NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
45 Hạ (Vassa) của Đức-Phật
Gotama
Theo lệ thường, Chư Phật không ở một nơi nào suốt
trong thời gian lâu, chỉ khi nào đến mùa an cư nhập hạ, khi ấy, Chư Phật mới ở
một nơi suốt ba tháng đầu mùa mưa (vassa) (1) (kể từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9) theo
truyền thống của Chư Phật.
Từ khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế
gian cho đến khi tịch diệt Niết-bàn, Đức-Phật chỉ có 45 hạ mà thôi.
Theo thông lệ, Đức-Phật thường du hành khắp mọi nơi,
thuyết pháp tế độ cho những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, trong khoảng thời
gian mau hoặc lâu tùy duyên. Nhưng đến mùa an cư nhập hạ, Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng
ở một nơi nào đó suốt ba tháng đầu trong mùa mưa.
Khi mãn hạ, Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng du hành đến
những nơi khác để thuyết pháp tế độ chúng- sinh có duyên lành nên tế độ.
Tuần tự 45 hạ của Đức-Phật
Tóm lược những điểm đặc biệt mỗi hạ của Đức-Phật:
1- Hạ đầu tiên: Sau khi thuyết bài kinh Chuyển-Pháp-Luân
(Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên vào ngày rằm tháng 6 để tế độ
nhóm 5 tỳ-khưu, chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Ngài Đại-Trưởng-lão
Aññāsikoṇḍañña là bậc Thánh Thanh- văn đệ-tử cũng là vị tỳ-khưu
đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Ngay khi ấy, Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo
trọn vẹn xuất hiện đầu tiên trên thế gian.
Ngày 16 tháng 6, ngày bắt đầu vào bốn tháng mùa mưa, Đức-Phật
Gotama cùng với nhóm năm tỳ-khưu an cư nhập hạ thứ nhất tại
vườn phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī suốt ba tháng,
cho đến ngày 16 tháng 9 mới mãn hạ.
Vào những ngày đầu an cư nhập hạ từ ngày 16 tháng 6
cho đến ngày 19 tháng 6, theo tuần tự mỗi ngày:
- Ngày 16 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Vappa chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn,
trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi
Bhikkhu”.
Cũng như vậy, ngày 17 tháng 6, Ngài Trưởng-lão
Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho
phép thọ tỳ-khưu.
- Ngày 18 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Mahānāma trở
thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
- Ngày 19 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Assaji chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả,
Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho
phép thọ tỳ-khưu.
Đức-Phật đều cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi
“Ehi Bhikkhu”.
- Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh
Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã, để tế độ nhóm năm tỳ-khưu, tất
cả đều chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, Bất-lai
Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả,
Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Như vậy, năm vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử
của Đức-Phật Gotama đầu tiên xuất hiện trên cõi người, trong những ngày
đầu mùa hạ.
Sau đó, Đức-Phật thuyết pháp tế độ công-tử Yasa
cùng với 54 người bạn của công-tử đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi
xuất gia trở thành tỳ-khưu, thêm 55 vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của
Đức-Phật.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật và 60 vị Thánh A-ra-hán, mỗi
Vị đi một con đường, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ.
2- Hạ thứ nhì: Đức-Phật cùng với 20.000
chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần
kinh-thành Rājagaha. Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du
hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
3-4 Hạ thứ ba và thứ tư: Đức-Phật ngự
du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ. Đến
mùa mưa Đức-Phật trở lại an cư nhập hạ thứ ba và thứ tư cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng
tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha.
5- Hạ thứ năm: Đức-Phật cùng với chư
Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn
gần kinh-thành Vesālī.
