Toàn tập TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
Toàn tập TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
Tác phẩm 23 PHẬT NGÔN (BUDDHA BHĀSITA)
II. Appamãdavagga[2] ‒ Phần Không Sơ Ý
IV. Kilesavagga[3] ‒ Phần Cấu Uế
V. Kodhavagga[5] ‒ Phần Phẫn Nộ
XII. Pakkinnakavaga ‒ Phần Tạp
XIII. Pannavagga ‒ Phần Trí Tuệ
XVI. Puggalavagga ‒ Phần Người
XVIII. Maccuvagga ‒ Phần Tử Thần
XXIII. Viriyavagga ‒ Phần Cần Mẫn
XXIV. Saccavagga ‒ Phần Chân Thật
XXVI. Santutthavagga ‒ Phần Hỷ Duyệt[11]
XXVII. Samanavagga ‒ Phần Samôn
XXVIII. Samaggivagga ‒ Phần Hòa
XXX. Sevanavagga ‒ Phần Kết Giao
---
Trong “Pháp cú kinh Pāli” (Dhammapada), chúng tôi chọn lọc và trích dịch những câu nói ngắn gọn, ý nghĩa sâu xa của Đức Phật để cởi mở nghiệp báo cho chúng sanh, đưa họ đến bờ kia hoàn toàn an lạc.
Xem nghiệm Phật ngôn này, độc giả sẽ thấy trong đó những lời thâm thúy, khiến tinh thần chúng ta thanh thản thư thái an vui và tâm hồn chúng ta được giải thoát nghiệp đau khổ, đảo điên, từ lâu của cuộc đời vô thường giả tạm.
Chúng tôi hy vọng Kinh này đem đến cho chư quí tín đồ mộ đạo nhiều pháp vị thanh cao để vững bước trên đường giác ngộ.
Xin hồi hướng quả phúc sự trích yếu Phật ngôn này đến tất cả chư Thiên trong Sa bà thế giới, sau khi đã hoan hỷ dung nạp rồi, cầu các Ngài hộ trì Phật Pháp được thạnh hành đến 5 ngàn năm, Chư Tăng, Thầy Tổ, thân quyến, tín đồ và chúng tôi hằng được sức khỏe dồi dào, mau đạt đến mục đích cứu cánh giải thoát.
Mong thay
Hộ Tông Tỳ Khưu
---
Namo Buddhāya
---
1) Attā have jitaṃ seyyo ‒ Thắng mình mới thật là xuất chúng.
2) Attā hi kira duddamo ‒ Nghe rằng: tự chế được là khó.
3) Attā sudanto purisassa joti ‒ Tự mình chế ngự một cách chân chánh, đó là ánh sáng chói ngời của người nam.
4) Attā hi attano nātho ‒ Chính mình là nơi dung thân của mình.
5) Attā hi paranaṃ piyo ‒ Chính mình là nơi thương yêu nhứt của mình.
6) Natthi attasamaṃ pemaṃ ‒ Chẳng thương ai bằng thương mình.
7) Attatthapañña asucī manussā ‒ Kẻ ích kỷ là người không trong sạch.
8) Attānaṃ damavanti paṇḍitā ‒ Bậc minh triết nên tự chế.
9) Attānaṃ damayanti subbatā ‒ Những người có phẩm hạnh tốt nên tự chế.
10) Attanā hi sudantena nāthaṃ labhati dullabhaṃ ‒ Người đã tự chế chân chánh rồi gọi là có nơi dung thân (mà kẻ khác) khó được.
11) Attãnañce piyaṃ jaññā rakkheyya naṃ surakkhitaṃ ‒ Nếu biết mình là nơi thương yêu, thì phải tự bảo vệ cho chân chánh.
12) Pariyedappeyya attānaṃ cittaklesehi paṇḍito ‒ Bậc minh triết nên làm cho tâm mình trong sáng khỏi điều dơ bẩn.
13) Attānañce tatha kayirā yathaññamanusāsati ‒ Dạy kẻ khác thế nào, thì tự mình cũng thực hành như vậy.
14) Attanā codayattānaṃ ‒ Phải tự tỉnh lấy mình.
15) Paṭimaṃ setamattanā ‒ Phải tự phê bình (tự kiểm thảo sự hành động và ý tưởng của chính mình).
16) Attãnurakkhi bhave mã aḍayhi ‒ Hãy là người chú ý bảo vệ mình đừng cho ngã lòng, phiền muộn nóng nảy.
17) Attānaṃ nāṭivatteyya ‒ Người không nên quên mình.
18) Attādathaṃ paratthena
Bahunāpi na bāpaye
Attadatthabiññāya
Sadatthapasuto siyā.
Không nên phá hoại lợi ích của mình vì lợi ích kẻ khác, dầu là nhiều. Biết lợi ích của mình rồi, nên tận tụy tìm tòi lợi ích của mình.
19) Attānañce piyam jaññā Na naṃ pāpena saṃyuje. Nếu biết mình là nơi thương yêu của mình thì không nên làm việc dữ.
20) Attānañce tathā kariyā
Yathañña manusāsati
Sudanto vata dametha Attã hi kira duddamo.
Dạy kẻ khác thế nào, thì phải tự mình thực hành như vậy. Đã tự rèn luyện chân chánh rồi mới huấn luyện kẻ khác, vì được nghe rằng: tự hóa là khó.
21) Attānameva pathanaṃ
Paṭirāpe niveseyya
Athaññaṃ nusāseyya
Na kilisseyya paṇḍito Bậc minh triết trú trong đức hạnh thích hợp trước, rồi tiếp tục giáo hóa kẻ khác sau, thì không bị ô nhiễm.
22) Appamādo anataṃ padaṃ ‒ Không sơ ý là đạo bất diệt.
23) Appamādañca medhāvi dhanaṃ setthaṃva rakkhati ‒ Bậc minh triết hằng bảo tồn pháp không sơ ý như của quý nhất.
24) Appamādaṃ pasaṃsanti ‒ Bậc minh triết hằng ca tụng pháp không sơ ý.
25) Appamādo pāmodanti ‒ Bậc minh triết hằng hoan hỷ pháp không sơ ý.
26) Appāmatto ubho aṭṭhe adhigganhāti paṇḍito ‒ Bậc minh triết không sơ ý bằng được cả hai lợi ích.
27) Appamādaratā hotha ‒ Các người hãy lấy làm vui thích trong pháp không sơ ý.
28) Appamatto pamattesu
Suttesu bahujāgaro
Abalassaṃva sīghasso
Hitvā yā i sumedhaso.
Bậc minh triết không sơ ý trong khi kẻ khác sơ ý, thức trong lúc kẻ khác ngủ, hằng bỏ kẻ ngu như ngựa lẹ chân chạy bỏ ngựa yếu vậy.
29) Uṭṭhānavato satimato
Sucikamassa nisammakārino
Saññatassa ca dhammajīvino
Appamattassa yasobhivaḍḍhati.
Tước vị hằng tăng gia đến người kiên cố, có trí nhớ, có công việc gọn gàng, quan sát rồi mới hành động, đã ức chế rồi thì được ở an theo pháp và không sơ ý.
30) Mā pamādamanuyuñjetha
Mā kāmarasanthavaṃ
Appamatto hi ṇāyanto
Pāppoti paramaṃ sukhaṃ
Đừng sơ ý, đừng thân thiết vì thế lực ưa thích trong tình dục; bởi người không sơ ý hay quán tưởng, thì hằng đến nơi cực lạc.
31) Kammaṃ sātte vibbajati
Yadidaṃ hīnappaṇīttāya.
Nghiệp hằng phân hạng chúng sanh, thấp hèn, cao sang.
32) Pacchā tappati dukkaṭaṃ ‒ Nghiệp ác hằng thiêu hủy về sau.
33) Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu yaṃ katvā anutappati ‒ Tạo nghiệp nào rồi tâm nóng nảy về sau, nghiệp đó là có hại.
34) Tañca kammaṃ kataṃ sādhu yaṃ katvā ñānutappati ‒ Tạo nghiệp nào rồi tâm không nóng nảy về sau, nghiệp đó là có lợi.
35) Sukarāni asādhūni attāno ahitāni ca ‒ Công việc không sinh lợi và vô ích đến mình là việc để làm.
36) Yaṃ ve hi tañca sādhuñca taṃ ve paramadukkaraṃ ‒ Việc nào hữu ích và có lợi, việc ấy rất khó làm được.
37) Kalyānakārī kalyānaṃ ca pāpakãṃ ‒ Làm lành được lành, làm dữ gặp dữ.
38) Kammunā vattatī loko ‒ Chúng sanh hằng cư xử theo nghiệp.
39) Nisamma karaṇaṃ seyyo ‒ Kẻ nào cân nhắc trước rồi mới làm là hoàn toàn hơn.
40) Katassa nathi paṭikāraṃ ‒ Việc đã làm, sửa chữa không được.
41) Paṭikacceva taṃ kayirã yaṃ jaññā hitamattano ‒ Biết việc nào hữu ích đến mình thì nên làm gấp việc ấy trước.
42) Kayirā ce kayirāthenaṃ ‒ Nếu phải làm thì nên làm việc ấy (tận tụy).
43) Kareyya vākyaṃ anukampakānaṃ ‒ Phải làm theo lời của bậc thương mình.
44) Kiccānukubbassa kereyya kiccam ‒ Phải làm bổn phận với người giúp mình.
45) Yo pubbe katakalyāṇo
Katatt nāvabujjhati
Atthā tassa palujjanti
Ye honti abhipatthitā
Kẻ nào được người khác thi ân làm lợi ích cho khi trước, mà không nhớ (ơn của họ) thì lợi ích mà kẻ đó ao ước hằng hư hỏng.
46) Sukhakāmāni bhūtāni
Yo daṇḍena vihiṃsati
Attano sukhamesāno
Pecca so na labhate sukham.
Người nào tìm an vui cho mình, nhưng dùng quyền thế hãm hại chúng sinh (cần sự mát mẻ), người đó từ trần rồi không được vui.
47) Sankapparāgo purisassa kāmo ‒ Lòng dục vọng vì suy tưởng là điều vui thích của người.
48) Kāmchi lokamhi na hatthi titti ‒ Sự thỏa mãn bằng dục vọng không có trong đời.
49) Natthi kāmā paraṃ dukhaṃ ‒ Nổi khổ hơn lòng dục vọng hằng chẳng có.
50) Icchā lokasmi dujjahā ‒ Từ bỏ được sự ước vọng là khó trong đời.
51) Icchā naraṃ parikassati ‒ Sự nguyện vọng hằng dẩn người đi.
52) Natthi rāgasamo aggi ‒ Chẳng có lửa nào bằng nhục dục.
53) Lobho dhammānaṃ paripantho ‒ Sự xan tham là nguy hiểm của các Pháp.
54) Atilobho hi pāpako ‒ Sự xan tham thái quá là xấu xa thật.
55) Natthi mohasamaṃ jālaṃ ‒ Chẳng có lưới nào bằng si mê.
