BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 14 ĐỀ
XƯỚNG MỘT NỀN VĂN HÓA NHÂN BẢN THỰC SỰ -ooOoo- TÔN GIÁO HIỆN ĐẠI Phật Giáo đủ mạnh để đối
đầu với bất cứ quan điểm hiện đại nào được đưa
ra nhằm thách thức tôn giáo. Những tư tưởng Phật Giáo đóng
góp phần to lớn vào sự phong phú của nền tư duy kim cổ:
Giáo lý về nguyên nhân và tương đối, học thuyết về duy
thức, về thực dụng, sự nhấn mạnh về đạo đức, sự
không chấp nhận một linh hồn thường còn, sự không quan
tâm về sức mạnh siêu nhiên bên ngoài, sự chối bỏ nghi
thức và nghi lễ tôn giáo không cần thiết, sự kêu gọi sử
dụng lý trí và kinh nghiệm, và sự tương hợp với các
khám phá khoa học hiện đại, tất cả quan điểm của Phật
Giáo nhằm thiết lập tính thích ứng ưu việt cho những yêu
cầu hiện đại. Đạo Phật có thể đáp ứng tất
cả những đòi hỏi cho một tôn giáo hữu lý thích hợp cho
nhu cầu của thế giới tuơng lai. Phật giáo rất khoa học,
hữu lý, tiến bộ, xứng đáng cho một người trong thế giới
hiện đại này hãnh diện được tự gọi mình là Phật Tử.
Thật ra, Phật Giáo còn tính khoa học hơn phương cách của
khoa học; Phật Giáo còn tính xã hội hơn cả chủ nghĩa xã
hội. Trong số những bậc khai sáng tôn
giáo vĩ đại chỉ riêng Đức Phật khuyến khích tinh thần
điều tra nghiên cứu của tín đồ, và Ngài khuyên họ
không nên chấp nhận bằng niềm tin mù quáng ngay cả đến
giáo lý của chính Ngài. Cho nên chẳng có gì quá đáng khi gọi
Đạo Phật là một tôn giáo hiện đại. Phật Giáo là cả một kế hoạch
phối hợp rất tỉ mỉ về phương cách sống một cuộc đời
thực tiễn và một hệ thống tư tưởng cẩn trọng của sự
tự tu học. Nhưng hơn thế nữa Đạo Phật là một phương
pháp giáo dục rất khoa học. Tôn giáo này có khả năng tốt
nhất trong bất cứ khủng hoảng nào để hồi phục được
niềm an lạc nội tâm và giúp chúng ta bình tĩnh đối đầu
với bất cứ thay đổi xẩy ra trong tuơng lai. Không lạc thú giác quan, liệu ta
có thể chịu đựng nổi đời sống được không? Không niềm
tin vào sự bất tử, con người có thể có đạo đức không?
Không cầu viện đến thần thánh, con người có thể tiến
bộ đúng đường hướng được không? Được, đó là câu
trả lời của Phật Giáo. Những cứu cánh này có thể đạt
được bằng sự hiểu biết và bằng cách thanh lọc tâm ý.
Hiểu biết là chìa khóa tiến lên con đường cao cả hơn.
Thanh lọc tâm ý đem bình tĩnh, an lạc cho đời sống và khiến
cho con người không dính mắc và tách rời hẳn được những
cái bất thường của thế giới hiện tượng. Đạo Phật quả là một tôn giáo
thích hợp cho thế giới hiện đại khoa học. Ánh sáng đến
từ thiên nhiên, từ khoa học, lịch sử, kinh nghiệm của
loài người, từ mọi nơi trong vũ trụ, được rạng rỡ với
Giáo Lý Cao Quí của Đức Phật. TÔN GIÁO TRONG THỜI
ĐẠI KHOA HỌC Tôn Giáo thiếu khoa học sẽ bị
tê liệt, khoa học thiếu tôn giáo sẽ bị mù quáng. Ngày nay sống trong thời đại
khoa học, hầu hết mọi khía cạnh của cuộc đời chúng ta
đều bị ảnh hưởng bởi khoa học. Từ khi nền cách mạng
khoa học khởi sự vào thế kỷ thứ mười bảy, khoa học
không ngừng ảnh huởng lớn lao đến những gì chúng ta nghĩ
và làm. Tác động của khoa học
đặc biệt rất mạnh mẽ đối với các niềm tin đạo giáo
cổ truyền. Nhiều quan niệm tôn giáo căn bản sụp đổ dưới
áp lực của khoa học hiện đại và không còn được chấp
nhận bởi người trí thức và những người hiểu biết am
tường. Không còn có thể thừa nhận chân lý chỉ nguồn gốc
từ sự ức đoán thuộc thần học hay căn cứ trên các quyền
lực trong các kinh điển tôn giáo biệt lập hẳn với cách
nhìn khoa học. Thí dụ, các nhà tâm lý hiện đại đã tìm
ra và cho thấy là tâm ý con người cũng giống như xác thân
vật chất, hoạt động theo các định luật thiên nhiên do
nguyên nhân gây nên chứ không có sự hiện hữu của linh hồn
bất biến nào như một số tôn giáo đã dạy.
