BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 5 HỌC
THUYẾT CĂN BẢN -ooOoo- TAM TẠNG
KINH ĐIỂN Tam Tạng Kinh Điển là
sự tổng hợp những lời dạy của Đức Phật thuyết
giảng trên 45 năm bằng tiếng Pali, gồm có Kinh - lời dạy
có tính cách qui ước, Luật - Giới luật, và Luận (Vi
Diệu Pháp) - Tâm Lý Đạo Đức. Tạm Tạng Kinh Điển
được kết tập và soạn thành hình thức ngày nay là do các
bậc A La Hán, những bậc thánh đã liên hệ trực tiếp
với chính Đức Phật.
Đức Phật đã qua đời,
nhưng Giáo Pháp siêu phàm của Ngài để lại cho nhân loại
vẫn hiện hữu và thuần khiết như lúc ban đầu. Mặc dù Đấng Đại Đạo
Sư không để lại bút tích trong hồ sơ giáo lý, nhưng các
đệ tử xuất chúng của Ngài đã gìn giữ các tài liệu này
bằng trí nhớ và đã truyền khẩu lại từ thế hệ này đến
thế hệ khác. Ngay sau khi Đức Phật
nhập diệt, 500 Vị A La Hán ưu tú triệu tập Đại Hội
Kiết Tập lần thứ nhất để ghi lại học thuyết do Ngài
dạy. Đức A Nan, thị giả thân tín một dạ trung thành, luôn
luôn kề cận Đức Phật, nên đã được nghe tất cả
những bài thuyết giảng của Ngài; Đức A Nan là người đọc
lại Kinh (Pháp), Đức U Bà Ly đọc Luật, giới luật của Tăng
Già. Một trăm năm sau lần
Đại Hội Kiết Tập lần thứ nhất, trong thời Vua Kalasoka,
một số đệ tử nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi
một vài khinh giới. Các nhà sư chính thống cho là không có
gì cần phải thay đổi trong khi các nhà sư khác đòi hỏi
thay đổi một vài giới luật. Cuối cùng, sau lần kiết
tập này, nhiều trường phái Phật Giáo khác biệt xuất
hiện. Trong Kỳ Đại Hội lần thứ hai này, chỉ thảo
luận, những vấn đề trong Luật Tạng còn về Kinh
Tạng không có gì thay đổi. Vào Thế Kỷ Thứ Ba trước
Tây Nguyên, trong thời Hoàng Đế A Dục, Đại Hội Thứ Ba
được triệu tập để thảo luận những quan điểm dị
biệt của Tăng Già. Tại Đại Hội này không những chỉ
thảo luận hạn chế về Luật Tạng, mà cũng thảo
luận đến Kinh Tạng. Khi Đại Hội bế mạc, Chủ
tịch Đại Hội, Đức Moggaliputta Tissa, soạn thảo một
cuốn sách gọi là Kathavatthu bác bỏ các quan điểm và lý
thuyết dị giáo sai lầm của một số đệ tử. Giáo lý
được phê chuẩn và chấp thuận gọi là Nguyên Thủy
(Theravada). Luận Tạng cũng được đem bàn cãi trong
Kỳ Đại hội này. Đại Hội Lần Thứ Tư được triệu
tập tại Sri Lanka năm 80 trư?c Tây Nguyên dưới sự bảo
trợ của Hoàng Đế Vattagamini Abbaya, một vì Vua rất hiếu
thảo. Tam Tạng Kinh Điển lần thứ nhất được kiết tập
thành văn bản tại Đại Hội Sri Lanka này. Tam Tạng Kinh Điển
gồm ba phần giáo lý của Đức Phật: Luật, Kinh, và Luận. Luật Tạng chuyên
về các vấn đề luật lệ và quy tắc của Đoàn thể Tăng
và Ni. Luật Tạng trình bày chi tiết sự phát triển
của hệ thống Phật Giáo Đoàn. Cuộc đời Đức Phật và
sứ mệnh hoằng pháp của Ngài được ghi nhận. Gián tiếp,
Luật Tạng nêu lên vài sự kiện rất hữu ích về
lịch sử thời cổ, phong tục của người Ấn, mỹ thuật,
khoa học vân vân... Gần hai mươi năm sau
khi giác ngộ. Đức Phật không đặt giới luật để kiểm
soát đoàn thể Tăng Già. Sau này, do hoàn cảnh gây nên, Ngài
mới ban bố luật lệ cho đồ đệ tương lai của Tăng Già. LUẬT TẠNG Luật Tạng
gồm năm cuốn sau:
1. Parajika Pali (Đại
tội) KINH TẠNG Kinh Tạng
gồm hầu hết các bài kinh giảng bởi chính Đức Phật
trong nhiều dịp. Cũng có một vài bài kinh do các Đại Đệ
Tử của Ngài thuyết giảng như các Ngài Xá Lợi Phất, A
Nan, Mục Kiền Liên vân vân ...Các kinh này giống như cuốn
sách gồm các toa thuốc, là những bài thuyết pháp diễn
giảng thích hợp cho hoàn cảnh và tính chất tùy theo hạng
người. Đôi khi hình như có vẻ mâu thuẫn, nhưng không nên
hiểu lầm vì là các câu này do chính Đức Phật nói ra để
phù hợp vào mục đích đặc biệt nào đó. Kinh Tạng
gồm năm bộ
1. Digha Nikaya
(Trường Bộ Kinh) Bộ thứ năm phân chia
thành 15 cuốn: 1. Khaddakapatha
(Shorter Text, Tiểu Phẩm) LUẬN TẠNG Đối với một nhà tư
tưởng uyên thâm, Luận Tạng quan trọng và đáng chú
ý nhất vì Luận Tạng hàm chứa triết lý thâm của
giáo lý Đức Phật không giống như những bài thuyết
giảng có tính cách làm sáng tỏ nhưng đơn giản hơn trong Kinh
Tạng. Trong Kinh Tạng ta
thường thấy đề cập đến cá nhân, chúng sinh vân vân...nhưng
trong Luận Tạng, thay vì những thuật ngữ quy ước,
chúng ta thấy những thuật ngữ về chân đế như uẩn, tâm,
sắc, vân vân... Trong Kinh Tạng,
ta thấy Giáo lý theo Tục Đế nhưng trong Luận tạng, ta
thấy Nguyên Lý Chân Đế. Trong Luận Tạng
mỗi vấn đề đều được phân tích và giải thích chi
tiết, cho nên ta gọi đó là Giáo Pháp Thậm Thâm (Vi Diệu
Pháp). Bốn Pháp Chân Đế
trong Luận Tạng là Tâm, Tâm Sở, Sắc và Niết Bàn. Cái được gọi là chúng
sanh được phân tích dưới lăng kính hiển vi và các thành
phần được miêu tả chi tiết. Cuối cùng mục tiêu tối
hậu, và phương pháp đạt mục tiêu được giải thích
với những chi tiết hết sức cặn kẽ. Luận Tạng
gồm có các tác phẩm sau đây: 1. Dhamma-Sangani (Enumeration
of Phenomina, Pháp Tựu) Theo một cách phân
loại khác do chính Đức Phật ghi nhận Giáo Lý được chia
làm chín nhóm: 1- Sutta, 2- Geyy, 3- Veyyakarama, 4- Gatha, 5- Udana,
6- Itivuttaka, 7- Jataka, 8- Abbhutadhama, 9-Vedalla. 1. Sutta - (Kinh)
Là những bài pháp, dài, ngắn, trung bình do Đúc phật
thuyết giảng trong nhiều trường hợp như Kinh Mangala Sutta
(Discourses on Blessings, Hạnh Phúc Kinh) Ratana Sutta (The Jewel
Discourse, Trân Bảo Kinh), Metta Sutta (Discourse on GoodWill, Kinh
về Tâm Từ) vân vân... Theo lời dẫn giải, toàn bộ
Luật Tạng cũng nằm trong Kinh này. 2. Geyya - Những
bài thuyết giảng lẩn lộn những câu kệ và những bài
thơ như Sagathavagga của Kinh Samyutta (Tương Ưng Bộ Kinh). 3. Veyyakarana - có
nghĩa Trình Bày - Toàn bộ Luận tạng gồm những bài
thuyết pháp không thơ kệ, và tất cả những gì còn lại
không nằm trong phân loại của bộ này. 4. Gatha - Gồm có
những bài kệ trong Kinh Pháp Cú, Theragatha (Psalms of the
Brethren, Trưởng lão kệ), Therigatha (Psalms of the Sisters, Trưởng
lão ni kệ), và những bài kệ không có trong các Kinh. 5. Udana - Gồm
Paeans of Joy ghi trong Udana, một phần Khuddaka Nikaya 6. Itivuttaka -
Gồm 112 bài thuyết pháp bắt đầu với câu "Một
thuở nọ, Đức Phật ...." Itivuttaka là một trong 15
bộ Kinh trong Khuddaka Nikaya. 7. Jataka - Gồm
547 chuyện về tiền thân của Đức Phật. 8. Abbhutadhamma -
Một số bài giảng nói về những điều đẹp đẽ tuyệt
vời thí dụ như Kinh Acchariya-Abbhutadhamma trong bộ Majjihima
Nikaya (No 123) 9. Vedalla - Gồm
có những bài thuyết pháp, như Chulla Vedalla, Maha Vedalla
(M.N. Nos 43, 44), Samma Ditthi Sutta (M.N. No. 9) vân vân . Trong
một vài bài thuyết pháp, một số giải đáp các câu
hỏi được ghi nhận trong niềm hoan hỉ. LUẬN TẠNG (VI DIỆU PHÁP)
LÀ GÌ? Luận Tạng (Vi Diệu Pháp)
là giáo lý phân tích khả năng tinh thần và các yếu tố liên
hệ. Luận Tạng
hàm chứa tâm lý đạo đức và triết lý sâu xa của Giáo Lý
Đức Phật, trái ngược với các bài thuyết pháp đơn
giản trong Kinh Tạng.