Khi ấy, bà Mahāpajāpatigotamī cùng 500 người
nữ dòng Sakya tự cạo đầu mặc y giống như bậc xuất-gia, đi chân không từ
kinh-thành Kapilavatthu đến kinh-thành Vesālī, đứng khóc trước cổng giảng đường
Kuṭāgāra vì tủi thân do Đức-Phật chưa cho phép người nữ xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni
trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Ngài Trưởng-lão Ānanda gặp bá-mẫu
Mahāpajāpatigotamī mới hiểu rõ ý nguyện của bà, nên vào hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn,
xin Ngài cho phép người nữ được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Đức-Thế-Tôn truyền
dạy rằng:
Nếu nhũ-mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận tám trọng-pháp
(garudhamma) thì đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của nhũ-mẫu.
Ngài Trưởng-lão Ānanda trở ra thưa lại cho bá
mẫu Mahāpajāpatigotamī rõ tám trọng-pháp ấy. Bà vô cùng hoan-hỷ chấp thuận
tám trọng-pháp ấy và nghiêm chỉnh thực hành đầy đủ trọn vẹn cho đến suốt đời.
Đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của bà
Mahāpajāpatigotamī, còn 500 người nữ dòng Sakya xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni lần
đầu tiên do tỳ-khưu- Tăng hành-tăng-sự theo cách tụng ñatticatutthakam- mavācā
(từ đó về sau, xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni theo cách Aṭṭhavācīkūpasampadā do
Tăng hai phái: tỳ-khưu- ni-tăng trước và tỳ-khưu-tăng sau).
Như vậy, tỳ-khưu-ni-tăng xuất hiện trong giáo-pháp của
Đức-Phật Gotama bắt đầu từ hạ thứ năm của Đức- Phật, tại giảng đường Kuṭāgāra,
trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.
6- Hạ thứ sáu: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức
tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại núi Makula trong đất nước Magadha.
Một sự việc xảy ra, ông phú hộ Rājagaha có một
gốc cây trầm đỏ rất quý giá, ông cho thợ tiện một cái bát rồi treo trên một cây
cao và thông báo rằng:
“Trong đời này, nếu có vị nào là bậc Thánh A-ra-hán
có thần-thông thì xin vị ấy bay lên lấy cái bát trầm này, tôi sẽ phát sinh đức-tin
nơi vị ấy.”
Sáu nhóm ngoại đạo thường tự cho mình là bậc A-ra- hán
có nhiều thần-thông, đều đến xin ông phú hộ dâng cái bát trầm ấy, nhưng ông phú
hộ thưa rằng:
“Nếu Ngài là bậc A-ra-hán có thần-thông thì xin
Ngài bay lên lấy cái bát trầm xuống đây.”
Đã sáu ngày qua, không có một vị nào bay lên lấy cái
bát trầm ấy được, nên dân chúng trong thành Rājagaha thầm nghĩ rằng:
Trong đời này không có bậc Thánh A-ra-hán chăng?
Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và
Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja đi vào khất thực trong kinh-thành
Rājagaha. Khi nghe tin như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bảo Ngài
Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja bay lên lấy cái bát trầm, để đem lại đức-tin
cho mọi người.
Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja dùng phép thần-thông
bay lên lấy cái bát trầm ấy, rồi bay ba vòng quanh kinh-thành Rājagaha, rồi đáp
nhẹ xuống ngôi nhà ông phú hộ. Ông phú hộ phát sinh đức-tin trong sạch, thỉnh Ngài
Trưởng-lão vào lâu đài, ngồi trên chỗ cao quý, rồi đảnh lễ Ngài Trưởng-lão
và đón nhận cái bát, cúng dường vật thực dâng lên Ngài Trưởng-lão.
Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja trở về chùa,
có số đông dân chúng chưa được tận mắt nhìn thấy Ngài Trưởng-lão biểu diễn thần
thông, nên họ kéo nhau đến tìm Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài Trưởng-lão biểu
diễn thần-thông cho họ xem.