56) Bhiyyo ca kāme abhipatthayanti ‒ Người thọ dụng thú vui càng ưa thích thú vui bội phần.
57) Ũṇa va hutvāna jahanti dehaṃ ‒ Người thọ dụng khoái lạc là kẻ hao mòn tiều tụy rồi từ bỏ thân thể (chết).
58) Avijjānivutā posā ‒ Chúng nhân đều bị vô minh che phủ.
59) Kāmā katukā āsīvisūpamā
Yesu mucchitā bālā
Te dīgharattaṃ niraye
Samappitā haññante dukkhitā.
Những dục lạc đều là chua cay như nọc độc, hằng ám ảnh kẻ si mê, họ phải chịu khổ trong địa ngục và chịu khổ lâu dài.
60) Kuhā laddhā lapā singī
Unnalā cāsamāhitā
Na te dhamme virūhanti sammāsambudhadesite.
Người lừa phỉnh, ngạo mạn, nói lời nhảm nhí, khoe khoang, tự cao, không kiên cố, hằng không tiến triển trong pháp mà Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác đã thuyết rồi.
61) Kodhassa visamūla sa
Madhuraggassa pasaṃsanti
Vadhaṃ ariya pasaṃsanti
Tauhi chetvā na socati.
Bà la môn; Bậc thánh nhân hằng ca tụng người diệt được gốc độc của hận, nên có quả ngon ngọt, vì người đã diệt hận rồi không phiền muộn nữa.
62) Niddaṃ na bahulīkareyya
Jāga riyam bhajeyya ātāpī
Tandim māyaṃ khiḍḍaṃ
Methūnaṃ vibbajahe savibhūsaṃ.
Người có sự tinh tấn không nên ngủ nhiều, nên thân cận pháp đánh thức, phải từ bỏ sự lười biếng, nóng nảy, xảo trá, cười nhạo, đùa giỡn và nhục dục lẫn cả vật trang sức.
63) Paravajjānuphssissa
Niccaṃ ujjhānasaññino
Āsvā tassa vaḍḍhanti
Ārā so āsavakkhayā.
Lậu hoặc[4] hằng tiến triển đến người chỉ thấy tội kẻ khác, hay nhìn chăm chăm lỗi người, họ là kẻ xa pháp diệt lậu hoặc.
64) Yā kācimā duggati yo
Asmiṇ loke paramhi ca
Avijjāmūlakā sabbā
Icchā lobhasamussayā.
Khu vực khổ trong cõi này và cõi sau, có vô minh là gốc, có ganh tỵ và xan tham là xương sườn.
65) Yena sallena otiṇṇo
66) Disā sabbā vidhāvati sabhā vidhāvati
Tameva sallaṃ abbuyha
Na dhāvati na sīdati
Người bị tên hằng chới với vẩn vơ trong khắp hướng khi được nhổ tên ra rồi thì không quay cuồng và chìm sâu nữa.
66) Na hi sadhu kodho ‒ Khí giận không tốt đâu.
67) Kodho satthamalaṃ loke ‒ Khí giận là võ khí dơ bẩn trong đời.
68) Anatthajanano kodho ‒ Sự tức giận sanh ra mối hại.
69) Kodho cittappakopano ‒ Khí giận làm cho tâm hồn loạn.
70) Andhatamaṃ tathā hoti.
Yaṃ kodho sahate naraṃ.
Khí giận đàn áp người lúc nào, thì sự tối tăm hằng có trong lúc ấy.
71) Appo hutvā bahu hoti Vaddhate so akhantijo.
Sự tức giận ít thành nhiều, nảy mầm vì không kiên nhẫn.
72) Kodho dummedhago caro ‒ Sự tức giận là cảnh giới của kẻ có trí óc hèn hạ.
73) Natthi dosasamo gali ‒ Tội ác không bằng sân cấu.[6]
74) Doso kodhasamuṭṭhāno ‒ Sân cấu có tức giận là nhân.
75) Kodhaṃ ghatvā sukhaṃ seti ‒ Diệt được khí giận thì ngủ được an vui.
76) Kodhaṃ ghatvā na socati ‒ Diệt được khí giận thì không phiền muộn.
77) Kodhābhibhūto kusalaṃ johāti ‒ Người bị khí giận đàn áp, hằng bỏ thiện pháp.
78) Kodhano dubbanno hoti ‒ Người hay giận hằng có màu da xấu xí.
79) Dukkhaṃ sayati kodhano ‒ Người hay giận hằng chịu khổ.
80) Nātimittā suhajjā ca parivajjenti kodhanaṃ ‒ Thân quyến, bè bạn hằng lánh người hay giận.
81) Kuddho dhammaṃ na passati ‒ Người giận hằng không thấy pháp.
82) Yaṃ kuddho uparodheti sukaraṃ viya dukkaraṃ ‒ Người giận phá vật gì dù vật ấy khó làm cũng như dễ.
83) Pachā so vigate kodhe Aggidadhova tappati.
Sau khi hết giận, họ hằng phiền muộn.
84) Hanti kuddho samātaraṃ ‒ Người giận có thể giết mẹ cha được, là người mất cả danh giá.
85) Kodhaṃ damena ucchinde ‒ Phải cắt khí giận bằng sự ức chế tâm.
86) Nā kodhassa vasaṃ gami ‒ Đừng ở dưới quyền của sự giận.
87) Khanti paramaṃ hoti tītikhā ‒ Nhẫn nại là pháp thiêu hủy hay nhất.
88) Khanti sāhasavāranā ‒ Nhẫn nại ngăn được sự dữ tợn.
89) Khanti hitasukhāvahā ‒ Nhẫn nại đem đến lợi ích an vui.
90) Khanti tapo tapassino ‒ Nhẫn nại là pháp thiêu hủy của các bậc có tinh tấn.
91) Khanti balaṃ va yatīnaṃ ‒ Nhẫn nhục là sức mạnh của bậc tu khổ hạnh.
92) Khantibalā samanabrāhmanā ‒ Samôn, Bà la môn có sự nhẫn nại là sức mạnh.
93) Manāpo hoti khantiko ‒ Người có nhẫn nại hằng là nơi hài lòng (của kẻ khác).
94) Attanopi paresañcā
Atthavaho va khantiko
Saggamokkhagamaṃ maggaṃ
Arulho ho i khantiko. Người có sự nhẫn nại hằng đem sự lợi ích đến mình và kẻ khác, người có sự nhẫn nại là bậc tạo đường đi đến cõi trời và Niết-bàn.
95) Kevalānaṃpi pāpānaṃ Khanti mūlaṃ nikantati Garahakalahādīnaṃ Mūlaṃ khanti khantiko.
Nhẫn nại hằng bứng gốc tất cả tội lỗi, người có nhẫn nại gọi là hủy diệt gốc, nhất là lỗi khiển trách và tranh biện.
96) Khantiko mettavā lābhī Yassasī sukhasīlavā
Piyo devamanussānaṃ Manāpo hoti khantiko.
Người có sự nhẫn nại và lòng bác ái hằng là bậc có lợi, có tước vị và an vui mãi mãi, người có sự nhẫn nại là nơi thương yêu của Chư Thiên và nhân loại.
97) Satthuno vacanovādaṃ Karotiyeva khantiko
Paramāya ca pūjãya Jinaṃ pūjeti khantiko. Người có sự nhẫn nại gọi là hành theo giáo huấn của Đấng Giáo Chủ, người có sự nhẫn nại gọi là cúng dường Đức Toàn Thắng (Phật) bằng cách cúng dường cao thượng.
98) Sīlasamādhigunānaṃ Khanti padhānakāranaṃ Sabbepi kusalā dhammā Khantiyāyeva vaddhanti te.
Nhẫn nại là chủ yếu, là nguyên nhân của các đức, tức là Giới và Định. Tất cả thiện pháp hằng tiến triển bằng nhẫn nại mà thôi.
99) Citte sankiliṭṭhe duggati pātijankhā ‒ Khi tâm không tinh khiết thì khổ cảnh là nơi tin tưởng.
100) Citte asaṇkiliṭṭhe sugati pātikankhā ‒ Khi tâm tinh khiết thì nhàn cảnh là nơi mong mỏi.
101) Cittena niyati loko ‒ Đời hằng bị tâm dẫn đi.
102) Cittassa damatho sādhu ‒ Sự ức chế tâm là chân chánh.
103) Cittaṃ sukhāvahaṃ ‒ Tâm được phòng vệ rồi đem vui đến. 104) Vihaññati cittavasānuvattī ‒ Người hành động theo quyền lực của tâm thì phải khổ.
105) Cittaṃ attano ujukamaṃsu ‒ Người sáng trí khiến tâm mình tín ngưỡng chân chánh.
106) Telabattaṇ yathā barihareyya evaṃ sacittamanurakkhe ‒ Phải bảo vệ tâm mình như người giữ bát dầu đầy.
107) Sacittamanurakkhatha ‒ Hãy chú ý gìn giữ tâm mình.
108) Cittaṃ rakkhatha medhāvī ‒ Bậc trí tuệ nên gìn giữ cái tâm.
109) Yato ca pāpakaṃ tato tato mano nivāraye ‒ Tôi sanh từ đối tượng nào, phải phòng ngừa tâm khỏi đối tượng đó.
110) Anavatthitacittassa
Saddhammaṃ avijānato
Pariplavapasādassa
Pannā na paripūrati
Khi tâm không trú vững, không hiểu chánh pháp và có sự tín ngưỡng không chân chánh thì trí tuệ không hoàn hão.
111) Ānāpānassati yassa
Aparipunnā abhāvitā
Kāyepi iñjito hoti Cittampi hoti iñjitaṃ. Tức quan mà người nào không rèn luyện cho hoàn hảo, cả thân lẫn tâm người ấy hằng rung động.
112) Ānāpānassati yassa
Paripunnā abhāvitā Kāyepi hoti aniñjito hoti Cittampi hoti aniñjitaṃ. Tức quan mà người nào đã rèn luyện hoàn hảo rồi, cả thân lẫn tâm của người ấy hằng không lay chuyển.
113) Diso dasaṃ yantaṃ kariyā Verī vā pana verinaṃ
Micchāpanihitaṃ cittaṃ Pāpiyo naṃ tato kare.
Kẻ cướp cùng kẻ cướp, hoặc người thù với người thù hằng phá hại lẫn nhau, tâm mà người điều khiển sai thì làm cho họ đê hèn hơn nữa,
114) Dūrañgamaṃ ekacaraṃ Asarīraṃ guhāsayaṃ
Ye cittaṃ saññamessanti Mokkhanti mārabandhanā
Người ức chế tâm hay trải đi một mình, vô hình có động (1), tức là thân thể, nơi cư trú người đó sẽ thoát ly sự trói buộc của Ma Vương.
115) Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ
Durakkhaṃ dunnivārayaṃ
Ujuṃ karoti medhāvī Usukarova tejanaṃ.
Cái tâm hay rung chuyển bất thường, khó phòng ngừa ngăn cấm, bậc trí tuệ khiến nó trở lên chân chánh được, như thợ bắn cung uốn tên cho ngay vậy.
