BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe PHẦN IV ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI Chương 11 ĐỜI
SỐNG VÀ VĂN HÓA -ooOoo- TRUYỀN THỐNG, TẬP TỤC VÀ HỘI
HÈ Đạo Phật không có thành kiến với
các truyền thống và tập tục nếu những điều này không
hại đến phúc lợi của người khác.
Đức Phật khuyên ta không nên
đơn giản tin vào điều gì chỉ vì điều đó có từ tập
tục truyền thống. Tuy nhiên, ta cũng không được khuyến bảo
là hãy chối bỏ ngay tất cả các truyền thống. "Bạn
phải cố gắng thử nghiệm với những tập tục và thông
qua bằng cách khảo sát phẩm chất của chúng. Chỉ khi
chúng tỏ ra hữu lý và đem đến hạnh phúc vừa cho bạn vừa
lợi lạc cho người khác, bạn mới nên chấp nhận và thực
hành các truyền thống và tập tục này (Kinh Kalama). Chắc
chắn đây là một lời tuyên bố phóng khoáng nhất chưa từng
thấy ở bất cứ một đạo sư tôn giáo nào. Thái độ bao
dung đối với mọi truyền thống và tập tục ngoại đạo
này cũng không thấy nơi các tín đồ tôn giáo khác. Những
tín đồ khác này thường khuyên những ai mới nhập đạo mình
bỏ ngay tất cả những truyền thống, tập tục văn hóa của
họ mà không cần xét xem chúng tốt hay xấu. Trong khi giảng
dạy Giáo Pháp, những nhà truyền bá Đạo Phật không bao giờ
khuyến cáo dân chúng bỏ mất những truyền thống của họ
nếu những truyền thống này còn hợp lý. Những tập tục
và truyền thống phải ở trong phạm vi nguyên tắc đạo hạnh.
Nói một cách khác, ta không nên vi phạm giới luật để giữ
đúng truyền thống của mình. Nếu ta cố tình tuân thủ những
truyền thống riêng tư không có một giá trị đạo hạnh nào
cả thì tuy vẫn có thể thực thi nhưng đó không phải được
thực thi dưới danh nghĩa tôn giáo. Cho dù như vậy đi nữa
những hình thức tập tục như vậy phải vô hại cho chính
mình và cho tất cả các chúng sinh khác. NGHI THỨC VÀ NGHI LỀ Nghi thức và nghi lễ nằm trong phạm
vi tập tục và truyền thống. Nghi thức và nghi lễ tựa như
là sự trang hoàng hay trang trí để làm đẹp tôn giáo hầu
lôi cuốn đại chúng. Nghi thức và nghi lễ có ích cho một
số người về mặt tâm lý. Nhưng ta có thể hành đạo mà
không cần nghi thức và nghi lễ nào cả. Một số nghi thức
và nghi lễ được người khác coi như khía cạnh quan trọng
nhất về tôn giáo của họ để cứu độ nhưng Phật Giáo
lại không quan niệm như vậy. Theo Đức Phật, ta không nên
bị dính mắc vào những hình thức hành trì như thế trong
bước đường mở mang tinh thần hay thanh lọc tâm ý của
mình. LỀ HỘI Người Phật Tử thuần thành và
chân chính không tham dự các lễ hội để giải trí bằng rượu
chè và các trò vui hay tiệc tùng bằng cách giết hại thú vật.
Người Phật Tử chân chính tham dự các ngày lễ hội theo một
cung cách hoàn toàn khác biệt. Họ dành thì giờ vào một
ngày lễ vía đặc biệt nào đó để kiêng tránh mọi điều
bất thiện. Họ làm việc phước thiện và giúp đỡ người
khác giảm bớt khổ đau. Họ có thể chiêu đãi bè bạn và
người thân trong gia đình bằng một phương cách tương kính
. Lễ lạc sát nhập với đạo giáo
đôi khi có thể làm ô nhiễm sự thanh tịnh của tôn giáo.
