NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha - Bậc
Đại-trí
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha có trí-tuệ siêu-việt sinh vào dòng
dõi Bà-la-môn qua 7 đời tinh khiết. Đức-Bồ-tát theo học các bộ môn của dòng dõi
Bà- la-môn rất uyên thâm. Khi cha mẹ của Đức-Bồ-tát qua đời, người quản gia gìn
giữ các kho của cải đến trình cho Đức-Bồ-tát biết rõ của cải tài sản của dòng
họ, tổ tiên, ông bà, cha mẹ để lại cho Đức-Bồ-tát, một gia tài rất lớn.
Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Tổ tiên, ông bà, cha mẹ suốt 7 đời của ta đã tích
lũy của cải tài sản lớn lao như thế này; khi qua đời chẳng có một ai đem theo
được một món nhỏ nào. Khi đến phiên ta qua đời, chắc chắn cũng không đem theo
được gì. Tốt hơn! Ta nên đem của cải này làm phước-thiện bố-thí đến cho mọi
người nghèo khổ thiếu thốn, ta sẽ sống tại gia thực hành các pháp- hạnh
ba-la-mật.”
Một hôm, Đức-Bồ-tát ngồi một mình trên lâu đài suy tư:
“Sự nóng của lửa tham, lửa sân, lửa si, ... hiện hữu; còn Niết-bàn tịch tịnh
dập tắt được lửa tham, lửa sân, lửa si, ... cũng hiện hữu.
Sự khổ đế của sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới hiện hữu; còn sự an-lạc tuyệt
đối của Niết-bàn siêu-tam- giới cũng hiện hữu.
Sự tái-sinh là khổ, sự già là khổ, sự bệnh là khổ, sự chết là khổ, ... vẫn hiện
hữu; vậy ta nên mong muốn chứng ngộ Niết-bàn là pháp không sinh, không già,
không bệnh, không chết, ... là pháp giải thoát khổ.”
Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Đời sống tại gia có nhiều nhiêu khê phiền toái, bị
ràng buộc, ... Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà xuất gia trở thành đạo sĩ.”
Để thực hiện ý định, Đức-Bồ-tát cho người đi truyền rao khắp nơi gần xa dân
chúng trong nước, ai cần của cải gì, thì hãy đến tự tiện lấy.
Đức-Bồ-tát Sumedha từ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành
đạo-sĩ. Đức-vua Trời Sakka cõi Tam-thập-tam-thiên biết ý nguyện của Đức- Bồ-tát,
nên truyền lệnh cho vị thiên-nam Vissakamma hiện xuống cõi người, hóa ra một cốc
lá dưới chân núi Himavanta để cúng dường Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha.
Ban đầu, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nương nhờ sống nơi cốc lá rất hài lòng. Về sau,
Đức-Bồ-tát suy xét kỹ thấy cốc lá có 8 điều bất lợi, còn nương nhờ sống dưới cội
cây có 10 điều thuận lợi, nên Đức-Bồ-tát từ bỏ cốc lá để đến nương nhờ sống dưới
cội cây thực hành pháp-hành thiền-định.
Một buổi sáng, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha mang bát vào xóm nhà để khất thực, sau
khi thọ thực xong, Đức- Bồ-tát trở về ngồi dưới cội cây suy xét rằng: “Người
ta phải làm lụng vất vả cực nhọc lắm mới có được vật thực này. Vậy, từ nay ta
nên lượm nhặt những trái cây chín rụng để ăn sống qua ngày. Ta chớ nên sống dể
duôi (thất niệm), tinh-tấn thực hành pháp-hành thiền-định, ngăn oai-nghi nằm, ta
chỉ thọ-trì ba oai-nghi: đi, đứng và ngồi mà thôi.”
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tinh-tấn thực hành pháp-hành thiền-định trong
vòng 7 ngày đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới và
chứng đắc ngũ thông tam-giới (đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông,
tha-tâm-thông và tiền-kiếp-thông) an-hưởng sự an-lạc trong khi
nhập-thiền (Jhānasamāpatti) không hề hay biết Đức-Phật Dīpaṅkara đã xuất
hiện trên thế gian.
Một hôm, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy
dân chúng xứ Rammavati đang vui mừng hoan-hỷ sửa sang con đường.
Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan-hỷ như vậy,
Đức-Bồ-tát liền đáp xuống đất đến hỏi những người ấy rằng:
- Này quý bà con! Quý bà con sửa sang con đường này để cho ai đi mà thấy quý
bà con vui mừng hoan-hỷ đến như vậy?
- Kính thưa Ngài đạo-sĩ, Đức-Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi
tam-giới chúng-sinh đã xuất hiện trên thế gian rồi. Chúng tôi đang sửa sang con
đường này để đón rước Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sẽ ngự
qua con đường này.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha:
Đức-Phật” tâm vô cùng hoan-hỷ suy nghĩ rằng:
“Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật
là vô cùng hy-hữu. Ta nên cố gắng thực hành mọi phước-thiện, gieo duyên lành
cúng dường đến Đức-Phật Dīpaṅkara.”
