BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 8 GIỚI HẠNH VÀ SỰ TU
TẬP CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ -ooOoo- ĐẠO ĐỨC Những qui luật và tục lệ về
luân lý do con người đặt ra không dựng nên được nền đạo
đức Phật Giáo. Thế giới ngày nay ở trong một
trạng thái hỗn loạn; những nền đạo đức có giá trị
đang bị đảo ngược. Sức mạnh của chủ nghĩa hoài nghi về
vật chất đã quay bao lưỡi dao cắt đứt từng mảnh các
quan niệm truyền thống của những gì được coi là phẩm
tính của con nguời. Tuy nhiên, bất cứ ai quan tâm đến văn
hóa và văn minh sẽ tự mình cảm thấy lo lắng với những
vấn đề tu tập và đạo đức. Bởi vì đạo lý liên quan
đến hạnh kiểm của con người, đạo lý liên quan đến sự
giao tế giữa chúng ta và với người đồng loại. Nhu cầu phải có đạo lý phát xuất
từ sự kiện là bản chất con người vốn không toàn hảo:
con người phải tự rèn luyện để thành lương thiện. Cho
nên luân lý trở thành phương diện quan trọng nhất của cuộc
sống. Đạo đức Phật Giáo không phải
là những tiêu chuẩn tùy tiện do con người sáng chế bởi
con người với mục đích vị lợi cho chính mình. Cũng chẳng
phải đạo đức được đặt ra không mục đích. Những qui
luật và tập tục xã hội do người đặt ra không dựng
nên được căn bản đạo đức Phật Giáo. Thí dụ lối ăn
mặc thích hợp với khí hậu, thời điểm và văn minh ở chỗ
này có thể bị coi là không tề chỉnh ở chỗ khác; nhưng
việc này hoàn toàn là một vấn đề tập tục xã hội
không liên can gì đến đạo đức cả. Tuy nhiên, những quy
ước xã hội nhân tạo không ngừng bị lẫn lộn với những
nguyên tắc đạo đức vốn luôn có giá trị và không thay
đổi. Đạo đức Phật Giáo không đặt
nền móng vào sự thay đổi của tục lệ xã hội mà vào sự
không thay đổi của các định luật thiên nhiên. Giá trị
đạo đức Phật Giáo thực chất là một phần của thiên
nhiên và sự không thay đổi của luật nhân quả (Nghiệp).
Sự kiện đơn giản là đạo đức Phật Giáo mọc rễ trong
định luật thiên nhiên khiến nguyên tắc của nó vừa hữu
dụng và vừa được thế giới tân tiến chấp nhận. Thế
nên quy tắc đạo đức Phật Giáo đã hình thành trên 2500 năm
vẫn không mất giá trị do đặc tính vượt thời gian của
nó. Điểm thiết yếu của đạo đức
Phật Giáo là phải thực hành vì đạo đức chỉ là một
phương tiện dẫn đến mục tiêu cuối cùng của hạnh phúc
tối thượng. Trên con đường đi đến giải thoát, nguời
Phật Tử hoàn toàn chịu trách nhiệm mọi phước báu hay bất
hạnh của chính mình. Mỗi cá nhân phải tự mình tu tập để
tự giải thoát bằng sự hiểu biết và nỗ lực của chính
mình. Theo Đạo Phật giải thoát là kết quả của sự trau
dồi tinh thần của cá nhân chứ chẳng phải bị đặt để
hay cứu độ bởi một tác nhân bên ngoài nào cả. Nhiệm vụ
của Đức Phật là soi sáng cho con người thấy được bản
chất của kiếp sống và chỉ dạy họ cách hành động tốt
nhất cho hạnh phúc của chính mình và cho lợi ích của người
khác. Kết cục, đạo đức Phật Giáo không thành lập do một
mạng lệnh nào bắt buộc con người phải tuân theo. Đức
Phật dạy con người về những điều kiện lương hảo nhất
dẫn đến lợi ích dài lâu cho chính mình và cho người khác.
Thay vì gọi những người phạm tội với những từ ngữ
như " đáng xấu hổ", "độc ác", tệ hại",
"đáng khinh", và "đáng chửi rủa", Ngài chỉ
nói " Con thật dại dột hành động như vậy vì hành động
như thế sẽ mang phiền não cho chính con và cho người khác
". Lý thuyết về đạo đức Phật
Giáo tìm thấy ở sự giải thích thực tiễn trong nhiều giới
luật khác nhau. Những giới luật hay kỷ luật này không gì
ngoài những cách thức hướng dẫn đại cương chỉ đường
hướng cho người Phật Tử phải nương theo để tiến tới
giải thoát cuối cùng. Mặc dù nhiều giới luật được trình
bày dưới hình thức tiêu cực, chúng ta không nên nghĩ rằng
giới luật Phật Giáo chỉ gồm có việc tránh các việc ác
mà không có bổ sung làm các điều thiện. Luân lý tìm thấy trong tất cả
các giới luật có thể tóm tắt trong ba nguyên tắc đơn giản:
"Chớ làm điều ác, hãy làm việc lành, thanh lọc
tâm ý, ấy là lời Chư Phật dạy" (Kinh Pháp Cú,
câu 183) Trong Phật Giáo, sự khác biệt giữa
điều tốt và điều xấu rất đơn giản. Tất cả những hành
động bắt rễ từ tham, sân và si phát xuất từ lòng vị kỷ
nuôi dưỡng ảo tưởng tác hại chỉ nghĩ đến mình. Những
hành động đó đáng trách, lầm lỗi và xấu xa. Những
hành động này được gọi là Bất Thiện Nghiệp. Tất cả
những hành động bắt rễ từ những phẩm hạnh khoan dung,
tình thương, và trí tuệ, đều đáng ngợi khen - Thiện Nghiệp.
Tiêu chuẩn của thiện hay bất thiện áp dụng do những tác
động của tâm ý, lời nói hay việc làm. ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO ĐƯỢC THIẾT LẬP TRÊN
Ý MUỐN HAY TÁC Ý.
Đức Phật dạy "Nghiệp là
tác ý". Hành động tự chúng chẳng tốt mà cũng chẳng
xấu nhưng chính tác ý và tư tưởng làm chúng thành tốt hoặc
xấu. Tuy nhiên, đạo đức Phật Giáo không xác nhận rằng
một người phạm những "tội lỗi" theo quy ước có
thể cho là mình làm vậy với dụng ý tốt. Nếu phải giải
quyết tình huống này, Phật Giáo sẽ tự giới hạn về những
vấn đề tâm lý và phải để mặt nhiệm vụ thiết lập các
tiêu chuẩn đạo đức và giới luật hạnh kiểm lên trên mặt
giáo lý giải thoát. Sự liên hệ giữa ý nghĩ và hành động,
giữa hành động tinh thần và vật chất là sự mở rộng của
tư tưởng. Không thể nào phạm tội sát nhân với một tâm
thiện vì giết một mạng sống đơn giản chỉ là sự biểu
lộ ra ngoài của một trạng thái tâm ý bị chế ngự bởi
sân hận hay tham lam. Hành vi là sự cô đọng của tư tưởng
giống như mưa là sự hóa đọng của hơi. Hành vi thể hiện
từ mái chót của hành động chỉ là cái đã vi phạm trong
căn phòng im lặng và bí mật của con tim. Do đó, một kẻ phạm một hành
động vô luân phải công nhận hắn không chế ngự được
trạng thái bất thiện của tâm ý. Cũng vậy, một người có
tâm ý trong sạch và sáng ngời, tư tưởng và cảm nghĩ
trong tâm hoàn toàn không còn ô trược, thì không thể nào
phạm những hành động vô luân. Đạo Đức Phật Giáo cũng thừa
nhận tính cách khách quan của các giá trị tinh thần. Nói một
cách khác, nghiệp quả phát xuất phù hợp với nghiệp luật
thiên nhiên, bất chấp thái độ của cá nhân hay bất chấp
thái độ của xã hội với hành động đó. Thí dụ say rượu
có những nghiệp quả của nó; đó là điều tội lỗi vì
nó làm cho chính cá nhân đó không hạnh phúc và còn làm cho
người khác không hạnh phúc. Nghiệp quả của say rượu vẫn
hiện hữu dù rằng kẻ say hay xã hội nghĩ thế nào về
thói uống rượu. Những quan niệm và thái độ thông thường
bằng những sự kiện khách quan cũng không giảm thiểu được
tính bất thiện hiển nhiên của say rượu. Những hậu quả
- tâm lý, xã hội, và nghiệp - tạo thành những hành động
hợp luân lý hay vô luân lý - mà không cần đến thái độ
tinh thần của những ai phán xét hành động đó. Vậy nên
trong khi thuyết tương đối về đạo đức được thừa nhận,
điều này không làm suy giảm tính cách khách quan của các
loại giá trị . LUẬT LÀ GÌ? Luật là quy tắc kỷ luật để tự
tu tập do Đức Phật đặt ra cho các nam nữ tu sĩ nghiêm
trì. Luật đóng vai trò cột trụ trong đời sống tu hành. Đức Phật không thiết lập quy tắc
kỷ luật bằng một một sự rèn luyện đơn phương. Tuy nhiên
Ngài đặt ra một số điều luật khi cần thiết. Luật Tạng
và bộ chú giải chứa đựng nhiều câu chuyện có ý nghĩa
về nguyên nhân tại sao và như thế nào Đức Phật lại đặt
ra một số giới luật. Theo Ngài, hình thức tốt nhất của
Luật là đặt kỷ luật cho tâm ý, lời nói và hành động.
