NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
* Đức-Phật với cây Đại-Bồ-đề
Tích tiền-kiếp Kāliṅgabodhijātaka
Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ
Anāthapiṇḍika gần kinh-thành Sāvatthi, Đức-Phật thuyết giảng tích Kaliṅgabodhijātaka
(1) trong đoạn đầu được tóm lược như sau:
Khi Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại-đức
tỳ-khưu-Tăng đông đảo, đến khi Đức-Phật du hành đến nơi khác thì chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng
cùng đi theo Đức-Phật.
Lúc ấy, ngôi chùa Jetavana trở nên trống vắng, không
còn một vị nào ở trong chùa cả. Những người cận-sự- nam, cận-sự-nữ mang những
phẩm vật đến chùa, không thấy Đức-Phật và cũng không thấy một Đại-đức tỳ-khưu
nào cả. Họ không biết dâng lễ cúng dường đến nơi nào, nên đành phải đem đến đặt
trước cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi họ lủi thủi trở về nhà mà không phát
sinh tâm hoan-hỷ.
Biết được như vậy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika chờ đợi
khi Đức-Phật ngự trở lại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Ông phú hộ liền đến gặp đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Ānanda và bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, mỗi khi Đức-Phật ngự
đi du hành đến nơi khác cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, ngôi chùa Jetavana
này trở nên trống vắng.
Các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem những phẩm vật đến
dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt
trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi thui thủi trở về nhà mà không phát
sinh tâm hoan-hỷ.
- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con kính xin Ngài bạch lại
với Đức-Phật rằng:
“Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử còn có nơi nào khác
dâng lễ cúng dường, để phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nữa không?”
Nhận lời thỉnh cầu của ông phú hộ, Ngài Trưởng-lão
Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Cetiya là nơi dâng lễ cúng
dường có bao nhiêu nơi? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Cetiya nơi dâng lễ cúng dường có 3 nơi.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ba nơi ấy là những nơi nào? Bạch
Ngài.
- Này Ānanda! Ba nơi ấy là:
1- Sārīrika-cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá-Lợi của
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
2- Paribhoga-cetiya: Cetiya nơi mà Đức-Phật đã
sử dụng như cội Đại-Bồ-đề, những thứ vật dụng của Đức- Phật đã dùng.
3- Uddissaka-cetiya: Cetiya nơi mà các hàng
thanh- văn đệ-tử tạo nên ngôi Bảo-tháp, tượng Đức-Phật, v.v… để tôn thờ.
Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi Đức-Thế-Tôn còn tại thế
gian, ba nơi cetiya ấy, các hàng thanh-văn đệ-tử có thể dâng lễ cúng dường được
hay không? Bạch Ngài.
- Này Ānanda! Sāriraka-cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá-lợi
của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, khi nào Như- Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, còn lại
phần Xá-Lợi thì khi ấy các hàng thanh-văn đệ-tử mới có thể dâng lễ cúng dường
cetiya, nơi tôn thờ Xá-lợi Đức-Phật.
- Này Ānanda! Còn paribhoga-cetiya và uddissaka-
cetiya, thì ngay khi Như-Lai còn tại thế gian, các hàng thanh-văn đệ-tử cũng có
thể dâng lễ cúng dường đến hai nơi cetiya ấy được.
- Này Ānanda! Cây Đại-Bồ-đề được gọi là paribhoga-
cetiya, bởi vì chư Phật đã ngồi dưới cội Đại-Bồ-đề, đã trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.
Lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão
Ānanda bèn bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi Đức-Thế-Tôn ngự đi du
hành đến nơi khác cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, tại ngôi chùa Jetavana
này trở nên trống vắng.
Các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem những phẩm vật đến
dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt
trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi thui thủi trở về nhà mà không phát
sinh tâm hoan-hỷ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, như vậy, con có thể thỉnh hạt
giống Đại-Bồ-đề từ cội Đại-Bồ-đề ở khu rừng Uruvelā, đem về gieo trồng tại ngôi
chùa Jetavana này, để cho các hàng thanh-văn đệ-tử làm cetiya nơi dâng lễ cúng
dường, có nên hay không? Bạch Ngài.
Đức-Phật hoan-hỷ truyền dạy rằng:
- Sādhu, Ānanda! ropehi.
(- Này Ānanda! Tốt lắm! Con hãy nên gieo trồng cây
Đại-Bồ-đề tại ngôi chùa Jetavana này.)
Evaṃ sante Jetavane mama nibaddhavāso viya
bhavissati (2).
(Như vậy, khi có cây Đại-Bồ-đề trong ngôi chùa Jetavana, cũng như là sự thường
trú của Như-Lai.)
