BuddhaSasana Home Page Vì sao
tin Phật Nguyên tác: What
Buddhists believe Chương 10 CẦU
NGUYỆN, THIỀN ĐỊNH VÀ
TU TẬP
-ooOoo- ĐỨC TIN, TIN
TƯỞNG VÀ
THÀNH TÂM
Chánh Kiến chỉ đường đến tin tưởng; tin tưởng mở
đường đến trí tuệ. Đức tin theo ý nghĩa hữu thần
không tìm thấy trong đạo Phật vì Phật Giáo nhấn mạnh đặc
biệt vào sự hiểu biết. Đức tin hữu thần là ma túy cho
các đầu óc đa cảm, và đòi hỏi phải tin vào những gì
không được biết. Kiến thức phá vỡ đức tin và đức
tin bị tự phá vỡ khi đức tin huyền bí bị khảo sát dưới
ánh sáng của lý trí. Tin tưởng không thể đạt được bằng
đức tin vì đức tin đặt nhẹ về lý trí, nhưng chỉ đạt
bằng sự hiểu biết. Nhắc đến bản chất đức tin
ngu dốt và mù quáng, Voltaire nói: "Đức tin là tin vào
điều gì mà lý trí của bạn nói là không có thật; bởi nếu
lý trí của bạn chấp nhận nó, thì vấn đề đức tin mù
quáng khỏi cần phải đặt ra". Tuy nhiên tin tưởng không giống
như đức tin. Tin tưởng không phải là sự chấp nhận tinh
thần vào cái không thể biết được. Tin tưởng là một
hoài bão chắc thực, không phải vào một cái vượt ngoài
hiểu biết, mà là vào cái có thể được xét qua kinh nghiệm
hiểu biết bản thân. Tin tưởng giống như sự hiểu biết
mà người học sinh tiếp thu nơi thầy giáo giảng trong lớp
về định luật vũ trụ bình phương của lực hấp dẫn chứng
minh bởi Newton. Người học sinh không nên chấp nhận đức
tin mù quáng nơi thầy giáo và sách vở của ông. Người học
sinh nghiên cứu sự kiện, khảo sát luận cứ khoa học, và
đánh giá tính chất xác thực của tài liệu. Nếu có nghi
ngờ, người học sinh nên dè dặt xét đoán cho đến khi tự
mình tra cứu thấy sự trung thực của tài liệu. Với người
Phật Tử, tin tưởng là một sản phẩm của lý trí, kiến
thức và kinh nghiệm. Khi được phát triển, tin tưởng không
bao giờ là niềm tin mù quáng. Tin tưởng trở thành sức mạnh
của tâm. Trong cuốn "Đức Phật Dạy Gì", Hòa thượng
Walpola Rahula viết: "Vấn đề đức tin sanh khởi
khi ta không thấy - thấy trong mọi nghĩa của tiếng này. Đến
khi bạn thấy được, vấn đề đức tin biến mất. Nếu tôi
nói với bạn tôi đang có một hạt ngọc trong nắm tay tôi,
đức tin phát khởi vì chính bạn chưa nhìn thấy viên ngọc
này. Nhưng nếu tôi mở bàn tay ra và đưa cho bạn xem hạt
ngọc, chính mắt bạn nhìn thấy, vấn đề đức tin không
sanh khởi. Cho nên trong kinh Phật giáo cổ xưa có câu như
sau: "Thấy rõ, giống như một người thấy một hạt ngọc
trong lòng bàn tay". Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU NGUYỆN Thiên nhiên vốn vô tư; những lời
cầu nguyện không làm cho thiên nhiên hãnh diện. Thiên nhiên
không ban thưởng đặc ân do lời yêu cầu nào. Con người không phải là một
sinh vật bị sa cơ có nhu cầu phải cầu xin, trông chờ vào
tình thương. Theo Phật Giáo, con người là chủ tể đầy tiềm
năng của chính mình. Chỉ vì vô minh sâu xa nên con người
không nhận ra được tiềm năng phong phú của mình. Vì Đức
Phật đã chỉ cho sức mạnh tiềm ẩn này, con người phải
trau dồi tâm ý, và cố gắng phát triển tâm ý bằng cách
chứng nghiệm được khả năng bẩm sinh này. Phật Giáo cho con người trách nhiệm
và phẩm giá hoàn toàn. Phật Giáo làm cho con người thành
chủ tể của chính mình. Theo Phật Giáo, không có chúng sanh
nào ngồi trên cao xét xử công việc và định mệnh mình.
Có nghĩa là đời sống, xã hội, thế giới của chúng ta,
là cái mà bạn và tôi muốn làm ra chứ không phải là cái
mà một đấng không biết nào khác muốn làm ra như vậy. Xin nhớ là thiên nhiên không
thiên vị; những lời cầu nguyện không làm cho thiên nhiên
hãnh diện. Thiên nhiên không cho ân huệ đặc biệt gì theo
lời yêu cầu. Vì vậy trong Phật Giáo, cầu nguyện
là thiền định tự nó thay đổi tùy theo đối tượng. Cầu
nguyện trong thiền định là sự tu sửa lại bản tính của
mình. Đó là sự chuyển hóa bản chất bên trong ta bằng
cách thanh lọc ba khả năng: tư tưởng, lời nói và hành động.
Do thiền định, ta có thể hiểu được rằng "ta sẽ trở
thành cái mà ta nghĩ " theo như những khám phá của tâm
lý học. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta thấy tâm ta khuây
khỏa; đó là ảnh hưởng tâm lý do chúng ta tạo ra nhờ niềm
tin và thành tâm. Đọc một vài câu kệ, chúng ta cũng kinh
nghiệm được kết quả như vậy. Tên và những ký hiệu tượng
trưng trong tôn giáo rất quan trọng đến mức độ giúp ta
phát triển thành tâm và tin tưởng. Chính Đức Phật đã giải thích
rõ ràng chẳng có cách làm nào như đọc tụng kinh điển, hành
xác, nằm đất, liên tục cầu nguyện, sám hối, tán tụng,
bùa ngải, bùa phép, thần chú, và cầu khẩn có thể mang lại
hạnh phúc thực sự của Niết Bàn. Về việc dùng cầu nguyện để
đạt mục tiêu tối hậu, Đức Phật có lần cho thí dụ về
một người muốn qua sông. Nếu người đó cứ ngồi và cầu
cho bờ sông bên kia sẽ đến với mình và mang mình qua
sông, nhất định lời cầu nguyện chẳng bao giờ được đáp
ứng. Nếu muốn qua sông, người đó phải cố gắng, tìm gỗ
và làm một cái bè, tìm một cây cầu, hoặc làm một cái
thuyền hay lội qua sông. Dù bằng cách nào đi nữa thì người
đó phải ra tay làm việc mới qua sông được. Giống như vậy,
nếu muốn vượt qua dòng sông Luân Hồi, cầu nguyện không
thôi chưa đủ. Người đó phải hết sức cố gắng bằng
cách sống một cuộc đời đạo hạnh, kiềm chế đam mê, lắng
đọng tâm tư, và quét sạch tất cả những bất tịnh và
ô trược trong tâm. Chỉ lúc ấy, người đó mới đạt mục
tiêu cuối cùng. Cầu nguyện suông không bao giờ mang ai tới
mục tiêu cuối cùng được. Nếu cần cầu nguyện thì chỉ
nên cầu nguyện cho tâm thêm mạnh chứ không phải cầu xin
để được lợi lộc. Lời cầu nguyện dưới đây của một
thi sĩ nổi danh dạy chúng ta phải cầu nguyện như thế nào. Người Phật Tử hãy coi lời nguyện
này như thiền định để trau dồi tâm ý: "Đừng cho tôi nguyện cầu
xin tránh thoát tai
ương
THIỀN ĐỊNH Thiền định là phương pháp tâm
lý để mở mang, rèn luyện và thanh tịnh tâm ý.
Thay vì cầu nguyện, người Phật
Tử hành thiền để trau dồi tâm ý, và phát triển tinh thần.