Một số nhà tôn giáo ưa không lưu
ý gì đến những khám phá khoa học mâu thuẫn với những
giáo điều của họ. Thói quen tinh thần cứng ngắc như vậy
đương nhiên là một chướng ngại cho sự tiến bộ của loài
người. Từ khi người hiện đại không chịu tin tưởng vào
điều gì một cách mù quáng, dù rằng điều ấy đã đưọc
chấp nhận theo truyền thống, những nhà tôn giáo này chỉ
có thể thành công trong việc gia tăng hàng ngữ những người
không niềm tin bằng lý thuyết sai lầm của họ mà
thôi. Mặt khác nhiều nhà tôn giáo lại
thấy cần điều chỉnh đại chúng chấp nhận lý thuyết
khoa học bằng cách đưa ra những giải thích mới về giáo
điều của họ. Đó là trường hợp về Thuyết Tiến Hóa của
Darvin. Nhiều nhà tôn giáo vẫn kiên định là con người
được tạo ra trực tiếp bởi Thượng Đế. Darwin, trái lại,
cho rằng con người tiến hóa từ loài khỉ, một học thuyết
đánh đổ giáo lý về quyền sáng tạo của thần thánh và
sự phạm tội của loài người. Từ khi những nhà tư tưởng
giác ngộ chấp nhận thuyết của Darwin, những nhà thần học
ngày nay không được chọn lựa gì hơn là đưa ra cách giải
thích mới về giáo lý của họ cho phù hợp với thuyết mà
trước đây họ đã từng chống đối. Dưới ánh sáng của những khám
phá khoa học hiện đại, không mấy khó khăn để hiểu rằng
những quan điểm tôn giáo đối với vũ trụ và đời sống
chỉ thuần túy là những tư tưởng có tính cách quy ước mà
các tôn giáo đó đã thay thế vào từ lâu. Thông thường quả
đúng khi nói tôn giáo đã góp phần vĩ đại trong công cuộc
phát triển và tiến bộ của nhân loại. Tôn giáo thiết lập
các giá trị, các tiêu chuẩn và đặt ra các nguyên tắc để
hướng dẫn đời sống loài người. Tuy nhiên với tất cả
những gì tốt đẹp đã làm, tôn giáo vẫn khó có thể tồn
tại trong thời đại khoa học tiên tiến nếu những tín đồ
vẫn cứ khăng khăng nhốt chặt chân lý trong các hình thức
và giáo điều, vẫn cứ khích lệ các nghi lễ và pháp môn
mà ý nghĩa nguyên thủy đã bị thoái hóa. PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC Cho đến đầu thế kỷ vừa qua,
Đạo Phật chỉ giới hạn trong các quốc gia chưa được tiếp
xúc gì với khoa học hiện đại. Tuy nhiên, ngay từ lúc đầu,
Giáo lý của Đức Phật lúc nào cũng mở rộng cách tư duy
khoa học. Lý do tại sao Giáo Lý được tinh
thần khoa học dễ dàng chấp nhận một cách nhiệt tình là
do Đức Phật không bao giờ khuyến khích niềm tin cứng nhắc
và giáo điều. Ngài không tuyên bố là Phật Pháp căn cứ
trên niềm tin, đức tin, hay thiên khải, mà là để cho ta
quyền tư duy linh động và tự do. Lý do thứ hai là tinh thần khoa học
có thể tìm thấy trong phương cách mà Đức Phật đã dùng
để tiếp cận với Chân Lý. Phương pháp của Đức Phật dùng
khám phá và trắc nghiệm Chân Lý rất giống phương pháp của
nhà khoa học. Một khoa học gia quan sát thế giới bên ngoài
một cách khách quan, và chỉ thiết lập một lý thuyết khoa
học sau khi đã nhiều lần thực hành thành công các thử
nghiệm. Sử dụng phương thức giải quyết
tương tự từ 25 thế kỷ trước, Đức Phật quán chiếu thế
giới nội tại bằng tâm buông bỏ và khuyến khích đệ tử
của Ngài không nên chấp nhận giáo lý nào cho đến khi tự
mình điều nghiên, phán đoán và kiểm chứng được sự thật
của giáo lý đó. Giống như nhà khoa học ngày nay không cho
rằng công trình thực nghiệm của mình không thể bị lặp
lại bởi người khác, Đức Phật cũng không tuyên bố rằng
kinh nghiệm Giác Ngộ của Ngài là độc quyền của Ngài. Vì vậy trong phương thức chứng
ngộ Chân Lý, Đức Phật là một nhà phân tích giống như
nhà khoa học ngày nay. Ngài thiết lập một phương pháp thực
hành thực tiễn, khoa học để đạt đến Chân Lý Tối Thượng
và chứng nghiệm Giác Ngộ. Tuy Phật Giáo rất đồng dạng với
tinh thần khoa học, nhưng sẽ không đúng nếu ta đồng hóa
Phật Giáo với khoa học. Quả thực là những công trình áp
dụng thực tiễn của khoa học đã giúp cho nhân loại hưởng
một cuộc sống tiện nghi hơn và kinh nghiệm được những
thứ tuyệt vời mà trước đó không ai dám mơ ước. Khoa học
đã có thể làm cho con người bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn
chim, và đi bộ trên cung trăng. Nhưng phạm vi kiến thức mà
trí tuệ quy ước của khoa học có thể chấp nhận được
bị giới hạn vào chỉ những bằng chứng đã thực nghiệm.