Khi ấy, Đức-Phật biết sự việc xảy ra, nên hội họp
chư tỳ-khưu-Tăng lại, rồi Đức-Phật quở trách Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja
rằng:
- Này Piṇḍolabhāradvāja! Chỉ có cái bát trầm này mà
con biểu diễn thần-thông cho người tại gia xem. Đó không phải là phận sự của
Sa-môn, không làm phát sinh đức-tin đối với người chưa có đức-tin.
Đó là nguyên nhân đầu tiên, Đức-Phật chế định cấm tỳ-khưu
không được biểu diễn phép thần-thông cho người tại gia xem. Tỳ-khưu nào biểu diễn
phép thần- thông, tỳ-khưu ấy phạm giới dukkaṭa (hành không tốt).
Sau đó, Đức-Phật truyền dạy đập bể cái bát trầm ra từng
mảnh nhỏ, tán mịn làm thuốc nhỏ mắt cho tỳ-khưu đau mắt.
7- Hạ thứ bảy: Đức-Phật ngự lên cung trời
cõi Tam- thập-tam-thiên để an cư nhập hạ suốt 3 tháng (2) trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi-
Diệu-Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộ Vibhaṅga, bộ
Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Paṭṭhāna, để
tế độ Phật-Mẫu (kiếp hiện-tại là vị thiên-nam Santussita từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên
hiện xuống).
Vị thiên-nam Santussita chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh- đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn,
trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cùng với 800 ngàn triệu (800 tỷ)
chư-thiên, phạm-thiên trở thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo
ba-la-mật của mỗi vị.
Vào ngày 16 tháng 9, Đức-Phật từ cõi trời Tam-thập-Tam-thiên
trở về cõi người, tại cổng thành xứ Saṅkassa, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, chư tỳ-khưu-ni-Tăng,
cận- sự-nam, cận-sự-nữ đông đảo đón rước Đức-Phật.
8- Hạ thứ tám: Đức-Phật cùng với chư
Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong khu rừng Bhesakaḷavana
vùng Bhaggajanapada, để tế độ dân chúng làng Susumāragira.
9- Hạ thứ chín: Đức-Phật cùng với
chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Ghositārāma gần
kinh-thành Kosambi.
10- Hạ thứ mười: Hai nhóm tỳ-khưu xứ
Kosambi cãi cọ nhau, Đức-Phật khuyên giải nhưng họ không chịu nghe lời, nên Đức-Phật
ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ một mình, suốt 3 tháng mùa
mưa.
Khu rừng Pālileyyaka ở khoảng giữa kinh-thành
Kosambi và kinh-thành Sāvatthi.
11- Hạ thứ mười một: Đức-Phật ngự đến tỉnh
lỵ Dakkhiṇagiri cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi an cư nhập hạ tại
ngôi chùa Dakkhiṇagiri, gần xóm nhà Bà- la-môn Ekanāḷa để tế độ ông
Bà-la-môn Kasibhāradvāja xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi tỳ-khưu Kasibhāradvāja
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
12- Hạ thứ mười hai: Đức-Phật cùng
với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bà-la-môn Verañjā.
Trong thời ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn
đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho
nên, chư tỳ-khưu đi khất thực không được vật thực.
Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ
xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư
tỳ-khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước-thiện bố-thí cúng
dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày
dâng cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu.
Đặc biệt dâng cúng dường Ngài Trưởng-lão Ānanda những
món bơ, mật ong, đường, ... để Ngài Trưởng-lão Ānanda làm vật thực dâng
cúng lên Đức-Phật.
Trong 3 tháng an cư nhập hạ ấy, Đức-Phật cùng chư Đại-đức
tỳ-khưu-Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ (Đó là một trong những quả
ác-nghiệp cũ của Đức-Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có ảnh hưởng đến chư tỳ-khưu
gần gũi với Đức-Phật).
13- Hạ thứ mười ba: Đức-Phật an
cư nhập hạ tại một ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu, trong xứ
Cāliya.
Từ hạ đầu tiên cho đến hạ thứ mười ba này, Đức-Phật
chưa có một vị tỳ-khưu nào là thị giả thường trực chăm sóc phục vụ Đức-Phật,
khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác thay đổi nhau phục vụ Đức-Phật.
