BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe PHẦN
III SỐNG
THEO CHÁNH PHÁP Chương 7 NỀN TẢNG LUÂN LÝ
CHO NHÂN LOẠI -ooOoo- MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI
SỐNG LÀ
GÌ?
Con người là quả vị cao nhất
trên cây tiến hóa. Chính con người phải nhận định được
vị trí của mình trong thiên nhiên và hiểu được ý nghĩa
thực sự của đời sống.
Muốn biết mục đích của cuộc
đời, bạn phải nghiên cứu nó qua kinh nghiệm và tuệ giác
của bạn. Rồi, bạn sẽ tự mình khám phá ra ý nghĩa thực
sự của đời sống. Bạn có thể nhận được những lời
hướng dẫn, nhưng bạn phải tạo các điều kiện để sự
nhận định phát xuất từ nơi bạn. Có một số điều kiện tiên quyết
để khám phá mục đích của cuộc đời. Trước tiên, bạn
phải hiểu bản chất của con người và bản chất của đời
sống. Tiếp theo, bạn phải giữ tâm bạn bình thản và
khách quan trong việc chọn một tôn giáo. Khi bạn hội đủ
các điều kiện đó, câu trả lời bạn tìm kiếm sẽ đến
giống như con mưa phùn từ trên trời rơi xuống. HIỂU RÕ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI Con người có thừa đủ khả
năng trong tay để lên đến mặt trăng và khám phá những
điều kỳ diệu của vũ trụ, nhưng con người chưa thể đào
sâu việc nghiên cứu bên trong, nội tâm của mình. Con người
chưa hiểu được làm thế nào cho tâm phát triển hết tiềm
năng để có thể thấu triệt được bản chất thực sự của
mình. Cho đến bây giờ, con người vẩn
nằm trong vô minh. Con người chưa hiểu được mình thực ra
là gì và cái gì mong đợi nơi mình. Kết quả con người giải
thích sai lầm mọi điều và hành động theo sự giải thích
lầm lẫn ấy. Phải chăng tất cả toàn bộ văn minh của chúng
ta đều xây dựng trên sự giải thích sai lầm này sao? Sự
thất bại trong việc tìm hiểu cuộc sống dẫn con người
đến việc khoác trên mình một lý lịch sai lầm của một
cái ngã ích kỷ cao ngạo, và cho là đúng cái không đúng
hay cái không đúng là đúng. Con người phải nỗ lực vượt
khỏi vô minh để tiến đến hiểu biết và giác ngộ. Tất
cả các vĩ nhân đều là con người sanh ra từ lòng mẹ, nhưng
họ đã nỗ lực làm việc để trở thành vĩ đại. Hiểu
biết và giác ngộ không thể rót vào tâm con người như rót
nước vào bồn. Đức Phật cũng phải trau dồi rèn luyện
tâm ý để hiểu được bản chất thực sự của con nguời. Con người có thể giác ngộ -
thành Phật - nếu người đó tỉnh dậy từ mê mờ tạo ra
bởi vô minh trong tâm của chính mình, và trở thành hoàn
toàn tỉnh giác. Phải hiểu rằng cái mà người đó có
ngày nay là kết quả của một số không kể siết những
gì đã lập đi lập lại trong tư tuởng và hành động trong
quá khứ. Con người không phải đã được làm sẵn mà đã
không ngừng tiếp diễn trong tiến trình tiến hóa và thay đổi.
Đó là đặc tính của vô thường mà tương lai tùy thuộc,
vì đó có nghĩa là con người tự mình có thể rèn đúc
tính tình và vận mạng của mình qua sự lựa chọn các
hành động, nói năng và tư tưởng của mình. Đương nhiên
con người trở thành tư tưởng và những hành động mà tự
mình chọn lựa áp dụng. Con người là quả cao nhất trên
cây tiến hóa. Chính con người phải hiểu được vị trí của
mình trong thiên nhiên và hiểu được ý nghĩa thực sự của
đời mình. HIỂU RÕ BẢN CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG Hầu hết con người không thích
đối đầu với những sự thật của đời sống và ưa tự
ru ngủ vào cảm giác an toàn giả tạo bằng những giấc mơ
và tưởng tượng êm đềm. Họ sai lầm lấy bóng làm thật.