Mặt khác một tôn giáo không có lễ hội có thể trở nên
tẻ nhạt, thiếu sống động đối với nhiều người. Thường
thường nhờ qua hội hè lễ lạc mà các em nhỏ và các thiếu
niên đến với tôn giáo. Với giới trẻ, sự lôi cuốn của
một tôn giáo được căn cứ vào các lễ hội.Tuy nhiên đối
với người hành thiền, thì hội hè trở thành mối phiền
toái khó chịu. Đương nhiên cũng có một số người
không hài lòng nếu các lễ hội chỉ cử hành các nghi thức
tôn giáo không thôi. Thông thường họ thích có những loại
vui chơi và các màn trình diễn hướng ngoại. Nghi thức,
nghi lễ, các buổi lễ, diễn hành, và hội hè được tổ
chức để đáp ứng khát vọng thỏa mãn xúc cảm qua tôn
giáo. Không một ai có thể nói những hình thức thực hành
như vậy là sai, nhưng người Phật Tử thuần thành phải biết
tổ chức các cuộc lễ một cách có văn hóa mà không gây
khó chịu hay phiền toái cho người khác. PHẬT GIÁO VÀ PHÁI NỮ Ngay cả một em bé gái cũng có thể
chứng minh là tốt hơn một bé trai. Địa vị của người đàn bà
trong Phật Giáo thật là độc đáo. Đức Phật cho phái nữ
hoàn toàn được tự do gia nhập đời sống phạm hạnh. Đức
Phật là vị Đạo Sư Tôn Giáo duy nhất cho đàn bà sự tự
do tôn giáo. Trước thời Đức Phật, bổn phận nữ giới bị
giới hạn chỉ trong việc bếp núc; nữ phái không được
phép vào bất cứ một ngôi chùa nào, hay đọc bất cứ bài
kinh nào. Trong thời Đức Phật, địa vị của phái nữ
trong xã hội ở vào mức rất thấp kém. Đức Phật đã bị
công kích bởi các tổ chức đang thịnh hành khi Ngài dành tự
do cho phái nữ. Sự cải cách của Ngài cho phép nữ phái gia
nhập Đoàn Thể Thánh Thiện quả là hết sức cấp tiến
vào thời đó. Ngài còn cho phép nữ phái tự chứng minh cho
thấy đàn bà cũng có khả năng như đàn ông để đạt được
đạo quả A La Hán, địa vị cao nhất trong đời sống tôn
giáo. Mỗi nữ nhân trên thế giới phải tri ân Đức Phật
vì Ngài đã cho họ thấy cách sống đạo hạnh thực sự và
cho họ sự tự do lần đầu tiên trong lịch sử thế giới. Những lời nói của Mara sau đây đã minh họa về thái độ
coi thường khá phổ biến đối với phụ nữ thời Đức Phật
hiện tiền: "Với trí tuệ nông cạn,
không có đàn bà nào có thể hy vọng tiến tới đỉnh cao mà
chỉ có các bậc hiền triết mới đạt được thôi" Chắc chắn Đức Phật đã triệt để chống lại thái độ
như vậy. Vị tỳ kheo ni mà Mara đưa ra những lời trên đây
đã đáp lại như sau: "Khi tâm được định tỉnh vững
vàng, trí tuệ chắc chắn phải đạt, thì làm đàn bà có
khác gì đâu? Hoàng Đế Kosola rất thất vọng
khi được biết Hoàng Hậu sanh con gái trong khi Ngài mong mỏi
có con trai. Để an ủi nhà Vua, Đức Phật nói: "Tâu Hoàng Thượng, Bé Gái
nhỏ này có thể chứng minh Đức Phật xác nhận là người
đàn bà cũng rất khôn ngoan và không phải chỉ đàn ông mới
khôn ngoan. Ngày nay có nhiều nhà tôn giáo
thích tuyên bố là tôn giáo của họ cho nam nữ bình quyền.