116) Yathā ogāraṃ ducchannaṃ
Vuṭṭhī samativijjhati
Evaṃ abhāvitaṃ cittaṃ
Rāgo samativijjhati
Mưa hằng rỉ chảy vào nhà không được lợp kín thế nào. Tình dục hằng rịn thấm vào tâm không rèn luyện được như vậy.
117) Yo ca saddaparittāsī
Vane vātamigo yathā Lahucittotti taṃ āhu
Nāssa sampajjate vataṃ.
Kẻ nào hay kinh sợ tiếng như loài hưu trong rừng gọi là kẻ nhẹ dạ, thì nghĩa vụ của kẻ đó hằng không thành tựu.
118) Vārijova thale khitto
Okamokatanbhato
Pariphandatidaṃ cittaṃ
Māradheyyaṃ pahātave.
Tâm bị đem ra khỏi chỗ ở là ngũ dục cho thoát khỏi khu vực của ma vương, thì hằng vẫy vùng như cá bị bắt lên khỏi nước liệng trên khô vậy.
119) Saññāya viparīyesā
Cittante paridayhati
Nimittaṃ parivajjehi Subhaṃ rāgupasañhitaṃ.
Tâm của người hằng khích động vì phân biện sai lầm, ngươi hãy chừa bỏ đối tượng xinh đẹp khiêu gợi lửa lòng đi.
120) Selo yathā ekaghano Vātena na samīrati
Evaṃ nindā pasaṃsāsu Na samīnjanti panditā.
Tảng đá đặc không lay động vì gió, thế nào; bậc minh triết hằng không rung chuyển với lời khiển trách hay ca tụng như vậy.
121) Jayaṃ veraṃ pasavati ‒ Người thắng hằng gây oan trái.
122) Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti ‒ Thí pháp thắng tất cả sự thí.
123) Sabbarasaṃ dhammaraso jināti ‒ Vị của pháp thắng tất cả các vị.
124) Sabbaratiṃ dhammarati jināti_ Ưa thích pháp thắng tất cả sự ưa thích.
125) Tanhākkhayo sabbadakkhaṃ jināti ‒ Diệt tận ái dục thắng tất cả các thứ khổ.
126) Na taṃ jitaṃ sādhu jitaṃ Yaṃ jitaṃ avajiyyati - Sự thắng mà bại trở lại là không tốt.
127) Taṃ khi jitaṃ Sādhu jitaṃ
Yaṃ jitaṃ nāvajiyyati.
Sự thắng mà không bại trở lại là tốt.
128) Akkodhena jine kodhaṃ ‒ Nên thắng người giận bằng sự không giận.
129) Asādhuṃ sādhunā jine ‒ Nên thắng người xấu bằng sự tốt.
130) Jine kadariyaṃ dānena ‒ Nên thắng người keo kiệt bằng sự biếu cho.
131) Saccenālikavādinaṃ ‒ Nên thắng kẻ nói dối bằng lời nói thật.
132) Natthi citte pasannamhi
Appakā nāma dakkhinā.
Khi tâm trong sáng rồi bố thí cho người giới đức thì không gọi là ít.
133) Dadaṃ mittāni ganthati ‒ Người cho hằng kết bạn được.
134) Viceyya dānaṃ sugatappasatthaṃ ‒ Đức Phật tán dương sự chọn người nên cho.
135) Sukhassa dā’ā medhāvāī Sukhaṃ so adhigacchati.
Bậc trí tuệ cho vui hằng được vui.
136) Manāpadāyī labhati manāpaṃ ‒ Người cho vật vừa lòng hằng được vật vừa lòng.
137) Seṭṭhandado seṭṭhamupeti ṭhānaṃ ‒ Người cho vật quý trọng hằng đến nơi quý trọng.
138) Aggassa dātā labhate punaggaṃ ‒ Người cho vật vô giá hằng được vật vô giá.
139) Dadato pūnaṃ pavaddhati ‒ Phước của người cho hằng được tăng gia.
140) Dadeyya puriso dānaṃ ‒ Người nên bố thí.
141) Aggasmiṃ dānaṃ dadataṃ Aggaṃ puññaṃ pavaddhati
Aggaṃ āyu ca vaṇṇo ca Yaso kitti sukhaṃ balaṃ. Phước quý nhất hằng được tăng gia đến thí chủ cho vật quý nhất, tuổi thọ, sắc đẹp, tước vị, danh vọng, an vui và sức mạnh quý nhất cũng đều được gia tăng.
142) Nīharetheva dānena
Dinnaṃ hoti sunibbhataṃ
Dinnaṃ sukhaphalaṃ hoti Nādinnaṃ hoti taṃ tathā.
Nên đem của ra bố thí, vật bố thí hằng là vật đem ra chân chánh, của đã cho hằng có quả vui, phẩm vật chưa cho không có kết quả.
143) Pubbe dānādikaṃ ditvā Idāṃ labhatī sukhaṃ Mūleva siṅjitaṃ hoti Agge ca phaladāyakaṃ.
Người đã bố thí trong ngày trước hằng được vui trong hiện tại, như cây gặp nước từ nơi gốc cho quả đến ngọn.
144) So ca sabbadado hoti Yo dadāti upassayaṃ
Amatando ca so hoti
Amatando ca so hoti Yo dhammamanusāsati. Người cho chỗ nghĩ gọi là cho tất cả mọi vật dụng, người nào dạy pháp mãi mãi gọi là cho sự bất diệt.
145) Nathi khandhasamā dukkhā ‒ Chẳng có khổ nào bằng ngũ uẩn.
146) Sankhārā paramā dukkhā ‒ Pháp hành là khổ nhất.
147) Dukhaṃ anātho viharati ‒ Người không nơi dung thân thì sự sinh tồn là khổ.
148) Dukhaṃ seti parājito ‒ Kẻ bại hằng chịu khổ.
149) Akiñcanaṃ nānupatanti dukkhā ‒ Khổ hằng không xảy đến cho người hết quyến luyến.
150) Manopubbangamā dhammā ‒ Các pháp đều có tâm hướng dẫn.
151) Dhammo hisinaṃ dhajo ‒ Pháp là quả nhiên là tiêu biểu của bậc hiền nhân.
152) Dhammo siciṇṇo sukkhamāvahāti ‒ Pháp mà người thực hành chân chính rồi đem sự an vui đến.
153) Sabbesaṃ sahito hoti Sadhamme supaṭiṭṭhito. Người đã tin vững trong chánh pháp là bực ủng hộ đại chúng.
154) Dhammapīti sukhaṃ seti ‒ Người hoan hỷ với pháp hằng ngủ được vui.
155) Dhammacārī sukhaṃ seti ‒ Người thực hành pháp hằng ngủ được vui.
156) Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ ‒ Pháp quả nhiên hộ người hành pháp.
157) Na duggatiṃ gacchati dhammacāri ‒ Người hành pháp không đi đến khổ cảnh.
158) Dhamme ṭhitaṃ na vijahati kitti ‒ Thanh danh hằng không lìa người trú trong pháp.
159) Dhamme ṭhitā ye na karonti pāpakaṃ ‒ Người trú trong pháp hằng không làm tội.
160) Sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāya ‒ Không nên cố chấp đặc tính của pháp.
161) Yoniso viciṇe dhammaṃ ‒ Phải chọn pháp một cách thận trọng.
162) Dhammaṃ care sucaritaṃ ‒ Phải hành pháp cho chơn chánh.
163) Sadhammo garukātabbo ‒ Phải thận trọng đối với chánh pháp.
164) Dhammaṃ patipannassa
Yo dhammanusāvati Tassa ce vacanaṃ kariyā Na so gaccheyya duggatiṃ.
Người nào dạy pháp cho kẻ bất chánh, nếu họ tuân theo, họ sẽ không đến cảnh khổ.
165) Upārambhacitto dammedho
Suṇāti jinasāsanaṃ
Ārakā hoti saddhammā
Nabhaso pathavī yathā.
Người thấp hèn có tâm ương ngạnh, dầu nghe thánh huấn của Đức Phật mà cũng xa xăm chánh pháp, thì ví như địa cầu xa tít mặt trời vậy.
166) Nikkuhā nillapā dhīrā
Athaddhā susamāhitā
Te ve dhamme virūhanti Sammāsambuddhadesite.
Người không dối trá, không nói lời nhảm nhí, có trí tuệ, không kiêu căng, có tâm kiên cố, hằng tiến triển trong pháp mà Đấng Chánh Đẳng Chánh
Giác đã giảng giải rồi.
167) Yassa sabrabmacārīsu
Gāravo nūpalabbhati Ārakā hoti saddhammā Nabhaṃ paṭhaviyā yathā.
Người không tôn kính bậc phạm hạnh, họ hằng xa khỏi chánh pháp như mặt trời với địa cầu vậy.
168) Yo icche dibbabhogañca
Dibbamāyuṃ yasaṃ sukhaṃ
Pāpā parivajjetvā
Tividhaṃ dhammamācare.
Người nào mong được của cải, tuổi thọ, tước vị, an vui, cõi trời, người đó nên tránh các tội lỗi, rồi phải thực hành ba pháp đức hạnh (sucarita).[7]
169) Yo ca appampi sutvāna Dhammaṃ kāyena pasati Sa ve dhammadharo hoti Yo dhamma nappamajjati.
Người nào dù nghe pháp ít, nhưng thấy pháp thân và không sơ ý trong pháp, người đó được gọi là người hộ pháp.
170) Yoniso viciṇe dhammaṃ Paññāyatthaṃ vipassatiṃ Pajjotasseva nibbānaṃ Vimokho hoti ce taso.
Phải nên chọn pháp bằng cách khôn ngoan và thấy rõ nội dung của pháp bằng trí tuệ, thì hằng có sự giải thoát của tâm như tắt ngọn đèn chóa mắt vậy.
171) Aṭṭhanṅgiko ca maggānaṃ khemaṃ amagāminaṃ ‒ Trong tất cả đạo, đạo có 8 chi là đạo an toàn đưa đến bất diệt pháp.
172) Visudhi sabbaklesehi hoti dukkhehi nibbuti ‒ Sự trong sạch, khỏi điều dơ bẩn, là sự dập tắt tất cả khổ.
173) Yakiñci samudadammaṃ sabbantaṃ nirodhadhammaṃ ‒ Những pháp nào sanh ra tự nhiên, các pháp ấy hầu hết diệt tự nhiên.
174) Yathāpaccayaṃ pavadanti ‒ Vật gì mà duyên cớ tạo thành, hằng hành động theo duyên cớ.
175) Ãrogyaparmā labhā ‒ Không bịnh là điều lợi nhất.
176) Sankhārā sassatā natthi ‒ Các pháp hành không vĩnh viễn.
177) Ãniccā vata sankhārā ‒ Ôi! Các hành pháp đều vô thường.
178) Dullabhaṃ dassanaṃ hoti sambuddhānaṃ abhiṇhaso ‒ Khó thấy Đức Phật được thường thường.
179) Mattaññutā sadā sādhu ‒ Sự biết tiết độ khiến lợi ích thành tựu mãi mãi.