Họ thất bại không hiểu được đời sống là bấp bênh,
cái chết mới là điều chắc chắn. Một cách để hiểu đời
sống là phải nhìn thẳng và thấu hiểu cái chết, cái chết
chẳng qua chỉ là một kết liễu tạm thời cho một cuộc sống
tạm thời. Nhưng đa số không thích nghe ngay cả đến tiếng
"chết". Họ quên rằng chết sẽ đến, dù thích hay
không thích. Suy nghĩ đến cái chết với một thái độ chính
đáng giúp cho một người có can đảm và bình tĩnh cũng
như có tuệ giác về bản chất của kiếp sống. Ngoài việc hiểu về cái chết,
chúng ta cần phải thấu rõ hơn đời sống của chúng ta.
Chúng ta sống một cuộc sống không bao giờ được êm suôi
như chúng ta mong cầu. Thông thường, chúng ta hay gặp khó khăn
và trở ngại. Chúng ta không nên sợ hãi vì sức thâm nhập
vào bản chất thực sự, vào các khó khăn và trở ngại ấy,
có thể cung cấp cho chúng ta một tuệ giác sâu sắc về đời
sống. Thế giới hạnh phúc trong của cải, xa hoa, địa vị
cao sang trong đời sống mà mọi người mong cầu chỉ là ảo
tưởng. Sự kiện về việc bán thuốc ngủ, thuốc an thần,
về con số trường hợp phải điều trị tại các viện thần
kinh và mức độ tự tử gia tăng rất nhiều trong thế giới
vật chất hiện đại thừa đủ để chứng minh chúng ta phải
bỏ qua các lạc thú vật chất thế tục để đi tìm hạnh
phúc thực sự. SỰ CẦN THIẾT CÓ MỘT TÔN GIÁO Muốn hiểu mục đích thực sự của
đời sống, ta thường được khuyên là nên chọn lựa và
tuân hành một hệ thống luân lý đạo đức có thể giúp
ta tránh được các hành vi tội lỗi, khuyến khích làm điều
thiện, thanh tịnh hóa tâm ý. Đơn giản chúng ta gọi hệ thống
này là tôn giáo. Tôn giáo là biểu hiện của con
người đấu tranh: tôn giáo là sức mạnh vĩ đại của con
người, dẫn con người đến sự tự chứng ngộ. Tôn giáo
có sức mạnh biến đổi một con người tiêu cực thành một
con người có nhiều đức tính tích cực. Tôn giáo thay đổi
kẻ đê tiện thành người cao thượng, kẻ ích kỷ thành người
hào phóng, kẻ tự hào thành người khiêm tốn, kẻ kiêu ngạo
thành người nhẫn nhục, kẻ tham lam thành người nhân đức,
kẻ ác thành người hiền, kẻ chủ quan thành người khách
quan. Tuy không hoàn toàn, nhưng tôn giáo nào cũng mong muốn cải
tạo đời sống con người. Từ thời thượng cổ, tôn giáo
đã là cội nguồn của cảm hứng văn hóa và mỹ thuật. Mặc
dù nhiều hình thức tôn giáo đã xuất hiện suốt chiều
dài lịch sử, một số đã bị mai một và quên lãng nhưng
tôn giáo nào lúc đương thời cũng đóng góp vào sự tiến
bộ của loài người. Cơ Đốc Giáo giúp văn minh Tây Phương
phát triển, và ảnh hưởng suy kém của tôn giáo này được
đánh dấu chiều hướng đi xuống của tinh thần Âu Mỹ. Phật
Giáo đã văn minh hóa một phần lớn Đông Phương trước đây
rất lâu nay vẫn hãy còn là một lực lượng mạnh mẽ, và
trong thời đại kiến thức khoa học này, càng ngày càng