Sau khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài
Trưởng-lão Ānanda thông báo cho ông phú hộ Anātha- piṇḍika, bà đại thí chủ
Visākhā, Đức-vua Pasenadi Kosala, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong
kinh-thành Sāvatthi rằng:
- Thưa quý vị, một cây Đại-Bồ-đề sẽ được trồng tại ngôi chùa Jetavana này.
Vậy, xin quý vị cho người đào lỗ để trồng cây Đại-Bồ-đề.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đến gặp Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna và bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn trồng một cây Đại-Bồ-đề tại ngôi
chùa Jetavana, kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão đến cội Đại-Bồ-đề tại khu rừng
Uruvelā, thỉnh một hạt giống Đại-Bồ-đề đem về cho con.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nhận lời, liền
dùng phép-thần-thông bay đến khu rừng Uruvelā, bay xung quanh cội Đại-Bồ-đề để
tìm hạt Đại-Bồ-đề nào già chín sắp lìa khỏi cành. Ngài Đại-Trưởng-lão dùng tấm
y hứng lấy hạt giống Đại-Bồ-đề không để rơi xuống mặt đất, thỉnh đem về trao
cho Ngài Trưởng-lão Ānanda.
Ngài Trưởng-lão Ānanda cung kính đón nhận hạt giống Đại-Bồ-đề
bằng cái đĩa bằng vàng.
Tiếp đến, Ngài Trưởng-lão Ānanda loan báo cho Đức- vua
Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể
các cận-sự-nam, cận-sự- nữ trong kinh-thành Sāvatthi tụ hội để làm lễ trồng cây
Đại-Bồ-đề.
Mọi người đã tụ hội đông đủ tại ngôi chùa Jetavana, để
làm lễ trồng cây Đại-Bồ-đề rất trọng thể.
Đầu tiên Ngài Trưởng-lão Ānanda thỉnh cái đĩa bằng
vàng có đựng hạt giống Đại-Bồ-đề trao cho Đức-vua Pasenadi Kosala để
gieo trồng cây Đại-Bồ-đề.
Đức-vua cung kính đón nhận từ tay của Ngài Trưởng- lão
Ānanda, rồi suy nghĩ rằng:
“Ta tuy là vua, nhưng người xứng đáng để gieo trồng cây Đại-Bồ-đề này phải
là ông phú hộ Anāthapiṇḍika.”
Nghĩ như vậy, Đức-vua Pasenadi Kosala liền trao
cái đĩa đựng hạt giống Đại-Bồ-đề lại cho ông phú hộ Anāthapiṇḍika. Ông
phú hộ cung kính đón nhận cái đĩa đựng hạt giống Đại-Bồ-đề từ tay của Đức-vua.
Ông phú hộ rải phân bón xuống lỗ, rồi hai tay cung
kính bưng cái đĩa vàng đựng hạt giống Đại-Bồ-đề gieo xuống lỗ và phủ lên mặt một
lớp đất.
Khi ấy, mọi người đông đảo đều nhìn thấy, một điều thật
là phi thường chưa từng có bao giờ!
Ngay khi vừa gieo xong, liền mọc lên một cây Đại-Bồ- đề cao 50 hắc tay (cùi
tay), có 5 nhánh, mỗi nhánh tỏa dài 50 hắc tay, trở thành một cây Đại-Bồ-đề to
lớn mà tất cả bốn phương, tám hướng đều nhìn thấy rõ.
Đức-vua Pasenadi Kosala liền dâng cúng dường 18
đóa hoa sen, tưới nước trong sạch vào gốc cây Đại-Bồ- đề. Tiếp theo, ông phú hộ
Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự-nữ
đều vô cùng hoan-hỷ, lần lượt dâng lễ cúng dường đến cội Đại-Bồ-đề một cách
cung kính.
Xung quanh cội Đại-Bồ-đề được xây bốn bức thành hàng
rào và cổng ra vào bằng các loại đá rất quý, phần nền gần gốc cây Đại-Bồ-đề được
lót bằng một loại đá quý, để làm nơi dâng lễ cúng dường của các hàng thanh- văn
đệ-tử.
Ngài Trưởng-lão Ānanda vào hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn rồi
bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đã trồng cây Đại-Bồ-đề
xong. Kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến sử dụng cội Đại-Bồ-đề.
Khi Đức-Thế-Tôn sử dụng cội Đại-Bồ-đề, để cho chúng
con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Theo sự thỉnh cầu của Ngài Trưởng-lão Ānanda, Đức- Phật
ngự đến sử dụng cội Đại-Bồ-đề, nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt đêm.
