Toàn tập TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
Toàn tập TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
TIỂU SỬ GIÁC LINH CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG SƠ TỔ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM (1893-1981)
3. Hồi hương và tạo dựng Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam
4. Xây dựng chùa tháp và đào tạo tăng tài
5. Nhân cách và khí phách của ngài
1. Đại hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam ngày 11, 12, 13 tháng 7 năm 1958
2. Biên bản buổi họp Tam cá nguyệt ngày 5/11/1958
3. Văn thơ gửi Ban Quản trị hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam
4. Biên bản Phiên hội bất thường của Ban Chưởng quản GHTG ngày 10/3/1959
5. Thư mời dự phiên hội bất thường ngày 11/3/1959
7. Điều lệ về thọ nhận động sản và bất động sản
8. Bản Danh sách nhân viên Ban Chưởng quản năm 1959
9. Thông cáo gửi Tăng đồ và Tín đồ
10. Thư gửi ngài Bộ trưởng Bộ Nội vụ
11. Thư gửi ngài Đại đức Trụ trì Bửu Quang tự
15. Thông tư gửi nhân viên Ban Chưởng quản và tăng đồ về việc thống nhất kinh nhật hành
16. Biên bản Đại hội Khoáng đại ngày 2/1/1972
17. Điều lệ Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam
Hơn 70 năm trôi qua, Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông Việt Nam đã trở nên phổ biến trong cộng đồng nhân dân Việt Nam và lan rộng sang các nước bạn bè trên thế giới. Thành tựu đó nhờ công đức cao dày của các vị trưởng lão trong phái đoàn hoằng pháp Trưởng lão Hộ Tông. Chúng tôi là hàng hậu học tiếp nối những truyền thống hoằng pháp kế thừa và phát triển những di sản mà quý Hòa thượng để lại. Truyền thống dân tộc Việt Nam là truyền thống ‘uống nước nhớ nguồn’, ‘ăn trái nhớ kẻ trồng cây’, ‘ôn cố tri tân’ để làm sáng tỏ công đức, trí tuệ, cuộc đời, đạo nghiệp của các Trưởng lão Phật giáo Nguyên Thủy. Thời gian qua, chúng tôi đã thực hiện một số nghiên cứu biên tập sưu khảo những tác phẩm của quý vị Hòa thượng, nhằm giới thiệu đến quý vị độc giả gần xa để thấy rõ sự cống hiến của chư vị Trưởng lão Hòa thượng Phật giáo Nguyên Thủy cũng là hình thức thống kê các tác phẩm, những dịch phẩm đã in và phổ biến trong thời gian qua.
Trước đây, chúng tôi có thực hiện quyển Thiền sư Hộ Pháp một thời để nhớ, Hòa thượng Siêu Việt một thời để nhớ, đặc biệt quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Bửu Chơn đã giới thiệu đến Chư Tôn thiền đức Tăng, Ni và quý Phật tử gần xa, môn đồ pháp quyến của Hòa thượng vô cùng hoan hỷ. Qua tác phẩm trên, có nhiều Tăng, Ni và Phật tử bày tỏ cảm xúc và khen tặng chúng tôi về những công trình thực hiện sưu tầm, phân loại những tác phẩm của Hòa thượng Bửu Chơn, những hình ảnh, những văn bản đã gắn bó suốt cuộc đời và sự nghiệp của ngài. Những lời động viên khích lệ ấy là niềm đam mê hoan hỷ của chúng tôi để tiếp tục thực hiện quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông.
