BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 2 THÔNG
ĐIỆP CỦA ĐỨC PHẬT -ooOoo- THÔNG ĐIỆP CHO TẤT
CẢ Đức Phật, đóa hoa của nhân
loại, không còn trên thế giới này nữa, nhưng hương thơm
bức thông điệp hòa bình của Ngài vẫn muôn đời tỏa ngát. Phật Giáo là một tôn giáo cổ
nhất còn được hành trì cho đến ngày nay. Trong khi có
nhiều tôn giáo khác tại Ấn, đã đi vào quên lãng, giáo lý
của Đức Phật, (được gọi là Phật Pháp), vẫn rất thích
hợp và cần thiết cho nhu cầu xã hội hiện tại. Lý do trên
là vì Đức Phật lúc nào cũng tự coi mình như một vị đạo
sư của loài người với thông điệp chủ trương mang hạnh
phúc và an lạc cho tất cả chúng sanh. Mối quan tâm đầu tiên
của Ngài là giúp đỡ các môn đồ có một cuộc sống bình
thường không đi đến cực đoan hay hoàn toàn chỉ muốn hưởng
dục lạc. Bản chất thực của giáo lý Đức
Phật nêu rõ sự kiện là không phải bất cứ ai cũng đạt
được cứu cánh giải thoát chỉ trong một kiếp khi mà các
ô trược tinh thần còn cắm rễ quá sâu trong tâm thức.
Một số người có tinh thần vượt trội hơn người khác,
có thể tiến tu đến mức độ cao hơn tùy theo căn cơ của
họ. Nhưng mỗi cá nhân đều có tiềm năng cơ bản để đạt
được mục tiêu tối thượng của Phật Quả nếu người
đó có quyết tâm và thiện chí. Đến bây giờ giọng nói dịu dàng
và hiền hòa của Đức Phật vẫn còn văng vẳng bên tai chúng
ta. Đôi khi chúng ta có lẽ cũng cảm thấy hổ thẹn vì chúng
ta không hiểu Ngài hoàn toàn. Đôi khi chúng ta chỉ tán thán
Giáo Lý của Ngài và kính trọng Ngài, nhưng chúng ta lại không
cố gắng thực hành điều Ngài giảng dạy. Giáo Lý của Ngài
và Thông Điệp của Ngài đã ảnh hưởng đến tất cả
mọi người từ hàng ngàn năm dù họ tin hay không tin vào tôn
giáo. Thông Điệp của Ngài dành cho tất cả nhân loại. Mặc dù Đức Phật, đóa hoa của
nhân loại, không còn trên thế gian này nữa, hương thơm
ngọt ngào và hương vị thanh khiết Giáo Lý của Ngài đã
bay tỏa tới muôn phương. Hương thơm êm dịu đã trấn tĩnh
và lắng đọng tâm tư hàng triệu người. Mùi thơm huyền
diệu thâm nhập nội tâm và đem niềm vui đến mọi quốc
độ chấp nhận Giáo Lý của Ngài. Lý do Giáo Lý của Ngài
đã chinh phục hàng triệu con tim vì Giáo Lý này được
truyền bá chẳng bằng vũ khí hay sức mạnh chính trị mà
bằng từ bi và tình thương yêu nhân loại. Không một giọt
máu nào đổ ra làm hoen ố con đường thanh tịnh. Đạo
Phật thắng bằng sự giao tiếp ấm áp của tình thương
chứ không phải bằng móng vuốt lạnh lẽo của khiếp sợ.