bành trướng, và gia tăng ảnh huởng. Phật Giáo không hề
có một đối nghịch nào với kiến thức hiện đại ở bất
cứ điểm nào, mà còn bao quát và siêu việt tất cả mọi
kiến thức theo một đường lối mà từ trước tới nay
chưa có một hệ thống tư tưởng nào thực thi giống như
thế. Người Phương Tây tìm cách chiếm đoạt vũ trụ cho cứu
cánh vật chất. Phật Giáo và các triết gia Đông Phương nỗ
lực đạt đến sự hòa hợp vói thiên nhiên hay sự thỏa
mãn về tinh thần. Tôn giáo dạy con người cách lắng
đọng các giác quan và làm tâm ý an lạc. Bí quyết của sự
trấn an giác quan là loại bỏ tham dục, gốc rễ của của
những xáo trộn của chúng ta. Có được hạnh tri túc là
điều rất quan trọng. Con người càng tham đắm của cải
bao nhiêu thì lại càng khổ sở bấy nhiêu. Của cải không
đem lại hạnh phúc. Hầu hết những người giàu có trên thế
giới ngày nay đều đau khổ cả về vật chất lẫn tinh thần.
Tất cả tiền bạc mà họ có cũng không thể mua được giải
pháp cho những vấn đề của họ. Vậy mà những người nghèo
khi đã học được hạnh tri túc lại có thể an hưởng cuộc
sống vui vẻ hơn là những người giàu có như vần thơ sau: "Kẻ
có nhiều lại càng tham đắm
ĐI TÌM MỘT MỤC ĐÍCH
CHO ĐỜI SỐNG Mỗi người đều có mục đích sống
khác nhau. Nghệ sĩ hướng mục đích của đời mình vào những
kiệt phẩm sẽ mãi được lưu lại ngàn sau khi đã mệnh một.
Khoa học gia mong muốn khám phá định luật nào đó, phát
minh lý thuyết mới, hay sáng chế máy móc mới. Chính trị
gia mong muốn trở thành thủ tướng hay tổng thống. Một nhân
viên trẻ thừa hành mong muốn trở thành giám đốc điều
khiển một công ty quốc tế lớn. Nhưng khi bạn hỏi người
nghệ sĩ, khoa học gia, chính trị gia, và nhân viên trẻ thừa
hành tại sao họ lại nhằm vào các mục tiêu như vậy, họ
sẽ trả rằng những thành quả đó cho họ mục đích để
sống và làm cho họ hạnh phúc. Mọi người đều hướng về
hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng kinh nghiệm cho thấy mục
tiêu mong ước khó mà đạt được. CHỨNG NGHIỆM Một khi chúng ta chứng nghiệm
được bản chất của đời sống (qua đặc tính bất-toại-nguyện,
vô thường, vô ngã) cũng như bản chất của lòng tham ái của
con người, và các phương tiện để đạt thỏa mãn, chúng
ta sẽ hiểu lý do tại sao hạnh phúc tìm cầu của nhiều người
thật khó nắm được chẳng khác gì nắm bắt ánh trăng
trong bàn tay. Họ cố gắng tìm hạnh phúc qua thu thập tích
lữy. Khi thất bại trong việc tích lữy của cải, địa vị,
quyền thế, danh vọng, trong tìm cầu lạc thú từ sự thỏa
mãn giác quan, họ héo hon và đau khổ, thèm muốn được
như những người khác đã thành công. Tuy nhiên cả đến khi họ được
toại nguyện về những thứ mong cầu, họ vẫn đau khổ vì
bây giờ họ lại sợ mất những gì đã có, hay lại muốn
có thêm nhiều của cải, địa vị, quyền thế, và lạc