Trong mùa hạ này, vị tỳ-khưu Meghiya là thị giả
của Đức-Phật. Một hôm, vị tỳ-khưu đi khất thực trong xóm Jantu, nhìn thấy ngoài
vườn xoài bên bờ sông, một cảnh đẹp thiên nhiên, yên tĩnh, đáng hài lòng, nên tỳ-khưu
Meghiya muốn đến nơi đó để thực hành pháp-hành-thiền.
Khi trở về, tỳ-khưu Meghiya vào hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn,
xin Đức-Thế-Tôn cho phép đi đến nơi đó để thực hành pháp-hành-thiền theo ý muốn
của mình.
Đức-Phật xem xét thấy chưa hợp thời, nên dạy rằng:
- Này Meghiya! Con nên chờ có một vị tỳ-khưu khác đến
thay thế, rồi con hãy đi.
Đức-Phật truyền bảo như vậy, tỳ-khưu Meghiya vẫn năn nỉ
xin đi, Đức-Phật khuyên dạy ba lần mà tỳ-khưu Meghiya không chịu nghe lời, biết
ngăn không được, nên Đức-Phật đành phải cho phép.
Tỳ-khưu Meghiya đảnh lễ Đức-Phật rồi ra đi, để Đức- Phật
ở lại một mình trên núi Cāliya.
Khi tỳ-khưu Meghiya đến vườn xoài ngồi thực hành
pháp-hành-thiền, thì tâm tà-tư-duy phát sinh làm cho tâm nóng nảy, bực bội nên
không thể thực hành pháp-hành thiền-định, cũng không thể thực hành pháp-hành
thiền-tuệ, nên tỳ-khưu Meghiya trở về hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, người xuất-gia với đức-tin
trong sạch nơi Tam-Bảo, khi tà-tư-duy, bất-thiện-pháp phát sinh làm trở ngại sự
thực hành pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có những pháp nào để diệt
tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ? Bạch Ngài.
Đức-Phật dạy rằng:
- Này Meghiya! Hành-giả chưa diệt được phiền-não trầm-luân
thì cần phải có đủ năm pháp:
1- Có bạn lành, bạn tốt.
2- Là người có giới-hạnh trong sạch, giữ gìn cẩn trọng
trong giới-luật, giữ gìn thân và khẩu trong sạch thanh- tịnh, đi lại nơi an
toàn cho phạm-hạnh, thường thấy tai họa lớn trong lỗi nhỏ.
3- Là người biết tri túc trong 4 thứ vật dụng hằng
ngày.
4- Có tâm tinh-tấn không ngừng diệt ác-pháp, làm cho
thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
5- Có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự-sinh, sự-diệt
của danh-pháp, sắc-pháp dẫn đến sự diệt phiền-não trầm luân, giải thoát khổ.
Đó là năm pháp diệt tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp-
hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Tỳ-khưu Meghiya vâng lời dạy của Đức-Phật. Về sau
không lâu, tỳ-khưu Meghiya thực hành pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán.
14- Hạ thứ mười bốn: Đức-Phật an
cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh-thành
Sāvatthi. Trong mùa hạ này, Sa-di Rāhula tròn đủ 20 tuổi được
nâng lên bậc tỳ-khưu, do Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta là Thầy tế-độ
(upajjhāya) và Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là Thầy tụng
tuyên- ngôn và thành-sự-ngôn (ācariya).
Đức-Phật biết rõ tỳ-khưu Rāhula đã có đầy đủ 10
pháp-hạnh ba-la-mật, nên Đức-Phật dự định thuyết pháp tế độ tỳ-khưu Rāhula diệt
tận được mọi phiền-não trầm luân.
Hôm ấy, sau khi ngự đi khất thực trong kinh-thành
Sāvatthi trở về, Đức-Phật truyền dạy tỳ-khưu Rāhula đem tọa cụ (tấm
vải lót ngồi) đi vào rừng ở phía Nam kinh-thành Sāvatthi để nghỉ trưa.
