NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
ĐỨC-TĂNG
(SAṂGHA)
Danh từ “Tăng” là dịch
âm từ tiếng Pāḷi “Saṃgha”.
Saṃgha: Chư-Tăng nghĩa là đoàn thể.
Trong câu: Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư-Tăng là bậc
thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn.
Hoặc danh từ: Bhikkhusaṃgha: Chư tỳ-khưu-Tăng,
Bhikkhunisaṃgha: Chư tỳ-khưu-ni-Tăng.
Saṃgha: Chư-Tăng
Chư-Tăng có 2 hạng:
- Chư Thánh-Tăng: Ariyasaṃgha.
- Chư phàm-Tăng: Puthujjanasaṃgha.
Thế nào gọi là chư Thánh-Tăng?
Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật,
quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ
dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn,
trở thành 4 bậc Thánh-nhân.
Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng ấy gọi là chư
Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha). Chư Thánh-Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo
siêu-tam-giới-tâm.
Bậc Thánh-Tăng có 4 đôi
4 Thánh-đạo --> 4 Thánh-quả tương xứng:
- Nhập-lưu Thánh-đạo --> Nhập-lưu Thánh-quả.
- Nhất-lai Thánh-đạo --> Nhất-lai Thánh-quả.
- Bất-lai Thánh-đạo --> Bất-lai Thánh-quả.
- A-ra-hán Thánh-đạo --> A-ra-hán Thánh-quả.
8 Bậc Thánh-Tăng
4 Thánh-đạo
- Bậc Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
- Bậc Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
- Bậc Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
- Bậc A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).
4 Thánh-quả
- Bậc Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
- Bậc Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
- Bậc Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
- Bậc A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).
4 Bậc Thánh-nhân (Ariyapuggala)
Chư Thánh-Tăng tính theo Thánh-nhân có 4 bậc:
- Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
- Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
- Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
- Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).
Được trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật,
hành-giả cần phải có đầy đủ hai điều kiện:
* Những tiền-kiếp trong quá khứ, hành-giả đã từng
tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn.
* Kiếp hiện-tại, hành-giả có duyên lành đến hầu
Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc gặp được bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật,
có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo,
lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn
đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn,
diệt tận được phiền-não, tham-ái, ... mới trở thành bậc Thánh
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, theo tuần tự từ bậc Thánh Nhập-lưu, bậc
Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, đến bậc Thánh A-ra-hán cao thượng nhất
như sau:
- Hành-giả thiện-trí phàm-nhân thuộc về hạng
người tam-nhân thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt
tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu, là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử thứ nhất của Đức-Phật.
- Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não
là sân loại thô (dosa), trở thành bậc Thánh Nhất-lai, là bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử
thứ nhì của Đức-Phật.
- Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não
là sân loại vi-tế (dosa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất- lai, là bậc
Thánh thanh-văn đệ-tử thứ ba của Đức-Phật.
- Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não
còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn- chán (thīna),
phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi
(anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, là bậc
Thánh thanh-văn đệ-tử thứ tư cao thượng nhất của Đức-Phật.
Quả báu của bậc Thánh-nhân
Phàm tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm-nhân có đầy đủ 108
loại tham-ái, 1.500 loại phiền-não, nên còn tử sinh luân-hồi trong ba giới
bốn loài từ vô thủy trải qua vô số kiếp không có kiếp chót cuối cùng là vô
chung.
Song chư bậc Thánh-nhân đã diệt tận được
tham-ái, phiền-não rồi thì tử sinh luân-hồi trong tam-giới được hạn chế lại
tùy theo mỗi bậc Thánh-nhân như sau:
1- Quả báu của bậc Thánh Nhập-lưu
Bậc Thánh Nhập-lưu là bậc Thánh đã diệt
tận được tà-kiến trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và hoài-nghi trong 1 si-tâm hợp
với hoài-nghi.
Kiếp hiện-tại cho đến kiếp vị-lai, 5 bất-thiện-tâm
(ác- tâm) này vĩnh viễn không còn làm khổ bậc Thánh Nhập- lưu nữa.
Sau khi bậc Thánh Nhập-lưu chết, chắc chắn
không còn tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ- quỷ, súc-sinh,
chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện- giới là cõi người, 6 cõi trời dục-giới
mà thôi.
* Bậc Thánh Nhập-lưu có 3 hạng
1- Sattakkhattuparamasotāpanna: Bậc
Thánh Nhập- lưu có 5 pháp-chủ (1) năng lực yếu nên còn
phải tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên cõi trời dục-giới nhiều nhất
7 kiếp nữa.
Đến kiếp thứ 7 thì chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
2- Kolaṃkolasotāpanna: Bậc Thánh Nhập-lưu
có 5 pháp-chủ năng lực trung bình nên còn phải tái-sinh kiếp sau làm người hoặc
làm chư-thiên từ 2-3-5 kiếp nữa, mới có thể trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch
diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
3- Ekabījīsotāpanna: Bậc Thánh Nhập-lưu
có 5 pháp- chủ năng lực mạnh nên chỉ còn tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm
chư-thiên 1 kiếp nữa.
Ngay trong kiếp ấy sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi
tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Bậc Thánh Nhập-lưu đặc biệt
Trường hợp ngoại lệ, có 7 vị Thánh Nhập-lưu đặc biệt
tái-sinh hơn 7 kiếp (2) như sau:
1- Phú hộ Ānāthapiṇḍika,
2- Bà Visākhā mahā upāsikā, 3- Chư-thiên Cullaratha,
4- Chư-thiên Mahāratha,
5- Chư-thiên Anekavaṇṇa,
6- Chư-thiên Nāgadatta,
7- Đức-vua-trời Sakka (hiện-tại).
Bảy bậc Thánh Nhập-lưu này có phát nguyện muốn hưởng sự
an-lạc trong cõi trời từ cõi dục-giới đến các tầng trời sắc-giới phạm-thiên cho
đến tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh là Sắc-cứu-cánh-thiên (Akaniṭṭha), mới
trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời Sắc-cứu-cánh-thiên,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
2- Quả báu của bậc Thánh Nhất-lai
Bậc Thánh Nhất-lai là bậc Thánh đã diệt tận được sân
loại thô trong sân-tâm.
Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Nhất-lai không còn khổ
do bởi sân-tâm loại thô nữa.
Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh làm người hoặc làm
chư-thiên 1 kiếp nữa mà thôi. Ngay trong kiếp ấy sẽ trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
3- Quả báu của bậc Thánh Bất-lai
Bậc Thánh Bất-lai là bậc Thánh đã diệt tận được
tham-tâm không hợp tà-kiến trong cõi dục-giới và sân- tâm loại vi-tế không còn
dư sót.
Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Bất-lai không còn khổ
do bởi tham-tâm trong cõi dục-giới và sân-tâm nữa.
Bậc Thánh Bất-lai sau khi chết, không còn
tái-sinh trở lại cõi dục-giới, chỉ tái-sinh lên cõi sắc-giới phạm-thiên mà
thôi. Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5
pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn- pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ
pháp-chủ, thì sẽ hóa-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Suddhavāsa (Tịnh-cư-thiên),
có 5 tầng trời theo năng lực của mỗi pháp-chủ như sau:
- Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-
giới thiện-tâm, có tín pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ
còn lại, thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp
lên tầng trời Avihā (Vô-phiền-thiên), có tuổi thọ 1.000 đại-kiếp trái đất.
- Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-
giới thiện-tâm, có tấn pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ
còn lại, thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp
lên tầng trời Atappa (Vô-nhiệt-thiên), có tuổi thọ 2.000 đại-kiếp trái đất.
- Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-
giới thiện-tâm, có niệm pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ
còn lại, thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp
lên tầng trời Sudassa (Thiện-hiện-thiên), có tuổi thọ 4.000 đại-kiếp trái đất.
- Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-
giới thiện-tâm, có định pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ
còn lại, thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp
lên tầng trời Sudassī (Thiện-kiến-thiên), có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp trái đất.
- Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ-ngũ-thiền sắc-
giới thiện-tâm, có tuệ pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ
còn lại, thì đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp
lên tầng trời Akaniṭṭha (Sắc-cứu-cánh-thiên), có tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái
đất.
Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh
A-ra-hán tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên Suddhavāsa ấy, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy.
* Bậc Thánh Bất-lai có 5 hạng
1- Antarāparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai
sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy chưa đến một
nửa tuổi thọ của tầng trời ấy, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
2- Upahaccaparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai
sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy quá một nửa
tuổi thọ của tầng trời ấy, rồi tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
3- Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai
không cần phải tinh-tấn nhiều cũng trở thành bậc Thánh A-ra- hán tại tầng trời
sắc-giới phạm-thiên ấy rồi tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi
trong tam-giới.
4- Saṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai
cần phải tinh-tấn mới trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên
ấy, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
5- Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī: Bậc Thánh Bất-lai khi hết tuổi
thọ trong tầng trời sắc-giới bậc thấp, tuần tự tái- sinh lên tầng trời sắc-giới
bậc cao, cho đến tầng trời sắc-giới Akaniṭṭha tột đỉnh, chắc chắn sẽ trở thành
bậc Thánh A-ra- hán rồi tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc-giới Akaniṭṭha ấy,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
4- Quả báu của bậc Thánh A-ra-hán
Bậc Thánh A-ra-hán là bậc Thánh cao thượng đã diệt tận
được 5 bất-thiện-tâm (ác-tâm) còn lại đó là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến và
1 si-tâm hợp với phóng-tâm nghĩa là tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn
dư sót.
Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn
không còn khổ-tâm do phiền-não nữa, chỉ còn khổ-thân do quả của nghiệp cũ mà
thôi.
Ngay kiếp hiện-tại, bậc Thánh A-ra-hán đến khi hết tuổi
thọ, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Bậc Thánh A-ra-hán có nhiều hạng
1- Bậc Thánh A-ra-hán Tevijja là bậc Thánh A-ra-
hán có tam-minh là tiền-kiếp-minh, thiên-nhãn-minh và trầm-luân-tận-minh.
2- Bậc Thánh A-ra-hán Chaḷabhiñña là bậc Thánh
A- ra-hán có lục thông: đa-dạng-thông, thiên-nhãn-thông,
thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, tiền-kiếp-thông và trầm- luân-tận-thông.
3- Bậc Thánh A-ra-hán Catupaṭisambhidappabheda là bậc
Thánh A-ra-hán có tứ tuệ-phân-tích là nghĩa (nhân) phân-tích, pháp (quả)
phân-tích, ngôn-ngữ phân- tích và ứng-đối phân-tích.
