BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe PHẦN V MỘT
TÔN GIÁO CHO SỰ TIẾN BỘ THỰC SỰ CỦA NHÂN LOẠI Chương 13 BẢN CHẤT, GIÁ TRỊ
VÀ SỰ CHỌN LỰA NIỀM TIN TÔN GIÁO -ooOoo- CON NGƯỜI VÀ TÔN GIÁO Con người là chúng sinh duy nhất
trong thế giới này đã khám phá ra tôn giáo, biết thờ phụng
và cầu nguyện.
Con người phát huy tôn giáo hầu
thỏa mãn lòng mong muốn biết đời sống bên trong chính
mình và thế giới bên ngoài mình. Những nền tôn giáo sơ
khai khởi nguyên thuyết vật linh, khiến con người sợ hãi
về những cái họ không biết và mong xoa dịu những sức mạnh
mà họ nghĩ rằng đang ẩn tàng trong các vật vô tri vô
giác. Thời gian trôi qua, những tôn giáo này dần biến đổi
theo môi trường địa lý, lịch sử, kinh tế xã hội, chính
trị, và tinh thần hiện hữu trong thời gian ấy. Nhiều tôn giáo trở thành có tổ
chức và hưng thịnh cho đến ngày nay do các tín đồ hậu
thuẫn mạnh mẽ. Nhiều người bị lôi cuốn vào các tôn
giáo có tổ chức do hình thức long trọng và nghi lễ, trong
khi một số người lại thích tu tập theo tôn giáo riêng của
họ, trong thâm tâm sùng kính các vị đạo sư của họ và
áp dụng nguyên tắc đạo đức trong đời sống hàng ngày.
Vì sự quan trọng của việc tu tập, tôn giáo nào cũng tự
cho là một cách sống chứ không phải chỉ thuần túy đức
tin mà thôi. Nhìn lại nguồn gốc và con đường phát triển
của nhiều tôn giáo đã trải qua, điều đáng ngạc nhiên
là các tôn giáo của loài người đã khác biệt nhau về phương
pháp giải quyết, về sự hiểu biết và giải thích của
các tín đồ, về mục tiêu và phương cách đạt được, và
về khái niệm thưởng phạt đối với những hành vi đã
làm. Trong phương diện giải quyết, các
lối hành trì có thể căn cứ trên đức tin, lòng sợ hãi,
sự lý luận và tính vô hại: Đức tin hình thành căn bản
của nhiều cách thức tu tập được khai triển để con người
khỏi bị sợ hãi và đáp ứng được những nhu cầu của họ.
Một tôn giáo của những quyền năng thần thông, hay huyền
bí thì khai thác lòng sợ hãi phát xuất từ vô minh và hứa
khả các lợi lạc vật chất căn cứ vào tâm tham ái. Một
tôn giáo của sùng bái thì căn cứ trên cảm xúc và sợ
hãi đối với siêu nhiên và do tin như vậy, có thể được
trấn an bằng nghi thức và nghi lễ. Một tôn giáo của đức
tin thì căn cứ trên lòng mong muốn đạt được sự tự tin
khi phải đương đầu với đời sống và thân phận mong
manh của con người. Một số cách thức tu tập nẩy nở
do kết quả của sự phát triển kiến thức, kinh nghiệm và
trí tuệ của con người. Phương pháp giải quyết hữu lý về
tâm linh đã được áp dụng trong trường hợp này, kết hợp
những nguyên tắc về giá trị con người và các định luật
của thiên nhiên hay vũ trụ. Phương pháp này căn cứ vào
tinh thần nhân đạo và tập trung vào sự trau dồi nhân phẩm.
Một tôn giáo của luật nhân quả hay nghiệp báo căn cứ trên
nguyên tắc tự lực cánh sinh và cho rằng cá nhân tự mình
chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ và về sự
giải thoát của chính mình. Một tôn giáo của trí tuệ căn
cứ trên sự vận dụng lý trí và tìm hiểu đời sống cùng
thực chất của những điều kiện thế gian qua kiến thức
có tính cách phân tích. Tính vô hại và thiện chí là những
yếu tố thông thường hay thấy trong tôn giáo. Một tôn
giáo của hòa bình căn cứ vào nguyên tắc không hại mình
và hại người, các tín đồ phải trau dồi một đời sống
hài hòa, phóng khoáng và an lạc. Một tôn giáo của thiện
chí hay từ-ái căn cứ vào sự hy sinh và phục vụ cho lợi
lạc và hạnh phúc của người khác. Đạo giáo khác nhau theo khả năng
hiểu biết của tín đồ và theo những sự giải thích của
các chức sắc giảng dạy qua giáo lý và cách thức tu tập.
Trong một số tôn giáo, giới chức có uy quyền ban hành luật
lệ tôn giáo và tiêu chuẩn đạo đức, trong khi một số tôn
giáo khác họ chỉ có thể khuyên giảng về nhu cầu và phương
cách để hành theo các tiêu chuẩn ấy. Mỗi tôn giáo đều
đưa ra những lý do về những khó khăn của con người, những
bất bình đẳng và phương cách đối trị. Bằng cách giải
thích, một số tôn giáo cho rằng con người phải đương đầu
với những khó khăn ấy vì con người đang bị xét xử
trên thế giới này. Khi cách giải thích như vậy được
đưa ra, người khác có thể hỏi: "Để làm gì?"