Vô số chư-thiên, phạm-thiên cùng đi theo tỳ-khưu
Rāhula, do biết rằng Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ tỳ- khưu Rāhula
diệt tận mọi phiền-não trầm-luân.
Đức-Phật thuyết dạy bài kinh Cūḷarāhulovādasutta:
Kinh dạy tỳ-khưu Rāhula trẻ. Sau khi lắng nghe xong bài kinh, tỳ-khưu
Rāhula chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu
Thánh- quả, Niết-bàn cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn,
diệt tận được mọi phiền-não trầm- luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao
thượng cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.
Đồng thời trong khi ấy, vô số chư-thiên, phạm-thiên
cũng trở thành Thánh bậc cao hoặc bậc thấp tùy theo năng lực của các
pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm
pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị chư-thiên, phạm-thiên.
15- Hạ thứ mười lăm: Đức-Phật cùng
với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh-thành Kapilavatthu. Đức-vua
Mahānāma thuộc dòng họ Sakya đã xây cất chỗ ở để dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng
có Đức-Phật chủ trì.
Đức-Phật thuyết pháp giảng dạy về quả báu cao quý của
phước-thiện bố-thí cúng dường chỗ ở đến chư tỳ- khưu-Tăng.
16- Hạ thứ mười sáu: Đức-Phật tế
độ được dạ-xoa Āḷavaka rất hung dữ hơn cả Ác-ma-thiên. Dạ-xoa Āḷavaka
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu
Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Sau khi tế độ dạ-xoa Āḷavaka xong, Đức-Phật an
cư nhập hạ tại ngôi tháp Aggāḷava trong xứ Āḷavī, để tế độ Đức-vua Āḷavaka
cùng dân chúng trong xứ.
17- Hạ thứ mười bảy: Đức-Phật
cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana
gần kinh-thành Rājagaha.
18-19- Hạ thứ mười tám và mười
chín: Đức-Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành
nên tế độ khắp mọi nơi. Khi gần đến mùa mưa, Đức-Phật ngự đến ngôi chùa trên
núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya an cư nhập hạ suốt ba tháng
trong mùa mưa.
20- Hạ thứ hai mươi: Đức-Phật
cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana,
gần kinh-thành Rājagaha.
Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức-Phật
chưa có một vị tỳ-khưu nào làm thị giả thường trực để lo chăm sóc phục vụ
Đức-Phật; khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác: các vị tỳ-khưu như tỳ-khưu
Nāgasamāla, tỳ-khưu Nāgita, tỳ-khưu Upavāṇa, tỳ-khưu Sunakkhatta, tỳ-khưu
Cunda, tỳ-khưu Sāgata, tỳ-khưu Meghiya, ... thay đổi nhau làm phận sự phục
vụ Đức- Phật, chưa có một vị tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày
đêm lo chăm sóc Đức-Phật.
Đôi khi, Đức-Phật ngự đi khất thực một đường, vị tỳ-
khưu ôm bát theo Đức-Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức-Phật
xuống đất rồi đi theo ý của mình, hoặc đôi khi có vị tỳ-khưu đang phục vụ Đức-Phật
thì xin đi thực hành pháp-hành-thiền một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức-Phật
mà không có vị tỳ-khưu nào lo chăm sóc phục vụ cho Đức-Phật.
Trong mùa hạ này, một hôm, Đức-Phật đang ngự tại
cốc Gandhakuṭi, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng
đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi tụ hội xung quanh. Đức-Phật truyền
dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Nay Như-Lai đã lớn tuổi rồi, các
tỳ-khưu đến chăm sóc, phục vụ Như-Lai, đôi khi Như-Lai đi khất thực một đường,
vị tỳ-khưu ấy mang bát theo Như-Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của
Như-Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình, ...