Chúng ta chỉ cần nhìn vào thế giới ngày nay chung quanh
chúng ta, chúng ta sẽ thấy địa vị của phụ nữ trong xã
hội. Hầu như phụ nữ không được bình quyền và vẫn bị
kỳ thị trong nhiều lãnh vực và thường vẫn bị lạm dụng
trong nhiều hình thức tinh tế. Ngay cả tại các quốc gia
tây phương, những phụ nữ như các hội đòi quyền bầu cử
phải tranh đấu hết sức cam go cho quyền lợi của họ.
Theo Phật Giáo, không thể nào bào chữa cho việc coi phự nữ
là hạ đẳng. Chính Đức Phật cũng sanh ra nhiều lần là
phự nữ trong những tiền kiếp luân hồi của Ngài, và dù
là phái nữ Ngài vẫn phát triển những phẩm cách cao thượng,
và trí tuệ cho đến khi Ngài đạt Giác Ngộ và Phật Quả. PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ Đức Phật đã vượt ra khỏi mọi
vấn đề thế tục, nhưng Ngài vẫn có lời khuyên về việc
lãnh đạo chính quyền. Đức Phật thuộc dòng dõi giai cấp
lãnh đạo đương nhiên có liên hệ với các bậc vua chúa,
hoàng tử, và đại thần. Mặc dù mối liên hệ và giao tiếp
đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy chính
trị để quảng bá giáo lý của Ngài; Ngài cũng không cho
phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền
chính trị. Nhưng ngày nay, nhiều chính trị gia cố gắng
lôi kéo danh nghĩa Đức Phật vào chính trị bằng cách giới
thiệu Ngài là cộng sản, là tư bản, hay cả đến là người
ủng hộ chủ nghĩa đế quốc nữa. Họ quên rằng triết
lý chính trị mới mà chúng ta được biết thực ra chỉ phát
triển ở Âu Tây một thời gian lâu sau thời Đức Phật. Những
ai cố gắng sử dụng danh nghĩa của Đức Phật cho lợi
ích cá nhân của mình cần phải nhớ rằng Đức Phật là bậc
Đại Giác đã vượt ra khỏi tất cả những liên quan thế
tục. Có một vấn đề cố hữu là người
ta hay đem trộn lẫn tôn giáo vào chính trị. Căn bản của
tôn giáo là đạo đức, thanh tịnh và đức tin, trong khi
căn bản của chính trị là quyền thế. Theo dòng lịch sử,
tôn giáo thường được sử dụng để hợp pháp hóa những
người đang nắm quyền hành và sự thi hành quyền lực ấy.
Tôn giáo đã được dùng để biện minh cho chiến tranh, xâm
lược, khủng bố, nổi loạn, phá hoại tác phẩm mỹ thuật
và văn hóa. Khi tôn giáo được sử dụng để
thỏa mãn ý đồ chính trị, tôn giáo phải đi trước những
lý tưởng đạo đức cao cả và trở nên mất giá trị bởi
những yêu cầu chính trị trần tục. Sức đẩy của Phật Pháp không
phải nhằm vào việc tạo lập các thể chế chính trị mới
và các cuộc cải tổ chính trị. Phật Pháp căn bản tìm
cách giải quyết các khó khăn của xã hội bằng cách cải
tạo chính những con người thành lập xã hội ấy và bằng
cách đề nghị một số nguyên tắc tổng quát để xã hội
được hướng dẫn tới tinh thần nhân cao cả hơn, để cải
tiến phúc lợi cho thành viên, và chia sẻ tài nguyên công bằng
hơn. Thể chế chính trị chỉ có một
giới hạn nào đó trong việc bảo toàn hạnh phúc và sự thịnh
vượng của người dân. Không có một hệ thống chính trị
nào, dù có vẻ lý tưởng đến đâu đi nữa lại có có thể
mang thực sự hòa bình và hạnh phúc chừng nào mà con người
trong đó còn bị chi phối bởi tham, sân và si. Hơn nữa, dù
áp dụng thể chế chính trị nào đi nữa, vẫn có những yếu
tố chung nhất mà thành viên của xã hội ấy phải kinh nghiệm:
đó là kết quả của thiện nghiệp và ác nghiệp, là không
thể có sự toại nguyện thực sự hay hạnh phúc trường cửu
trong cái thế giới có đặc tính khổ đau, vô thường, và
vô ngã này. Với người Phật Tử, không nơi đâu trong cõi
Luân Hồi này có được tự do thực sự, ngay cả trên
thiên đường hay thế giới của Phạm Thiên. Mặc dù một hệ thống chính trị
tốt và công bằng bảo đảm được nhân quyền căn bản,