Những đệ tử đầu tiên của Đức Phật là những bậc
tinh thần phát triển cao độ nên không cần đến luật lệ
đặt ra cho các Ngài. Tuy nhiên khi đoàn thể Tăng Già mở rộng,
có nhiều người gia nhập, một số những người này chưa
được trau dồi về tinh thần. Từ đó phát xuất một số
vấn đề liên quan đến hạnh kiểm và lối sống như tham
gia vào hoạt động thế tục để mưu sinh và có khuynh hướng
bị cám dỗ bởi lạc thú giác quan. Do tình trạng này, Đức
Phật phải đặt ra nguyên tắc chỉ đạo cho các nam nữ tu
sĩ phải tuân hành để họ có thể thấy sự khác biệt giữa
đời sống tu sĩ và cư sĩ. Tăng đoàn và Ni đoàn là một
đoàn thể tôn giáo được thành lập rất hoàn chỉnh so với
các nhóm tu khổ hạnh khác lúc bấy giờ. Đức Phật ấn định tất cả
cương lĩnh cần thiết để duy trì đoàn thể thánh thiện Tăng
Già trên mọi phương diện. Khi Đức Phật qua đời, những
điều luật này được đối chiếu kiểm tra để tăng đoàn
có thể dựa vào đó mà áp dụng. Quy tắc hạnh kiểm ấn
định bởi Đức Phật có thể chia thành hai lãnh vực lớn.
Giới Luật Tổng Quát, Lokavajja, áp dụng cho cả đoàn
thể Tăng Già và cho cả cư sĩ để sống một cuộc đời
đạo hạnh. Một số quy tắc kỷ luật hay luật lệ được
đặt ra để phù hợp với các điều đòi hỏi của quốc
gia về văn hóa và xã hội hiện hữu vào lúc nào đó được
gọi là Pannatti Vajja. Trong loại thứ nhất, Luật Tổng
Quát triệt để cấm mọi hành vi vô luân và tội lỗi. Loại
thứ hai luật áp dụng trực tiếp cho các nam nữ tu sĩ phải
tôn trọng về oai nghi, truyền thống, bổn phận, tục lệ,
và nghi thức. Vi phạm Luật Tổng Quát tạo tai tiếng và
nghiệp xấu, trong khi vi phạm giới luật căn cứ vào các
điều kiện xã hội không hẳn là tạo các nghiệp xấu. Tuy
nhiên họ vẫn phải bị chỉ trích vì phạm giới dù dưới
hình thức nào cũng có thể làm mất ô nhiễm tính trong sạch
và phẩm giá của đoàn thể thánh thiện. Những điều luật này phần lớn
căn cứ vào tình hình văn hóa xã hội hoặc lối sống thịnh
hành tại Ấn cách đây 25 thế kỷ. Theo kinh Maha Parinibbana
Sutta (Đại Bát Niết Bàn), Đức Phật tuyên bố rằng một
số điều luật "thứ yếu" có thể thay đổi và bổ
sung cho thích hợp với thời gian và không gian với điều kiện
là chúng không khuyến khích tư cách vô luân hay có hại. Thật
ra, ngay trong thời Đức Phật hiện tiền, một số luật thứ
yếu đã được sửa đổi bởi các tỳ kheo với sự chấp
thuận của Ngài. Đức Phật cũng chấp thuận nam nữ tu sĩ
bị đau yếu được miễn chấp hành một số giới luật. Tuy nhiên khi các điều luật đã
được liệt kê bởi các đệ tử của Ngài trong Kỳ Đại
Hội Kiết Tập Lần Thứ Nhất triệu tập ba tháng sau khi
Ngài nhập diệt, tất cả các điều luật đều được giữ
lại hết vì lẽ không một ai có thể chắc chắn những điều
luật ấy có nên sửa đổi hay không. Cuối cùng các đệ tử
của Ngài quyết định giữ tất cả giới luật do Đức Phật
ban hành. Thời gian trôi qua, một số giới luật trở thành
lỗi thời và một số các đệ tử chính thống lại khăng
khăng nhấn mạnh rằng phải tuân hành chặt chẽ những giới
luật theo văn tự hơn là theo tinh thần. Sự kiện chính xác
là Đức Phật cũng muốn tránh việc chấp chặt vào giới
luật như vậy nên Ngài đã không đề cử một người nào
kế nghiệp Ngài cả. Ngài dạy rằng hiểu Giáo Pháp và duy
trì Giáo Pháp như vị thầy mình cũng đủ để giúp ta sống
cuộc đời thánh thiện. Một lý do khác là tại sao những
đệ tử lúc ban đầu của Đức Phật không tán thành thay
đổi giới luật là vì các Ngài không có lý do và cơ hội
để thay đổi vì chỉ sống có một thời gian ngắn sau khi
Đức Phật nhập diệt. Hơn nữa vào thời bấy giờ, đa số
những người đã từ bỏ thế tục là những người thành
thực và quyết tâm xuất gia. Tuy nhiên khi những điều kiện
xã hội bắt đầu thay đổi, và khi Phật Giáo lan tràn tại
nhiều nơi tại Ấn và các quốc gia khác, quyết định của
các đệ tử không thay đổi một giới luật nào tại Đại
Hội Kiết Tập lần Thứ Nhất trở thành một vấn đề rất
to lớn vì một số giới luật không thích ứng với những
sự thay đổi về chính trị và kinh tế trong những tình huống
đổi thay. PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
TĂNG GIÀ
Cộng đồng Tăng Già, theo dòng thời
gian, cũng tự phân hóa thành nhiều hệ phái, trong số này
nhiều hệ phái trong khi tôn trọng một số giới luật
chính do Đức Phật ban bố lại có khuynh hướng bỏ qua các
giới luật thứ yếu. Hệ Phái Nguyên Thủy tỏ ra chính thống
hơn, trong khi Đại Thừa và một số hệ phái khác có khuynh
hướng tự do hơn về quan điểm và về cách thực hành đạo
lý. Hệ Phái Nguyên Thủy cố gắng tôn trọng Luật từng ly
từng tí mặc dầu hoàn cảnh và môi trường thay đổi. Những
sự thay đổi giới luật thứ yếu, thỉnh thoảng vẫn có,
nhưng không được công nhận ngay cả giữa những thành
viên của hệ phái Nguyên Thủy. Chẳng hạn chúng ta nhìn
vào giới luật về việc thọ thực sau giờ quy định trong
ngày. Hệ phái Nguyên Thủy không thừa nhận thẳng thắn sự
kiện về một số thay đổi có thể được chấp thuận
trong những hoàn cảnh đặc biệt. Trong khi những trường phái
khác tự cho phép mặc các y áo với mầu sắc và kiểu cách
thích hợp, Nguyên Thủy vẫn tiếp tục tôn trọng việc sử
dụng các y áo kiểu cũ theo truyền thống trước đây mặc
dầu điều kiện xã hội và khí hậu có thay đổi. Chỉ những
ai sanh ra trong truyền thống văn hóa Phật Giáo mới có thể
hiểu thấu đáo được nhiều cách thức hành tập của giới
xuất gia. Ở một cực đoan khác, có một số
nhà sư nhất định yêu cầu chấp hành Giới trong Tạng Luật
theo từng chữ một hơn là chỉ theo tinh thần, mặc dù hành
động như vậy sẽ làm ngỡ ngàng những người chung quanh.
Thí dụ càng ngày càng có nhiều nhà sư Phật Giáo được mời
sang các quốc gia Tây Phương mà văn hóa và khí hậu hoàn
toàn khác hẳn Á Châu, các vị này có thể bị coi như kỳ
lạ và ngoại lai ở một bối cảnh khác. Nơi đây nhà sư
phải biết vận dụng cách ứng xử thông thường để khỏi
trở thành một trò hề dưới mắt thiên hạ. Giới luật
quan trọng phải triệt để tuân theo là không tạo ra những
hành động vô luân, ác độc, tác hại, và khiếm nhã, và
những tình cảm của con người phải được tôn trọng. Nếu
những nhà sư có thể sống một cuộc đời liêm khiết, từ
ái, vô hại, hiểu biết chúng sanh, bằng cách giữ gìn nhân
phẩm và kỷ luật của họ, thì những đức tính này sẽ
được trân trọng tại bất cứ nơi nào trên thế giới
này. Gìn giữ cái gọi là truyền thống và tập quán của xứ
sở mình ít có liên quan gì với thực chất của Giáo Pháp
do Đức Phật giảng dạy. Lại có một vấn đề khác nữa.
Nhiều người, nhất là tại Phương Tây, chấp nhận lối sống
Phật Giáo, đọc giới Luật trong kinh, nghĩ rằng các nhà sư
phải tuân theo trọn vẹn tất cả các giới luật trên bất
cứ nơi nào trên thế giới đúng theo cách thức đã đưọc
ghi nhận trong sách. Chúng ta phải nhớ rằng một số giới
luật thực hành tại Ấn cách đây 25 thế kỷ qua đã không
còn thích hợp nữa ngay cả tại Á Châu ngày nay. Phải mang
trong đầu óc rõ ràng là Đức Phật đặt ra giới luật chỉ
để cho các thành viên của cộng đồng Tăng Già sống tại
Ấn, ngay tại miền Đức Phật sống. Những các nhà sư này
chưa bao giờ có kinh nghiệp về đời sống của các quốc
gia khác. Vấn đề quan tâm của họ là phải phát triển
tinh thần làm sao tránh sự chia rẽ, quấy rầy đến xã hội
mà họ sống. Nhưng nếu họ sống vào thời nay, họ sẽ phải
đối đầu với nhiều khó khăn mới nếu chỉ triệt để
tuân thủ tất cả các giới luật ở một quốc gia mà dân
chúng không cảm tình hay không hiểu họ. Quy tắc kỷ luật cho giới cư sĩ
là làm sao cho người cư sĩ sống một cuộc đời đạo đức
cao thượng mà không cần phải từ bỏ nếp sống thế gian.
Lời khuyên của Đức Phật đều được đề cập trong những
kinh như Mangala, Prabhava, Sigalovada, Vasala và Vygghapajja và
trong nhiều kinh khác nữa. Nhiều giới luật chỉ áp dụng
cho những người xuất gia. Đương nhiên, người cư sĩ có
thể vâng giữ một số giới luật nếu những giới này tạo
điều kiện cho họ mở mang tinh thần nhiều hơn nữa. XÃ HỘI THAY ĐỔI Khi xã hội thay đổi, nhà sư không
thể duy trì truyền thống mà không đáp ứng với những sự
thay đổi mặc dù đã lìa bỏ đời sống thế gian. Một số
người không hiểu tình trạng này nên đã phê phán tư cách
đạo đức của một số nhà sư vì những sự thay đổi này.