- Này chư tỳ-khưu! Các con nên chọn một vị tỳ-khưu làm
thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như-Lai.
Khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão
Sāriputta đảnh lễ Đức-Phật chắp hai tay bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin được làm thị giả
thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn không chấp thuận theo lời xin của Ngài
Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Tiếp đến Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna
bạch xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại-Thanh-văn
đều xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả.
Ngài Trưởng-lão Ānanda làm thị giả thường trực
Duy chỉ còn Ngài Trưởng-lão Ānanda đang ngồi im
lặng, chư Đại-đức tỳ-khưu động viên khuyến khích Ngài Trưởng-lão Ānanda
bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-
Tôn, chắp hai tay bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin Đức-Thế-Tôn tám đặc
ân, nếu Đức-Thế-Tôn ban cho con đủ tám đặc ân ấy thì con sẽ xin làm thị giả thường
trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.
4 Đặc ân khước từ
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con tấm y tốt
mà Ngài có.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con vật thực
ngon lành mà Ngài có.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con được ở chung
với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.
4- Kính xin Đức-Thế-Tôn không cho con đi theo Ngài đến
nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
- Này Ānanda! Con xét thấy bất lợi như thế nào mà
con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con muốn tránh những lời dèm
pha của người khác cho rằng:
“Con xin làm thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn để
mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức-Thế-Tôn, được đi theo Đức-Thế-Tôn
đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài.”
Đức-Thế-Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của
Ngài Trưởng-lão Ānanda.
4 đặc-ân khẩn khoản
1- Kính xin Đức-Thế-Tôn ngự đến nơi mà con đã nhận
lời thỉnh mời.
2- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con dẫn các người từ
các phương xa đến hầu Ngài.
3- Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được vào hầu
Ngài, để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
4- Đức-Thế-Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt,
kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con nghe.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
- Này Ānanda! Con xét thấy những điều lợi ích như
thế nào mà con xin bốn đặc-ân khẩn khoản như vậy?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
* Đặc-ân thứ nhất: Những người có đức-tin trong
sạch nơi Tam-Bảo đến hầu thỉnh Đức-Thế-Tôn mà không gặp được Ngài, thì cho phép
con nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức-Thế-Tôn không ngự đi đến nơi đó thì họ sẽ
nghĩ rằng:
“Con là người thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn, vậy
mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho họ được.”
* Đặc-ân thứ nhì: Những người từ các phương xa
đến hầu Đức-Thế-Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn để nghe
pháp thì họ sẽ nghĩ rằng:
“Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn,
nghe Ngài thuyết pháp, nhưng vị tỳ-khưu thị giả của Đức-Thế-Tôn cũng không giúp
cho chúng ta được có cơ hội ấy.”
Như vậy, họ sẽ giảm đức-tin nơi Tam-Bảo.
* Đặc-ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức-Thế-
Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin phép hỏi lại pháp ấy, Đức-Thế-Tôn giảng
giải cho con được hiểu rõ, để con được thuận lợi cho việc thực hành pháp-hành
thiền-tuệ của con.
* Đặc-ân thứ tư: Có người hỏi con rằng:
“Bài kinh này, pháp này, tích tiền-kiếp này, ... Đức-
Thế-Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”
Nếu con trả lời với họ rằng: “Tôi không biết” thì họ sẽ
nghĩ rằng:
“Ngài Trưởng-lão Ānanda là thị giả của Đức-Thế- Tôn, vậy
mà bài kinh ấy, pháp ấy, tích tiền-kiếp ấy, ... cũng không biết.”
Cho nên, kính xin Đức-Thế-Tôn thuyết lại những pháp ấy
cho con, để con có thế trả lời cho họ hiểu rõ.
Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda giải thích
sự lợi ích của mỗi đặc-ân, nên Đức-Phật chấp thuận đủ tám đặc-ân của Ngài
Trưởng-lão Ānanda.
Bắt đầu từ thời gian ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda chính
thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn, cho đến
lúc Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn.