Không ai có thể đạt Niết Bàn hoặc giải thoát mà không
phát triển tâm ý qua thiền định. Bất cứ một số lượng
công đức nào cũng không thể giúp cho một người đạt
được mục tiêu cuối cùng nếu tâm không được thanh lọc
tương ứng. Đương nhiên một cái tâm không được huấn
luyện rất khó nắm giữ, hay quyến dụ thuyết phục con người
phạm tội lỗi, và trở thành nô lệ cho giác quan. Tưởng
tượng và xúc cảm bao giờ cũng khiến con người lầm lạc
nếu tâm trí không được huấn luyện đứng đắn. Người
biết tu tập thiền định có thể kiểm soát tâm mình khi bị
các giác quan dẫn dắt sai lầm. Hầu hết những khó khăn mà
chúng ta phải đương đầu ngày nay là do tâm không được
huấn luyện và trau dồi. Thiền đã được thiết lập để
chữa trị các bệnh tâm và bệnh thân. Giới khoa học và những
nhà tâm lý học lỗi lạc trên khắp thế giới đều công
nhận rằng khủng hoảng tinh thần, lo lắng, thống khổ, băn
khoăn, căng thẳng, và sợ hãi là những nguyên nhân của nhiều
chứng bệnh như loét bao tử, viêm dạ dầy, đau thần kinh,
và bệnh tâm thần. Và cả đến những bệnh ẩn tàng sẽ
càng ngày càng nặng thêm vì những tình trạng của các bệnh
tâm thần như vậy. Khi cái thức về "TÔI"
quá ư bực bội, quá nhiều lo lắng, hay phiền muộn, kéo
dài quá lâu hay quá căng thẳng, thì tình trạng xáo trộn
phát triển nơi thân. Viêm và loét dạ dầy, lao phổi, bệnh
do động mạch, và và cả loạt những rối loạn chức năng
là những sản phẩm của tâm thần và xúc cảm không quân
bình. Về trường hợp các trẻ em, răng sâu và mắt có tật
thường liên quan đến các rối loạn xúc cảm mà ra. Nhiều bệnh và rối loạn như thế
có thể tránh được nếu ta có thể dành ít phút trong một
ngày để làm lắng dịu các giác quan bằng thực hành thiền
định. Do thiếu hiểu biết nhiều người không tin việc
này hoặc quá lười biếng không chịu hành thiền. Một số
người lại nói thiền định chỉ phí phạm thì giờ. Chúng
ta phải nhớ rằng tất cả giáo chủ tinh thần trên thế giới
này đạt được đến mức độ cao nhất của lẽ sống đều
do tu tập thiền định. Ngày nay các Ngài được hàng triệu
người tôn kính do công trình phục vụ vĩ đại cho nhân loại
bằng kiến thức và hạnh kiên nhẫn siêu việt mà các Ngài
đạt được bằng tu tập thiền định. Thiền định không nên là một
công việc bắt buộc phải "răng nghiến, tay siết"
; thiền định phải là điều gì lôi cuốn ta, cho ta tràn ngập
niềm vui và cảm hứng. Chừng nào mà ta còn miễn cưỡng,
thì ta chưa sẵn sàng hành thiền được. Thay vì hành thiền
ta đã vi phạm bản chất thực sự của chúng ta. Thay vì để
chúng thoải mái và tự nhiên qua đi, ta lại cứ giữ chặt
cái ta, cái sức mạnh của ý muốn trong ta. Thiền định
theo đường lối như vậy trở nên trò chơi của tham vọng,
của phô trương thành quả cá nhân. Thiền định giống như
tình yêu là một kinh nghiệm tự phát chứ không phải là
điều bị bắt buộc hay đạt được bằng nỗ lực hăm hở. Cho nên Thiền Phật Giáo không
ngoài mục đích đem tâm trở về hiện tại, vào một trạng
thái hoàn toàn tỉnh thức, bằng cách quét sạch tất cả những
chướng ngại đã được tạo ra bởi thói quen hay truyền thống. Đức Phật đạt Giác Ngộ do sự
phát triển tâm ý của Ngài. Ngài không tìm đến sức mạnh
thánh thần để giúp đỡ Ngài. Ngài đạt trí tuệ nhờ sự
tự nỗ lực bằng tu tập thiền định. Muốn tâm và thân
lành mạnh, và muốn cuộc sống an lạc, ta phải học hỏi
cách tu tập thiền định. BẢN CHẤT CỦA ĐỜI
SỐNG HIỆN ĐẠI Ngày nay chúng ta đang sống trong một
thế giới mà con người cật lực làm việc về vật chất
lẫn tinh thần. Nếu không hết sức làm việc, sẽ không có
chỗ cho ta trong xã hội hiện đại này. Mọi nơi, mọi lúc
đều có cạnh tranh mạnh mẽ. Người này muốn hạ người
kia trong mọi khía cạnh của cuộc sống, và con người không
được nghỉ ngơi chút nào cả. Tâm là hạt nhân của đời
sống . Khi không có an lạc và thư thái thực sự trong tâm,
toàn bộ đời sống sẽ sụp đổ. Thông thường con người
cố vượt qua đau khổ bằng cách thỏa mãn các giác quan: uống
rượu, cờ bạc, ca hát và khiêu vũ - lúc nào cũng có ảo tưởng
là họ thật sự vui huởng hạnh phúc thực sự của đời sống.
Kích động giác quan không phải là con đường thực sự để
được nghỉ ngơi. Nếu chúng ta càng thỏa mãn giác quan bằng
lạc thú nhục dục, càng ngày ta càng phải lệ thuộc vào
giác quan. Thèm muốn thỏa mãn chẳng bao giờ chấm dứt. Con
đường thực sự để buông thủ, thoải mái là phải lắng
đọng giác quan bằng sự kiểm soát tâm ý. Nếu chúng ta có
thể kiểm soát tâm ý, chúng ta có thể kiểm soát được mọi
thứ. Khi kiểm soát hoàn toàn được tâm và tâm được
thanh tịnh, tâm sẽ giải thoát khỏi những xáo trộn tâm thần.
Khi tâm giải thoát khỏi những xáo trộn tinh thần, tâm có
thể nhìn thấy nhiều điều mà ta không thể nhìn thấy bằng
mắt trần. Cuối cùng, chúng ta có thể đạt giải thoát và
tìm thấy an lạc và hạnh phúc. Muốn hành thiền, ta phải cương
quyết, cố gắng, và nhẫn nại. Không nên mong cầu đạt
được kết quả tức khắc. Chúng ta phải nhớ phải mất
nhiều năm một người mới trở thành bác sĩ, luật sư, nhà
toán học, triết gia, sử gia hoặc khoa học gia. Cũng giống
như vậy, muốn thành một người hành thiền thuần thục,
phải có một thời gian cho người đó kiểm soát được cái
tâm lăng xăng xao lãng và lắng đọng được giác quan. Hành
thiền giống như bơi ngược dòng sông. Cho nên ta phải nhẫn
nại đừng nản chí vì không thấy ngay kết quả. Đồng thời
người hành thiền phải trau dồi giới đức. Chỗ thích hợp
cho việc thiền tập là một khía cạnh quan trọng khác. Người
hành thiền phải có một đối tượng để thiền tập, nếu
không có một đối tượng, cái tâm lăng xăng khó mà kiềm
chế được. Đối tượng không được tạo tham, sân, ảo tưởng
hay xúc động trong tâm người hành thiền. Khi chúng ta bắt đầu hành thiền,
chúng ta điều chỉnh lại tâm ý từ cách suy nghĩ cũ, thường
bằng tưởng tượng, sang cách suy nghĩ mới lạ, không bị
ngăn ngại. Trong lúc hành thiền khi chúng ta thở trong chánh
niệm, chúng ta hít vào năng lượng vũ trụ. Khi chúng ta thở
ra trong chánh niệm với tâm từ - Metta, chúng ta thanh lọc bầu
không khí. Ở đây, trí năng cần thiết để thắng lướt sự
dao động về xúc cảm và tinh thần cũng như trực giác cần
thiết để vượt qua sự giới hạn của trí thức, và sự
trừu tượng của ý niệm. Chúng ta dành hầu hết thì giờ
cho thân: nào ăn, nào mặc, nào tẩy sạch, tắm rửa, trang
điểm, nghỉ ngơi, nhưng chúng ta dành bao nhiêu thì giờ cho
tâm của chúng ta cũng vào những mục đích ấy? Một số người lấy hình ảnh Đức
Phật làm đối tượng và tập trung vào hình ảnh này. Một
số khác tập trung vào hơi thở vào và hơi thở ra. Dù là
phương pháp nào đi nữa, nếu bất cứ ai cố gắng tu tập
thiền định, chắc chắn người ấy tìm được sự thoải
mái. Thiền giúp ta rất nhiều để có sức khỏe tinh thần
và vật chất và để kiểm soát tâm khi cần thiết. Con người có thể giúp ích hữu
hiệu nhất cho xã hội đơn giản bằng cách không làm các
điều tội lỗi. Tâm được rèn luyện và phát triển do thiền
tập có thể giúp ích đắc lực nhất cho người khác. Thiền
định không làm mất thì giờ quý báu của con người. Tâm
tiến bộ của người hành thiền có thể giải quyết rất
nhiều khó khăn của nhân loại và rất hữu ích để soi sáng
người khác. Thiền định giúp cho ta sống an lạc dù nhiều
xáo trộn đang lan tràn trong thế giới hiện đại này.