Tuy nhiên, khi những nhà sư muốn sửa đổi một vài giới
luật thứ yếu, cũng phải có sự phê chuẩn của một Hội
Đồng Tăng Già chính thức. Cá nhân những nhà sư không có
quyền tự do sửa đổi bất luận một giới luật nào theo
sáng kiến hay sở thích của mình. Thành viên của Hội Đồng
Tăng Già cũng có thể ban một số hình phạt với những
nhà sư vi phạm trầm trọng giới luật hay tư cách đạo đức
làm Tăng Già mất uy tín. Đức Phật thiết lập Hội Đồng
để giúp các nhà sư tránh các hành động tội lỗi và
tránh các cám dỗ của đời sống trần tục. Giới luật là
những điều hướng dẫn hơn là những định luật bất khả
xâm phạm ban xuống từ một chức quyền thần thánh nào đó.
Đặc biệt tại một vài quốc gia Á Châu, chư tăng hết sức
được kính trọng và tôn sùng. Cư sĩ kính trọng chư tăng
như các bậc đạo sư và như là các người đã hy sinh cuộc
đời thế tục để sống một cuộc đời thánh thiện. Chư
tăng dâng hiến đời mình cho việc nghiên cứu và tu tập
Giáo Pháp và không kiếm tiền để sinh sống. Cho nên cư
sĩ, cung cấp nhu cầu vật chất cho chư tăng để đổi lại
được hưởng nhu cầu tinh thần từ các chư tăng. Như vậy, các nhà sư phải tự mình
biết cư sử thế nào để có được sự kính trọng và
tôn sùng của cư sĩ ngoài xã hội. Thí dụ, nếu một nhà sư
được trông thấy tại một nơi không chính đáng, nhà sư
đó vẫn b? phê bình dù là không gây nên một hành động vô
luân nào cả. Cho nên bổn phận của nhà sư là tránh những
môi trường xung quanh không thích hợp để giữ phẩm giá của
Đoàn Thể thánh thiện. Nếu một nhà sư không kính trọng
cảm nghĩ của ngưòi cư sĩ và cứ cư xử theo ý mình mà
cho là đúng, cư sĩ sẽ nhất định không lưu ý gì đến
nhu cầu của nhà sư nữa. Có nhiều trường hợp được ghi
nhận trong các kinh sách là ngay cả trong thời kỳ Đức Phật
hiện tiền, cư sĩ đã từ chối không săn sóc gì các nhà sư
cao ngạo, hay gây gỗ và vô trách nhiệm. Các nhà sư có thể
bị chỉ trích nếu làm một số việc thế tục nào đó mà
lẽ ra chỉ những người cư sĩ mới được làm. PHÁP VÀ LUẬT Nhiều người vẫn chưa hiểu rằng
Pháp, Chân Lý do Đức Phật khám phá, không thể thay đổi
dưới bất cứ hoàn cảnh nào. Một số giới luật cũng
được liệt vào loại như vậy và không bao giờ thay đổi
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng một số giới luật khác
phải thay đổi để ngăn ngừa những bất lợi quá mức.
Pháp và Luật không giống nhau. Một số các nhà sư cố gắng
chấp giữ một số truyền thống như là những nguyên tắc
đạo lý quan trọng mặc dù những người khác không hề
tìm thấy được ý nghĩa hay ẩn dụ đạo giáo nào trong những
cách tu tập của họ. Đồng thời một số người ích kỷ
và xảo quyệt lại cố gắng duy trì một số biểu hiện
trong sạch bề ngoài để lừa dối các tín đồ ngây thơ
coi họ là những nhà sư chân tu và thành thực. Nhiều cách
hành trì cho là của Phật Giáo trong các quốc gia Á Châu với
các nhà sư và các tín đồ không cần đến giới luật tôn
giáo mà chỉ tu tập theo truyền thống dân gian. Mặt khác, một
số cách thức nhằm cho các nhà sư tuân thủ giới luật đã
thực sự duy trì được phẩm giá và sự thanh tịnh của
đoàn thể tăng già. Mặc dù truyền thống và tập tục đạo
giáo có thể tạo nên một không khí thích hợp cho việc
phát triển tinh thần, một số giới luật cần phải được
sửa đổi cho phù hợp với sự thay đổi các điều kiện xã
hội. Nếu sự thay đổi này không thực hiện, các nhà sư sẽ
phải đối đầu với nhiều khó khăn trong tiến trình sống
còn của họ và trong sự kết hợp với đại chúng. Một số các cư sĩ chỉ trích
các nhà sư về việc nắm tiền bạc. Rất là khó khăn để
thi hành các hoạt động tôn giáo và muốn tích cực trong
xã hội tân tiến mà không liên hệ đến tiền bạc. Điều
mà một nhà sư phải làm là tự coi mình như không ràng buộc
gì với tiền bạc, của cải như là tài sản riêng tư của
mình. Đó là điều mà Đức Phật muốn nói. Đương nhiên
có một số khác tự do giải thích sai giới luật hầu được
lợi dưỡng. Họ sẽ phải lãnh những hậu quả của sự bất
lực của mình trong sự nghiệp phát triển tâm linh. Tuy nhiên, những ai thích tự thu
thúc ở một nơi hẻo lánh để thiền định cho tâm được
thanh tịnh, cũng vẫn có thể thi hành bổn phận đạo lý
mà không bị chướng ngại do những công việc thế tục có
khi rất nặng nề. Tuy nhiên trước tiên họ phải chắc chắn
là họ có đủ tín chủ ủng hộ những nhu cầu cho họ.
Trong khi có các nhà sư muốn rút lui hẳn ra khỏi xã hội,
thì cũng phải có đủ một số nhà sư ra ngoài xã hội để
đáp ứng nhu cầu tôn giáo cần thiết cho đại chúng. Nếu
không, người dân sẽ nghĩ rằng Phật Giáo không thể đóng
góp gì vào đời sống hàng ngày của họ. ĐẶC TÍNH CỦA
MỘT NHÀ
SƯ
Một số trong những đặc tính nổi
bật của một nhà sư là tính trong sạch, sống an bần (lạc
đạo), khiêm tốn, đơn giản, phục vụ bất vụ lợi, tự
chủ, kiên nhẫn, từ bi và không làm hại ai. Nhà sư phải
giữ bốn loại giới trọng sau đây: 1) Patimokkha Sila
- Quy Tắc Giới Luật Căn Bản (Đại Tội liên quan đến
những hoạt động vô luân, tàn ác, tác hại, và ích kỷ)
.
2) Indriyasamvara Sila
- Giới luật liên quan đến ý thức tự kiềm chế (tự
thu thúc lục căn) 3) Ajivaparisuddhi Sila
- Giới luật liên quan đến sự sinh sống trong sạch.
4) Paccayasannissita Sila
- Giới luật liên quan đến cách sử dụng vật dụng cần
thiết cho đời sống. Bốn loại giới luật gọi chung là
Sila-Visuddhi (Sự trong sạch của giới hạnh, Giới
Thanh tịnh). Khi một người gia nhập Đoàn Thể
Tăng Già và thọ giới, người đó được gọi là Sa Di.
Sa Di phải giữ mười Giới Luật Sa Di với một số quy tắc
kỷ luật sống cuộc đời trong tu viện cho đến khi được
thọ giới cao hơn - Upasampa (Cụ túc giới)- để
trở thành một Tỳ Kheo hay một nhà sư hoàn toàn. Một tỳ kheo
hay nhà sư phải giữ bốn loại giới trọng kể trên gồm
có 227 điều luật với một số giới thứ yếu.