Kiến thức đạt được
từ Kinh chắc chắn giúp ta vượt qua các khó khăn trở
ngại, cũng như giúp ta phát triển tinh thần và rèn luyện tâm
ý. Có được kiến thức này giúp ta có một đời sống bình
an, đáng kính, hữu ích và cao thượng. Nghe những bài
thuyết giảng, chúng ta phát triển sự hiểu biết Pháp và có
thể điều hòa cuộc sống hàng ngày theo đó. Quan niệm đằng
sau của một vài chữ hay từ ngữ dùng trong Kinh Tạng,
có thể nên thay đổi và phải được giải nghĩa trong
phạm vi môi trường thời Đức Phật tại thế. Quan niệm
sử dụng trong Kinh Tạng giống như những từ ngữ quy
ước mà người cư sĩ thường dùng để giải thích các đề
tài khoa học. Trong khi quan niệm trong kinh theo quy ước phải
được hiểu với ý nghĩ thông thường, còn quan niệm về
Luận tạng phải được hiểu theo ý nghĩa rốt ráo. Quan
niệm trong Luận Tạng giống như những từ ngữ hay
thuật ngữ khoa học chính xác dùng bởi các khoa học gia để
ngăn ngừa sự giải thích sai lầm. Chỉ trong Luận
Tạng mới thấy sự giải thích về vì sao và nơi nào đã
khiến con người tạo ý tùy theo tham ái hay tâm sở khác.
Những sự giải thích rõ ràng về bản chất của khả năng
tinh thần khác nhau, và cách lý giải chính xác các yếu tố
tạo thành được tìm thấy trong các tập thuyết giảng quan
trọng. Hiểu Phật Pháp qua
kiến thức đạt được từ Kinh điển giống như kiến
thức đạt được trong việc nghiên cứu các toa thuốc áp
dụng cho các loại bệnh tật. Kiến thức như vậy chắc
chắn là có thể chữa được một số bệnh. Mặt khác,
một lương y giỏi, với kiến thức chính xác, có thể
chẩn đoán một số lớn các bệnh tật, khám phá ra các
nguyên nhân gây bệnh. Kiến thức đặc biệt giúp vị lương
y này có vị thế tốt đẹp hơn để có thể chữa bệnh
hữu hiệu hơn. Tương tự như vậy, một người nghiên cứu
Luận Tạng, có thể hiểu rõ bản chất của tâm, phân
tách các thái độ tinh thần khiến con người phạm lỗi,
hay làm cho con người phát triển thiện ý tránh các tội
lỗi. Luận Tạng
dạy rằng những niềm tin ích kỷ, và những ý niệm và cái
'Tôi" 'Anh', 'Người', và 'Thế gian' mà chúng ta thường
hàng ngày hay nói tới, không diễn tả nổi đầy đủ tính
chất thực sự của cuộc sống. Quan niệm thông thường không
phản ảnh cái tính chất phù du của lạc thú, những cái
bất trắc, vô thường của thành phần mọi sự vật duyên
hợp, sự đối kháng giữa những phân tử và thực chất năng
lượng nằm bên trong tất cả các vật hữu tình và vô tình..
Giáo lý của Luận Tạng trình bày rõ ràng bản chất
rốt ráo của con người và đem sự phân tích về thân
phận của con người xa hơn những sự nghiên cứu khác mà
con người đã biết. Luận Tạng
nêu lên những thực thể hiện hữu trong ý nghĩa rốt ráo
hay paramattha (đệ nhất nghĩa đế) dhamma tiếng Pali. Có
bốn thực thể đó là:
1. Citta, (Tâm
hay Tâm Vương ) được giải nghĩa là cái biết hay hiểu
biết một đối tượng. Tâm Vương sanh khởi như những
trạng thái riêng biệt của thức. 2. Cetasika, Tâm
Sở: những trạng thái của tâm sanh khởi cùng một lúc
với Tâm Vương. 3. Sắc, hiện tượng
vật chất, hay dạng thức vật chất. 4. Niết Bàn:
trạng thái hạnh phúc hoàn toàn không điều kiện, mục tiêu
cuối cùng. Citta
(Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở) và sắc là
thực thể có điều kiện. Chúng trỗi lên vì những điều
kiện, và mất đi vì những điều kiện hỗ trợ chúng ngưng
không tiếp tục nữa. Chúng ở trong tình trạng vô thuờng. Niết
Bàn, mặt khác, là một sự thực không điều kiện.
Niết Bàn không trỗi lên, cho nên không mất đi. Bốn sự
thực này có thể chứng nghiệm dù chúng ta đặt cho chúng
danh xưng nào. Ngoài bốn thực thể đó, mọi sự vật dù
trong nơi chúng ta hay không nơi chúng ta, dù trong quá khứ,
hiện tại hay vị lai, dù là thô sơ hay vi tế, dù là thấp
hay cao, xa hay gần - vẫn là một ý niệm và không phải là
một sự thực tối hậu. Citta
(Tâm Vương) và Cetisaka (Tâm Sở) và Nibbana
(Niết Bàn) được gọi là Nama (Danh). Niết Bàn
là một nama không điều kiện. Hai nama có điều
kiện là Citta (Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở),
cùng với rupa (sắc) tạo thành cơ quan tâm-vật-lý,
gồm cả con người. Tâm và vật hay danh sắc, được lý
giải trong Luận Tạng giống như được khảo sát dưới
lăng kính hiển vi. Những biến chuyển liên kết với tiến
trình của sanh tử được phân tách chi tiết. Luận Tạng làm
sáng tỏ những điểm phức tạp của Phật Pháp, gíúp cho
hiểu được sự thật, và dẫn đến con Đường Giải Thoát.