Sự sợ hãi thần quyền và chủ thuyết lửa địa ngục
bất tận không hề có trong Đạo Phật. Trong 25 thế kỷ qua từ khi Đức
Phật xuất hiện, thế gian đã có nhiều thay đổi. Nhiều Vương
Quốc mọc lên rồi tan rã, nhiều quốc gia hưng thịnh rồi
suy tàn. Rất nhiều văn minh thời quá khứ đó đã đi vào
quên lãng. Nhưng tên Đức Phật vẫn sống động trong tâm tư
cả hàng triệu người trên thế giới ngày nay. Vương Quốc
của Chánh Đạo mà Ngài xây dựng, vẫn hùng hậu và vững
vàng. Mặc dù nhiều chùa tháp, đền đài, hình ảnh, thư
viện, và những biểu tượng tôn giáo xây dựng để vinh
danh Ngài nay không còn nữa nhưng Danh Xưng Cao Quí không tỳ
vết của Ngài và thông điệp của Ngài bất diệt trong tâm
các người có văn hóa. Đức Phật dạy chiến thắng vĩ
đại nhất của con người không phải là chinh phục được
người khác mà là tự thắng mình. Ngài dạy trong Kinh Pháp
Cú: "Dù có chinh phục hàng muôn người ở chiến trường,
nhưng chinh phục chính mình mới là chiến thắng cao quí
nhất". Có lẽ bằng chứng điển hình
nhất cho thấy Thông Điệp Từ Bi vĩ đại của Ngài đã
cảm hóa con người tàn bạo nhất là trường hợp của Hoàng
Đế A Dục. Vào khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập
diệt, vị Hoàng Đế này đã hung bạo đem quân đánh giết
trên khắp lãnh thổ Ấn, gieo bao đau thương khủng khiếp.
Nhưng khi vị Vua này thông suốt được Phật Pháp, đã hối
hận về những tội lỗi gây ra. Ngày nay chúng ta nhớ ơn và
tôn kính vị Hoàng Đế này, là sau khi chuyển hóa về với
con đường hòa bình, ông đã lao mình và một cuộc chiến
khác: một cuộc chiến đem hòa bình cho nhân loại. ông đã
chứng minh rõ ràng Đức Phật quả không sai khi Ngài nhận
định sự vĩ đại thật sự phát xuất từ lòng thương yêu
chứ không phải hận thù, do khiêm tốn chứ không phải kiêu
mạn, do từ bi chứ không phải tàn bạo. Hoàng Đế A Dục đã tự hoán
cải con người ông từ tàn ác thành nhân hậu hoàn toàn: ông
đã cấm việc giết cả đến các súc vật tại vương
quốc của ông. ông hiểu sở dĩ thuộc hạ trộm cắp vì
thiếu thốn, cho nên ông giảm bớt những nhu cầu trong nước.
Nhưng điều quan trọng trên hết là việc ông giáo huấn các
đệ tử của Đức Phật luôn luôn nhớ đến giáo lý của
Ngài là không bao giờ ép buộc người tôn giáo khác thay đổi
niềm tin với các giáo chủ của họ. Có những trường
hợp, chúng ta được biết có những vị Vua, sau khi đổi đạo,
khát máu, đã dùng gươm đao để truyền bá đạo của mình!
Chỉ đạo Phật có thể tự hào có một vị Vua vĩ đại như
thế không ai sánh bằng từ trước cho đến nay. Giáo Lý của Đức Phật được
đưa ra để xã hội có thể tiến bộ về văn hóa và văn
minh hầu sống trong hòa bình và hòa hợp. Tất cả những
vấn đề khó khăn nhất trong cuộc sống sẽ được thấu
suốt hơn nếu chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập lời
Phật dạy. Đức Phật đề cập vấn đề khổ đau của nhân
loại một cách thẳng thắn và trực tiếp. Đức Phật là người chinh phục
vĩ đại nhất mà thế giới từng đư?c biết. Ngài chinh
phục thế giới bằng vũ khí luôn luôn có hiệu quả của tình
thương và chân lý. Giáo lý của ngài soi sáng con Đường
cho nhân loại để vượt qua một thế giới tối tăm, hận
thù và đau khổ, tiến tới một thế giới của ánh sáng, tình
thương và hạnh phúc. THẦN THÔNG PHÉP LẠ Theo Phật Giáo, nếu một kẻ
dộc ác có thể trở thành một người thánh thiện, đó