thú nhiều hơn nữa. Lòng tham dục của họ hầu như chẳng
bao giờ được thỏa mãn. Cho nên hiểu biết được bản chất
đời sống thật quả là thiết yếu để chúng ta không
lãng phí quá nhiều thì giờ vào những việc không thể làm
được. Vậy nên tôn giáo trở nên quan trọng
vì tôn giáo khuyến khích hạnh tri túc và thuyết phục con
người đừng nên chú trọng đến những đòi hỏi của nhục
dục và cái ta. Trong một tôn giáo như đạo Phật, con người
được nhắc nhở chính mình là kẻ thừa kế nghiệp của
mình, và là chủ tể số phận của mình. Muốn đạt hạnh
phúc nhiều hơn, người đó phải chuẩn bị đi trước những
lạc thú phù du ngắn ngủi. Dù một người không tin có kiếp
sống sau khi chết, người đó cũng thừa hiểu để biết rằng
phải sống một cuộc sống lương thiện, cao quý trên trái
đất, vui sống trong an lạc và hạnh phúc ngay đây và lúc
này, cũng như thể hiện các hành động đem lợi ích cho
chính mình và đem hạnh phúc cho người khác. Sống một cuộc
sống tích cực và lương thiện trên trái đất, tạo hạnh
phúc cho chính mình và người khác như thế hẳn tốt hơn là
sống một cuộc sống ích kỷ chỉ biết thỏa mãn cái ta
và lòng tham của mình. Tuy nhiên nếu một người tin tưởng
có đời sống sau khi chết, theo Nghiệp Luật, người đó sẽ
tái sanh phù hợp với phẩm chất của những hành động của
mình. Một người có nhiều hành động thiện, người đó sẽ
sinh vào những hoàn cảnh tốt đẹp, giàu sang và thành đạt,
đẹp đẽ và cường tráng, sức khỏe tốt, và gặp thầy tốt
bạn hiền. Những hành động lương thiện cũng dẫn con người
tái sanh lên cảnh trời và những bình diện cao hơn, trong
khi những hành động bất lương dẫn đến những cảnh giới
đau khổ. Khi một người thấu đáo định luật của Nghiệp,
người đó sẽ nỗ lực tránh những hành động xấu xa, và
trau dồi các hành động thiện. Hành động như vậy, người
đó được lợi lạc không những ngay trong đời sống hiện
tại, mà còn về nhiều kiếp sau. Khi ta thấu hiểu bản chất của
con người, thì một số chứng nghiệm quan trọng sẽ sanh khởi.
Ta sẽ thấu triệt được rằng không giống như một hòn sỏi
hay một cục đá, con người có một tiềm năng sung mãn để
vun bồi trí tuệ, từ bi, và tỉnh thức - và người đó sẽ
được chuyển hóa do sự tự phát triển và tiến bộ này.
Ta cũng hiểu rằng không dễ dàng gì được sanh làm nguời,
đặc biệt hơn nữa không dễ dàng gì lại có duyên được
nghe Phật Pháp. Hơn nữa, ta lại hiểu rõ rằng đời sống
vô thường, cho nên phải nỗ lực tu tập Giáo Pháp trong khi
đang được ở trong hoàn cảnh thuận tiện. Ta chứng nghiệm
được rằng thực hành Giáo Pháp là một tiến trình giáo dục
suốt đời giúp mình giải tỏa tiềm năng thực sự bị chôn
vùi trong tâm do vô minh và tham dục. Căn cứ vào chứng nghiệm và hiểu
biết ấy, ta sẽ càng cố gắng có chánh niệm hơn nữa về
nội dung và cách thức mà ta suy nghĩ, lời nói và hành động.