Trưởng lão Hộ Tông là một vị cao tăng thạc đức của Phật giáo Nguyên Thủy, là vị tổ khai sáng Phật giáo Nguyên Thủy vào năm 1938, thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam vào năm 1957. Ngài là vị Tăng thống đầu tiên của Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Mặc dù bề bộn Phật sự của Giáo hội nhưng Ngài cũng dành thời gian để dịch thuật, sáng tác hơn 30 tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau, nhằm để đáp ứng nhu cầu cho Tăng, Ni, Phật tử tu học trong buổi khai sơn phá thạch của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam. Nội dung Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông chỉ là một tác phẩm sưu tập, thống kê, sắp xếp trình tự các tác phẩm của Hòa thượng đã xuất bản trước và sau năm 1975. Chúng tôi phân chia quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông có 3 phần như sau:
1. Phần mở đầu có:
- Lời tựa
- Tiểu sử
- Những văn bản hành chánh
2. Các tác phẩm
- Luật tạng có 2 tác phẩm về luật xuất gia
- Kinh tạng có 27 tác phẩm về nhiều thể loại khác nhau
- Vi Diệu pháp có 2 tác phẩm
3. Kết luận
- Tiểu luận những ngày cuối đời của ngài Hộ Tông
- Hình ảnh
- Lời kết
- Danh sách thí chủ
Trong 30 tác phẩm của ngài Hộ Tông, đa số là những tác phẩm được phiên dịch từ tiếng Campuchia và Pháp. Thường những tác phẩm này có số lượng trang không dày, có những quyển mỏng nhất là 20 trang, có những quyển dày nhất là 300 trang. Trong 30 tác phẩm này, chúng tôi nhận thấy trên mạng internet đã giới thiệu hơn 10 tác phẩm, còn lại những tác phẩm được Ban Thực hiện chúng tôi phân chia, nhờ sự hỗ trợ của chư Tăng, Ni và Phật tử đánh vi tính lại. Đa số những tác phẩm của Ngài đã giới thiệu trên internet lại có những phần, điểm, những chương và một số từ ngữ không giống với bản gốc mà Hòa thượng in trước và sau năm 1975. Cho nên, Ban Biên tập chúng tôi phải mất nhiều thời gian dò đối chiếu lại với bản gốc và giữ lại văn cú theo tinh thần của bản gốc để tôn kính tác phẩm người quá cố. Chúng tôi dàn trang lại, sắp xếp bố cục, làm mục lục cho phù hợp của quyển Toàn tập này. Từ lúc thực hiện cho đến ngày hoàn thành mất thời gian khoảng 7 tháng. Chúng tôi có ý định sẽ giới thiệu quyển Toàn tập Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông vào dịp lễ giỗ lần thứ 35, ngày 26/7/2016 của Hòa thượng nhưng không thực hiện kịp. Công trình thực hiện quyển Toàn tập Tưởng lão Hòa thượng Hộ Tông nếu có điều chi sơ xuất, xin Chư tôn thiền đức Tăng, Ni, quý vị học giả, thiện trí thức và môn đồ pháp quyến của Ngài hỷ xả cho. Chúng tôi cũng mong đợi những ý kiến đóng góp của chư tăng, ni và quý vị. Tất cả phần công đức thanh cao chúng tôi thực hiện trong thiện sự này xin dâng đến chư vị tiền bối hữu công Phật giáo Nguyên Thủy, Cố Trưởng lão Hộ Tông. Cầu nguyện ân đức Tam bảo gia hộ cho quý Ngài an vui nơi cõi an lạc.
Thay mặt Ban Thực hiện
Chủ biên Đại đức Thiện Minh
Tỳ khưu Hộ Tông (Vaṅsarakkhita Bhikkhu), bậc Trưởng lão của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam, người đã gầy dựng nên nền Phật giáo Theravāda tại Việt Nam, giữ gìn bản sắc Phật giáo nguồn cội được truyền thừa, du hóa từ Ấn Độ sang các nước Đông Nam Á. Trong suốt quá trình còn tại gia cư sĩ, ngài hết lòng tìm hiểu Phật pháp, thành tâm hộ pháp. Đến khi xuất gia, ngài chuyên tâm xây dựng Phật giáo tại Việt Nam, truyền bá chánh pháp, đào tạo tăng tài. Sự thành lập và tồn tại Phật giáo Nguyên Thủy Theravāda tại Việt Nam nhờ vào sự chuyên tâm gầy dựng, hết lòng học hỏi, tinh cần tu tập của bậc thiện trí thức có tên gọi Hộ Tông. Người đã ghi khắc dấu ấn lịch sử vào hệ phái Nam Tông nói riêng và vào nền Phật giáo Việt Nam nói chung.
Trưởng lão Hòa thượng Hộ Tông (Vaṅsarakkhita) thế danh Lê Văn Giảng, con cụ ông Lê Văn Nhu và cụ bà Đinh Thị Giêng, sinh năm 1893, tại quận 7, Phnom-Penh, Chuông Hoa, Nam Vang. Căn cước số: 93A6770, cấp 24/3/1956, Thủ Đức, Gia Định.