mới chính là phép mầu. Trong mọi tôn giáo chúng ta thường
nghe về những phép lạ thi triển bởi các nhà khai sáng hay
các đệ tử của họ. Trường hợp của Đức Phật, nhiều
hiện tượng mầu nhiệm xẩy ra từ ngày Đản Sanh cho đến
ngày Nhập Niết Bàn của Ngài. Nhiều sức mạnh tâm linh (được
gọi là thần thông phép lạ ở những tôn giáo khác) của
Đức Phật đã đạt được trong suốt thời gian Đức
Phật tu tập thiền định. Đức Phật đã qua những bậc
thiền tập cao thâm nhất và tiến tới tự đạt được trí
tuệ tối thượng. Sự chứng đắc ấy qua thiền định không
phải là phép mầu mà là sức mạnh của bất cứ một nhà
tu hành khổ hạnh nào cũng có thể đạt được. Dùng thiền định trong đêm Giác
Ngộ, Ngài đã nhìn thấy những kiếp trước của Ngài,
nhiều cuộc sống trong quá khứ với tất cả những chi
tiết, Ngài nhớ tới những kiếp trước, đã hành hoạt gì
trong những kiếp ấy để đạt giác Ngộ. Rồi trong lần
nhập định thứ nhì, Ngài nhìn thấy tất cả vũ trụ, hệ
thống của Nghiệp và Tái sanh. Ngài thấy thế gian tạo nên
bởi các chúng sanh cao quí và các chúng sanh tội lỗi, hạnh
phúc và bất hạnh. Ngài nhìn thấy họ liên tục đi đến cái
" chết do các hành động của họ" biến từ một
kiếp này sang một kiếp khác. Cuối cùng, Ngài thấu rõ
bản chất của Khổ đau, Nguyên nhân của Khổ, và con Đường
đi đến diệt Khổ. Và trong lần nhập định thứ ba, Ngài
thấy Ngài hoàn toàn thoát khỏi các ràng buộc của thế nhân
hay thần thánh. Ngài hiểu rõ Ngài đã làm xong những gì
cần phải làm. Ngài thấy rõ Ngài không còn phải chịu tái
sanh nữa và đây là thân xác cuối cùng của Ngài. Hiểu
biết đạt được trên đây dẹp tan vô minh, tăm tối và ánh
sáng ngời tỏa trong Ngài. Ngài đạt được sức mạnh tâm
linh và trí tuệ này trong lúc ngồi tham thiền dưới cội
bồ đề. Đức Phật sanh ra bình thường và
sống bình thường. Nhưng Ngài là một người phi thường,
Ngài quan tâm đến Giác Ngộ. Những kẻ không biết trân
trọng Trí Tuệ tối thượng của Ngài, chỉ cố giải thích
sự vĩ đại của Ngài bằng cách hé nhìn vào đời sống
của Ngài, và đi tìm kiếm thần thông phép lạ. Sự Giác
Ngộ tối thượng của Ngài đã thừa đủ cho chúng ta thấy
sự Vĩ Đại của Ngài. Không cần thiết để chúng minh sự
Vĩ Đại ấy bằng bất cứ phép thần thông nào. Đức
Phật hiểu rõ thần thông có thể đắc được do sự rèn
luyện tâm trí của con người. Ngài cũng biết đệ tử
của Ngài có thể đạt được thần thông ấy qua việc phát
triển tinh thần. Cho nên Đức Phật khuyên các đệ tử không
nên dùng thần thông phép lạ để quy nạp các người
thiếu hiểu biết. Ngài nhắc đến những thần công lực như
đi trên mặt nước, phù phép, làm người chết đứng dạy,
và thi triển những cái gọi là phi thường. Ngài cũng muốn
nhắc đến những cách đoán thần thông như tha tâm thông,
tiên tri, bói toán, vân vân ...Khi những người kém hiểu
biết nhìn thấy những phép lạ ấy, cho rằng là thật nên
càng tin tưởng. Nhưng những người cải đạo chỉ trên
danh nghĩa này bị một tôn giáo hấp dẫn bởi những loại
thần thông trên, chỉ ôm ấp một đức tin, đức tin không
phải do họ chứng ngộ đuợc chân lý mà do họ nuôi dưỡng
ảo giác. Ngoài ra một số người cho rằng các thần thông
phép lạ ấy là do bùa phép. Thật sự khi Đức Phật hướng
dẫn mọi người nghe Pháp, Ngài chỉ kêu gọi khả năng phán
đoán của họ. Câu chuyện sau đây minh họa thái
độ của Đức Phật đối với những phép thần thông.