Bốn giới trọng phải triệt để
tuân hành là: sống độc thân, không trộm cắp, giết người,
xuyên tạc cấp trên. Nếu vi phạm một trong bốn giới
trên, vị sư này kể như là bị loại ra khỏi cộng đồng
Tăng Già. Nhà sư này cũng sẽ bị Tăng Đoàn tước đi một
số quyền lợi về tôn giáo. Trong trường hợp vi phạm các
điều giới cấm khác, nhà sư đó phải chịu nhiều hậu quả
và phải sửa chữa tùy theo mức quan trọng của tội vi phạm. Một tỳ kheo không phải có lời
thề nguyền nào. Trở thành một vị tỳ kheo là do sự tự
nguyện của chính mình để sống một cuộc đời thánh thiện
trong bao lâu mà mình thích. Cho nên không cần thiết cho vị
tỳ kheo phải bị vương mắc vào lời thề trước đây và
bị coi như đạo đức giả vì chính vị tỳ kheo tự quyết
định tuân theo hay không tuân theo giới luật. Tỳ kheo hoàn
toàn tự do rời bỏ Tăng Đoàn bất cứ lúc nào để sống
cuộc đời cư sĩ nếu muốn. MƯỜI THIỆN NGHIỆP VÀ MƯỜI BẤT
THIỆN NGHIỆP. Con người hữu phúc hay bất hạnh
là tùy vào thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp của cá
nhân đó. Làm những hành động tốt tạo công
đức, một đức tính làm thanh tịnh và trong sạch tâm ý. Nếu
tâm không được kiểm soát, tâm sẽ có khuynh hướng ngả về
tội lỗi, dẫn ta làm những hành vi xấu ác và gây khó khăn
cho ta. Công đức giúp thanh lọc tâm ý khỏi những khuynh hướng
tội lỗi của tham sân si. Tâm tham thúc đẩy con người tham
dục, tích lữy và cất dấu của cải; tâm sân lôi kéo con
người đến ghét bỏ và giận dữ; và tâm si làm con người
trở nên vương mắc vào tham và sân mà lại nghĩ rằng những
gốc rễ tội lỗi đó là đúng và thích đáng. Những hành
vi thất đức gây nhiều đau khổ và giảm thiểu cơ hội
cho ta hiểu biết và tu tập Giáo Pháp. Công đức rất quan trọng theo hỗ
trợ ta trong suốt quãng hành trình của cả cuộc đời. Công
đức liên quan với những gì tốt và lợi lạc cho mình, cho
người khác, và làm tăng phẩm chất của tâm. Trong khi của
cải vật chất của một người gom góp có thể bị tiêu
tan vì trộm cắp, nước, lửa, bị tịch thu vân vân..., phước
báu của công đức theo ta kiếp này đến kiếp khác và
không thể bị mất, mặc dù công đức có thể bị cạn hết
nếu không biết vun bồi thêm nhiều công đức nữa. Một
người chứng nghiệm hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ cũng
như về sau này là do tạo được công đức. Công đức là một điều kiện
thuận lợi to lớn: Nó mở cánh cửa cơ hội khắp mọi
nơi. Một người có công hạnh sẽ thành công trong bất cứ
một lãnh vực nào mà người đó tham gia. Nếu người đó
muốn hoạt động thương trường, người đó sẽ có ngay cơ
hội gặp gỡ và bạn bè. Nếu người đó muốn trở thành
học giả, người đó sẽ được trợ cấp học bổng và sự
ủng hộ của các nhà bảo trợ cố vấn học thuật. Nếu
người đó muốn tiến bộ về thiền định, người đó sẽ
gập một đạo sư giỏi thiền hướng dẫn để phát triển
tinh thần. Giấc mơ của người đó sẽ thành sự thật nhờ
kho tàng công đức của người đó. Chính công đức làm cho
một người tái sanh vào thiên giới, và cung cấp cho người
ấy những điều kiện thích ứng và giúp người đó đạt
Niết Bàn. Có một số phước điền (nơi thọ
nhận) phong phú đem kết quả vô lượng cho nguời tạo hành
vi thiện. Giống như một số đất tốt có thể sản xuất
mùa gặt tốt hơn (đất mầu mỡ so với đất sỏi đá), một
hành vi thiện hồi hướng cho một số người có thể đem
nhiều công đức hơn là cho những người khác. Những lãnh
vực gieo công đức phong phú gồm Tăng Già hay các vị thánh
thiện, mẹ, cha và người nghèo túng. Hành thiện nghiệp cho
những người trên đây qua nhiều hình thức khác nhau sẽ
là nguồn gốc của những kết quả kỳ diệu. Đức Phật dạy mười điều công
đức (Thập Thiện Nghiệp) cho chúng ta thi hành để đạt một
cuộc đời hạnh phúc và an lạc và cũng để phát triển kiến
thức và sự hiểu biết. Mười điều công đúc đó là: 1. Bố Thí Làm mười thiện nghiệp trên
không những đem lợi ích cho chính mình, mà còn đem lợi
ích cho những người khác, ngoài phần đem lợi lạc cho người
được hưởng. Giới hạnh đem lợi ích tất cả chúng sinh
mà ta tiếp xúc. Trau dồi tinh thần mang an lạc cho người khác
và gợi ý cho họ tu tập Pháp. Lòng tôn kính gây hài hòa
trong xã hội, và sự phục vụ người khác khiến đời sống
của họ cải tiến. Chia sẻ công đức với người khác cho
thấy sự quan tâm của mình đến hạnh phúc của người khác,
và trong khi vui với công đức của người khác khuyến
khích họ tạo nhiều công đức hơn nữa. Dạy và nghe Pháp
là những yếu tố quan trọng cho hạnh phúc của cả vị thầy
lẫn người nghe, và khuyến khích cả hai sống đúng với
Pháp. Trau dồi chánh kiến của mình sẽ làm cho người khác
thấy được cái đẹp của Giáo Pháp. Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật dạy: "Nếu đã
làm việc lành
Chớ nên coi nhẹ điều lành nhỏ
mà cho rằng MƯỜI ÁC NGHIỆP Người Phật Tử hay được nhắc
nhở phải tránh xa mười hành vi bất thiện. Những hành vi
này bắt nguồn từ tham, sân, si, gây đau khổ cho người khác
nhưng nhất là cho chính mình ngay trong kiếp này và những kiếp
sau. Khi một người hiểu Nghiệp Luật và nhận thức được
những hành vi bất thiện mang lại kết quả xấu, người đó
sẽ tu tập chánh kiến và tránh những hành động này. Có ba hành động bất thiện nghiệp
thuộc về thân: (1) Giết hại chúng sanh, (2) Trộm cướp, và
(3) Tà dâm. Những thân nghiệp này tương ứng này với ba
trong năm giới của người cư sĩ phải vâng giữ. Hậu quả của giết hại là phải
chịu vắn số, tật bệnh, luôn luôn đau buồn vì phài xa
lìa các người thân, sống trong sợ hãi thường xuyên. Những
hậu quả xấu do trộm cướp là nghèo túng, cùng cực, thất
vọng, và phải sống nhờ vả. Hậu quả xấu của tà dâm
là có nhiều kẻ thù, thường xuyên bị người oán ghét, gặp
vợ hoặc chồng không vừa ý. Bốn hành động bất thiện nghiệp
thuộc về lời nói (khẩu) là: (1) Nói dối, (2) Nói lưỡi
hai chiều, (3) Nói lời hung ác, (4) Nói chuyện tầm phào vô
ích. Ngoài điều nói dối, những bất thiện nghiệp của lời
nói được xem là phần mở rộng của Giới Thứ Tư của
người cư sĩ. Những người nói dối sẽ bị hậu
quả xấu là bị lăng mạ, phỉ báng, không được ai tin cậy,
và sức khỏe yếu kém. Hậu quả cho người nói lưỡi hai
chiều là mất bạn vô cớ. Những kẻ nói lời hung ác sẽ
bị người khác ghét và có giọng nói thô bỉ. Hậu quả
không tránh được của kẻ nói phiếm là thân bị khiếm tật,
và không ai tin tưởng vào lời nói của kẻ đó. Ba bất thiện nghiệp về tâm ý
là: (1) tham, hay ham muốn những gì thuộc về người khác,
(2) ác ý, (3) và tà kiến . Ba hành vi này tương ứng với ba
gốc rễ tội lỗi của tham sân, và si. Giới Thứ Năm: không
được dùng những chất say (rượu, độc dược) vì ma túy
không những dẫn tâm phạm ba điều bất thiện trên khi bị
say sưa nhiễm độc mà còn làm thân và khẩu phạm những
hành vi thất đức. Hậu quả tác hại của tham ái
là sự không đạt được ước nguyện của mình. Hậu quả
của ác ý là bị xấu xí, nhiều bệnh, và có một tâm địa
đáng ghét. Cuối cùng, hậu quả cho kẻ nhiều tà kiến là
nhiều dục vọng thô lỗ, thiếu trí tuệ, đần độn, mang
bệnh tật kinh niên và ý tưởng đáng chê trách. Ta nên luôn luôn làm điều thiện
và tự kiềm chế khỏi các hành động sai quấy. Tuy nhiên nếu
một người phạm một hành động tội lỗi, người đó cần
phải nhận thức được đã sai lầm tại chỗ nào và cố gắng
đừng tái phạm lỗi lầm ấy nữa. Đó mới là ý nghĩa thực
sự của sám hối, và chỉ làm như vậy ta mới tiến bộ trên
con đường cao thượng giải thoát. Cầu nguyện được tha tội sẽ vô
nghĩa, nếu sau khi cầu nguyện, người đó vẫn tiếp tục
tái phạm các hành động ác hại. Ai ở đấy mà rửa sạch
tội lỗi của mình ngoại trừ chính mình? Phải bắt đầu
với sự nhận thức, chất liệu tẩy trừ tuyệt diệu. Trước
tiên, kẻ đó phải nhận thức được bản chất hành vi của
mình, và tầm mức tác hại của nó. Kế đến, người ấy
nhận thức được hành vi ấy là bất thiện, rút bài học
từ đó và và hạ quyết tâm không tái phạm. Tiếp theo, phải
cố gắng làm điều lành cho phía bị thiệt hại cũng như
cho những người khác, càng nhiều càng tốt. Bằng cách đó,
người ấy, nhờ hàng loạt hành động thiện lành sẽ lướt
qua được ảnh hưởng do việc xấu ác của mình. Theo Phật Giáo, người lầm lỗi
nào cũng có thể chuộc tội hay cứu vãn được đặc biệt
bằng sự tỉnh thức và Chánh Tinh Tấn (Nỗ Lực) của họ.
Tin tưởng rằng một người có thể "rửa sạch" tội
lỗi nhờ một phương cách thần diệu nào đó hoàn toàn chỉ
là mê tín dị đoan nhưng còn tệ hại hơn nữa là không
giúp ích gì được cho việc trau dồi tinh thần của chính
mình. Làm như vậy chỉ sẽ khiến cho kẻ đó tiếp tục bị
ngu muội và tự mãn. Nói tóm lại, chính niềm tin đặt không
đúng chỗ này lại còn tai hại nhiều hơn là những hậu quả
những hành vi lầm lẫn do người đó gây ra và sợ hãi. GIỚI LUẬT Giữ giới không những chỉ trau dồi
sức mạnh tinh thần, mà còn phục vụ hữu hiệu nhất cho
người đồng loại. Mỗi quốc gia hay xã hội đều có
kỷ cương riêng được coi là những hành động luân thường
đạo lý trong phạm vi xã hội. Những quy tắc này thường
liên quan đến quyền lợi xã hội và pháp luật của nước
đó. Một hành động được coi như đúng khi không vi phạm
luật lệ và vượt quá tình cảm quần chúng hay cá nhân. Những
quy tắc nhân tạo này linh động và thỉnh thoảng được
điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi hoàn cảnh. Những
tiêu chuẩn nhân tạo ấy tuy quan trọng đối với xã hội
nhưng không thể dùng làm cương lãnh đáng tin cậy cho một
số nguyên tắc luân lý được áp dụng chung quát. Ngược lại, đạo đức Phật giáo
không do trí óc con người phát minh ra. Nó cũng chẳng phải
căn cứ vào luân lý sơ khai được dần dà thay thế bởi
các bộ luật nhân văn. Đạo đức Phật Giáo căn cứ trên
định luật nhân quả phổ quát (Nghiệp), và xem một hành
động thiện hay bất thiện tùy theo cách thức nó ảnh hưởng
cho chính mình và cho người khác. Một hành động, tuy mang lợi
lạc cho mình, cũng không thể cho là một hành động thiện
nếu nó gây đau thương vật chất và tinh thần cho người
khác. Đạo đức Phật Giáo nhằm vào một
câu hỏi rất phổ thông nhưng chủ yếu: Làm sao ta có thể
phán đoán một hành động là tốt hay xấu? Theo Phật Giáo,
câu trả lời rất đơn giản. Tính chất của một hành động
được căn cứ trên tác ý hay động lực thúc đẩy bắt
nguồn. Nếu một người làm một việc thúc đẩy bởi tham
sân và si, hành động này là hành động bất thiện. Mặt
khác, nếu người đó làm một việc phát xuất từ tình thương,
nhân ái, và trí tuệ, hành động này là hành động thiện.