Và chân lý thuộc khoa học lại bị lệ thuộc vào sự thay
đổi không ngừng. Khoa học không thể giúp con người kiểm
soát được tâm mình và cũng chẳng giúp gì việc kiểm
soát và hướng dẫn về đạo đức. Cho dù đã đạt những
kỳ công, khoa học thật ra vẫn bị nhiều giới hạn mà Phật
Giáo không mắc phải. GIỚI HẠN CỦA KHOA HỌC Người ta thường nghe nói rất
nhiều về khoa học về cái khoa học có thể làm, nhưng rất
ít về cái khoa học không thể làm. Kiến thức khoa học bị
giới hạn về dữ kiện nhận được từ các giác quan. Khoa
học không có khả năng nhận ra thực thể thăng hoa từ dữ
kiện giác quan. Chân lý của khoa học được xây dựng trên
sự quan sát thuần lý về các dữ kiện giác quan không ngừng
thay đổi. Cho nên chân lý của của khoa học là một chân
lý tương đối không đứng vững với thời gian. Và khoa học
gia, nhận thức được sự kiện này nên lúc nào cũng sẵn
sàng loại bỏ một lý thuyết nếu lý thuyết này sẽ được
thay bằng một lý thuyết khá hơn. Khoa học cố gắng hiểu thế giới
bên ngoài và đã rõ ràng chỉ đề cập qua loa thế giới bên
trong con người. Cả đến khoa tâm lý học thực ra cũng
chưa tìm hiểu nguyên nhân cơ bản tâm trạng bất an của
con người. Khi một người bị dao động và chán ghét đời
sống, và thế giới nội tâm đầy xáo trộn và lo âu, khoa
học ngày nay vẫn chưa có lợi khí gì để giúp người đó.
Xã hội học phục vụ cho môi sinh có thể mang lại con người
một mức độ hạnh phúc nào đó. Nhưng không giống như thú
vật, con người cần phải có cái gì ngoài tiện nghi vật
chất và cần đến sự giúp đỡ để đương đầu với các
dao động và khổ đau phát xuất từ kinh nghiệm tiếp xúc với
cuộc sống hàng ngày. Ngày nay nhiều người bị phiền
não vì sợ hãi, bồn chồn, và bất an. Khoa học thất bại
trong việc cứu họ. Khoa học không thể dạy một người bình
thường kiểm soát được tâm mình khi bị lôi cuốn bởi
thú tính đang đốt cháy nội tâm. Khoa học có thể nào làm cho con
người tốt hơn không? Nếu có thể được thì tại sao các
hành động hung bạo và thủ đoạn vô luân đầy rẫy tại
các quốc gia rất tiến bộ về khoa học? Có
công bình không khi nói rằng mặc dầu đã đạt những tiến
bộ và những lợi ích đắc lực giúp cho con người, khoa học
vẫn không chuyển hóa được nội tâm con người: khoa học
chỉ càng làm họ nâng cao thêm cảm nghĩ lệ thuộc và thiếu
thốn? Thêm vào sự thất bại đã không mang được an ninh
đến cho nhân loại, khoa học còn làm cho mọi người cảm
thấy càng bất ổn hơn bởi sự đe dọa thế giới có thể
bị tàn phá đại quy mô. Khoa học không thể đưa ra một mục
đích có ý nghĩa cho cuộc sống. Khoa học không thể cung cấp
những lý do rõ ràng cho kiếp sống của con người. Thực
ra, bản chất khoa học hoàn toàn thế tục và không quan tâm
gì đến mục tiêu tinh thần của con người. Duy vật chủ
nghĩa gắn liền với tư tưởng khoa học chối bỏ mục tiêu
tâm linh cao hơn sự thỏa mãn vật chất. Bởi cách lý thuyết
thiên về chọn lựa và các chân lý tương đối của nó,
khoa học không lưu ý đến một số vấn đề thiết yếu nhất
và bỏ lại nhiều câu hỏi không được trả lời. Chẳng hạn,
khi hỏi về những sự bất bình đẳng (khác nhau) giữa người
và người, khoa học không có một câu giải thích nào về
câu hỏi vượt quá phạm vi hẹp hòi của khoa học này. CÓ HỌC VÅN NGU DỐT Đức Phật đã phát hiện một
tâm ý siêu việt không bị giới hạn vào dữ kiện-giác
quan và vượt qua cái luận lý giăng bẫy trong phạm vi của
sự nhận thức tương đối. Trái lại, trí thông minh con người,
được hành hoạt trên căn bản kiến thức do thâu thập và
tàng trữ, dù là trong lãnh vực tôn giáo, triết học, khoa học
hay mỹ thuật. Tâm thức chúng ta thu nhận qua các giác quan,
một loại thông tin yếu kém về nhiều mặt. Chính những
tín hiệu được tiếp thu hết sức giới hạn này đã làm
sự hiểu biết của ta về thế gian bị bóp méo. Một số người rất hãnh diện
là họ biết quá nhiều. Thực ra càng biết ít bao nhiêu thì
chúng ta lại càng chắc chắn nắm vững việc giải thích bấy
nhiêu ; càng biết nhiều bao nhiêu, chúng ta lại thấy ra được
sự giới hạn của mình bấy nhiêu. Một học giả lỗi lạc có lần
viết một cuốn sách và coi đó là một kiệt phẩm. ông ta
cảm thấy cuốn sách này bao gồm tất cả những hạt ngọc
văn chương và triết lý. Rất hãnh diện về thành quả
này, ông đưa kiệt tác của ông cho một người đồng nghiệp
cũng tài giỏi như ông và yêu cầu đồng nghiệp này xem lại
cho ông. Thay vì hiệu đính, người đồng nghiệp yêu cầu
ông, tác giả viết vào một mảnh giấy tất cả những gì
ông biết và tất cả những gì ông không biết. Tác giả ngồi
xuống và suy nghĩ xâu xa, nhưng sau một hồi lâu ông đã
không viết được gì về những cái ông biết. Rồi sang
câu hỏi thứ hai, ông cũng lại chẳng viết ra được tất