Sở dĩ, Ngài Trưởng-lão Ānanda được địa vị thị
giả thường trực của Đức-Phật Gotama, là vì tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão
đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức-Phật. Lời
phát nguyện trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã được Đức-Phật
Padumuttara thời quá-khứ thọ ký và Ngài Trưởng-lão cũng đã thực hành
10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để thành-tựu ý nguyện ấy.
21- 44- Hạ thứ hai mươi mốt đến hạ
thứ bốn mươi bốn
45 hạ của Đức-Phật chia ra hai thời-kỳ:
* Thời-kỳ đầu: Kể từ hạ đầu tiên đến hạ thứ 20,
mỗi hạ Đức-Phật an cư nhập hạ nơi nào, tế độ cho chúng- sinh nào được ghi chép
lại rõ ràng.
* Thời-kỳ cuối: Kể từ hạ thứ 21 đến hạ thứ 44,
Đức- Phật an cư nhập hạ một trong hai ngôi chùa. Khi thì Đức-Phật cùng với chư
Đại-đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, khi thì tại ngôi
chùa Pubbārāma gần kinh-thành Sāvatthi.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật thường ngự đi thuyết pháp tế
độ những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ dù gần, dù xa trong cõi người hoặc
cõi trời dục-giới hoặc cõi trời sắc-giới.
Khi đến gần mùa mưa, Đức-Phật trở lại kinh-thành
Sāvatthi, an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, bởi
vì, Đức-vua Pasenadi Kosala ở kinh-thành Sāvatthi là người có đức-tin
trong sạch nơi Tam-Bảo, có tâm tôn kính Đức-Phật, Đức-Pháp, chư tỳ- khưu-Tăng.
Đặc biệt, có hai đại-thí-chủ là ông phú hộ Anāthapiṇḍika và bà đại-thí-chủ
Visākhā, trong nhà của hai đại-thí-chủ này, hằng ngày luôn có sắp đặt sẵn
500 chỗ ngồi để đón rước chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến khất thực.
Và phần đông dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi là những
người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hoan-hỷ trong việc bố thí cúng dường bốn
thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu-Tăng.
Do đó, khi Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa
Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, có số đông chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng
cũng an cư nhập hạ tại một trong hai ngôi chùa này và các nơi gần kinh-thành
Sāvatthi, để chư tỳ-khưu có được nhiều điều thuận lợi, nhất là bốn thứ vật dụng
trong suốt mùa an cư nhập hạ, để cho chư tỳ-khưu được thuận lợi thực hành
pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển tốt.
45- Hạ thứ bốn mươi lăm: Hạ cuối cùng, Đức-Phật
an cư nhập hạ tại ngôi làng nhỏ Veḷuvagāma, gần kinh- thành Vesālī, Đức-Phật
cho phép chư Đại-đức tỳ-khưu nhập hạ quanh làng gần Đức-Phật, để cho tiện việc
đến tụ hội nghe lời giáo huấn của Ngài. Bởi vì, Ngài biết rõ rằng chỉ còn khoảng
10 tháng nữa, Ngài sẽ tịch diệt Niết-bàn.
Trong mùa an cư nhập hạ này, Đức-Phật lâm bệnh trầm trọng,
tưởng chừng như sắp tịch diệt Niết-bàn, nhưng Đức-Phật suy nghĩ rằng:
“Như-Lai chưa truyền dạy cho thị giả Ānanda, cùng
chư tỳ-khưu Tăng biết, mà tịch diệt Niết-bàn đó là điều không nên.”
Do đó, Đức-Phật cố nhẫn nại chịu đựng thọ khổ, rồi nhập
A-ra-hán Thánh-quả. Nhờ vậy, bệnh tình của Đức- Phật được thuyên giảm.
Sau khi khỏi bệnh được không lâu, Đức-Phật ngự ra khỏi
cốc đến ngồi chỗ đã trải sẵn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và bạch
rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhìn thấy Đức-Thế-Tôn khỏi
bệnh, con vui mừng hoan-hỷ quá!