Tham, Sân, và Si là "ba Gốc Rễ Tội Lỗi", trong khi
tình thương, lòng nhân và trí tuệ là những "Gốc Rễ
Thiện". Từ ngữ "Gốc Rễ" ám chỉ tác ý mà
hành động bắt nguồn. Cho nên, mặc dù là kẻ đó che đậy
bản chất hành động của mình thế nào đi nữa, sự thật
vẫn hiển bày bằng cách tra xét tư tưởng nào đó tạo
thành hành động ấy. Tâm là nguồn gốc của tất cả lời
nói và hành động. Trong Phật Giáo, nhiệm vụ hàng
đầu của một người là tự mình gột sạch những ô trược
tinh thần của tham, sân và vô minh. Làm việc này không phải
do sợ hãi hay để vừa lòng một đấng thần linh nào đó.
Nếu ai vì lý do này mà làm, người ấy vẫn còn thiếu trí
tuệ. Kẻ đó hành động do sợ hãi chẳng khác gì trẻ nít
sợ bị phạt vì nghịch ngợm. Người Phật Tử hành động
từ sự hiểu biết và trí tuệ. Người Phật Tử hành các
hạnh lành vì hiểu rằng nhờ làm điều thiện, sức mạnh
tinh thần sẽ phát triển và vun bồi nền móng cho tâm linh dẫn
đến giải thoát. Hơn nữa, người đó nhận thức được là
hạnh phúc hay đau khổ của mình do mình tự tạo qua sự vận
hành của Nghiệp Luật. Muốn giảm thiểu những phiền muộn
và khó khăn trong đời sống, người đó phải nỗ lực kiềm
chế hành động tội lỗi. Người đó làm điều thiện vì
hiểu rằng việc đó sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc cho
mình. Vì ai ai cũng mưu tìm hạnh phúc trong đời sống, và
vì người đó có thể tạo được điều kiện để đạt hạnh
phúc, thì không có lý do nào người đó lại không làm việc
thiện và tránh điều tội lỗi. Xa hơn nữa, sự nhổ gốc
rễ những ô nhiễm tâm này, nguồn gốc của những hành động
chống xã hội, sẽ đem lại lợi ích lớn cho những ngưòi
khác trong xã hội. NĂM GIỚI Đạo đức của của hàng cư sĩ
Phật Tử tiêu biểu trong Năm Giới có thể được nhìn ở
hai mức độ. Trước tiên giới hạnh giúp con người ở những
cộng đồng có văn hóa cùng chung sống trong tương kính và
tín nhiệm lẫn nhau. Kế đến, đó là điểm khởi đầu cho
cuộc hành trình tinh thần tiến tới Giải Thoát. Không giống
như những điều răn do mệnh lệnh của thần linh ban xuống
con người, chính đương nhân tình nguyện thọ giới, nhất
là khi người ấy đã nhận thức được lợi ích của việc
vâng giữ những điều luật cho thân, khẩu và ý. Hiểu biết
hơn là không vì sợ hãi hình phạt là lý do giữ giới. Một
Phật Tử tốt nên tự nhắc nhớ tới việc gìn giữ năm giới
hàng ngày. Đó là: "Tôi tôn trọng quy luật tu tập để tránh: 1. Giết hại sinh vật Ngoài tinh thần hiểu biết rằng
Năm Giới chỉ là một nhóm điều lệ để ngăn chận, một
Phật Tử nên tự nhắc nhở là qua việc giữ giới, ta cũng
hành tập được năm Đức Hạnh Cao Quý. Trong khi Năm Giới
dạy điều gì không nên làm, Năm Đức Hạnh Cao Quý cho biết
những phẩm tính nào cần phải trau dồi như hạnh từ bi,
buông bỏ, tri túc, thành thực, và chánh niệm. Khi ta giữ Giới
Thứ Nhất không giết hại, ta kiểm soát được tâm sân hận
và trau dồi tâm từ ái. Ở Giới Thứ Hai, ta kiểm soát được
lòng tham và tập hạnh buông bỏ hay không luyến ái. Ta sẽ
kiểm soát lòng tham muốn nhục dục và rèn luyện hạnh tri
túc của mình ở Giới Thứ Ba. Ở Giới Thứ Tư, ta tránh
nói dối và đồng thời trau dồi đức thành tín, và trong
khi tự khắc phục khỏi những kích thích tinh thần bất thiện,
ta vun bồi chánh niệm ở Giới Thứ Năm. Một khi đã hiểu
được những điều cao quý trên, ta sẽ nhận thức được
rằng giữ gìn Năm Giới không làm cho mình trở thành lãnh
đạm, chủ bại và tiêu cực, nhưng tạo một nhân cách
tích cực đầy tình thương và cẩn trọng cùng các phẩm
tính khác cũng được tăng trưởng nơi một con người sống
một cuộc đời đạo hạnh. Giới là sự tu tập căn bản
trong Phật Giáo. Mục đích giữ giới là để loại trừ những
tham ái thô thiển biểu lộ qua tư tưởng, lời nói và hành
động. Giới cũng là nền tảng rất cần thiết cho những
ai muốn trau dồi tâm ý. Nếu không theo một số giới hạnh
căn bản, công năng của thiền định có thể bị sử dụng
vào những động cơ sai lầm và ích kỷ. TÁM GIỚI (Bát Quan Trai Giới) Trong nhiều xứ Phật Giáo, các
tín đồ thuần thành thường theo thông lệ thọ Tám Giới
(Bát Quan Trai Giới) vào một số ngày nào đó trong tháng, như
ngày rằm và những ngày trăng mới mọc. Những người này
đến Chùa từ sáng sớm và ở lại 24 giờ tại chùa, tu tập
bát quan trai giới. Giữ Tám Giới này, họ tự cắt khỏi cuộc
sống trần tục hàng ngày dồn dập bởi bao đòi hỏi về vật
chất và giác quan. Mục đích của việc giữ Tám Giới là
để được thoải mái và yên tĩnh, để rèn luyện tâm ý,
và để tự phát triển tinh thần. Trong thời gian giữ các giới
này, họ dành thì giờ đọc tụng kinh sách, nghe giảng Giáo
Lý của Đức Ph?t, thiền tập, và tham gia công quả trong mọi
sinh hoạt của ngôi chùa. Sáng hôm sau ngày bát quan trai giới,
họ trở lại thọ Năm Giới hàng ngày và trở về nhà tiếp
tục đời sống bình thường. Tám Giới đó là tránh không: 1. Giết hại Một số người cảm thấy khó hiểu
ý nghĩa một vài giới luật này. Họ cho rằng Phật Tử chống
lại khiêu vũ, ca hát, âm nhạc, chiếu bóng, vật thơm, và
những món trang sức xa hoa. Thật ra trong Phật Giáo không có
luật nào bắt buộc người cư sĩ không được dùng các loại
trên. Những người chọn lựa tránh những thú tiêu khiển
ấy là những Phật Tử thuần thành chỉ giữ những giới
ấy trong một thời gian ngắn như một lối kỷ luật tự giác.
Lý do tránh các loại giải trí và vật trang sức là để lắng
đọng giác quan trong vài giờ và để rèn luyện tâm ý khỏi
bị lệ thuộc vào các lạc thú giác quan. Những hình thức
vui chơi ấy gia tăng sự say mê của tâm ý và phát sanh cảm
xúc làm trở ngại cho việc phát triển tinh thần của cá
nhân. Tự khắc phục được các thú tiêu khiển này, ta có
thể đạt tiến bộ, chế ngự được các nhược điểm, và
kiểm soát chính mình được nhiều hơn. Tuy nhiên, Phật
Giáo không kết tội các loại giải trí này. Thực hành việc giữ giới (Năm
Giới và Tám Giới) bằng một tâm ý nhiệt thành chắc chắn
là một công đức tốt đẹp mang nhiều lợi lạc ngay trong
kiếp này và các kiếp sau. Cho nên nếu có thể được ta nên
cố gắng hết lòng thường xuyên giữ giới với sự hiểu
biết. LÒNG TỪ-ÁI Điều thiếu sót trong thế giới
ngày nay là lòng từ-ái hay thiện chí.
Thế giới ngày nay, có đủ của
cải vật chất. Có rất nhiều nhà trí thức tiên tiến, nhiều
văn nhân lỗi lạc, biết bao hùng biện gia, triết lý gia,
tâm lý gia, khoa học gia, cố vấn tôn giáo tài năng, những
nhà thơ vĩ đại, và những nhà lãnh đạo thế giới uy quyền.