Sự hiểu biết đạt được từ Luận Tạng về cuộc
sống của chúng ta và thế giới không phải trong ý nghĩa có
tính cách quy ước, nhưng trong ý nghĩa của sự thật tuyệt
đối.
Sự trình bày sáng
sủa về những vận hành của tâm thức trong Luận Tạng không
tìm thấy ở bất cứ một luận thuyết tâm lý nào ở phương
Đông cũng như phía trời Tây. Thức thì được định nghĩa,
trong khi những tư tưởng thì được phân tách và xếp
loại từ một lập trưòng đạo đức. Thành phần của
mỗi loại thức được thiết lập chi tiết. Thức trôi
chảy như một dòng suối, quan điểm này được chứng minh
bởi những nhà tâm lý học như William Jones, trở nên hết
sức rõ ràng cho người hiểu Luận Tạng. Hơn nữa, ngưòi
học Luận Tạng có thể thấu đáo thuyết Vô-Ngã,
một thuyết rất quan trọng từ quan điểm triết lý lẫn đạo
lý. Luận tạng giải thích
tiến trình của tái sanh trong nhiều cảnh giới sau khi chết
không có một thứ gì mất đi từ kiếp này qua kiếp khác.
Sự giải thích này hỗ trợ lý thuyết về Nghiệp và Tái
Sanh. Nó cũng đem lại nhiều chi tiết phong phú về tâm, về
những yếu tố của sức mạnh tinh thần và vật chất, đặc
tính và nguồn gốc của vật, sự tương quan giữa vật và
tâm. Trong bộ luận Abhidhamma
Sangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), một tác phẩm Luận
Tạng, trình bày khái quát về Định Luật của Lý Nhân
Duyên, với phần mô tả về sự tương quan của các nguyên
nhân mà không tìm thấy tại một học thuyết nào của nhân
loại trên thế giới. Vì sự phân tích và trình bày sâu xa,
Luận tạng không phải là một đề tài hời hợt để cho
người đọc chỉ phớt qua mà hiểu được. Đến một mức độ nào
chúng ta có thể so sánh được tâm lý học hiện đại với
những lý giải của Luận Tạng? Tâm lý học hiện đại
chỉ giới hạn cho đến nay trong các lãnh vực của Luận
Tạng về những vấn đề tâm thức - tư tưởng, tiến
trình của tư tưởng, và các tâm sở. Sự khác biệt là Luận
Tạng không chấp nhận quan niệm về linh hồn. Chưa có
nguồn tư liệu nào có được sự phân tích về bản chất
của tâm thức như trong Luận Tạng. Cả đến những
nhà tâm lý học hiện đại cũng vẫn mờ mịt về những
vấn đề như các chập tư tưởng (Javana Citta) được trình
bày trong Luận tạng. Tiến Sĩ Graham Howe, một nhà Tâm Lý
Học nổi tiếng của Harley Street, viết trong tác phẩm
"Khoa Giải Phẫu Vô Hình" của ông như sau: 'Nhiều
nhà tâm lý học, trong công cuộc nghiên cứu của họ, như
nhà Tâm Lý Học C.G. Jung tiền phong trong lãnh vực này, đã
thấy rằng chúng ta rất gần gữi với Đức Phật. Chỉ đọc
một ít về Phật Giáo là đã thấy người Phật Tử từ hơn
hai ngàn năm trăm năm đã biết nhiều về những vấn đề tâm
lý hiện đại của chúng ta hơn người ta tưởng. Họ đã
nghiên cứu từ lâu những vấn đề này và đã tìm được
những câu giải đáp. Chúng ta bây giờ chỉ là khơi lại Trí
Tuệ Cổ Xưa mà Phương Đông đã có.
Một số học giả
quyết đoán là Luận Tạng không phải là giáo lý của Đức
Phật, nhưng nó phát xuất từ những chú giải về giáo lý
căn bản của Đức Phật. Người ta nói những chú giải này
là những tác phẩm của các vị sư học giả có tầm vóc
lớn. Tuy nhiên, theo truyền thống, người ta qui trọng tâm
của Luận Tạng về chính Đức Phật. Những nhà chú giải
ghi rằng để nhớ ơn mẫu thân Ngài tái sanh làm chư thiên
ở cõi trời, Đức Phật thuyết giảng về Luận Tạng cho
mẹ Ngài cùng với các chư thiên trong ba tháng. Phần chính
trong giáo lý cao thâm chẳng hạn như thiện pháp và bất
thiện pháp đã được Đức Phật nhắc lại nhiều lần cho
Ngài Xá Lợi Phất. Vị Đại Đệ Tử này đã tỷ mỷ ghi
lại lời dạy của Đức Phật và sau này đã biên soạn thành
sáu cuốn. Từ thời thượng cổ,
đã có những cuộc tranh luận về việc Đức Phật có dạy
Luận Tạng không. Trong khi các cuộc bàn cãi này có
thể gây chú ý về mục đích văn học, nhưng điều quan
trọng cho chúng ta là kinh nghiệm và hiểu thấu được
những sự thật miêu tả trong Luận Tạng. Ta sẽ
chứng nghiệm đưọc rằng những chân lý thâm sâu đầy xác
chứng như vậy chỉ có thể xuất phát từ một nguồn giác
ngộ tối thượng, từ một Đức Phật. Đa số những gì
dung chứa trong Luận Tạng cũng tìm thấy trong Kinh
Tạng, và những bài thuyết giảng này chưa bao giờ được
nghe thấy cho đến khi nghe được từ kim khẩu Đức Phật.
Cho nên, những ai cho là Luận Tạng không do nơi Đức
Phật thì cũng phải nói là Kinh Tạng không phải của
Đức Phật. Lẽ dĩ nhiên, nhận xét trên đây không cung
cấp đủ bằng cớ. Theo truyền thống của
Nguyên Thủy, cốt lõi, nền tảng và cơ bản chủ yếu của
Luận Tạng đều do nơi Đức Phật và phần sắp xếp
và phân loại là công trình của các đệ tử Ngài làm sau này.
Điều quan trọng nhất là cốt lõi. Đó là điều mà chúng
ta phải tự chứng nghiệm. Rõ‚ ràng chính Đức Phật đã
tự mình sử dụng kiến thức của Luận Tạng để làm
sáng tỏ những vấn đề tâm lý, siêu hình và triết lý.
Ngụy biện về việc phải hay không phải Đức Phật đã
dạy Luận Tạng không giúp ích gì chúng ta trong việc
tìm hiểu chân lý. Câu hỏi đặt ra là Luận
Tạng có thật thiết yếu cho việc thực hành Pháp không.
Câu trả lời là thiết yếu hay không thiết yếu là do nơi
hành giả. Mức độ hiểu biết, tính khí, và phát triển
tinh thần của mỗi người đều khác nhau. Một cách lý tưởng
thì tất cả các khả năng tinh thần phải được hài hòa,
nhưng một số người lại chỉ bằng lòng với cách tu tập
căn cứ theo niềm tin, một số khác lại giỏi về việc phát
triển tuệ giác (minh sát tuệ). Luận Tạng rất hữu
ích cho những ai muốn hiểu Pháp sâu rộng và chi tiết. Luận
Tạng giúp việc phát triển tuệ giác (minh sát tuệ) qua
ba đặc tính của cuộc sống: vô thường,
bất-toại-nguyện và vô ngã. Nó không những giúp ích trong
lúc tu tập thiền định, mà cũng giúp ích ngoài giờ tu
tập trong suốt thời gian làm những công việc linh tinh hàng
ngày ngoài đời. Học nơi Luận Tạng chúng ta thu được
lợi ích lớn lao từ khi chúng ta chứng nghiệm chân lý
tuyệt đối. Ngoài ra, việc hiểu thấu Luận Tạng
rất hữu ích cho những ai muốn dạy giáo lý và giảng Pháp.