Làm sao con người có thể bị xét xử trên căn bản chỉ một
kiếp sống khi mà mỗi người đều khác nhau về kinh nghiệm,
thể chất, tinh thần, xã hội, kinh tế, các yếu tố và điều
kiện về môi sinh? Mỗi tôn giáo đều có quan niệm
riêng của mình về những gì được coi là mục tiêu của
đời sống tâm linh. Đối với vài tôn giáo thì đời sống
bất diệt nơi cõi trời hay thiên đường với vị Thượng
Đế là cứu cánh cuối cùng. Đối với một số khác, mục
tiêu chủ yếu của đời sống là sự hội tụ của một
tâm thức bao quát tất cả (đại ngã) vì tin tưởng rằng mỗi
kiếp sống là một đơn vị của tâm thức (tiểu ngã) và
nó phải quay trở về với tâm thức nguyên thủy. Một số
tôn giáo tin rằng chấm dứt khổ đau hay chấm dứt vòng
sanh tử là mục đích tối hậu. Đối với tôn giáo khác, cả
đến hạnh phúc thiên đường hay sự hòa nhập với Phạm
Thiên (Đấng Tạo Hóa) chỉ là phụ thuộc trước cái mong
manh của cuộc sống dù đuới bất cứ hình thức nào. Và cũng
có một số tin là đời sống hiện tại chính nó thừa đủ
để chứng nghiệm chủ đích của cuộc đời. Muốn đạt được mục tiêu cứu
cánh, mỗi tôn giáo đưa ra một phương pháp. Một số tôn
giáo bắt các tín đồ phục tùng Thượng Đế hay tùy thuộc
mọi thứ vào Thượng Đế. Một số khác chủ trương khổ
hạnh tuyệt đối là những phương tiện để tự mình thanh
lọc tất cả tội lỗi bằng cách tự hành xác. Một số
khác nữa chủ trương giết thú vật, và nhiều loại nghi thức
và nghi lễ cũng như tụng đọc các loại thần chú để
thanh lọc hầu đạt mục tiêu cuối cùng. Cũng có tôn giáo
hành trì nhiều loại khác nhau về phương pháp và tâm thành
tín, cách chứng nghiệm chân lý, và tập trung tâm ý bằng
con đường thiền định. Mỗi tôn giáo có ý niệm khác
nhau về hình phạt các hành vi tội lỗi. Theo một số tôn
giáo, con người bị Thượng Đế đầy đọa vĩnh viễn vì
sự phạm tội của mình trong kiếp sống này. Một số khác
nói rằng nhân và quả tác động do định luật thiên nhiên
và hậu quả của hành vi chỉ sẽ chứng nghiệm trong một
thời gian nào đó. Một số tôn giáo xác nhận kiếp sống
này chỉ là một trong nhiều kiếp sống, và ai ai lúc nào cũng
có cơ hội để tu sửa qua nhiều giai đoạn tiến triển cho
đến khi đạt được mục đích là Hạnh Phúc Tối Thượng. Trên đây cho thấy một loạt rộng
lớn các phuơng pháp giải quyết, lập luận và mục tiêu
khác nhau của các tôn giáo mà con người đã áp dụng. Điều
rất hữu ích để ta không nên khư khư giữ chặt quan điểm
giáo điều về tôn giáo của mình mà nên rộng mở và khoan
dung với những quan điểm tôn giáo khác. Đức Phật dạy: "Không nên
chấp nhận giáo lý của Như Lai chỉ vì lòng tôn kính Như
Lai, mà trước nhất hãy trắc nghiệm giáo lý ấy giống như
đem vàng thử vào lửa." Sau khi nhấn mạnh sự quan trọng
của việc luôn luôn mở rộng tâm ý đối với tất cả các
học thuyết tôn giáo, phải nên nhớ rằng một tôn giáo phải
được thực thi cho phúc lợi, tự do và hạnh phúc của tất
cả chúng sinh. Đó là nguyên tắc đạo giáo phải được sử
dụng tích cực để cải tiến phẩm chất đời sống của
tất cả chúng sinh. Tuy nhiên ngày nay nhân loại đang suy sụp
và đã đi lạc khỏi những nguyên tắc đạo lý căn bản.
Những hành động vô luân và tội lỗi trở nên càng ngày
càng nhiều, và những người có tâm đạo gập nhiều khó
khăn khi muốn duy trì một số nguyên tắc đạo lý trong đời
sống hiện đại. Đồng thời tiêu chuẩn về nguyên tắc đạo
lý căn bản cũng bị hạ thấp để thỏa mãn đòi hỏi của
những đầu óc ô nhiễm và ích kỷ. Con người không nên vi
phạm tiêu chuẩn đạo đức tổng quát cho hợp với lòng
tham ái hay ham mê của riêng mình. Tốt hơn con người nên tự
điều chỉnh theo những giới luật mà tôn giáo đã chỉ dạy.
Giới luật được tuyên giảng do các bậc đạo sư giác ngộ
đã nhận thức con đường cao thượng của đời sống dẫn
đến an lạc và hạnh phúc. Những ai vi phạm những giới luật
ấy là vi phạm định luật vũ trụ, mà theo Phật Giáo, sẽ
đem lại hậu qủa xấu do hành hoạt của nguyên nhân tinh thần. Mặt khác, việc này không có nghĩa
là ta phải mù quáng tuân hành theo mọi điều trong tôn giáo
của mình, bất chấp có nên áp dụng vào thời đại tiên
tiến hay không. Luật lệ tôn giáo và giới luật giúp cho
con người sống một cuộc đời có ý nghĩa chứ không phải
là để trói buộc con người vào lối hành trì cổ lỗ hay
những nghi lễ và mê tín dị đoan. Một người giữ vững
những nguyên tắc đạo lý căn bản phải tán dương trí
thông minh của nhân loại và phải sống đứng đắn với nhân
phẩm. Có một vài thay đổi trong hoạt động tôn giáo của
chúng ta cho phù hợp với giáo dục và bản chất thay đổi
của xã hội mà đồng thời không phải hy sinh những nguyên
tắc cao thượng chung nhất. Nhưng phải nhận định rằng
thay đổi bất cứ cách thức tu tập nào của tôn giáo bao
giờ cũng khó khăn vì một số người bảo thủ chống đối
lại sự thay đổi, dù rằng những sự thay đổi này mang lợi
ích hơn. Quan điểm bảo thủ này giống như một vững nước
tù hãm, trong khi những ý kiến trong sạch giống như thác nước
và nước tại thác luôn luôn đổi mới nên khả dụng. XUYÊN TẠC TÔN GIÁO Mặc dù giá trị của tôn giáo
trong việc nâng cao đạo đức, nhưng cũng không sai khi nói rằng
tôn giáo là mảnh đất phì nhiêu cho sự phát triển dị
đoan và giả đạo đức thành tín, được che đậy trong lớp
áo choàng tín ngưỡng (đội lốt tôn giáo). Nhiều người dùng
tôn giáo để trốn tránh những thực tế của đời sống,
khoác áo tôn giáo và các biểu tượng đạo pháp. Tuy những
người này cũng hay thường cầu nguyện tại các nơi thờ
phượng nhưng thực ra họ không có đạo tâm và không hiểu
được ý nghĩa tôn giáo là gì. Khi một tôn giáo bị mất