Chúng ta không thể cầu mong được rút lui trong rừng sâu để
sống trong tháp ngà - "xa hẳn đám đông điên loạn".
Bằng cách tu tập thiền định đúng cách, chúng ta có thể
có được một trú xứ cho sự quên lãng tạm thời. Thiền
định có mục đích huấn luyện con người để có thể
đương đầu, hiểu biết và chiến thắng ngay trong thế giới
này mà chúng ta đương sống. Thiền định dạy chúng ta tự
điều chỉnh để có thể chịu đựng nhiều chướng ngại
của cuộc sống trong thế giới hiện đại này. Một số người hành thiền để
thỏa mãn những tham muốn vất chất; họ muốn đạt nhiều
hơn nữa lợi lộc vật chất. Họ muốn dùng thiền để có
một công việc tốt hơn. Họ muốn kiếm được nhiều tiền
hơn nữa hoặc điều động công việc làm ăn hữu hiệu
hơn. Có lẽ họ không hiểu rằng mục đích của thiền
không phải là tăng thêm mà là giảm bớt tham muốn. Những
động lực thiên về vật chất không thích hợp cho thiền
định chính đáng, mục đích của thiền vượt ra ngoài những
công việc giữa thế gian. Ta nên thiền tập để đạt một
điều gì mà cả đến tiền bạc cũng không sao mua hay mang lại
được. Tu tập thiền định, bạn có thể
học hỏi cách tiếp xử như một người lịch thiệp dù bị
những người khác quấy rầy. Nhờ thiền định bạn biết
cách thư giãn thân thể, lắng đọng tâm tư; nội tâm an tĩnh
và hạnh phúc. Giống như một máy xe bị khét
nóng và hư hại sau khi đã chạy trong một thời gian dài, cần
phải cho máy mát xuống để khỏi hư, cũng vậy tâm làm việc
quá nhiều khi phải nỗ lực tinh thần đến một mức độ
chịu đựng nào đó, thì chỉ nhờ hành thiền mới có sự
buông thủ, mát mẻ được. Thiền định làm cho tâm thêm sức
mạnh để kiểm soát xúc cảm của con người khi bị nhiễu
loạn bởi các tư tưởng và cảm nghĩ tiêu cực như ghen ghét,
sân hận, kiêu hãnh và đố kỵ. Tu tập thiền định, bạn có thể
biết chọn lựa quyết định thích hợp khi bạn đến ngã tư
cuộc đời, và đang bị lạc hướng không biết nên quay
sang ngả nào. Những đức tính này không thể mua ở đâu
được. Không có tiền của hay tài sản nào có thể mua được
các đức tính ấy, mà chỉ do thiền định bạn mới có
được. Và cuối cùng, đối tượng tối hậu của thiền Phật
Giáo là nhổ tất cả những ô trược trong tâm để đạt mục
tiêu cuối cùng: Niết Bàn. Tuy nhiên, ngày nay người ta đã lạm
dụng việc tu tập thiền định. Họ muốn lập tức có kết
quả nhanh chóng, giống như họ muốn được trả lại ngay về
mọi điều mà họ làm trong đời sống hàng ngày. Trong Phật
Giáo, cũng như trường hợp của các văn hóa đông phương
khác, kiên nhẫn là một đức tính quan trọng nhất. Tâm phải
được kiểm soát từ những mức độ thấp, và ta không
nên cố gắng đem nó lên những trình độ cao hơn mà không
có huấn luyện thích nghi. Chúng ta đã nghe nói về các nam nữ
thanh niên quá cuồng nhiệt, có những thể hiện phàm tục
vì họ đã áp dụng thái độ sai lầm về thiền. Thiền là
đường lối dịu dàng để chiến thắng những ô trược làm
tâm sa đọa. Nếu họ muốn "thành công hay đạt "thành
quả" để khoe khoang với người khác là đã đạt được
những mức độ thiền như thế này thế kia, họ đã lạm dụng
phương pháp trau dồi tinh thần. Ta phải rèn luyện giới hạnh,
phải hiểu rõ rằng muốn thành công trong kỷ luật thiền,
những thành quả thế tục không được coi ngang với sự phát
triển tâm linh. Một cách lý tưởng nên hành thiền dưới sự
hướng dẫn của một vị thầy có kinh nghiệm để giúp đỡ
thiền sinh trên con đường học tập đúng cách. Nhưng trên
tất cả, ta không bao giờ nên vội vã để đạt thành quả
quá nhiều quá nhanh. Ý NGHĨA VÀ TỤNG KINH PARITTA Tụng Paritta là đọc một vài đoạn
trong Kinh do Đức Phật thốt ra bằng tiếng Pali để cầu an
và chúc phúc các đệ tử thành tâm. Tụng Paritta hay Tụng Kinh là cách
hành trì rất phổ biến của Phật Giáo trên toàn thể thế
giới, nhất là tại các xứ Phật Giáo Nguyên Thủy mà tiếng
Pali được sử dụng để đọc tụng. Nhiều những bài kinh
quan trọng từ giáo lý căn bản của Đức Phật được chọn
ra do các đệ tử của Ngài. Nguồn gốc những kinh này được
ghi vào khoảng hai nghìn năm qua trên những lá "ola".
Sau này, những kinh này được sưu tập vào một cuốn gọi
là " Paritta Kinh Tụng". Tên những bộ kinh nguyên thủy
được chọn ra là Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh), Majjhima
Nikaya (Trung Bộ Kinh), Digha Nikaya (Trường Bộ Kinh), Samyutta
Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh) và Khuddaka Nikaya(Tiểu Bộ Kinh)
trong Kinh Tạng. Những kinh mà người Phật Tử tụng
để cầu an được gọi là Paritta Kinh Tụng. Nơi đây
"cầu an" có nghĩa là tự chúng ta bảo vệ khỏi
các hình thái của ma quỷ, bất hạnh, đau ốm, và ảnh hưởng
của những hệ thống hành tinh cũng như để đặt tin tưởng
nơi tâm. Tiếng vang của lời tụng tạo bầu không khí vui
tuơi khắp vùng. Nhịp điệu trong lúc tụng cũng rất quan trọng.