Mặc dù có bao nhà trí thức như trên, vẫn không có hòa
bình và an toàn thực sự cho thế giới ngày nay. Còn thiếu
một điều gì. Đó là lòng từ-ái hay thiện chí giữa nhân
loại. Vật chất đạt được chính nó
không bao giờ có thể mang lại hòa bình và hạnh phúc vĩnh
cửu. Hòa bình thoạt tiên phải hiện hữu trong tâm mình, trước
khi có thể mang cho người khác và toàn thể thế giới. Con
đường thực sự đi đến hòa bình là theo lời khuyên của
các đạo sư tôn giáo. Muốn thực hành lòng từ-ái, trước
nhất ta phải tu tập Nguyên Tắc Cao Thượng của bất bạo
động, phải luôn luôn sẵn sàng thắng lướt tính vị kỷ
và nêu cho người khác thấy chánh đạo. Sự chiến đấu không
phải nơi thân xác vật chất, vì tính chất độc ác của
con người không ở nơi thân mà ở tâm. Bất bạo động là
một khí giới rất hiệu quả để chống lại tội lỗi
hơn là trả thù. Bản chất thực sự của trả thù chỉ
làm tăng tâm tính độc ác. Muốn hành tập lòng từ-ái, ta cũng
phải xả bỏ tính ích kỷ. Bao nhiêu tình thương trong thế
giới vị kỷ này tựu trung chỉ là tình thương cho chính
mình: "Không phải vì tình thương
ban cho người chồng yêu dấu; nhưng chồng mình sở dĩ được
yêu là do mình yêu chính mình. Con cái được cha mẹ yêu thương,
không phải do tình thương ban cho con cái, mà do cha mẹ thương
yêu chính họ. Thần thánh được yêu kính, chẳng phải vì
cho thần thánh, mà là kính yêu cho chính mình. Chẳng phải
người nào đưọc yêu thương là do ai hiến tặng thương yêu,
nhưng chính do lòng tự yêu mình của ai đó". Con người phải học hỏi cách thể
hiện lòng vị tha hầu duy trì được hòa bình thực sự và
cho sự giải thoát của chính mình. Giống như tự tử giết
đi thân xác, tính ích kỷ giết đi tiến bộ tâm linh. Tâm từ
trong Đạo Phật chẳng phải là cảm xúc và cũng chẳng phải
ích kỷ. Đó là sức truyền cảm do tâm thanh tịnh tỏa ra
sau khi đoạn trừ được hận thù, ghen ghét, độc ác, thù
địch và hằn học. Theo Đức Phật, Metta, lòng bi mẫn là
phương pháp hữu hiệu nhất để giữ tâm thanh tịnh và
trong sạch hóa bầu không khí tinh thần bị ô nhiễm. Từ ngữ "tình thương" dùng
để bao gồm một tầm mức rộng lớn những cảm xúc mà
con người kinh nghiệm. Mức nghiêng nặng về thú tính tham dục
đối với một người khác phái sẽ làm mất quan niệm về
tình thân thiện giữa các chúng sanh. Theo Phật Giáo, có nhiều
loại cảm xúc, tất cả những cảm xúc ấy đều được gọi
thông thường là "tình thương". Trước tiên, có
tình thương ích kỷ và tình thương không vị kỷ. Kẻ có
tình thương ích kỷ khi kẻ đó chỉ quan tâm đến thỏa mãn
cá nhân mình mà thôi còn không quan tâm gì đến như cầu
hay cảm nghĩ của người đồng loại khác. Ghen ghét thường
là một triệu chứng của lòng vị kỷ. Mặt khác, tình thương
không vị kỷ được cảm nhận thấy khi một người quên
thân mình làm điều tốt cho người khác - cha mẹ thường
đối với con cái bằng tình thương như vậy. Thường thường
con người hay pha trộn giữa hai tình thương vị kỷ và vị
tha trong các mối tương giao. Thí dụ, trong khi cha mẹ có những
hy sinh to lớn cho con cái, họ cũng thường mong mỏi được
đền đáp. Một loại tình thương khác, cũng
liên hệ mật thiết với loại trên, là tình huynh đệ hay tình
bằng hữu. Về ý nghĩa, loại tình cảm này có thể coi như
ích kỷ vì tình thương này chỉ giới hạn trong một số người
đặc biệt mà không nới rộng ra nhiều người khác. Trong một
loại nữa, có tình yêu xác thịt giữa hai người khác phái
đến với nhau do sự lôi cuốn thể chất. Đó là loại
tình yêu được các ngành giải trí hiện đại khai thác tối
đa, bao gồm từ sự cuồng dại đon sơ của lứa trẻ mới
lớn cho đ?n những liên hệ phức tạp nhất giữa người đã
trưởng thành. Cao cả hơn những tình thương nói
trên là Tình Thương Đại Đồng hay Tâm Từ (Metta). Tình thương
bao quát này là đức hạnh vĩ đại thể hiện nơi Đức Phật.
Chẳng hạn, Đức Thế Tôn đã từ bỏ vương quốc, gia đình
và mọi lạc thú để tận lực tìm ra phương cách giải
thoát nhân loại khỏi kiếp sống khổ đau. Để đạt được
Giác Ngộ, Ngài đã phải chiến đấu qua không biết bao
nhiêu kiếp sống. Người yếu kém chắc phải ngã lòng, nhưng
Đức Phật thì không. Do đó người ta gọi Ngài là "Đấng
Từ Bi". Tình thương bao la vô bờ bến của Đức Phật
không chỉ riêng cho loài người mà cho tất cả các sinh vật.
Tình thương ấy không phải là cảm xúc hay ích kỷ, mà là
một tình thương vô biên giới, không kỳ thị. Không giống
như loại tình thương khác, tâm từ bi không bao giờ chấm dứt
trong thất vọng hay bất mãn vì tình thương này không mong
được đền đáp. Người trau dồi tâm từ bi cũng trau dồi
tâm hỷ và tâm xả, và người đó sẽ đạt đến tình trạng
siêu phàm. Trong cuốn "Con Đường Xưa của
Đức Phật", Hòa thượng Piyadassi nói: "Tình thương là một sức mạnh
tích cực. Mỗi hành động của tình thương thể hiện với
một tâm ý trong sạch để nâng đỡ, cứu trợ, khích lệ,
giúp người khác tiến bước dễ dàng, êm ái và thích nghi
hơn cho việc chiến thắng phiến não, đạt hạnh phúc tối
thượng. "Phương cách để phát triển
tình thương là suy niệm về những điều sai trái của sân
hận, đến những lợi ích của tâm không-sân, suy nghĩ theo
thực tại, theo nghiệp luật rằng không có gì để sân hận,
rằng sân hận là một cảm giác điên rồ nuôi dưỡng càng
ngày càng nhiều tối tăm, che lấp sự hiểu biết chính đáng.
Sân hận kìm hãm, thương yêu cỏi mở. Sân hận bóp nghẹt,
thương yêu giải phóng. Sân hận đem dầy vò, thương yêu
đem an lạc. Sân hận chao đảo, thương yêu bình thản, an
nhiên, tĩnh lặng. Sân hận chia rẽ, tình thương đoàn kết.
Sân hận làm khô cứng, tình thương làm mềm dịu. Sân hận
cản ngăn, tình thương giúp đỡ. Như thế do nghiên cứu và
nhận định chính xác những hậu quả của sân hận và những
lợi ích của tình thương, chúng ta nên phát triển tình thương
rộng lớn". Trong Kinh Metta, Đức Phật giải
thích cặn kẽ tình thương trong Đạo Phật. Chẳng khác gì
người mẹ che chở đứa con duy nhất của mình dù phải hy
sinh tính mạng, đến như vậy ta cũng nên trau dồi tình thương
vô biên đối với tất cả chúng sanh. Hãy trải tâm từ rộng
lớn của mình tỏa khắp toàn thể thế giới, bên trên,
bên dưới, ngang qua không chướng ngại nào, không sân hận
nào, không thù hằn nào". LÒNG NHÂN TỪ THỰC SỰ Lòng nhân từ thực sự là
"cho mà không mong gì đền đáp lại". Cốt lõi của lòng nhân từ thực
sự là cho mà không mong cầu gì đền đáp lại món quà
mình tặng. Nếu một người tìm cầu một lợi lạc vật chất
nào từ tặng phẩm của mình, hành động ấy chỉ có tính
cách đổi chác mà không phải do lòng nhân. Một người nhân
đức không nên làm cho người khác cảm thấy thiếu nợ
mình hay dùng lòng nhân như một phương cách để kiểm soát
họ. Người đó cũng không mong mỏi gì người ta phải biết
ơn mình vì phần đông con người hay quên và không hẳn họ
đều là người vô ơn. Một hành động do lòng nhân thực sự
là một hành động thiện lành, không vương mắc để người
cho cũng như người nhận đều cảm thấy tự do. Tôn giáo nào cũng đều tán thán
công đức từ thiện. Những ai có mức sống đầy đủ nên
nghĩ đến người khác, mở rộng hạnh bố thí vào những
trường hợp thích đáng. Trong hàng những người làm việc
từ thiện, có một số dùng việc cho tặng như một phuơng
tiện để lôi cuốn người khác theo tôn giáo hay tín điều
của mình. Hành động "cho" như vậy với một động
cơ kín đáo để đổi chác không thể là lòng nhân từ thực
sự được. Người Phật Tử quan niệm từ thiện là một
hành động để giảm thiểu lòng tham, một tâm bất thiện
làm ngăn trở sự phát triển tâm linh. Ai đang trên con đường
rèn luyện tinh thần đều phải cố gắng giảm thiểu tính
vị kỷ và tâm tham ái mạnh mẽ muốn có thêm và thêm mãi.
Ta nên giảm thiểu lòng luyến ái vào các vật sở hữu, vì
nếu ta không tỉnh thức, chúng sẽ có thể biến ta thành
nô lệ cho lòng tham ái. Thay vào đó ta nên sử dụng chúng
để đem lợi ích và hạnh phúc lại cho người khác như các
thân hữu và những ai cần đến sự giúp đỡ của mình. Khi cho, ta không chỉ thể hiện
lòng nhân từ như một nghĩa cử của thân mà thôi, mà với
cả con tim và khối óc. Phải có một niềm vui mỗi khi cho.