Tóm lại, ý nghĩa thật sự của các thuật ngữ Phật Giáo
quan trọng như Pháp, Nghiệp, Luân Hồi, Hành, Duyên Sinh và
Niết Bàn, không thể hiểu được nếu không có kiến thúc
về Vi Diệu Pháp. DANH VÀ SẮC (NAMA-RUPA) Theo Phật Giáo, đời
sống là sự phối hợp giữa tâm (danh) và thân (sắc). Tâm
gồm sự phối hợp của cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng),
hoạt động có tác ý (hành) và thức. Sắc (thân) là sự
phối hợp của bốn thành phần: đất nước, gíó lửa. Sự sống là sự kết
hợp của tâm và thân. Sự suy tàn là do thiếu sự phối
hợp của tâm và sắc. Chết là sự xa lìa giữa tâm và thân.
Tái sanh là sự tái phối hợp của tâm và thân. Sau khi thân
xác chết đi, tâm lực tái phối hợp và nắm giữ sự
phối hợp mới trong một dạng thức vật chất khác và
tạo điều kiện cho một sự sống khác. Sự tương quan giữa
danh và sắc giống như sự tương quan của bình điện với
bộ máy xe hơi. Bình điện giúp cho máy nổ. Máy giúp nạp
điện vào bình điện. Sự phối hợp của bình điện và máy
làm xe chạy. Cũng như vậy, sắc giúp tâm điều động và tâm
giúp sắc hoạt động. Phật Giáo dạy rằng
sự sống không phải chỉ đơn độc yếu tố vật chất và
tiến trình của cuộc sống tiếp diễn hay trôi chẩy do
kết quả của tương quan nhân quả. Những yếu tố vật
chất và tinh thần hình thành chúng sanh từ những vi khuẩn
(amoeba) đến con voi, con người, đều đã hiện hữu
từ trước dưới một dạng thức khác. Mặc dù một số người
vẫn quan niệm là sự sống bắt nguồn trong vật chất mà
thôi, nhưng những nhà khoa học lừng danh đã chấp nhận là
tâm (thức) có trước để đời sống bắt nguồn. Trong
Phật Giáo, ý niệm này được gọi là "sự
tái tiếp nối của nguồn tâm thức (kiết sanh thức)".
Mỗi người trong chúng
ta, theo ý nghĩa rốt ráo, không có gì ngoài danh và sắc,
một tập hợp (tâm và thân) của các hiện tượng tinh
thần và vật chất. Ngoài những thực thể trên tạo nên
tập hợp tâm (danh) và thân, không có cái ta và cũng không có
linh hồn. Phần tâm của tập hợp là cái kinh nghiệm được
đối tượng. Phần sắc không kinh nghiệm được thứ gì
cả . Khi thân xác bị thương, thân không cảm thấy đau đớn
mà chính là phía tinh thần cảm thấy đau đớn. Khi chúng ta
đói, bao tử không thấy đói, mà tâm ta cảm thấy đói. Tuy
nhiên, tâm ta không ăn được để khỏi đói. Tâm và các
yếu tố của nó, làm thân xác tiêu hóa đồ ăn. Cho nên
cả tâm (danh) lẫn sắc đều không tự nó có sức mạnh
hiệu quả gì. Cái này tùy thuộc cái kia và hỗ trợ cho
nhau. Tâm và sắc trỗi lên do các điều kiện và tàn ngay đi,
sự kiện trên tiếp diễn không ngừng trong sự sống của
chúng ta. Bằng nghiên cứu và chứng nghiệm các thực thể
trên, chúng ta sẽ đi vào tuệ giác để thấu hiểu: (1) Chúng
ta thực sự là gì; (2) Chúng ta thấy gì chung quanh chúng ta;
(3) Tại sao và thế nào chúng ta phản ứng với những gì
trong và ngoài chúng ta; (4) Và chúng ta nên mong muốn gì để
đạt tới mục tiêu tinh thần. Đạt được tuệ giác
về bản chất của sự sống tâm - vật lý là thấu hiểu
rằng đời sống chỉ là một ảo ảnh, một ảo tưởng,
một bọt nước, chỉ là một tiến trình hợp tan hay sinh
diệt. Bất cứ gì hiện hữu, đều sanh khởi từ những
nguyên nhân và điều kiện. BỐN CHÂN
LÝ CAO QUÝ (TỨ DIỆU ĐẾ) Tại sao chúng ta ở đây?
Tại sao chúng ta không có hạnh phúc với đời sống của chúng
ta? Nguyên nhân của bất-toại-nguyện là gì? Làm sao ta có
thể chấm dứt bất toại nguyện và đạt an lạc trường
cửu? Giáo lý của Đức
Phật căn cứ vào Bốn Chân Lý Cao Quý (Tứ Diệu Đế).
Muốn hiểu những chân lý này là phải hiểu và đi sâu vào
bản chất thực sự của sự sống, kể cả kiến thức đầy
đủ về chính bản thân mình. Khi chúng ta thấy rằng tất
cả các hiện tượng của mọi vật chỉ là tạm bợ, phải
chịu khổ đau, trống rỗng không có thực thể, chúng ta
mới nhận thức sự thật và hạnh phúc bền vững không
thể tìm thấy được trong của cải vật chất và thành
tựu thế gian, và hạnh phúc thực sự chỉ đạt được
bằng tâm thanh tịnh và sự rèn luyện trí tuệ. Tứ Diệu Đế là một
khía cạnh rất quan trọng trong giáo lý của Đức Phật. Đức
Phật dạy rằng vì không hiểu Tứ Diệu Đế nên chúng ta
cứ phải trôi lăn trong vòng sinh tử. Ngay trong thời Pháp đầu
tiên Ngài giảng về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo trong
Kinh Chuyển Pháp Luân cho năm thầy tu tại Vườn Lộc Uyển
ở Sarnath. Tứ Diệu Đế là gì? Đó là: - Chân Lý về Khổ Từ ngữ Dukkha (Khổ)
trong Phạn Ngữ có nhiều nghĩa. Từ ngữ "Dukkha" này
được phiên dịch là Khổ hay bất toại nguyện, nhưng từ
ngữ dùng trong Tứ Diệu Đế có nghĩa sâu rộng hơn. Ngoài
nghĩa thông thường là Khổ, Dukkha còn bao gồm ý niệm thâm
sâu hơn như sự bất toàn, đau đớn, vô thường, bất hòa,
bất an, bứt rứt, hoặc cảm thấy không hoàn toàn, không đầy
đủ (mặc cảm). Với tất cả những ý nghĩa trên, Dukkha
bao hàm khổ về vật chất và về tinh thần: sanh, già,
bệnh, chết, phải gần với những gì không thích, phải xa
lìa những gì ưa thích, không đạt được điều mong cầu.
Tuy nhiên, nhiều người không hiểu được rằng ngay trong
những lúc vui và hạnh phúc, vẫn có khổ vì tất cả
những lúc đó cũng đều vô thường và sẽ qua đi khi các
điều kiện thay đổi. Cho nên chân lý về Khổ, bao gồm
cả kiếp sống, trong tất cả các nỗi vui buồn, trong mọi
khía cạnh của cuộc đời chúng ta. Chừng nào mà chúng ta còn
sống là chúng ta còn phải lệ thuộc hoàn toàn vào chân lý
này. Đối với một số người
cách nhìn đời là khổ như thế có vẻ hơi yếm thế. Đó
không phải là bi quan mà là cách nhìn đời một cách thực
tiễn. Nếu một người bị bệnh mà không nhìn nhận là mình
bệnh, không tìm phương cách chữa trị thì ta sẽ không cho
thái độ tinh thần của người đó là lạc quan mà là người
rồ dại. Cho nên dù lạc quan hay bi quan nếu không hiểu rõ
bản chất thực sự của sự sống ta không thể nào hành
xử đúng trước những khó khăn trong cuộc đời. Tứ Diệu
Đế khởi đầu xác nhận khổ, tiếp đến phân tích nguyên
nhân khổ và cách diệt khổ. Nếu như Đức Phật ngưng
lại tại Chân Lý Khổ, người ta có thể cho rằng Phật Giáo
nhận biết có khổ mà không có phương sách chữa trị;
nếu như vậy nhân loại sẽ ở trong tình trạng vô vọng.