Ngài Trưởng-lão Ānanda thông báo cho Đức-vua Pasenadi
Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận-sự-nam,
cận-sự-nữ trong kinh-thành Sāvatthi tụ hội tại cội Đại-Bồ-đề để làm đại lễ cúng
dường đến cội Đại-Bồ-đề.
Vì vậy, cây Đại-Bồ-đề có tên gọi là: “Ānandabodhi: Cây Đại-Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão
Ānanda.”
Cây Đại-Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão Ānanda vẫn còn tồn tại
cho đến ngày nay tại nền ngôi chùa cổ Jetavana, tỉnh Sāvatthi, xứ Ấn Độ.
Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia, cũng
như hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đem hết lòng tôn kính cây Đại-Bồ-đề,
bởi vì, khi chúng ta tôn kính cây Đại-Bồ-đề cũng như tôn kính Đức-Phật vậy.
Cho nên, tại mỗi cây Đại-Bồ-đề là một nơi tôn nghiêm,
nên hằng ngày mỗi hàng thanh-văn đệ-tử phải có bổn phận chăm sóc bảo tồn, thường
xuyên quét dọn lau chùi sạch sẽ và thường đến lễ bái, dâng lễ cúng dường đến cội
Đại-Bồ-đề như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức- Phật, với đức-tin trong sạch
nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.
Thời-kỳ Đức-vua Asoka (Phật-lịch 218), Đức-vua là Đấng
Minh Quân có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hộ độ trong kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi
và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba tại chùa Asokārāma xứ Pāṭaliputta.
Vào năm Phật-lịch 236, Đức-vua hộ độ phái đoàn gồm 5
Ngài Đại-đức, do Ngài Trưởng-lão Mahinda (3) làm trưởng đoàn, đi sang Đảo-quốc Srilankā để truyền bá Phật-giáo.
Vào thời-kỳ ấy, Đức-vua Devanampiyatissa trị vì Đảo-quốc
Srilankā, là bạn thân thiết của Đức-vua Asoka. Đức-vua Devanampiyatissa cùng
các quan trong triều, dân chúng hân hoan đón rước phái đoàn chư Đại-đức- Tăng rất
trọng thể.
Phái đoàn chư Đại-đức-Tăng thuyết pháp truyền bá
giáo-pháp của Đức-Phật, Đức-vua cùng các quan trong triều và dân chúng phần
đông phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, một số xin phép xuất gia trở
thành tỳ-khưu, một số xin thọ phép quy-y Tam-Bảo trở thành người cận-sự-nam, cận-sự-nữ
đã quy-y Tam-Bảo trọn đời.
Ngoài ra, còn một số cận-sự-nữ muốn xuất-gia trở thành
tỳ-khưu-ni. Vì vậy, Ngài Trưởng-lão Mahinda gởi sứ giả đến tâu lên Đức-vua
Asoka, kính xin Đức-vua gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni sang đảo-quốc
Srilankā.
Cung nghinh cây Đại-Bồ-đề sang đảo quốc Srilankā
Chấp thuận lời tâu xin của sứ giả, Đức-vua Asoka gửi
phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni, do Ngài Đại-đức tỳ- khưu-ni Saṃghamittā (4) làm trưởng đoàn, phái đoàn có cung nghinh một cây Đại-Bồ-đề
sang trồng trên đảo quốc Srilankā.
Đức-vua Asoka làm lễ tiễn đưa cây Đại-Bồ-đề rất
long trọng, Đức-vua truyền lệnh sứ giả sang trước, để tâu lên Đức-vua
Devanampiyatissa cũng làm lễ đón rước cây Đại-Bồ-đề cho trọng thể.
Thật vậy, Đức-vua Devanampiyatissa cùng các
quan trong triều và rất đông đảo dân chúng đứng chờ sẵn ở bến. Khi thuyền của
phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni tăng cùng với cây Đại-Bồ-đề vừa
cập bến, Đức-vua Devanampiyatissa lội xuống nước đến cung nghinh cây Đại-Bồ-đề
từ trên tay của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni và cùng đón rước phái đoàn chư Đại-đức
tỳ-khưu-ni lên đảo quốc Srilankā.
Cây Đại-Bồ-đề được thỉnh đến trồng tại tỉnh
Anurādhapura, đảo-quốc Srilankā. Cây Đại-Bồ-đề này
được duy trì tồn tại cho đến nay vẫn còn tươi tốt. Nhà- nước Srilankā cùng với
các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật là bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di, cận-sự-nam,
cận-sự-nữ bảo vệ nghiêm ngặt, xung quanh có vòng thành bao bọc, chăm sóc cây
Đại-Bồ-đề rất chu đáo.