Ta có thể nhận thấy khi các thầy tỳ kheo tụng những kinh
ấy, âm điệu thay đổi để hòa hợp với loại kinh dành
cho những đoạn khác nhau. Người ta đã sớm thấy được rằng
trong suốt quá trình phát triển tinh thần một số các âm
điệu của giọng tụng có thể tạo được những trạng thái
tâm lý an lạc và thanh thản rất có ý nghĩa trong tâm thức
những người đang thành khẩn lắng nghe. Hơn nữa, giọng trầm
bổng kêu gọi đến chư thiên, trong khi một số âm điệu tạo
nhiều ảnh hưởng đến chúng sinh thấp kém như súc vật, rắn,
hoặc ma, hoặc quỷ. Cho nên một âm điệu êm dịu và đúng
cách là một khía cạnh quan trọng của việc tụng kinh
Paritta. Việc sử dụng các nhịp điệu này
không phải chỉ giới hạn riêng cho Phật Giáo. Trong mọi
tôn giáo, khi các tín đồ đọc tụng lời cầu nguyện của
họ qua kinh thánh, họ cũng áp dụng những nhịp điệu. Chúng
ta có thể nhận thấy việc này khi nghe Quran đọc bởi người
Hồi Giáo và Kinh Vệ Đà tụng bởi các nhà tu thuộc Ấn Độ
Giáo bằng tiếng Phạn. Một vài bài tụng rất hay cũng được
hành trì tại một số giáo phái Cơ đốc, nhất là Gia Tô
La Mã và hệ phái Chính Thống Giáo Hy Lạp. Khi các kinh được tụng đọc, ba
oai lực lớn và hùng mạnh được hoạt hóa. Đó là sức mạnh
của Phật, Pháp và Tăng. Phật Giáo là sự phối hợp của
"Tam Bảo" này và khi cùng cầu nguyện có thể mang
phúc lành to lớn cho nhân loại. (1) Phật: Đức Phật
đã trau dồi tất cả những phẩm hạnh cao quý, trí tuệ
và giác ngộ, đã phát triển sức mạnh tinh thần và trao
cho chúng ta Giáo Lý cao thượng của Ngài. Dù Đấng Đạo
Sư không còn hiện diện với chúng ta, Giáo Lý của Ngài vẫn
được lưu truyền cho phúc lợi của nhân loại. Cũng giống
như người khám phá ra điện đã không còn nữa, nhưng cách
sử dụng kiến thức của ông, hiệu quả trí tuệ của ông
vẫn còn với chúng ta. Nguồn ánh sáng mà chúng ta được
hưởng ngày nay là kết quả trí tuệ của ông. Những khoa học
gia khám phá ra năng lượng nguyên tử đã không còn nữa, nhưng
kiến thức của họ vẫn ở với chúng ta. Cũng giống như vậy,
Giáo Lý Cao Quý cho chúng ta do trí tuệ và giác ngộ của
Ngài, là sức mạnh hữu hiệu nhất cho ta nguồn cảm hứng.
Khi bạn nhớ tới Ngài, kính trọng Ngài, bạn phát triển
tin tưởng nơi Ngài. Khi bạn đọc tụng hay nghe những lời
do Ngài thốt ra, bạn cầu mong sức mạnh ở nơi phước báu
của Ngài. (2) Pháp: Giáo
Pháp là oai lực của chân lý, công bằng và hòa bình khám
phá ra bởi Đức Phật, oai lực này mang niềm an ủi tinh thần
đến cho những thiện tín thuần thành để duy trì an lạc
và hạnh phúc. Khi bạn mở rộng lòng từ bi, thành tâm và
hiểu biết, sức mạnh của Giáo Pháp sẽ bảo vệ bạn và
giúp bạn phát triển tín tâm vững mạnh hơn nữa. Rồi tâm
tự nó trở thành một sức mạnh lớn để bảo vệ chính bạn.
Khi biết bạn là người duy trì Giáo Pháp, mọi người và
các chúng sinh khác sẽ kính trọng bạn. Sức mạnh của
Pháp bảo vệ bạn khỏi các loại ảnh hưởng xấu và các
sức mạnh tội lỗi. Những ai không hiểu được oai lực của
Pháp và không biết làm sao sống theo Pháp, thường bao giờ
cũng tự đầu hàng trước tất cả những hình thức của
mê tín dị đoan và tự lệ thuộc vào ảnh hưởng của nhiều
loại thượng đế, ma quỷ, và sức mạnh thần bí bắt họ
phải thi hành những nghi thức và nghi lễ kỳ quặc. Cách
hành trì như vậy, chỉ làm tăng trưởng nơi họ nhiều sợ
hãi và ngờ vực phát sanh từ vô minh. Nhiều số tiền lớn
đã chi dùng trong các hình thức trên, nhưng người đã vun bồi
được tín tâm nơi Giáo Pháp thì dễ dàng tránh khỏi được
việc này. Pháp cũng được mô tả là "thiên nhiên"
hay "hiện tượng tự nhiên" và "định luật vũ
trụ". Những ai đã biết bản chất của những sức mạnh
ấy, có thể tự bảo vệ nhờ Giáo Pháp. Khi tâm được
thanh tịnh bằng sự hiểu biết hoàn hảo, các xáo trộn
không thể tạo sợ hãi trong tâm được. (3) Tăng: Tăng Già tức
đoàn thể thánh thiện của các vị tăng đã từ bỏ đời
sống thế tục để phát triển sự nghiệp trí tuệ. Chư
tăng được coi là đệ tử của Đức Phật, đã trau dồi
các phẩm hạnh cao cả để đạt thánh quả hoặc A La Hán
quả. Chúng ta dâng lòng thành kính tới cộng đồng Tăng Già,
là các vị đang thừa hành nhiệm vụ chăm lo bảo vệ và tiến
dẫn Giáo Pháp cho thế giới từ trên 2500 năm qua. Những công
đức cống hiến bởi cộng đồng Tăng Già đã hướng dẫn
nhân loại sống một cuộc đời chánh đáng và cao thượng.
Những công đức ấy là mối liên lạc sống động với Bậc
Đại Giác đã mang thông điệp đến cho chúng ta qua lời tụng
thốt ra từ kim khẩu Ngài. Tụng kinh chúc phúc khởi sự từ
thời Đức Ph?t. Sau này tại nhiều xứ Phật Giáo như Sri
Lanka, Thái và Miến Điện, cách hành trì này được phát
triển thêm nữa bằng cách tụng niệm kéo dài suốt cả đêm
hay một vài ngày. Với tâm thành tín cao độ, Phật Tử tham
dự các khóa tụng kinh bằng cách hết sức chú ý lắng
nghe. Trong nhiều dịp Đức Phật và các đệ tử của Ngài
tụng kinh để an ủi tinh thần những người đau khổ vì bệnh
dịch, nạn đói, đau yếu và các thiên tai khác. Có lần Đức
Phật được biết một đứa bé mắc bệnh do ảnh hưởng của
tà ma, Đức Phật đã chỉ thị cho chư tăng tụng kinh để
bảo vệ đứa bé thoát khỏi sức mạnh của chúng. Khóa lễ tụng kinh cầu phước rất
hữu hiệu. Đương nhiên có những trường hợp, tụng niệm
không kết quả vì nạn nhân đã phạm một số nghiệp rất
xấu. Tuy nhiên một số nghiệp xấu nhẹ có thể qua được
nhờ oai lực của âm ba vang động phối hợp với những đức
hạnh và lòng từ bi cao cả của các vị thánh thiện tụng
niệm. Điểm này, sự vượt qua được nghiệp quả xấu không
có nghĩa là nhổ hết cả nghiệp quả, mà chỉ tạm thời
đình chỉ nghiệp quả đó thôi. Những thiện tín thường khi bị
quá sức hay mệt mỏi, cảm thấy khuây khỏa và bình tĩnh
sau khi nghe tụng kinh. Kinh nghiệm trên không giống như trường
hợp nghe nhạc vì nhạc có thể làm cho tâm kích động và
xúi giục cảm xúc của người nghe mà không tạo được lòng
thành tâm và tin tưởng. Trong hơn 2500 năm qua, những người
Phật Tử thuần thành đã kinh nghiệm những hiệu quả tốt
lành do tụng kinh. Chúng ta nên hiểu thế nào và tại sao những
lời thốt ra từ kim khẩu Đức Phật với mục đích chúc
phúc lại quá hữu hiệu ngay cả sau khi Ngài đã nhập diệt.