Ngài trưởng thành và lập nghiệp tại xứ Campuchia. Mặc dù ngài là một công chức uy tính,
1 bác sĩ tài năng, đường công danh mở ra rạng rỡ nhưng dường như vốn có túc duyên với đạo nên ngài thấy công danh chỉ là ảo ảnh, hạnh phúc chẳng khác mây sương. Ngài thường tự nhủ: Đường thế mịt mù trăm năm đầy tội Cửa thiền thanh tịnh muôn kiếp nên duyên.
Đến năm 32 tuổi, nhờ có những linh thị nhiệm màu thức tỉnh, ngài quyết thoát ly những cám dỗ trần tục và thoát tâm tìm đạo. Nhưng thấy ra ảo ảnh cõi trần là một việc, còn tìm ra được con đường chân chánh để thoát ly cuộc đời mộng uyển là một việc hoàn toàn khác. Ngài đã thử qua nhiều pháp môn tu tập như niệm kinh, trì chú, ăn chay, nhịn đói, luyện đơn, khổ hạnh, v.v… Với tất cả nỗ lực chuyên cần của một người cư sĩ tại gia nhưng ngài cũng nhận ra rằng đó cũng chỉ là ảo ảnh như chính ảo ảnh cuộc đời mà trước đây ngài đã thấy. May sẵn có căn duyên cụ túc, tâm đạo kiên trì, ý chí kiên định, ngài đã vượt qua mọi thử thách cam go trên đường tìm đạo, cuối cùng, ngài đã gõ đúng cửa chánh pháp.
Một vị chơn sư đã chỉ bày cho ngài Phật giáo Nguyên Thủy như được uống nước tận nguồn, tâm tánh mở khai, trí tuệ thông suốt, ngài đã liễu ngộ được 4 sự thật con đường bát chánh mở ra trước mắt như một thông lộ giải thoát tuyệt vời. Từ đó, ngài chuyên tâm thực hành hạnh bố thí, trì giới, tham thiền. Ngài cúng dường đến hàng ngàn tăng chúng, xây dựng trường Phật học, trùng tu chùa tháp, tăng đường, tạo lập liêu thất, tịnh xá trong rừng sâu, cho các vị thọ hạnh đầu đà, chuyên tu thiền quán. Và chính ngài, mặc dù là một cư sĩ tại gia đã nổi tiếng về phương diện hành thiền, gặp được chánh pháp, ngài phấn khởi khuyến khích bạn bè thân hữu cùng nhau tu tập. Ngài trùng tu chùa Sùng Phước tại Campuchia để hướng dẫn Việt kiều thọ trì bát quan trai giới. Bấy giờ, chư tăng và thiện tín gọi ngài là Àcha Giảng với lòng hâm mộ, biết ơn. Khi chùa dần dần đông chư tăng và thiện tín, ngài bắt đầu dịch kinh sách ra triếng Việt, trong đó có kinh nhật hành cư sĩ, kinh tụng chư tăng và bộ luật xuất gia là những dịch phẩm vô cùng quý giá.
Khoảng thập niên 1930, ngài và một số đạo hữu uyên thâm đạo lý, như cụ Nguyễn Văn Hiểu, thường về Sài Gòn thuyết giảng. Nhờ thế đã quy tụ đông đảo Phật tử hướng về giáo lý uyên nguyên của Đức Phật. Thời gian sau đó, một ngôi chùa Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam đã được thành lập vào năm 1938 tại Gò Dưa, đó là tổ đình Bửu Quang ngày nay. Ngôi chùa này là cơ sở ban đầu, là nền móng vững chắc để phát triển Phật giáo Nguyên Thủy tại Việt Nam.
