BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 9 LẤY GIÁO PHÁP VÀ
CHÍNH CHÚNG TA LÀM NƠI NUƠNG TỰA -ooOoo- TẠI SAO CHÚNG TA NƯƠNG
TỰA (QUY Y) NƠI ĐỨC PHẬT? Người Phật Tử nương tựa nơi
Đức Phật không phải vì sợ Ngài, mà là để có được
nguồn thôi thúc và hiểu biết chính đáng cho việc tự
thanh tịnh chính mình.
Người Phật Tử không nương tựa
nơi Đức Phật với niềm tin Ngài là thượng đế hay con của
thượng đế. Đức Phật không bao giờ tuyên bố Ngài là thần
thánh. Ngài là Đấng Giác Ngộ, Bậc Từ Bi, Trí Tuệ, và
Thánh Thiện nhất chưa từng có trên thế giới này. Cho
nên, họ nương tựa nơi Đức Phật như một vị thầy, một
Đạo Sư đã chỉ dạy con đường giải thoát thực sự. Họ
tôn kính Đức Phật là để tỏ lòng biết ơn và kính trọng
của họ, và không đòi hỏi ân huệ vật chất nơi Ngài. Người
Phật Tử không cầu nguyện Đức Phật nghĩ rằng Ngài là một
thượng đế có quyền thưởng phạt hay nguyền rủa họ. Họ
tụng kệ hay kinh không phải trong ý nghĩa van xin mà như là
một phương tiện tưởng nhớ đển đức hạnh vĩ đại và
phẩm tính cao quý của Ngài mong đạt nhiều cảm hứng và hướng
dẫn cho chính họ làm tăng trưởng lòng tin trên đường tu
tập giáo lý của Ngài. Có những lời phê bình chỉ trích
thái độ nương tựa nơi Đức Phật. Họ không hiểu ý nghĩa
thực sự quan niệm nương tựa và tôn kính Đức Đại Đạo
Sư. Họ chỉ biết về cầu nguyện là điều mà mọi người
đều làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Khi người Phật Tử tìm
nơi nương tựa, có nghĩa là họ chấp nhận Đức Phật, Pháp
và Tăng Già là những phương tiện mà họ có thể nhổ bật
hết gốc rễ của sợ hãi và những xáo trộn tâm linh. Nhiều
người, với niềm tin đặc biệt đã tìm sự che chở nơi một
số sự vật chung quanh mà họ tin là có ma quỷ thần linh
trong đó. Đức Phật khuyên con người khi bị
sợ hãi không nên nông nổi tựa vào núi rừng, hang động,
cây cỏ, miếu thờ. Không có nơi nương tựa nào như thế mà
an toàn cả, không có nơi trú ẩn nào như thế là tối thượng
cả. Không thể nhờ vào các nơi nương tựa như thế mà giải
thoát được tất cả các điều bất hạnh. Ai biết nương
tựa (Quy Y) nơi Đức Phật, Pháp và Tăng Già sẽ có hiểu
biết chân chánh về Tứ Diệu Đế - Khổ, Nguyên Nhân của
Khổ, Diệt Khổ, và Bát Chánh Đạo dẫn đến chấm dứt Khổ.
Đó mới thật là nơi nương tựa an toàn. Tìm nơi nương tựa
như thế mới giải thoát khỏi khổ đau. (Kinh Pháp Cú - Câu
188-192). Trong kinh Dhajagga, có ghi là những
người nào quy y với Sakra, Vua của các chư thiên hay bất cứ
một vị thần nào, không thể thoát khỏi những sợ hãi và
khó khăn trần thế. Lý do là chính các chư thiên (thần, thượng
đế) cũng chưa thoát khỏi tham sân, si và sợ hãi, nhưng Đức
Phật, Pháp và Tăng Già (nghĩa là cộng đồng đã đạt đến
viên mãn) đã giải thoát các điều đó. Chỉ có những ai
đã giải thoát khỏi những bất toại nguyện mới có thể
thấy con đường hạnh phúc trường cửu. Francis Story, một
học giả Phật Giáo nổi tiếng, đã nêu quan điểm của
ông trong việc tìm nương tựa nơi Đức Phật như sau: "Con đến quy y nơi Đức Phật.
Con mong tìm sự hiện diện của Đấng Đại Đạo Sư mà do
lòng từ bi của Ngài con được hướng dẫn vượt qua dòng
thác lữ của luân hồi, do vẻ mặt thanh tịnh của Ngài con
được nâng lên khỏi vững bùn lầy của các tư tưởng
tham đắm thế gian, nơi đây con cũng thấy được sự bảo
đảm chắc chắn của An Lạc Niết Bàn mà chính Ngài đã đạt
được. Trong phiền não đau đớn, con quay về với Ngài, và
trong hạnh phúc con tìm thấy ánh mắt trầm lặng của Ngài.
Con đặt trước Hình ảnh Ngài không những hoa và hương, mà
cả những ngọn lửa đang cháy trong tâm con luôn dao động
để được dập tắt và lắng êm. Con đặt xuống đây cái
gánh đầy của tự kiêu và tự ngã, cái gánh nặng của lo
toan và khát vọng, cái khối nhọc nhằn của sanh tử tái diễn
không ngừng". Sri Rama Chandra Bharati, một thi sĩ
Ấn, cũng giải thích rất ý nghĩa về việc tìm nương tựa
nơi Đức Phật như sau: "Con nương tựa nơi Ngài
không vì lợi lạc Có kẻ nói rằng Đức Phật cũng
chỉ là một người, tìm nơi nương tựa nơi Ngài thật
không có nghĩa gì cả. Những kẻ ấy đâu có hiểu rằng
chính Đức Phật đã nói rõ ràng Ngài chỉ là một con người,
nhưng không phải con người bình thường như chúng ta. Ngài
là một con người phi thường, một người thánh thiện
không ai có thể so sánh với Ngài về Giác Ngộ tối thượng,
và lòng từ bi vô lượng đối với tất cả chúng sanh.
Ngài là một con người đã thoát khỏi tất cả những yếu
đuối và ô nhiễm, cùng những cảm xúc thường tình của
con người. Về Ngài, người ta nói rằng: "Không có ai
vô thần như Đức Phật, mà cũng chẳng có ai lại giống thần
thánh như Đức Phật". Đức Phật là hiện thân của tất
cả đức hạnh, tính chất thiêng liêng, trí tuệ và giác ngộ
cao cả. Một câu hỏi khác thường được
người ta nêu lên: "Nếu Đức Phật không phải là một
Thượng Đế, nếu Ngài không đang sống tại thế giới này,
làm sao Ngài có thể ban phước cho chúng ta? " Theo Đức
Phật, nếu ai theo lời khuyên của Ngài, sống một cuộc đời
đạo hạnh, những người đó chắc chắn nhận được phước
lành. Phước lành trong Phật Giáo có nghĩa là niềm vui chứng
nghiệm khi chúng ta phát triển lòng tự tin và mãn nguyện.