4- Bậc Thánh A-ra-hán Ubhatobhāgavimutta là bậc
Thánh A-ra-hán giải thoát bằng 2 pháp-hành là pháp- hành thiền-định chứng
đắc đến 4 bậc thiền vô-sắc-giới và pháp-hành thiền-tuệ chứng đắc
A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả.
5- Bậc Thánh A-ra-hán Paññāvimutta là bậc Thánh
A-ra-hán giải thoát bằng pháp-hành thiền-tuệ chứng đắc A-ra-hán
Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả (còn gọi là Bậc Thánh A-ra-hán Sukkhavipassaka là
bậc Thánh- nhân không thực hành pháp-hành thiền-định trước, không chứng đắc bậc
thiền nào, chỉ thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi
tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán).
Chư bậc Thánh A-ra-hán có sự khác biệt nhau về trí- tuệ,
thần-thông trong kiếp hiện-tại, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn rồi
thì hoàn toàn không có sự khác biệt nhau, đều giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong
tam-giới.
Bậc Thánh thanh-văn-giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh thanh-văn-giác có ba thứ bậc:
1- Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác
(Aggasāvaka).
2- Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka).
3- Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường
(Pakatisāvaka).
1- Vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác như thế
nào?
Để trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, thì vị
bồ-tát ấy phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh- Tối-thượng thanh-văn-giác, rồi
tạo 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc hạ.
Khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế
gian, vị bồ-tát ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác ấy, bạch
với Đức-Phật biết rõ ý- nguyện muốn trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-
giác của Đức-Phật trong thời vị-lai.
Đức-Phật suy xét thấy vị bồ-tát ấy hội đủ các chi-
pháp để trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, thì Đức-Phật thọ ký xác định
thời gian còn lại 1 a-tăng- kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất và Đức-Phật-Chánh-
Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Bắt đầu từ kiếp ấy, vị bồ-tát ấy trở thành vị bồ-tát Tối-
thượng thanh-văn-giác.
Vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy tiếp tục thực
hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ cho được đầy đủ trọn vẹn suốt trong khoảng
thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, chờ đến khi Đức-Phật
Chánh- Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian.
Vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy cần phải đến hầu
đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi
xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật ấy.
Sau khi trở thành tỳ-khưu, vị tỳ-khưu thực hành
pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo,
4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư
sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.
Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh
thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Tối- thượng thanh-văn-giác ấy giữa
chư Thánh thanh-văn đệ- tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối-thượng thanh-
văn đệ-tử đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác trong thời quá-khứ
thọ ký.
Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ có 2 vị Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác mà thôi.
* Đức-Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối-thượng
thanh- văn đệ-tử là:
- Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là vị Thánh Tối- thượng
thanh-văn đệ-tử bên phải có trí-tuệ xuất sắc nhất trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử
của Đức-Phật.
- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là vị Thánh Tối-thượng
thanh-văn đệ-tử bên trái có phép-thần-thông xuất sắc nhất trong hàng Thánh
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
2- Vị Thánh Đại-thanh-văn-giác như thế nào?
Để trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì vị Bồ-
tát ấy phát nguyện muốn trở thành vị Thánh Đại-thanh- văn-giác, rồi tạo 10
pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ.
Khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế
gian, vị Bồ-tát ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, bạch với
Đức-Phật biết rõ ý-nguyện muốn trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác của Đức-Phật
trong thời vị-lai.
Đức-Phật suy xét thấy vị bồ-tát ấy hội đủ chi-pháp để
trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì Đức-Phật thọ ký xác định thời gian
còn lại 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa và Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Bắt đầu từ kiếp ấy, vị Bồ-tát ấy trở thành vị Bồ-tát
Đại-thanh-văn-giác.
Vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy tiếp tục thực hành 10
pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ cho được đầy đủ trọn vẹn suốt trong khoảng thời gian
100 ngàn đại-kiếp trái đất, chờ đến khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện
trên thế gian.
Vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy cần phải đến hầu đảnh
lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi xin
phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật ấy.
Sau khi trở thành tỳ-khưu, vị tỳ-khưu thực hành pháp-
hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót,
trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.
Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh
thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Đại- thanh-văn-giác về đức-hạnh
nào xuất sắc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử, đúng theo sở nguyện của
vị Thánh Đại-thanh-văn-giác ấy đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
trong thời quá-khứ thọ ký.
Đức-Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại-thanh-văn-giác.
80 Vị Thánh Đại-Thanh-Văn-Giác
40 Vị Thánh A-ra-hán bên phải Đức-Phật
1- Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta (Aggasāvaka),
2- Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña,
3- Ngài Trưởng-lão Vappa,
4- Ngài Trưởng-lão Bhaddiya,
5- Ngài Trưởng-lão Mahānāma,
6- Ngài Trưởng-lão Assaji,
7- Ngài Trưởng-lão Nālaka,
8- Ngài Trưởng-lão Yasa,
9- Ngài Trưởng-lão Vimala,
10- Ngài Trưởng-lão Subāhu,
11- Ngài Trưởng-lão Puṇṇaji,
12- Ngài Trưởng-lão Gavampati,
13- Ngài Trưởng-lão Uruvelakassapa,
14- Ngài Trưởng-lão Nadīkassapa,
15- Ngài Trưởng-lão Gayākassapa,
16- Ngài Trưởng-lão Mahākassapa,
17- Ngài Trưởng-lão Mahākaccāyana,
18- Ngài Trưởng-lão Mahākoṭṭhita,
19- Ngài Trưởng-lão Mahākappina,
20- Ngài Trưởng-lão Mahācunda,
21- Ngài Trưởng-lão Anuruddhā,
22- Ngài Trưởng-lão Kaṅkhārevata,
23- Ngài Trưởng-lão Ānanda,
24- Ngài Trưởng-lão Nandaka,
25- Ngài Trưởng-lão Bhagu,
26- Ngài Trưởng-lão Nandiya,
27- Ngài Trưởng-lão Kimila,
28- Ngài Trưởng-lão Bhaddiya,
29- Ngài Trưởng-lão Rāhulā,
30- Ngài Trưởng-lão Sīvali,
31- Ngài Trưởng-lão Upāli,
32- Ngài Trưởng-lão Dabba,
33- Ngài Trưởng-lão Upasena,
34- Ngài Trưởng-lão Mahāpuṇṇa,
35- Ngài Trưởng-lão Cūḷapuṇṇa,
36- Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa,
37- Ngài Trưởng-lão Soṇakoḷivisa,
38- Ngài Trưởng-lão Rādha,
39- Ngài Trưởng-lão Subhūti,
40- Ngài Trưởng-lão Khadiravaniyarevata.
40 Vị Thánh A-ra-hán bên trái Đức-Phật
1- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna (Aggasāvaka),
2- Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla,
3- Ngài Trưởng-lão Vakkali,
4- Ngài Trưởng-lão Kāḷudāyi,
5- Ngài Trưởng-lão Mahā-udāyi,
6- Ngài Trưởng-lão Pilindavaccha,
7- Ngài Trưởng-lão Sobhita,
8- Ngài Trưởng-lão Kumārakassapa,
9- Ngài Trưởng-lão Raṭṭhapāla,
10- Ngài Trưởng-lão Vaṅgīsa,
11- Ngài Trưởng-lão Sabhiya,
12- Ngài Trưởng-lão Sela,
13- Ngài Trưởng-lão Upavāna,
14- Ngài Trưởng-lão Meghiya,
15- Ngài Trưởng-lão Sāgata,
16- Ngài Trưởng-lão Nāgita,
17- Ngài Trưởng-lão Lakuṇḍakabhaddiya,
18- Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja,
19- Ngài Trưởng-lão Mahāpanthaka,
20- Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka,
21- Ngài Trưởng-lão Bākula,
22- Ngài Trưởng-lão Kuṇḍadhāna,
23- Ngài Trưởng-lão Dārucīriya,
24- Ngài Trưởng-lão Yasoja,
25- Ngài Trưởng-lão Ajita,
26- Ngài Trưởng-lão Tissametteyya,
27- Ngài Trưởng-lão Puṇṇaka,
28- Ngài Trưởng-lão Mettagū,
29- Ngài Trưởng-lão Dhotaka,
30- Ngài Trưởng-lão Upasīva,
31- Ngài Trưởng-lão Nanda,
32- Ngài Trưởng-lão Hemaka,
33- Ngài Trưởng-lão Todeyya,
34- Ngài Trưởng-lão Kappa,
35- Ngài Trưởng-lão Jatukaṇṇi,
36- Ngài Trưởng-lão Bhadrāvudha,
37- Ngài Trưởng-lão Udaya,
38- Ngài Trưởng-lão Posāla,
39- Ngài Trưởng-lão Piṅgiya,
40- Ngài Trưởng-lão Mogharāja.