Nhưng Đức Phật không chỉ xác nhận Chân Lý về Khổ, Đức
Phật đi đến phân tích nguyên nhân của nó, và dạy phương
cách chữa trị nó. Làm sao ta có thể nói Phật Giáo bi quan
nếu đã đưa ra được phương cách diệt khổ? Tóm lại, đó
là một giáo lý tràn đầy niềm hy vọng. Ngoài ra, dù Khổ Đế
là một chân lý, đó không có nghĩa là không có hạnh phúc,
không có vui thích hay lạc thú trong cuộc sống. Đức Phật
dạy có nhiều phương pháp để đạt hạnh phúc trong đời
sống hàng ngày. Tuy nhiên trong phần lý giải cuối cùng, thì
tựu trung mọi lạc thú hay hạnh phúc mà ta kinh nghiệm trong
đời sống đều là không vĩnh cửu (vô thường). Chúng ta có
thể hưởng hạnh phúc, hoặc có người thương yêu kề bên,
hoặc chúng ta vui sống với tuổi thanh xuân và sức khỏe.
Không chóng thì chầy tình trạng trên cũng sẽ thay đổi và
chúng ta phải chịu khổ đau. Cho nên mỗi khi cảm thấy vui
thú khi ta hưởng hạnh phúc do bất cứ lý do nào, chúng ta
không nên bám níu vào tình trạng hạnh phúc ấy, hoặc bị
chệch hướng, và quên đi phương cách thực hành để đạt
Giải Thoát hoàn toàn. Nếu chúng ta mong muốn
tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết phải tìm ra nguyên
nhân. Theo Đức Phật, ái dục hay tham đắm là nguyên nhân
của khổ đau. Đây là Diệu Đế Thứ Hai. Con người khao khát
được lạc thú, khao khát vật chất, khao khát cuộc sống
trường cửu, và khi thất vọng, khao khát được an giấc ngàn
thu. Họ không chỉ dính mắc vào dục lạc, của cải và
quyền thế, mà còn bám níu vào ý kiến, lập trường, quan
điểm, ý niệm và tín ngưỡng. Và ái dục thì liên hệ
với vô minh, có nghĩa là không nhìn sự vật đúng như chúng
thế nào, hoặc không hiểu thực chất của kinh nghiệm và
sự sống. Dưới ảo tưởng của cái Ta, và vì không chứng
nghiệm được Vô-Ngã, con người bám níu vào những thứ vô
thường, thay đổi, tàn lụi. Khi không thỏa mãn được tham
ái đối với những thứ này sẽ đưa tới thất vọng và
khổ đau . SỰ NGUY HIỂM CỦA VỊ
KỶ Tham ái là ngọn lửa
đang cháy trong mỗi chúng sinh: mỗi hành động đều thúc đẩy
bỏi lòng ham muốn . Tham ái đi từ cái đòi
hỏi sinh lý đơn giản của thú vật đến cái ham muốn phúc
tạp, và thường là nhân tạo của con người văn minh. Để
thỏa mãn tham dục, thú vật săn mồi giết tróc lẫn nhau, và
con người thì đánh đập, giết tróc, lừa gạt, dối trá và
sử dụng đủ mọi hình thức hành động bất thiện đối
với nhau. Tham ái là một sức mạnh tinh thần mạnh mẽ
thể hiện trong mọi dạng thức sự sống, và là nguyên nhân
chính của những thói xấu. Chính tham ái dẫn đến những tái
sanh tiếp diễn trong vòng luân hồi. Một khi nhận thức
được nguyên nhân của khổ đau, chúng ta có thể chấm
dứt được khổ đau. Vậy thì, làm sao ta có thể chấm
dứt được khổ đau. Hãy loại bỏ khổ đau tận gốc rễ
bằng cách diệt tham ái ngay trong tâm. Đó là Diệu Đế
Thứ Ba. Trạng thái khi tham ái không còn nữa gọi là Nibbana
(Niết Bàn). Từ ngữ Nibbana gồm có "Ni" và
"vana", có nghĩa là sự thoát khỏi hay chấm dứt
tham ái. Đó là một trạng thái thoát khỏi khổ đau và vòng
sanh tử luân hồi. Đó là trạng thái không bị lệ thuộc
bởi định luật sanh, bệnh, gìà và chết. Trạng thái này
quá siêu phàm không ngôn ngữ nhân gian nào có thể diễn
tả được. Niết Bàn là không sanh, không khởi, không tạo,
không thành. Nếu không có cái không sanh, không khởi, không
tạo, không thành này thì việc thoát khỏi thế gian do duyên
hợp không thể làm được. Niết Bàn vượt ngoài
khả năng của luận lý và tư duy (không thể nghĩ bàn). Chúng
ta có thể bàn cãi sâu rộng về Niết Bàn hay sự thật
tối thượng nhưng đó không phải là phương cách để có
thể thấu hiểu được nó. Muốn hiểu và nhận thức rõ
được chân lý Niết Bàn, việc cần thiết cho chúng ta là
phải đi vào Bát Chánh Đạo, chuyên cần và kiên nhẫn rèn
luyện và tự thanh tịnh hóa. Qua sự phát triển và viên mãn
tinh thần, chúng ta mới có thể chứng nghiệmđược Đế
Thứ Ba. Bát Chánh Đạo là
Diệu Đế thứ tư dẫn đến Niết Bàn. Đó là một lối
sống gồm có tám yếu tố. Đi trên con đường này giúp chúng
ta tìm thấy được sự chấm dứt khổ đau. Vì Giáo lý
của Đạo Phật hợp lý và vững chắc bao gồm mọi khía
cạnh cuộc đời nên con Đường cao quý này cũng là kim
chỉ nam dẫn đến một đời sống hạnh phúc. Tu tập Bát
Chánh Đạo đem lợi lạc cho chính mình và cho người khác,
Bát Chánh Đạo không phải là con Đường chỉ dành riêng
cho người Phật Tử tu tập, mà cả cho bất cứ những ai có
hiểu biết, bất kể tín ngưỡng thuộc tôn giáo nào. BÁT CHÁNH
ĐẠO - TRUNG ĐẠO Đây là Con Đường để
sống một đời đạo hạnh mà không đi tới cực đoan. Một khía cạnh nổi
bật trong Giáo Lý của Đức Phật là việc áp dụng Bát Chánh
Đạo như một lối sống cao thượng. Bát Chánh Đạo cũng
được gọi là Trung Đạo. Đức Phật khuyên các đệ tử
tu tập con đường này để tránh cái cực đoan về hưởng
lạc và khổ hạnh. Trung Đạo là một cách sống đứng đắn,
không chủ trương chấp nhận mệnh lệnh do một người nào
đó ngoài chính mình. Người tu tập Trung Đạo, hành trì
giới hạnh, không phải do sợ hãi một sức mạnh siêu nhân
bên ngoài, mà do giá trị thực chất theo sau mỗi hành động.