cả những gì ông không biết. Cuối cùng, với cái ngã đã
đặt xuống mức thấp nhất, ông bỏ cuộc, nhận định ra
với tất cả những gì mình đã biết, thật ra mình vẫn
còn dốt nát. Về phương diện này, Socrates, một
triết gia nổi tiếng thành Athen của Thế Giới Cổ Xưa, khi
hỏi về điều ông biết, ông trả lời: 'Tôi chỉ biết
một điều - là "tôi không biết"'. VƯỢT QUA KHOA HỌC Phật Giáo vượt qua ra ngoài khoa
học hiện đại trong việc chấp nhận một lãnh vực hiểu
biết rộng lớn hơn là lãnh vực cho phép bởi đầu óc khoa
học. Phật Giáo công nhận kiến thức sanh khởi từ các
giác quan cũng như công nhận kinh nghiệm thân chứng do sự
trau dồi tinh thần. Do rèn luyện và phát triển tập định
tâm cao độ, kinh nghiệm tôn giáo có thể hiểu được và
kiểm chứng được. Kinh nghiệm tâm linh này không phải là
điều có thể hiểu dưới cách thử nghiệm trong một ống
nghiệm hay quan sát dưới kính hiển vi. Chân lý mà khoa học khám phá chỉ
tương đối và lệ thuộc vào những sự thay đổi, trong khi
chân lý khám phá bởi Đức Phật là chung kết và tuyệt đối:
Chân Lý của Giáo Pháp không thay đổi theo thời gian và
không gian. Hơn nữa, trái với cách thuyết lý có tính cách
chọn lựa của khoa học, Đức Phật khuyến khích người trí
không nên bám níu vào các lý thuyết về khoa học hay về những
lãnh vực khác. Thay vì thuyết lý, Đức Phật dạy nhân loại
làm sao sống một cuộc đời chính đáng cũng như để tìm
ra Chân Lý Tối Thuợng. Bằng cách sống một cuộc đời đứng
đắn, bằng cách làm lắng dịu các giác quan, và bằng cách
buông bỏ hết tham ái. Đức Phật chỉ con đường để chúng
ta có thể khám phá ngay trong chính chúng ta ra được bản chất
của kiếp sống, và cũng có thể tìm thấy được mục đích
thực sự của cuộc đời. Sự tu tập rất quan trọng trong
Phật Giáo. Một người học nhiều nhưng không tu tập giống
như một người có thể đọc ra các công thức nấu nướng
từ một cuốn sách gia chánh đồ sộ chất lượng mà lại
không cố gắng nấu ra một món ăn nào. Người đó không thể
hết đói được bằng kiến thức trong sách vở. Tu tập là
một điều kiện tiên quyết của sự giác ngộ mà một số
trong các trường phái Phật Giáo, như Thiền Tông phải được
thực hành ngay cả trước kiến thức. Phương pháp khoa học hướng ra
ngoài, và các khoa học gia hiện đại khai thác thiên nhiên
và những yếu tố cho tiện nghi của họ, thường khi họ không
lưu tâm đến nhu cầu phải hòa hợp với môi sinh và do đó
làm ô nhiễm thế giới. Ngược lại, Phật Giáo hướng vào
bên trong, và quan tâm đến sự phát triển nội tâm. Ở một
mức độ thấp hơn, Phật Giáo dạy cá nhân làm sao điều
chỉnh và đối đầu với những biến chuyển và hoàn cảnh
của đời sống hàng ngày. Trên một mức độ cao hơn, Đạo
Phật tượng trưng nỗ lực của con người muốn vượt lên
khỏi chính họ do sự tu tập trau dồi tinh thần hay phát triển
trí tuệ. Phật Giáo có một hệ thống
hoàn chỉnh về rèn luyện tinh thần liên quan với việc đạt
đưọc tuệ giác về thực tướng của sự vật để dẫn
đến sự tự chứng ngộ hoàn toàn Chân Lý Tối Thượng -
Niết Bàn. Hệ thống này vừa thực tiễn vùa khoa học, nó
bao gồm sự quan sát vô tư những trạng thái cảm xúc và
tinh thần. Giống một nhà khoa học hơn là một vị thẩm
phán, người hành thiền quan sát thế giới bên trong bằng
tâm chánh niệm. KHOA HỌC KHÔNG TÔN GIÁO Nếu không có lý tưởng đạo đức,
khoa học là mối nguy cơ cho toàn thể nhân loại. Khoa học tạo
máy móc, máy móc trở thành chúa tể. Đạn và bom là những
món quà của khoa học cho một thiểu số có uy quyền mà định
mệnh thế giới tùy thuộc vào họ. Trong lúc đó thì số
nhân loại còn lại sống chờ đợi khổ não, sợ hãi,
không biết lúc nào các vũ khí hạch nhân, hơi độc, vũ
trang chết người - những thành quả của nghiên cứu khoa học
làm ra để giết chóc rất hiệu nghiệm - sẽ được sử dụng
tới họ. Khoa học không chỉ hoàn toàn bất lực trong việc
cung cấp cương lĩnh đạo đức cho nhân loại mà còn đổ dầu
thêm vào ngọn lửa ái dục của con người. Khoa học mà thiếu đạo đức chỉ
có nghĩa là phá hoại: Khoa học trở thành con quái vật khổng
lồ tàn bạo mà con người khám phá ra. Và bất hạnh, chính
con quái vật này càng ngày càng trở nên hung hãn hơn cả
con người. Nếu con người không tìm cách chế ngự và điều
khiển con quái vật đó bằng sự tu tập đạo lý, con quái
vật này không bao lâu sẽ áp đảo con người. Không có sự
hướng dẫn của tôn giáo, khoa học đe dọa thế giới bằng
sự tàn phá. Trái lại, khoa học khi đi đôi với tôn giáo
như Phật Giáo có thể biến đổi thế giới này thành một
thiên đường thanh tịnh, an ổn và hạnh phúc. Không lúc nào như bây giờ là
lúc hết sức cần thiết có sự hợp tác giữa khoa học và
tôn giáo vì lợi ích và phục vụ tốt nhất cho nhân loại.