Vị Thánh A-ra-hán có danh-hiệu Etadagga
Trong 80 vị Thánh A-ra-hán Đại-thanh-văn-giác
có 41 vị được danh hiệu Etadagga đức-hạnh xuất sắc nhất trong hàng Thánh nam
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama:
1- Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña có tuổi hạ cao đệ
nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
2- Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có đại-trí-tuệ đệ nhất
trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
3- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna có các phép-thần-thông
đệ nhất …
4- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa thọ hạnh đầu- đà đệ
nhất …
5- Ngài Trưởng-lão Anuruddha có thiên-nhãn-thông đệ nhất
…
6- Ngài Trưởng-lão Bhaddiya sinh trong dòng dõi cao
quý đệ nhất …
7- Ngài Trưởng-lão Lakuṇḍakabhaddiya có giọng nói ngọt
ngào nghe êm tai đệ nhất…
8- Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja có lời nói dũng cảm
như sư tử rống đệ nhất …
9- Ngài Trưởng-lão Puṇṇa là vị pháp-sư đệ nhất …
10- Ngài Trưởng-lão Mahākaccāyana có tài thuyết giải rộng
đệ nhất …
11- Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka có phép đa-dạng- thần-thông
biến hóa theo tâm đệ nhất …
12- Ngài Trưởng-lão Mahāpanthaka xả thiền vô-sắc- giới,
rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ để trở thành bậc Thánh A-ra-hán đệ nhất …
13- Ngài Trưởng-lão Subhūti thọ dụng vật thí hoàn toàn
không có lỗi đệ nhất …
14- Ngài Trưởng-lão Khadiravaniyarevata có hạnh sống
trong rừng đệ nhất …
15- Ngài Trưởng-lão Kaṅkhārevata thường nhập thiền đệ
nhất …
16- Ngài Trưởng-lão Soṇakoḷivisa có hạnh đại tinh- tấn
đệ nhất …
17- Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa có tài thuyết pháp
nói đạo giọng hay đệ nhất …
18- Ngài Trưởng-lão Sīvali có tài lộc đệ nhất …
19- Ngài Trưởng Lão Vakkali có đức-tin trong sạch đệ
nhất …
20- Ngài Trưởng-lão Rāhula rất mong mỏi học giới, định,
tuệ đệ nhất …
21- Ngài Trưởng-lão Raṭṭhapāla xuất gia với đức-tin đệ
nhất …
22- Ngài Trưởng-lão Kuṇḍadhāna bắt thăm được số một đệ
nhất …
23- Ngài Trưởng-lão Vaṅgīsa có trí-tuệ nhạy bén đệ nhất
…
24- Ngài Trưởng-lão Upasena có hạnh đáng tôn kính đệ
nhất …
25- Ngài Trưởng-lão Dabba sắp đặt chỗ ở chư tỳ- khưu đệ
nhất …
26- Ngài Trưởng-lão Pilindavaccha được chư-thiên kính
yêu đệ nhất …
27- Ngài Trưởng-lão Dārucīriya chứng đắc mau lẹ đệ nhất
…
28- Ngài Trưởng-lão Kumārakassapa có tài thuyết pháp
hay đệ nhất …
29- Ngài Trưởng-lão Mahākoṭṭhita có đầy đủ tứ tuệ-
phân-tích đệ nhất …
30- Ngài Trưởng Lão Ānanda là bậc đa văn túc trí, trí
nhớ tốt, trí-tuệ thông suốt, có sự tinh-tấn không ngừng, hầu hạ Đức-Phật chu
đáo đệ nhất …
31- Ngài Trưởng-lão Uruvelakassapa có đệ-tử đông đảo đệ
nhất …
32- Ngài Trưởng-lão Kāḷudāyī làm cho dòng họ kính trọng
đệ nhất …
33- Ngài Trưởng-lão Bākula có sức khỏe đầy đủ đệ nhất
…
34- Ngài Trưởng-lão Sobhita có tiền-kiếp-thông nhớ tiền-kiếp
đệ nhất …
35- Ngài Trưởng-lão Upāli thọ trì tạng luật đệ nhất …
36- Ngài Trưởng-lão Nandaka có tài dạy dỗ tỳ-khưu-
ni đệ nhất …
37- Ngài Trưởng-lão Nanda giữ gìn lục căn thanh- tịnh
đệ nhất …
38- Ngài Trưởng-lão Mahākappina có tài dạy dỗ tỳ- khưu
đệ nhất …
39- Ngài Trưởng-lão Sāgata nhập thiền đề-mục lửa đệ nhất
…
40- Ngài Trưởng-lão Rādha phát triển trí-tuệ từng bậc
đệ nhất …
41- Ngài Trưởng-lão Mogharāja sử dụng (mặc) y vải loại
thô xấu đệ nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Mỗi vị Thánh A-ra-hán có danh hiệu Etadagga xuất sắc
này do tâm phát nguyện, riêng 2 vị là Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta và Ngài Đại-Trưởng-lão
Mahā- moggalāna được Đức-Phật Anomadassī trong thời quá- khứ thọ ký, 39 vị còn
lại được Đức-Phật Padumuttara trong thời quá-khứ thọ ký và xác định thời gian đến
thời Đức-Phật Gotama được thành tựu.
3- Vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường như thế
nào?
Để trở thành vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường,
thì vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường ấy cần phải tạo đầy đủ
10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại-kiếp
trái đất.
Vị Bồ-tát ấy có duyên lành đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác,
hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu
trên thế gian hoặc Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn.
Vị Bồ-tát ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-
Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, lắng nghe chánh pháp của Đức-Phật, rồi thực
hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc:
* Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết- bàn,
diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā),
trở thành bậc Thánh Nhập-lưu là vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
* Hoặc chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô (dosa), trở
thành bậc Thánh Nhất-lai là vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
* Hoặc chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế (dosa)
không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai là vị Thánh thanh-văn-giác hạng
thường.
* Hoặc chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si
(moha), ngã-mạn (māna), buồn- chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn
tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở
thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng là vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
Vị Bồ-tát hành-giả ấy trở thành Thánh-nhân bậc nào là
do năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp- chủ (indriya): tín pháp-chủ,
tấn pháp-chủ, niệm pháp- chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của vị Bồ-tát thanh-
văn-giác hạng thường ấy.
Đức-Phật Gotama có vô số bậc Thánh
thanh-văn- giác hạng thường đủ các loài chúng-sinh như loài người,
chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới.
Hoặc bậc Thánh Nhập-lưu chứng đắc bậc thiền vô- sắc-giới
sau khi chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời
vô-sắc-giới.
Vấn: Vị Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác và vị Đại- thanh-văn-giác khác nhau với bậc Thánh thanh-văn-giác
hạng thường như thế nào?
Đáp: * Bậc Thánh
Tối-thượng thanh-văn-giác vốn dĩ là vị Bồ-tát Tối-thượng
thanh-văn-giác được Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian còn
lại là 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa và Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác
trong thời vị-lai.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên
thế gian, vị Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy sinh làm người có đầy đủ trọn
vẹn 10 pháp-hạnh ba-la- mật, trực-tiếp đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-
Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong
giáo-pháp của Đức-Phật.
Vị Bồ-tát tỳ-khưu ấy thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn
đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn,
diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán.
Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh
thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Tối- thượng thanh-văn-giác ấy giữa
chư Thánh thanh-văn đệ- tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối-thượng
thanh-văn đệ-tử đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời
quá-khứ thọ ký.
* Và bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác vốn dĩ là vị Bồ- tát
Đại-thanh-văn-giác được Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác thọ ký xác định thời gian còn
lại là 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa và Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên
thế gian, vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy sinh làm người có đầy đủ trọn vẹn 10
pháp-hạnh ba-la-mật, trực- tiếp đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng
nghe chánh-pháp, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Vị Bồ-tát tỳ-khưu ấy thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn
đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn,
diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán.
Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh
thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Đại- thanh-văn-giác ấy giữa chư
Thánh thanh-văn đệ-tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử đã
phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.
* Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường vốn dĩ là vị Bồ-tát
thanh-văn-giác hạng thường không có Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định
thời gian còn lại.
Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường tạo 10 pháp- hạnh
ba-la-mật trong khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại-kiếp trái đất (thời gian
không nhất định).
Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường có nhân-duyên đến
hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, hoặc bậc
Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế
gian hoặc Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn, nhưng giáo-pháp của Đức-Phật hiện còn
lưu truyền trên thế gian.
Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường là bậc xuất-gia tỳ-khưu,
sa-di hoặc cận-sự-nam, cận-sự-nữ, chư vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ, hoặc chư
phạm-thiên,… có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo,
lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn, diệt
tận được phiền-não, trở thành Thánh-nhân bậc nào do năng lực của các pháp-hạnh
ba- la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp- chủ, niệm pháp-chủ,
định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường ấy.
Đó là sự khác nhau giữa bậc Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác, bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác với bậc Thánh thanh-văn-giác hạng
thường như vậy.
Bậc Thánh nữ thanh-văn-giác
Trong Phật-giáo, bậc Thánh nữ thanh-văn-giác có ba thứ
bậc:
1- Bậc Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác
(Aggasāvikā).
2- Bậc Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvikā).
3- Bậc Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường
(Pakatisāvikā).
Để trở thành vị Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác
và vị Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác nào, thì vị Bồ-tát nữ
thanh-văn-giác ấy cần phải thực hành 10 pháp-hạnh ba- la-mật bậc hạ và nói
lời phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác ấy, được Đức-Phật
Chánh-Đẳng- Giác thọ ký cũng như vị Bồ-tát nam thanh-văn-giác.
Để trở thành vị Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường,
thì vị Bồ-tát nữ thanh-văn-giác ấy cũng cần phải thực hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật
bậc hạ trong suốt khoảng thời gian như vị Bồ-tát nam thanh-văn-giác bậc thường.
Đức-Phật Gotama có 2 vị Thánh nữ Tối-thượng
thanh-văn-giác là:
* Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā là vị Thánh
nữ A- ra-hán Tối-thượng thanh-văn-giác có trí-tuệ đặc biệt xuất sắc nhất trong
hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
* Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā là vị
Thánh nữ A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn-giác có phép-thần- thông đặc biệt xuất sắc
bậc nhất trong hàng Thánh nữ- thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Hai vị Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác ấy do đã
phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.
Đức-Phật Gotama có số vị Thánh nữ Đại-thanh-văn-
giác không rõ, nhưng điều chắc chắn có 13 Thánh nữ A- ra-hán, mỗi vị có đức-hạnh
đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Đức-Phật Gotama có vô số vị Thánh nữ
thanh-văn- giác hạng thường đủ các loài chúng-sinh.
Vị Thánh nữ A-ra-hán có danh-hiệu Etadagga
Trong các vị Thánh nữ A-ra-hán, có 13 vị được danh hiệu
Etadagga đức-hạnh xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Gotama:
1- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Mahāpajāpatigotamī xuất gia
tỳ-khưu-ni đầu tiên có tuổi hạ cao nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của
Đức-Phật Gotama.
2- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā có đại trí-tuệ đệ nhất
trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
3- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā có các phép-thần-thông
đệ nhất …
4- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Paṭācārā thông suốt tạng luật
đệ nhất …
5- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā là vị pháp sư
thuyết pháp hay đệ nhất …
6- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Nandā nhập thiền hưởng an-lạc
đệ nhất …
7- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Soṇā có pháp tinh-tấn đệ nhất
…
8- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Sakulā có phép-nhãn-thông đệ
nhất …
9- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Kuṇḍalakesā có trí-tuệ nhạy
bén đệ nhất …
10- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Bhaddākāpilānī có phép tiền-kiếp-thông
nhớ tiền-kiếp đệ nhất …
11- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Bhaddakaccānā Yasodharā có
phép-đại-thần-thông đặc biệt đệ nhất …
12- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Kīsāgotamī thường sử dụng
(mặc) y vải loại thô đệ nhất …
13- Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Siṅgālakamātu có đức- tin
trong sạch đệ nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn- đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Mỗi vị Thánh nữ A-ra-hán có danh hiệu Etadagga xuất sắc
này do tâm phát nguyện và được Đức-Phật Padumuttara trong thời quá khứ thọ ký
xác định thời gian đến thời Đức-Phật Gotama được thành tựu.
Thế nào gọi là chư phàm-Tăng?
Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật,
quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi đang thực hành theo
pháp-hành thiền-tuệ mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc
Thánh- đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là phàm-nhân.
Vì vậy, chư tỳ-khưu-Tăng phàm-nhân ấy gọi là chư
phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha).