Một ngày nọ, Đức Phật gặp một đ?o sĩ bên bờ sông. Nhà
tu này đã bỏ 25 năm để đạt thần thông bằng khổ
hạnh. Đức Phật hỏi đạo sĩ xem ông đã gặt được
kết quả gì sau nhiều năm lao khổ. Rất hãnh diện nhà tu
khổ hạnh trả lời là bây giờ ông có thể đi trên mặt nước
để qua sông. Đức Phật chỉ cho ông ta thấy việc đạt
thần thông của ông hoàn toàn vô nghĩa sau bấy nhiêu năm
khổ luyện, vì ông ta có thể qua sông mà chỉ tốn có một
đồng xu đi đò! Trong một vài tôn giáo, phép lạ
thi triển bởi một người có thể giúp người đó trở nên
một vị thánh. Nhưng trong Phật Giáo, phép lạ có thể là
một chướng ngại cho người muốn đạt thánh quả, đạt
thánh quả là do sự tu tập từng bước một của một cá
nhân. Muốn đạt thánh quả, mỗi người phải hành trì qua
sự tự thanh tịnh hóa lấy mình và không ai có thể làm cho
một người khác thành thánh được. Đức Phật dạy rằng một người
có thể đắc thần thông mà không đạt được trí tuệ. Đức
Phật dạy nếu trước tiên chúng ta đạt được trí tuệ
nhiên hậu chúng ta sẽ được phép lạ và cả thần thông
về tâm linh. Nhưng nếu chúng ta phát triển thần thông mà
không phát triển trí tuệ, chúng ta sẽ bị nguy hiểm. Chúng
ta có thể lạm dụng thần thông vào những lợi lộc thế
gian. Có nhiều người đã đi lệch ra khỏi chánh đạo vì dùng
thần thông mà không phát triển trí tuệ. Nhiều người đắc
được một vài thần thông phép lạ, đã gục ngã vì danh
vọng hão huyền khi thu được một vài lợi lạc thế gian. Nhiều cái đưọc gọi là phép
lạ do một số người nói đến chỉ là tưởng tượng và
ảo giác tạo ra bởi đầu óc thiếu hiểu biết đúng bản
chất của sự vật. Những hiện tượng đó vẫn được coi
là phép lạ chừng nào người ta vẫn chưa hiểu đưọc
thực chất của chúng là gì. Đức Phật cũng cấm các đệ
tử của Ngài dùng thần thông để chứng minh sự ưu việt
của giáo lý của Ngài. Trong một dịp Ngài nói dùng các phép
lạ để quy nạp ngoại đạo thì chẳng khác gì dùng vũ
nữ để mê hoặc người khác làm một điều gì. Bất cứ
ai với sự rèn luyện tinh thần đúng cách cũng có thể thi
triển thần thông vì chúng chỉ là sự biểu lộ của một
tâm trí vượt trên vật chất. Theo Đức Phật, phép lạ của
sự chứng nghiệm mới đúng là phép lạ. Khi một kẻ giết
người, trộm cắp, khủng bố, say rượu hay gian dâm, nhận
thức được việc làm của mình sai quấy, kẻ đó thay đổi,
từ bỏ lối sống xấu xa, vô luân và gây tai hại, sự thay
đổi này mới thật là phép lạ. Sự thay đổi để thăng
tiến do sự hiểu biết Pháp là phép lạ cao cả nhất mà
bất cứ ai cũng có thể làm được. ĐỨC PHẬT IM LẶNG Khi người hỏi không thể hiểu được nghĩa lý thực
sự của câu trả lời cho câu hỏi đó, và khi một câu
hỏi đặt ra cho Ngài sai, Đức Phật giữ im lặng. Kinh điển có nêu trong một vài
dịp, Đức Phật im lặng trước những câu hỏi. Một vài
học giả, thiếu hiểu biết ý nghĩa sự im lặng của Ngài,
đã kết luận vội vã là Đức Phật không trả lời được.