Có một sự khác biệt giữa một hành động từ thiện và
bố thí (dana). Trong hành động phước thiện bình thường,
do lòng trắc ẩn và tính tình tử tế, ta cho khi nhận thấy
một người nào đó thiếu thốn cần sự giúp đỡ, và ta
đang ở trong tư thế phát tâm muốn giúp đỡ. Còn đối với
người hành hạnh bố thí, cho ở đây là một phương tiện
để trau dồi tâm nhân ái, một đức hạnh để giảm
thiểu tính vị kỷ và tham đắm của chính mình. Người này
đang trau dồi trí tuệ khi nhớ rằng bố thí là một phẩm
hạnh rất quan trọng mà mỗi người Phật Tử phải tu tập
và là ba la mật đầu tiên (Bố Thí Ba La Mật) mà Đức Phật
hành trì trong nhiều tiền kiếp của Ngài trên đường tìm
Giác Ngộ. Ta thực hành hạnh bố thí để tỏ lòng tri ân
những phẩm tính và cao cả của Tam Bảo. Có nhiều thứ mà ta có thể cho.
Có thể tặng vật dụng như thực phẩm cho người đói, tiền
bạc, quần áo cho người nghèo. Cũng có thể cống hiến kiến
thức, kỹ năng, thì giờ, nghị lực và cố gắng vào những
kế hoặch mang lợi ích cho người khác. Ta cũng có thể lắng
nghe với thái độ thiện cảm và trao vài lời khuyên tốt
đến người bạn đang gập khó khăn. Cũng có thể tự kiềm
chế việc giết hại các chúng sanh khác, và làm như vậy chính
là đã tặng lại đời sống cho những sinh vật yếu đuối
này lẽ ra có thể bị giết chết. Ta cũng có thể hiến tặng
một phần thân thể của mình để cứu người khác, chẳng
hạn như cho máu, cho mắt, thận vân vân.... Những ai tu tập
đức hạnh này, thúc đẩy bởi tâm đại bi cao cả đối với
người khác cũng có thể có thể hy sinh đến tính mạng của
mình nữa. Trong nhiều tiền kiếp của Ngài, Bồ Tát (Tất
Đạt Đa) đã nhiều lần cho những phần thân thể của
Ngài để cứu các người khác. Ngài cũng đã hy sinh cả mạng
sống của Ngài để cho người khác được sống, tấm lòng
quảng đại và bi mẫn của Ngài thật to lớn. Nhưng chứng tích vĩ đại nhất về
lòng từ bi vô bờ bến của Đức Phật là tặng phẩm vô
giá cho nhân loại, Giáo Pháp giúp tất cả chúng sinh có thể
giải thoát khỏi khổ đau. Đối với người Phật Tử, tặng
phẩm cao quý nhất trong tất cả tặng phẩm là Phật Pháp.
Tặng phẩm này có sức mạnh vĩ đại thay đổi đời sống.
Khi một người nhận Phật Pháp với một tâm ý trong sạch
và tu tập chân lý nghiêm chỉnh, người đó không thể nào
không thành công được. Người đó đạt nhiều hạnh phúc
to lớn hơn nữa, an lạc và hoan hỷ trong cả tim lẫn óc. Nếu
người đó có lần độc ác, thì nay người đó sẽ sinh
lòng trắc ẩn. Nếu người đó đã có lần trả thù, thì
nay người đó biết tha thứ. Nhờ Phật Pháp, kẻ sân hận
trở thành bi mẫn hơn, kẻ tham lam biết mở lòng rộng rãi
hơn, và kẻ bất an tìm được sự thanh thản hơn. Khi một
người hưởng hương vị của Giáo Pháp, người đó không
những chứng nghiệm hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ,
mà còn hưởng hạnh phúc trong những kiếp sau, và trong cuộc
hành trình tiến đến Niết Bàn. THÁI ĐỘ PHẬT GIÁO
VỚI ĐỜI SỐNG CỦA LOÀI
VẬT
Nếu chúng ta tin rằng thú vật
được tạo ra cho con người, thì chắc phải tin là con người
được tạo ra cho loài vật bởi vì có một số thú vật
ăn thịt người.
Ngưòi ta nói rằng loài vật chỉ
ý thức về hiện tại. Chúng sống không quan tâm gì đến
quá khứ và tương lai. Giống như vậy, trẻ nít hình như không
có khái niệm gì về tương lai. Chúng chỉ sống với hiện
tại cho đến khi khả năng về trí nhớ và tưởng tượng
phát triển. Con người có năng khiếu lý luận.
Sự cách biệt giữa người và vật chỉ là ở chỗ con người
biết phát triển khả năng lý luận và hành động phù hợp.
Người Phật Tử chấp nhận rằng con vật không những có sức
mạnh trực giác mà cũng có khả năng suy nghĩ tuy ở một mức
độ kém hơn Trong vài phương diện, con vật
cao hơn con người. Loài chó có thính giác nhậy bén hơn; côn
trùng có khứu giác tinh tế hơn, diều hâu có tốc độ
nhanh hơn, chim phượng hoàng có tầm nhìn xa hơn. Chắc chắn
con người khôn ngoan hơn nhưng cần phải học hỏi nhiều
điều nơi con kiến và con ong. Tuy loài vật có một số khả
năng như vậy nhưng loài người còn có nhiều hơn nữa: Chúng
ta có tiềm năng phát triển tinh thần. Phật Giáo không chấp nhận là do
ai đó con vật được tạo ra cho con người; nếu vậy hóa
ra loài người cũng được tạo ra cho loài vật vì có một
số con vật ăn thịt người. Người Phật Tử được khuyến
khích nên thương yêu tất cả sinh vật, và không nên chỉ hạn
hẹp trong tình thương cho con người mà thôi. Họ nên thực
hành lòng từ-ái với tất cả mọi sinh vật. Đức Phật dạy
rằng quả không hợp lý nếu con người lấy đi đời sống
của bất cứ sinh vật nào vì mỗi chúng sinh đều có quyền
tồn tại. Con vật cũng sợ hãi và đau đớn như con người.
Tước đoạt mạng sống của chúng thật là sai quấy. Ta
không lạm dụng trí thông minh và sức mạnh để tàn hoại
sinh vật mặc dù đôi khi chúng gây thiệt hại cho ta. Loài vật
cần thiện cảm của con người. Giết hại chúng đâu phải
là biện pháp duy nhất để tống khứ chúng. Mỗi sinh vật
đều đóng góp vào việc bảo tồn thế giới này. Thật là
bất công khi ta tước đi quyền sống của chúng. Trong cuốn Handbook of Reason (sách
nói về lý trí), D. Runes nói: "Thật khó nói về đạo đức
trong sự tương quan với các sinh vật mà con người đã ăn
nuốt một cách có hệ thống, hầu hết bằng cách thui nướng
và đôi khi ăn sống. Có nhi?u người thực hành hạnh thương
yêu súc vật như ngựa chó mèo ... Nhưng chính những người
này lại có thể túm cổ con hươu, con nai, đâm họng chúng
hứng huyết uống tươi hoặc làm dồi tiết, và cắn lấy
thịt tươi. Và ai là người nói con ngựa mà họ cưng cao quý
hơn con hươu họ ăn? Thật ra có người ăn thịt mèo, chó,
và ngựa nhưng lại chỉ dùng bò như loài gia súc để làm
việc". Có người khóc than một con chim
nhỏ hay một con cá vàng mới chết; Lại có kẻ lặn lội
thật xa bắt cá bằng một lưỡi câu ghê tởm để ăn hoặc
chỉ để tiêu khiển hoặc tìm vui trong thú bắn chim. Có kẻ
đi vào tận rừng sâu săn giết thú như một loại thể thao
trong khi có kẻ khác lại tiêu rất nhiều tiền để nuôi những
con vật này tại nhà như những gia súc yêu quý. Có người nuôi ếch nhái để tiên
đoán thời tiết; người khác lại cắt đùi chúng đem chiên.
Một số nuôi chim trong những chiếc lồng hào nhoáng; một số
khác lại dùng chúng để ăn điểm tâm. Tất cả hầu như lẫn
lộn nhau. Trong một thế giới mà người đánh người để
kiếm tiền hoặc chỉ để đổ máu chơi, quả là khó khăn
mà có đủ thì giờ cân nhắc về đạo đức của con nguời
trong mối tương quan với loài vật. Tôn giáo nào cũng khuyên ta thương
yêu đồng loại. Có đạo còn khuyên ta thương yêu nhau nhiều
hơn nếu cùng thuộc về một tín ngưỡng. Nhưng Phật Giáo
cao cả hơn ở chỗ dạy chúng ta thể hiện quan tâm và lòng
bi mẫn đồng đều cho khắp mỗi chúng sinh trên vũ trụ này.