Người đó chọn kỷ luật tự giác để đạt một cứu cánh
nhất định: đó là sự tự thanh tịnh hóa. Trung Đạo là một chương
trình trau dồi tri thức và tiến bộ nội tâm. Một người
có thể tiến bộ thực sự về đạo hạnh và tuệ giác
bằng cách tu tập con Đưòng này, chứ không phải bằng cách
thực hành các nghi lễ và cầu nguyện bên ngoài. Theo Đức
Phật, người sống theo đúng Pháp, sẽ được huớng dẫn và
che chở bởi chính Định Luật này. Một người khi sống đúng
theo Pháp, người đó cũng sống hòa hợp với đinh luật thiên
nhiên. Đức Phật khuyến khích
mỗi Phật Tử nên uốn nắn nếp sống theo khuôn khổ Bát
Chánh Đạo do Ngài giảng dạy. Người nào biết điều
chỉnh đời sống theo con đường cao thượng này sẽ thoát
khỏi thống khổ và tai ương ngay trong kiếp sống này và
những kiếp sau. Người đó có thể mở mang tâm ý bằng
cách tránh dữ làm lành. Bát Chánh Đạo có
thể so sánh với bản đồ chỉ đường. Giống như một người
du hành cần có bản đồ để đi tới mục tiêu, tất cả
chúng ta đều cần sử dụng Bát Chánh Đạo để đạt đến
Niết Bàn, mục tiêu tối hậu của đời sống con người.
Muốn đạt cứu cánh này, có ba mặt của Bát Chánh Đạo mà
người tu tập cần phải phát triển: đó là Giới, Định,
và Huệ. Trong khi ba phương diện này cần phải được vun
bồi cùng một lúc thì cường độ huân tập một trong ba lãnh
vực ấy có thể thay đổi tùy theo căn cơ phát triển của
mỗi người. Hành giả phải trau dồi Giới trước nhất, có
nghĩa là các hành động của mình phải đem lợi ích cho các
chúng sinh khác. Người đó làm như vậy do tin tưởng
triệt để vào việc giữ giới như không giết hại, phỉ báng,
trộm cắp, tà dâm hay dùng các chất say. Khi trau dồi
giới hạnh người đó có thể kiểm soát tâm ý dễ dàng,
do đó vun bồi được định lực. Cuối cùng với định tâm
phát triển, trí huệ sẽ khởi sanh. PHÁT HUY TỪNG BƯỚC
MỘT Với trí huệ vô
luợng vô biên, Đức Phật hiểu rằng không phải tất cả
mọi người đều cùng có một khả năng có thể đạt ngay
tới mức viên mãn về tâm linh. Cho nên Ngài vận dụng Bát
Chánh Đạo để phát huy lối sống tinh thần từng bước
bằng phương cách thực tiễn. Ngài biết rằng không phải
mọi người đều có thể trở nên toàn bích ngay trong kiếp
sống này. Ngài dạy Giới Định, Huệ phải được huân
tập qua nhiều kiếp sống với nỗ lực không ngừng. Cuối
cùng Bát Chánh Đạo sẽ dẫn đến mức đạt đưọc sự an
lạc tối thượng không còn bất- toại- nguyện nữa. ĐỜI SỐNG CHÍNH ĐÁNG Bát Chánh Đạo gồm có tám yếu tố sau: GIỚI: Chánh Ngữ , Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng Chánh Kiến là gì? Chánh
Kiến được giải thích là có sự hiểu biết về Tứ
Diệu Đế. Nói một cách khác là hiểu sự vật đúng như
chúng là vậy. Chánh Kiến cũng có nghĩa là hiểu biết bản
chất của các thiện Nghiệp và bất thiện Nghiệp, và cũng
ảnh hưởng của chúng đối với thân, khẩu ý như thế nào.
Do hiểu Nghiệp, ta sẽ học được cách tránh việc ác, làm
việc lành, tạo kết quả tốt đẹp trong đời sống. Khi
một người đạt được Chánh Kiến, người ấy sẽ hiểu
được Ba Đặc Tính của Sự Sống (Vô Thuờng, Khổ và Vô
Ngã), và hiểu được định luật của Lý Nhân Duyên. Người
có Chánh Kiến viên mãn là người thoát khỏi vô minh, và do
bản chất của sự giác ngộ này, sẽ nhổ hết gốc rễ các
tội lỗi trong tâm ý và đạt giải thoát. Mục đích cao thượng
của một hành giả tu Phật là trau dồi Trí Tuệ và đạt
được Chánh Kiến về chính bản thân, về đời sống và
về tất cả các hiện tượng. Một người có Chánh
Kiến cũng phát triển hoàn mãn Chánh Tư Duy. Yếu tố này đôi
khi được g?i là "Chánh Giải Pháp", "Nguyện
Vọng Chân Chánh", hay "Suy Tư Chân Chánh". Nó
đưa đến trạng thái tinh thần, có công năng loại bỏ
những tà kiến hay khái niệm sai lầm và bồi dưỡng các
yếu tố khác nhằm tiến đến Niết Bàn. Yếu tố này có
hai công dụng cùng một lúc : loại bỏ các tư tưởng tội
lỗi và phát triển các tu tưởng trong sạch.Chánh Tư Duy
rất quan trọng vì tư tưởng của một người có thể làm
cho người ấy có thể thanh tịnh hay bất tịnh. Chánh Tư Duy có ba khía
cạnh. Trước nhất, ta phải duy trì thái độ buông bỏ
lạc thú thế gian, không ích kỷ bám níu vào chúng. Ta không
nên có tư tưởng vị kỷ mà nên nghĩ đến phúc lợi của
người khác. Thứ hai, ta phải luôn duy trì tâm từ ái,
thiện chí, và bao dung, ngược lại với sân hận, ác ý, hay
thù nghịch. Thứ ba, ta nên hành động với tác ý không làm
hại ai, và từ bi với mọi chúng sanh, ngược lại với tính
hung bạo và thiếu tôn trọng kẻ khác. Theo đà tiến trên
con đuờng tu tập, tâm ta sẽ càng ngày càng thấm nhuần tính
nhân ái, hiền hòa, vị tha, và lòng ta sẽ tràn đầy tình
thương yêu và bi mẫn. Chánh Kiến và Chánh Tư
Duy là các yếu tố Trí Tuệ dẫn đến giới hạnh trong
sạch. Có ba yếu tố trong giới hạnh: Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, và Chánh Mạng. Chánh Ngữ tôn trọng chân lý và tôn
trọng phúc lợi của người khác. Đó có nghĩa là tránh nói
dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, và nói chuyện
vô ích. Chúng ta thường coi thường lời nói và có khuynh hướng
không để ý đến khả năng của lời nói. Nhưng đôi khi chúng
ta cũng bị đau đớn hoặc cũng được phấn khởi bởi
lời nói của người nào đó. Có câu: một lời nói tàn
nhẫn gây tổn thương còn hơn vũ khí trong khi một lời nói
dịu dàng có thể cảm hóa trái tim, và trí óc của kẻ
tội phạm bướng bỉnh chai đá nhất. Cho nên để phát
huy một xã hội hòa hợp, chúng ta nên kiểm soát, trau dồi
và sử dụng lòi nói một cách tích cực. Chúng ta nói
những lòi trung thực, hài hòa, thân ái, và ý nghĩa. Có
lần Đức Phật dạy: "lời nói dịu dàng như mật
ngọt, lời nói ngay thẳng đẹp như cánh hoa, lời nói sai trái
như rác rưới". Yếu tố tiếp theo
của giới hạnh là Chánh Nghiệp. Chánh Nghiệp tôn trọng đời
sống, tôn trọng tài sản, tôn trọng sự giao tế cá nhân.