phẩm cách vì ngu si, tham quyền lực và ích kỷ, dân chúng sẽ
chỉ thẳng ngay vào tôn giáo này và nói đó không phải là
chánh đạo. Nhưng "Tôn Giáo" (chỉ sự thực hành
nghi lễ bên ngoài của bất cứ giáo lý nào) phải được
phân biệt từ chính giáo lý của đạo ấy. Trước khi phê
bình, ta phải nghiên cứu giáo lý nguyên thủy của người
khai sáng và xem có điều gì sai quấy trong đó không. Tôn giáo khuyên người làm thiện
và sống thiện, nhưng con người không quan tâm hành động
như thế. Thay vì vậy họ thích bám víu vào những hình thức
hành trì khác chẳng có giá trị đạo lý thực sự gì. Nếu
họ cố gắng trau dồi tâm trí bằng cách diệt trừ ganh tị,
ngã mạn, độc ác, ích kỷ, thì ít ra họ cũng tìm thấy
đường lối đứng đắn để thực hành tôn giáo. Bất hạnh
thay, họ lại làm tăng trưởng lòng ganh tị, ngã mạn, độc
ác và ích kỷ thay vì đoạn trừ chúng. Nhiều kẻ tu cho rằng
mình là người tu hành, nhưng lại phạm tội ác lớn nhất
dưới danh nghĩa tôn giáo. Nhân danh đạo pháp họ chiến đấu,
kỳ thị, và tạo bất ổn làm lạc mất mục đích cao đẹp
của tôn giáo. Từ sự gia tăng nhiều cái được gọi là hoạt
động tôn giáo, chúng ta có cảm tưởng là tôn giáo đang tiến
triển nhưng thực sự là trái lại bởi vì ngày nay chỉ có
một số rất ít tính chất thanh tịnh và hiểu biết là
còn được đem hành tập đúng nghĩa. Tu hành không có gì hơn là mở
mang sự tỉnh thức nội tâm, từ bi và hiểu biết. Những
khó khăn sẽ phải đối mặt trước tiên nhờ vào sức mạnh
tinh thần của chính ta. Trốn chạy khó khăn dưới danh
nghĩa duy tâm là thiếu can đảm. Trong những hoàn cảnh đầy
dao động ngày nay, cả nam lẫn nữ giới đang nhanh chóng tuột
giốc rơi vào sự tự hủy hoại. Trớ trêu là họ lại tưởng
tượng mình đang xúc tiến thực hiện một nền văn minh thật
huy hoàng. Trong cảnh rối loạn này, nhiều
quan niệm đạo lý sáng tạo linh hoạt đã được quảng bá
để tạo thêm cám dỗ và xáo trộn trong tâm con người. Tôn
giáo hiện đang bị lạm dụng để tranh đạt lợi lộc và
quyền lực riêng tư. Một số pháp môn trái đạo đức như
tự do nhục dục, đã được khuyến khích bởi một nhóm
tôn giáo vô trách nhiệm mong đem đạo của họ đến giới
trẻ. Bằng cách khơi dậy những cảm giác dục vọng, những
nhóm này hy vọng quyến rữ được trai gái theo tôn giáo của
họ. Ngày nay trong thị trường đạo giáo, có tôn giáo
thoái hóa thành một loại hàng rẻ tiền không mấy quan tâm
gì đến giá trị đạo đức và những gì mà mình đại diện.
Một số nhà truyền giáo lập luận rằng những hình thức
thực hành về luân lý, đạo đức và giới luật không quan
trọng bằng một người có đức tin và cầu nguyện Thượng
Đế mà người đó tin rằng sẽ đủ sức cứu rỗi mình. Mục
kích một số chức quyền tôn giáo đã lừa dối bịt mắt
tín đồ ra sao tại Âu Châu, Karl Max đưa ra một nhận xét
châm biếm: "Tôn Giáo là tiếng thở dài của sinh vật
bi áp bức, là những cảm nghĩ của một thế giới vô tâm,
chẳng khác gì là linh hồn của những vật thể không linh hồn.
Tôn Giáo là thuốc phiện của con người". Con người cần đạo không phải
vì đạo cho mình một giấc mơ về kiếp sau hay ban cho mình
một số giáo điều để hành trì, theo cách như vậy thì
con người phải từ bỏ trí thông minh của mình và trở
nên mối ưu phiền cho đồng loại. Một tôn giáo phải là một
phương pháp đáng tin cẩn và hợp lý dạy cho con người biết
sống "tại đây và ngay bây giờ" như một chúng
sinh trí thức và hiểu biết, trong khi nêu gương tốt cho
người khác theo. Nhiều tôn giáo đã làm cho con người chuyển
tư tưởng của mình ra khỏi mình để hướng về một một
đấng tối thượng. Nhưng Phật Giáo hướng dẫn con người
tìm an lạc nội tâm bên trong những tiềm năng ẩn nấp
trong chính con người. "Pháp" (có nghĩa là giữ)
không phải là điều mà ta tìm kiếm bên ngoài mình, vì
trong lý giải cuối cùng thì con người là Pháp, và Pháp là
con người. Cho nên, một tôn giáo thực sự tức là Pháp vốn
không phải điều gì chúng ta đạt được từ bên ngoài nhưng
là sự trau dồi và chứng ngộ được trí tuệ, từ bi và
thanh tịnh được phát triển chính trong chúng ta. TÔN GIÁO NÀO ĐÍCH THỰC? Nếu tôn giáo nào có Tứ Diệu Đế
và Bát Chánh Đạo thì có thể coi là một tôn giáo đích thực
. Con người thật rất khó tìm ra tại
sao lại có quá nhiều tôn giáo khác nhau và tôn giáo nào là
một tôn giáo đúng nghĩa. Tín đồ của mỗi tôn giáo cố gắng
trình bầy sự siêu việt của tôn giáo mình. Tính đa dạng
thường tạo ra một số tính đồng dạng, nhưng trong vấn
đề tôn giáo, con người lại nhìn nhau bằng ganh tị, sân hận
và khinh khi. Những pháp môn được kính trọng nhất của một
tôn giáo lại bị một tôn giáo khác cho là lố lăng. Để
giới thiệu những thông điệp thiêng liêng và hòa bình của
mình, một số người lại dùng đến vũ khí và chiến
tranh. Họ có làm ô nhiễm danh từ đẹp đẽ của tôn giáo
không? Hình như có một số tôn giáo chịu trách nhiệm về
sự chia rẽ thay vì đoàn kết nhân loại. Muốn đi tìm một tôn giáo chân
chính và đích thực, chúng ta phải cân nhắc bằng một đầu
óc vô tư xem cái gì đúng là một tôn giáo giả hiệu. Tôn
giáo hay triết lý giả hiệu gồm có: duy vật chủ nghĩa phủ
nhận sự sống còn sau khi chết; chủ nghĩa phi luân lý chối
bỏ thiện và ác; tôn giáo nào khẳng định con người được
cứu rỗi hay bị đọa đầy bằng thần thông, thuyết tiến
hóa hữu thần chủ trương là mọi thứ đều do tiền định
và mọi người có thể được cứu rỗi nhờ đức tin đơn
thuần mà thôi. Phật Giáo không xây dựng trên những
nền tảng bất toàn và bất ổn. Phật Giáo rất thực tế
và có thể xác minh được. Chân lý của Phật Giáo đã được
kiểm chứng bởi Đức Phật, kiểm chứng bởi các đệ tử