Chư-Tăng có 2 hạng
1- Paramatthasaṃgha: Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc
Thánh-nhân cao thượng.
2- Sammutisaṃgha: Tỳ-khưu-Tăng do chế định.
Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc Thánh-nhân cao thượng như
thế nào?
Tỳ-khưu là bậc Thánh-nhân cao thượng (paramattha- saṃgha),
là tỳ-khưu đã trở thành bậc Thánh-nhân bậc cao thì không bao giờ trở xuống bậc
Thánh-nhân bậc thấp, hoặc Thánh-nhân bậc thấp không bao giờ bị thoái hóa trở xuống
thành hạng phàm-nhân.
Thật ra, chỉ có bậc Thánh-nhân bậc thấp chắc chắn sẽ
trở thành bậc Thánh-nhân bậc cao là bậc Thánh A-ra- hán mà thôi.
Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng này gọi là bậc
Thánh-nhân cao thượng (paramatthasaṃgha).
Tỳ-khưu-Tăng do chế định như thế nào?
Tỳ-khưu này được thành tựu do chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ
hành-tăng-sự tụng ñatticatutthakammavācā nâng đỡ lên, rồi chế định thành tỳ-khưu.
Vị tỳ-khưu này vẫn còn là hạng phàm-nhân, chưa phải Thánh-nhân.
Chư tỳ-khưu phàm-nhân này thực hành giới giống như vị
tỳ-khưu Thánh-Tăng và cũng hành-tăng-sự chung với chư tỳ-khưu Thánh-Tăng.
Tỳ-khưu thuộc hạng phàm-nhân này có thể tiến hóa trong
pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, thực hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, trở
thành bậc Thánh-nhân cao thượng.
Và trái lại, tỳ-khưu thuộc hạng phàm-nhân này cũng có
thể thoái hóa trong Phật-giáo, hoàn tục trở lại đời sống người tại gia cư-sĩ.
Vì vậy, tỳ-khưu này do chư tỳ-khưu-Tăng chế định
(sammutisaṃgha) gọi là tỳ-khưu, khác với chư tỳ-khưu Thánh-Tăng là bậc
Thánh-nhân cao thượng.
Cách thức thọ tỳ-khưu
Trong Phật-giáo, Đức-Phật đã chế định ra 8 cách thức
thọ tỳ-khưu Upasampadā.
* Đối với tỳ-khưu có 5 cách như sau:
1- Ehi Bhikkhūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách Đức-Phật
gọi “Ehi Bhikkhu”.
2- Saraṇagamanūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách thọ
phép quy-y Tam-Bảo.
3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách thọ
nhận lời giáo huấn của Đức-Phật.
4- Pañhābyākaraṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách trả
lời đúng câu hỏi của Đức-Phật.
5- Ñatticatutthakammūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách
tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn).
* Đối với tỳ-khưu-ni có 3 cách như sau:
1- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu- ni
bằng cách thọ nhận 8 trọng-pháp.
2- Dūtenūpasampadā: Thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ qua
người đại diện.
3- Aṭṭhavācikūpasampadā: Thọ tỳ-khưu-ni bằng cách hành
tăng sự giữa chư Tăng 2 phái: Tỳ-khưu-ni-Tăng trước và tỳ-khưu-Tăng sau, mỗi
phái tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành- sự-ngôn)
trở thành 8 lần tụng (aṭṭhavācikūpasampadā).(3)
Phần Giải Thích
* Thọ tỳ-khưu (Bhikkhu upasampadā)
Đức-Phật chế định ban hành phép xuất-gia trở thành tỳ-khưu
có 5 cách như sau:
1- Ehi Bhikkhūpasampadā như thế nào?
Người cận-sự-nam, hoặc đạo-sĩ, tu-sĩ ngoại-đạo sau khi
nghe Đức-Phật thuyết pháp, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo,
Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu, người cận- sự-nam
ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu trong
giáo-pháp của Đức-Phật.
Đức-Phật sử dụng Phật-nhãn xem xét đến tiền-kiếp người
nam ấy, thấy rõ, biết rõ: “Người nam ấy là người đã tạo đầy đủ trọn vẹn 10
pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định
pháp-chủ, tuệ pháp-chủ, đã từng bố thí 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu (tam y, quả
bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước) và đã phát nguyện
xuất gia bằng cách Đức-Phật gọi: Ehi Bhikkhu.”
Vì vậy, khi Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón
trỏ truyền dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu. Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ
sammā dukkhassa antakiriyāya.”
- “Này con! Con hãy đến với Như-Lai, con trở thành tỳ-khưu
theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo ở phần đầu, phần
giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh-tấn thực hành phạm- hạnh cao thượng,
để chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả, hầu mong chấm dứt sự khổ
tử sinh luân-hồi.”
Khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, người
cận-sự-nam ấy, hoặc đạo-sĩ, tu-sĩ ngoại-đạo ấy trở thành tỳ-khưu, có đầy đủ 8
thứ vật dụng của tỳ-khưu, được thành tựu do quả của phước-thiện như thần-thông
của giới-tử ấy. Vị tỳ-khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, thân, khẩu, ý thanh-tịnh
như một vị tỳ-khưu có 60 hạ.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách gọi: Ehi
Bhikkhūpasampadā.
Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là vị đầu tiên thọ
tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”, cũng là vị tỳ- khưu đầu tiên trong giáo
pháp của Đức-Phật Gotama, và tiếp theo tuần tự các Ngài Trưởng-lão Vappa, Ngài
Trưởng-lão Bhaddiya, Ngài Trưởng-lão Mahānāma, và Ngài Trưởng-lão Assaji cũng đều
thọ tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”.
Chỉ có Đức-Phật mới có khả năng cho phép giới tử thọ tỳ-khưu
bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” mà thôi.
Ngoài ra, chư bậc Thánh thanh-văn đệ-tử không có oai lực
cho thọ tỳ-khưu theo cách ấy.
Đức-Phật Gotama cho phép giới tử thọ tỳ-khưu bằng cách
gọi “Ehi Bhikkhu” tất cả gồm có 28.647 vị tỳ khưu.
* Trong Tạng Luật Pāḷi gồm có 1.344 vị như sau:
- Nhóm Pañcavaggī có 5 vị.
- Ngài Trưởng-lão Yasa và bạn hữu gồm có 56 vị.
- Nhóm Bhaddavaggī và bạn hữu gồm có 1.030 vị.
- Nhị vị Aggasāvaka và nhóm đệ-tử gồm có 252 vị.
- Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla có 1 vị.
* Trong Tạng Kinh Pāḷi gồm có 27.303 vị như sau:
- Bà-la-môn Sela và nhóm đệ-tử gồm có 301 vị.
- Đức vua Mahākappina và các quan cận thần gồm có
1.001 vị.
- Dân kinh-thành Kapilavatthu gồm có 10.000 vị.
- Bà-la-môn Pārāyanika và nhóm đệ-tử gồm có 16.001 vị.
Gồm có tất cả 28.647 vị tỳ-khưu Ehi Bhikkhu.
2- Saraṇagamanūpasampadā như thế nào?
Trong thời-kỳ đầu tiên truyền bá Phật-giáo, Đức-Phật
truyền dạy chư bậc Thánh-Tăng mỗi vị một con đường đi khắp nơi thuyết pháp để tế
độ chúng-sinh, nếu có người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo,
Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có ý- nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu, thì Đức-Phật
cho phép chư bậc Thánh-Tăng rằng:
- Anujānāmi bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi
pabbajjaṃ upasampadaṃ.(4)
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép thọ sa-di, tỳ-
khưu bằng cách cho thọ phép quy-y Tam-bảo.
Giới-tử thọ sa-di, tỳ-khưu trước tiên phải cạo
tóc, râu, mặc y cà-sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, ngồi chồm hổm, chắp 2
tay để trên trán xin thọ phép quy-y Tam-bảo: “Quy-y Phật-bảo, Quy-y Pháp-bảo,
Quy-y Tăng-bảo” bằng tiếng Pāḷi, giới-tử cần phải đọc từng chữ, từng câu phải
đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10
byañjanabuddhi theo Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ như sau:
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Khi người giới-tử nào thọ phép quy-y Tam-bảo xong,
người giới-tử ấy trở thành tỳ-khưu.
Tuy nhiên, với điều kiện Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ và
giới-tử cả 2 bên đều đọc từng chữ, từng câu phải đúng theo ṭhāna, karaṇa,
payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi gọi là ubhato
suddhi thì giới-tử mới trở thành sa-di, tỳ-khưu được.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách thọ phép
quy-y Tam-bảo.
3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?
Đức-Phật giáo huấn Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa 3
điều rằng:
- Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực-
hành rằng:“Trước tiên ta nên biết hổ-thẹn tội-lỗi và biết ghê-sợ tội-lỗi đối với
vị cao hạ, vị bằng hạ, vị nhỏ hạ.”
- Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực hành
rằng:“Ta nên lắng nghe chánh-pháp, nên cung kính chánh-pháp, ghi nhớ đầy đủ mọi
chánh-pháp ấy.”
- Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực- hành
rằng: “Ta nên thực hành thân niệm-xứ.”
Khi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa thọ nhận 3
điều giáo huấn của Đức-Phật, chính là sự thành tựu thọ tỳ-khưu của Ngài.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách thọ nhận lời
giáo huấn của Đức-Phật.
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Ngài Đại-
Trưởng-lão Mahākassapa mà thôi.
4- Pañhābyākaraṇūpasampadā như thế nào?
Tại ngôi chùa Pubbārāma, Đức-Phật đang ngự đi kinh
hành. Khi ấy Sa-di Sopāka đến hầu đảnh lễ Đức- Phật. Đức-Phật bèn hỏi Sa-di
Sopāka câu hỏi liên quan đến đề-mục asubha “bất-tịnh” rằng:
- Uddhamātakasaññā’ti vā Sopāka! rūpasaññā’ti vā
ime dhammā nānatthā nānā byañjanā, udahu ekatthā byañjanameva nānā …
- Này Sopāka! Niệm tưởng tử-thi 2-3 ngày sình lên hoặc
niệm tưởng sắc-pháp, hai pháp này nghĩa khác nhau, danh từ gọi khác nhau? Hay
nghĩa giống nhau, danh từ gọi khác nhau?”
Vị Sa-di Sopāka mới lên 7 tuổi, bạch với Đức-Phật rằng:
- Uddhamātakasaññā’ti vā Bhagavā rūpasaññā’ti vā
ime dhammā ekatthā byañjanameva nānā ...