Cũng trong năm 1938 đó, nhận thấy đã đến lúc không còn hợp với đời sống tại gia mà Đức Phật gọi là dễ lấm bụi trần, ngài đã quyết chí xuất gia, chọn đời sống không gia đình trắng bạch như vỏ ốc để có thể chuyên tâm thiền quán. Ngài xuất gia lúc 20 giờ, ngày 15/10/1940 tại chùa Sùng Phước, quận 4, Phnom-Penh. Thầy tế độ là ngài Buddhaghosācāraiya. Thầy Yết ma là ngài Brahsākyavaṅ. Đức vua Sãi nhận ra người đệ tử mới xuất gia của mình là bậc pháp thí có thể lãnh trọng trách Như Lai thuyết giảng nên không ngần ngại giao phó cho ngài sứ mạng truyền trao chánh pháp Nguyên Thủy về xứ
Việt Nam. Và chính tại chùa Bửu Quang, ngài đã khai pháp hội đầu tiên để thắp lên ngọn đuốc chân lý rọi soi vào lòng người dân Việt Nam. Tuy ngài ở bên hòa thượng bổn sư không nhiều nhưng ngài đã học được nhân cách đạo hạnh của bậc thầy khả kính của mình. Phong cách của Trưởng lão Hộ Tông, tác phong đạo hạnh, lòng từ bi bao dung với đệ tử, đức hạnh khiêm cung thuyết pháp giảng đạo… đều tỏa sáng do học theo tấm gương của Hòa thượng Bổn sư Chun Nat.
Rằm tháng 10 năm 1941, ngài nhận lời mời của đạo tràng Nguyễn Văn Hiểu về tiếp quản tổ đình Bửu Quang để hoằng dương chánh pháp, đào tạo tăng tài. Phật tử nhờ đó thấm nhuần pháp nhủ. Chẳng bao lâu sau khi ngài về nước mở đạo, chư tăng và tín đồ Phật giáo Nguyên Thủy ngày càng hưng thịnh. Năm 1957, ngài cùng HT. Thiện Luật, HT. Bửu Chơn, HT. Tối Thắng, HT. Giới Nghiêm, HT. Giác Quang, TT. Kim Quang đệ đơn xin thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam. Sau khi được chính quyền lúc bấy giờ công nhận, ngài được chư tăng bầu chọn giữ chức vụ Tăng thống Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam đầu tiên.
Mặc dù bận rộn trong công tác hành chánh của Giáo hội nhưng ngài không bỏ quên thời gian ngồi thiền niệm Phật và hướng dẫn hàng xuất gia, tại gia tu pháp môn thiền cao quý trong Phật giáo. Cuộc đời của ngài có 3 vấn đề nổi bật. 1. Thuyết pháp dạy thiền cho tăng ni và Phật tử. 2. Xây dựng chùa tháp để người xuất gia và tại gia có trú xứ tu học. 3. Xuất gia cho chư tăng và tu nữ, quy y cho thiện nam tín nữ. Ngài và quý hòa thượng trong ban Chưởng quản đã xây dựng những ngôi chùa như sau: Bửu Quang – 1938; Kỳ Viên – 1947; Định Quang ở Lâm Đồng – 1963; Bửu Long – Thủ Đức, 1964; Bồ Đề Vũng Tàu – 1969; Nguyên Thủy - Cát Lái, 1970. Đặc biệt; tại tổ đình Bửu Quang, ngài có mở 1 Phật học viện để đào tạo sa di - những người mới xuất gia, chùa Nguyên Thủy ở Cát Lái mở trường Phật học để đào tạo tăng, ni có tài đức để phụng sự Giáo hội.
Đến năm 80 tuổi, ngài vẫn được chư tăng thỉnh cầu đảm nhiệm chức vụ Tăng thống 2 nhiệm kỳ từ năm 1971 – 1974 và ngài đã giữ vững con thuyền Giáo hội giữa cơn phong ba bão táp của thời cuộc lúc bấy giờ. Ngài thường nhấn mạnh rằng việc du nhập Phật giáo Nguyên Thủy vào Việt Nam là một thiện sự vô cùng to lớn. Về tín ngưỡng, Phật giáo
Nguyên Thủy đã mở ra một chân trời mới trong tư tưởng Phật học Việt Nam. Về văn hóa, Phật giáo Nguyên Thủy đã đóng góp cho nước nhà một kho tàng trí tuệ của một vị Phật lịch sử. Tuy nhiên, việc truyền bá Phật giáo Nguyên Thủy tại Việt Nam ngay từ buổi đầu đã gặp vô vàn khó khăn. Đó là sự chống đối mãnh liệt của các hệ phái Phật giáo cổ truyền ảnh hưởng màu sắc của Trung Hoa. Đó là thời kỳ chiến tranh nóng bỏng tại Đông Dương từ năm 1945. Đó là tình trạng chia cắt đất nước 1954 đã giới hạn con đường hoằng pháp. Đó là chánh sách kỳ thị tôn giáo dưới thời Ngô Đình Diệm. Kiên trì vượt qua những trở ngại như thế, đòi hỏi phải có một hạnh nguyện đại hùng đại lực, hỷ xả độ sinh, một lòng từ bi vô ngại, một trí tuệ uyên thâm và một tâm hồn đại hùng đại lực của vị Bồ tát như ngài đã phát nguyện. Nhưng công thành thân thoái là hành sử của bậc thiện trí, hơn nữa, ngài đã thấy hễ thiên đại bỉ thì hiền nhân ẩn nên sau 80 tuổi, ngài lui về ẩn cư tại chùa Bửu Long, ngôi chùa do chính ngài lập ra, và cũng tại đây, ngài đã để lại biết bao kỷ niệm cuối cùng trước khi viên tịch.