Nó tương ứng với ba điều đầu tiên trong năm giới tu
tập của mỗi người Phật Tử, đó là tránh xa sự giết
hại, trộm cắp, và tà dâm. Đời sống quý giá với tất
cả mọi người, ai cũng run sợ trước hình phạt, ai cũng
sợ chết, và quý trọng mạng sống. Vậy nên, chúng ta không
nên tước đoạt mạng sống mà chúng ta không thể cho được,
và không nên làm hại các chúng sanh khác. Tôn trọng tài
sản có nghĩa là không lấy bất cứ gì không được phép
lấy bằng cách trộm cắp, lừa đảo và ép buộc. Tôn
trọng tương quan cá nhân có nghĩa là không nên ngoại tình
và tà dâm. Điều này quan trọng vì nó duy trì tình thương
và tin tưởng giữa những người thân yêu của mình, làm xã
hội trở thành một nơi tốt đẹp hơn để chung sống. Chánh Mạng là yếu
tố của đức hạnh liên quan đến cách mưu sinh trong xã
hội. Nó là sự mở rộng của Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp
nhằm tôn trọng sự thật, mạng sống, tài sản, và sự tuơng
quan cá nhân. Chánh Mạng có nghĩa là chúng ta nên mưu sinh mà
không vi phạm những nguyên tắc của giới đức. Người
Phật Tử nên tránh năm loại sanh kế: buôn bán nô lệ, buôn
bán vũ khí, buôn bán súc vật để đem giết, buôn bán rượu
và ma túy, và buôn bán độc dược. Một số người nói
rằng vì sanh nhai nên phải buôn bán các nghề trên, cho nên
họ không có gì sai quấy cả . Nhưng lý luận bào chữa này
hoàn toàn vô căn cứ vì nếu việc này được chấp nhận
thì những kẻ trộm cắp, giết người, cướp bác, buôn
lậu và lừa đảo cũng có thể dễ dàng mà nói rằng họ làm
các việc phi pháp cũng chỉ vì mưu sinh, như vậy lối sống
của họ có gì là sai quấy. Một số người tin
rằng câu cá, săn thú để tiêu khiển và giết súc vật để
lấy thực phẩm không trái với giới cấm của người
Phật Tử. Đây cũng là một quan niệm sai lầm phát sanh do
thiếu kiến thức về Pháp. Những hành đ?ng trên không chính
đáng và chỉ gây đau khổ cho chúng sanh khác. Trong những hành
động ấy, kẻ nào bị thiệt hại nhất chính là kẻ đã làm
điều bất thiện. Duy trì cuộc sống bằng những phương
tiện sai lầm không phù hợp với giáo lý của Đức Phật.
Một lần Đức Phật dạy: "Nếu phải sống đến trăm
tuổi cuộc đời buông lung và không tự chế, tốt hơn,
quả thực vậy, thà sống một ngày đời sống đạo hạnh
và biết quán tưởng (Kinh Pháp Cú, Câu 103). Thà chết là
một người đức hạnh và đáng kính còn hơn sống là người
tội lỗi. Ba yếu tố còn lại
của Bát Chánh Đạo là các yếu tố phát triển trí tuệ
bằng cách thanh lọc tâm ý. Đó là Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm và Chánh Định. Hành tập những yếu tố này giúp ta
củng cố và kiểm soát được tâm, giữ vững ý chí tiếp
tục làm điều thiện gíúp tâm chuẩn bị chứng ngộ được
Chân Lý, mở cửa đến giải thoát, đến Giác Ngộ. Chánh Tinh Tấn là trau
dồi thái độ tích cực và nhiệt tình trong công việc làm,
hoặc trong nghề nghiệp,học hành, hoặc trong việc hành đạo.
Với nhiệt tâm bền bỉ, và quyết tâm hoan hỷ, ta mới thành
công trong việc ta làm. Chánh Tinh Tấn có bốn khía cạnh:
hai khía cạnh liên quan đến bất thiện pháp và hai liên
quan đến thiện pháp. Trước tiên, tinh tấn loại bỏ điều
bất thiện đã phát sinh, và thứ nhì là ngăn chặn điều
bất thiện phát sinh. Thứ ba là phát triển điều thiện chưa
phát sinh, và thứ tư làduy trì điều thiện đã phát sinh.
Áp dụng Chánh Tinh Tấn vào đời sống, chúng ta có thể
tiết giảm hay loại bỏ tư tưởng bất thiện, tăng truởng
và quyết tâm huân tập các tư tưởng thiện lành thành
một phần tự nhiên trong tâm ý chúng ta. Chánh Tinh Tấn liên
hệ khăng khít với Chánh Niệm. Trong Đạo Phật tu
Tập Chánh Niệm là tối cần thiết. Đức Phật dạy Chánh
Niệm là con đuờng duy nhất để chấm dứt khổ đau. Chánh
Niệm phát triển do sự chú tâm vào bốn lãnh vực đặc
biệt (Tứ Niệm Xứ). Đó là dùng Chánh Niệm để ghi nhận
về thân (oai nghi, hít thở vân vân..), về thọ
(lạc, khổ, trung tính), về tâm (tham, sân, si hay không),
và về pháp (các đối tượng của tâm như chướng
ngại của tâm định hay Tứ Diệu Đế, vân vân.). Chánh
Niệm rất cần thiết ngay cho đời sống hàng ngày, chúng ta
luôn luôn phải chú tâm vào các hành động, cảm nghĩ và tư
tưởng cũng như vào hoàn cảnh chung quanh chúng ta. Tâm luôn
luôn phải sáng suốt, ý tứ không phóng dật hay mờ mịt và
phiền muộn. Trong khi Chánh Niệm là
hướng tâm chú ý đến thân, cảm nghĩ (thọ), tâm và pháp
(các đối tượng của tâm), hay ghi nhận các sự việc khác,
nói một cách khác đó là đem tâm chú ý hướng đến đối
tượng ta chọn, thì Chánh Định là dán chắc sự chú
tâm trên đối tượng, không để tâm bị xao lãng. Định
là công phu hành trì để phát triển khả năng gom tâm thành
một điểm (nhất điểm tâm) trên một đối tượng duy
nhất về vật chất hay về tinh thần. Tâm hoàn toàn tập
trung vào đề mục, không bị phân tán, giao động, bất an
hay hôn trầm. Tu tập duới sự huớng dẫn của một vị
thầy kinh nghiệm, Chánh Định đem lại hai điều lợi ích.
Thứ nhất, tinh thần và thể chất được lành mạnh,
thoải mát, hoan hỉ, bình tĩnh, và tịch tịnh. Thứ hai, Chánh
Định chuyển tâm trở thành một dụng cụ có khả năng nhìn
sự vật đúng như chúng là, và chuẩn bị cho tâm đạt trí
tuệ. Bát Chánh Đạo là chân
lý quan trọng thứ tư do Đức Phật dạy. Như một lương y
giỏi về tâm linh, Ngài đã tìm ra căn bệnh gây tai họa cho
tất cả mọi thứ trong đời sống, đó là Khổ hay Bất-toại-nguyện.
Rồi Ngài tìm ra nguyên nhân bất-toại-nguyện là do lòng
tham vị kỷ và bám níu. Ngài khám phá ra có một phưong cách
chữa khỏi bệnh này: Niết Bàn, trạng thái chấm dứt tất
cả bất-toại-nguyện và toa thuốc đó là Bát Chánh Đạo.