của Ngài, và lúc nào cũng mở rộng cho bất cứ ai muốn kiểm
chứng. Và ngày nay, Giáo lý của Đức Phật, đang được xác
minh bởi những phương pháp nghiên cứu khoa học khắt khe nhất. Đức Phật dạy rằng bất cứ hình
thức tôn giáo nào cũng chân chính nếu chứa đựng Tứ Diệu
Đế và Bát Chánh Đạo. Việc này cho thấy rõ ràng Đức Phật
không muốn thiết lập một tôn giáo đặc biệt. Cái mà
Ngài muốn là làm hiển lộ Chân Lý Tuyệt Đối của đời
sống con người và thế giới. Mặc dù Đức Phật giảng dạy
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, những phương pháp này
không phải tài sản độc quyền của người Phật Tử. Đó
là Chân Lý chung của tất cả. Haàu heát hoï thấy cần phải
đưa ra các lập luận để "chứng minh" giá trị
tôn giáo mà họ đang theo. Một số cho rằng đạo giáo của
họ lâu đời nhất cho nên tích lữy chân lý. Số khác cho rằng
đạo giáo của họ là tôn giáo cuối cùng hoặc mới nhất
cho nên tóm thâu chân lý. Một số cho rằng tôn giáo của họ
có nhiều tín đồ nhất cho nên bao gồm chân lý. Tuy nhiên
không một lập luận nào trên đây có giá trị xác đáng để
thiết lập chân lý cho một tôn giáo. Chỉ cần sử dụng lương
tri và hiểu biết, ta cũng có thể đánh giá được một đạo
giáo. Một số truyền thống tôn giáo bắt
con người phải phục tùng một quyền lực cao hơn họ, có
khả năng kiểm soát sự sáng tạo, hành động và sự giải
thoát cuối cùng của họ. Đức Phật không chấp nhận quyền
năng ấy. Ngài cho rằng quyền năng ở chính nơi con người
và xác nhận mỗi người là vị sáng tạo của chính mình,
và chịu trách nhiệm về sự giải thoát của chính mình.
Cho nên tại sao người ta nói: "Không có gì vô thần và
không có gì hữu thần bằng Đức Phật". Tôn giáo của
người Phật Tử cho con người ý nghĩa to lớn về phẩm giá,
và cũng đồng thời cho con người trách nhiệm to lớn. Người
Phật Tử không thể đổ lỗi cho sức mạnh bên ngoài khi tội
lỗi xẩy ra cho mình. Người Phật Tử có thể đương đầu
với bất hạnh trong trầm tĩnh vì hiểu rằng mình có sức
mạnh để thoát ra khỏi tất cả thống khổ. Một trong những lý do tại sao Đạo
Phật lôi cuốn được những người trí thức và có giáo dục
vì Đức Phật thường khuyên tín đồ của Ngài là không
nên chấp nhận điều được nghe thấy (ngay cả điều do chính
Ngài nói) mà chưa trắc nghiệm qua giá trị của nó. Giáo
pháp của Đức Phật được duy trì và tồn tại chính xác
vì nhiều nhà trí thức đã thử nghiệm mọi khía cạnh của
giáo pháp ấy và đã kết luận rằng Đức Phật lúc nào cũng
nói lên Chân Lý không thể phủ nhận được. Trong khi những
nhà tôn giáo khác cố gắng " bảo đảm lại" giáo
lý của vị khai sáng ra tôn giáo của họ dưới ánh sáng của
kiến thức hiện đại về Vũ Trụ thì Giáo lý của Đức
Phật đã được chính các khoa học gia xác chứng. PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC
VÀ TINH THẦN
Không được giáo dục về tinh thần
con người sẽ không có trách nhiệm đạo đức: Con người
không có trách nhiệm đạo đức là mối nguy cơ cho xã hội. Đạo Phật là một ngọn hải
đăng tuyệt vời hướng dẫn nhiều người thuần thành đến
hạnh phúc trường cửu. Nhất là hiện nay Phật Giáo rất cần
thiết cho thế giới đang bị phân hóa bởi các ngộ nhận về
chủng tộc, kinh tế và ý thức hệ. Những sự hiểu lầm
đó không bao giờ có thể xóa tan được trừ phi tinh thần
từ-ái khoan dung được rộng mở đối với nhau. Tinh thần
này chỉ có thể được trau dồi tốt nhất dưới sự hưóng
dẫn của Đạo Phật, một đạo luôn nhấn mạnh vào tinh thần
cộng tác trong luân lý-đạo đức cho sự tốt đẹp của toàn
thể vũ trụ. Chúng ta biết rằng rất dễ dàng học điều
xấu mà không cần đến thầy dạy, nhưng trái lại học điều
tốt cần phải có gia sư. Cho nên hết sức là cần thiết
cho việc dạy đức hạnh bằng các giới luật và gương mẫu. Không đưọc giáo dục về tinh thần,
con người sẽ không có trách nhiệm đạo đức : con người
không trách nhiệm đạo đức là mối nguy cơ cho xã hội. Trong giáo lý của Đức Phật, sự
phát triển tinh thần của con người quan trọng hơn sự phát
triển phúc lợi vật chất. Lịch sử đã dạy chúng ta là
không thể nào mong đạt cả hai cùng một lúc Hạnh Phúc thế
gian và Hạnh Phúc vĩnh cửu . Đời sống của hầu hết mọi
người thường được điều hòa bởi các giá trị tinh thần
và nguyên tắc đạo đức mà chỉ tôn giáo cống hiến mới
có hiệu quả. Sự can thiệp của chính quyền vào đời sống
của người dân tương đối sẽ không cần thiết nếu mọi
người, nam cũng như nữ, có thể hiểu được giá trị của
tâm thành tín, và có thể thực hành được những lý tưởng
cho chân lý, công bằng và phục vụ. Giới đức cần thiết để đạt
giải thoát, nhưng giới đức không thôi chưa đủ. Giới đức
phải được kết hợp với trí tuệ. Giới đức và trí tuệ
giống như đôi cánh của con chim. Trí tuệ cũng có thể so
sánh với đôi mắt của con người; còn giới đức như đôi
chân. Giới đức giống như một chiếc xe mang con người đến
cổng giải thoát. Nhưng trí tuệ là cái chìa khóa thật sự
mở cổng ấy. Giới đức là một phần về phương cách sống
tinh tế và cao thượng. Không có một kỷ luật giới đức
nào thì không thể thanh lọc được những ô nhiễm của kiếp
sống hữu tình. Phật Giáo không phải chỉ là
nghi lễ lố lăng hay một huyền thoại được kể lại để
giải trí hay để thoả mãn cảm xúc của con người, nhưng
là một phương pháp phóng khoáng và cao thượng cho những ai
thực tình muốn hiểu và chứng nghiệm thực chất của cuộc
sống. Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ Thực chất hay giá trị của niềm
tin vào Thượng Đế được căn cứ vào năng lực hiểu biết
và mức trưởng thành về tâm ý của con người.