Một tuần trước khi ra đi, hằng đêm, ngài thấy chư Thiên hào quang chiếu sáng xung quanh cốc. Ngài nói với các đệ tử: ta sắp ra đi và đang cảm thấy thanh thoát lạ thường, lẽ đời có sinh có diệt, các con nhớ tinh tấn tu hành. Biết trước giờ tịch diệt, sau khi sắp đặt mọi Phật sự cho tăng chúng và ni chúng trong chùa, ngài viết di chúc gửi Giáo hội để chọn người thừa kế, đồng thời, ngài cúng dường tứ sự đến chư tăng tại 33 ngôi chùa Phật giáo Nguyên Thủy, tổ chức trai tăng, để bát, thuyết pháp 7 ngày tại Bồ đề Phật cảnh cho đến lúc
16 giờ 45 phút, ngày 26/7 năm Tân Dậu, nhằm thứ ba, 25/8/1981, ngài đã an nhiên thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Trước khi thị tịch, ngài rất trầm tĩnh, sáng suốt, giảng giải cặn kẽ về thiền an ban sổ tức cho hàng đệ tử và nhắc lại lời Đức Phật an trú hơi thở là an trú của bậc thánh, rồi ngài trút hơi thở cuối cùng với một nụ cười điểm trên nét mặt, mặt bình an tươi tỉnh. Lễ trà tỳ được cử hành một cách đơn giản theo lời di chúc của ngài vào lúc 9 giờ ngày 29/7 Tân Dậu, thứ sáu, ngày 28/8/1981, tại hỏa đài chùa Bửu Long. Đặc biệt, không hẹn mà chư tăng về dự lễ trà tỳ đúng với số tuổi của ngài là 88 vị. Kim quang được cung tống đến hỏa đài với sự hiện diện của đông đảo tín đồ, tín thành cầu nguyện trong không khí vô cùng trang nghiêm và xúc động. Sau khi hỏa thiêu xong, hài cốt của ngài được tôn trí trong bảo tháp do đệ tử kiến tạo. Năm 2016, HT. Viên Minh, thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Bửu Long, đã thực hiện bảo tháp tôn thờ HT. Hộ Tông ở ngay vị trí cũ, chất liệu tháp toàn bằng đá nguyên khối, kiến trúc tháp theo mẫu tháp cổ của các nước Đông Nam Á, chiều cao của tháp khoảng 10m, đường kính khoảng 3m. Có thể nói rằng, bảo tháp đó có một không hai ở Việt Nam để xứng đáng với công đức đạo hạnh của HT. Hộ Tông – sơ tổ Phật giáo Nguyên Thủy.
Một cuộc đời sống trọn vẹn cho đạo pháp. Tỳ khưu Hộ Tông, một đệ tử Phật, một bậc thầy nhân từ, đáng kính, người đã góp phần to lớn đưa chánh pháp đến với chúng sanh, tiếp độ đệ tử, dẫn dắt Phật tử đi theo con đường của Đức Gotama đã tìm ra. Thân xác ngài không còn trên cõi thế nhưng hình ảnh của người, trí tuệ của người sẽ vẫn mãi tồn tại trong tâm trí của hàng hậu thế, thành quả của ngài qua suốt 40 năm gầy dựng sẽ vững bền theo sự hưng thịnh của Phật giáo Theravāda tại Việt Nam.
---