bao hàm sự hạn chế và quân bình trong việc sử dụng quyền
lực là một điều kiện quan trọng cho đời sống hạnh phúc
trong xã hội, người ta không nên lãng phí thì giờ vào sự
tìm kiếm bất tận một hệ thống chính trị chủ yếu mà
con người có thể hoàn toàn được tự do, vì tự do hoàn
toàn không thể tìm trong bất cứ một hệ thống nào mà chỉ
tìm thấy trong những tâm đã được tự do mà thôi. Muốn
được tự do, con người phải nhìn trở vào nội tâm mình
và hành hoạt làm sao để giải thoát chính mình khỏi xiềng
xích của vô minh và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đúng nhất
của nó chỉ có thể đạt được khi một người biết sử
dụng Pháp để phát triển cá tính qua lời nói và hành động
chính đáng và rèn luyện tâm ý để phát triển tiềm năng
tinh thần và hoàn tất mục tiêu giác ngộ tối hậu. Trong khi công nhận sự ích lợi của
việc tách rời tôn giáo với chính trị và những giới hạn
của hệ thống chính trị trong việc mang hòa bình và hạnh
phúc, có nhiều khía cạnh của lời Phật dạy tương đồng
gần gữi với sự cải biến chính trị hiện tại. Trước
tiên, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng của tất cả
mọi người từ lâu trước Abraham Lincoln, và về những giai
tầng và đẳng cấp xã hội là những chướng ngại nhân tạo
dựng nên bởi xã hội. Theo Ngài chỉ có sự phân chia thứ
hạng của con người, được căn cứ trên phẩm cách và đạo
đức. Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác
xã hội và sự tham gia tích cực vào xã hội. Tinh thần này
được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình chính trị của
xã hội tiên tiến. Thứ ba, vì Đức Phật không chỉ định
ai là người thừa kế Ngài nên thành viên của Tăng Đoàn
được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Luật, hay nói tóm lại
bởi Giới Luật. Cho đến ngày nay, thành viên của Đoàn Thể
Tăng Già đều phải tuân theo Giới Luật, Giới Luật chi phối
và hướng dẫn tư cách đạo đức họ. Thứ tư, Đức Phật khuyến khích
tinh thần trao đổi ý kiến và tiến trình dân chủ. Điều
này được thể hiện trong phạm vi Đoàn Thể Tăng Già mà tất
cả thành viên đều có quyền quyết định về những công
việc có tính cách chung. Khi nêu lên một vấn đề nghiêm trọng
đòi hỏi sự chú ý, những cách giải quyết được đưa ra
giữa các tỳ kheo để bàn luận giống như trong hệ thống
nghị trường dân chủ hiện tại. Thủ tục theo chế độ tự
quản này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng
trong các hội trường Phật Giáo tại Ấn cách đây hơn 2500
năm đã thấy có những nguyên tắc sơ đẳng của thể thức
áp dụng tại nghị trường ngày nay. Một giới chức đặc
biệt giống như vị Chủ Tịch Viện được chỉ định để
bảo quản phẩm cách của hội nghị. Một giới chức thứ
hai được chỉ định giống như vai trò của Nghị Viên phụ
trách tổ chức (Chief Whip) để kiểm soát túc số (tức số
đại biểu qui định). Những vấn đề được đưa ra thảo
luận dưới hình thức đề nghị. Trong một số trường hợp,
vấn đề chỉ phải biểu quyết một lần, trong các trường
hợp khác phải đến ba lần, thủ tục này đã đi trước
Nghị Viện ngày nay đòi hỏi một dự án phải được đọc
lần thứ ba truớc khi thành luật. Nếu cuộc thảo luận có
những ý kiến dị biệt, vấn đề phải được quyết định
bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc đầu phiếu kín. Đường lối Phật Giáo đến với
quyền uy chính trị là sự đạo đức hóa và sự sử dụng
có trách nhiệm về quyền lực của đại chúng. Đức Phật
thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một thông
điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo động
hay sự phá hoại đời sống, và tuyên bố là không có một
cuộc chiến tranh nào được gọi là "chính đáng".
