát không
cần phải chờ đợi cho đến khi mỗi chúng ta được thành
Phật. Hành giả có thể đạt giải thoát bằng cách đạt
quả Bích-Chi-Phật hay Thánh quả A-La-Hán. Bích-Chi-Phật hay
Duyên Giác Phật xuất hiện trong thế gian này khi không có
Đức Phật Giác Ngộ nào. Bích-Chi-Phật cũng là những Đấng
Giác Ngộ. Tuy nhiên mức độ toàn hảo thì chưa được tương
đồng như Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng Bích-Chi-Phật
cũng chứng đắc hạnh phúc Niết Bàn. Không giống như Đức
Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, Bích-Chi-Phật không thuyết
giảng cho đại chúng. Các Ngài sống một cuộc đời ẩn
dật. Các Vị A-La-Hán cũng chứng đắc
hạnh phúc Niết Bàn như các chư Phật. Niết Bàn không phân
biệt giữa Chư Phật, Bích-Chi-Phật hay A-La-Hán. Sự khác
biệt duy nhất là A-La-Hán không đạt được Giác Ngộ Tối
Thượng để giác ngộ người khác như chư Phật. A-La-Hán
phải vượt thắng được tham dục và nhược điểm của
con người. A-La-Hán thực hành đúng Pháp do Đức Phật khám
phá và truyền dạy. A-La-Hán cũng chỉ bày cho mọi người
chánh Pháp và con đường tiến tới giải thoát. "Kiccho Buddhanam Uppado" BA THÂN PHẬT Ba thân Phật gồm có: Pháp Thân,
Hóa Thân và Báo Thân. Theo triết lý Đại Thừa, nhân cách
của Đức Phật được phân tích kỷ lưỡng. Theo triết
học này, Đức Phật có ba thân: hay ba khía cạnh của nhân
cách: Pháp Thân, Hóa Thân và Báo Thân. Sau khi một Đức Phật giác ngộ,
Ngài là hiện thân của trí tuệ, từ bi, hạnh phúc và tự
tại. Lúc đầu, chỉ có một Đức Phật trong truyền thống
Phật Giáo. Ngài là Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Tuy
nhiên, ngay trong hiện kiếp của Ngài, Ngài đã phân biệt
giữa Ngài là Bậc Đại Giác, nhân vật lịch sử, và mặt
khác Chính Ngài là hiện thân của Chân Lý. Con người giác
ngộ của Ngài được gọi là Báo Thân. Đó là xác thân
vật chất sanh ra giữa mọi người, đạt Giác ngộ, thuyết
giảng Pháp, và đạt Đại Niết Bàn. Báo thân hay xác thân
vật chất của các Đức Phật có rất nhiều và khác biệt
giữa Đức Phật này với Đức Phật kia. Mặt khác, nguyên tắc giác ngộ
hiện thân nơi Ngài được gọi là Pháp Thân (Dharma-kaya) hay
Chân Thân. Đây là phần tinh hoa của Đức Phật và độc
lập hoàn toàn với con người đã giác ngộ.
"Dharma" có nghĩa là "Chân Lý" và không liên
quan gì đến các lời dạy trong kinh điển. Giáo lý của Đức
Phật cũng bắt nguồn từ cái "Chân Như" hay Chân Lý
ấy. Cho nên Đức Phật thực sự là Chân Lý hay nguyên tắc
của Giác ngộ. Tư tưởng này được nói rõ trong kinh điển
Phật Giáo Nguyên Thủy tiếng Pali. Đức Phật nói với
Vasettha rằng Như Lai là Pháp Thân, 'Chân Thân hay 'Hiện Thân
của Chân Lý' hoặc là Dharmabhuta, 'Trở-Thành Chân Lý', có
nghĩa là ' Người đã trở thành Chân Lý' (Kinh A Hàm). Trong
một dịp, Đức Phật nói với Vakkali: "Kẻ nào nhìn
thấy Pháp tức nhìn thấy Như Lai; ai nhìn thấy Như Lai tức
nhìn thấy Pháp (Kinh A Hàm). Trên đây có nghĩa là Đức
Phật tức Chân Lý, và tất cả các Đức Phật là một và
đều giống nhau, không có gì khác biệt nơi Pháp Thân vì Chân
Lý chỉ có một.'Trong lúc hiện tiền, Báo Thân và Pháp Thân
hợp nhất trong thân Phật. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật
nhập Niết Bàn, có sự khác biệt trở thành rõ nét hơn,