Đức Phật từng nói: "Nếu ai mong muốn gặp ta, người
đó chỉ việc nhìn vào Giáo lý của ta mà tu tập" (Tương
Ưng Bộ Kinh). Những ai hiểu thấu Giáo Lý của Ngài, sẽ thấy
bản chất thực sự của Đức Phật phản chiếu nơi chính
mình. Hình ảnh Đức Phật mà họ duy trì trong tâm không phải
là hình ảnh nhìn thấy trên bàn thờ chỉ có tính các tượng
trưng mà thôi. Những ai sống đúng theo Giáo Pháp (con đường
chính đáng của cuộc sống) sẽ được chính giáo pháp che
chở" (Theragatha) Ai biết bản chất thực sự của cuộc
sống và sự thật của cuộc đời do Giáo Pháp sẽ không
có điều gì sợ hãi cả và cuộc sống chắc chắn được
bảo đảm và hòa hợp. Trong các tôn giáo khác, những người
sùng bái Thượng Đế của họ, đòi hỏi Thượng Đế ban
ân huệ cho họ. Người Phật Tử không sùng bái Đức Phật
để xin ân huệ trần tục, nhưng họ tôn trọng Đức Phật
vì thành quả tối cao của Ngài. Khi người Phật Tử kính
trọng Đức Phật, gián tiếp họ đã nâng cao tâm linh họ
để một ngày nào đó, họ cũng đạt được giác ngộ nhu
Ngài hầu phụng sự nhân loại ngoài việc họ mong ước trở
thành Phật. Người Phật Tử kính trọng Đức Phật như vị
Đạo Sư của họ. Tuy nhiên, sự kính trọng này không ngụ
ý có sự luyến chấp vào đó hay sự ỷ lại vào vị Đạo
Sư. Loại kính trọng này theo Giáo Lý của Ngài như sau: "Này Chư Tăng, nếu có thầy
nắm tà áo Như Lai, đi sát cạnh Như Lai từng bước một,
nhưng còn tham lam, nhiễm đắm vào lạc thú giác quan, tư tưởng
hiểm độc, mưu mô gian trá, ký ức lẫn lộn, vô ý tứ và
thiếu thiền định, đầu óc tán loạn, không kiểm soát
được các căn, thầy đó tuy gần mà vẫn xa Như Lai, và Như
Lai cũng xa thầy đó." "Này Chư Tăng, nếu có vị
nào tuy xa Như Lai hàng trăm dậm nhưng không tham lam, không
say đắm vào khoái lạc giác quan, tư tưởng thuần hậu,
quang minh chính đại, quyết tâm vững mạnh, có ý tứ, hay
suy niệm, tâm gom vào nhứt điểm, thu thúc lục căn, vị đó
quả thân cận với Như Lai và Như Lai cũng gần thầy đó.
(Samyutta Nikaya, Tương Ưng Bộ Kinh) KHÔNG TỰ ĐẦU HÀNG
Nương nhờ vào người khác có
nghĩa là khước từ nỗ lực và lòng tự tin của chính
mình. Phật Giáo là một tôn giáo ôn
hòa mà trong đó tinh thần bình đẳng, công bằng và hòa
bình ngự trị. Ỷ lại vào người khác để được cứu rỗi
là tiêu cực, nhưng ỷ lại vào chính mình là tích cực. Phụ
thuộc vào người khác có nghĩa là từ bỏ trí thông minh
và nỗ lực của chính mình. Tất cả những gì đã cải tiến
và nâng cao nhân loại đều do chính con người làm ra. Sự
thăng tiến của con người là do kiến thức, hiểu biết, nỗ
lực và kinh nghiệm của chính con người chứ không phải từ
trên thiên đàng. Con người không nên lệ thuộc, ngay cả
vào những sức mạnh to lớn của thiên nhiên vì cho dù bị
thiên nhiên đè bẹp, con người vẫn giữ địa vị cao cả
vì sự hiểu biết về các sức mạnh ấy. Chân lý Phật
Giáo còn đi xa hơn nữa: Phật Giáo cho thấy rằng nhờ hiểu
biết, con người có thể kiểm soát môi trường và hoàn cảnh.
Con người có thể tránh không bị nghiền nát bởi chúng,
và biết sử dụng sức mạnh của chúng để vươn lên đỉnh
cao tột của tinh thần. Phật Giáo tán dương thích đáng
các thành quả đạt được do trí thông minh và nỗ lực của
con người hơn là tin vào những đấng siêu nhân. Tôn giáo
thực sự có nghĩa là niềm tin vào tánh thiện của con người
hơn là vào những sức mạnh siêu hình. Trên phương diện này,
Phật Giáo không chỉ là một tôn giáo, mà còn là một phương
pháp cao thượng để đạt hòa bình và giải thoát trường
cửu bằng lối sống đứng đắn khả kính Ngay từ lúc ban
đầu, Phật Giáo đã lôi cuốn mạnh mẽ những con người có
văn hóa và trí thức. Mọi người có văn hóa trên thế giới
này ngày nay đều kính ngưỡng Đức Phật như một Bậc Thầy
về lý trí. Đức Phật dạy cái cần thiết cho hạnh phúc của
con người không phải là một tôn giáo với cả đống giáo
điều và lý thuyết suông mà là sự hiểu biết về bản chất
của vũ trụ và sự tương quan của nó với định luật nhân
quả. Đời sống chỉ đơn thuần là một biểu hiện bất
toàn của thiên nhiên, chỉ khi nào hiểu thấu được nguyên
tắc này thì con người mới có thể hoàn toàn giải thoát
được. Đức Phật đã cống hiến lời
giải thích mới về vũ trụ. Đó là một tầm nhìn mới về
hạnh phúc trường cửu do đạt được sự toàn thiện.