180) Hiriottappiyaññeva
Lokaṃ pāleti sādhukam. Sự hổ thẹn và ghê sợ (tội) hằng độ đời có đức hạnh.
181) Lokopatthambhikā mettā ‒ Bác ái là pháp ủng hộ đời.
182) Arati lokansāsikā ‒ Ganh tỵ là nguyên nhân làm cho đời diệt vong.
183) Mahāpurisabhāvassa lakkhaṇaṃ karuṇãsaho ‒ Khí chất bất khả kháng đối với lòng trắc ẩn là đặc tính của bậc đại nhân.
184) Nimittaṃ sādhurūpānaṃ kataññukatavedita ‒ Sự tri ân là dấu hiệu của người lương thiện.
185) Sabbañce paṭhaviṃ dajjā nākataññumabhirādhaye ‒ Dầu thí toàn quả địa cầu cũng không làm cho kẻ bất nghĩa yêu chuộng được.
186) Hananti bhogā dummedhaṃ ‒ Tài sản thường hại người đần độn.
187) Sakkāro kāpurisaṃ hanti ‒ Danh dự thường hại kẻ đê hèn.
188) Kiccho manussapaṭilābho ‒ Được làm người là việc khó.
189) Kicchaṃ saddhammassavanaṃ ‒ Được nghe pháp của bậc tịnh giả là việc khó.
190) Kiccho buddhānamuppādo ‒ Sự ra đời của bậc Giác Ngộ là việc khó.
191) Anuṭṭhānamalā gharā ‒ Nhà không vững chắc là dơ bẩn.
192) Malaṃ vaṇṇassa kosajjaṃ ‒ Sự lười biếng là dơ bẩn của màu da.
193) Malitthiyā duccaritaṃ ‒ Hành vi xấu xa bị ô nhiễm bởi phụ nữ.
194) Suddhi asuddhi paccataṃ ‒ Sự tinh khiết và không tinh khiết thuộc về cá nhân.
195) Nāñño aññam visodhaye ‒ Người này không thể cho kẻ kia sự trong sạch.
196) Sudassaṃ vajjamaññesaṃ Attano pana duddasaṃ. Việc quấy của người thì dễ thấy, của mình thì khó thấy.
197) Natthi loke raho nāma
Pāpakammaṃ pākubbato
Nơi kín của người tạo ác nghiệp không có trong đời.
198) Rūpaṃ jīvati maccānaṃ Nāmagottaṃ najīrati.
Sắc thân của chúng sanh tiêu diệt, nhưng danh không mất (Sắc thì tàn danh bất hoại).
199) Thīnaṃ bhāvo durājāno ‒ Đặc tính của phụ nữ khó biết được.
200) Mantīsu akutūhalaṃ ‒ Trong khi thảo luận không cần người nói lời nhảm nhí.
201) Atthe jāte ca panṇḍitaṃ ‒ Trong khi biến cố, phải cần đến bậc minh triết.
202) Āpadāsu thāmo veditabbo ‒ Biết được tâm lực trong lúc có nguy hiểm.
203) Yaso laddhā na majeyya ‒ Được tước vị rồi không nên say mê.
204) Cāgamanubrūheyya ‒ Phải tăng gia từ bỏ (nết xấu).
205) Santimeva sikkeyya ‒ Phải chú ý đến sự yên lặng hoàn toàn.
206) Lokāmisaṃ pajahe santipekkho ‒ Người chú ý đến sự yên lặng phải từ vật quyến rũ[8] trong đời.
207) Taṃ gaṇheyya yadapaṇṇakaṃ ‒ Điều nào không sai quấy nên nắm lấy điều ấy.
208) Sammukhā yādisaṃ ciṇṇaṃ parammukhāpi tādisaṃ ‒ Trước mặt hành động ra sao, sau lưng hành động như thế.
209) Sanāthā viharatha mā athānā ‒ Các người hãy có nơi dung thân, đừng ở vô căn cứ.
210) Nāññaṃ nissāya jīveyya ‒ Không nên ỷ lại vào kẻ khác.
211) Atītaṃ nānvāgameyya ‒ Đừng nghĩ đến việc đã qua rồi.
212) Nappaṭikankhe anāgataṃ ‒ Không nên ao ước việc chưa đến.
213) Akkhocchi maṃ avadhi maṃ
Ajini maṃ dhāsi me Ye ca taṃ upanayhanti
Veraṃ tesaṃ na sammati.
Người nào kết án rằng: họ chửi ta, họ giết ta, họ thắng ta, họ đoạt của cải ta, như thế oan trái của người đó hằng không dứt.
214) Indriyāni manussānaṃ Hitāya ahitāya ca
Arakkhitāni ahitāya ca Rakkhitāni hitāya ca.
Các căn của người tồn tại để rồi sẽ hữu ích hay là vô ích, nghĩa là không biết bảo vệ là vô ích, biết bảo vệ là hữu ích.
215) Tasmā hi paṇḍito poso
Sampassaṃ atthamattano
Lobhassa na vasaṃ gacche Haneyya disakaṃ manaṃ.
Khi nhận thấy lợi ích mình, bậc minh triết không theo quyền lực của xan tham, phải trừ diệt lòng tham lam.
216) Paradukkhūpadhānena
Yo attano sukhamicophati Verasaṃsaggasaṃsaṭṭho Verā so na pariṃuccati. Người nào cần sự vui cho mình bằng cách gây khổ cho kẻ khác, người đó phải bận rộn vì sự thù hiềm hằng không khỏi oan trái.
217) Blaṃ cando, balaṃ suriyo
Balaṃ samaṇabrāhmanā Balaṃ velā samuddassa Balātibalamitthiyo.
Mặt trăng, mặt trời, Sa-môn, Bà la môn và bờ biển đều có sức mạnh khác nhau, nhưng sức mạnh phụ nữ càng bội phần.
218) Bahunaṃ vata atthāya Uppajjanti tathāgatā
Itthīnaṃ purisānañca Ye te sāsanakārakā.
Đức Như Lai ra đời đem lợi ích đến Đại chúng, nghĩa là người nữ, người nam đều nên thực hành giáo huấn của Ngài.
219) Ye vuḍḍhamapaccāyanti Narā dhammassa kovidā
Diṭṭhe dhamme ca pāsaṃsā
Samparāyo ca suggti. Người nào sáng trí trong pháp, thành tâm tôn trọng bậc hiền nhân, các người đó hằng được tiến triển trong hiện tại và sẽ thọ sanh lên cõi Trời.
220) Rūpā saddā gandhā rasā
Phassā dhammā ca kevelā Etaṃ lokāmisaṃ ghoraṃ Ettha loko vimuchito.
Sắc, tiếng, mùi, vị, đụng chạm và pháp giới chỉ là miếng mồi khủng khiếp đáng sợ, chúng sanh hằng say mê trong những đối tượng đó.
221) Videsevâsaṃ vasato
Jātavedasamenapi
Khamitabbaṃ sapaññena
Api dāsassa tajjitaṃ. Dầu có trí tuệ rực rỡ tương đương lửa, khi trú ngụ ngoại quốc cũng nên kiên nhẫn với lời đe dọa dù là của tôi tớ.
222) Natthi paññāsamā ābhā ‒ Chẳng có ánh sáng nào bằng trí tuệ.
223) Paññā lokasmi pajjoto ‒ Trí tuệ là ánh sáng trong đời.
224) Yogā ve jayatī bhūri ‒ Trí tuệ hằng phát sanh trong mối liên quan.
225) Ayogā bhūrisankhayo ‒ Trí tuệ hết phát sanh là không còn mối tương quan.
226) Sukko paññāpaṭilābho ‒ Sự được trí tuệ sanh ra an lạc.
227) Paññā narānaṃ ratanaṃ ‒ Trí tuệ là quý báu của người.
228) Paññā va dhanena seyyo ‒ Trí tuệ quý báu hơn tài sản.
229) Natthi jhānaṃ apaññassa ‒ Sự tập trung (tư tưởng) không có đến cho người vô trí tuệ.
230) Paññā natthi ajhāyato ‒ Trí tuệ không có đến cho người không tập trung (tư tưởng). 231) Paññā cenaṃ pasāsati ‒ Trí tuệ hằng ủng hộ, điều chỉnh người.
232) Paññāya maggaṃ ataso na vidati ‒ Kẻ lười biếng không gặp đạo trí tuệ.
233) Sussūnaṃ labhate paññaṃ ‒ Lắng tai chân chánh hằng được trí tuệ.
234) Paññāyatthaṃ vipassati ‒ Người có trực giác bằng trí tuệ.
235) Paññāya parisujjhati ‒ Người hằng trong sạch bằng trí tuệ.
236) Paññā hi seṭṭhā kusatā vadanti ‒ Người sáng trí nói rằng: “Trí tuệ là quý nhất”.
237) Paññājivījīvitamāhu seṭṭham ‒ Bậc trí tuệ nói rằng: “Người sống bằng trí tuệ là xuất chúng”.
238) Eko va seyyo puriso sappañño yo bhāsitassa vijānāti atthaṃ ‒ Người có trí tuệ chỉ hiểu biết yếu điểm Phật ngôn một mình cũng là cao quý hơn.
239) Bahūnaṃ vata atthāya.
Sappañño gharamavasaṃ.
Người có trí tuệ trị gia có ích lợi đến phần đông.
240) Sākacchāya paññā veditabbā ‒ Trí tuệ được biết bằng cuộc đàm thoại.
241) Tathattānaṃ niveseyya Yathā bhūri pavaḍḍhati.
Trí tuệ tăng gia bằng cách nào, phải chỉnh đốn bằng cách ấy.
242) Paññaṃ nappamajjeyya ‒ Không nên buông lung trí tuệ.
243) Jīvatevāpi sappañño Api vittaparikkhayā
Paññāya ca alābhena Vittavāpi na jīvati.
Đến hết của cải, bậc trí tuệ vẫn an vui, nhưng thiếu trí tuệ dù có tài sản cũng không ở an được.
244) Paññā hi seṭṭhā kusalā vadanti Nakkhattarājāriva tārakānaṃ
Sīlaṃ siri cāpi satañca dhammo Anvāyi kā paññavato bhavanti. Người sáng trí nói rằng: “Trí tuệ cao quý như mặt nguyệt, cao quý hơn cả tinh tú, cho đến giới, thanh danh và pháp của bậc trí tuệ cũng hằng đi theo hàng có trí tuệ”.
245) Mattāsukha pariccāgā
Passe ce vipulaṃ sukkhaṃ
Caje mattāsukham dhīro Sampassaṃ vipulaṃ sukhaṃ.
Nếu thấy hạnh phúc lớn do sự thừa nhận phần vui nhỏ, bậc trí tuệ nhận thấy vui lớn cũng từ bỏ vui nhỏ.
246) Yasaṃ ladhāna dummedho Anatthaṃ carati attano Attano ca paresañca
Hiṃsāya paṭipajjati.
Kẻ thấp hèn được tước vị rồi hằng gây điều vô ích đến mình, làm hại mình lẫn kẻ khác.