Tôn giáo không khoa học sẽ bị tê liệt, khoa học không
tôn giáo sẽ bị mù quáng. VINH DANH PHẬT GIÁO Trí tuệ của Phật Giáo thiết lập
trên nền tảng từ bi giữ một vai trò thiết yếu nhằm sửa
sai hướng đi nguy hiểm của khoa học hiện đại. Phật Giáo
có thể cống hiến sự lãnh đạo tinh thần để hướng dẫn
công cuộc nghiên cứu và phát minh của khoa học, đẩy mạnh
một nền văn hóa rực rỡ cho tương lai. Phật Giáo có thể
cung cấp các mục tiêu giá trị cho sự tiến bộ của khoa học
đang đứng trước một con đường vô vọng bế tắc vì bị
nô lệ bởi chính những phát minh của mình. Albert Einstein đã ca ngợi Phật
Giáo khi ông viết trong bài tự thuật của ông: "Nếu
có tôn giáo nào có thể đương đầu với nhu cầu khoa học
hiện đại, thì đó phải là Phật Giáo". Phật Giáo
không cần phải xét lại để "cập nhật hóa" với
những khám phá khoa học gần đây. Phật Giáo không cần thiết
phải đầu hàng khoa học về quan niệm của mình vì Phật
Giáo bao gồm khoa học mà còn vượt qua khoa học. Phật Giáo
là cây cầu nối giữa tư tưởng tôn giáo và khoa học bằng
cách động viên con người khám phá những tiềm năng thầm
kín trong chính con người và môi trường chung quanh. Phật
Giáo không bị ảnh hưởng bởi thời gian!
TÔN GIÁO CỦA TỰ DO Phật Giáo là tôn giáo của tự
do và lý trí cho con người sống một cuộc đời cao thượng. Phật Giáo không cấm cản một người
nào học hỏi giáo lý của các đạo khác. Thực ra, Đức Phật
khuyến khích các tín đồ tìm hiểu về những đạo khác
và so sánh giáo lý của Ngài với giáo lý của các tôn giáo
khác. Đức Phật dạy nếu tôn giáo nào có giáo lý hợp với
lẽ phải và thuần lý trí, các tín đồ của ngài được tự
do tôn trọng những giáo lý ấy. Có một số nhà tôn giáo cố
gắng kìm giữ các tín đồ của mình trong tối tăm, có tín
đồ không được phép chạm đến những đồ vật hay sách
vở của tôn giáo khác. Họ bị chỉ thị không được nghe
những lời thuyết giảng của tôn giáo khác. Các tín đồ bắt
buộc không được nghi ngờ giáo lý của tôn giáo mình dù
giáo lý đó có thể không thuyết phục được họ. Càng bắt
các tín đồ nghĩ theo một chiều, các tôn giáo ấy càng dễ
dàng nắm vững được họ. Nếu một ai sử dụng tự do tư
tưởng và nhận thấy lúc nào mình cũng ở trong tối tăm,
thì các tôn giáo viện lý đó là ma quỷ đã nắm hồn người
đó. Con người tội nghiệp đó không được cho cơ hội sử
dụng lương tri, giáo dục, hay trí thông minh của mình. Những
ai mong muốn thay đổi quan điểm về tôn giáo thì được dạy
rằng phải tin tưởng là họ không đủ toàn hảo để được
sử dụng tự do ý chí trong việc phán xét bất cứ điều gì
cho chính họ. Theo Đức Phật, tôn giáo nên để
cho cá nhân có quyền tự do lựa chọn. Tôn giáo không phải
là luật pháp mà là hệ thống kỷ luật nên hành theo với
óc hiểu biết. Với người Phật Tử, nguyên lý đạo giáo
thực sự chẳng phải là luật lệ do thần quyền, cũng chẳng
phải luật pháp của con người mà là định luật thiên
nhiên. Trong thực tế hiện nay, không có
tự do tôn giáo thực sự ở bất cứ phần đất nào trên
thế giới này. Con người không có cả đến tự do để suy
nghĩ. Khi một người nhận định không tìm thấy sự thỏa
mãn với tôn giáo mình đang theo nó không giải đáp thỏa đáng
một số vấn đề nào đó, người đó không được tự do
chối bỏ nó để chấp nhận một tôn giáo khác đáp ứng
người ấy. Lý do là vì các thẩm quyền tôn giáo, các nhà
lãnh đạo, và thân quyến đã lấy đi mất sự tự do của
người đó. Con người không được chọn lựa tôn giáo theo
nhận thức của mình. Ta không có quyền gì bắt người khác
phải chấp nhận một tôn giáo đặc biệt nào đó. Một số
người bỏ đạo mình vì tình, không hiểu rõ tôn giáo của
người hôn phối. Không nên thay đổi đạo để chiều theo
cảm xúc và các nhược điểm của con người. Ta phải suy
nghĩ rất cẩn thận trước khi đổi đạo. Tôn giáo không
phải là một vấn đề để thương lượng mua bán; không
nên đổi đạo để được lợi lạc vật chất cá nhân.