SỰ PHÁT TRIỂN Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ Truy cứu về nguồn gốc và phát
triển ý niệm Thượng Đế, ta phải quay trở về thời gian
khi mà nền văn minh còn phôi thai và khoa học hiện đại còn
chưa được biết đến. Người thượng cổ do lòng sợ hãi
và ngưỡng mộ đối với hiện tượng thiên nhiên nên tin tưởng
vào những loại ma quỷ và thần linh khác nhau. Họ sử dụng
niềm tin vào ma quỷ và thần linh để tạo thành tôn giáo của
họ. Tùy theo những hoàn cảnh tương ứng và khả năng hiểu
biết, mỗi dân tộc sùng bái thần linh khác nhau và hình
thành những đức tin khác nhau. Vào lúc khởi thủy của ý niệm
Thượng Đế con người sùng bái nhiều thần linh - thần
cây, thần suối, thần sét, thần bão, thần gió, thần mặt
trời, và tất cả các hiện tượng trên trái đất. Những
thần linh này liên quan đến mỗi một hành động của thiên
nhiên. Dần dà con người bắt đầu quy hợp cho các thần
linh này giới tính và hình dạng cũng như các đặc tính thể
chất hay tinh thần của nhân loại. Những thuộc tính con người
quy cho thần linh như thương yêu, hận thù, ganh ghét, sợ
hãi, cao ngạo, ham muốn và tất cả các cảm xúc khác đều
được thấy nơi con người. Từ tất cả các vị thần
này, dần dà nẩy nở một hiểu biết là không có nhiều thần
mà chỉ có Một. Sự hiểu biết này nẩy sanh thuyết độc
thần của thời đại gần đây. Trong tiến trình phát triển, ý niệm
Thượng Đế đã trải qua một loạt sự thay đổi môi trường
xã hội và trí thức. Ý niệm này được nhận định trong
nhiều đường lối khác nhau bởi nhiều người khác nhau. Một
số lý tưởng hóa Thượng Đế như Vua trên Thiên Đường và
Trái Đất; họ có ý niệm Thượng Đế là một con người.
Một số khác nghĩ rằng Thượng Đế chỉ là nguyên tắc trừu
tượng. Một số tôn vinh Thượng Đế là Vua Trời trên
thiên đường cao nhất, trong khi một số lại mang Thượng
Đế xuống những tầng sâu thấp nhất của trái đất. Một
số hình dung Thuợng Đế trên thiên đường, trong khi một số
làm thành thần tượng để thờ phượng. Một số còn đi
xa hơn nữa nói rằng không có Thượng Đế thì không có giải
thoát - dù cho bạn đã làm tốt đến đâu đi nữa, bạn
cũng sẽ không hưởng được quả tốt do hành động của mình
trừ khi bạn hành động do niềm tin nơi Thượng Đế. Kẻ Vô
Thần tuyên bố: "Không" và xác nhận không có Thượng
Đế nào cả. Kẻ Hoài Nghi và Kẻ theo thuyết "không thể
biết" nói: "Chúng tôi không biết hay không thể biết".
Những người theo chủ nghĩa thực chứng lại nói rằng ý
niệm Thượng Đế là một vấn đề vô nghĩa vì ý niệm của
ngôn từ Thượng Đế " không rõ ràng". Trên đây
cho thấy một loạt các quan niệm, niềm tin và danh xưng cho
ý niệm Thượng Đế: đạo phiếm thần, đạo sùng bái thần
tượng, niềm tin vào một vị thần, và niềm tin vào nhiều
nam và nữ thần. Cả đến vị Độc Thần trong thời
đại gần đây cũng phải trải qua hàng loạt thay đổi khi
thông qua các quốc gia và dân tộc khác nhau. Thượng Đế của
người Ấn Độ Giáo khác hẳn Thượng Đế của người Cơ
Đốc Giáo. Thượng Đế của nguời Cơ Đốc Giáo lại cũng
khác hẳn các Thượng Đế của các đức tin khác. Do đó
nhiều đạo giáo xuất hiện như trên; vào lúc cuối mỗi
tôn giáo đều khác biệt hẳn nhau và đều nói "Thượng
Đế là Một". Ý NIỆM THƯỢNG ĐẾ VÀ SỰ SÁNG
TẠO Do xuất hiện và phát triển trên
ý niệm Thượng Đế, mỗi tôn giáo triển khai cách giải
thích riêng của mình về sự sáng tạo. Vậy nên ý niệm Thượng
Đế liên kết với nhiều thần thoại khác nhau. Người ta sử
dụng ý niệm Thượng Đế như một phương tiện để giải
thích sự hiện hữu của con người và bản chất của vũ
trụ. Ngày nay, những người thông minh
sau khi thận trọng kiểm điểm tất cả dữ kiện có giá trị
để đi đến kết luận: giống như ý niệm Thượng Đế, sự
sáng tạo các thần thoại phải được coi như sự tiến hóa
của trí tưởng tượng con người khởi nguyên do hiểu lầm
hiện tượng thiên nhiên. Những hiểu lầm này bắt nguồn gốc
từ sự sợ hãi và ngu dốt của người nguyên thủy. Cả đến
ngày nay, con người vẫn còn giữ những sự giải thích cổ
sơ về sự sáng tạo. Dưới ánh sáng của tư duy khoa học mới
đây thì sự định nghĩa theo thần học về Thượng Đế rất
mơ hồ, và vì lý do đó nên không thể có chỗ đứng nào
trong học thuyết hiện đại về sự sáng tạo hay thần thoại. Nếu con người được sáng tạo
bởi một nguồn gốc bên ngoài, thì con người phải thuộc
về nguồn gốc ấy chứ không phải thuộc chính mình. Theo
Phật Giáo, con người chịu trách nhiệm mọi thứ mà con người
làm. Vì vậy người Phật Tử không có lý do gì tin tưởng