- Kính bạch Đức Thế Tôn, niệm tưởng tử-thi 2-3 ngày
sình lên hoặc niệm tưởng sắc-pháp, nghĩa giống nhau, chỉ có danh từ gọi khác
nhau. Bạch Ngài.
Đức-Phật hài lòng câu trả lời của vị Sa-di Sopāka,
nên Đức-Phật cho phép vị Sa-di Sopāka trở thành tỳ-khưu.
Đó gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi
của Đức-Phật.
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho vị Sa-di
Sopāka mà thôi.
5- Ñatticatutthakammūpasampadā như thế nào?
Chư Thánh-Tăng đi du hành khắp mọi nơi thuyết- pháp tế
độ chúng-sinh, các cận-sự-nam (upāsaka) phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo:
Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu
càng ngày càng đông.
Cho nên, Đức-Phật bỏ cách thọ tỳ-khưu bằng cách thọ
phép quy-y Tam-bảo rằng:
- Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi
upasampadā anuññatā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi.
- Anujānāmi bhikkhave, ñatticatutthena kammena
upasampādetuṃ.(5)
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai đã cho phép thọ tỳ-khưu bằng
cách thọ Tam-quy. Kể từ nay về sau, Như-Lai bỏ cách thọ tỳ-khưu ấy.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép thọ tỳ-khưu bằng
cách tụng một lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn),
gọi là ñatti- catutthakammavācā.”
Cách thọ tỳ-khưu này bắt đầu từ Ngài Trưởng-lão
Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.
Hiện nay, trong các nước Phật-giáo theo truyền thống
Nguyên-thủy Theravāda, như các nước Srilankā (Tích- Lan), nước Myanmar (Miến-Điện),
nước Thailand (Thái-Lan), nước Cambodia (Cam-pu-chia), nước Laos (Lào), Phật-giáo
Nguyên-Thủy Theravāda tại Việt-Nam, v.v… mặc dầu mỗi nước có ngôn ngữ khác
nhau, song tất cả đều căn cứ theo Tạng Luật Pāḷi làm cơ bản.
Cho nên các nước Phật-giáo Theravāda vẫn cố gắng giữ
gìn, duy trì y nguyên theo truyền thống thọ sa-di theo cách thọ phép quy-y
Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi, vị thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo, giới-tử
thọ phép quy-y Tam-bảo, cả hai bên (giới-tử và vị thầy tế-độ) đều phải phát âm
từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi
và đúng theo 10 byañjanabuddhi gọi là ubhato suddhi thì giới-tử mới
trở thành sa-di được.
Và nghi thức thọ tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-Tăng từ 5 vị tỳ-khưu
thật trở lên hội họp tại nơi Sīmā, có 1 hoặc 2 hoặc 3 Ngài Trưởng-lão luật sư tụng
ñatticatuttha-kammavācā: tụng một lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần
kammavācā (thành-sự-ngôn), phát âm từng chữ, từng câu phải đúng theo ṭhāna,
karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi mới thành-tựu,
giới-tử trở thành vị tỳ-khưu.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách tụng ñatti-
catutthakammavācā.
Ngoài cách thọ tỳ-khưu này ra, còn lại tất cả mọi cách
hành-Tăng-sự (saṃghakamma) khác, chư tỳ-khưu-Tăng các nước hội họp tại Sīmā
cũng tụng ñattikammavācā bằng tiếng Pāḷi, hầu như giống hệt nhau, kể cả tụng những
bài kinh parittapāḷi nữa.
Đây là đặc tính chung của các nước Phật-giáo theo truyền
thống nguyên-thủy Theravāda, bởi vì các nước này đều căn cứ y theo Tam-tạng Pāḷi
và Chú-giải Pāḷi làm nền tảng cơ bản chính để hành-tăng-sự (saṃgha- kamma)
trong các nghi lễ trong Phật-giáo nguyên-thủy Theravāda.
Thọ tỳ-khưu-ni (Bhikkhunī upasampadā)
Đức-Phật chế định ban hành phép thọ tỳ-khưu-ni có 3
cách như sau:
1- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?
Thời-kỳ Đức-Phật ngự tại giảng đường Kuṭāgāra trong
khu rừng lớn thuộc xứ Vesālī. Khi ấy, bà Mahā- pajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận-sự-nữ
dòng Sakya tự cạo đầu, mặc y giống như bậc xuất-gia, đi chân không từ kinh-thành
Kapilavatthu đến xứ Vesālī, đứng trước cổng giảng đường Kuṭāgāra, buồn tủi khóc
than, vì Đức-Phật không cho phép phái nữ thọ tỳ-khưu-ni.
Ngài Trưởng-lão Ānanda nhìn thấy bá mẫu Mahā-
pajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya thật đáng thương như vậy, nên
Ngài Trưởng-lão vào kính xin Đức-Phật cho phép người nữ được thọ tỳ-khưu- ni. Đức-Phật
truyền dạy:
- Nếu dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận thọ nhận
8 trọng pháp (garudhamma) thì đó là sự thọ tỳ- khưu-ni của dì mẫu.
Bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận, thọ nhận 8 trọng pháp mà Đức-Phật đã
chế định ban hành vào hạ thứ 5 của Đức-Phật tại giảng đường Kuṭāgāra trong khu
rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu-ni bằng cách thọ nhận 8
trọng pháp.
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho bà
Mahā- pajāpatigotamī mà thôi. Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Mahā- pajāpatigotamī
là vị tỳ-khưu-ni đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Còn 500 cận-sự-nữ dòng Sakya được Đức-Phật cho phép xuất
gia thọ tỳ-khưu-ni chỉ có phái chư tỳ-khưu-Tăng tụng ñatticatutthakammavācā
mà thôi, bởi vì chưa có tỳ-khưu-ni-tăng.
2- Dūtenūpasampadā như thế nào?
Trường hợp cô Aḍḍhakāsī, trước khi thọ tỳ-khưu-ni,
cô là một kỹ nữ nổi tiếng. Nay nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī đã thọ tỳ-khưu-ni giữa
tỳ-khưu-ni-Tăng rồi, chuẩn bị lên đường đi đến kinh-thành Sāvatthi để hầu đảnh
lễ Đức- Phật và xin thọ tỳ-khưu-ni giữa tỳ-khưu-Tăng.
Nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī hay tin có một nhóm trai
trẻ ăn chơi sẽ đón đường bắt cô. Do đó, nữ-giới-tử không dám đi đến hầu đảnh lễ
Đức-Phật, nên nhờ một người đại diện đến bạch với Đức-Thế-Tôn về sự khó khăn,
trở ngại của cô trong việc đi đến xin phép thọ tỳ-khưu-ni giữa chư tỳ-khưu-Tăng.
Đức-Phật biết sự việc như vậy, nên truyền dạy chư tỳ-
khưu rằng:
- Anujānāmi bhikkhave, dūtena pi upasampadetuṃ.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī
thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ qua người đại diện.
Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ
qua người đại diện.
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho nữ-giới-tử
Aḍḍhakāsī mà thôi.
3- Aṭṭhavācīkūpasampadā như thế nào?
Trước khi thọ tỳ-khưu-ni, giới-tử là Sikkhāmānā
được tu tập giữ gìn 6 giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn suốt 2 năm (nếu phạm
giới nào, phải bắt đầu trở lại).
Khi giới-tử Sikkhāmānā đủ 2 năm rồi, được phép thọ giới
tỳ-khưu-ni gồm có 2 giai đoạn.
* Giai đoạn đầu: Phái tỳ-khưu-ni-Tăng hội họp tại
nơi Sīmā (ranh-giới Sīmā), có 2 hoặc 3 vị tỳ-khưu-ni luật sư tụng một lần ñatti
(tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (thành-sự-ngôn), gọi là ñatti-
catutthakammavācā.
* Giai đoạn cuối: Giới-tử tỳ-khưu-ni ấy đến
trình phái tỳ-khưu-Tăng hội họp tại nơi Sīmā, có 2 hoặc 3 vị tỳ- khưu luật sư tụng
1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā, gọi là ñatticatutthakammavācā.
Như vậy, cách thọ tỳ-khưu-ni phải hành-Tăng-sự giữa
chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và tiếp theo phái tỳ-khưu-Tăng sau,
mỗi phái đều tụng ñatti-catutthakammavācā, gồm đủ 8 lần, nên gọi là Aṭṭha-
vācīkūpasampadā.
Đó là cách thọ tỳ-khưu-ni được áp dụng chung cho tất
cả tỳ-khưu-ni.
Trong thời-kỳ Đức-Phật, bà Mahāpajāpatigotamī cùng
nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya đến xin Đức-Phật thọ tỳ-khưu-ni.
Đặc biệt bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận thọ
nhận 8 trọng-pháp của Đức-Phật đã ban hành. Đó là cách thọ tỳ-khưu-ni của bà Mahāpajāpatigotamī.
Còn nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya, Đức-Phật cho phép
thọ tỳ-khưu-ni, chỉ có phái tỳ-khưu-Tăng tụng 1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần
kammavācā, gọi là ñatti- catutthakammavācā, bởi vì, khi ấy chưa có phái tỳ-
khưu-ni-Tăng. Tất cả nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya trở thành tỳ-khưu-ni.
Kể từ đó về sau, nghi thức thọ tỳ-khưu-ni giữa chư
Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và chư tỳ-khưu-Tăng sau, mỗi phái tụng
ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.
Tám Trọng-pháp (Aṭṭha Garudhamma)
1- “Dù tỳ-khưu-ni có 100 hạ, cũng phải đứng dậy đón
tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ tỳ-khưu vừa mới thọ tỳ- khưu trong ngày hôm ấy.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
2- “Tỳ-khưu-ni không nên an cư nhập hạ nơi chùa không
có tỳ-khưu-Tăng.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
3- Tỳ-khưu-ni luôn luôn quan tâm 2 điều:
- Hỏi ngày Uposatha: Ngày lễ tụng giới bổn.
- Nghe lời giáo huấn của tỳ-khưu-Tăng hằng nửa tháng một
lần.
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
4- “Tỳ-khưu-ni sau khi an cư nhập hạ xong, phải làm lễ
Pavāraṇā: Thỉnh mời giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ- khưu-ni-Tăng và phái tỳ-khưu-Tăng.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
5- “Tỳ-khưu-ni phạm tội nặng (saṃghādisesa), phải bị
hành phạt mānatta suốt 15 ngày giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng và
phái tỳ-khưu-Tăng.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
6- “Giới-tử là Sikkhāmānā (6) đã thực-tập 6 giới trong sạch và đầy đủ suốt 2 năm, rồi mới
được làm lễ thọ tỳ- khưu-ni giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và
phái tỳ-khưu-Tăng sau.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
7- “Tỳ-khưu-ni không được chửi rủa mắng nhiếc tỳ-
khưu-Tăng trong bất cứ trường hợp nào.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực
hành theo cho đến trọn đời.