Trong giáo lý của Đức Phật ghi nhận là từ khi Ngài có
hoài bão trở nên một Đức Phật, trong những tiền kiếp của
Ngài, Ngài đã hết sức duy trì nguyên tắc đặc biệt là
không "nói dối". Không lạm dụng và không sử dụng
sai lệch lời nói, Ngài nói năng từ tốn, không làm tổn thương
đến cảm nghĩ của người khác. Sức mạnh của Chân Lý trở
thành nguồn oai lực trong những lời do Đức Phật thốt ra
với lòng từ bi rộng lớn. Tuy nhiên, sức mạnh của lời
Đức Phật không thôi không thể bảo đảm phước lành mà
không có thành tâm và và hiểu biết của người Phật Tử
thuần thành. Hiệu quả huyền diệu chứng nghiệm
bởi nhiều người trong việc tự khỏi bệnh và các xáo trộn
tinh thần qua trung gian của Kinh Phật, khiến cho họ mở mang
niềm tin và lòng tin tưởng trong hình thức khóa lễ tụng
niệm này. PHẬT TỬ CÓ TÔN THỜ THẦN TƯỢNG
KHÔNG? Phật Tử không tôn thờ thần tượng
mà là tôn thờ lý tưởng .
Mặc dù người Phật Tử theo tập
tục giữ hình ảnh Đức Phật để tỏ lòng tôn kính Ngài,
nhưng họ không phải là người tôn thờ thần tượng. Sùng
bái thần tượng thông thường có nghĩa là dựng lên hình
ảnh của nam hay nữ thần không biết rõ nào đó trong nhiều
kiểu và cỡ khác nhau, và cầu nguyện thẳng với các hình
ảnh ấy. Người cầu nguyện xin thần linh hướng dẫn và bảo
vệ họ. Họ cầu xin nam hay nữ thần ban cho họ sức khỏe,
của cải, tài sản, và cung cấp cho họ những nhu cầu cần
thiết, họ xin được tha tội. Việc lễ lậy hình ảnh Đức Phật
lại là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Phật Tử tôn
kính hình ảnh Đức Phật là một hành động để tỏ thiện
ý tới một bậc thánh thiện cao cả, uyên bác, nhân đức,
và từ bi nhất chưa từng có trên thế giới này. Đó là một
sự kiện lịch sử vì con người vĩ đại này đã sống
trên thế giới và đã triệt để phục vụ nhân loại. Sự
lễ lạy Đức Phật thực sự có nghĩa dâng lòng kính trọng,
tán tụng và thành tâm lên Ngài, và lên những gì mà Ngài tượng
trưng chứ không phải lên một hình tượng bằng đá hay bằng
kim khí. Hình ảnh của Ngài chỉ là thị
giác giúp hồi tưởng tới Đức Phật trong tâm và quán tưởng
tới những phẩm hạnh vĩ đại của Ngài đã gây cảm hứng
cho triệu triệu người từ thế hệ này đến thế hệ khác
khắp tất cả thế giới văn minh. Phật Tử dùng hình tượng
Ngài như một biểu tượng tôn giáo và là một đối tượng
để tâm tập trung tinh thần hầu đạt bình an trong tâm khảm.
Khi người Phật Tử nhìn vào hình ảnh Đức Phật, họ dẹp
ra một bên tư tưởng đấu tranh, và chỉ nghĩ đến an lạc,
thanh thản, bình tĩnh, và tịch tịnh. Tượng Ngài giúp cho
tâm hồi tưởng đến con người vĩ đại này, và truyền cảm
hứng cho các người thành tâm theo gương sáng và chỉ thị
của Ngài, người Phật Tử thuần thành cảm thấy như Vị
Giáo Chủ có mặt trong hiện tại. Cảm nghĩ này khiến hành
động lễ lạy của họ trở nên sống động và có ý nghĩa.
Hình ảnh thanh tịnh của Đức Phật gây ảnh hưởng và cảm
hứng để họ giữ vững chánh đạo về giới hạnh và tư
tưởng. Người Phật Tử hiểu biết không
bao giờ xin ân huệ từ hình tượng Đức Phật và cũng chẳng
bao giờ xin được tha thứ về những lỗi lầm đã phạm.
Người Phật Tử hiểu biết luôn luôn cố gắng kiểm soát
tâm mình, theo lời khuyên của Đức Phật để dứt bỏ những
đau khổ thế tục, và tìm được sự giải thoát. Người nào chỉ trích hình thức
lễ bái thần tượng của người Phật Tử đã giải thích
sai lầm về những gì người Phật Tử làm. Nếu người ta
có thể cất những bức ảnh của cha mẹ hay ông bà để làm
kỷ niệm dấu yêu, nếu người ta có thể giữ các bức
hình của các vua, hoàng hậu, thủ tướng, những anh hùng,
triết gia, và thi hào vĩ đại, thì chắc chắn không có lý
gì tại sao người Phật Tử không thể giữ hình tướng vị
Giáo Chủ của họ để tưởng nhớ và tôn kính Ngài. Có gì hại nếu người ta đọc tụng
một vài câu kệ tán dương các phẩm hạnh cao cả của Vị
Giáo Chủ của họ? Nếu người ta có thể đặt các vòng
hoa trên các mộ của nguời thân yêu để bầy tỏ lòng biết
ơn, có điều gì hại nếu người Phật Tử dâng cúng một
vài bông hoa, nén nhang, trầm hương vân vân.. lên vị Đạo
Sư kính mến của họ, người đã hiến dâng cả cuộc đời
để giúp đỡ nhân loại khổ đau? Người ta đã tạc tượng
các anh hùng chiến thắng mà thật ra chính là những kẻ giết
người, những người chịu trách nhiệm về cái chết của
cả triệu triệu người vô tội. Để giữ được uy quyền,
những kẻ chiến thắng đó đã phạm tội giết người bằng
hận thù, tàn bạo và tham lam. Họ đã xâm chiếm các quốc
gia nghèo nàn và tạo biết bao khổ đau không thể kể hết
được, chiếm hữu đất đai, tài sản và gây bao tàn phá
cho người vô tội. Nhiều kẻ chiến thắng này được coi
như anh hùng quốc gia; các cuộc lễ kỷ niệm được tổ chức
cho họ, và hoa được dâng trên bia mộ họ. Có sai quấy gì
không nếu người con Phật dâng lòng thành kính lên Vị Đạo
Sư đã được thế giới vinh danh, người đã hy sanh lạc
thú trần gian để tìm Giác Ngộ và chỉ cho mọi người Con
Đường Giải Thoát? Hình ảnh là tiếng nói của tiềm
thức. Cho nên hình ảnh của Vị Giác Ngộ thường tạo
trong nội tâm ta như một hiện thân của toàn hảo, hình ảnh
xuyên thấu vào chiều sâu của tâm thức (nếu đủ mạnh) có
thể hành hoạt như một cái thắng tự động chống lại những
thôi thúc dao động. Sự quán tưởng tới Đức Phật tạo
niềm hỉ lạc, làm tâm sung mãn, và nâng con người ra khỏi
trạng thái bồn chồn, căng thẳng và khủng hoảng. Như vậy
lễ bái Đức Phật không phải là lời cầu nguyện theo nghĩa
thông thường mà là thiền định. Cho nên, không phải tôn
sùng thần tượng mà là tôn sùng lý tưởng. Do đó người
Phật Tử có thể tìm thấy sức mạnh sung mãn để xây đắp
chốn linh thiêng cho đời mình. Người Phật Tử thanh lọc tấm
lòng cho đến khi cảm thấy xứng đáng được mang hình ảnh
ở nơi linh thiêng sâu thẳm nhất. Người Phật Tử dâng
lòng tôn kính lên bậc vĩ nhân được tượng trưng bằng hình
ảnh. Họ cố gắng đạt cảm hứng từ nhân phẩm cao quý của
Ngài và tích cực noi gương Ngài. Người Phật Tử không coi
hình ảnh Đức Phật như một thần tượng chết bằng gỗ
hay bằng kim khí, hay bằng đất sét. Hình ảnh đó tượng
trưng một cái gì sống động cho những ai hiểu biết và
được thanh tịnh về tư tưởng, lời nói và hành vi của
mình. Hình ảnh của Đức Phật không
ngoài gì hơn là biểu tượng các phẩm hạnh vĩ đại của
Ngài. Không phải là trái tự nhiên mà sự tôn kính sâu xa
Đức Phật đã được bầy tỏ trong một vài tác phẩm nghệ
thuật điêu khắc tuyệt mỹ mà thế giới từng biết đến.