là con người hiện hữu là do nguồn gốc bên ngoài. Người
Phật Tử tin là sở dĩ con người có hiện nay vì chính do
hành động của chính mình. Con người chẳng bị phạt hay
được thưởng bởi ai cả mà do chính mình theo hành động
thiện ác của chính mình. Theo quá trình tiến hóa, loài người
hiện hữu. Tuy nhiên, không thấy Đức Phật có một lời
nào tán thành niềm tin thế giới được sáng tạo bởi một
người nào đó. Khám phá của khoa học về sự phát triển
dần dần của hệ thống thế giới phù hợp với giáo lý của
Đức Phật. NHƯỢC ĐIỂM CỦA LOÀI NGƯỜI VÀ
QUAN NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾ Cả hai quan niệm về Thượng Đế
và những thần thoại liên quan đến sự sáng tạo đã được
bảo vệ và biện hộ bởi những tín đồ cần có những ý
kiến để chứng minh sự hiện hữu và sự ích lợi của họ
trong xã hội loài người. Tất cả những người tin tưởng
này cho rằng họ đã nhận được kinh điển tương ứng
như Sách Khải Huyền; nói một cách khác họ đều công nhận
là đã đi trực tiếp từ Một Thượng Đế. Mỗi tôn giáo
tin Thượng Đế đều cho rằng đạo của mình có nghĩa là
Hòa Bình toàn vũ trụ, tình huynh đệ bao quát khắp thế
gian cùng những lý tưởng cao như vậy. Tuy nhiên dù lý tưởng của tôn
giáo tiếp tay vĩ đại như thế nào, lịch sử thế giới đã
nêu rõ cho đến ngày nay tôn giáo đã hỗ trợ cho việc gieo
rắc mê tín dị đoan. Một số tôn giáo chống lại khoa học
và sự tiến bộ của khoa học, dẫn đến ác cảm, tàn
sát, và chiến tranh. Trên phương diện này, những tôn giáo
tin Thượng Đế đã thất bại trong việc giác ngộ nhân loại.
Thí dụ, tại một vài quốc gia khi dân chúng cầu nguyện
lòng bi mẫn, thì chính những bàn tay của họ lại dấy máu
những con vật vô tội bị hy sinh, và đôi khi của những người
đồng chủng. Những sinh vật khổ sở bơ vơ ấy bị giết
để dâng lên những bàn thờ của các thần linh tưởng tượng
và vô hình. Phải mất một thời gian dài để người ta hiểu
được cái vô ích của những nghi thức độc ác này dưới
danh nghĩa tôn giáo. Bây giờ là lúc họ nên nhận định con
đường thanh tịnh thực sự là do tình thương và hiểu biết. Tiến Sĩ G. Dharmasiri trong cuốn sách
của ông " Phê Bình của Phật Giáo về Quan Niệm Thượng
Đế của Cơ Đốc Giáo" có ghi: "Tôi nhìn thấy dù
khái niệm về Thượng Đế chứa đựng những thành phần
luân lý cao siêu, nhưng khái niệm ấy cũng có ngụ ý rất
nguy hiểm cho con người cũng như cho các chúng sinh trên hành
tinh này. "Một đe dọa chính cho nhân
loại là cái bình phong được gọi là "quyền lực"
đặt lên con người bởi ý niệm Thượng Đế. Tất cả những
tôn giáo hữu thần đều coi quyền lực là tối hậu và
thiêng liêng. Nó là sự nguy hiểm mà Đức Phật vạch rõ
trong Kinh Kalama. Vào thời đó, cá nhân và tự do con người
bị đe dọa nghiêm trọng bởi nhiều hình thức khác nhau của
quyền lực. Nhiều nhân vật có quyền đã nỗ lực bắt Bạn
trở thành tín đồ của họ. Trên đỉnh tất cả những quyền
năng "truyền thống" một hình thức mới của quyền
lực đã nổi bật lên với danh nghĩa "khoa học". Và
mới đây các tôn giáo mới đó đã mọc lên như nấm, và mối
đe dọa của các Trưởng Giáo (Guru) (điển hình bởi Jim
Jones ở Hoa Kỳ) đã trở thành mối đe dọa sống thực cho
tự do và phẩm giá của mỗi cá nhân con người. Lời yêu cầu
bất diệt của Đức Phật là để Bạn có thể trở nên một
Vị Phật. Ngài trình bày bằng một phương cách hữư lý
rõ ràng là mỗi người và mọi người chúng ta có tiềm năng
và khả năng toàn hảo để đạt được lý tưởng ấy. Những tôn giáo tin Thượng Đế
không cống hiến được giải thoát một cách nào mà không
có Thượng Đế. Vì vậy, có thể một người tuy được
nhận là đã tiến đến đỉnh cao nhất của đức hạnh, và
đã sống một cuộc đời chính đáng, và ngay cả đã đạt
đến mức cao nhất của thánh thiện, nhưng cũng vẫn bị đọa
xuống địa ngục vĩnh viễn vì người đó không tin sự hiện
hữu của Thượng Đế. Mặt khác, một người nhiều tội
lỗi, nhưng cuối cùng biết sám hối, cũng có thể được
tha thứ, và được "cứu rỗi". Theo quan điểm của
Phật Giáo, loại học thuyết này không thể biện giải được. Mặc dù những mâu thuẫn hiển hiện
của các tôn giáo tin Thượng Đế, ta đừng nên nghĩ rằng
nên khuyến khích rao giảng chủ nghĩa Vô Thượng Đế vì niềm
tin vào Thượng Đế thực hiện được những công trình phục
vụ vĩ đại cho nhân loại, nhất là tại những nơi mà quan
niệm Thượng Đế được ưa chuộng. Niềm tin Thượng Đế
này đã giúp nhân loại kiểm soát được thú tính của