Trong Phật Giáo, mục tiêu chiến thắng của nhân loại là
đạt trạng thái thường còn vượt lên trên cái vô thường,
sự đạt Niết Bàn vượt lên trên tất cả những thế giới
thay đổi, và sự vượt thoát cuối cùng khỏi những thống
khổ của cuộc sống. KHÔNG CÓ KẺ PHẠM TỘI Phật Giáo không gọi một hành động
nào là phạm tội, mà chỉ gọi đó là một hành động vụng
về hay bất thiện. Phật Tử không coi con người là
kẻ tội lỗi bẩm sinh hay "kẻ phản lại thượng đế".
Mỗi một con nguời là một cá thể giá trị, đều có trong
chính mình một kho lớn chứa đựng các điều thiện cũng
như các thói hư tật xấu. Điều thiện trong con người luôn
luôn chực sẵn cơ hội thuận tiện để thăng hoa và chín
mùi. Hãy nhớ câu nói sau: "Có rất nhiều cái tốt
ở kẻ xấu nhất trong chúng ta và có nhiều cái xấu ở kẻ
tốt nhất trong chúng ta". Phật Giáo dạy ta chịu trách nhiệm
về hành vi thiện hay hành vi bất thiện của chính mình, và
mỗi cá nhân có thể tạo mô hình cho số phận của chính
mình. Như Đức Phật nói: "Những hành vi tội lỗi này
do chính bạn làm, không phải do nơi cha mẹ, bè bạn, hay người
thân quyến cho nên chính bạn phải gặt kết quả đau khổ".
(Kinh Pháp Cú, Câu 165) Phiền muộn của ta do chính ta tạo
ra chứ không phải do mắc lời nguyền truyền kiếp của gia
tiên hay do hứng tội nguyên thủy của tổ tông thần thoại
thuở ban sơ. Người Phật Tử không chấp nhận niềm tin là
thế giới này đơn thuần chỉ là một nơi để thử thách
và thí nghiệm. Thế giới này có thể làm thành một nơi mà
chúng ta có thể đạt được sự toàn thiện cao cả nhất.
Sự toàn thiện đồng nghĩa với hạnh phúc. Với Đức Phật,
con người không phải do một đấng nào đó tạo ra như vật
thử nghiệm trong đời sống có thể bị bỏ đi khi không cần
nữa. Nếu mọi tội lỗi có thể tha thứ được, con người
sẽ lợi dụng và càng làm nhiều tội hơn nữa. Người Phật
Tử không có lý do nào tin tưởng rằng kẻ có tội có thể
tránh được hậu quả nhờ ân huệ của một tha lực bên
ngoài. Nếu một người thọc tay vào lò lửa, tay sẽ bị phỏng,
và tất cả những lời cầu nguyện trên thế giới này cũng
không thể làm cho hết vết sẹo được. Cũng giống như vậy
với một con người bước vào ngọn lửa của hành động tội
lỗi. Đức Phật giải quyết vấn đề khổ đau không phải
bằng tưởng tượng, lý đoán hay siêu hình, nhưng là kinh
nghiệm thực tiễn. Theo Phật Giáo, không có điều gọi
là phạm tội như một số tôn giáo đã giải thích. Với người
Phật Tử, tội lỗi là một hành động vụng về hay bất
thiện - Nghiệp bất thiện tạo tội ác là hình thức suy sụp
của con người. Kẻ ác chỉ là một người ngu si. Kẻ đó
cần được dạy bảo hơn là cần đến hình phạt và lên
án. Kẻ đó không phải bị coi như dám vi phạm ý muốn của
thượng đế hay phải van xin thánh thần để được thương
hại và tha tội. Kẻ đó cần được hướng dẫn để tự
giải thoát. Điều cần thiết trên hết là phải
giúp kẻ đó biết sử dụng lý trí để hiểu y là người
chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hành động sai lầm
đã gây nên và phải trả hậu quả. Cho nên niềm tin vào sự
xin tội xa lạ với Phật Giáo. Đức Phật xuất hiện trong cõi
đời này không phải với mục đích để rửa sạch tội lỗi
gây ra bởi con người, cũng không phải để trừng trị hay
tiêu diệt kẻ ác, mà để làm cho ta hiểu ra được sự điên
đảo của ta trong khi phạm điều ác và nêu rõ tác động của
các hành vi tội lỗi ấy. Cho nên trong Phật Giáo không có
điều răn vì không ai có thể dạy bảo người khác về mặt
tự nâng cao tinh thần. Đức Phật khuyến khích con người
phát triển và sử dụng sự hiểu biết của mình. Ngài chỉ
cho chúng ta con đường thoát khổ. Giới luật mà chúng ta thọ
giữ không phải là những điều răn cấm: Giữ giới là tự
nguyện. Đức Phật dạy như sau: "Phải chánh niệm ;
hãy nhớ lời khuyên này và suy nghĩ thật kỹ về điều đó.
Nếu thấy r?ng lời dạy của Như Lai thích hợp cho sự tu tập
của mình thì hãy cố gắng thực hành lời khuyên đó. Bạn
có thể thấy kết quả do kinh nghiệm của chính bạn".
Đạo Giáo không có giá trị nếu chỉ mù quáng tuân theo điều
răn mà không nhận thức và hiểu biết thích đáng. Tuy
nhiên chúng ta không nên lợi dụng sự tự do trong Phật
Giáo để làm bất cứ điều gì ta ưa thích. Ta có bổn phận
hành xử như một con người có văn hóa, văn minh và hiểu
biết để sống một cuộc đời đạo hạnh. Nếu ta hiểu
được như vậy, điều răn không quan trọng. Là một đạo
sư giác ngộ, Đức Phật khuyên chúng ta làm sao sống một
cuộc đời thanh cao trong sạch mà không bị áp đặt bởi những
điều răn cấm và sự sợ hãi hình phạt. HÃY TỰ LÀM Tự tin giữ một phần quan trọng
trong mọi mặt của cuộc sống con người. Hiểu biết rằng không do nguyên
nhân bên ngoài, không do tín ngưỡng hay nghi thức mà có thể
cứu được mình, người Phật Tử thấy sự cần thiết phải
trông cậy vào chính nỗ lực của mình. Lòng tự tin của người
Phật Tử có được là do sự tin cậy nơi chính mình. Họ
hiểu rằng tất cả trách nhiệm trong kiếp sống hiện tại
cũng như tương lai hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào chính mình.