Ngài dạy: "Kẻ chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến
bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả thắng lẫn
bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc"". Không những
Đức Phật dạy bất bạo động và hòa bình, Ngài là vị
Ðạo Sư Tôn Giáo duy nhất thân hành đến chiến trường để
ngăn cản chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự căng thẳng giữa
hai dòng họ Thích Ca và Koliyas sắp sửa khởi chiến trên
dòng sông Rohini. Ngài đã thuyết phục được Hoàng Đế A Xà
Thế dừng binh đi đánh Vương Quốc Vajjis. Đức Phật thảo luận sự quan trọng
về điều kiện tiên quyết của một chính quyền tốt.
Ngài trình bầy cho thấy một đất nước đi đến thối nát,
suy đồi, và bất hạnh như thế nào khi người cầm đầu
chính phủ những lạm và bất công. Ngài chống lại sự
tham những và cho biết chính quyền cần hành động ra sao
căn cứ trên nguyên tắc nhân đạo. Đức Phật có lần nói: "Khi
người cầm quyền quốc gia công bằng và đức hạnh, các bộ
trưởng (đại thần) cũng trở nên công bằng và đạo hạnh;
khi các bộ trưởng công bằng và đạo hạnh, những giới
chức cao cấp trở nên công bằng và đạo hạnh; khi các giới
chức cao cấp công bằng và đạo hạnh, đội ngữ và đoàn
sinh trở nên công bằng và đạo hạnh; khi đội ngữ và đoàn
sinh trở nên công bằng và đạo hạnh, người dân trở nên
công bằng và đạo hạnh ". (Tăng Chi Bộ Kinh) Trong kinh Cakkavatti Sihananda,
Đức Phật dạy vô luân và tội ác, như trộm cắp, lừa dối,
bạo động, sân hận, độc ác, có thể phát xuất vì nghèo
khổ. Các vua chúa và chính quyền có thể cố gắng ngăn chận
tội ác bằng hình phạt, nhưng chỉ dùng võ lực để triệt
tiêu tội ác thì vô ích. Trong kinh Kutadanta, Đức Phật khuyến
dụ nên phát triển kinh tế thay vì võ lực để giảm thiểu
tội ác. Chính quyền nên sử dụng tài nguyên quốc gia để
cải tiến điều kiện kinh tế trong nước. Có thể bắt tay
vào việc phát triển nông nghiệp và mở mang nông thôn, hỗ
trợ tài chánh cho các nhà thầu và người kinh doanh, trả
lương xứng đáng cho công nhân để duy trì cuộc sống tươm
tất có nhân cách. Trong kinh Jataka, Đức Phật dạy
mười điều cần thiết cho một chính quyền tốt được gọi
là "Dasa Raja Dharma". Mười điều này có thể áp dụng
cả đến ngay nay cho bất cứ một chính quyền muốn trị nước
hòa bình. Những nguyên tắc đó là: 1. Không thành kiến và tránh
ích kỷ, Về tư cách của người lãnh đạo,
Ngài khuyên thêm: (a) Người cầm quyền tốt hành
động vô tư, không thành kiến và không kỳ thị giữa
nhóm này với nhóm khác. Kinh Milanda Panha có nêu như
sau: "Nếu một người thiếu tư cách, thiếu khả năng,
không thích hợp, bất lực và không đáng làm vua, tự mình
tôn phong làm vua hay người trị vì với uy quyền to lớn, kẻ
đó sẽ bị hành hạ khổ sở...., phải chịu nhiều hình phạt
bởi người dân, vì thiếu tư cách và không xứng đáng, đã
tự mình lên ngôi vua bất chính". Người cầm quyền,
cũng như những người khác vi phạm và đi quá giới đức và
nguyên tắc căn bản của tất cả luật lệ xã hội trong
nhân loại, thì cũng phải chịu hình phạt; hơn thế nữa,
người cầm quyền bị khiển trách đã sử sự như một tên