8- “Sau khi thọ tỳ-khưu-ni rồi, cấm dạy tỳ-khưu-Tăng,
chỉ có tỳ-khưu dạy tỳ-khưu-ni mà thôi.”
Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính
thực hành theo cho đến trọn đời.
Đó là 8 trọng pháp (aṭṭha garudhamma) mà chư tỳ-
khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.
Tỳ-khưu đầu tiên và cuối cùng của Đức-Phật
* Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian vào
canh chót đêm rằm tháng tư (âm-lịch), đúng 2 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6
(âm-lịch), Đức-Phật Gotama thuyết pháp bài kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tại
khu rừng Uruvelā, gần kinh-thành Bārāṇasī, tế độ nhóm 5 tỳ-khưu có Ngài Trưởng-lão
Koṇḍañña là trưởng nhóm.
Sau khi lắng nghe bài kinh này xong, chỉ có Ngài Trưởng-lão
Koṇḍañña là vị đầu tiên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc
Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu
(Sotapanna) đầu tiên trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama, nên Đức-Phật gọi
Ngài Trưởng-lão với tên mới là Aññāsikoṇḍañña.
Ngài Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña kính xin Đức-Phật
cho phép thọ sa-di, tỳ-khưu. Đức-Phật cho phép Ngài Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña
thọ tỳ-khưu theo cách thức gọi “Ehi Bhikkhu!”
Khi Đức-Phật vừa dứt lời, ngay khi ấy, Ngài Trưởng-
lão Aññāsikoṇḍañña trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, có
tăng tướng trang nghiêm, thân, khẩu, ý thanh-tịnh như một Ngài Đại-đức có 60 hạ.
Như vậy, Ngài Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là vị tỳ-
khưu Thánh-Tăng đầu tiên trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama, đồng thời
Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo đầy đủ trọn vẹn xuất hiện
trên thế gian.
Từ đó về sau, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh suốt
45 năm, đến ngày rằm tháng tư (âm lịch), tại khu rừng Kusinārā, trước khi Đức-Phật
tịch diệt Niết-bàn, có vị đạo-sĩ ngoại đạo Subhadda đến hầu đảnh lễ Đức- Phật,
kính xin phép hỏi những điều hoài-nghi mà chưa có một vị Đạo-sư nào có thể giải
đáp làm cho ông hài lòng được.
Đức-Phật biết rõ vị đạo-sĩ Subhadda này có duyên lành
với Đức-Phật, chỉ có Đức-Phật mới tế độ vị đạo-sĩ Subhadda này được, nên Đức-Phật
ngự đến khu rừng Kusinārā này để tịch diệt Niết-bàn, chờ tế độ vị đạo-sĩ
Subhadda, người đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.
Vị đạo-sĩ Subhadda bạch hỏi những điều hoài-nghi,
nhưng Đức-Phật không trực tiếp giải đáp câu hỏi, mà Đức-Phật thuyết giảng trong
giáo-pháp của Đức-Phật có pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến,
chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm,
chánh-định, nên mới có bậc Thánh thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh thứ
nhì là bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh thứ ba là bậc Thánh Bất-lai và bậc Thánh
thứ tư là bậc Thánh A-ra- hán cao thượng nhất.
Lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp như vậy, vị đạo-sĩ
Subhadda phát sinh đức-tin trong sạch trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, kính
xin Đức-Phật cho phép thọ sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, vị tỳ-khưu
Subhadda thực hành pháp-hành thiền-tuệ liền dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi
tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán, trước
khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Vậy, Ngài Trưởng-lão Subhadda là vị tỳ-khưu cũng là
bậc Thánh A-ra-hán cuối cùng của Đức-Phật Gotama.
Đức-Tăng có 2 hạng
- Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha)
- Phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha)
1- Thánh-Tăng là thế nào?
Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha) gồm có nhiều tỳ-khưu
là bậc Thánh (Ariyabhikkhu) đã diệt tận được phiền não, tham-ái, ác-pháp ...
tùy theo khả năng của Thánh-đạo- tuệ của mỗi bậc Thánh tỳ-khưu.
Tỳ-khưu Thánh-Tăng có 4 bậc
- Tỳ-khưu Thánh-Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành
bậc Thánh A-ra-hán.
- Tỳ-khưu Thánh-Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc
Thánh A-ra-hán.
- Tỳ-khưu Thánh-Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc
Thánh A-ra-hán.
- Tỳ-khưu Thánh A-ra-hán.
Chư tỳ-khưu-Tăng đều là bậc Thánh-nhân gọi là chư
Thánh-Tăng.
2- Phàm-Tăng là thế nào?
Phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha) gồm có chư tỳ-khưu
phàm-nhân (puthujjanabhikkhu) có từ 5 vị tỳ-khưu trở lên, chưa diệt tận được
phiền-não, tham-ái, ác-pháp nào.
Khả năng của bậc Thánh-nhân
* Các bậc Thánh-nhân ngang bằng nhau, có khả năng biết
lẫn nhau, qua cuộc đàm đạo với nhau, hoặc biết bằng tha-tâm-thông của bậc
Thánh-nhân.
* Thánh-nhân bậc thấp không có khả năng biết
Thánh-nhân bậc cao, mà chỉ có Thánh-nhân bậc cao có khả năng biết Thánh-nhân bậc
thấp mà thôi.
* Tất cả mọi hạng phàm-nhân hoàn toàn không có khả
năng biết được các bậc Thánh-nhân, bởi vì, muốn biết bậc Thánh-nhân phải biết bằng
tuệ-nhãn (paññā- cakkhu), không phải thấy bằng mắt-thường (maṃsa- cakkhu) hoặc
trí-tuệ của hạng phàm-nhân.
Đức-Tăng suy-đồi
Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, trải qua thời
gian lâu dài về sau theo tuần tự thời gian tuổi thọ của Phật- giáo 5.000 năm,
pháp-thành Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy đồi; pháp-hành Phật-giáo cũng dần
dần bị mai một, bị suy đồi; cuối cùng pháp-học Phật-giáo cũng dần dần bị mai một,
bị suy đồi. Cho nên, trải qua thời gian lâu dài về sau, Đức-Tăng cũng dần dần bị
mai một, bị suy đồi.
Theo lịch sử Phật-giáo Theravāda, kỳ kết tập Tam- tạng
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư tại đảo quốc Srilankā, Phật-lịch 450 năm sau
khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn
còn đông đủ.
* Theo bản dịch tiếng Myanmar Theragāthā và Therī-
gāthā, phần nói đầu, mục tỳ-khưu-ni bắt đầu và kết thúc được tóm lược như sau:
* Tỳ-khưu-ni bắt đầu từ hạ thứ 5 của Đức-Phật tại giảng
đường Kuṭāgāra, gần kinh thành Vesālī, bà Mahā- pajāpatigotamī là vị tỳ-khưu-ni
đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama cùng với 500 cận-sự-nữ dòng Sakya
xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Từ đó, chư tỳ-khưu- ni-Tăng càng ngày càng được
phát triển đông thêm ở trong nước.
Đến thời-kỳ Đức-vua Asoka lên ngôi khoảng 218 năm sau
khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua là Đấng Minh-quân trị vì cõi
Nam-thiện-bộ-châu, cũng là người cận-sự-nam (upāsaka) có đức-tin trong sạch nơi
Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên Phật-giáo được phát triển
mạnh, chư tỳ-khưu và chư tỳ-khưu-ni rất đông.
Đức-vua Asoka không chỉ hộ độ chư tỳ-khưu-Tăng và chư
tỳ-khưu-ni tăng trong nước, mà còn hộ độ gửi các phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng
đi sang truyền bá Phật-giáo các nước lân cận.
Phật lịch năm 236, Đức-vua Asoka gửi phái đoàn gồm có
5 Ngài Trưởng-lão có Ngài Trưởng-lão Mahinda (7) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā để truyền bá Phật-giáo.
Vào thời-kỳ ấy, Đức-vua Devanampiyatissa trị vì đảo quốc Srilankā này là bạn
thân của Đức-vua Asoka, nên Phật-giáo được phát triển tốt, có nhiều người cận-sự-nam
(upāsaka) xuất gia trở thành tỳ-khưu, cũng
có những cận-sự-nữ (upāsikā) có ý nguyện muốn xuất gia
trở thành tỳ-khưu-ni.
Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-
ni-Tăng do Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittā (8) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā, để làm lễ xuất-gia
trở thành tỳ-khưu-ni cho những cận-sự-nữ (upāsikā) trong hoàng tộc và dân
chúng.
Trên đảo quốc Srilankā, Phật-giáo được thịnh hành và
phát triển tốt, từ Đức-vua cùng các quan trong triều cho đến dân chúng có đức-tin
nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có nhiều người xuất gia
trở thành tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni rất đông.
Đến thời-kỳ Đức-vua Vaṭṭagāmani là cận-sự-nam
(upāsaka) có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo,
hộ độ chư Ngài Đại- Trưởng-lão trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
tại đảo quốc Srilankā vào khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức-Phật Gotama tịch
diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ tư này, trọn bộ Tam-
tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, suốt 1
năm mới hoàn tất, rồi chư Ngài Đại-Trưởng-lão kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải
Pāḷi bằng khẩu một lần nữa.
Trong khoảng thời gian ấy, trên đảo quốc Srilankā, chư
tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn còn.
* Theo sự nhận định của chư Đại-Trưởng-lão dịch bộ
Theragāthā và Therīgāthā, phần nói đầu bằng tiếng Myanmar. Về sau, thời gian đến
khoảng sau Phật-lịch 500 năm tỳ-khưu-ni không còn nữa, chỉ còn chư tỳ-
khưu-Tăng trên đảo quốc Srilankā mà thôi.
Hiện nay, chư tỳ-khưu-Tăng theo truyền thống Phật-
giáo nguyên-thủy Theravāda đang hiện hữu trong các nước Tích Lan (Srilankā), nước
Miến Điện (Myanmar), nước Thái Lan, nước Lào, nước Campuchia, v.v… rất đông.
Trong thời vị-lai, theo diễn tiến thời gian về sau,
chư tỳ-khưu càng ngày càng dần dần giảm đức-tin nơi Tam- bảo, trí-tuệ hiểu biết
đúng đắn trong pháp-học Phật-giáo cũng dần dần giảm.
Đó là nguyên-nhân làm cho pháp-thành Phật-giáo dần dần
bị mai một, bị suy thoái; pháp-hành Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy thoái;
và pháp-học Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy thoái theo thời gian theo tuổi
thọ của Phật-giáo 5.000 năm.