nhất là trong triết học Đại Thừa Phật Giáo. Báo thân
của Ngài chết, và xá lợi của Ngài được tôn thờ trong
những Bảo Tháp ; Pháp thân của Ngài vẫn mãi mãi trường
tồn. Sau này, triết học Đại Thừa
triển khai 'Hóa Thân' (Sambhoga-kaya). Hóa thân được coi như
một hiện thân hay một cách thị hiện nào đó mà Đức
Phật tự tại độ đời, dạy Pháp, thuyết giảng Chân Lý,
huớng dẫn cho ta hiểu Chân Lý, và hoan hỷ độ các người
thiện, người cao thượng. Đó là một niềm hoan hỷ tinh
thần, vị tha và thuần khiết không nên nhầm lẫm với
lạc thú của cảm giác. Hóa thân này tuyệt đối không có
ghi trong các các kinh điển Nguyên Thủy dù rằng quan niệm
về Hóa Thân này được đánh giá cao nếu hiểu theo trong
phạm vi này. Trong giáo lý Đại Thừa, Hóa Thân không giống
như Pháp Thân khách quan và trừu tượng của Đức Phật, mà
Hóa Thân cũng được coi như một người, tuy không phải là
con người lịch sử bình thường. Mặc dù từ ngữ Hóa Thân và Pháp
Thân tìm thấy sau này trong các bản văn Pali xuất phát từ
các bản văn của Đại Thừa và Bán Đại Thừa, học giả
của các truyền thống khác không phản đối. Hòa Thượng
Buddhaghosa trong cuốn Thanh Tịnh Đạo của Ngài nói về
những thân của Đức Phật như sau: "Đức Phật có một sắc thân
đẹp đẽ với tám mươi vẻ đẹp và ba mươi hai tuớng
tốt của một đại nhân, Ngài có một Pháp thân thanh tịnh
tuyệt hảo về mọi mặt, rạng ngời bởi giới luật và
thiền định...đầy huy hoàng và đức hạnh, giác ngộ toàn
bích., không gì có thể so sánh". Mặc dù quan niệm Buddhaghosa thực
tế, nhưng không khỏi tránh được khuynh hướng đạo giáo
siêu nhân hóa quyền năng Đức Phật. Phẩm Atthasallini, nói
trong thời gian ba tháng Đức Phật vắng mặt, khi Ngài
thuyết giảng Vi Diệu Pháp cho mẹ Ngài tại cung trời Đâu
Xuất, Ngài tạo ra một số Hóa Thân giống y như Ngài. Không
thể phân biệt lời nói, giọng nói, và cả đến hào quang
trên thân giữa các hóa thân này và Đức Phật. Đức Phật
hóa hiện này chỉ có thể được khám phá bởi các đấng
phạm thiên thuộc một cảnh giới cao hơn còn những chư thiên
bình thường và người thường không thể nhận biết được.
Từ sự miêu tả này, rõ ràng cho thấy Phật Giáo Nguyên
Thủy thời cổ chấp nhận báo thân hay hóa thân là của
một chúng sanh, và Pháp thân như là sự tổng hợp các Pháp
của Ngài bao gồm các giáo thuyết và giới luật. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05a | 05b
| 06 | 07 | 08
| 09 | 10 | 11
| 12 | 13 | 14
| 15 | 16 | 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Chẳng phải vì ghét người vợ hiền khả ái
Trong thâm tâm - chẳng phải vì kém lòng thương,
Mà vì Phật tính nhiều hơn nên Ngài đã từ bỏ tất cả.
(Dwight Goddard)
Đã trau dồi những điều cần phải trau dồi
Đã đoạn trừ những điều cần phải đoạn trừ
Vậy nên, Brahmin, Như Lai là Đức Phật". (Sutta Nipata)
'Hạnh Phúc Thay, Chư Phật Giáng Sanh' (Kinh Pháp Cú, Câu
194)
Cho những ai nghe theo để từ bỏ học thuyết sai lầm ...
'Bây giờ Như Lai sẽ quay Bánh xe của Đại Định Luật
Để đi vào cảnh giới bất hoại
Nơi đó Như Lai sẽ đánh trống của bất tử
Trên thế gian này đang mò mẫm trong tối tăm'.
-- (Kinh Ariya Pariyesana - Majjhima Nikaya)
Hi hữu thay một Vị Phật ra đời! (Kinh Pháp Cú, câu 182)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001