ăn cắp của công. Câu chuyện trong Kinh Jataka có nêu rằng
người cầm quyền nào trừng phạt người vô tội, và
không trừng phạt kẻ có tội thì không xứng đáng trị vì
đất nước. "Nhà Vua lúc nào cũng phải tự
mình thăng tiến, và cẩn thận quán chiếu hạnh kiểm của
mình trong hành vi, lời nói và tư tưởng, luôn luôn cố gắng
tìm tòi và lắng nghe ý kiến đại chúng xem mình có phạm lỗi
lầm hay sai sót trong việc trị vì vương quốc. Nếu có sự
trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca khi bị thiệt hại bởi sự
bất lực của người cầm quyền do chính sách hình phạt,
thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự tham những
dưới bất cứ hình thức nào, và người dân sẽ chống lại
nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Trái lại, nếu
nhà vua trị vì minh chánh, thần dân sẽ chúc phúc ngài :
Hoàng Thượng Muôn Năm". (Majjhima Nikaya - Trung Bộ) Đức Phật nhấn mạnh về trọng
trách của người cầm quyền biết dùng sức mạnh quần
chúng để cải tiến phúc lợi cho dân như Hoàng đế Asoka
đã làm vào thế kỷ thứ ba trước Tây Nguyên. Asoka, một tấm
gương sáng chói về nguyên tắc này vì vua đã quyết định
sống đúng theo Giáo Pháp và truyền bá Chánh Pháp để phục
vụ dân chúng và nhân loại. Vị Hoàng Đế này tuyên bố
không dùng võ lực với quốc gia lân bang, và cam kết thiện
chí này bằng cách gửi các sứ giả cùng với thông điệp
hòa bình và không gây hấn đến những vị vua ở xa. Ngài
đã động viên sự phát huy các đức hạnh xã hội như chân
thật, trung thành, từ bi, nhân ái, bất bạo động, cư xử
đứng đắn với mọi người, không phung phí, không hám lợi,
và không làm tổn thương thú vật. Ngài khuyến khích tự do
tôn giáo và sự tôn kính lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài
tổ chức các cuộc thuyết Pháp định kỳ cho các đồng bào
tại nông thôn. Ngài phụ trách các công việc lợi ích công
cộng, như thiết lập các bệnh viện cho người và vật,
cung cấp thuốc men, trồng cây cối trên các đường lộ và
rừng, đào giếng, xây cất các trạm tiếp tế nước và
các nhà tạm trú. Ngài triệt để cấm ác độc với thú vật. Có đôi khi Đức Phật được xem
như một nhà cách mạng xã hội. Chẳng hạn như Ngài lên
án hệ thống giai cấp, xác nhận sự bình đẳng giữa mọi
người, lên tiếng về sự cần thiết cải tiến các điều
kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của việc
chia sẻ hợp lý của cải giữa người giàu và người nghèo,
nâng cao địa vị phụ nữ, khuyến cáo tinh thần hợp tác
nhân đạo trong chính quyền và nền hành chánh, dạy rằng
không nên điều hành xã hội bằng lòng tham mà phải bằng
lòng tôn trọng và từ ái đối với dân chúng. Ngoài những việc như trên, sự
đóng góp của Đức Phật cho nhân loại còn vĩ đại hơn
nhiều vì Ngài đã phát động một điểm mà từ trước tới
nay chưa có một nhà cải cách nào đã làm bằng cách đi
ngược vào gốc rễ thâm sâu nhất của tính bất thiện nằm
trong tâm con người. Cải cách
chân chính chỉ có thể có hiệu quả khi được thực hiện
ngay trong tâm con người. Những cải cách bằng sức mạnh
trên thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có