Thật cũng khó hiểu tại sao một số người lại hạ thấp
những ai dâng lòng tôn kính lên hình ảnh tượng trưng các
bậc đạo sư thánh thiện. Hình ảnh trầm lặng và thanh
thoát của Đức Phật là một quan niệm chung về cái đẹp
lý tưởng. Hình ảnh của Đức Phật là tài sản chung cao
quý của nhà văn hóa Á Châu. Không có hình ảnh của Đức
Phật, nơi đâu ta có thể tìm thấy được một nhân phẩm
thanh tịnh, sáng chói và đầy tinh thần giải thoát? Không những chỉ người Á Châu
hay Phật Tử trân trọng hình ảnh Đức Phật. Anatole France
trong cuốn tự thuật của ông viết: "Vào ngày 1 Tháng 5
năm 1890, tôi may mắn đến thăm Viện Bảo Tàng Ba Lê. Nơi
đây có các tượng thần thánh Á Châu ngồi trong thầm lặng
và đơn giản, mắt tôi bỗng nhiên hướng về bức tượng
Đức Phật đang ra hiệu cho nhân loại khổ đau biết mở tâm
hiểu biết và từ bi. Nếu có một vị thượng đế nào
đang đi trên trái đất này, tôi cảm thấy phải là Ngài.
Tôi cảm thấy giống như đang quỳ xuống bên Ngài, và cầu
nguyện với Ngài như với một vị Thượng Đế". Có một vị tướng lãnh tặng bức
hình Đức Phật như để một di sản cho Winston Churchill. Vị
tư?ng này nói: "Khi ông bị xao xuyến và bối rối, tôi
muốn ông hãy nhìn bức hình này, ông sẽ thấy tâm ông được
lắng dịu ". Cái gì đã làm bức thông điệp của Đức
Phật lôi cuốn được những con người đã trau dồi trí thức?
Có lẽ ta tìm được câu trả lời nơi vẻ thanh thoát của
hình ảnh Đức Bổn Sư. Không phải bằng màu sắc và đường
nét mà người ta thể hiện niềm tin của mình nơi Đức Phật
và sự từ bi trong Giáo Lý của Ngài. Bàn tay con người đã
rèn tạc kim khí và thạch đá để tạo hình Đức Phật là
một trong những sáng tạo vĩ đại nhất của thiên tài
nhân loại. Hãy chiêm ngưỡng bức tượng trứ danh tại
Abhayagiri Vihara ở Sri Lanka, hay bức tượng Phật tại Sarnah,
hay những tượng trứ_danh tại Boro-budur. Mắt đầy ánh từ
bi, và bàn tay biểu hiện tâm vô úy, thiện chí và ân phước,
bàn tay như đang gỡ mối dây tư tưởng, hay như đang vẫy gọi
trần gian đến chứng kiến việc tìm thấy Chân Lý của
Ngài. Giáo Pháp đi đến đâu thì hình ảnh của Vị Đại
Đạo Sư đi đến đấy, không chỉ là một vật dụng để
sùng bái mà cũng là một đối tượng để thiền định và
tôn kính. Keyserling nói: "Tôi biết trên thế gian này
không có cái gì hùng vĩ hơn hình ảnh Đức Phật. Hình ảnh
ấy là một hiện thân tuyệt đối toàn hảo của tinh thần
trong lãnh vực thị giác". Một đời sống thật cao đẹp, một
con tim thật trong sạch và khả ái, một cái tâm thật sâu sắc
và giác ngộ, một nhân cách truyền cảm và vị tha - một
cuộc sống toàn bích như vậy, một tấm lòng từ ái như vậy,
một cái tâm trầm tĩnh như vậy, một nhân cách thanh tịnh
như vậy quả thực đáng được tôn kính, đáng được vinh
danh, đáng được cúng dường. Đức Phật là sự toàn bích
cao cả nhất của nhân loại. Hình ảnh Đức Phật là một biểu
tượng tôn giáo, không phải của một người, mà của Phật
Quả mà tất cả ai cũng có thể đạt được dù chỉ có một
số ít. Phật Quả không phải chỉ cho một người mà cho
nhiều người: "Chư Phật thời quá khứ, chư Phật vị
lai, Đức Phật hiện tại; mỗi ngày tôi thành kính tôn thờ". Tuy nhiên không bắt buộc là mỗi
người Phật Tử đều phải có tôn tượng Đức Phật để
tu hành. Những ai có thể kiểm soát được tâm ý và giác
quan, vẫn có thể tu tập không cần đến hình ảnh làm đối
tượng. Nếu người Phật Tử thật sự muốn chiêm ngưỡng
Đức Phật với tất cả vẻ uy nghi lộng lẫy về nhân
dáng, lý tưởng của Ngài, thì phải đem giáo lý của Ngài
mà tu tập trong đời sống hàng ngày. Chính do sự thực
hành giáo pháp của Ngài mà họ có thể đến gần Ngài hơn,
và cảm thấy sự chói sáng tuyệt vời của trí tuệ và từ
bi bất diệt của Ngài. Chỉ kính trọng hình ảnh mà không
theo Giáo Lý Tối Thượng của Ngài thì không phải là con
đường tìm giải thoát. Chúng ta cũng phải nỗ lực để
hiểu tinh thần Đức Phật. Giáo lý của Ngài là con đường
duy nhất cứu độ thế giới xáo trộn này. Mặc dù khoa học
và kỹ thuật đã tiến bộ vượt bực, con người trên thế
giới ngày nay vẫn đầy sợ hãi, lo âu và thất vọng. Câu
giải đáp cho thế giới sôi động của chúng ta nằm trong
Giáo Lý của Đức Phật. Ý NGHĨA VÀ SỰ NHỊN ĂN Nhiều người trên thế giới bị
chết bất thần vì ăn quá độ. Trong Phật Giáo, nhịn ăn được
coi như một phương pháp thực hành tự thu thúc. Đức Phật
khuyên các tỳ kheo không nên ăn thực phẩm đặc (nặng) sau
giờ ngọ (12 Giờ trưa). Cư sĩ tu Bát Quan Trai vào ngày rằm
cũng không dùng thực phẩm nặng sau giờ ngọ. Đôi khi có những lời phê bình
cho cách tu tập này là lập dị. Đây không phải là những
kiểu lập dị của tôn giáo mà là sự hành trì căn cứ trên
tuệ giác về giới đức và tâm lý . Trong Phật Giáo, nhịn ăn là giai
đoạn tiên khởi cho tinh thần kỷ luật tự giác để trau dồi
hạnh thu thúc. Trong mỗi tôn giáo đều có một phương thức
nhịn ăn. Nhịn ăn và hy sinh một bữa trong một ngày hay
trong một thời gian, chúng ta có thể đóng góp thực phẩm
cho người đói hay cho những người thiếu thốn không có đủ
bữa cơm hàng ngày. Leon Tolstoy viết: "Kẻ ăn quá
nhiều không thể tranh đấu chống lại lười biếng, kẻ
tham ăn và biếng nhác không bao giờ có thể tranh đấu chống
lại nhục dục". Cho nên, theo tất cả giáo lý về giới
đức, nỗ lực về tự kiềm chế bắt đầu với việc
tranh đấu chống lại tính tham ăn, bắt đầu với sự nhịn
ăn cũng như điều kiện đầu tiên cho một cuộc sống tốt
đẹp là tự kiềm chế, vậy điều kiện đầu tiên của cuộc
sống tự kiềm chế là nhịn ăn. Các bậc hiền triết tại nhiều
quốc gia thực hành hạnh tự kiềm chế bằng một phương
thức nhịn ăn có quy củ, và đã đạt được đỉnh cao
tinh thần không thể tưởng tượng được. Một nhà tu khổ hạnh bị đánh
đá và tra khảo, tay và chân bị cắt do lệnh của một vị
vua ngông cuồng. Nhưng nhà tu khổ hạnh này, theo chuyện
trong Phật Giáo, đã chịu đựng tra tấn bình thản không
chút gì giận dữ hay sân si. Người đạo hạnh như vậy đã
phát triển sức mạnh tinh thần do sự diệt dục. ĂN CHAY Ta không nên phán đoán sự thanh tịnh
hay bất tịnh của một người đơn giản bằng cách chỉ
nhìn xem người ấy ăn gì. Trong Kinh Amagandha, Đức Phật nói: "Chẳng phải thịt, chẳng
phải nhịn ăn, chẳng phải lõa thể, Ăn cá hay ăn thịt tự nó không
làm cho một người trở thành bất tịnh. Một người tự làm
mình không trong sạch bởi niềm tin mù quáng, gian dối, thèm
muốn, tự đề cao, ô danh và những dụng ý tội lỗi. Do những
tư tưởng và hành động xấu xa của mình tự làm mình bất
tịnh. Không có một giới luật khắt khe nào trong Phật
Giáo nói là tín đồ của Đức Phật không nên ăn cá thịt.