Tôn giáo dùng cho việc phát triển tinh thần và tự giải
thoát. Người Phật Tử không bao giờ cố
gây ảnh hưởng để người đạo khác đến và theo đạo mình
vì lợi lạc vật chất. Người Phật Tử cũng chẳng lợi dụng
sự nghèo đói, bệnh tật, mù chữ và ngu muội của con người
để gia tăng dân số Phật Tử. Đức Phật khuyên những ai
muốn theo Ngài, đừng nên vội vàng chấp nhận giáo lý của
Ngài. Ngài khuyên họ hãy nghiên cứu cẩn thận giáo lý đó
có thực tiễn mà họ có thể theo được hay không. Đạo Phật dạy rằng niềm tin suông
hay nghi thức bên ngoài không đủ để đạt trí tuệ và sự
toàn hảo. Trong ý nghĩa đó việc chuyển hoán bên ngoài trở
nên vô nghĩa. Động viên Phật Giáo bằng sức mạnh ắt có
nghĩa là muốn truyền bá công bằng và tình thương bằng
phương tiện áp bức và bất công. Không quan trọng gì đối
với một người theo Đức Phật có tự gọi mình là Phật
Tử hay không. Phật Tử biết rằng chỉ do sự hiểu thấu
và sự hành trì của chính mình mới có thể gần tới mục
tiêu mà Đức Phật đã giảng dạy. Trong đồ chúng của mọi tôn
giáo đều có những kẻ cuồng tín. Cuồng đạo rất nguy hiểm.
Kẻ cuồng tín tự mình không thể đi đúng đường theo lẽ
phải và ngay cả theo các nguyên tắc khoa học quán sát và
phân tích. Theo Đức Phật, một Phật Tử muốn phát triển
tâm linh phải là một người tự do với một tâm hồn cởi
mở và không là công cụ cho một ai cả. Phật Tử nương tựa
nơi Đức Phật, nhận Ngài là nguồn chỉ đạo và cảm hứng
tối cao. Người đó nương tựa nơi Đức Phật không phải
do mù quáng mà là do hiểu biết. Đối với Phật Tử, Đức
Phật không phải là vị cứu tinh, cũng chẳng phải là một
vị thần có nhân dạng và thần thông rửa sạch được tội
lỗi của người khác. Người Phật Tử xem Đức Phật như
vị Thầy chỉ dạy họ con Đường đi đến giải thoát . Phật Giáo bao giờ cũng ủng hộ
sự tự do và tiến bộ của nhân loại. Phật Giáo bao giờ
cũng tán thành công cuộc phát huy kiến thức và tự do con
người trong mọi phạm vi của đời sống. Không có một điều
gì trong Phật Pháp cần phải loại bỏ trước những phát
minh và kiến thức khoa học hiện đại. Khoa học càng khám
phá ra các điều mới lạ, thì lại càng tiến đến gần Đạo
Phật hơn. Đức Phật giải phóng con người
thoát khỏi sự trói buộc của tôn giáo. Ngài cũng giải thoát
con người khỏi sự độc quyền và chuyên chế của giới tăng
lữ. Chính Đức Phật là người đầu tiên khuyên con người
vận dụng lý trí và đừng để mình bị dẫn dắt như trâu
bò ngu tối, tuân theo tín điều của tôn giáo. Đức Phật tán
thành tính duy lý, dân chủ, và tác phong thực tiễn, đạo
đức trong tôn giáo. Ngài giới thiệu tôn giáo để mọi
người tu tập đúng với phẩm cách của con người. Đức Phật khuyên nhủ các thiện
tín không nên tin vào một điều gì mà không xem xét cho đứng
đắn. Trong Kinh Kulama, Đức Phật đưa ra những cương lĩnh
cho một nhóm thanh niên như sau: "Không nên chấp nhận điều
gì căn cứ: "Nhưng khi chính các bạn biết
những điều gì bất thiện và xấu xa có khuynh hướng làm
hại bạn và người khác, hãy loại bỏ các điều đó
đi. "Và khi chính các bạn biết
những điều gì thiện và tốt đẹp, dẫn đến phúc lợi
tinh thần của bạn và người khác, hãy chấp nhận và
hành theo những điều đó". Người theo Phật được khuyên dạy
chỉ chấp nhận và tu tập sau khi đã cẩn thận quan sát và
phân tích, và sau khi chắc chắn các phương pháp hợp với lẽ
phải dẫn đến điều thiện cho mình và cho người khác. Người Phật Tử chân chính không
ỷ lại vào sức mạnh bên ngoài để được giải thoát,
và cũng không mong cầu thoát khỏi cảnh khổ nhờ sự can
thiệp của một thần quyền không biết rõ nào. Người tu
Phật tận lực nhổ hết gốc rễ phiền não trong tâm để
đạt được hạnh phúc trường cửu. Đức Phật dạy:
"Nếu ai nói xấu Như Lai, giáo lý và các đệ tử của
Như Lai, không nên bất bình và xao xuyến, vì nếu phản ứng
như thế chỉ làm hại mình. Mặt khác, nếu ai tán dương
Như Lai, giáo lý và các đệ tử của Như Lai, cũng đừng vì
thế mà vui mừng, xúc động và hãnh diện, vì phản ứng như
vậy chỉ làm trở ngại cho sự phán đoán chính đáng. Nếu
ta hãnh diện, ta không thể suy xét các điều tán dương có
đúng là thật và của chính nơi chúng ta hay không. (Kinh
Brahma Jala). Đó là thái độ vô tư một Phật Tử chân
chính. Đức Phật phát huy sự tự do tới
mức độ cao nhất không chỉ ở tinh hoa tốt đẹp của con
người mà cũng ở trong các phẩm tính siêu phàm. Đó là sự
tự do mà không tước đoạt phẩm giá của con người. Đó
là sự tự do giải phóng con người khỏi nô lệ vào tín
điều và luật lệ độc đoán hay những hình phạt của
tôn giáo. NHỮNG NHÀ HOẰNG TRUYỀN GIÁO
PHÁP "Hãy tiến lên, các Thầy Tỳ-Kheo,
cho điều thiện và hạnh phúc của nhiều người, vì lòng từ
bi cho thế gian cho điều thiện, lợi ích và hạnh phúc của
trời và người". (Đức
Phật) Khi chúng ta dở lại các trang sử
Phật Giáo, chúng ta thấy những nhà truyền giáo Đạo Phật
đã đưa ra bức thông điệp cao quí của Đức Phật trong một
đường lối hòa bình và tôn kính. Sứ mạng hòa bình như vậy
khiến những ai đã dùng phương pháp bạo động để truyền
bá tôn giáo của mình phải nên hổ thẹn. Những nhà hoằng truyền Phật
Pháp không tranh đua với người tôn giáo khác để đổi đạo
người ta giữa nơi phố chợ. Không có nhà hoằng pháp hay
nhà sư nào của Phật Giáo đã thuyết giảng ác ý với những
người "không tin đạo". Tính bất khoan dung trong
tôn giáo, trong văn hóa và quốc gia không phải là thái độ
Phật Giáo nơi những người thấm nhuần tinh thần Phật pháp
thực sự. Gây hấn không bao giờ được tìm thấy trong lời
dạy của Đức Phật.Thế giới đã nhuốm máu và đau khổ
đủ rồi do bệnh của giáo điều, của cuồng đạo và thiếu
khoan dung. Trong tôn giáo hay trong chính trị, người ta đã cố
tình ra sức lôi kéo nhân loại chấp nhận cách sống của
mình. Khi làm như vậy, có nhiều khi họ đã tỏ thái độ
thù nghịch với các tín đồ của tôn giáo khác. Phật Giáo không tranh chấp với
các truyền thống, tập tục, mỹ thuật và văn hóa quốc
gia mà các dân tộc đã chấp nhận như một lối sống mà
còn để chúng thăng hoa hiện hữu. Thông điệp về tình thương
và từ bi của Đức Phật đã rộng mở cõi lòng những người
có thiện chí chấp nhận giáo lý của Ngài, do đó Đạo Phật
trở thành một tôn giáo thế giới. Những quốc gia độc lập
đã đón mời và hân hoan chào mừng những nhà truyền giáo
Đạo Phật với lòng tôn kính xứng đáng. Phật Giáo không
bao giờ dùng ảnh hưởng của thực dân hay của bất cứ sức
mạnh chính trị nào để truyền bá đến bất cứ một quốc
gia nào cả. Phật Giáo là một lực lượng
tinh thần đầu tiên được biết trong lịch sử đã quy tụ
được một số các chủng tộc ngăn cách bởi những chướng
ngại khó khăn nhất như xa xôi, ngôn ngữ, văn hóa và luân
lý. Động lực chính không phải là tranh đoạt thị trường
quốc tế, xâm lấn đất đai quyền lực hay thúc đẩy di dân
để chiếm lĩnh lãnh thổ mới. Mục tiêu của Phật Giáo
là chỉ cho người dân làm thế nào đạt được bình an và
hạnh phúc hơn bằng cách tu tập Phật Pháp. Một tấm gương sáng chói của những
đức tính và phương cách giải quyết trong công cuộc hoằng
pháp là Hoàng Đế Asoka (A Dục). Vào thời đại Hoàng Đế
Asoka, Phật Giáo truyền bá đến nhiều quốc gia Á Châu và
các quốc gia Tây Phương. Hoàng Đế này gửi những nhà truyền
giáo Phật Giáo đến nhiều phần đất trên thế giới để
giới thiệu thông điệp hòa bình của Đức Phật. Hoàng Đế
Asoka kính trọng và ủng hộ mọi tôn giáo vào thời ấy.