Ta sẽ xét xem tư tưởng, lời nói và hành động có đem lợi
ích, có phát xuất từ lòng từ bi, và có hiệu quả tốt
cho mình và người khác hay không. Ta sẽ hiểu được chân
giá trị của việc đi trên con đường dẫn đến sự chuyển
hóa toàn diện mà người Phật Tử được biết đó là Bát
Chánh Đạo. Con đường này giúp ta nâng cao giới hạnh qua
việc tránh các hành động tiêu cực và trau dồi các đức
tính tích cực dẫn đến sự phát triển cá nhân, tinh thần
và tâm linh. Hơn nữa, con đường ấy chứa đựng nhiều kỹ
thuật có thể áp dụng để thanh tịnh hóa tư tưởng, mở
rộng khả năng của tâm ý, và đem dến sự thay đổi toàn
diện tiến tới một nhân phẩm tốt đẹp. Sự tu tập về
thiền định này có thể phát triển tâm ý về cả chiều rộng
lẫn chiều sâu đối với tất cả những kinh nghiệm của
con người, cũng như bản chất và đặc tính của các hiện
tượng, đời sống và vũ trụ. Nói tóm lại, sự tu tập
này dẫn đến việc rèn luyện trí tuệ. Khi trí tuệ phát
triển thì tình thương, tâm từ, lòng tốt, và niềm vui cũng
phát triển. Ta sẽ có chánh niệm sâu sắc hơn nữa về tất
cả các hình thức của cuộc đời và hiểu biết thấu đáo
hơn về các tư tưởng, cảm thọ, và động cơ thúc đẩy của
chính mình. Trong tiến trình của sự tự chuyển
hóa, ta sẽ không còn khát vọng được siêu sanh xem như là
mục tiêu tối hậu của đời mình nữa. Ta sẽ hướng về
một mục tiêu cao cả hơn, và tự mình theo gương mẫu của
Đức Phật, bậc đã đạt đến mức toàn bích của con người,
đã đạt đến trạng thái không thể diễn tả được mà
chúng ta gọi là Giác Ngộ hay Niết Bàn. Tại đây, ta sẽ đặt
hết lòng tin tưởng sâu xa vào Tam Bảo và tuân hành theo Đức
Phật như một mẫu mực lý tưởng về tinh thần của mình.
Hành giả sẽ nỗ lực nhổ tận gốc rễ lòng tham dục,
phát triển trí tuệ và từ bi, và giải thoát khỏi xiềng
xích trói buộc của Luân Hồi. PHẬT GIÁO VỚI CON NGƯỜI TRONG XÃ
HỘI Tôn giáo này có thể thực hành
ngay trong xã hội hay nơi ẩn dật. Có một số người tin Phật Giáo
là một hệ thống quá cao thượng và siêu việt nên một người
nam hay một người nữ bình thuờng không thể thực hành
được trong thế giới hàng ngày. Họ nghĩ rằng phải vào
tu tập trong một tu viện hay một nơi yên tĩnh nếu muốn trở
thành một Phật Tử đúng nghĩa. Trên đây là một quan niệm đáng
buồn do sự thiếu hiểu biết Phật Giáo. Người ta đi đến
kết luận vội vàng này sau khi tình cờ đọc hay nghe thấy
một điều gì đó về Phật Giáo. Một số người lập luận
về Phật Giáo sau khi đọc m?t số bài hay sách chỉ nói lên
một khía cạnh hay quan niệm một chiều về Phật Giáo. Tác
giả của các bài và sách đó chỉ hiểu biết giới hạn về
Giáo Lý của Đức Phật. Giáo Lý của Ngài không phải chỉ
dành riêng cho các nhà sư trong tu viện. Giáo Lý của Ngài
áp dụng cho mọi người, nam và nữ bình thường sống với
gia đình. Bát Chánh Đạo là cách sống theo đạo Phật ứng
dụng cho tất cả mọi người. Lối sống này được cống
hiến cho tất cả nhân loại không có một sự phân biệt