Đúng là có một vài dịp, Đức Phật không trả lời
những câu hỏi về siêu hình, có tính cách lý luận suông,
có nhiều lý do tại sao Ngài đã giữ sự im lặng cao thượng
đó. Khi Đức Phật biết được người hỏi không ở trong tư
thế của một người hiểu được câu trả lời vì sự thâm
thúy của nó, hay những câu hỏi đã sai ngay từ lúc đầu,
Đấng Giác Ngộ giữ im lặng. Đức Phật im lặng trước
một số câu hỏi sau đây: 1. Vũ trụ có bất diệt không? Đức Phật đã nhận thức rõ
những vấn đề này, Ngài đã im lặng cao thượng. Một người
bình thường chưa giác ngộ hẳn có nhiều giải thích, nhưng
tất cả điều đó chỉ là phỏng đoán sai lệch của trí tưởng
tượng. Cái im lặng của Đức Phật trước
những câu hỏi rất nhiều ý nghĩa hơn là cả ngàn bài
thuyết giảng về những câu hỏi này. Sự nghèo nàn của ngôn
từ của nhân loại xây dựng trên những kinh nghiệm tương
đối không hy vọng truyền đạt Sự Thật rộng sâu mà
một người tự mình chưa hiểu biết được qua tuệ giác.
Trong một vài dịp, Đức Phật rất kiên nhẫn giảng giải
là ngôn ngữ thế gian giới hạn không thể mô tả hết được
Chân Lý Tối Thượng. Nếu Chân Lý Tối Thượng là tuyệt
đối, thì nó không có một điểm nào để cho người phàm
phu, với chỉ bằng kinh nghiệm thế gian và sự hiểu biết
tương đối có thể căn cứ vào mà nhận thức thấu đáo
được. Nếu cố gắng tìm hiểu với một khái niệm tinh
thần hạn chế, họ sẽ hiểu nhầm Chân Lý chẳng khác chi
bẩy người mù sờ con voi. Người nghe mà chưa hiểu đưọc
Chân Lý không thể hiểu được lời giải thích, giống như
một người bị mù ngay từ khi lọt lòng thì làm sao hiểu
được mầu sắc của bầu trời. Đức Phật đã không trả lời
tất cả những câu hỏi đặt ra cho Ngài. Ngài không bắt
buộc phải trả lời các câu hỏi vô nghĩa do sự thiếu
nhiều hiểu biết của người đặt câu hỏi và trường
hợp không thích nghi cho việc phát triển tinh thần. Ngài là
vị Đạo Sư thực tế, từ bi và trí tuệ sáng ngời. Ngài
luôn luôn nói cho mọi người hiểu rõ về tính khí, khả năng
và năng lực của họ. Khi một người đặt câu hỏi không
phải ý định học tập một cuộc đời đạo lý mà chỉ là
tạo cơ hội để chẻ sợi tóc làm tư (gây rắc rối), Đấng
Thiện Thệ không trả lời những câu hỏi như vậy. Các câu
hỏi được trả lời để giúp người hỏi tự hiểu mình,
chứ không phải để khoe khoang cho người hỏi biết trí
tuệ tột đỉnh của Ngài. Theo Đức Phật, có vài cách để
trả lời các loại câu hỏi. Loại câu hỏi thứ nhất cần
thiết một câu trả lời rõ ràng như 'phải' hay 'không
phải'. Thí dụ "Phải chăng tất cả sự vật đều vô
thường?", câu trả lời là phải. Loại câu hỏi thứ
hai cần phải có sự phân tích. Có phải Angulimala là một
kẻ giết người trước khi trở thành A-La-Hán. Vậy tất
cả những kẻ giết người đều có thể trở thành A La Hán
? Câu hỏi này trước khi trả lời 'Phải' hay 'Không phải'
cần phải phân tích trước khi trả lời. Nếu không câu
trả lời sẽ sai hay không làm cho người ta hiểu được.