Đức Phật chỉ khuyên là không nên liên quan vào việc giết
chóc có dụng ý hoặc không nên yêu cầu người khác giết
bất cứ chúng sanh nào cho mình. Tuy nhiên những ai ăn chay và
không ăn thịt của thú vật đáng được ca ngợi. Mặc dù không chủ trương các thầy
tu phải ăn chay, Đức Phật vẫn khuyên các thầy không nên
ăn mười loại thịt vì sự tôn trọng và bảo vệ cho
chính các thầy. Mười loại thịt ấy là: người, voi, ngựa,
chó, rắn, sư tử, hổ, báo, gấu, linh cẩu. Một số các
thú vật tấn công người khi chúng ngửi mùi thịt sống
cùng loại với chúng. (Vinaya Pitaka - Tạng Luật) Một đệ tử của Ngài là Đề Bà
Đạt Đa yêu cầu Đức Phật bắt các đệ tử của Ngài
ăn chay, nhưng Ngài từ chối. Vì Đạo Phật là một tôn
giáo tự do, nên Ngài khuyên là để cá nhân các đệ tử tự
mình quyết định việc ăn chay. R‚ ràng Đức Phật không
coi việc ấy là một luật lệ đạo lý quan trọng. Đức Phật
cũng không đả động gì về vấn đề ăn chay của các cư
sĩ Phật Giáo trong giáo lý của Ngài. Jivaka Komarabhacca, một vị lương
y bàn thảo về vấn đề tranh luận này với Đức Phật:
"Bạch Đức Thế Tôn, con có nghe thấy rằng thú vật bị
giết để dành cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố
ý ăn thịt thú vật bị giết để dành cho Ngài. Thưa Thế
Tôn, có phải người ta nói thú vật bị giết là để cho
Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật
bị giết vì mục đích để dâng cho Ngài Cồ Đàm. Họ buộc
tội sai cho Đức Phật phải không? Hay đó là họ nói sự
thật? Những lời tuyên bố và những lời giải thích thêm
của Ngài phải chăng là đề tài bị người khác báng nhạo
bằng một thái độ nào đó?" "Này Jivaka, những ai nói:
'Thú vật bị giết là để cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ
Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết để dâng cho
mình', không nói đúng điều ta nói, họ đã buộc tội ta
không đúng. Này Jivaka, ta đã nói là không nên ăn thịt, nếu
nhìn thấy, nghe thấy hay nghi ngờ thịt đó do thú vật bị
giết để dâng cho các thầy tỳ kheo. Ta cho phép các thầy tỳ
kheo dùng thịt trong ba điều kiện: Nếu không nhìn thấy,
không nghe và không nghi ngờ thịt do thú vật bị giết để
cung cấp cho các thầy tỳ kheo" (Kinh Jivaka). Trong một số quốc gia, Phật Tử
Trường Phái Đại Thừa chỉ ăn chay. Sự tuân hành này dưới
danh nghĩa tôn giáo đáng tán dương nhưng chúng ta phải nhấn
mạnh là họ cũng không nên buộc tội những người không
ăn chay. Họ phải hiểu rằng không có giới luật trong Giáo
Lý nguyên thủy của Đức Phật bắt tất cả người Phật
Tử phải ăn chay. Chúng ta phải nhận thức Phật Giáo là
con đuờng Trung Đạo. Phật Giáo là một tôn giáo tự do,
và lời khuyên của Đức Phật là không cần thiết đi đến
cực đoan để thực hành lời Ngài dạy. Ăn chay không thôi không thể giúp
cho một người trau dồi nhân phẩm. Có những người mộ đạo
thuần thành khả ái, nhữn nhặn và lễ phép giữa những người
không ăn chay. Cho nên ta không nên bỏ qua quan điểm là một
người trong sạch, mộ đạo là phải ăn chay. Mặt khác, nếu bất cứ ai nghĩ rằng
con người nếu không ăn thịt cá thì không thể sống khỏe
mạnh, không cần thiết phải theo điều đó vì không đúng:
hàng triệu người ăn chay trên khắp thế giới mạnh hơn và
có sức khỏe hơn những người ăn thịt. Những ai phê bình Phật Tử ăn thịt
không hiểu thái độ của đạo Phật về thực phẩm. Mỗi
chúng sanh cần có thực phẩm. Chúng ta ăn để sống. Như vậy
con người cần phải cung cấp cho thân xác thực phẩm cần
thiết để giữ cho được khỏe mạnh và có đủ năng lực
làm việc. Tuy nhiên, do kết quả của sự gia tăng của cải,
càng ngày càng nhiều người, nhất là trong các quốc gia
phát triển, đơn giản ăn để thỏa mãn khẩu vị của họ.
Nếu ta tham đắm vào bất cứ loại thực phẩm nào, hay giết
thú vật để thỏa mãn thói tham ăn thịt của mình thì điều
đó là sai quấy. Nhưng nếu một người ăn thịt chẳng phải
vì tham lam, và không trực tiếp liên can vào hành động giết
mà chỉ là để trợ sức cho xác thân vật chất, người đó
thực hành hạnh tự chế. NGÀY TRĂNG TRÒN (RẰM) VÀ CÁC TẬP
TỤC ĐẠO GIÁO. Những sự kiện nổi bật trong cuộc
đời Đức Phật đều sẩy ra vào những ngày trăng tròn. Nhiều người muốn biết ý nghĩa
tôn giáo của ngày trăng tròn (ngày 15 âm lịch) và ngày trăng
mới xuất hiện (mồng một âm lịch). Với người Phật Tử,
những ngày này có một ý nghĩa tôn giáo đặc biệt nhất là
ngày trăng tròn vì một số biến cố quan trọng và nổi bật
liên quan với đấng Thế Tôn đều sẩy ra vào những ngày rằm.