nào. Đại đa số trên thế giới
không thể trở thành nhà sư hay sống ẩn dật trong hang động
hay rừng rú. Dù Phật Giáo có cao quý và thanh tịnh cũng sẽ
vô dụng cho quần chúng nếu họ không áp dụng được đạo
vào cuộc sống hàng ngày trên thế giới hiện đại này. Nhưng
nếu bạn hiểu được tinh thần Phật Giáo một cách đứng
đắn, chắc chắn bạn, một người sống đời bình thường
trên cõi đời này, có thể noi theo và tu tập được. Có một số người cảm thấy dễ
dàng và thuận lợi hơn cho việc hành đạo bằng cách sống
ẩn dật ở một nơi hẻo lánh, nói một cách khác bằng
cách tự tách mình ra khỏi xã hội. Tuy vậy một số người
khác cho rằng sống rút lui như thế buồn nản và suy nhược
cả vật chất lẫn tinh thần không dẫn đến sự phát triển
đời sống tâm linh và trí thức. Sự từ bỏ thế tục thực
sự không có nghĩa là đào thoát cõi đời này về mặt vật
chất. Ngài Xá Lợi Phất, đệ tử lớn nhất của Đức Phật,
nói rằng một người có thể sống trong rừng tu hành khổ
hạnh nhưng tâm ý đầy tư tưởng bất tịnh và "ô trược".
Còn người khác có thể sống trong làng xóm hay phố thị,
không tu khổ hạnh, nhưng tâm ý vẫn trong sạch không
"ô nhiễm". Với hai người đó, Ngài Xá Lợi Phất
nói, kẻ sống cuộc sống thanh tịnh dù ở làng mạc hay
thành thị vẫn cao cả hơn kẻ sống trong rừng núi.
(Majjhima Nikaya - Trung Bộ Kinh). Niềm tin chung chung cho rằng muốn
tu tập giáo lý của Đức Phật phải từ bỏ cuộc sống
gia đình là một quan niệm sai lầm. Quả là một cách bào
chữa vô ý thức chống lại việc tu tập. Có không biết
bao nhiêu lời Phật dạy cho các nam nữ Phật Tử bình thường
sống có gia đình đã thành công trong việc hành theo lời
Ngài dạy và chứng ngộ Niết Bàn. Vị du tăng Vacchagotta có
lần hỏi thẳng Đức Phật phải chăng có những nam nữ cư
sĩ có gia đình tu tập giáo lý của Ngài đã thành công và
đạt mức độ tinh thần cao. Đức Phật khẳng định có rất
nhiều nam và nữ cư sĩ có gia đình, tu tập giáo lý của
Ngài, đã thành công và đạt những mức độ tinh thần cao. Có một số người cảm thấy thích
thú được sống ở một nơi yên tĩnh không bị quấy rầy
bởi huyến náo và xáo trộn. Nhưng thật đáng ca ngợi những
người can đảm tu tập Phật Pháp ngay giữa đám đông người,
giúp đỡ đồng bào và phục vụ đồng bào. Một vài truờng
hợp cũng rất hữu ích cho hành giả sống ẩn dật một thời
gian để tăng tiến tâm ý và tính nết, giới hạnh, rèn luyện
tinh thần và tri thức, để sau này có đủ sức mạnh bước
ra ngoài đời giúp đỡ người khác. Nhưng nếu một người
sống lẻ loi, chỉ nghĩ đến hạnh phúc và giải thoát
riêng tư cho mình, bất kể đến người đồng chủng của mình,
chắc chắn là họ không đi đúng với giáo lý của Đức Phật
căn cứ vào hạnh từ bi và phục vụ chúng sinh. Bây giờ ta có thể hỏi: "Nếu
một người tu tập Phật Pháp vẫn có thể sống một cuộc
đời bình thuờng, tại sao Đức Phật lại thành lập đoàn
thể Tăng Già, đoàn thể các thầy tu?" Đoàn thể Tăng
Già giúp cơ hội cho những ai muốn hiến dâng đời mình