Thái độ khoan dung của Ngài với các tôn giáo khác thật
phi thường. Một trong những dòng chữ khắc trên bia trụ đá
Asoka, hiện còn tồn tại đến ngày nay tại Ấn Độ đọc
như sau: "Ta không nên chỉ tôn vinh
tôn giáo riêng của mình và chỉ trích các tôn giáo khác,
mà ta nên kính trọng tôn giáo của những người khác vì
lý do này hay lý do nọ. Làm như vậy là giúp tôn giáo mình
phát triển và cũng là giúp ích các tôn giáo khác. Hành động
ngược lại là chính ta đã đã đào huyệt cho tôn giáo
mình và cũng làm hại cho tôn giáo khác. Bất cứ ai vinh danh
tôn giáo mình và chỉ trích tôn giáo khác do lòng sùng mộ
đạo mình, "nghĩ rằng làm như vậy sẽ làm rạng danh
tôn giáo mình', nhưng ngược lại, chính là đã làm tổn thương
nghiêm trọng tôn giáo mình, vậy nên hòa thuận thì tốt hơn.
Hãy lắng nghe tất cả, sẵn sàng lắng nghe những học thuyết
của các tôn giáo khác". Vào năm 268 trước Tây Lịch,
Ngài đã biến giáo lý của Đức Phật thành một lực lượng
sống động tại Ấn Độ. Các bệnh viện, cơ sở xã hội,
trường đại học cho nam và nữ, các giếng nước công cộng,
và trung tâm giải trí được thiết lập do phong trào mới của
Ngài, và nhờ đó người dân nhận thức được sự tàn bạo
của những cuộc chiến tranh phi lý. Thời đại vàng son trong lịch sử
Ấn và các nuớc khác tại Á Châu, giai đoạn mà mỹ thuật,
giáo dục, văn hóa, và văn minh tiến tới tột đỉnh - bộc
phát vào thời kỳ ảnh hưởng Phật Giáo mạnh nhất tại
các xứ này. Các cuộc thánh chiến, các cuộc viễn chinh thập
tự giá, những tòa án dị giáo, và những sự kỳ thị tôn
giáo không làm hoen ố biên niên sử của các quốc gia Phật
Giáo. Viện Đại Học vĩ đại Nalanda tại Ấn thăng hoa từ
thế kỷ thứ hai đến thứ kỷ thứ chín là một sản phẩm
của Phật Giáo. Đây là viện đại học đầu tiên mà
chúng ta được biết và đã mở cửa cho học sinh khắp năm
châu thế giới. Trong quá khứ, Phật Giáo đã có
khả năng hiện diện tại nhiều xứ sở Phương Đông mặc
dù phưong tiện truyền thông và chuyên chở rất khó khăn và
người ta phải vượt qua núi non và sa mạc. Mặc dù những
khó khăn trở ngại ấy, Phật Giáo vẫn truyền bá thật xa
và thật rộng. Ngày nay, thông điệp hòa bình này đang lan
tràn tại Tây Phương. Những người Tây Phương chú ý đến
Đạo Phật và tin tưởng Phật Giáo là tôn giáo duy nhất
có thể hòa hợp với khoa học hiện đại. Những nhà hoằng hóa Phật Pháp
thấy không cần hay không muốn đổi đạo những người đã
có một tôn giáo thích hợp để tu tập. Nếu h? thấy thỏa
mãn với tôn giáo của họ, thì không cần đến những nhà
truyền bá Phật Giáo đổi đạo cho họ. Các nhà giáo hóa
Đạo Phật hoàn toàn hỗ trợ các nhà truyền đạo của các
đức tin khác nếu những lý tưởng của những vị này là
chuyển hóa những kẻ độc ác, tội lỗi và vô học thành
người biết sống một đời sống đạo hạnh. Người Phật
Tử hoan hỉ khi nhìn thấy sự tiến bộ của các tôn giáo
khác bao lâu mà những tôn giáo này thực sự giúp đỡ người
dân sống một cuộc đời đạo hạnh theo niềm tin của họ
và vui hưởng hòa bình, hòa hợp và hiểu biết. Mặt khác
các nhà hoằng pháp Đạo Phật cảm thấy đáng tiếc về
thái độ của một số nhà truyền giáo đã phiền hà các
tín đồ của đạo khác bởi không cần gì phải tạo thêm
một bầu không khí cạnh tranh không lành mạnh để quy nạp
đổi đạo nếu mục đích của họ chỉ là dạy người dân
sống hợp đạo lý. Khi giới thiệu Giáo Pháp với người
khác, nhà truyền bá Đạo Phật không bao giờ đem sự tưởng
tượng quá đáng vẽ lên cuộc sống thiên đường để lôi
cuốn lòng ham muốn của con người và làm khởi sanh lòng
tham dục của họ. Thay vì như vậy, các vị này cố gắng
giảng giải cho họ hiểu bản chất thực sự về đời sống
con người và của thiên giới như Đức Phật đã từng dạy. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 | 11 | 12
| 13 | 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Chỉ theo báo cáo, truyền thống hay tin đồn,
Chỉ theo tài liệu trong kinh sách
Chỉ theo các lý lẽ và lập luận
Chỉ theo sự can thiệp của riêng mình
Chỉ theo điều gì có vẻ là đúng
Chỉ theo kiến giải riêng mình
Chỉ theo tài năng dường như có của người khác.
Chỉ theo lý do: Điều ấy là của Thầy mình".
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001