Đức Phật sanh ra vào ngày trăng tròn. Ngài xuất gia vào
ngày trăng tròn. Ngày Ngài Giác Ngộ, ngày Ngài thuyết giảng
bài Pháp đầu tiên, ngày Ngài nhập Niết Bàn, và những biến
cố quan trọng trong suốt cuộc sống 80 năm tại thế của
Ngài, đều xẩy ra vào ngày trăng tròn. Phật Tử trên khắp thế giới rất
kính trọng những ngày trăng tròn. Vào ngày này, họ nhiệt
tình giữ giới luật, tu tập thiền định, và tránh đời sống
nhục dục thế gian. Vào ngày này họ chú ý hướng vào việc
phát triển tinh thần. Ngoài những người Phật Tử, có những
người đạo khác cũng tin tưởng có một ý nghĩa tôn giáo
nào đó liên quan đến những tuần trăng. Họ cũng tuân theo
một số kỷ luật như nhịn ăn và cầu nguyện vào ngày trăng
tròn. Niềm tin cổ xưa của Ấn nói trăng
kiểm soát nước, và lưu hành qua vũ trụ, hỗ trợ tất các
các sinh vật, trăng là bộ phận tương ứng của nước trên
thiên giới "amrta" để các thần thánh dùng. Sương
và mưa trở thành nhựa cây, nhựa trở thành sữa bò, và sữa
biến thành máu - nước Amrta, nhựa, sữa, máu tượng trưng
những trạng thái khác nhau của một loại thuốc trường
sanh. Cái bình hay cái ly tách đựng chất lỏng bất diệt này
là trăng. Người ta cũng tin rằng mặt
trăng, giống như các hành tinh khác, ảnh hưởng một mức
độ nào đó đến con người. Người ta nhận thấy một số
người đau thần kinh có những cảm nghĩ say mê và xúc động
vào những ngày trăng tròn. Chữ "người điên"
(lunatic) nguồn gốc từ chữ (lunar) mặt trăng, rất có ý
nghĩa và cho thấy rõ ràng ảnh hưởng của trăng đến đời
sống con người. Một số người đau đớn bởi những hình
thức bệnh hoạn khác cũng thấy bệnh nặng thêm vào thời
điểm này. Các nhà nghiên cứu tìm thấy một số các tuần
trăng không những ảnh hưởng đến người và vật, mà cũng
ảnh hưởng đến đời sống cây cỏ và các thành phần
khác. Nước thủy triều lên xuống là kết quả trực tiếp
của ảnh hưởng áp đảo bởi trăng. Thân xác chúng ta gồm có 70 phần
trăm chất lỏng. Các thầy thuốc nhận thấy chất nuớc
trong thân chảy mạnh hơn vào ngày trăng tròn. Những người
bệnh suyễn, viêm cuống phổi, và cả đến một số bệnh
ngoài da thấy bệnh nặng thêm do ảnh hưởng của trăng. Trên
năm ngàn năm qua, người ta đã nhận thấy ảnh hưởng của
trăng về trồng trọt. Người nông dân chú ý đặc biệt đến
ảnh hưởng của con trăng về mùa màng của họ. Họ biết
một số các hạt giống hay thóc bị ảnh hưởng khi lúc nở
hoa vào lúc trăng tròn. Y khoa cũng xác định những phản ứng
khác biệt của một số thuốc dưới khía cạnh khác nhau của
trăng vì ảnh hưởng của mặt trăng với con người. Về quan điểm có thể có ảnh hưởng
của trăng, những nhà hiền triết thời xưa khuyên người
ta nên giảm bớt những công việc ràng buộc vào ngày đặc
biệt này và hãy nên coi nhẹ mọi sự để ngày đó êm ả
trôi qua. Ta nên để tinh thần được nghỉ ngơi vào ngày
này và dành nó cho mục tiêu tinh thần. Tất cả những ai
phát triển tâm ý đến một mức độ cao nào đó có thể
đạt giác ngộ khi trí óc đang ở trong trạng thái tỉnh thức.
Những ai không rèn luyện tâm ý bằng kỷ luật tôn giáo có
khả năng bị ảnh hưởng mạnh mẽ của trăng. Đức Phật
đạt giác ngộ vào ngày trăng tròn vì Ngài đã phát triển
và điều hòa sự kiện này một cách đứng đắn trong một
thời gian dài. Ngày xưa, một số các quốc gia
Phật Giáo lấy ngày trăng tròn và ngày trăng mới là những
ngày lễ chung và dân chúng được khuyến khích dành những
ngày này vào việc trau dồi tinh thần. Chỉ từ sau khi thuộc
địa thực dân xuất hiện, những ngày lễ công cộng này
đã bị đổi vào Ngày Chủ Nhật. Trên phương diện này, một
số các quốc gia Phật Giáo đang cố gắng tái lập hệ thống
ngày lễ theo hệ thống âm lịch cũ. Ta nên lấy ngày trăng
tròn là ngày tôn giáo để tập trung vào an lạc và hạnh
phúc bằng cách lắng đọng các giác quan. Nhiều Phật Tử
tu tập Bát Quan Trai Giới vào ngày trăng tròn, giải thoát
các ràng buộc gia đình, tránh các lạc thú trần tục đạt
an lạc nội tâm cho việc nâng cao tinh thần. Ảnh hưởng của
trăng vào đời sống và trái đất đã và đang được phân
tích một cách khoa học. Một nhà văn viết: "Tôi đọc
một bài trong một tạp chí khoa học Hoa Kỳ mới đây, tác
giả đã đem những gì đã nghiên cứu được cho tới nay về
mặt trăng và cho thấy vật thể lâu đời lâu kiếp này của
bầu trời ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta một
cách cụ thể ra sao, nhất là vào tuần trăng thứ tư khi
trăng qua chu kỳ 28 ngày." Sự nghiên cứu này, chủ trương
bởi các Trường Đại Học Hoa Kỳ, Yale, Duke và Northwestern
với tính cách hoàn toàn độc lập, những đại học này đã
khám phá bằng chứng hết sức ngạc nhiên là mặt trăng giữ
một vai trò lớn trong đời sống hàng ngày của chúng ta,
và cả đến đời sống của tất cả mọi sinh vật. Chúng ta được đoan quyết là
không có gì huyền bí trong hiện tượng về các tuần trăng
đã thật sự thôi thúc các hành động về thân như sửa đổi
sự trao đổi chất, nạp điện, và độ acid (vị chua) trong
máu. Một trong những thí nghiệm then
chốt thực hành để thiết lập sự kiện là thí nghiệm
các đàn cua, chuột nhắt và một số cây. Tất cả đều
được đặt vào phòng không bị ảnh hưởng của điều kiện
thời tiết, nhưng để chúng chịu sức ép của không khí,
ẩm thấp, ánh sáng và khí hậu trong điều kiện được kiểm
soát. Hàng trăm lần quan sát cho thấy một
sự kiện đặc biệt là tất cả thú vật và cây cối hoạt
động trên một chu kỳ 28 ngày. Sự thay đổi chất giảm xuống
với ngày trăng mới mọc cao hơn 20 phần trăm vào ngày trăng
tròn. Sự sai biệt này được mô tả là một mức biến đổi
nổi bật. Có lần một nữ y tá tại Florida
nói với một bác sĩ là bà ta nhận thấy hiện tượng máu
chảy sẩy ra nhiều hơn vào những ngày trăng tròn. Giống như
tất cả các bác sĩ hoài nghi về những loại tin tưởng này
nên ông bác sĩ chỉ cười về câu nói này. Nhưng bà y tá, không nao núng sờn
lòng, đã đem những hồ sơ giải phẫu cho thấy rõ ràng,
vào những ngày trăng tròn, nhiều bệnh nhân đã phải quay về
phòng mổ nhiều hơn bất cứ thời gian nào khác để điều
trị vì máu chảy quá nhiều sau giải phẫu. Để thỏa mãn
cho chính mình, vị bác sĩ nọ bắt đầu thiết lập hồ sơ
theo dõi cho riêng mình và đã đi đến kết luận tương tự.
Khi ta xét đến tất cả những sự kiện này, ta có thể hiểu
được tại sao tổ tiên và các vị đạo sư chúng ta khuyên
hãy thay đổi nếp sống bình thường hàng ngày để cho tâm
và thân được nghỉ ngơi vào ngày trăng tròn hay ngày trăng
mới mọc. Tu tập tôn giáo là một phương pháp rất thích
đáng cho ta kinh nghiệm an lạc tinh thần và thư giãn thân thể.
Người Phật Tử chỉ đơn thuần gìn giữ trí tuệ trong
quá khứ khi tinh tấn dành nhiều thì giờ hơn nữa cho những
sinh hoạt tinh thần trong những Ngày Trăng Mới và Ngày Trăng
Tròn. -ooOoo- Ðầu
trang
| Mục lục | 01 |
02 | 03 | 04
| 05a | 05b | 06
| 07 | 08 | 09
| 10 | 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16
| 17 Chân thành cám ơn Tỳ-kheo
Thích Tâm Quang đã gửi tặng phiên bản điện tử Xem bản Anh ngữ: What
Buddhists believe [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang dịch Việt
Mà chỉ để không sợ khi đối đầu với chúng
Đừng cho tôi khẩn cầu êm đi cơn đau đớn
Mà chỉ để tim tôi vượt thắng được cơn đau
Đừng cho tôi khát khao được cứu khỏi lo sầu
Mà chỉ để kiên nhẫn thắng tự do ham muốn".
Chẳng phải cạo đầu, chẳng phải bện tóc, chẳng phải
trát đất,
Chẳng phải da xù xì, chẳng phải thờ thần lửa
Chẳng phải tự hành xác nơi đây trong thế giới này
Chẳng phải thánh ca, chẳng phải hiến cúng, chẳng phải
tế thần
Chẳng phải hội mừng mùa màng
Có thể làm một kẻ tâm đầy hoài nghi trở thành trong sạch."
(Bình Anson, tháng 11-2001)
updated: 03-11-2001