Hằng ngày, các đoàn người từ các tỉnh trong nước và
ngoài nước đến chiêm bái cúng dường cây Đại-Bồ-đề.
Vào buổi chiều, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ mặc đồ màu
trắng lũ lượt dẫn nhau đến chiêm bái cúng dường, tụng kinh, hành-thiền, … cho đến
giờ đóng cửa họ mới trở về nhà.
Như vậy, thời ấy chỉ có cây Đại-Bồ-đề được
cung thỉnh sang trồng trên đảo-quốc Srilankā, mà không đề cập đến tượng Đức-Phật.
Tượng Đức-Phật (Buddharūpa)
Tượng Đức-Phật có từ thời-kỳ nào?
Xuất hiện lần đầu tiên ở đâu?
Sở dĩ có câu hỏi này, là vì Tam-Tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi qua các thời-kỳ kết tập từ lần thứ nhất cho đến lần thứ tư dạy
các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni và các hàng tại
gia là cận-sự-nam, cận- sự-nữ phải nên tôn kính cây Đại-Bồ-đề như tôn
kính Đức-Phật, không nên chặt cành có tính cách phá hoại cây Đại-Bồ-đề.
Thật khó mà xác định chính xác, song do căn cứ của một
vài sử liệu cho rằng:
“Tượng Đức-Phật có từ thời-kỳ Phật-lịch thế kỷ thứ VI, do các nhà nghệ thuật
điêu khắc người Karika có đức-tin theo Phật-giáo, trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc
miền Bắc Ấn Độ thời xưa.”
Những nhà nghệ thuật này do tư duy rằng: “Phái Bà-
la-môn có các tượng thần linh để họ dâng lễ cúng dường thì Phật-giáo cũng nên
có tượng Đức-Phật để làm nơi lễ bái, dâng lễ cúng dường.
Do đó, các nhà nghệ thuật điêu khắc này học hỏi,
nghiên cứu về 32 tướng tốt của Đức-Phật và 80 tướng tốt phụ của Đức-Phật làm cơ
bản, làm nền tảng để họ sáng tạo nên tượng Đức-Phật đầu tiên.”
Một sử liệu khác cho rằng:
“Tượng Đức-Phật đầu tiên có vào khoảng Phật-lịch
700 sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, do các nhà nghệ thuật điêu khắc, tạo
hình trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.”
Tượng Đức-Phật có phù hợp với Phật-giáo hay không?
Tượng Đức-Phật thuộc trong điều Uddissakacetiya:
Cetiya nơi mà người tạo nên ngôi Bảo-tháp, tượng Đức- Phật, v.v… để tôn thờ, lễ
bái cúng dường, ...
Cho nên, tượng Đức-Phật phù hợp với Phật-giáo.
Biểu tượng của Phật-giáo
Cây Đại-Bồ-đề là một biểu tượng đặc biệt
nhất của Phật-giáo, bởi vì Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama tại dưới cội cây Assattha. Vì
vậy, cây Assattha này được gọi là Mahābodhirukkha: Cây
Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama.
* Cây Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama
Cây Đại-Bồ-đề này mọc tại khu rừng Uruvelā, nay
gọi là Buddhagayā (Ấn Độ), là nơi tôn kính của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Gotama, chư tỳ-khưu, chư sa-di, chư tỳ-khưu-ni, chư sa-di-ni, toàn thể cận-sự-nam,
cận-sự-nữ hết lòng thành kính lễ bái cội Đại-Bồ-đề, cũng như thành kính lễ bái,
cúng dường đến Đức-Phật Gotama.
Cho nên, Cây Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama là một
biểu tượng của Phật-giáo (như trong tích “Cây Đại- Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão
Ānanda”).
* Cây Đại-Bồ-đề tại rừng núi Viên Không
Một cây Đại-Bồ-đề nhỏ được cung thỉnh từ
Buddha- gayā tại khu rừng Uruvelā xưa, nơi mà Đức-Bồ-tát Siddhattha
đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama,
đem về trồng tại rừng núi Viên Không, xã Tóc Tiên, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà-Rịa
- Vũng-Tàu, để cho tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử gần xa có cơ hội đến
chiêm bái, đảnh lễ, lễ bái, cúng dường cội cây Đại-Bồ-đề, để gieo duyên
lành trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Cây Đại-Bồ-đề này được trồng trên mảnh đất
tại rừng núi Viên-Không, rồi xây dựng trở thành nơi tôn nghiêm lễ bái cúng dường
đặt tên là Bồ-Đề Phật-Cảnh gồm có:
- Động Bodhisattaguhāsīmā là động có tượng
Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đang thực hành pháp- hành khổ-hạnh (dukkaracariyā),
cũng là chỗ Sīmā nơi chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự (saṃghakamma).