Mặc dù Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Tạng Kinh Pāḷi bị mai
một, bị suy đồi hoàn toàn, chỉ còn Tạng Luật Pāḷi, thì Phật-giáo vẫn chưa bị
mai một, chưa bị suy đồi.
Đến khi Tạng Luật Pāḷi bắt đầu dần dần bị mai một, bị
suy thoái, mà chư tỳ-khưu-Tăng vẫn còn hành-tăng-sự (Saṃghakamma) trong những
ngày giới uposathakamma hằng tháng, và hành-tăng-sự lễ thọ tỳ-khưu, v.v… thì Đức-Tăng
vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.
Theo quá trình diễn tiến của thời gian về sau, tỳ-khưu
càng ngày càng dần dần giảm đức-tin nơi Tam Bảo, cho nên có số tỳ-khưu không
tôn trọng nghiêm chỉnh giữ gìn tất cả mọi điều-giới luật mà Đức-Phật đã chế định
và ban hành đến chư tỳ-khưu.
Số tỳ-khưu ấy coi thường, nên phạm các điều-giới
nhẹ (lahuka āpatti), phạm giới nói bậy (dubbhāsita āpatti), phạm giới
hành bậy (dukkaṭa āpatti) rồi dần dần phạm giới pācittiya (pācittiya āpatti),
cho đến phạm giới trọng (thullaccaya āpatti).
Những giới điều này thuộc về giới nhẹ (lahuka āpatti),
vị tỳ-khưu nào đã phạm những giới nhẹ này, nếu biết tôn trọng giới thì vị tỳ-khưu
ấy có thể làm lễ sám hối những giới ấy với một vị tỳ-khưu khác không phạm giới ấy.
Sau khi đã sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trong sạch trở lại.
Theo tuần tự thời gian lâu dài về sau, tỳ-khưu phạm
giới nặng (garuka āpatti).
Giới nặng có hai loại giới là điều-giới saṃghādisesa
(giới xin hành phạt) và điều-giới pārājika (giới bại hoại phẩm hạnh tỳ-khưu).
* Nếu vị tỳ-khưu nào đã phạm giới saṃghādisesa (Saṃghādisesa
āpatti) nào thì vị tỳ-khưu ấy vẫn còn phẩm hạnh tỳ-khưu, nhưng vị tỳ-khưu ấy đã
phạm giới mà không thể sám hối được, bởi vì giới saṃghādisesa này thuộc về giới
nặng, nên vị tỳ-khưu ấy phải xin chịu hành phạt và trải qua 3 giai đoạn hành
parivāsakamma, mānattakamma, abbhānakamma để cho giới được trong sạch trở lại,
theo luật mà Đức-Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu.
* Nếu vị tỳ-khưu nào phạm giới Pārājika (Pārājika
āpatti: Phạm giới bại hoại phẩm hạnh tỳ-khưu) thì vị tỳ- khưu ấy mất phẩm-hạnh
tỳ-khưu, phải hoàn tục trở lại người cận-sự-nam tại gia, hoặc có thể xuống bậc
thấp, trở thành vị sa-di suốt đời, không bao giờ thọ tỳ-khưu được nữa.
Trong thời vị-lai, Tạng Luật Pāḷi bị mai một, bị suy đồi
hoàn toàn, do tỳ-khưu phàm-nhân không còn hiểu biết về giới luật, về cách
hành-tăng-sự, …
Chư tỳ-khưu ấy có những hành vi cử chỉ, nói năng biểu
hiện ra nơi thân và khẩu không làm cho người khác phát sinh đức-tin. Tỳ-khưu ấy
không hành thiện-pháp mà hành ác-pháp do bởi phiền-não, tham-ái, tạo nên ác-
nghiệp do thân, khẩu, ý, tự làm khổ mình, làm khổ người.
Trong thời vị-lai, gần mãn tuổi thọ Phật-giáo 5.000
năm, tỳ-khưu chỉ còn là cái tên gọi “bhikkhu: tỳ-khưu” mà không
có giới của tỳ-khưu, mặc y nhuộm không đúng màu theo Đức-Phật đã chế định.
Trải qua thời gian sau nữa, tỳ-khưu may y vai trái mặc
choàng phần trên thân, y nội mặc che phần dưới thân, không còn cắt ra thành 5
hoặc 7 điều như luật Đức- Phật đã chế định, chỉ may tấm vải dính lại để mặc.
Khi chư tỳ-khưu đi khất thực, không ôm bát đàng hoàng,
mà chỉ cầm cái bát bằng bàn tay, giống như nhóm ngoại đạo hành khất xin ăn.
Thời gian sau nữa, tỳ-khưu ấy nghĩ: “Lợi ích gì
chúng ta mặc tấm vải y lớn này, ta chỉ cần cắt một mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc
cột vào cổ tay, hoặc quấn trên đầu để thuận tiện làm công việc nuôi sống gia
đình.”
Tuy vậy, Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Trong thời vị-lai, có hạng người tên
gọi là tỳ-khưu “bhikkhu” chỉ còn mảnh y nhỏ quấn cổ, hoặc cột ở cổ tay là người
phạm giới, hành ác-pháp, nhưng thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có
tác-ý thiện-tâm làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, trong số
tỳ-khưu không có giới ấy.
- Này Ānanda! Người thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, sự
cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời vị-lai ấy, Như-Lai dạy rằng:
“Phước-thiện bố-thí ấy vẫn có quả-báu vô lượng không
sao kể xiết được.”
Như-Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: “Thí
chủ làm phước-thiện bố-thí đến cá nhân thọ-thí, được quả báu nhiều hơn là làm
phước-thiện bố-thí đến chư tỳ-khưu-Tăng-thí ” (9).
Qua đoạn kinh trên, Đức-Phật dạy những thí-chủ làm phước-thiện
bố-thí cúng dường, với tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hướng tâm đến
chư tỳ-khưu-Tăng, nên thí-chủ có được phước-thiện bố-thí vô lượng.
Thật ra, chỉ có cá nhân tỳ-khưu phạm giới (bhikkhu
dussīla) mà thôi.
Tiếp theo qua thời gian về sau nữa, tỳ-khưu ấy nghĩ rằng:
“Lợi ích gì mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay này.”
Chư tỳ-khưu ấy cởi vất bỏ mảnh y nhỏ kia, mặc bộ đồ
màu trắng “setavatthaṃ” của người tại gia. Khi ấy, hình tướng của tỳ-khưu hoàn
toàn bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn (liṅga antaradhāna).
Phật-Giáo suy đồi
Đến 5.000 năm mãn tuổi thọ của Phật-giáo, khi ấy, Phật-giáo
hoàn toàn không còn nữa, nghĩa là Đức-Pháp là pháp-thành Phật-giáo, pháp-hành
Phật-giáo, pháp- học Phật-giáo và Đức-Tăng là chư tỳ-khưu-Tăng thanh- văn đệ-tử
của Đức-Phật Gotama hoàn toàn không còn trên cõi người này, do không có tỳ-khưu
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật giữ gìn duy trì Phật-giáo nữa.
Xá-lợi Đức-Phật Niết-bàn (Dhātuparinibbāna)
Đức-Phật Gotama có ba loại Niết-bàn:
1- Kilesaparinibbāna: Phiền-não Niết-bàn.
2- Khandhaparinibbāna: Ngũ-uẩn Niết-bàn.
3- Dhātuparinibbāna: Xá-lợi Đức-Phật Niết-bàn.
Parinibbāna nghĩa là “tịch-diệt” khi tịch diệt rồi
không còn nhân-duyên (paccaya) phát sinh lại nữa gọi là parinibbāna, cũng gọi
là Nibbāna.
Thông thường, các pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) là tâm,
tâm-sở, sắc-pháp được cấu tạo do bởi 4 nhân- duyên: nghiệp (kamma), tâm
(citta), thời-tiết (utu), vật- thực (āhāra), cho nên, pháp-hữu-vi này sau khi
diệt rồi, còn có nhân-duyên nên phát sinh pháp-hữu-vi khác liên tục không ngừng,
từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thủy cho đến kiếp hiện-tại cuối cùng của bậc
Thánh A- ra-hán.
Song Niết-bàn thuộc về pháp-vô-vi (asaṅkhata- dhamma),
không do bởi một nhân-duyên nào cấu tạo, cho nên khi tịch diệt rồi không có
nhân-duyên nào làm cho phát sinh được nữa.
* Đức Bồ Tát Siddhattha chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não không còn dư sót nữa, gọi là
Kilesa- parinibbāna: Phiền-não Niết-bàn (nghĩa là tất cả mọi phiền-não đã diệt
rồi, vĩnh viễn không có nhân-duyên phát sinh phiền-não được nữa), tại cội Đại-Bồ-đề
trong khu rừng Uruvelā (nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn- Độ) vào canh chót
đêm rằm tháng tư (âm-lịch), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn
ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có
danh hiệu là Đức-Phật Gotama, lúc ấy tròn đúng 35 tuổi.
* Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ
chúng-sinh suốt 45 năm. Đến ngày rằm tháng tư (âm-lịch) Đức-Phật Gotama tịch diệt
Niết-bàn gọi là Khandhaparinibbāna: Ngũ-uẩn Niết-bàn (nghĩa là ngũ-uẩn đã diệt
rồi, vĩnh viễn không có nhân-duyên sinh ngũ-uẩn khác được nữa), tại khu rừng
Kusinārā. Đức-Phật tròn đúng 80 tuổi.
* Trong thời vị-lai, khi Phật-giáo bị mai một, bị suy
đồi hoàn toàn trong cõi người này, khi ấy, tất cả mọi Xá- lợi của Đức-Phật
Gotama đều tịch diệt Niết-bàn gọi là Dhātuparinibbāna: Xá-lợi Đức-Phật Gotama
Niết-bàn, hoàn toàn không còn viên nào dù nhỏ nhất bằng hạt cải.
Xá-lợi Đức-Phật Gotama Niết-bàn như thế nào?
Xá-lợi Đức-Phật Gotama Niết-bàn nghĩa là tất cả mọi
Xá-lợi lớn nhỏ của Đức-Phật Gotama đều Niết-bàn, không còn dư sót lại trong
toàn các cõi-giới chúng-sinh.
Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có Xá-lợi Niết- bàn, còn
chư Phật-Độc-Giác, chư Thánh A-ra-hán thanh-văn-giác chỉ có Phiền-não Niết-bàn
và Ngũ-uẩn Niết-bàn mà thôi, không có Xá-lợi Niết-bàn.
Do năng lực phát nguyện của Đức-Phật Gotama, đến khi
Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn mất hẳn trong cõi người này, loài
người không còn biết lễ bái cúng dường Xá-lợi của Đức-Phật Gotama nữa.