247) Yo ca vassasataṃ jīve Duppañño asamāhito
Ekāhaṃ jīvitam seyyo Paññāvantassa jhāyino.
Kẻ vô trí tuệ không có tâm kiên cố, dù sống đến trăm năm cũng không quý bằng bậc trí tuệ trầm tư mặc tưởng sống một ngày.
248) Pamādo maccuno padaṃ ‒ Sự sơ ý là con đường chết.
249) Pamādo garahito sadā ‒ Bậc minh triết khiển trách mãi mãi sự sơ ý.
250) Pamādamanuyūnjanti Bālā dummedhino janā. Những kẻ si mê có tính đê hèn chỉ hay sơ ý.
251) Te dīgharattaṃ socanti
Ye pamajjanti māṇavā.
Kẻ sơ ý hằng phiền muộn lâu dài.
252) Bahumpi ce sahitaṃ bhāsamāno Na takkaro hoti naro pamatto
Gopova gāvo gaṇayam paresaṃ Na bhāgavā sâmaññassa hoti. Người đã có sơ ý rồi, dù nói nhiều Phật ngôn nhưng không thực hành, hằng không được phần quý yên lặng, như kẻ chăn bò đếm bò cho kẻ khác.
253) Yo ca pubbepamajjitvā
Pacchā so nappamajjati
Somaṃ lokaṃ pabhāseti Abbhā mutt ova candinā.
Người nào trước đã sơ ý, về sau không buông lung, người đó khiến đời này xán lạn như vầng trăng ra khỏi đám mây.
254) Malā ve pāpakā dhammā Asmiṇ loke paramhi ca. Ác pháp là dơ bẩn cả đời nầy và đời sau.
255) Dukkho pāpassa uccayo ‒ Sự tích trữ ác đem khổ đến cho.
256) Pāpānaṃ akaranaṃ sukhaṃ ‒ Sự không làm dữ đem vui đến cho.
257) Sakammunā haññati pāpadhammo ‒ Người dơ bẩn, tâm xấu xa hằng chịu khổ vì nghiệp của họ.
258) Tapasā pajahanti pāpakammaṃ ‒ Người hiền bỏ ác nghiệp bằng sự tinh tấn.
259) Dhammaṃ me bhaṇamānassa
Na pāpamupalimpati. Khi chúng ta nói pháp, ác không nhiễm được.
260) Pāpāni kamāni karonti mohā ‒ Người hay làm ác vì si mê.
261) Natthi akāriyaṃ pāpaṃ musāvādissa jantuno ‒ Kẻ nói dối không làm ác không được.
262) Sādhu kho paṇḍito nāma ‒ Gọi là bậc minh triết là vì hay làm lợi ích được thành tựu.
263) Paṇḍito sīlasampanno jalaṃ aggīva bhāsati ‒ Bậc minh triết có giới hoàn toàn hằng chói lọi như ánh lửa.
264) Anatthaṃ parivajjeti Atthaṃ gaṇhāti paṇḍito. Bậc minh triết tránh sự vô ích, chỉ lấy điều hữu ích.
265) Indriyāni rakkhanti paṇḍitā ‒ Các bậc minh triết hằng gìn giữ các căn.
266) Na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti ‒ Những bậc minh triết không biểu lộ thái độ cao thấp.
267) Danto seṭṭho manusesu ‒ Trong nhân loại, người đã ức chế tâm rồi là bậc quý nhất.
268) Kusalo ca jahāti pāpakaṃ ‒ Người sáng trí hằng từ bỏ tội lỗi.
269) Nayaṃ nayati medhāvī ‒ Bậc có trí tuệ hằng dẫn dụ trong đường nên dẫn.
270) Adhurāgaṃ na yūnjati ‒ Bậc trí tuệ không bận lòng trong việc vô trách nhiệm.
271) Dhīro bhoge adhigamma sangaṇhāti ca ñātake ‒ Bậc trí tuệ được của cải rồi hằng tiếp đãi thân quyến.
272) Na kāmakāmā lapayanti santo ‒ Những bậc tịnh giả không cảm xúc vì thèm khát ngũ dục.
273) Santo na te ye na vadantidhammaṃ ‒ Kẻ không nói lời đức hạnh, không gọi là bậc tịnh giả.
274) Santo sattahito ratā ‒ Bậc tịnh giả hoan hỉ trong sự ủng hộ chúng sanh.
275) Upasanto sukhaṃ seti ‒ Bậc yên lặng hằng được ở yên.
276) Santo sagga parāyanā ‒ Bậc tịnh giả có cõi trời là nơi dành cho trong tương lai.
277) Anupādā vimuccanti ‒ Những bậc hiền nhân hằng được giải thoát do không cố chấp.
278) Yo bālo maññati bālyaṃ.
Paṇdito vāpi tena so. Người tự biết mình là ngu dốt là người sáng trí do nhân ấy. 279) Bālo apariṇāyako ‒ Kẻ si mê không nên là người hướng đạo.
280) Asanto nirayaṃ vanti ‒ Kẻ yên lặng hằng không sanh trong địa ngục.
281) Anayaṃ navati dummedho ‒ Kẻ ngu dốt hằng dẫn dụ trong đường không nên.
282) Dhammakāmo bhavaṃ hoti ‒ Người vui thích pháp là người phát đạt.
283) Dhammedessī parābhavo ‒ Kẻ bất mãn là kẻ sa sút.
284) Sakatvā sākato hoti ‒ Người tôn trọng hằng được tôn trọng.
285) Garu hoti sagāravo ‒ Người tôn kính hằng được tôn kính.
286) Pūjako labhate pūjaṃ ‒ Người cúng dường hằng được cúng dường.
287) Vandako paṭivandanaṃ ‒ Người kính lạy hằng được kính lạy.
288) Paṭisankhānabalā bahussutā ‒ Người nghe nhiều có sự quán tưởng là sức mạnh.
289) Vissāsaparamā ñāti ‒ Người được tín nhiệm là thân quyến quí nhất.
290) Natthi loke anindito ‒ Người không bị quở trách chẳng có trong đời.
291) Paribhūto mudu hoti ‒ Người nhu nhược phải bị khinh thường.
292) Atilikkho ca veravā ‒ Người không kiên nhẫn hằng có oan trái.
293) Bahumpi natto bhāseyya ‒ Người đã thương yêu, thích nói nhiều.
294) Duṭṭhopi bahu bhāsayi ‒ Người đã giận thích nói nhiều.
295) Yathāvādī tathākārī ‒ Người ngay thật nói sao làm vậy.
296) Hirinisedho puriso Koci lokasmi vijjati. Người chữa cải bằng sự hổ thẹn vốn hiếm có trong đời.
297) Na uyubhūtā vitthaṃ bhaṇanti ‒ Người ngay thật không nói sai sự thật.
298) Brahmati matāpitaro ‒ Cha mẹ là trời phạm thiên (của con).
299) Pubbācariyāti vuccare ‒ Cha mẹ là thầy đầu tiên của con.
300) Āhuneyyā ca puttānaṃ ‒ Cha mẹ là bậc đáng cho các con sùng bái cúng dường.
301) Itthī malaṃ brahmacariyassa ‒ Phụ nữ là nhơ nhuốc của bậc phạm hạnh.
302) Sussusā seṭṭhā bhariyānaṃ ‒ Trong tất cả vợ, vợ nghe theo lời dạy là hơn hết.
303) Yo ca puttānamassavo ‒ Trong các con, con vâng lời là hơn hết.
304) Phātin kariyā aviheṭhayaṃ paraṃ ‒ Chỉ nên làm việc phát đạt, đừng nên làm việc tổn hại người.
305) Guṇāvā cattano guṇaṃ ‒ Người có đức hay gìn giữ đức tính của mình.
306) Rakkheyyānāgataṃ bhayaṃ ‒ Phải ngăn ngừa điều kinh sợ chưa đến.
307) Accayaṃ desayantīnaṃ Yo ce na paṭiggaṇhati
Kopantaro dosagaru
Sa veraṃ paṭimuccati Khi có kẻ xin lỗi mà người cố giận trong lòng bởi nặng vì giận, mà không thừa nhận kẻ đó, gọi là người giấu kín oan trái.
308) Asubhāya cittaṃ bhāvehi
Ekaggaṃ Susamahitaṃ Sati Kayagata Tyatthu Nibbidabhulo bhava. Hãy rèn luyện tâm cương quyết chân chánh bằng cách niệm tưởng vật bất tịnh, hãy có trí nhớ chú ý trong thân thể, thì có nhiều sự chán ngán (trong các pháp hành).
309) Evaṃ kicchābhato poso
Pitu aparicārako Pitarimicchācaritvāna. Nirayaṃ so uppajjati.
Người được cha mẹ nuôi dưỡng cực nhọc như thế, mà không phụng dưỡng (song thân) cư xử tệ bạc (với cha mẹ) hằng đến địa ngục.
310) Evaṃ mandassa pasassa
Bālassa avijjānato
Sārambhā jāyatekodho So pitenava dayhati. Khi giận hằng phát sanh đến người vô minh, vì lòng thịnh nộ, thì họ hằng bị lửa sân thiêu đốt.
311) Onodaro yo sahate jighaccaṃ Danto tapassī mitapānabhojano Ahārahe tu na karoti pāpaṃ Taṃ ve naraṃ samaṇa māhu loke.
Người nào biết kiên nhẫn trong sự đói, người tự chế, có sự cần mẫn, ăn uống có tiết độ, không tạo tội vì thực phẩm được gọi là bực Sa-môn trong đời.
312) Kāme giddhā kāmaratā Kāmesu adhimucchitā narā pāpāni katvāna Npapajjanti duggatiṃ.
Người thèm khát ngũ dục, ưa thích ngũ dục, say mê ngũ dục, gây các tội lỗi hằng sa vào cảnh khổ.
313) Coditā devādūtehi Ye pamajjanti māṇavā
Te dīgharattaṃ socanti Hīnakāyūpagā narā. Những kẻ được người đem tín thức tỉnh rồi mà vẫn buông lung, các kẻ đó tạo ra thân đê hèn phiền muộn lâu dài.
314) Jatithaddo dhanathaddo Gottathaddo ca yo naro Saññātiṃ atimaññeti Taṃ parābhavato mukkhaṃ.
Kẻ nào kiêu căng vì dòng dõi, vì của cải, họ hàng, hằng khinh bỉ thân quyến, đó là nguyên nhân mất giá trị của họ.
315) Taṃ brūhi upasantoti
Kāmesu anapekkhinaṃ
Gantl ā tassa na vijjanti Atāri so visatikaṃ. Như Lai gọi người không còn quyến luyến dục tình là bậc tịnh giả, vì họ không dơ bẩn trong các điều trói buộc và qua khỏi ái dục, là nguyên nhân xáo trộn (trong đời).
316) Tejavādi hi naro vicakkhano Sakkato bahujanassa pūjito
Nārīnaṃ vasañgato na bhāsati Rāhunā upahatova candimā.