mình. Và rất nhiều sự giúp đỡ cho người khác đã được
thể hiện dưới danh nghĩa Thượng Đế. Cũng trong lúc đó,
con người cảm thấy không an toàn nếu không có niềm tin
vào Thượng Đế. Họ tìm được sự che chở và cảm hứng
khi có niềm tin đó trong tâm. Thực chất hay giá trị của
niềm tin như vậy được căn cứ trên năng lực hiểu biết
và mức trưởng thành về tâm ý con người. Dù sao, tôn giáo cũng phải quan tâm
đến đời sống thực tiễn. Tôn giáo được sử dụng như
một cương lĩnh để chỉ đạo nếp sống đạo đức của
con người trên thế gian này. Tôn giáo bảo chúng ta điều gì
nên làm, điều gì không nên làm. Nếu ta không thành thật
hành theo một đạo giáo, thì nhãn hiệu tôn giáo hay tin tưởng
suông vào Thượng Đế sẽ không giúp gì cho chúng ta trong đời
sống hàng ngày. Mặt khác, tín đồ của các giáo
phái tranh chấp nhau và kết án đức tin và pháp môn khác -
nhất là để chứng tỏ hay bác bỏ sự hiện diện của Thượng
Đế - và nếu họ nuôi dưỡng tâm sân hận đối với những
tôn giáo khác do quan điểm dị biệt, thì chính họ đang tạo
sự bất hòa to lớn giữa những cộng đồng tôn giáo. Dù
những dị biệt tôn giáo thế nào đi nữa, bổn phận của
chúng ta là phải thể hiện khoan dung, kiên nhẫn, và hiểu
biết. Bổn phận của chúng ta là phải kính trọng tín ngưỡng
của kẻ khác cả đến khi chúng ta không thể phù hợp với
tín ngưỡng ấy. Lòng khoan dung rất cần thiết để đời sống
được hòa hợp và bình an . Tuy nhiên, không có lợi cho mục
đích nào cả để giới thiệu ý niệm Thượng Đế cho những
người chưa sẵn sàng tán đồng ý niệm ấy. Đối với một
số người, niềm tin này không quan trọng để sống một cuộc
đời chánh đáng. Có biết bao người sống một cuộc đời
cao thượng không cần phải tin như vậy trong khi có những kẻ
giữ vững đức tin ấy lại vi phạm hòa bình và hạnh phúc
của người dân vô tội. Phật Tử cũng có thể cộng tác
với những người giữ quan niệm về Thượng Đế, nếu họ
sử dụng quan niệm này cho hòa bình, hạnh phúc, và lợi lạc
của nhân loại nhưng không cộng tác với những ai lợi dụng
quan niệm này bằng cách đe dọa để giới thiệu niềm tin
này chỉ vì quyền lợi riêng tư và các động lực thầm kín.
Trên 2500 năm qua, trên khắp thế giới, người Phật Tử hành
trì và giới thiệu Đạo Phật một cách rất hòa bình
không cần thiết phải chứng minh quan niệm của một Đấng
Tối Cao sáng tạo. Và họ sẽ tiếp tục duy trì tôn giáo
này cũng bằng đường lối đó mà không phiền nhiễu gì
cho những tín đồ tôn giáo khác. Cho nên, với lòng tôn trọng các
người của tôn giáo khác, cần phải ghi nhận là không cần
thiết phải tiến dẫn quan niệm này vào Phật Giáo. Hãy để
người Phật Tử giữ niềm tin của họ vì niềm tin của họ
vô hại với người khác, và hãy để Giáo Lý căn bản của
Đức Phật được duy trì. Từ ngàn xưa, người Phật Tử đã
có một cuộc sống đạo lý hòa bình không cần phải sát
nhập quan niệm đặc biệt về Thượng Đế. Họ vẫn có khả
năng gìn giữ tôn giáo riêng của họ mà không cần thiết
vào lúc thời cơ này, một số người nào đó cố gắng
đem một thứ gì đó tống mạnh xuống cuống họng họ
trái với nguyện vọng của họ. Tin tưởng hoàn toàn vào
Pháp Phật, người Phật Tử có quyền làm việc và tìm sự
giải thoát cho chính mình không cần đến sự can thiệp quá
mức nào từ những nguồn gốc khác. Những người khác có
thể giữ niềm tin và quan niệm của họ, thì người Phật
Tử cũng gìn giữ những điều đó của mình không một ác
ý. Chúng tôi không thách thức những
người khác về mặt tín ngưỡng, chúng tôi mong mỏi sự đối
xử tương đồng lẫn nhau về niềm tin và sự tu tập của
chúng tôi. ÐỔI ĐẠO TRƯỚC KHI CHẾT Chỉ tin là có người sẽ rửa sạch
được hết tội lỗi cho ta mà không cần phải ngăn chận các
tâm sở bất thiện trong ta, điều đó không phù hợp với
Giáo Lý của Đức Phật. Chúng ta rất thường gặp các truờng
hợp của những người thay đổi đạo lúc cuối cùng khi gần
chết. Do đi theo tôn giáo khác, một số người đã tin tưởng
lầm rằng họ có thể "rửa sạch hết tội lỗi",
và dễ dàng tiến bước trên con đường dẫn đến thiên đàng.
Họ cũng hy vọng được bảo đảm có một tang lễ đơn giản
và tốt đẹp hơn. Đối với người đã sống gần trọn đời
với một đạo giáo đặc biệt nào đó, đột nhiên theo một
tôn giáo hoàn toàn mới lạ, không quen thuộc và hy vọng có
sự giải thoát ngay tức khắc nhờ vào đức tin mới
đương nhiên quả thật là gượng gạo. Đó chỉ là một giấc
mơ mà thôi. Có một số người đổi đạo khi đang ở trong
tình trạng hôn mê, và một số trường hợp sau khi chết.