Mỗi người phải tự mình tìm sự giải thoát. Đạt giải
thoát có thể so sánh với sự chữa khỏi bệnh: Nếu bị bệnh
ta phải đi Bác Sĩ. Bác sĩ chẩn bệnh và cho toa thuốc. Thuốc
phải do chính bệnh nhân uống. Bệnh nhân không thể đề cử
một người khác nào đó uống thuốc thế cho mình. Không ai
có thể lành bệnh chỉ do chiêm ngưỡng thuốc hay tán dương
bác sĩ đã cho thuốc hay. Muốn khỏi bệnh, bệnh nhân phải
chân thành theo đúng lời chỉ dẫn của bác sĩ về cách thức
uống cũng như giờ khắc uống thuốc, kiêng cũ hàng ngày
và sự thận trọng trong việc dùng thuốc. Giống như vậy,
ta phải giữ giới luật, lời chỉ dẫn hay lời khuyên của
Đức Phật (cho toa thuốc giải thoát) bằng cách kiểm soát
hoặc khắc phục tham sân si của mình. Không ai có thể đạt
giải thoát bằng cách chỉ tụng kinh tán dương Đức Phật
hay dâng cúng lễ vật cho Ngài. Cũng không ai có thể tìm
được giải thoát bằng cách ca tụng Đức Phật vào một số
ngày lễ quan trọng để vinh danh ngài. Phật Giáo không phải
là một tôn giáo mà tín đồ có thể đạt giải thoát chỉ
bằng cầu nguyện hay van vái để được cứu độ. Phật Tử
phải tinh tấn, nỗ lực kiểm soát mọi tham dục và xúc cảm
ích kỷ của mình để đạt giải thoát. CON NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM MỌI
THỨ Khi ta biết sống như một con người
thực sự không làm quấy động kẻ khác, ta có thể sống
an lạc, không một điều gì sợ hãi trong tâm. Theo Đức Phật, chính ta là kẻ tạo
ra định mệnh của mình. Ta không thể đổ lỗi cho ai vì ta
hoàn toàn chịu trách nhiệm về kiếp sống của chính ta. Đời
ta có tốt hơn hay xấu hơn cũng là do ta làm ra. Đức Phật dạy: con người tạo
ra mọi thứ. Tất cả những đau buồn, nguy cơ và bất hạnh
đều do ta tự tạo ra. Chúng ta xuất thân không ngoài nguồn
gốc nào khác hơn là từ những lỗi lầm về tâm ý của
chúng ta. Chúng ta là kết quả của những hành động tốt
hay xấu trong quá khứ do ảnh hưởng của tham lam và mê mờ.
Và vì chúng ta đã biến chúng thành kiếp sống này nên cũng
bằng quyền lực của chính mình, chúng ta có thể vượt qua
những ảnh hưởng xấu và trau dồi bản tính tốt. Tâm con người, giống như tâm con
vật, đôi khi bị chi phối bởi thú tính. Nhưng không giống
như tâm thú vật, tâm con người có thể được rèn luyện
để có phẩm chất cao hơn. Nếu tâm con người không được
trau dồi đúng mức sẽ tạo ra rất nhiều khó khăn trong thế
giới này. Đôi khi cách hành xử của con người còn gây nhiều
thiệt hại và nhiều nguy hiểm hơn cả loài vật. Thú vật
không có vấn nạn về tôn giáo, ngôn ngữ, chính trị, xã hội
và đạo đức, không có vấn đề kỳ thị màu da. Chúng chỉ
chiến đấu vì miếng ăn, chỗ ẩn trú và dục tính. Nhưng
nhân loại thì đã tạo ra cả ngàn vấn đề. Cách hành xử
của con người là họ không thể giải quyết một vấn đề
gì mà không tạo ra những vấn đề mới. Con người không
chấp nhận yếu điểm của mình. Con người không muốn
gánh trách nhiệm của mình. Con người lúc nào cũng có thái
độ muốn đổ lỗi cho người khác về sự thất bại của
mình. Nếu chúng ta càng biết trách nhiệm về hành động của
mình nhiều hơn, chúng ta có thể duy trì hòa bình và hạnh
phúc. CON NGƯỜI LÀ CAI NGỤC CỦA CHÍNH
MÌNH Có sự thật nào không trong đòi
hỏi của con người muốn được tự do làm những gì mình
thích? Khi đề cập đến tự do, quả thật
là khó khăn để tìm xem con người có thực sự được tự
do làm những gì theo sở thích của mình hay không. Con người
bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện bên ngoài lẫn bên
trong: Họ được yêu cầu phải tuân hành những luật lệ
mà chính quyền đặt trên họ; họ phải gìn giữ một số
nguyên tắc về đạo giáo; họ phải cộng tác với điều
kiện tinh thần và xã hội trong xã hội mình sống; con người
phải theo một số tập tục và truyền thống quốc gia.
Trong xã hội tân tiến, con người có khuynh hướng bất đồng
với cuộc sống; con người được kỳ vọng là phải tuân
theo bằng cách phải hội nhập với lối sống hiện đại.
Họ bị buộc phải hợp tác với định luật thiên nhiên
và năng lượng vũ trụ, vì con người cũng là một phần của
năng luợng ấy. Con người phải lệ thuộc vào điều kiện
thời tiết và khí hậu trong vùng. Không những phải để ý
mạng sống của mình, hay vào các yếu tố vật chất, mà cũng
phải có quyết định kiểm soát những cảm xúc của chính
mình. Nói một cách khác, con người không có tự do để
nghĩ sao thì nghĩ vì con người bị áp đảo bởi những tư
tưởng mới có khả năng mâu thuẫn hay loại bỏ các tư tưởng
và nhận thức trước đó. Đồng thời, con người có thể
tin rằng phải vâng lời và làm theo ý muốn của Thượng Đế,
mà không theo ý muốn tự do của chính mình. Xét qua tất cả những điều kiện
thay đổi trên đã ràng buộc con người, chúng ta có thể hỏi:
"Có sự thật nào không khi con người đòi hỏi được
tự do làm những gì mình thích?" Tại sao con người phải bị câu
thúc chặt chẽ như vậy? Lý do vì có quá nhiều yếu tố bất
thiện khác nhau trong con người. Những mầm mống ấy rất
nguy hiểm và tai hại cho tất cả chúng sinh. Trong vài ngàn năm
qua, tất cả mọi tôn giáo đều cố gắng thuần hóa thái
độ khó tin cậy của con người và dạy con người làm sao
sống một cuộc đời cao thượng. Nhưng bất hạnh nhất là
con người vẫn chưa đáng tin cậy dù bên ngoài có thể tỏ
ra tốt lành. Họ vẫn tiếp tục che dấu những yếu tố tội
lỗi trong mình. Các yếu tố này không do từ những nguồn gốc
bên ngoài nhưng do chính con người tạo ra. Nếu những tiềm
năng bất thiện ấy do con người tạo ra thì chính họ phải
nỗ lực loại bỏ chúng sau khi nhận định được sự nguy
hiểm của chúng. Bất hạnh thay đa số con người lại độc
ác, xảo quyệt, tinh quái, vô ơn, bất khả tín, vô lương tâm.