không những chỉ để phát triển tinh thần và tri thức của
mình, mà còn để phục vụ người khác. Một cư sĩ bình thường
có gia đình không thể hiến trọn đời mình phục vụ cho
người khác, trong khi một nhà Sư, không bị trách nhiệm gia
đình và các trói buộc thế tục, có hoàn cảnh thuận lợi
hơn để hiến dâng đời mình "vì lợi ích cho nhiều người"
(Tiến Sĩ Walpola Rahula). Và cái gì là "lợi ích"
mà nhiều người được hưởng? Chư Tăng không thể cho người
cư sĩ vật chất tiện nghi, nhưng có thể hướng dẫn tinh
thần cho những ai bị khó khăn, dao động về thế gian gia
đình vân vân.... Người tu đặt trọn đời mình trong sự
nghiệp mở mang kiến thức về Giáo Pháp do Đức Phật giảng
dạy. Chư Tăng giảng giáo lý dưới hình thức đơn giản
cho những người cư sĩ không có bổn sư. Nếu người cư
sĩ có văn hóa cao có thể thảo luận những khía cạnh sâu
xa hơn về giáo lý và cả hai cư sĩ và tăng sĩ đều thâu
thập được lợi ích tinh thần từ những vấn đề trao đổi. Trong những xứ Phật Giáo, các
nhà sư chịu trách nhiệm nhiều về giáo dục giới trẻ. Kết
quả của sự đóng góp này là tại những xứ ấy dân
chúng biết chữ và rất giỏi về những giá trị tinh thần.
Chư tăng cũng an ủi kẻ khốn cùng và người quẫn trí bằng
cách giảng dạy cho họ hiểu là tất cả nhân loại đều
phải chịu đựng những xáo trộn tương tự như vậy. Ngược lại, người cư sĩ cũng sẵn
sàng cúng dường cho chư tăng các vật dụng, thực phẩm, chỗ
tạm trú, thuốc men và quần áo vì chư tăng không có điều
kiện để mua sắm tứ vật dụng này. Trong việc tu tập Phật
Pháp, sự cúng dường coi như góp phần công đức của người
cư sĩ để gìn giữ sức khỏe cho chư tăng để hỗ trợ
chư tăng tiếp tục chăm lo nhu cầu tinh thần cần thiết cho
người dân và cho chính sự thanh tịnh của tăng đoàn. NGƯỜI CƯ SĨ SỐNG THEO CHÁNH
PHÁP Đức Phật coi nguồn phúc lợi
kinh tế như một điều kiện cần thiết cho hạnh phúc của
con người, nhưng giới hạnh cùng sự phát triển tinh thần
cũng là điều kiện cần thiết cho một cuộc sống hạnh phúc,
an lạc và tri túc.
Có lần, một người tên Dighajanu
đến thăm Đức Phật và hỏi Ngài: "Bạch Đức Thế Tôn,
chúng con là người cư sĩ bình thường, chủ gia đình có vợ
và con. Kính xin Đấng Thiện Thệ ban cho chúng con những lời
dạy nào có thể mang hạnh phúc đến cho chúng con ngay trong
thế giới này và về sau?" Đức Phật cho biết có bốn điều
mang hạnh phúc cho con người trên đời này: - Điều Thứ Nhất: Phải khéo
léo, hữu hiệu, sốt sắng và có nghị lực dù làm nghề
nghiệp gì, và phải biết rõ về nghề đó; Rồi Đức Phật giải thích bốn đức hạnh mang hạnh phúc
cho người cư sĩ: 1) Saddha (Đức tin): Phải có niềm
tin và tin tưởng vào giá trị đạo đức tinh thần và tri
thức; Đôi khi Đức Phật dạy đến chi
tiết như việc để dành tiền và tiêu pha, Ngài dạy thanh
niên Sigala chỉ nên tiêu một phần tư lợi tức vào những
chi phí thường nhật, dùng một nửa lợi tức kinh doanh và
để dành một phần tư cho sư chi tiêu bất thường. Có lần Đức Phật dạy về bốn