Những ai quá hăng hái và cuồng tín về việc muốn đổi đạo
giùm người khác vào đạo mình, đã hướng dẫn sai lầm những
người kém hiểu biết tin tưởng rằng đạo của họ là
tín ngưỡng duy nhất với phương pháp dễ dàng hay là ngõ tắt
tới thiên đàng. Nếu ta được dẫn dắt để tin là có một
người nào đó, đang ngồi nơi nào đó có thể rửa sạch hết
tội lỗi ta đã gây ra trong cả cuộc đời, thì niềm tin
này chỉ khuyến khích người khác phạm tội lỗi mà thôi. Trong Giáo lý của Đức Phật, không
có lòng tin vào một người nào đó có thể rửa sạch được
hết tội lỗi cho mình. Chỉ khi nào thành thực nhận định
mình đã hành động sai lầm và sau khi hiểu rõ được điều
này, ta nỗ lực sửa đổi lại và làm việc lành thì mới
có thể chặn đứng hay làm mất tác dụng những nghiệp bất
thiện tích lữy do tội lỗi mà họ gây ra. Trong nhiều bệnh viện thường
hay có cảnh các nhà thầu tôn giáo nào đó lảng vảng bên
bệnh nhân và hứa hẹn với họ một " đời sống sau
khi chết". Điều này nhằm khai thác cái vô minh căn bản
và tâm lý sợ hãi của các bệnh nhân. Nếu thực tình họ
muốn giúp đỡ, thì họ có thể làm những "phép lạ"
mà họ hãnh diện cho là nằm trong thánh kinh. Nếu quả họ
có thể làm phép lạ, chúng ta khỏi cần đến bệnh viện.
Người Phật Tử không nên trở thành nạn nhân của những
người ấy. Phật Tử phải học căn bản giáo lý của tôn
giáo cao thượng đã dạy mình rằng khổ đau là số phận căn
bản của loài người. Chỉ có một phương cách để chấm
dứt khổ đau là thanh lọc tâm trí. Cá nhân tạo đau khổ
cho chính mình, thì chỉ có cá nhân đó mới chấm dứt khổ
đau được. Ta không thể mong nhổ được hậu quả các
hành động tội lỗi của mình đơn giản chỉ bằng cách đổi
đạo trước ngưỡng cửa của tử thần. Vận mệnh của một người sắp
chết trong kiếp tới tùy thuộc vào những chập tư tưởng
cuối cùng xuất hiện nơi người đó tùy theo nghiệp thiện
ác đã tích lữy trong cuộc đời hiện tại, bất chấp loại
nhãn hiệu tôn giáo nào mà người đó tự khoác lên mình
vào giây phút cuối cùng. CON ĐƯỜNG TẮT TỚI
THIÊN DÀNG
Thiên Đàng không phải chỉ dành
riêng cho tín đồ một tôn giáo đặc biệt nào nhưng rộng
mở cho mỗi và mọi người đã sống một cuộc đời chính
đáng và cao thượng. Nếu người Phật tử thực tình
muốn lên Thiên Đàng, điều ấy không khó khăn gì. Nhưng có
một số người đi đến từng nhà cố gắng thuyết phục
các nguời đạo khác đổi đạo theo đạo mình và hứa khả
thiên đàng họ mang theo trong bị của họ. Họ tuyên bố là
chỉ họ mới là người có phước lành có thể lên thiên
đàng; họ cũng tuyên bố là họ có độc quyền gửi người
khác lên thiên đàng. Họ giới thiệu tôn giáo của họ như
một món thuốc đặc quyền chế tạo, và việc này đã trở
nên mối phiền toái cho dân chúng ngày nay. Nhiều người chất
phác thiếu hiểu biết đạo của mình, đã trở thành nạn
nhân của những người bán thiên đàng ấy. Nếu người Phật Tử có thể hiểu
được giá trị Giáo Lý Cao Quí của Đức Phật, họ sẽ không
bị lầm đường lạc lối bởi những người như thế. Những
kẻ bán thiên đàng này cũng cố gắng lừa gạt người dân
bằng cách nói rằng thế giới này do Thượng Đế tạo ra,
và ngày tận thế sắp đến. Những ai muốn đời sống trường
cửu tuyệt vời trên thiên đàng phải nên chấp nhận tôn
giáo đặc biệt của họ trước ngày tận thế, nếu không
bỏ mất cơ hội bằng vàng này và phải bị đau khổ vĩnh
viễn dưới địa ngục. Sự đe dọa ngày tận thế này đã
được lưu truyền hàng bao trăm năm nay. Điều ngạc nhiên
là ngày nay vẫn có những người tin vào sự đe dọa không
hợp lý và tưởng tượng ấy. Một số người đổi đạo
sau khi nghe họ thuyết giảng mà không sử dụng đến lương
tri. Trong Phật Giáo không có quan tòa
riêng tư nào để phạt hay thưởng mà chỉ có sự hành hoạt
của nguyên nhân tinh thần vô tư và định luật thiên
nhiên. TẠI SAO KẺ ÁC LẠI VUI HƯỞNG TRONG
KHI NGƯỜI TỐT LẠI ĐAU KHỔ? Một số người hỏi: - "Nếu
ở hiền gặp lành, ở ác gặp xấu" tại sao trên đời
này có nhiều người tốt lại bị khổ trong khi những kẻ
xấu lại được sung sướng?" Trả lời cho câu hỏi
này: theo quan điểm Phật Giáo có người dù tốt do bản chất,
nhưng vì không tích lũy đủ công đức ở tiền kiếp để
bù trừ hậu quả xấu của nghiệp bất thiện trong kiếp
này; ở một nơi nào đó trong quá khứ họ đã phạm lỗi lầm.
Mặt khác, có người xấu do bản chất nhưng được hưởng
phước ở kiếp này trong một thời gian ngắn do thiện nghiệp
mạnh mẽ mà họ tích lữy được trong tiền kiếp. Thí dụ có một số người bởi
bản chất được di hưởng một thể chất cường tráng
nên họ hưởng được một sức khỏe rất tốt. Sức chịu
đựng về thể lực của họ rất mạnh nên họ không hay bị
đau yếu. Mặc dù họ không áp dụng biện pháp phòng ngừa
cẩn thận, sống hợp vệ sinh, họ vẫn mạnh và khỏe trong
khi có những người khác uống nhiều loại thuốc bổ và
sinh tố, dùng thực phẩm giàu dinh dưỡng khỏe để tăng thể
lực, nhưng dù cố gắng để được mạnh khỏe, sức khoẻ
của họ vẫn không thấy khá hơn. Bất cứ hành vi nào tốt hay xấu
tạo ra trong hiện kiếp, nhất định sẽ có phản ứng ngay
trong đời này hoặc kiếp sau. Không thể nào chạy trốn khỏi
hậu quả như chỉ đơn giản bằng cầu nguyện, nhưng phải
bằng cách trau dồi tâm ý, và sống một cuộc đời cao thượng. Người Phật Tử được khuyến
khích làm điều thiện không phải để đạt một chỗ trên
thiên đàng. Họ tạo thiện nghiệp để mong nhổ tận gốc
rễ lòng vị kỷ và để chứng nghiệm bình an và hạnh
phúc. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 | 11 | 12
| 13 | 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001