Nếu con người được sống theo ý muốn tự do của mình
mà không biết điều độ và tự kiềm chế, đa số sẽ vi
phạm hòa bình và hạnh phúc của người dân vô tội. Cách
đối xử của con người có lẽ sẽ còn tệ hơn những chúng
sinh nguy hiểm. Do đó tôn giáo cần thiết để huấn luyện
con người sống một cuộc đời đáng kính, an lạc và hạnh
phúc ngay đây và sau này. Một trở ngại khác đương đầu
với đời sống tôn giáo và tiến bộ tinh thần là tính
kiêu căng về chủng tộc. Đức Phật khuyên các đệ tử của
Ngài không nên khai thác bất kỳ vấn đề chủng tộc nào
khi hành đạo. Người Phật Tử được học cách dìm đi dòng
giống nguồn gốc, giai tầng xã hội hay óc phân biệt giai cấp
của mình. Tín đồ của tất cả tôn giáo không nên kỳ thị
một cộng đồng tôn giáo nào khác bằng cách tuyên truyền
đường lối riêng của mình. Họ nên đối xử với nhau bình
đẳng, nhất là trong lãnh vực tôn giáo. Bất hạnh thay tín
đồ của nhiều đạo giáo đã tạo nhiều kỳ thị và thù
địch với các nhóm tôn giáo khác khi hành hoạt tôn giáo của
mình. Trong khi làm việc với người khác,
không nên quấy động họ bằng những cái được gọi là
truyền thống và tập tục của mình. Ta có thể vẫn theo
truyền thống và tập tục trong khi giữ nguyên tắc đạo giáo
và quy tắc đạo đức của tôn giáo mình. Tính kiêu mạn về chủng tộc là
một chướng ngại lớn cho tôn giáo và tiến bộ tinh thần.
Có lần Đức Phật đã dùng thí dụ nước đại dương để
minh họa cho sự hòa hợp mà con người có thể thực hiện
được nếu biết quẳng đi lòng tự hào chủng tộc: Có nhiều
dòng sông khác nhau mang nhiều tên khác nhau. Nước của dòng
sông nào thì cũng chảy ra biển và trở thành nước đại
dương. Tương tự như vậy, tất cả những người dù từ
các cộng đồng và giai cấp khác nhau, phải quên đi những
dị biệt, và tự nghĩ mình cũng chỉ là những con người mà
thôi. TỰ BẢO VỆ "Bảo
vệ mình là bảo vệ người khác"
Một lần Đức Thế Tôn kể với chư tăng câu chuyện như
sau: "Có một cặp nghệ sĩ làm
trò nhào lộn trên một cọc tre. Một hôm, thầy bảo trò:
"Hãy trèo lên vai ta và trèo lên cọc tre". Khi trò đã
làm xong, thầy nói: Bây giờ con hãy bảo vệ ta cho kỹ và
ta sẽ bảo vệ cho con. Bằng cách canh chừng lẫn nhau chúng
ta có thể trổ hết tài năng, sẽ rất có lợi và con có thể
từ cọc tre xuống an toàn". Nhưng trò đáp: "Không
được đâu thưa sư phụ. Sư phụ phải tự bảo vệ lấy,
và con cũng phải tự bảo vệ cho con. Tự bảo vệ và tự
canh chừng chúng ta mới an toàn thi triển tài nhào lộn được". "Đúng phải như vậy", Đấng
Thế Tôn nói và tiếp như sau: "Đúng như lời trò nói: Tôi
sẽ tự bảo vệ lấy", phải thực tập chánh niệm (Tứ
Niệm Xứ ) bằng cách ấy. "Tôi sẽ bảo vệ người khác",
phải thực tập chánh niệm bằng cách ấy. Bảo vệ mình
là bảo vệ người khác; bảo vệ người khác là bảo vệ
mình. "Và làm thế nào một người
trong khi bảo vệ mình là bảo vệ người khác? Bằng cách
luôn luôn và thường xuyên tu tập thiền định. "Và làm thế nào một người,
nhờ bảo vệ người khác lại là bảo vệ mình? Bằng nhẫn
nại và chịu đựng, bằng bất bạo động và sống lương
thiện, bằng từ-ái và từ bi" (Satipatthanam Samyutta, Câu
19) "Bảo vệ mình là bảo vệ người
khác" Hai câu này bổ túc nghĩa cho nhau
và không nên tách rời hay trích dẫn riêng rẽ. Ngày nay, khi quá đa đoan công tác
xã hội người ta có khuynh hướng chỉ trích dẫn câu thứ
hai để hỗ trợ cho ý kiến của mình. Nhưng trích dẫn một
chiều như thế sẽ bóp méo lời dạy của Đức Phật. Phải
nhớ là trong câu chuyện trên đây, Đức Phật chấp nhận lời
của trò, đó là ta phải cẩn thận canh chừng bước đi của
chính mình nếu muốn bảo vệ người khác khỏi bị hại. Kẻ
nào tự dẫm vào bùn lầy, không thể giúp người khác
thoát ra được. Trong nghĩa ấy, tự bảo vệ không có nghĩa
là bảo vệ có tính cách ích kỷ. Đó là sự trau dồi sự
tự kiểm điểm, và sự tự phát triển đạo đức và tinh
thần. Bảo vệ mình là bảo vệ người
khác - sự thật của câu này bắt đầu ở mặt đơn giản
và thực tiễn. Về mặt vật chất, sự thật này tự nó
quá rõ rệt mà chúng ta chỉ cần nói không ngoài một ít lời.