- Cây Đại-Bồ-đề
(Mahābodhirukkha) được bao quanh bởi 10 tấm
phù-điêu bằng đá cẩm thạch, được khắc 10 tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực
hành 10 pháp- hạnh ba-la-mật bậc thượng.
Quang cảnh xung quanh cây Đại-Bồ-đề được trang trí bởi
2 vị Rồng Xanh: một vị rồng từ trên núi bay xuống và một vị rồng từ dưới
bay lên gặp nhau tại Bánh Xe Chuyển-Pháp-Luân có 2 chú nai bông quỳ 2
bên.
- Bảy tuần lễ Đức-Phật Gotama hưởng pháp vị giải
thoát (vimuttirasa) được tạo ra 7 cảnh tượng trưng, ý nghĩa như sau:
• Tuần lễ thứ nhất gọi là Pallaṅkasattāha:
Đức-Phật ngự trên bồ-đoàn quý báu trong lâu đài bằng inox tại dưới cội Đại-Bồ-đề
hưởng pháp vị giải thoát (từ ngày 16 tháng tư đến ngày 22 tháng tư).
• Tuần lễ thứ nhì gọi là Animisasattāha:
Đức-Phật đứng trên hòn đá trên cao không nháy mắt nhìn xuống cây đại- Bồ-Đề (từ
ngày 23 tháng tư đến ngày 29 tháng tư).
• Tuần lễ thứ ba gọi là Caṅkamasattāha:
Đức-Phật ngự đi kinh hành trên con đường làm bằng đá hoa cương, mỗi bước có đóa
hoa sen nâng đỡ (từ ngày 30 tháng tư đến ngày 6 tháng 5).
• Tuần lễ thứ tư gọi là Ratanagharasattāha:
Đức-Phật ngự trên lâu đài bằng inox, phía dưới móng làm bằng đá hoa cương, đặt
trên hòn đá lớn (từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5).
• Tuần lễ thứ năm gọi là Ajapālasattāha:
Đức-Phật ngồi dưới cây da trong tấm phù điêu làm bằng đá cẩm thạch, cảnh 3
thiên-nữ Taṇhā, Aratī, Rāgā là công-chúa của Ác-ma-thiên từ cõi Tha-hoá-tự-tại-thiên
hiện xuống quyến rũ Đức-Phật. Ba thiên-nữ bất lực, nên hồi tâm sám hối, tán
dương ca tụng Đức-Phật, rồi trở về cõi-giới của mình (từ ngày 14 tháng 5 đến
ngày 20 tháng 5).
• Tuần lễ thứ sáu gọi là Mucalindasattāha:
Đức-Phật ngự trong hồ nước Mucalinda, trời mưa lạnh, Long- vương Mucalinda hiện
ra vòng quanh 7 vòng bao quanh làm ấm Đức-Phật, phồng mang che mưa trên đầu Đức-
Phật, tỏ lòng tôn kính Đức-Phật (từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5).
• Tuần lễ thứ bảy gọi là Rājāyatanasattāha:
Đức-Phật ngồi dưới cây Rājāyatana trong tấm phù điêu làm bằng đá cẩm thạch, cảnh
Đức-Phật ban Xá-lợi tóc cho 2 anh em lái buôn Tapussa và Bhallika (từ ngày 28
tháng 5 đến ngày 5 tháng 6).
- Hai bàn chân của Đức-Phật làm bằng đá
cẩm thạch, trong lòng 2 bàn chân có chạm 108 biểu tượng mà mỗi biểu tượng là một
hình ảnh có ý nghĩa trong pháp, được gắn trên vách đá.
- Tấm phù-điêu phong cảnh Buddhagayā được
khắc trên vách đá trong khuôn viên nền cội cây Đại-Bồ-đề.
Xung quanh nền cội cây Đại-Bồ-đề có 28 khung lan can bằng
inox bao quanh.
Bồ Đề Phật Cảnh là một cảnh trí rất
thanh-tịnh thiên nhiên và cũng rất tôn nghiêm tại rừng núi Viên Không.
Bánh xe Chuyển-Pháp-Luân gồm có 12 căm
là sự luân chuyển theo tam-tuệ-luân: Trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành
trong tứ Thánh-đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật-giáo. Cho nên, bánh
xe Chuyển-Pháp-Luân cũng là một biểu tượng của Phật-giáo.
Hai biểu tượng này, nếu người nào có sự hiểu biết
giáo-pháp của Đức-Phật sâu sắc thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất
cao thượng của nó.