Dù là người có quyền lực, có trí tuệ sắc bén được phần đông sùng bái cúng dường, vì ở trong thế lực của người nữ, người đó hằng không xán lạn như mặt trăng bị nguyệt thực.
317) Na paṇḍitā attasuthassa hetu Pāpāni kammāni samācaranti
Dukkhenā phuṭṭhā khalitāpi santā Chandā ca dosā na juhanti dhammaṃ. Bậc minh triết hằng không tạo nghiệp ác vì nhân vui cho mình, bậc tịnh giả ngẫu nhiên bị khổ cũng không bỏ pháp, do tây vị thương và ghét.
318) Nindāya nappavedheyya
Na uṇṇameyya pasaṇsito bhikkhu Lobhaṃ Saha Macchariyena Kodhaṃ pesuṇiyañca panudeyya. Tỳ khưu không xao động vì bị khiển trách, cũng không bồng bột vì được ca tụng, phải giảm tánh xan tham, keo kiết, sản cấu và xúi giục người chia rẽ.
319) Paṇḍito ca viyatho ca Vibāhvī ca vicakkhaṇo
Khippam moccti attānaṃ Mā bhāyitthāgamissati. Người sáng trí, sắc bén thuyết minh về nhân và không phải nhân và xét thấy rõ quả báo, hằng thoát ly (thống khổ) tức khắc, không sợ quả báo tái lai nữa.
320) Pahāya pañcāva raṇāni cetaso
Upakhilese byapamajja sabbe
Anissito chetvā sinehadosaṃ Eko care khaggavisaṇakappo. Người sáng trí bỏ năm pháp cái, diệt trừ tất cả tùy phiền não, đoạn tuyệt thương và ghét, khiến ái dục và tà kiến không chỗ trú, nên trải đi một mình như loài tê giác vậy.
321) Puttāmatthi dhanamatthi Iti bāto vihāññati
Atta hi attano nātthi
Kuto puttā kuto dhanaṃ.
Kẻ ngu dốt nghĩ rằng có con, có của mới ưu sầu, sự thật chính mình cũng chẳng có, thì con và của từ đâu mà có.
322) Nadhuvā maññatī bālo
Yāva pāpaṃ na paccati Yada ca paccatī pāpaṃ Atha dukkhaṃ nigacchati.
Tội chưa cho quả đến đâu, thì kẻ si mê hiểu rằng có vị ngọt đến đó, nhưng tội cho khổ lúc nào, họ hằng gặp khổ lúc đó.
323) Yaṃ taṃ janapadaṃ yāti
Nigame rājadhāniyo Sabbattha pūjito hoti Yo mittānaṃ na dubbhati.
Kẻ nào không hại bạn, kẻ đó đi đến khu vực nào, địa phương nào hay thủ đô nào cũng hằng có người cúng dường trong các nơi.
324) Yato ca hoti pāpiccho
Ahiriko anādaro Tato pāpaṃ pasavati Apāyaṃ teca gacchati.
Kẻ mong mỏi xấu xa, không hổ thẹn, không hộ pháp, do nhân nào họ hằng gặp điều khổ sở, đến cảnh khổ vì nhân ấy.
325) Yamhā dhammaṃ vijāneyya Sammāsambuddhadesitaṃ
Sakkaccaṃ Naṃ Namasseyya Aggthutaṃ va btahmano.
Người nào hiểu rõ pháp mà đấng
Chánh Đẳng Chánh Giác đã giảng thuyết rồi, từ nhân vật nào, thì phải tôn trọng nhân vật đó như tín đồ bà la môn giáo cúng dường thần lửa vậy.
326) Yassa pāpakaṃ kataṃ kammaṃ
Kusalena pithīyati
Somaṃ lokaṃ pabhāseti
Abbhã muttova candimā
Kẻ nào tạo nghiệp dữ rồi, bỏ dữ về lành, kẻ đó làm cho đời được xán lạn, như mặt nguyệt ra khỏi đám mây vậy.
327) Yassa rukkhassa chāyāya
Nisīdeyya sayeyya vā
Na tassa sãkhaṃ bhañjeyya Mittadubbo hi pāpako.
Người nằm hoặc nghỉ nơi cội cây nào, không nên phá gãy cành cây đó, bởi kẻ hại bạn là kẻ hèn hạ.
328) Ye na kāhanti ovādam Narā buddhena desitaṃ
Byasanaṃ te gamissanti
Rakhasīhiva vāṇijā.
Kẻ nào không thực hành giáo pháp của bậc Giác Ngộ đã thuyết, họ sẽ bị sự tổn hại như người thương mãi bị thiệt hại bởi kẻ đánh lừa.
329) Yo cattānaṃ samukkaṃse
Pare ca avajānati
Nihīno sena mānena Taṃ jaññā vasalo iti
Kẻ nào là hạng thấp hèn mà tự cao và khinh thường người khác, vì tự kiêu, thì phải biết rằng đó là hạng người đê tiện.
330) Yo ca sīlañca pañữ ñca Sutancattani passati
Ubhinnamatthaṃ catati Attano ca parassa ca.
Người nào thấy: giới văn[9] trong chính mình, người đó hằng thực hành hai lợi ích cho mình và kẻ khác.
331) Yo ca mettaṃ bhāvayati
Appamānaṃ paṭissato
Tanū sayojanā honti Passato upadhikkhayaṃ. Người nào có trí nhớ tỉ mỉ, niệm pháp bác ái vô lượng kiết sử [10] của người đó, hằng hao mòn tiêu diệt và tâm luyến ái nhẹ nhàng.
332) Yo ve kataveññū katavedi dhīro Kalyāṇamitto dalhabhatti ca hoti
Dukkhitassa sakkacca karon kiccaṃ Tathāvidaṃ sapurisaṃ vadenti.
Bậc trí tuệ là người: tri ân và báo ân; có bạn thân thiết; tận tâm giúp bạn khi thiếu thốn. Người như thế gọi là bậc tịnh giả.
333) Yo hoti byatto ca visārato ca Buhussuto dhamadharo ca hoti Dhammassa hoti anudhammacārī Sa tādiso vuccaṃ sanghasobhaṇo. Người sáng trí can đảm là bậc đa văn, hộ pháp và thực hành thích hợp pháp, như thế gọi là xui nên đoàn thể được xán lạn.
334) Sace indriyasampanno Santo santipade rato Dhāreti antimaṃ dehaṃ Jetvā māraṃ savāhanaṃ. Người có ngũ căn đầy đủ, yên lặng và hoan hỉ trong sự yên lặng mới gọi là thắng ma vương, cả quân ma và duy trì thân thể cho đến ngày cuối cùng.
335) Sace bhāyatha dukkhassa
Sace vo dukkhamappivaṃ
Mā kattha pāpakaṃ kammaṃ Āvī vā yadi vā aho. Nếu người sợ khổ, nếu người không thích khổ, thì đừng tạo nghiệp dữ cả trong nơi trống trải và khuất lấp.
336) Sabbā disā anuparigammena cetasā
Nevajjhāgā piyataramattanā kvaci Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ Tasmā na hīmse paraṃ attakāmo.
Ta đã tầm khắp hướng rồi cũng không gặp một người nào thương yêu mình hơn chính mình, cho đến kẻ khác cũng chính họ là nơi trìu mền nhất. Vì thế nên người yêu mình không nên làm hại kẻ khác.
337) Salābhạṃ nātimaññeyya
Maññesaṃ pihayañcare
Aññesaṃ pihayaṃ bhikkhu
Samādhiṃ nādhigacchati. Không nên khinh suất lợi của mình, không nên hướng đến lợi kẻ khác, Tỳ khưu mong mỏi lợi của người hằng không đạt đến thiền định.
338) Sarattā kāmabhogesu Giddhā kāmesu mucchitā Atisāraṃ na bujjhanti Macchā khippaṃva oḍḍitaṃ. Người say đắm thọ dụng dục lạc, quyến luyến dục lạc, hằng không biết tự mình vi phạm, như loài cá bướng bỉnh vào lờ mà không biết mình vậy.
339) Evaṃ buddhaṃ sarantānaṃ
Dhammaṃ sanghañca bhikkhavo
Bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā Lomahaṃso na hessati. Nầy các thầy tỳ khưu! Khi người tưởng đến Phật, Pháp, Tăng như vậy, thì không có sự kinh sợ, sững sờ.
340) Puññaṃ corehi dūrahaṃ ‒ Kẻ cướp đoạt phước không được.
341) Puññaṃ sukhaṃ jīvitasanghayambi ‒ Phước đem an vui đến trong giờ mạng chung.
342) Sukho puññassa uccayo ‒ Sự tích trữ phước đem vui đến cho.
343) Puññāti paralokasmiṃ Patiṭṭna honti paṇisṃ.
Phước là nơi dung thân của chúng sanh trong đời sau.
344) Idha nandati pecca nandati
Katapuñño ubhayattha nandati Puññaṃ me katanti nandati Bhiyyo nandati sugatiṃ gato.
Người đã làm phước hằng vui thích trong đời này, chết rồi hằng vui thích, gọi là vui thích trong cả hai nơi; họ hằng vui thích rằng: “Ta đã tạo phước để dành rồi, đi đến nhàn cảnh cũng vui thích bội phần”.
345) Māvamaññetha puññassa
Na mattaṃ agamissati
Uddabindunipātena udakumbhapi pūrati apūrati dhīro puññassa thokaṃ thokampi ācinnaṃ. Không nên khinh suất rằng phước có ước lượng ít, không cho quả, nồi nước có thể đầy nước được do giọt nước rơi xuống thế nào, bậc có trí tuệ tích trữ phước, mỗi khi một ít, thì cũng đầy phước vậy.
346) Puññance puriso kayirā
Kayirāthenaṃ punappunaṃ Tamhi chandaṃ kariyātha Sukho puññasso uccayo. Nếu người phải làm phước thì nên làm cho đều, nên làm cho vừa lòng trong phước, vì sự chất chứa phước đem vui đến cho.
347) Sahāyo atthajātassa
Hoti mittaṃ punappunaṃ
Sayaṃ katāni puññāni Taṃ mittaṃ samparāyikaṃ.
Bạn là người hằng giúp việc khi người hữu sự, phước mà tự người đã tạo, phước ấy là bạn trong vị lai.
348) Sabhaṃ bhedapariyantaṃ Evaṃ maccānaṃ jīvitaṃ.
Sanh mệnh của chúng sanh như đồ đựng bằng đất, chỉ đến cuối cùng là lũng bể.
349) Appakancidaṃ jīvitamāhu dhīrā ‒ Bậc trí tuệ nói rằng sanh mệnh nay ngắn ngủi.
350) Jarūpanītassa na santi tāṇā ‒ Khi chúng sanh bị cái già đến rồi, thì chẳng có ai ngăn ngừa được.
351) Na mivvamānassa bhavanti tāṇā ‒ Khi chúng sanh chết chẳng có ai ngăn ngừa.
352) Na miyyamāñaṃ dhanaṃanvedī kīñci ‒ Của cải chút ít cũng chẳng dính theo người chết.