Bạn cần phải phân tích những điều kiện gì làm một
kẻ giết người thành một thánh nhân trong chỉ một kiếp
sống. Loại câu hỏi thứ ba là loại
cần thiết phản ứng bằng một câu hỏi ngược lại để
giúp người hỏi suy nghĩ chín chắn. Nếu bạn hỏi: 'Tại
sao giết một chúng sanh lại là điều sai trái? Câu hỏi ngược
lại là: 'Bạn cảm thấy thế nào, khi người khác cố
gắng giết bạn? Loại câu hỏi thứ tư là loại bạn phải
loại bỏ. Có nghĩa là bạn không nên trả lời. Những câu
hỏi này có tính chất ức đoán lý thuyết, và trả lời
những câu hỏi này tạo nhiều thêm rối rắm. Thí dự như
câu hỏi 'Vũ trụ này có hay không có một khởi thủy? ' Câu
hỏi này làm cho người ta bàn luận năm này qua năm khác mà
không đi đến kết luận. Những câu hỏi như vậy chỉ căn
cứ vào trí tưởng tượng chứ không phải bằng sự hiểu
thấu thực sự. Một số câu trả lời của Đức
Phật song hành với những câu trả lời về khoa học nguyên
tử. Theo Robert Oppenheimer, ' Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn,
phải chăng vị-trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng
giữ nguyên không thay đổi, chắc chắn chúng ta phải trả
lời là "không"; nếu chúng ta hỏi phải chăng vị
trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian,
chắc chắn ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta
hỏi phải chăng hạt nhân đó đang di động, chắc chắn chúng
ta phải trả lời "không". Đức Phật cũng đã
giải đáp như vậy khi có người hỏi hiện trạng con người
sau khi chết; nhưng theo truyền thống của khoa học ở thế
kỷ thứ 17 và 18 thì những câu trả lời như thế không
mấy quen thuộc' Tuy nhiên điều quan trọng đáng
ghi nhận là Đức Phật cũng trả lời một vài câu hỏi như
vậy cho những đại đệ tử trí tuệ nhất của Ngài sau
khi người hỏi đi khỏi. Và trong nhiều trường hợp,
những câu giải nghĩa được chứa đựng trong các bài
thuyết giảng của Ngài cho chúng ta; những người sống
thời đại khoa học phát triển nhất thấy tại sao những câu
hỏi ấy không được Đức Phật trả lời vì chúng được
nêu lên chỉ là để thỏa mãn tính tò mò của người hỏi
mà thôi. THÁI ĐỘ CỦA ĐỨC
PHẬT VỚI KIẾN THỨC THẾ GIAN Kiến thức thế gian không bao
giờ giúp con người sống một đời đạo hạnh để đạt
an lạc và giải thoát.
Kiến thức thế gian chỉ hữu ích
cho cứu cánh ngoài đời. Với kiến thức này, nhân loại
học cách xử dụng những tài nguyên trên trái đất để nâng
cao mức sống, sản xuất nhiều thực phẩm, phát sanh điện
lực dùng chạy các nhà máy, thắp sáng phố xá, nhà cửa,
điều động xí nghiệp và thương mại, chữa bệnh, xây phòng
ốc và cầu cống, nấu các món ăn ngoại lai, vân vân....
Kiến thức thế gian cũng được xử dụng vào những mục
tiêu tác hại như làm các hỏa tiễn với đầu đạn nguyên
tử, vận động thị trường hối đoái, lừa đảo 'công
khai', và châm ngòi lửa sợ hãi lo âu và hận thù bằng chính
trị. Mặc dù sự bành trướng nhanh chóng, kiến thức thế
gian nhất là ở thế kỷ thứ 20, nhân loại vẫn không
tiến gần đến việc giải quyết những vấn đề tinh
thần và bất toại nguyện lan tràn. Có thể có nhiều khả
năng nhưng nó sẽ chẳng bao giờ giải quyết những vấn đề
chung quát của con người và mang lại hòa bình và hạnh phúc
bởi do những tiền đề mà trên đó những kiến thức, khám
phá và phát minh này được xây dựng. Trong khi mang lại sự hiểu biết
tốt đẹp là làm sao sống một cuộc đời lương hảo ngoài
đời, Đạo Phật vẫn đặt trọng tâm là làm sao đạt được
giải thoát qua sự trau dồi trí tuệ và rèn luyện tinh
thần. Đối với những con người bình thường việc theo đuổi
kiến thức thế gian sẽ không bao giờ có dứt điểm, nhưng
cuối cùng, xét kỷ ra thì thực sự chẳng quan trọng gì.