* Tượng Đức-Phật là một biểu tượng của Phật-Giáo
Tượng Đức-Phật cũng là một biểu tượng của Phật-giáo.
Tượng Đức-Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, dễ
cảm nhận và rất dễ gây ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức-Phật là
một biểu tượng, một hình ảnh để liên tưởng đến Đức-Phật, ngôi cao cả nhất mà
các hàng thanh-văn đệ-tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường.
Tượng Đức-Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ
trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì Đức-Bồ-tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt của
bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức-Phật, mà mỗi tướng
tốt như thế nào thì không có một ai từng thấy từng biết cả. Cho nên, các nhà
nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mỗi người, dựa theo nền mỹ
thuật của dân tộc mình để sáng tạo ra tượng Đức-Phật.
Mỗi nhà nghệ thuật có một quan niệm riêng về cái đẹp
và khả năng thẩm mỹ khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt
và 80 tướng tốt phụ của Đức-Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật
mang cá tính và tinh thần của dân tộc của mình.
Vì vậy, Tượng Đức-Phật Gotama được tạo
ra qua mỗi thời-kỳ, mỗi dân tộc do mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng không giống
nhau. Tuy nhiên, cũng có đường nét tương tự, cho nên, khi hàng thanh-văn đệ-tử
nào nhìn thấy tượng thờ, thì cũng có thể nhận biết được đó là Tượng Đức-Phật
Gotama.
Vì vậy, các hàng thanh-văn đệ-tử liền liên tưởng đến Đức-Phật
có 9 ân Đức-Phật cao thượng, nên phát sinh đức-tin trong sạch, tỏ lòng tôn
kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường lên Đức-Phật một cách cung kính.
Lễ bái cúng dường tượng Đức-Phật như thế nào?
Tượng Đức-Phật dù làm bằng chất liệu gì, như làm bằng
xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng, bằng ngọc, bằng đá quý, bằng
gỗ quý, thậm chí tượng Đức-Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v… thì các hàng
thanh-văn đệ-tử cũng không phải đảnh lễ, cúng dường nơi tượng Đức-Phật đồng, tượng
Đức-Phật vàng, tượng Đức-Phật ngọc, … mà thật ra, các hàng thanh- văn đệ-tử khi
nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức-Phật ấy, cần phải niệm tưởng đến 9 ân Đức-Phật.
Cho nên, khi đảnh lễ chỉ đảnh lễ 9 ân Đức-Phật, khi lễ
bái chỉ lễ bái đến 9 ân Đức-Phật, khi cúng dường chỉ cúng dường đến 9 ân Đức-Phật,
khi niệm Phật chỉ niệm đến 9 ân Đức-Phật mà thôi.
Như vậy, Tượng Đức-Phật là đối tượng bên ngoài,
để niệm tưởng đến 9 ân Đức-Phật bên trong với đại-thiện- tâm trong sáng của
mình.
Vì vậy, Tượng Đức-Phật tạo ra bằng chất liệu
gì, hình dáng, tư thế, ... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức
bên ngoài mà thôi. Khi các hàng thanh- văn đệ-tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ,
dâng lễ cúng dường, ... nơi tượng Đức-Phật, thì phải luôn luôn niệm tưởng
đến 9 ân Đức-Phật bên trong với đại-thiện-tâm trong sáng của mình.
Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức-Phật cũng
có tác động đến tư tưởng, tình cảm của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Thời xưa ở xứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc
tạo hình tượng Đức-Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển-Pháp-Luân,
phía dưới bồ-đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển-Pháp-Luân, hai bên có 2
con nai và nhóm 5 tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại
cho các hàng thanh-văn đệ-tử liên tưởng về quá-khứ, lần đầu tiên Đức-Phật thuyết
bài kinh Chuyển-Pháp-Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana,
để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài
Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.
Khi các hàng thanh-văn đệ-tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức-Phật
trong tư thế Chuyển-Pháp-Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật-giáo,
tượng trưng Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo lần đầu
tiên xuất hiện trên thế gian, cho nên, các hàng thanh-văn đệ-tử ấy dễ dàng phát
sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo. Như vậy, tượng Đức-Phật là đối tượng giúp
cho các hàng thanh-văn đệ-tử phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, chính nhờ
đức-tin này sẽ làm nền-tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
Tích Ngài Trưởng-lão Phusadeva ở tại đảo
Srilankā, hằng ngày Ngài làm phận sự làm sạch sẽ ngôi Bảo tháp xong, rồi Ngài
thực hành niệm 9 ân-Đức-Phật.