gốc rễ. Nhưng những cải cách nẩy sanh từ kết quả của
sự thay đổi tâm thức bên trong con người mới có gốc rễ
lâu dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ
rút dinh dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những
thôi thúc do bản năng của dòng sống đang trôi chảy. Cho
nên những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã
chuẩn bị sẵn sàng phương cách, và chúng chỉ được duy
trì được bao lâu mà con người còn biết bồi dưỡng sinh
khí cho chúng bằng tình yêu thương chân lý, công bằng, và
đồng loại. Học thuyết của Đức Phật giảng
dạy không căn cứ trên "Triết Lý Chính Trị". Học
thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích con người thụ
hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho thấy con đường
đạt Niết Bàn. Nói một cách khác, mục đích rốt ráo là
chấm dứt ái dục trói buộc con người trong thế giới này.
Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm tắt sự xác định
ấy như sau: "Con đường dẫn đến lợi lạc trần
gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách sống một
cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa
là người Phật Tử không thể, hay không nên tham gia vào hoạt
động chính trị vốn là một thực thể trong xã hội. Cuộc
sống của những thành viên trong xã hội được hình thành
bởi luật lệ và quy tắc, bởi những cải cách kinh tế hợp
pháp trong nước, những sự canh tân về tổ chức ảnh hưởng
bởi các nguyên tắc chính trị của xã hội ấy. Tuy vậy, nếu
một Phật Tử muốn hoạt động chính trị, người đó
không nên dùng tôn giáo để đạt uy quyền chính trị, và cũng
không nên khuyến bảo những ai đã từ bỏ cuộc đời trần
tục sống một cuộc đời thanh tịnh, đạo hạnh tham gia hoạt
động chính trị. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 | 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Cho thấy Bé còn hơn cả con trai
Bé sẽ lớn lên khôn ngoan và đạo hạnh,
Mẹ chồng trọng vọng, xứng đáng vợ hiền,
Sẽ sanh ra nam tử tài đức tuyệt luân,
Trị vì đại quốc, vâng, một đứa con,
Của một người vợ cao quý như thế sẽ trở thành người
lãnh đạo quốc gia".
-- (Tương Ưng Bộ Kinh)
2. Duy trì đặc tính luân lý cao,
3. Sẵn sàng hy sinh lạc thú riêng tư cho hạnh phúc của người
dân,
4. Chân thật và hết sức liêm chính,
6. Sống cuộc đời thanh bạch cho người dân tích cực noi
gương,
7. Không bị bất cứ hình thức sân hận nào,
8. Bất bạo động,
9. Thực hành hạnh kiên nhẫn, và
10. Tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa
bình và hòa hợp.
(b) Người cầm quyền tốt không ấp ủ bất cứ loại
sân hận nào với bất cứ ai.
(c) Người cầm quyền tốt phải tỏ ra không sợ hãi bất
cứ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy
đúng.
(d) Người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết rõ
ràng luật lệ thi hành. Không phải là luật lệ phải thi
hành chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành
luật ấy. Luật pháp phải được thi hành một cách hợp
lý và hợp với lẽ phải thông thường. -- (Kinh
Cakkavatti Sihananda)
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001