Chừng nào mà chúng ta hãy còn chưa hiểu Pháp thì chúng ta
vẫn bị mắc bẫy trong vòng luân hồi. Theo Đức Phật: Đã
lâu đời rồi, bạn đã từng đau khổ vì cái chết của người
mẹ, cái chết của người cha, cái chết của đứa con trai,
của đứa con gái, của anh, của chị, đã lâu đời rồi
bạn đã từng bị mất của cải, đã lâu đời rồi bạn
đã từng bị bệnh khổ. Vì lẽ bạn đã từng kinh nghiệm
về cái chết của người mẹ, của người cha, của người
con trai, của người con gái, của anh của chị, kinh nghiệm
về sự mất mát của cải, kinh nghiệm về sự đau đớn vì
bệnh tật, đau khổ bởi những điều bất hạnh, bạn đã
nhỏ biết bao nhiêu nước mắt trên con đường dài ấy -
hết từ sanh đến tử, rồi từ tử đến sanh - nước mắt
này con nhiều hơn nước ở bốn biển.' Kinh Anguttara Nikaya)
Nơi đây Đức Phật diễn tả cái Khổ Đau triền miên sanh
tử trên thế gian. Ngài chỉ chú trọng đến một điều
đơn giản: chỉ cho con người con Đường thoát khỏi Khổ
đau. Tại sao Đức Phật lại nói cho các
đệ tử của Ngài với thái độ như vậy. Tại sao Ngài không
cố gắng giải quyết vấn đề cho biết thế giới bất
diệt hay không bất diệt, nó hữu hạn hay không hữu hạn?
Những vấn đề này có thể hào hứng và phấn khích những
kẻ tò mò. Nhưng những vấn đề này không giúp gì cho con
nguời thoát được khổ đau. Đó là tại sao Ngài đã dẹp
những vấn đề này sang một bên vì nó vô ích, hiểu biết
những việc đó không đem lại hạnh phúc cho con người. Đức Phật nhận thấy nói về
những điều không có một giá trị thực tiễn, ngoài tầm
hiểu biết chỉ phí phạm thời giờ và năng lực. Ngài nhìn
thấy nếu triển khai các giả thuyết vế các vấn đề đó
chỉ làm phân tâm trở ngại đến việc phát triển tinh
thần. Kiến thức thế gian và việc nghiên
cứu khoa học phải được bổ khuyết bởi những giá trị
tôn giáo và tinh thần. Nếu không, kiến thức ngoài đời không
thể đóng góp được gì cho việc phát triển một đời
sống thanh tịnh, đạo hạnh. Con người đã tới một giai
đoạn mà tâm trí bị đầu độc bởi những dụng cụ và
thành quả của kỹ nghệ cấp tiến, bị ám ảnh bởi
những ô trược như ích kỷ, tham đắm quyền thế, và ham
muốn của cải vật chất. Thiếu giá trị đạo lý thì
kiến thức thế gian và sự tiến bộ kỹ nghệ có thể
dẫn con người đến suy tàn và tiêu diệt. Chúng chỉ khơi
dậy lòng tham dục và phát triển nó theo những chiều
huớng mới đáng sợ hơn. Mặt khác, khi kiến thức thế
gian đưọc khai thác cho những cứu cánh đạo đức, nó sẽ
mang đến cho nhân loại lợi lạc và hạnh phúc tối đa. THÔNG ĐIỆP CUỐI CÙNG
CỦA ĐỨC PHẬT "Khi
Như Lai đi rồi, Giáo Pháp của Như lai sẽ là Thầy và người
chỉ đường cho các con"".