loại hạnh phúc cho ông Cấp Cô Độc, Chủ Nhân một ngân
hàng lớn, một đệ tử hết lòng đã xây dựng Kỳ Viên Tự
tại Savathi, là người cư sĩ sống cuộc đời có gia đình
bình thường: - Hạnh phúc thứ nhất là vui hưởng
lợi tức bảo đảm hay tạo dựng của cải chính đáng; Điều đáng ghi nhận là ba điều
đầu thuộc hạnh phúc về kinh tế và vật chất không đáng
giá bằng hạnh phúc tinh thần phát sanh từ một cuộc sống
lương thiện không lầm lỗi. Một vài thí dụ trên đây, ta có
thể nhìn thấy Đức Phật lưu ý đến nguồn phúc lợi kinh
tế như điều kiện tiên quyết cho hạnh phúc con người,
nhưng Ngài cũng không công nhận tiến bộ vật chất là thật
và đúng vì nếu chỉ vật chất không thôi thì nền tảng của
tinh thần và đạo đức sẽ không có. Trong khi khuyến khích
sự tiến bộ vật chất, Phật Giáo cũng đặt nặng việc
phát huy đạo đức và tinh thần cho một xã hội hạnh
phúc, hòa bình và tri túc. Nhiều người nghĩ rằng là một
người Phật Tử tốt, ta chẳng cần gì đến đời sống vật
chất. Điều này không đúng. Điều mà Đức Phật dạy là
trong khi chúng ta có thể vui hưởng tiện nghi vật chất
nhưng không nên đi đến cực đoan, chúng ta cũng vẫn phải
cần mẫn phát triển phương diện tinh thần của cuộc sống.
Là cư sĩ trong khi có thể vui hưởng lạc thú giác quan,
chúng ta không nên luyến ái quá mức vào các khoái lạc ấy
đến độ cùng cực khiến sự tiến bộ tinh thần của
chúng ta bị cản trở. Phật Giáo luôn luôn nhấn mạnh sự
cần thiết của Trung Đạo đối với con người. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09 | 10
| 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Ta tuy nghèo nhưng chẳng tìm thêm.
Họ thực nghèo dù của nhiều hơn,
Ta giàu có tuy không tích giữ,
Họ nghèo, ta giàu, họ xin, ta thí,
Họ thiếu, ta đủ, họ héo hon, ta vui sống".
- Điều Thứ Hai: Phải gìn giữ lợi tức kiếm được chính
đáng do mồ hôi của mình;
- Điều Thứ Ba: Nên có bạn tốt, trung thành, học thức,
đạo đức, phóng khoáng và thông minh để hướng mình
trên con đường ngay thẳng tránh tội lỗi;
- Điều Thứ Tư: Tiêu pha vừa phải, theo mức lợi tức,
không nên hoang phí và cũng không nên bỏn xẻn, có nghĩa là
không nên keo kiệt tích lữy của cải và cũng không nên
phung phí quá độ - nói một cách khác phải nên sống
trong phạm vi khả năng của mình.
2) Sila (Giới): Gìn giữ tránh xa sát hại, hãm hại, trộm
cướp, lường gạt, gian dâm, lừa dối và ma túy;
3) Caga (Từ Bi): Phải nhân từ, bố thí, không luyến ái
và tham đắm của cải;
4) Panna (Trí Tuệ): Phải phát triển trí tuệ đưa đến sự
chấm dứt hoàn toàn khổ đau, đạt Niết Bàn.
- Hạnh phúc thứ hai là tiêu pha tự do của cải cho mình,
gia đình, bạn bè và thân quyến, và vào những việc công
đức;
- Hạnh phúc thứ ba là không nợ nần;
- Hạnh phúc thứ tư là sống không lầm lỗi, một đời sống
thanh tịnh không phạm tội về ý nghĩ, lời nói hay hành
động.
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001