Hiển nhiên sự bảo vệ sức khỏe của ta sẽ là sự bảo
vệ sức khỏe cho môi trường kề cận hay môi trường rộng
hơn, nhất là nơi có những bệnh truyền nhiễm. Sự chú ý
và thận trọng trong tất cả những việc làm và hoạt động
của chúng ta sẽ bảo vệ người khác khỏi bị hại do sự
cẩu thả và chểnh mảng của chúng ta. Thận trọng khi lái
xe, không uống rượu, tự kiềm chế trong trường hợp có
thể dẫn đến bạo động, bằng tất cả những điều trên
đây và nhiều phương cách khác nữa, chúng ta bảo vệ người
khác bằng cách bảo vệ mình. Bây giờ chúng ta bước sang mặt
đạo đức về sự thật này. Tự bảo vệ phẩm hạnh sẽ
bảo vệ người khác, cá nhân và xã hội, chống lại những
say mê phóng dật và những thôi thúc ích kỷ của chính
mình. Nếu ta để Ba Gốc Rễ của tội lỗi, Tham, Sân và
Si, mọc sâu trong tâm chúng ta, những gì nẩy mầm từ gốc
rễ tội lỗi này sẽ lan tràn khắp nơi giống như rừng cây
leo bóp nghẹt và giết chết những mầm tốt và cao quý. Nhưng
nếu chúng ta tự bảo vệ chúng ta chống lại Ba Gốc Rễ Tội
Lỗi, người đồng loại sẽ được bảo vệ tránh khỏi
cái tham lam liều lĩnh để có của cải và quyền lực, cái
thèm khát và nhục dục, cái đố kỵ và ghen ghét của
chúng ta. Họ sẽ tránh khỏi những hậu quả xâu xé, hay cả
đến bị phá hoại và tàn sát do sân hận và thù nghịch,
tránh khỏi những cơn giận nẩy lửa, khỏi bầu không khí
tranh chấp và gây hấn lan tràn làm cho những người chung
quanh không thể chịu đựng nổi. Nhưng những hậu quả tai
hại của lòng tham và sân hận với người khác không chỉ
giới hạn trong trường hợp họ trở thành đối tượng hay
nạn nhân của sân hận, hoặc do lòng tham muốn những gì họ
có. Tham và sân với sức mạnh truyền nhiễm độc có thể
nhân lên gấp bội hậu quả tội lỗi. Nếu tự chúng ta chẳng
nghĩ gì ngoài tham dục và bám níu, tạo tác và chiếm hữu,
nắm giữ và ôm ấp, là chúng ta có thể khơi dậy hay làm tăng
trưởng bản năng sở hữu này nơi người khác. Gương xấu
của ta sẽ trở thành cách hành xử mẫu mực cho môi trường
chung quanh chẳng hạn như con cái, đồng nghiệp vân vân... Hạnh
kiểm của ta có thể xui khiến người khác rập theo trong việc
thỏa mãn thuờng tình lòng khao khát tham lam; hay ta có thể
sanh khởi ý nghĩ oán giận và tranh đua với người muốn
hơn thua với ta. Nếu ta đầy nhục dục, ta có thể khơi dậy
ngọn lửa thú tính nơi người khác. Sân hận của ta có thể
gây sân hận và trả thù nơi người khác và biết đâu cũng
có khả năng liên kết với người khác hay xúi bẩy họ
vào những hành động oán ghét và thù nghịch. LÀM THẾ NÀO ĐỂ TỰ CỨU MÌNH? Chính ta mới là vị cứu rỗi của
ta, để làm gì nếu có vị cứu rỗi khác? Lúc Đức Phật sắp nhập Niết Bàn,
các đệ tử từ bốn phương xa gần, tấp nập về với Ngài.
Trong khi các bạn đồng môn luôn luôn túc trực bên cạnh
Ngài và rất đau buồn vì sắp mất vị Bổn Sư, một thầy
tỳ kheo tên Attadatta lại rút về tịnh thất và chuyên cần
hành thiền. Những vị tỳ kheo kia nghĩ rằng sư Attadatta không
quan tâm gì đến việc chăm sóc Đức Phật, nên bất bình
và báo cáo sự việc lên Ngài. Sư Attadatta mới thưa như
sau: "Bạch Đức Thế Tôn, vì Ngài sắp nhập diệt, nên
con nghĩ rằng cách tốt nhất để tỏ lòng tôn kính Ngài
là đạt được đạo quả A La Hán lúc Ngài con hiện tiền
". Đức Phật ngợi khen thái độ và phẩm hạnh của vị
tỳ kheo này và dạy ta không nên từ bỏ lợi ích tinh thần
của chính mình vì mải lo cho lợi ích của người khác. Câu chuyện này đã nêu lên được
một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong của Đạo
Phật. Ta phải luôn luôn giác tỉnh để tự giải thoát khỏi
Luân Hồi, và sự cứu thoát này phải do chính cá nhân
mình. Ta không thể trông cậy vào bất cứ một sức mạnh
hay tác động nào từ bên ngoài để giúp ta đạt được Niết
Bàn. Người không học Phật thường
hay chỉ trích quan niệm này, và cho Đạo Phật là một tôn
giáo ích kỷ, chỉ thuyết về sự quan tâm giải thoát khỏi
khổ đau và phiền não của riêng mình. Điều này không đúng
chút nào cả. Đức Phật tuyên bố rành mạch là người Phật
Tử không ngừng làm việc vì phúc lợi tinh thần và vật chất
cho tất cả chúng sinh, đồng thời chuyên cần theo đuổi mục
đích đạt Niết Bàn của mình. Đức Phật luôn luôn đề
cao sự phục vụ vị tha. Lại nữa, người không hiểu Đạo
Phật có thể hỏi: "Có thể là đúng đối với một số
người may mắn, có đầy đủ súc mạnh tinh thần, tìm Niết
Bàn bằng chính nỗ lực của mình. Nhưng với những người
mà tinh thần và thân thể hay cả vật chất bị khiếm khuyết
thì sao? Làm sao họ có thể tự tin được? Họ có cần sự
giúp đỡ của một oai lực bên ngoài như Thượng Đế hay
chư thiên phù hộ cho họ không? " Câu trả lời là người Phật Tử
không tin là sự giải thoát cuối cùng nhất thiết phải đạt
được ngay trong kiếp này. Tiến trình có thể mất một thời
gian dài, trải qua nhiều kiếp sống. Ta phải tự trau dồi với
tất cả khả năng tốt đẹp, và từ từ phát triển sức mạnh
của tự tin. Cho nên, cả đến những người bị tật nguyền
về tâm linh, tinh thần và vật chất cũng phải cố gắng dù
là rất ít để bắt đầu vào tiến trình giải thoát này. Một khi bánh xe đã được khơi
động, cá nhân dần dần tự mình trau dồi để phát triển
sức mạnh của lòng tự tin. Một quả sồi nhỏ bé một
ngày nào đó sẽ trở thành một cây sồi to lớn nhưng đâu
phải chỉ qua một đêm. Kiên nhẫn là chất liệu thiết yếu
trong tiến hành khó khăn này. Thí dụ, do kinh nghiệm chúng ta biết
nhiều bậc cha mẹ đem hết khả năng mình làm mọi việc để
nuôi nấng con cái theo hy vọng và hoài bão của mình. Nhưng
khi những đứa con đó lớn lên, chúng phát triển theo đường
lối riêng của chúng, không nhất thiết phải theo con đuờng
mà cha mẹ chúng muốn. Theo Phật Giáo, trong khi người khác
có thể tạo ảnh hưởng đến đến đời sống một cá
nhân nào đó, nhưng cuối cùng cá nhân vẫn tạo Nghiệp
riêng của mình và chịu trách nhiệm những hành động của
chính mình. Trong lý giải cuối cùng, không con người hay
chư thiên nào có thể điều khiển, hay kiểm soát sự đạt
giải thoát tối hậu của một cá nhân. Đó là ý nghĩa của
sự tự nương tựa. Điều này không có nghĩa là Phật
Giáo dạy con người ích kỷ. Theo Đạo Phật, khi một người
với nỗ lực của chính mình tìm cách đạt Niết Bàn, người
đó đã quyết định không giết, ăn cắp, nói dối, tham
lam, hay không kiểm soát được giác quan do ma túy độc dược.