Khi một bác sĩ giỏi chữa một bệnh nhân mắc bệnh nặng,
toa thuốc chữa trị không những về thân bệnh mà còn về
tâm bệnh nữa. Bát Chánh Đạo, con đường chấm dứt khổ
đau, là một phương pháp trị liệu có hệ thống chuyên
chữa bệnh luân hồi sinh tử bằng cách rèn luyện Thân và
Khẩu, phát triển tâm ý, và thay đổi toàn bộ mức độ
hiểu biết và giá trị tư tưởng của một con người. Bát
Chánh Đạo chỉ dạy đường lối đạt đến mức toàn
hảo về tâm linh, và giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau. MỌI VẬT
ĐỀU THAY ĐỔI Cái gì có hiện hữu
đều thay đổi và cái gì không thay đổi thì không hiện
hữu. Nhìn vào đời sống,
chúng ta nhận thấy mọi thứ hiện hữu không ngừng thay đổi
giữa những cực đoan và tương phản. Ta chứng kiến mọi
thăng trầm, mọi thành công và thất bại, mọi được thua;
ta kinh nghiệm mọi vinh nhục, mọi khen chê; ta đã cảm
thấy tâm ta đáp ứng như thế nào trước tất cả những
nỗi vui buồn ấy, thích thú và chán chường, thất vọng và
thỏa mãn, sợ hãi và hy vọng. Những luồng sóng hùng mạnh
của cảm xúc đó đem chúng ta lên cao, dìm chúng ta xuống đáy,
không mấy chốc chúng ta chẳng còn an lạc, rồi chúng ta
lại bị đẩy đưa bởi sức mạnh của luồng sóng mới. Làm
sao chúng ta có thể đứng vững vàng trên đầu những ngọn
sóng ấy? Nơi đâu chúng ta sẽ xây dựng được lâu đài
của cuộc sống giữa cái chao đảo không bao giờ ngừng
nghỉ của đại dương? Đó chính là một thế
giới mà niềm vui thì ít mà chỉ thấy nhiều thất vọng,
chán chường, và thất bại. Đó là một thế giới mà
niềm vui lại rất ít giữa bệnh não, thất vọng và tử
thần. Đó là một thế giới mà chúng sanh mới giao tiếp
với ta bằng niềm vui trìu mến thì ngay sau đó lại cần đến
lòng bi mẫn. Với một thế giới như vậy. sự trầm tĩnh
rất cần thiết. Đó là bản chất của thế giới mà chúng
ta đang sống thân thích với các bạn bè hôm nay nhưng hôm
sau họ lại trở thành kẻ thù hãm hại chúng ta. Đức Phật miêu tả
thế giới như một dòng bất tận của sự tái sanh. Mọi
thứ đều thay đổi, chuyển hóa liên tục, đột biến không
ngừng và như một dòng suối tuôn chảy. Mọi thứ lúc có lúc
không. Mọi thứ tuần hoàn hiện hữu rồi lại biến mất
khỏi cuộc sống. Mọi thứ đều chuyển động từ lúc sanh
đến lúc ch?t. Sự sống là một sự chuyển động liên
tục của sự thay đổi tiến đến cái chết. Vật chất
(Sắc Pháp) hay các dạng thức vật chất biểu lộ hay không
biểu lộ trong đời sống, cũng là một chuyển động không
ngừng của sự thay đổi đi đến tàn lụi hoại diệt. Giáo
lý về tính chất vô thường của mọi sự vật này là
một trọng điểm then chốt của Đạo Phật. Không có gì trên
trái đất này có thể chia sẻ được tính chất của sự
thật tuyệt đối. Sự thật đó là không thể có cái gì có
sanh ra mà không có chết. Bất cứ gì lệ thuộc vào sự duyên
hợp thì cũng phải lệ thuộc vào sự tan rã. Thay đổi chính
nó là thành phần của mọi thực thể. Công nhận định luật
vô thường, Đức Phật bác bỏ sự hiện hữu của những
sự vật trường cửu. Vật chất và tinh thần đều là các
ý niệm trừu tượng không thật, thật sự chỉ là những
yếu tố luôn thay đổi (Pháp), liên hệ lẫn nhau, sanh khởi
tùy thuộc lẫn nhau. Ngày nay các khoa học
gia đều công nhận Đức Phật là người khám phá ra định
luật vô thường. Khoa học
gia mặc nhận không một thứ gì có thực chất, vững chắc
và xác thực trong thế giới này. Mọi sự vật chỉ là cơn
lốc của nhiệt lượng, không bao giờ giữ nguyên không thay
đổi trong hai giây phút liên tiếp. Cả thế giới rộng
lớn này đều bị xoáy vào vòng gió cuốn và cơn lốc của
vô thường. Một trong những nguyên lý mặc nhận bởi các
khoa học gia là viễn tượng của sự nguội lạnh cực điểm,
và theo sau là cái chết hay sự tiêu diệt của mặt trời.
Người Phật Tử không bị mất tinh thần vì viễn tượng
ấy. Đức Phật đã dạy rằng các vũ trụ hay các chu kỳ
của thế giới, cứ tiếp tục trỗi lên và mất đi vô cùng
tận. giống như đời sống của con người. Thế giới của
chúng ta chắc chắn sẽ có ngày cùng tận. Việc này đã
sẩy ra cho những thế giới trước đây, và lại sẽ sẩy
ra sau này. Thế giới là một
hiện tượng đang trôi qua. Tất cả chúng ta đều thuộc
về thế gi?i của thời gian. Mỗi chữ viết, mỗi viên đá
chạm, mỗi bức tranh vẽ, mỗi cấu trúc của nền văn minh,
mỗi thế hệ của loài người, tan tác đi qua giống như
hoa, lá tàn tạ cuối hè. "Cái gì hiện hữu thì thay đổi,
cái gì không thay đổi thì không hiện hữu." Tất cả chư thiên, con
người, thú vật và tất cả dạng thức vật chất - tất
cả mọi thú trong vũ trụ - đều bị chi phối bởi luật vô
thường. Đạo Phật dạy: "Sắc Thân như bèo
bọt; (xem tiếp phần
b) -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06 | 07
| 08 | 09 | 10
| 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
2. Pacittiya Pali (Khinh tội)
3. Mahavagga Pali (Đại Phẩm)
4. Cullavagga Pali (Tiểu Phẩm)
5. Parivara Pali (Phần Linh Tinh)
2. Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh)
3. Samyutta Nikaya (Tương Ứng Bộ Kinh)
4. Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh)
5. Khuddaka Nikaya (Tạp Bộ Kinh)
2. Dhammapada (The Way of Truth, Pháp Cú Kinh)
3. Udana (Heartfelt sayings or Peacon of Joy, Tự Thuyết
Kinh)
4. Iti Vuttaka('Thus said' Discourses, Phật thuyết như
vậy)
5. Sutta Nipata (Collected Discourses, Kinh tập)
6. Vimana Vatthu (Stories if Celestial Mansions, Các câu
chuyện về Thiên cung)
7. Peta Vatthu (Stories of Peta, Câu chuyện về Ngạ
quỷ)
8. Theragatha (Psalms of Brethren, Trưởng Lão Tăng Kệ)
9. Therigatha (Palsms of the Sisters, Trưởng Lão Ni Kệ)
10. Jatakha (Birth Stories, Túc Sanh Truyện)
11. Niddesa (Expositions, Nghĩa thích)
12. Patisambhida (Analytical Knowledge, Tuệ Phân Tích)
13. Apadana (Lives of Saint, Đời Sống các Vị Thánh)
14. Buddhavamsa (The History of Buddha, Lịch Sử Đức
Phật)
15. Cariya Pitaka (Modes of Conduct, Sở hạnh tạng)
2. Vubhanga (The Book of the Treatise, Phân Biệt (giải
từng phần khác nhau)
3. Katha Vatthu (Point of Controversy, Kệ Thuyết)
4. Puggala Pannati (Description of Individuals, Nhân Duyên
Thuyết)
5. Dhatu Katha (Discussion with Reference to Elements, Giới
Thuyết)
6. Yamaka (The Book of Pairs, Song Đối)
7. Pattana (The Book of Relations, Liên Đới)
- Chân Lý về Nguyên Nhân của Khổ
- Chân Lý về Chấm Dứt Khổ
- Chân Lý về Con Đuờng dẫn đến chấm dứt Khổ
ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định
HUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy
Thọ như bóng nước;
Tưởng như ảo giác ;
Hành như thân cây chuối (tách ra chẳng còn gì)
Và Thức như trò múa rối" - (Tương Ưng Bộ Kinh)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001