Khi ấy, tất cả Xá-lợi của Đức-Phật Gotama hiện có trên
toàn cõi người, cõi Long-vương, cõi trời dục-giới, Xá-lợi của Đức-Phật Gotama
dù lớn, dù nhỏ như hạt cải cũng đều tụ hội lại một chỗ tại cội Đại-Bồ-đề xưa,
nơi mà Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, có danh hiệu
là Đức-Phật Gotama, nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn-Độ.
Tất cả mọi Xá-lợi của Đức-Phật Gotama dù lớn dù nhỏ từ
các cõi-giới kết dính lại thành pho tượng kim thân Đức-Phật Gotama có đầy đủ 32
tướng tốt và 80 tướng tốt phụ trong tư thế ngồi kiết già, tại cội Đại-Bồ-đề.
Trong thời-kỳ ấy, loài người không có một ai đến chiêm
bái cúng dường, bởi vì loài người không còn ai hiểu biết đến Xá-lợi Đức-Phật
Gotama, mà chỉ có chư-thiên, chư phạm-thiên trong mười ngàn cõi-giới tụ hội lại
chiêm- bái cúng dường, than vãn rằng:
“Ajja satthā parinibbāti, ajja sāsanaṃ osakkati,
pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākaṃ.” (10)
“Hôm nay, Đức-Thế-Tôn là bậc Thiên-Nhân-sư Xá- lợi Niết-bàn,
hôm nay, Phật-giáo bị tiêu hoại hoàn toàn. Bây giờ, đây là sự chiêm-bái cúng dường
Xá-lợi Đức- Phật lần cuối cùng của chúng ta.”
Khi ấy, từ pho tượng kim thân Đức-Phật Gotama biểu
diễn thần thông yamakapaṭihāriya, rồi phát ra hào quang sáu màu, thuyết pháp tế
độ chư-thiên, chư phạm- thiên chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn; ước lượng
có 1.000 tỷ chư-thiên, chư phạm-thiên giải thoát khổ (11).
Sau đó, hỏa-đại (chất lửa) phát ra từ pho tượng kim
thân Đức-Phật Gotama. Thật phi thường chưa từng có, ngọn lửa phát ra từ pho tượng
kim thân Đức-Phật Gotama phóng lên tận cõi trời phạm-thiên. Khi viên Xá-lợi nhỏ
bằng hạt cải còn, thì ngọn lửa vẫn còn, cho đến khi tất cả mọi Xá-lợi của Đức-Phật
Gotama đều Niết-bàn không còn dư sót lại, khi ấy, ngọn lửa mới tắt hẳn.
Như vậy, gọi là Xá-lợi Niết-bàn nghĩa là tất cả Xá-lợi
của Đức-Phật Gotama không còn trên các cõi-giới nào cả, đồng thời giáo-pháp của
Đức-Phật Gotama cũng bị tiêu hoại hoàn toàn trong cõi người, bởi vì, không còn
các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama trong cõi người này nữa.
Song các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama
là chư-thiên, chư phạm-thiên và cả bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Gotama vẫn còn trong các cõi trời dục-giới, cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi
trời vô-sắc-giới phạm-thiên. Đối với chư-thiên, chư phạm-thiên là bậc
Thánh-nhân, khi hết tuổi thọ ở cõi- giới đang sống thì không tái-sinh trở lại
cõi-giới cũ, cũng không tái-sinh xuống cõi-giới thấp hơn, chỉ có tái-sinh lên
cõi trời cao hơn cho đến khi trở thành bậc Thánh A- ra-hán rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn
trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên hoặc vô-sắc-giới phạm-thiên.
Toàn thể chư-thiên, chư phạm-thiên phát sinh động- tâm
(saṃvega), thành kính cúng dường những đóa hoa trời, vật thơm trời, cúng dường
Xá-lợi Đức-Phật Gotama.
Còn chư-thiên, chư phạm-thiên còn phàm (chưa phải là
Thánh) phát nguyện rằng:
“Anāgate uppajjanakaṃ Buddhaṃ passituṃ labhissāma
Bhagavā.(12)”
“Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do phước-thiện lễ bái cúng dường
Xá-lợi Đức-Phật Gotama này, mong tất cả chúng con có duyên lành sẽ đến hầu Đức-Phật
xuất hiện trong thời vị-lai.”
Phát nguyện xong, chư-thiên, chư phạm-thiên trở về cõi
trời của mình. Từ đó, cõi người mất hẳn ánh sáng của chánh-pháp, ác-pháp càng
ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện-pháp càng ngày càng suy thoái dần dần, nỗi
khổ thân, khổ tâm càng ngày càng tăng, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm.
Khi mọi ác-pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại càng giảm dần, giảm
dần cho đến khi tuổi thọ con người còn khoảng 10 năm.
Vào thời-kỳ ấy, nạn chém giết lẫn nhau sẽ xảy ra vô
cùng tàn khốc, khủng khiếp, không còn biết phân biệt bà con thân bằng quyến thuộc,
bạn bè, anh em, thậm chí không còn biết đến cha mẹ con cái nữa.
Một số người hoảng sợ sẽ chạy vào rừng trốn thoát
thân, khi biết nạn chém giết không còn nữa, nên số người ấy gặp lại nhau, cam kết
với nhau sẽ không giết hại lẫn nhau nữa.
Con người bắt đầu biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-
lỗi, biết giữ giới, thiện-pháp bắt đầu tăng trưởng dần dần, còn ác-pháp bắt đầu
suy thoái dần dần. Nhờ vậy, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng trưởng lên từ
10 năm, 20 năm, 100 năm, 1.000 năm, 1000 ngàn năm, v.v…
Khi mọi thiện-pháp càng ngày càng tăng trưởng lên, thì
tuổi-thọ con người tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh A-tăng-kỳ năm.(13)
Thời-kỳ ấy, con người có tuổi thọ sống lâu, nên sinh
tâm dể duôi (thất niệm), ác-pháp lại bắt đầu phát sinh ... Do nguyên nhân ấy
làm cho tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần cho đến thời-kỳ con người có tuổi
thọ khoảng 80 ngàn năm.
Trong thời vị-lai, thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng
80 ngàn năm, khi ấy, Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế
gian, cùng trong kiếp trái đất này mà chúng ta đang sống.
Kiếp trái đất này gọi là Bhaddakappa có nhiều
diễm phúc nhất, bởi vì Bhaddakappa này có 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
theo tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này.
Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian đều
có khoảng cách thời gian trải qua một chu kỳ tuổi thọ con người giảm dần đến tột
cùng chỉ còn 10 năm, rồi tuổi thọ lại tăng dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm (số 1
đứng đầu theo sau có 140 số 0), rồi tuổi thọ lại giảm dần đến thời-kỳ tuổi thọ
con người mà Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác chọn thời điểm xuất hiện trên thế gian
như sau:
Trong thời-kỳ quá khứ đã có 3 Đức-Phật xuất hiện theo
tuần tự trong kiếp trái đất này:
1- Đức-Phật Kakusandha xuất hiện trên thế
gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 40 ngàn năm.
2- Đức-Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế
gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm.
3- Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế
gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm.
Trong thời hiện-tại Đức-Phật Gotama của chúng ta xuất
hiện trên thế gian trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 năm. Đức-Phật
Gotama tịch diệt Niết- bàn lúc tròn 80 tuổi.
Trong thời vị-lai, trong cùng kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa
này, vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm, Đức-Phật
Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian. Đức-Phật Metteyya có
tuổi thọ 80.000 năm mới tịch diệt Niết-bàn.
Con người đang sinh sống trong thời-kỳ 1 a-tăng-kỳ trụ
của kiếp trái đất. Trong thời vị-lai, sau khi Đức-Phật Metteyya tịch diệt Niết-bàn,
và giáo-pháp của Đức-Phật Metteyya bị mai một, bị tiêu hoại hoàn
toàn trong cõi người, ác-pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện-pháp lại dần dần bị
suy thoái, tuổi thọ con người cũng dần dần giảm xuống đến cùng tột.
Đến thời cuối cùng, kiếp trái đất này sẽ bị tiêu hoại
dần không có chúng-sinh nào sinh sống, trải qua 1 a- tăng-kỳ hoại trái đất
không còn nữa, rồi sẽ tiếp đến 1 a- tăng-kỳ không, rồi sẽ tiếp đến 1 a-tăng-kỳ
thành một kiếp trái đất mới khác chưa có chúng-sinh nào đến sinh.
Như vậy, 1 đại-kiếp trái đất trải qua 4
a-tăng-kỳ: 1 a- tăng-kỳ thành, 1 a-tăng-kỳ trụ, 1 a-tăng-kỳ hoại, 1 a- tăng-kỳ
không.
Các loài chúng-sinh chỉ sinh sống trong 1
a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất mà thôi.
Theo lịch sử tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, từ Đức- Phật
này đến Đức-Phật kia có khi trải qua vô số kiếp trái đất không có Đức-Phật nào
xuất hiện trên thế gian gọi là Suññakappa: Kiếp trái đất không có Đức-Phật.
Kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống, thật là vô
cùng diễm phúc, có đến 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự xuất hiện trên thế
gian là:
Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức- Phật
Kassapa, Đức-Phật Gotama, Đức-Phật Metteyya.
(Chương I: Ba Ngôi Cao Cả đã trình bày xong.)
(1) 5 pháp-chủ (Indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm
pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ.
(2) Bộ Chú-giải Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Ekābhiññasutta.
(3) Tìm hiều đầy đủ trong quyển “ Gương Bậc Xuất-Gia”,
cùng soạn-giả.
(4) Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Pabbajjūpasampadākathā.
(5) Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Paṇāmitakathā.
(6) Sikkhāmānā thực tập 6 giới: Ngũ giới + giới không ăn phi thời
(quá giờ ngọ: 12 giờ) trong sạch suốt 2 năm. Trong thời gian thực tập, nếu phạm
một giới nào vị Sikkhāmānā phải bắt đầu lại từ đầu.
(7) Ngài vốn là Thái-tử và Đức-vua Asoka, nay là bậc Thánh
A-ra-hán.
(8) Ngài vốn là Công-chúa của Đức-vua Asoka, nay là bậc Thánh
A-ra-hán.
(9) Maj. Uparipaṇṇāsa. Kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta.
(10) Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.
(11) Trong Bộ sách Arimetteyya Buddhavaṃsa, bộ Ānāgatavaṃsa.
(12) Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.
(13) A-tăng-kỳ năm tính theo số lượng, số 1 đứng đầu theo sau
140 số không (0), viết tắt là 10140.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10