Một hôm Ác-ma-thiên hiện xuống quấy phá, Ngài Trưởng-lão
Phusadeva phát hiện ra Ác-ma-thiên, nên Ngài tha thiết khẩn khoản
Ác-ma-thiên biến hóa lại kim thân của Đức-Phật Gotama cho Ngài chiêm ngưỡng.
Ác-ma-thiên biến hóa lại kim thân của Đức-Phật Gotama,
Ngài chú tâm chiêm ngưỡng, có đức-tin trong sạch niệm 9 ân-Đức-Phật, phát sinh hỷ lạc đồng sinh với đại-thiện-tâm
chưa từng có, rồi Ngài thực hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc
Thánh A-ra-hán, tại ngôi Bảo tháp ấy.
(Tích trong Chú-giải Tạng-luật Parivara aṭṭhakathā.)
2- ĐỨC-PHẬT ĐỘC-GIÁC (Paccekabuddha)
Đức-Phật Độc-Giác là Bậc đã tự mình chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư
sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc-Giác.
Đức-Phật Độc-Giác không chế định ra ngôn ngữ thuyết-pháp
tế độ chúng-sinh khác để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cho
nên, gọi là Đức-Phật Độc-Giác (Paccekabuddha).
Đức-Phật Độc-Giác có thể có nhiều Vị
cùng thời xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Song mỗi Đức-Phật Độc-Giác đều tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy.
Để trở thành Đức-Phật Độc-Giác thì Đức-Bồ-tát
Độc-Giác (Paccekabodhisatta) cần
phải thực hành 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 10
pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.
Đức-Bồ-tát Độc-Giác có 3 hạng (5):
1- Đức-Bồ-tát Độc-Giác có trí-tuệ siêu-việt.
2- Đức-Bồ-tát Độc-Giác có đức-tin siêu-việt.
3- Đức-Bồ-tát Độc-Giác có tinh-tấn siêu-việt.
* Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký
xác định xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có trí-tuệ siêu-việt cần phải thực
hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp- hạnh ba-la-mật suốt 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp
trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
* Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định
xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có đức-tin siêu-việt cần phải thực hành
cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp- hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp
trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
* Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định
xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có tinh-tấn siêu-việt cần phải thực hành
cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp
trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
Đức-Bồ-tát Độc-Giác ấy sinh làm người nam trong
thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian và
cũng không còn giáo-pháp của Đức-Phật.
Đức-Bồ-tát Độc Giác ấy xuất gia, tự mình thực
hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ
dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi
phiền- não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật
Độc-Giác. Bởi vì Đức-Phật Độc-Giác không chế định ra ngôn ngữ để
thuyết pháp tế độ chúng-sinh khác cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật,
nên không có chúng-sinh nào chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn,
y theo Đức-Phật.
Đức-Phật Độc Giác có thể có hằng trăm Vị
trong cùng một thời-kỳ, mà mỗi Đức-Phật Độc-Giác đều không có thầy chỉ dạy.
Vấn: Đức-Phật
Độc-Giác không thầy chỉ dạy, tự mình đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn như Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.
Vậy, do nhân nào mà Đức-Phật Độc-Giác không thuyết
pháp tế độ chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài được?
Đáp: Sở dĩ Đức-Phật Độc-Giác
không thuyết pháp tế độ chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo
Ngài được, là vì Đức-Phật không chế định ra ngôn ngữ để thuyết pháp tế độ
chúng-sinh được.
Ví dụ một cách nôm na như người câm nằm ngủ thấy một
giấc mộng lành, cảm thấy sung sướng, vô cùng hoan-hỷ, nhưng không thể nói cho
người khác biết được.
(Còn bậc Thánh Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác, đã từng lắng nghe, học hỏi chánh- pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác,
cho nên chư bậc Thánh thanh-văn đệ-tử ấy có khả năng thuyết pháp giảng dạy, tế
độ chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn y theo Đức-Phật, trở thành 4 bậc Thánh
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.)
3- BẬC THÁNH THANH-VĂN-GIÁC (Sāvakabuddha)
Bậc Thánh Thanh-văn-giác là bậc Thánh
Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đã lắng nghe chánh-pháp trực
tiếp từ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc từ các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác, rồi thực hành đúng theo pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-
bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành 4 bậc Thánh
Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Thánh Thanh-văn-giác có 3 hạng:
1- Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác.
2- Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác.
3- Bậc Thánh Thanh-văn-giác hạng thường.
3.1- Bậc Thánh Tối-thượng Thanh-văn-giác
(Aggasāvaka)
Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka) là
bậc Thánh đệ nhất trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác, do Ngài đã từng phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
quá-khứ thọ ký.
Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ có 2 bậc Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác mà thôi.
- Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ
bậc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
- Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác bên trái có phép-thần-thông
bậc nhất trong các hàng Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Để trở thành bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác,
thì vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka- bodhisatta) (6) cần phải phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ bậc nhất hoặc bên trái có phép-thần-thông bậc
nhất, rồi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời
gian sẽ là vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào trong thời vị-lai.
Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xong, vị
bồ-tát ấy trở thành vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác và cần phải
thực hành đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt thời
gian 1 a- tăng-kỳ (7) và 100
ngàn đại-kiếp trái đất.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện
trên thế gian, vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy chắc chắn trực tiếp
đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp từ kim ngôn của
Đức- Phật ấy, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế y theo Đức-Phật ấy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn,
diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc
Thánh A-ra-hán, gọi là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác đúng theo ý nguyện
mà tiền-kiếp của vị bồ-tát ấy đã phát nguyện và đúng như Đức-Phật quá- khứ đã
thọ ký.
Đức-Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác là:
- Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bên phải có trí-tuệ
bậc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bên trái
có phép-thần-thông bậc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
Gotama.
3.2- Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka)
Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác là bậc Thánh có
đức- hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.
Để trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì
mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác cần phải phát nguyện muốn trở thành
bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác có đức-hạnh nào đặc biệt xuất sắc nhất
trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.
Khi vị Bồ-tát thanh-văn-giác được Đức-Phật
Chánh- Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian và sẽ là vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử
của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào trong thời vị-lai.
Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xong vị Bồ-tát
ấy trở thành vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác (mahāsāvakabodhisatta),
rồi cần phải thực hành đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong
suốt thời gian 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện
trên thế gian, vị bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy chắc chắn trực tiếp đến hầu
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi
thực hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo
Đức-Phật ấy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi
tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán gọi
là bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác đúng theo ý nguyện mà tiền-kiếp của vị Bồ-tát ấy
đã phát nguyện và đúng như Đức-Phật quá-khứ đã thọ ký.
Đức-Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại-thanh-văn-
giác, trong số ấy có 41 vị Thánh Đại-thanh-văn-giác mà mỗi Vị có mỗi đức-hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong các
hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
3.3- Bậc Thánh Thanh-văn-giác hạng thường
(Pakatisāvaka)
Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường là bậc Thánh
Thanh-văn-giác không có đức-hạnh nào đặc biệt xuất sắc trong các hàng Thánh
Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Để trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường
này, thì vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường (pakatisāvakabodhisatta)
ấy cần phải thực hành đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt thời
gian dưới 100 ngàn đại-kiếp trái đất (con số thời gian này không nhất định).
Trong thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác còn hiện hữu
trên thế gian, hoặc Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đã tịch diệt Niết-bàn rồi, nhưng
giáo-pháp của Đức-Phật vẫn còn lưu truyền trên thế gian, vị Bồ-tát
thanh-văn- giác hạng thường đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật,
lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng
ngộ chân- lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả:
* Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến
và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
* Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô,
trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
* Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế,
trở thành bậc Thánh Bất-lai.
* Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si,
ngã-mạn, phóng-tâm, buồn-chán, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi
không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.
Vị Bồ-tát thanh-văn-giác trở thành bậc
Thánh-nhân nào hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc
hạ và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định
pháp-chủ, tuệ pháp- chủ của mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác.
Như vậy, Buddha có nghĩa là giác ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế, có 3 bậc giác ngộ là:
- Sammāsambuddha: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
- Paccekabuddha: Đức-Phật Độc-Giác.
- Sāvakabuddha: Bậc Thánh thanh-văn-Giác là đệ-tử của
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
(Xong phần Đức-Phật.)
(1) Bộ Jātakaṭṭhakathā, Tích Kaliṅgabodhijātaka
(2) Bộ Jātakaṭṭhakathā, Tích Kaliṅgabodhijātaka.
(3) Ngài Đại-đức Mahinda là bậc Thánh A-ra-hán, vốn là Thái-tử
của Đức- vua Asoka.
(4) Đại-đức Tỳ-khưu-ni Saṃghamittā là bậc Thánh A-ra-hán, vốn
là Công- chúa của Đức-vua Asoka.
(5) Tìm hiểu quyển VI, VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.
(6) Tìm hiểu quyển VI, VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.
(7) A-tăng-kỳ thời gian không thể đếm bằng số. Đại-kiếp trái đất
trải qua 4 a-tăng-kỳ thành - trụ - hoại - không.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10