Ba tháng trước khi nhập diệt, Ngài
gọi các đệ tử và dặn dò: "Như Lai đã thuyết pháp
cho các con trong suốt 45 năm dài. Các con phải thấm nhuần và
quý trọng giáo lý ấy. Các con phải tu tập theo giáo lý
ấy và dạy người khác tu tập. Việc làm này rất vĩ đại
cho hạnh phúc của những người hiện đang sống và cho
hạnh phúc của thế hệ tiếp nối. 'Tuổi của Như Lai nay đã chín mùi,
quãng đời còn lại của ta rất ngắn ngủi. Đã đến lúc
ta sắp sửa ra đi, xa lìa các con. Các con phải tinh tấn lên.
Này các thầy tỳ kheo, các thầy phải có chánh niệm, đạo
hạnh thanh tịnh! Bất cứ ai kiên trì tu tập Giáo Pháp sẽ
vượt qua vòng sanh tử, và sẽ chấm dứt khổ đau.' Khi A Nan hỏi Phật, khi Ngài qua đời,
đoàn thể Tăng Già sẽ ra sao ; Đức Phật hỏi l?i: "Này
A Nan, Tăng Già trông chờ gì ở ta? Ta đã giảng dạy Chân Lý
cho tất cả mọi người không phân biệt, về Chân Lý, Như
Lai không mảy may dấu diếm... Này A Nan, có thể là một
số trong các con nghĩ rằng rồi đây những lời dạy của Sư
Phụ chúng ta không còn nữa, chúng ta chẳng bao lâu không còn
Sư Phụ nữa". Đừng nên nghĩ như vậy A Nan à. Khi Như
Lai đi rồi, Giáo Pháp của Như Lai và giới luật sẽ là
Thầy các con". Đức Phật tiếp: 'Nếu có ai nghĩ
rằng: 'Chính Như Lai là người lãnh đạo tăng đoàn', hay Tăng
Già tùy thuộc Như Lai, chính Như Lai là người phải ban hành
các chỉ thị', Đức Phật không nghĩ là Ngài lãnh đạo Tăng
Già và Tăng Già tùy thuộc nơi Ngài. Như Lai đã đến lúc
phải ra đi. Giống như cỗ xe cũ hư không thể chở nặng thêm
được nữa, xác thân không thể chịu đựng được thêm
nữa. Cho nên này A Nan hãy là ngọn đèn và nơi nương tựa
ở chính các con. Đừng tìm nương tựa nào khác. Hãy lấy
Chân Lý làm ngọn đèn và nơi nương tựa. Đừng tìm nương
tựa nơi nào khác. Khi tám mươi tuổi, vào ngày sanh
nhật, Ngài qua đời, không thi triển bất cứ phép mầu nào.
Ngài cho thấy bản chất thực sự của những tập hợp pháp
ngay cả trong sự sống của chính Ngài. Khi Đức Phật nhập Niết Bàn,
một trong những đệ tử nhận xét: 'Tất cả phải ra đi -
tất cả chúng sanh có mạng sống thì mọi hình tướng duyên
hợp đều phải tan rã. Đúng, cả đến Đức Đại Đạo Sư
như Ngài, một đấng vô thượng, đầy đủ trí tuệ và Giáo
Ngộ như Ngài cũng phải chết'. Lời Đức Phật dặn dò lúc ra đi: 'Hãy tinh tấn lên. Mọi sự vật
duyên hợp đều vô thường'.
-ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02 | 03
| 04 | 05a | 05b
| 06 | 07 | 08
| 09 | 10 | 11
| 12 | 13 | 14
| 15 | 16 | 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
2. Vũ trụ có không bất diệt không?
3. Vũ Trụ có hữu hạn không?
4. Vũ trụ có không hữu hạn không?
5. Có phải linh hồn và thể xác là một không?
6. Linh hồn là một vật còn thể xác là một vật khác
phải không?
7. Như Lai có hiện hữu sau khi chết phải không?
8. Như Lai không còn hiện hữu sau khi chết phải không?
9. Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sau khi chết phải
không ?
10. Như Lai chẳng hiện hữu và cũng chẳng không hiện hữu
phải không?
-- (Kinh Đại Bát Niết Bàn,
Trường Bộ)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001