353) Na cāpi vittena jaraṃ vihanti ‒ Trừ cái già bằng của cải là không được.
354) Aḍḍhā ceva daliddā ca Sabbe maccuparāyano. Cả người giàu lẫn người nghèo chỉ có sự chết ở phía trước mặt.
355) Accayanti ahorattā
Jīvataṃ uparujjhati
Āyu khīyati maccānaṃ Kunnadīnamva odakam. Ngày đêm hằng trôi qua, sinh mệnh hằng hao mòn, tuổi thọ của chúng sanh hằng tiêu hết, như nước ở khe hằng khô cạn vậy.
356) Daharā ca mahantā ca Yebālā ye ca paṇḍitā
Sabbe maccuvassam yanti
Sabbe maccuparāyanā.
Cả trẻ lẫn già, kẻ si mê, bậc minh triết đều mắc trong quyền lực của tử thần, chỉ có sự chết phía trước.
357) Na antalikkhe na sumuddamajjhe
Na pubbatānaṃ vivaram pavīsam
Na vijjatī so jagatippadeso Yatraṭṭhitam nappasaheyya maccu. Cư ngụ trên hư không, giữa biển, vào đến kẹt đá cũng chẳng khỏi tử thần được. Trong khắp nơi cũng chẳng thoát được sự chết áp bức.
358) Yathā daṇḍena gopālo Gāve pājeti gocaraṃ
Evaṃ jarā ca maccu ca Āyuṃ pājenti pāninaṃ. Kẻ chăn bò hằng đuổi bày bò đi đến nơi cho chúng ăn bằng cây hèo, thế nào, thì cái già, cái chết hằng đánh đuổi tuổi thọ của chúng sanh như vậy.
359) Yathāpi kumbha kārassa Katā mattikabhājanā Sabbe bhedapariyantā Evaṃ maccāna jīvitaṃ. Đồ đựng mà thợ gốm làm bằng đất đến cuối cùng đều bị lủng bể thế nào, thì sanh mệnh chúng sanh cũng thế ấy.
360) Mātā mittaṃ sake ghare ‒ Mẹ là bạn trong nhà.
361) Sahāyo atthajātassa Hoti mittaṃ punappunaṃ. Bạn bè là người thường phát sanh lợi ích khi hữu ích.
362) Sabbattha pūjito hoti Yo mittānaṃ na dubbhati.
Người không hại bạn thường được cúng dường trong mọi nơi.
363) Sabbe amitte tarati Yo mittānaṃ na dubbhati. Người không hại bạn hằng vượt qua kẻ thù.
364) Pāpamitto pāpasakho Pāpa acāra goraco. Có bạn ác hằng có cử chỉ và nơi vãng lai hèn hạ.
365) Natthi bāle sahāyatā ‒ Niềm bạn bè hằng không có trong kẻ si mê.
366) Atthamhi yātamhi sukhā sahāyā ‒ Khi hữu sự cần dùng, bạn hữu hằng đem vui đến cho.
367) Sace labhetha nipakaṃ Sahāya careyya tenattamano satimā.
Nếu được bạn thận trọng chú ý thì nên hài lòng, có tri nhớ đi cùng họ.
368) No ce labhetha nipakaṃ Sahāyaṃ eko care na ca pāpāni kayirā.
Ví bằng không được bạn tận tâm thì phải đi một mình và không nên làm tội lỗi.
369) Na ce yācanti sappaññā ‒ Những người có trí tuệ không xin.
370) Yácako appiyo hoti ‒ Người xin hằng là nơi không vừa lòng (của thí chủ).
371) Yācaṃ adadamappiyo ‒ Người bị xin, khi không cho vật mà họ xin, hằng là nơi không hài lòng (của kẻ xin).
372) Desso ca hoti atiyācanāya ‒ Người đáng ghét vì xin quá mực. 373) Na taṃ yāce yassa piyaṃ jigiṃse ‒ Không nên xin vật mà mình đã biết là vật vừa lòng của người ta.
374) Rājā mukhaṃ manussanaṃ ‒ Đức vua là đứng đầu dân chúng.
375) Sabbāṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ hothi
Rājā ce hoti dhammiko. Nếu Đức vua là bậc hộ pháp thì toàn dân được an lạc.
376) Kuddhaṃ appaṭikujjhanto
Rājā raṭṭhassa pūjito. Đức vua không sân với kẻ sân, thì được nhân dân cúng dường.
377) Puttakaṃ viya rājāno Pajaṃ rakkhantu sabbadā. Đức vua hãy bảo vệ quốc dân, cho giống như cha thương con mãi mãi.
378) Mokkho kalyāṇiyā sādhu ‒ Lời nói lành khiến lợi ích được thành tựu.
379) Mutvā tapati pākikaṃ ‒ Người nói dữ hằng phiền muộn.
380) Duṭṭhassa pharusā vācā ‒ Người sân hay nói lời thô lỗ.
381) Abhūtavedī nirayaṃ upeti ‒ Kẻ nói dối hằng vào đến địa ngục.
382) Saṃvohārena soceyyaṃ veditabhaṃ ‒ Nên biết người trong sạch bằng lời nói.
383) Vācaṃ muñceyya kalyāṇiṃ ‒ Nên phát biểu lời thanh nhã.
384) Manuññameva bhāseyya ‒ Chỉ nên nói lời làm hài lòng.
385) Na hi muñceyya pāpikaṃ ‒ Không nên nói lời tội lỗi.
386) Kalyāṇameva muñ eyya
Na hi mũnceyya pãpikaṃ Mokkho kalyāṇiyā sadhu Mutvā tappati pāpikaṃ.
Phải nói lời lành, không nên phát biểu bằng giọng bất nhã, sự bày tỏ lời êm tai khiến lợi ích, được kết quả, kẻ thốt lời thô lỗ hằng ưu sầu.
387) Piyavācameva bhāseyya
Vā vācā patinanditā
Yaṃ anādãya pāpāni Paresaṃ bhāsate piyaṃ.
Người nên nói lời thanh nhã cho thính giả hài lòng, vì người lành hằng không vừa lòng lời thô lỗ, chỉ nên phát biểu lời tao nhã thôi.
388) Yañhi kayirā tanhi vade
Yaṃ na kariyā na taṃ vade
Aka rontam bhāsamānaṃ Parijānanti paṇḍitā.
Người làm việc gì, mới nên nói tới việc đó, không làm việc gì, không nên nói đến việc đó, bậc minh triết hằng phân biệt người không làm mà chỉ nói.
389) Yo nindiyaṃ pasaṃsati Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo Vicinati mukhena so kaliṃ Kalinā tena sukhaṃ na vindati.
Kẻ nào ca tụng người đáng khiển trách hoặc quở trách, người đáng tán dương, kẻ đó hằng tích trữ tội bằng miệng, thì không được vui, vì lẽ đó.
390) Viriyena dukkhamacceti ‒ Người thoát khổ được, nhờ bởi sự cần chuyên.
391) Akitāsu vinde hadayassa santim ‒ Người không lười phải được yên tâm.
392) Ajjeva kiccamātappaṃ ‒ Phải gấp làm việc cho cần mẫn trong ngày nay.
393) Kareyya yoggaṃ dhuvamappamatto ‒ Người không sơ ý nên cương quyết làm cho cần mẫn.
394) Yathā yathā yatha Iabhetha atthaṃ Tathā tathā tattha parakkameyya.
Được lợi ích trong nơi nào, bằng cách nào, nên cần mẫn trong nơi đó, bằng cách đó.
395) Yo ca vassasataṃ jīve Kusīto hīnavīriyo
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo
Viriyaṃ ārabhato dalhaṃ.
Kẻ nào lười biếng mà trụy lạc thấp hèn, dù sống đến trăm năm cũng không bằng người có tinh tấn, tâm kiên cố sống một ngày, vẫn cao quý hơn.
396) Saccaṃ have sadhutaraṃ rasānaṃ
‒ Vị chân thật quả nhiên quí hơn tất cả vị.
397) Saccaṃ ve amatā vācā ‒ Lời nói chân thật là lời nói bất diệt.
398) Saccena kittiṃ pappoti ‒ Người được danh vọng nhờ sự thật.
399) Saccamanurakkheyya ‒ Phải nên gìn giữ sự thật.
400) Ye varaṃ upanayhanti
Veraṃ tesaṃ na sammati.
Người kết oan trái là gây oan trái.
401) Ye varaṃ nūpanayhanti Veraṃ tesūpasammati. Người không kết oan trái, được yên lặng.
402) Averena ca sammati ‒ Oan trái được yên lặng bằng không kết oan trái.
403) Santuṭṭhī paramaṃ dhanaṃ ‒ Sự hỷ duyệt là của quý nhất.
404) Tuṭṭhī sukhā yā itarītarena ‒ Sự vừa lòng với đồ dùng tùy có tùy được đem an vui đến cho.
405) Sukho viveko tuṭṭhassa sutadhammassa passato ‒ Sự vắng lặng của người hỷ duyệt nghe và thấy pháp rõ rệt đem vui đến cho.
406) Yaṃ laddhaṃ tena tuṭṭhabbaṃ ‒ Được vật gì nên vừa lòng với vật ấy.
407) Salādhaṃ nātimaññeyya ‒ Không nên khinh suất lợi của mình.
408) Samaṇīdba aranā loke ‒ Bậc Samôn trong giáo pháp nầy không phải là người thù trong đời.
409) Na hi pabbajito parūpaghātī Samaṇo hoti paraṃ viheṭhanyanto. Bậc xuất gia giết hại người không phải là Sa-môn.
410) Asaññato pabbajito na sādhu ‒ Bậc xuất gia không chế ngự là không tốt.
411) Apeto damasaccena na so kāsāvamarahati ‒ Người nào không tự ức chế và không chơn thật thì không nên mặc y cà sa.
412) Subhāsitabdhajā isayo ‒ Những bậc đạo sĩ có thiện ngôn là biểu hiện.
413) Samaṇo assa sussamano ‒ Bậc Samôn thì phải là Sa-môn chân chánh.
414) Sāmaññe samaṇo tiṭṭhe ‒ Bậc Samôn phải trú trong sự phù hợp của Samôn.
415) Sukhā sanghassa sāmaggī ‒ Sự hòa thuận của đoàn thể tạo cho an vui.
416) Sabbesaṃ sanghabhūtānaṃ Samaggī vuḍḍhisādhikā. Sự hòa thuận của tất cả đoàn thể khiến sự phát đạt được tăng gia.
417) Sīlaṃ yāva jarā sādhu ‒ Giới cho lợi ích được thành tựu đến già.
418) Sukaaṃ yāva arā sīlaṃ ‒ Giới cho điều vui đến già.
419) Sīlam loke anuttaro ‒ Giới là vô song trong đời.
420) Saṃvāsena sīlam veditabbam ‒ Giới được biết do sự ngụ chung cùng nhau.
421) Sādhu sabbattha samvaro ‒ Sự ức chế trong mọi nơi là quý.
422) Saññamato veram na cīyati ‒ Khi cố ý thận trọng thì thù oán không phát sinh.