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi con thấy Đức-Thế-Tôn lâm
bệnh trầm trọng, con có cảm giác toàn thân nặng nề, tâm con tăm tối, mờ mịt
không còn biết rõ phương hướng, pháp-hành tứ niệm-xứ cũng không còn hiện rõ
trong tâm con, bởi bệnh tình trầm trọng của Đức-Thế- Tôn, nhưng có một điều mà
con tự an ủi rằng:
“Đức-Thế-Tôn chưa truyền dạy lời di chúc cuối cùng đến
chư tỳ-khưu-Tăng, thì có lẽ Đức-Thế-Tôn chưa tịch diệt Niết-bàn.”
Khi ấy, Đức-Phật dạy rằng:
- Này Ānanda! Chư tỳ-khưu còn hy vọng gì nơi Như-
Lai nữa? Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng không hề phân biệt người thân
bên trong, kẻ sơ bên ngoài, Như-Lai không giống như các vị thầy khác, giấu các
yếu pháp để chờ đến lúc trước khi lâm chung mới truyền lại cho người học trò
tín cẩn.
- Này Ānanda! Vị thầy nào nghĩ rằng:
“Ta là người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng, và nhóm
chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi ta.”
Vị thầy ấy mới có lời di chúc cuối cùng đến nhóm chư tỳ-khưu-Tăng
ấy.
- Này Ānanda! Như-Lai không nghĩ rằng:
“Như-Lai là người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng,
và nhóm chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi Như-Lai.”
Như vậy, sao Như-Lai lại có lời di chúc cuối cùng đến
chư tỳ-khưu-Tăng.
- Này Ānanda! Bây giờ Như-Lai đã đến thời lão niên, tuổi
đã cao, đã 80 tuổi (3) rồi! Ví như chiếc xe
cũ, sử dụng được là phải nhờ sửa chữa như thế nào, thì sắc thân của Như-Lai
cũng như thế ấy, luôn luôn cần được sửa chữa bằng cách nhập A-ra-hán Thánh-quả.
- Này Ānanda! Khi nào Như-Lai nhập A-ra-hán Thánh- quả
có đối tượng Vô-hiện-tượng Niết-bàn, diệt được các pháp trong tam-giới, hưởng
pháp vị an-lạc Niết-bàn siêu-tam-giới, khi ấy Như-Lai mới thật sự được an-lạc.
* Cho nên, các con nên sống có ta (4) làm hòn đảo (trong biển khổ), có ta làm nơi nương nhờ,
không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là có chánh-pháp làm hòn đảo, có
chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
- Này Ānanda! Vì vậy, hiện-tại Như-Lai còn tại thế,
cũng như trong thời vị-lai, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu
cũng là người sống có ta làm hòn đảo, có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống
nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là tỳ-khưu sống có chánh- pháp làm hòn đảo, có
chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
Tỳ-khưu ấy thực hành pháp-hành tứ niệm-xứ, sẽ là người
cao thượng.
Đức-Phật an cư nhập hạ tại nơi đây suốt ba tháng, đây
là hạ cuối cùng của Đức-Phật.
(1) Vassa nghĩa là mùa mưa có 4 tháng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6
cho đến ngày 16 tháng 10.
(2) 3 tháng ở cõi người, thời gian ở cõi trời cõi Tam-thập-tam-thiên
khoảng 3 phút 36 giây; bởi vì, 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm ở cõi
người.
(3) 80 tuổi kể từ khi đầu thai vào lòng Phật mẫu vào ngày rằm
tháng sáu (âm lịch).
(4) Tasmātihānanda attadīpā viharatha attasaraṇā anaññasaraṇā,
dhammadīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā ...
Attā ở đây có nghĩa sabhāvadhammā, đó là tam-giới thiện-pháp
và siêutam- giới thiện-pháp.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10