Khi người đó tự kiểm soát lấy mình được, tự động
người đó đã góp phần vào hạnh phúc của người khác.
Cho nên cái gọi là "ích kỷ" đó không phải là điều
thiện cho phúc lợi của người khác sao? Ở một mức độ thế tục hơn nữa,
người ta đã hỏi làm thế nào các dạng thức thấp kém của
sự sống có thể tự vượt thoát ra được khỏi chu kỳ vô
nghĩa của sự hiện hữu. Chắc chắn trong trạng thái không
nơi nương tựa ấy, phải cần đến một sức mạnh từ thiện
bên ngoài để kéo chúng sinh bất hạnh kia ra khỏi cát lún.
Để trả lời câu hỏi này, ta cần phải nhắc đến kiến
thức về thuyết tiến hóa. Thuyết này nói rõ ràng sự sống
bắt đầu từ những dạng thức rất thô sơ - không hơn một
tế bào nổi trong nước. Cả trên triệu triệu năm qua, những
dạng thức sống căn bản này tiến triển và trở thành phức
tạp hơn, thông minh hơn. Do mức độ thông minh hơn, các dạng
thức sống đó có khả năng tổ chức, có tư tưởng độc
lập, có hình thành khái niệm vân vân ... Khi người Phật Tử nói về khả
năng tự cứu, họ muốn nhắc đến dạng thức sống ở mức
độ cao của sự phát triển tinh thần. Trong những giai đoạn
đầu của sự tiến hóa, sức mạnh của nghiệp và tinh thần
hãy còn ở trong trạng thái bất động, nhưng qua không biết
bao nhiêu lần tái sanh, một chúng sinh sẽ tự mình phát triển
đến mức có tư tưởng độc lập, có khả năng biết đối
xử theo lý trí hơn là theo bản năng. Ở giai đoạn này
chúng sinh ấy nhận thức được sự vô nghĩa của việc phải
lăn trôi bao tái sanh vô tận gắn liền với bao đau đớn và
phiền não. Chúng sinh đó có khả năng quyết định chấm dứt
tái sanh và tìm hạnh phúc thực sự bằng cách đạt giác ngộ
và Niết Bàn. Với mức độ cao của trí thông minh, đương
nhiên một cá nhân có đủ khả năng để tự cải tiến và
tự phát triển. Tất cả chúng ta đều biết rằng
con người sanh ra ở rất nhiều mức độ khác nhau về trí
thông minh và năng lực lý luận. Một số sanh ra như thần
đồng, trong khi một số khác ở cuối đầu bên kia, trí
thông minh lại rất thấp kém. Tuy nhiên mọi chúng sinh đều
có khả năng phân biệt giữa những sự lựa chọn hay tùy
thích, nhất là về vấn đề sống còn. Nếu chúng ta mở rộng
sự kiện sống còn ra thế giới loài vật, chúng ta có thể
phân biệt con vật nào thấp hay cao cấp hơn với cùng một
bản năng này (ở nhiều mức độ khác nhau) để chọn lựa
hầu được sinh tồn. Vì lý do đó, cả đến một dạng
thức sống thấp kém cũng có tiềm năng để tạo Nghiệp tốt,
tuy nhiên bị giới hạn ở tầm xa. Do tinh tấn phát huy và sự
tăng trưởng lần lần nghiệp tốt, một chúng sanh tự mình
có thể nâng cao mức sống và hiểu biết. Nhìn vấn đề ở một góc độ
khác, chúng ta có thể d?a vào một trong những tích chuyện
đầu tiên cho thấy Đức Phật-Sẽ-Thành (Bồ Tát) hạ quyết
tâm tiên khởi như thế nào để phấn đấu đạt Giác Ngộ.
Trong rất nhiều kiếp trước khi sanh ra là Tất Đạt Đa, Ngài
sanh ra là một con người bình thường. Một hôm khi Bồ Tát cùng với mẹ
đi trên một chiếc thuyền, một cơn bão lớn nổi lên, lật
úp con thuyền, và quăng tất cả những người trên thuyền
xuống biển dữ. Không nghĩ gì về sự an toàn cho
chính mình, Đức Phật tương lai cõng mẹ trên lưng và cố
gắng bơi vào bờ. Nhưng trước mặt Ngài, mặt nước mênh
mông, Ngài không biết phải đi hướng nào. Trong khi Ngài
đang trong tình thế lưỡng nan không biết phải quay về huớng
nào thì sự can đảm của Ngài đã thấu đến một chư thiên.