423) Sīlam rakkheyya medhāvī ‒ Bậc trí tuệ nên trì giới.
424) 424) Ãdi sīlam patiṭṭhā ca Kalyāṇānañca matukaṃ
Pamukhaṃ sabbadham mānaṃ Tasmā sīlaṃ visodhaye.
Giới là nơi nương mình đầu tiên, là mẹ của tất cả thiện pháp, là đứng đầu các pháp, vì thế phải trau dồi giới cho tinh khiết.
425) Idheva kittiṃ labhati
Pecca sagge ca sumaṇo Sabbattha sumano dhīro Sīlesu susamāhito.
Bậc trí tuệ đã kiên cố trong giới hằng có danh dự trong đời nầy, thác rồi hằng hớn hở trong cõi Trời, gọi là được hài lòng trong hai cõi.
426) Idheva nindaṃ labhati
Peccāpāye ca dummano Sabbattha dummano bālo Sīlesu asamāhito.
Kẻ ngu dốt không trú vững trong giới, hằng bị khiển trách trong đời nầy, chết rồi hằng thê thảm trong khổ cảnh, gọi là thất vọng trong hai nơi.
427) Kāyena vācāya ca yodha sannato
Manasā ca kīñci na karoti pāpaṃ Na attahetu alikaṃ bhāṇāti Tathāvidhaṃ sīlavantaṃ vadanti. Người nào trong đời nầy ức chế thân, khẩu, ý, không làm tội gì và không nói dối, như thế gọi là người có giới.
428) Tasmā ha nārī ca naro ca sīlavā
Aṭṭhangupetaṃ upavasasuposathaṃ Puññāni katvāna sukhudriyāni Aninditā saggamupenti ṭhāna. Cho nên, nữ và nam, người có giới, thọ bát quan trai gồm có 8 chi làm phước có quả vui, mới không bị quở trách, thì hằng đến cõi trời.
429) Na vedā samparāyāa
Na jāti napi bandhavā
Sakañca sīlasaṃsuddham Samparāyasukhā vahaṃ.
Bùa chú, phù pháp, thân quyến không đem vui đến cho đời sau được, phần giới của người được trong sạch rồi mới đem hạnh phúc đến cho trong cõi sau.
430) Yo ca vassasataṃ jīve
Dussīlo assamāhito
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo Sīlavantassa jhāyino.
Người có giới tham thiền, dù sống một ngày cũng cao quý hơn kẻ phá giới không có tâm kiên cố sống đến trăm năm.
431) Sīlamevidha sikketha
Asmiṃ loke susikkhitaṃ
Sīlaṃ hi sabbasampattiṃ Upanāmeti sevitaṃ. Nên học tập giới trong đời nầy, vì giới được học tập kỹ càng và thực hành rồi trong đời nầy, hằng đem đến tất cả giai đoạn thiền định.
432) Sīlaṃ rakkheyya medhāvī
Patthayāno tayo sukhe Pasaṇisaṃ vittilābhañca Pecca sagge pamodanaṃ.
Bậc trí tuệ khi mong mỏi ba điều an lạc: sự khen ngợi, sự được của cải và được vui cõi trời, thì phải trì giới.
433) Sīlavā hi bahū mitte
Saññamenādhigacchati
Dussīlo pana mittehi
Dhaṃsato pāpamācaraṃ. Người có giới hằng được nhiều bạn do sự ức chế (thân, khẩu). Phần kẻ phá giới hành động xấu xa hằng chia rẽ bạn bè.
434) Aticiraṃ nīvāsena piyo bhavati appiyo ‒ Bởi ngụ chung cùng nhau quá lâu, khiến người thương yêu cũng bất mãn.
435) Dukkho pālehi saṃvāso
Amitteneva sabbadā
Ngụ cùng người si mê hằng đem khổ đến cho, như ở chung với kẻ thù.
436) Sukho have sappurisena sangamo ‒ Kết giao với bạn tịnh giả đem an vui đến cho.
437) Na pāpajanasaṃsevī Accantaṃ sukhamedhati.
Người không kết giao với kẻ dữ hằng được vui mà thôi.
438) Bālasangatacārī hi dīghamaddhmana socati ‒ Người giao kết với kẻ si mê hằng phiền muộn lâu dài.
439) Yattha verī nivisati na Vase tattha paṇḍito.
Kẻ thù ở nơi nào, bậc minh triết không nên ngụ nơi đó.
440) Sanketheva amittasmiṃ ‒ Phải ngờ vực kẻ thù.
441) Mitasmimpi na vissase ‒ Dù bạn bè cũng không nên tin cậy.
442) Na vissase avissaṭṭhe ‒ Không nên tin cậy người không tâm phúc.
443) Vissaṭṭhepi na vissase ‒ Dù là với người thân tín cũng không nên quá tín nhiệm.
444) Nāsmase ka tapāpamhi ‒ Không nên tin cậy kẻ làm ác.
445) Nāsmase attatthapaññamhi ‒ Không nên tín nhiệm kẻ lợi kỷ.
446) Ãtisantepi nāsmase ‒ Không nên tin cậy kẻ giả vờ kín đáo.
447) Na santhaṃvaṃ kāpurisena kayirā ‒ Không nên thân mật với kẻ xấu.
448) Māssu bālena sabbadā ‒ Đừng kết giao với kẻ si mê, vì họ tương tự như kẻ thù vậy.
449) Asante nūpaseveyya Santa seveyya paṇḍito Asanto nirayaṃ nenti
Santo pāpenti sugatiṃ.
Bậc minh triết không nên giao kết với bậc vô trí thức, phải thân cận cùng bậc tịnh giả, vì bậc vô trí thức hằng dẫn đến địa ngục, người tịnh giả hằng dắt đến cõi trời.
450) Pāpamitte vivajjetvā
Bhajeyyūttamapuggale Ovade cassa tiṭṭheyya Patthento acalaṃ sukhaṃ.
Người mong sự vui vững bền phải lánh xa bạn ác, chỉ kết giao với bậc ưu tú và nên tuân lời dạy của ngài.
451) Yādisaṃ kurute mittaṃ
Yadisañcūpasevati
Sopi tādisato hoti Sahavāso hi tādiso.
Người kết giao với kẻ nào, làm bạn với người thế nào, họ sẽ như vậy, vì sự chung đụng với nhau hằng là như thế.
452) Saddhena ca pesalena ca
Paññavatā bahussutena ca Sakhitaṃ hi karayya paṇḍito Bhaddo sappurisehi sangamo. Bậc minh triết kết giao với người có sự tín ngưỡng, có giới, đáng thương yêu, có trí tuệ và là bậc đa văn, vì sự kết bạn với người ngoan là điều thạnh vượng.
453) Sati lokasmi jāgaro ‒ Trí nhớ là pháp đánh thức trong đời.
454) Satimato sadā bhaddaṃ ‒ Người có trí nhớ hằng được tấn phát.
455) Satimā sukhamedhati ‒ Người có trí nhớ thường được vui.
456) Satimato suve seyyo ‒ Người có trí nhớ mỗi ngày hằng ưu tú.
457) Rakkhamāno sato rakke ‒ Người quan sát nên có trí nhớ bảo vệ.
458) Saddhā bandhati pātheyyaṃ ‒ Đức tin sưu tập sự dự phòng (tức thiện pháp).
459) Saddhā sādhu patiṭṭhitā ‒ Đức tin vững chắc rồi khiến lợi ích được thành tựu.
460) Sukhā saddhā patiṭṭhitā‒ Đức tin chắc chắn rồi đem vui đến cho.
461) Sadhīdha vittaṃ purisassa setthaṃ‒ Đức tin là của báu của người trong đời này.
462) Ekopi saddho medhāvī
Assaddhānaṃ ca ñatinaṃ
Dhammaṭṭho sīlassampanno Hoti atthayā bandhunaṃ.
Người có đức tin, có trí tuệ, trú trong pháp đầy đủ giới hạnh, dù là một mình, hằng có lợi ích đến thân quyến và bạn bè.
463) Dassanakāmo sīlavataṃ
Saddhammaṃ sotumicchati
Vineyya maccheramalaṃ Sa ve saddhoti vuccati.
Người nào trông mong thấy bậc có giới, ước ao nghe chánh pháp, từ bỏ tâm dơ bẩn, keo kiết, người đó gọi là bậc có đức tin.
464) Saddho sīlena sampanno Yaso bhogasamappito
Yaṃ yaṃ padessaṃ bhajati Tattha tattheva pūjito.
Người có đức tin, gồm cả giới, có tước vị, đi đến xứ nào, hằng được cúng dường trong xứ đó.
465) Ye naṃ dadanti saddhāya
Vippasannena cetasā Tameva nanaṃ bhajati Asmiṃ loke paramhi ca.
Những kẻ nào có tâm trong sạch cho cơm bằng đức tin, các kẻ đó được cơm cả đời nầy sang đời khác.
Phần phước pháp thí này chúng tôi thành kính hồi hướng quả phúc lành này đến các bực ân nhân của chúng tôi nhất là thầy tổ đã dày công dạy bảo chúng tôi trở nên người chánh kiến. Cầu xin cho các ngài luôn luôn được nhiều sức khỏe tu hành tinh tấn đắc được đạo quả Niết-bàn, nhứt là Ngài Hộ Tông đã dày công biên dịch ra quyển kinh này; cầu xin chư thiên hộ trì đến Ngài được vạn sự như ý.
Phần phước nữa chúng tôi cúng hiến đến các ngài Tứ đại thiên vương hộ trì bốn châu thiên hạ và tất cả chư thiên và chúng sanh trên mười muôn triệu thế giới ta bà luôn luôn được tăng phần an vui, hãy hộ trì tất cả thế giới, nhứt là đất nước Việt Nam sớm được hòa bình thịnh vượng.
Với phần pháp thí này chúng tôi thành kính hồi hướng đến ông bà, cha mẹ chúng tôi đã quá vãng cho được sanh lên nhàn cảnh, còn hiện tiền cầu xin cho các vị đó được tăng long phước thọ và có đức tin nơi tam bảo, sớm gặp được chánh pháp để tu hành được mau giải thoát cho hết khổ, được an vui.
Thành kính
‒ Dứt tác phẩm Phật ngôn (Pl.2513-Dl.1970)‒
[1] atta: adati sukhadukkham anubhavatiti > attā
[2] Appamãdo: appamajjanam > appamado.
[3] Kilesa: kilisanti tehiti> kilesa
Tham: tham tiền của, ăn uống.
[4] Lậu hoặc (asva): phiền não khiến chúng sanh say mê lầm lạc trong nẻo luân hồi.
[5] Kodha: kujjhanam >kodho.
[6] Doso: dussamam >doso: Giận rồi làm hại kẻ khác.
[7] Thân, khẩu, ý trong sạch.
[8] Tài, sắc, lợi, danh.
[9] Văn: điều được nghe.
[10] Phiền não sai khiến chúng sanh trong vòng luân hồi (sanyojana).
[11] Tình trạng vừa lòng vui thích đồ dùng mình có. Contentment is betther than riches (an phận hơn giàu sang).