Sự phá hoại bất cứ sinh vật nào đều gây rối cho nền
Trật Tự của Vũ Trụ. Trong những lời dạy của Ngài,
rõ ràng Đức Phật chống lại mọi hình thức độc ác với
bất cứ chúng sinh nào. Một hôm Đức Phật thấy một người
đang sửa soạn giết súc vật để làm lễ tế thần . Hỏi
tại sao lại đem giết con thú vô tội này, người đó trả
lời là để làm vừa lòng thánh thần. Đức Phật bảo vậy
hãy giết Ngài đi để tiến lễ, vì nếu mạng sống của
súc sanh có thể làm họ toại ý thì mạng người ắt còn
làm cho họ vừa lòng hơn nữa. Sự độc ác đối với loài vật
còn là hình thức biểu lộ của lòng tham bất trị của con
người. Ngày nay nhân loại tiêu hoại cầm thú và tước đi
quyền sống của chúng để mở rộng môi sinh cho sự tiện
nghi của mình. Nhưng chúng ta đã phải trả đắt giá về
hành động độc ác và ích kỷ này. Môi sinh của chúng ta
đang bị báo động và nếu chúng ta không có những biện
pháp nghiêm ngặt để bảo vệ sự sống còn của các sinh vật,
sự hiện hữu của chính chúng ta trên trái đất này cũng
không thể được bảo đảm. Sự có mặt của một số sinh
vật quả cũng có đe dọa đời sống con người. Tuy nhiên
chúng ta lại chẳng bao giời lưu ý rằng con người chính
là mối đe dọa to lớn nhất đối với tất cả sinh vật
trên trái đất và trong không gian, trái lại sự hiện hữu
của vài sinh vật chỉ là một nguy cơ nhỏ đối với một
số khác mà thôi. Vì mỗi sinh vật đều đóng góp
cho sự bảo tồn hành tinh và bầu khí quyển, tiêu diệt
chúng không phải là một giải pháp để khắc phục những
sự xáo trộn của chúng ta. Con người phải dùng các biện
pháp khác để duy trì mức cân bằng của thiên nhiên. LÒNG KHOAN DUNG CẦN THIẾT CHO THỜI
ĐẠI NÀY "Nếu ai dại khờ làm điều
sai trái với Như Lai, trở lại Như Lai sẽ che chở cho y bằng
một tình thương vô bờ bến. Hắn càng làm tội lỗi bao
nhiêu thì Như Lai lại càng cho y thiện ý bấy nhiêu. Lúc
nào Như Lai cũng chỉ tỏa ra hương thơm của điều thiện"
(Đức Phật) Con người ngày nay bất an, lo lắng
với bao sợ hãi và bất mãn. Họ bị đầu độc bởi lòng
ham muốn được danh tiếng, của cải và uy quyền. Họ tham
đắm trong sự thỏa mãn giác quan. Họ sống qua ngày trong sợ
hãi, nghi kỵ và bất ổn. Trong thời điểm rối loạn và khủng
hoảng này, con người thật khó sống chung hòa bình với bạn
đồng loại. Thế nên lòng khoan dung trong thế giới ngày nay
tối thiết phải có thì sự sống chung hòa bình giữa các
dân tộc mới có thể thành tựu được. Thế giới đã đổ máu và thống
khổ bởi căn bệnh giáo điều và cố chấp. Mảnh đất của
nhiều quốc gia ngày nay đã bị đẫm ướt bởi máu đổ trên
bệ thờ do các loại đấu tranh chính trị giống như những
bầu trời ở thời đại hoàng kim xa xưa đã bị bao phủ bởi
khói thiêu các vị thánh tử đạo của nhiều tín ngưỡng
khác nhau. Trong tôn giáo hay chính trị, con
người vẫn hay cho mình có sứ mệnh mang nhân loại vào
cách sống của mình và hay công kích những cách sống khác.
Đương nhiên, sự bất khoan dung của tinh thần Thập Tự
Chinh đã làm hoen ố sử sanh tôn giáo. Chúng ta hãy nhìn lại thế kỷ hiện
tại mà "TIẾN BỘ" được quảng cáo rầm rộ - một
thế kỷ của máy móc và phát minh. Sự trưng bày các phát
minh khoa học và kỹ thuật mới làm ta chóa mắt - điện thoại,
điện cơ, máy bay, vô tuyến, truyền hình, điện toán, tầu
không gian, vệ tinh và các dụng cụ điện tử. Nhưng cũng
trong thế kỷ này, những đứa con của trái đất đã triển
khai bao phát minh cực kỳ tiến bộ ấy, vẫn là những người
đó đã giết hại cả triệu người khác bằng lưỡi lê,
súng đạn hay hơi độc. Tinh thần khoan dung ở đâu, giữa tất
cả tiến bộ vĩ đại đó? Ngày nay con người đang ra sức thám
hiểm ngoại tầng không gian. Nhưng người và người hoàn
toàn không thể cùng nhau sống trong thái bình và hài hòa.
Con người rồi đây sẽ làm mất tính chất thiêng liêng của
mặt trăng và các hành tinh khác. Để mưu lợi vật chất, con người
hiện đại xâm phạm thiên nhiên. Hoạt động tinh thần lại
quá đặt nặng về hưởng lạc nên họ không tìm ra mục đích
của cuộc đời. Cách hành xử trái tự nhiên của nhân loại
ngày nay do kết quả quan niệm sai lầm về đời sống con
người, và về mục tiêu chủ yếu. Đó là nguyên nhân của
bao thất vọng, sợ hãi, bất an và cố chấp của thời đại
ngày nay. Tóm lại, ngày nay thái độ thiếu
bao dung vẫn còn thể hiện dưới danh nghĩa tôn giáo. Người
ta chỉ nói suông về tôn giáo và hứa hẹn con đường tắt
tiến tới thiên đường mà không lưu tâm gì đến việc thực
hành. Nếu người Cơ Đốc Giáo sống theo Bài Thuyết Giáo
Trên Đồi, nếu người Phật Tử hành theo Bát Chánh Đạo,
nếu người Hồi Giáo thực sự theo quan niệm Tình Anh Em,
và nếu người Ấn Độ Giáo sống theo khuôn khổ tinh thần
nhất như, nhất định nhân loại sẽ có hòa bình và hòa hợp
trên thế giới này. Bất chấp những giáo lý vô giá của
những đạo sư tôn giáo vĩ đại, người ta vẫn không nhận
thức được giá trị của lòng khoan dung. Nhân danh tôn giáo
để biểu lộ thái độ cố chấp thật là tệ hại và đáng
trách. Đức Phật có dạy: "Sung sướng thay ta sống không
thù hận những người thù hận ta. LỀ NGHI TANG CHẾ PHẬT GIÁO Đám tang thực sự theo Phật giáo
là một nghi lễ tôn giáo đơn giản, nghiêm túc và trang trọng. NGÀY TANG LỀ Một đám tang cử hành đúng theo
tinh thần đạo Phật tại các xứ Phật Giáo là một nghi lễ
đơn giản, nghiêm túc và trang trọng. Nhưng không may nhiều
người đã đưa thêm lắm tiết mục ngoại lai không cần
thiết cùng các hình thức dị đoan vào trong tang lễ. Những
nghi thức xa lạ trên được thay đổi tùy theo truyền thống
và tập tục của người dân địa phương. Những điều này
được ứng dụng từ rất lâu đời bởi những người có
lẽ không hiểu gì về bản chất của đời sống, và của
cái chết, và về kiếp sống sẽ ra sao sau khi chết. Khi những
ý kiến bổ sung này được sát nhập vào tang nghi theo Phật
Giáo, người ta có khuynh hướng chê trách đạo Phật vì
tang lễ tốn kém. Nếu đại chúng Phật Tử được thân cận
đúng người đã thâm hiểu Giáo Pháp và truyền thống thực
sự của Phật Giáo, họ sẽ nhận được lời khuyên phải
tổ chức tang lễ như thế nào. Điều đáng tiếc nhất là
các sự kiện trên đã gieo một cảm tưởng xấu rằng Đạo
Phật khuyến khích người dân phung phí tiền bạc và thì giờ
vào những hình thức không cần thiết. Phải nên hiểu minh
bạch là Phật Giáo không liên quan gì đến những thủ tục
thấp kém ấy. Người Phật Tử không quan tâm đặc
biệt gì về chôn hay thiêu một xác chết. Trong nhiều xứ
Phật Giáo, hỏa táng là một tục lệ. Thiêu được khuyến
khích vì lý do vệ sinh và kinh tế. Ngày nay, dân số trên thế
giới đang gia tăng nếu ta tiếp tục để xác chết chiếm một
số đất đai có giá trị, rồi một ngày nào đó, tất cả
đất đai còn lại sử dụng được đều sẽ bị người chết
dành hết, và người sống sẽ không còn chỗ mà sống. Vẫn còn có một số người phản
đối việc thiêu xác chết. Họ cho là hỏa thiêu trái với
luật của thượng đế, cũng một lập luận như vậy, họ
đã phản đối nhiều điều khác trong quá khứ. Những hạng
người như vậy phải cần một thời gian mới hiểu được
là hỏa thiêu thích hợp và hiệu quả hơn chôn cất. Mặt khác, người Phật Tử không
tin rằng ngày nào đó có một đấng nào đó sẽ đến đánh
thức hương linh người quá cố từ ngôi mộ hay tro cốt
trong bình đựng và quyết định ai sẽ đuợc lên thiên đường,
ai sẽ phải xuống địa ngục. Thức hay năng lực tinh thần của
người quá vãng không có liên quan gì nữa với cái thân
xác, bộ xương hay tro cốt để lại. Nhiều người lại còn
tin rằng nếu người chết không được chôn đúng cách hay
mộ chí đã được làm phép mà không được để vào nấm
mộ, linh hồn người chết sẽ lang thang khắp bốn phương
trời khóc than rên rỉ, và đôi khi quay trở về quấy phá
người thân. Trong Phật Giáo không hề có lối tin như vậy. Người Phật Tử tin rằng một
người khi chết sẽ tái sanh ở một nơi nào đó tùy theo
hành động tốt hay xấu của người đó. Khi mà người đó
còn tham sống, người đó phải tái sanh. Chỉ có các đấng
A la Hán, đã vượt qua tất cả các tham ái mới không còn
tái sanh và sau khi chết các Ngài sẽ đạt mục tiêu cuối
cùng là Niết Bàn. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09 | 10
| 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
2. Trì Giới
3. Rèn luyện tinh thần
4. Lễ Độ
5. Phục vụ tha nhân
6. Hồi hướng công đức
7. Hoan hỷ với những công đức của người khác
8. Thuyết giảng và dạy Pháp
9. Nghe Pháp
10. Trau dồi chánh kiến.
Hãy nên thường làm mãi
Nên vui làm việc lành
Vì hạnh phúc là sự tích lữy điều thiện - (Pháp
cú, câu 118)
"Điều đó chẳng đến gần ta"-
Từng giọt nước nhỏ lâu cũng đầy bình
Giống như vậy, người trí thâu thập từng chút thiện
Khiến người đó trở nên toàn thiện." - (Pháp
cú, câu 122)
2. Lấy một thứ gì không được cho
3. Tà dâm
4. Nói dối
5. Dùng ma túy và rượu."
2. Trộm cướp
3. Hành dâm
4. Nói dối
5. Uống rượu
6. Ăn quá giờ Ngọ
7. Khiêu vũ, ca hát, nghe nhạc, xem các màn trình diễn
không đứng đắn, dùng tràng hoa, dầu thơm, phấn sáp và
những loại tô điểm sắc đẹp,
8. Dùng giường cao lộng lẫy.
Giữa những người thù hận, ta sống không thù hận.
Sung sướng thay ta sống không tật bệnh giữa những người
tật bệnh.
Sung sướng thay ta sống không tham dục giữa những người
tham dục"
-- (Kinh Pháp Cú, Câu 197, 200)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001