Vị này không thể thị hiện để giúp đỡ Ngài, nhưng
cũng có thể làm cho Đức Phật tương lai biết hướng nào
phải đi. Chàng thanh niên (Bồ Tát) theo lời chư thiên này
cùng mẹ đã thoát hiểm. Nơi ấy và lúc ấy Ngài đã quyết
tâm nhất quyết không nghỉ ngơi cho đến cuối cùng khi nào
đạt được Giác Ngộ. Câu chuyện trên đây nêu rõ một
sự kiện là các Phật Tử có thể tìm và được sự giúp
đỡ của chư thiên trong đời sống hàng ngày. Một vị chư
thiên là một chúng sinh do đức hạnh đã tạo được công
đức cao cả (như vua của các vị trời) được sanh ra có
thần thông để giúp đỡ chúng sanh khác. Nhưng năng lực này
chỉ giới hạn về vật chất và thể chất. Trong cuộc sống
hàng ngày ta có thể tìm sự giúp đỡ của chư thiên (khi bị
bất hạnh, khi cần được yên tâm, khi bị đau yếu hay sợ
hãi vân vân...) Sự kiện con người tìm sự giúp
đỡ của chư thiên có nghĩa là ta vẫn còn ràng buộc với
thế giới vật chất. Phải chấp nhận sự kiện là khi được
sanh ra ta đã lệ thuộc vào các ham muốn nhu cầu về vật
chất. Và không có gì sai quấy trong việc thỏa mãn những
nhu cầu ấy trong một phạm vi giới hạn. Khi Đức Phật chủ
trương Trung Đạo, Ngài dạy không nên tự say đắm vào xa
hoa và cũng chẳng nên tự chối bỏ hoàn toàn những nhu cầu
căn bản cho đời sống. Tuy nhiên ta không nên dừng tại
đấy. Trong khi ta chấp nhận những điều kiện của kiếp
nhân sinh, ta cũng phải hết sức cố gắng, tu tập theo Bát
Chánh Đạo, tiến đến mức độ phát triển để có thể
chứng nghiệm được rằng luyến ái vào thế giới vật chất
này chỉ tạo đau đớn và phiền não. Nhờ mở mang sự hiểu biết qua
bao lần sanh không kể siết, nên càng ngày ta càng giảm thiểu
tham đắm về những lạc thú của giác quan. Ở giai đoạn này
ta thực sự tin cậy vào chính mình. Tại giai đoạn này các
chư thiên không còn thể giúp ta được nữa, vì ta không
còn tìm cầu để thỏa mãn nhu cầu vật chất của ta. Người Phật Tử khi đã hiểu biết
bản chất phù du của thế giới sẽ tu tập để buông bỏ
những lợi ích vật chất. Đương nhân không còn bám níu
vào lợi ích trần tục, cho nên họ chia sẻ những lợi ích
cho những người bất hạnh hơn mình - người đó tu tập hạnh
bố thí cúng dường. Bằng đường lối như vậy, họ lại
đóng góp vào phúc lợi của người khác. Khi Đức Phật đạt Giác Ngộ do
kết quả những nỗ lực của chính Ngài, Ngài không ích kỷ
giữ kiến thức này cho riêng mình. Hơn thế Ngài đã phổ
biến tiến trình của Ngài trong 45 năm không những cho con người
mà còn cho cả cho chư thiên. Điều này là một thí dụ quan
trọng nhất trong Phật Giáo về lòng vị tha và sự quan tâm
cho hạnh phúc của tất cả chúng sanh. Ta thường nói Đức Phật giúp đỡ
người trong cơn khổ nạn không phải bằng thần thông phép
lạ như làm người chết sống lại vân vân..., nhưng bằng
những hành động trí tuệ và từ bi của Ngài. Trong một dịp, một phụ nữ có
tên là Kisa Gotami tìm đến Đức Phật yêu cầu Ngài cứu sống
đứa con của bà mới chết. Biết không thể lý luận với
bà ta vì bà đang tuyệt vọng và phiền muộn, Đức Phật bảo
bà ta hãy đi kiếm một nắm hạt cải của một người
chưa từng có người thân nào chết cả. Người đàn bà quẫn
trí này chạy hết nhà này đến nhà khác, và ai ai cũng muốn
cho bà hạt cải nhưng chẳng ai có dám nói là mình không có
người thân nào đó đã bị chết. Thế rồi Kisa Gotami mới
tự hiểu được cái chết là chuyện sẩy ra tự nhiên cho tất
cả chúng sinh đã sanh ra làm người. Hiểu thấu, bà ta quay trở lại với
Đức Phật và cảm ơn Ngài đã dạy cho bà biết sự thật
của cái chết. Điểm đáng nêu ở đây là Đức
Phật quan tâm nhiều đến sự hiểu biết của người đàn
bà về bản chất của cuộc đời hơn là làm cho bà ta vơi
đi nỗi buồn đau tạm thời bằng cách cứu sống lại đứa
con cho bà - đứa trẻ lớn lên, già và rồi cũng chết. Với
sự nhận định thông suốt, Kisa Gotami không những có thể
hiểu biết hiện tượng của cái chết mà còn biết được
nguyên nhân của phiền não do luyến ái. Bà ta có thể hiểu
luyến ái gây phiền não, và khi luyến ái bị tiêu diệt
thì phiền não cũng chấm dứt. Cho nên trong Phật Giáo, một người
có thể tìm sự hỗ trợ của những tác nhân bên ngoài (như
chư thiên) trong việc mưu tìm hạnh phúc tạm bợ, nhưng vào
những giai đoạn phát triển sau đó, khi tâm bám níu vào
các điều kiện thế gian chấm dứt, sẽ khởi đầu con đường
từ bỏ thế tục và giác ngộ mà đương nhân phải tự độ.
Khi một người tìm giải thoát để phá vỡ vòng sanh tử hầu
đạt sự nhận thức và giác ngộ, người đó chỉ làm được
bằng nỗ lực của chính mình, bằng sự tập trung sức mạnh
ý chí của chính mình. Phật Giáo cho con người phẩm giá
vĩ đại. Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất cho rằng con
người có sức mạnh để giúp đỡ và giải thoát chính
mình. Trong những giai đoạn kế phát triển tiếp theo, con người
không phải chịu quyền lực của bất cứ một sức mạnh
hay một tác nhân bên ngoài nào mà họ phải làm vừa lòng bằng
hình thức thờ phượng hay dâng cúng tế vật. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09 | 10
| 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Không phải vì sợ Ngài, hay muốn nổi danh
Không phải như mưa đá từ mặt trời vận chuyển
Không phải mong đạt kiến thức rộng sanh
Nhưng là do sức mạnh của tình thương không ngăn cách
Ở nơi Ngài tầm mắt vô song bao quát
Cho con an toàn vượt qua biển Luân Hồi
Con đệ đầu, Bạch Đức Thế Tôn, ccn xin thành kẻ theo
Ngài ".
"Bảo vệ người khác là bảo vệ mình"
"Bảo vệ người khác là bảo vệ mình"
Chỉ khi bản thân khéo biết tu tập, mới giải quyết được
vấn đề tìm vị cứu rỗi bên ngoài.
-- (Kinh Pháp Cú, Câu 166)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001