Nghĩ xong, Ngài liền thưa với họ rằng:
- Thưa quý bà con! Quý bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức-Phật
Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh A-ra-hán ngự đến. Vậy, xin quý bà con nhường
cho bần-đạo một đoạn đường để bần-đạo cùng sửa sang đoạn đường, cúng dường đón
rước Đức-Phật Dīpaṅkara cùng chư Thánh A-ra-hán.
Dân chúng biết đạo-sĩ Sumedha có nhiều năng lực thần-thông, nên họ chỉ đoạn
đường bùn lầy khó khăn.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha nghĩ rằng: “Nếu ta sử dụng
phép-thần-thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ nhưng phước-thiện ta được sẽ
không nhiều.
Vậy, ta nên sử dụng sức lực của mình để sửa sang thì chắc chắn ta được
phước-thiện nhiều hơn.”
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha cố gắng tinh-tấn với sức lực của chính mình,
lấy đất từ nơi khác đến san bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay,
khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức-Phật Dīpaṅkara cùng
400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp đến, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha
quyết-định rằng:
“Hôm nay ta xin cúng dường sinh-mạng của ta đến Đức-Phật Dīpaṅkara, bằng
cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại, nguyện lấy tấm thân này làm như một chiếc
cầu, để cúng dường Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi
qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.”
Nguyện ước của Đức-Bồ-tát Sumedha
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha suy tư rằng:
“Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì
chắc chắn ta sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong giáo-pháp của Đức- Phật
Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong
tam-giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng-sinh khác vẫn đang chìm đắm
trong biển khổ trầm luân, chịu cảnh khổ tử sinh luân- hồi. Ta không đành giải
thoát khổ riêng một mình ta.”
Nghĩ như vậy, với tâm đại-bi vô lượng thương xót chúng- sinh nên Đức-Bồ-tát
đạo-sĩ Sumedha phát nguyện rằng:
“Buddho bodheyyaṃ ...” Khi ta tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng
đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác rồi,
khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,
chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra- hán y
theo ta vậy (tự giác rồi giác tha).
“Mutto moceyyaṃ ...” Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng-buộc của
tham-ái, phiền-não, chứng ngộ Niết-bàn rồi, khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng-sinh
cũng giải thoát khỏi mọi sự ràng-buộc của tham-ái, phiền-não, chứng ngộ Niết-bàn
y theo ta vậy (tự độ rồi độ tha).
“Tinno tareyyaṃ ...” Khi ta tự mình vượt qua khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi, đạt
đến Niết-bàn an-lạc rồi, khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng-sinh cũng vượt qua
khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc y theo ta vậy (tự đáo
rồi đáo tha).
Khi ấy, một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā
(1) trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng
dường Đức-Phật Dīpaṅkara, khi nhìn thấy vị đạo-sĩ Sumedha nằm
sấp lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức- tin
trong sạch, kính dâng đến vị đạo-sĩ 5 đóa hoa sen, còn 3 đóa hoa sen để lại cho
mình.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên
trán. Khi ấy, Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh A-ra-hán
ngự đi ngang qua bằng phép-thần-thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha, cho nên, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha vẫn an
toàn.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha được thọ ký
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên chỉ thọ ký cho Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác nào hội đủ 8 chi-pháp:
1- Loài người thật (không phải Long-vương hoặc thiên-nam hóa thành người).
2- Người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).
3- Kiếp hiện-tại có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật có thể chứng đắc 4 Thánh-đạo,
4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
4- Trực tiếp đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
5- Bậc xuất-gia đạo-sĩ có chánh-kiến về nghiệp.
6- Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc
ngũ thông tam-giới.
7- Quyết định cúng dường sinh-mạng đến Đức-Phật.
8- Ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng quyết tâm trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha hội đủ 8 chi-pháp trên, nên
Đức-Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức-Bồ-tát
đạo-sĩ Sumedha, với Phật-nhãn vị-lai-kiến- minh (anāgataṃsañāṇa)
thấy rõ, biết rõ trong thời vị-lai ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha sẽ thành tựu hay
không.
Với Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ ý nguyện của Đức-Bồ- tát
Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha chắc chắn sẽ thành tựu, nên Đức-Phật
Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:
“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa,
vị Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có
danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”
Đức-Phật Dīpaṅkara là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký
cho Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo- sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.
Từ đó, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha đương nhiên trở thành
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cố-định chắc chắn sẽ trở
thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama
trong thời vị-lai.
Khi lắng nghe Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại như
vậy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha phát sinh đại-thiện-tâm
vô cùng hoan-hỷ, đồng thời tất cả nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên đồng
hoan-hỷ chắp tay cung kính lễ bái Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha, tán dương
ca tụng rằng:
“Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
trong thời vị-lai.”
Đức-Bồ-tát Sumedha có tâm đại-bi
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama biết rõ rằng:
Hễ còn tái-sinh là còn có khổ mà thôi, chúng-sinh tái- sinh trong 3 giới 4
loài đều phải chịu khổ, không có sự an-lạc thật sự, mà chỉ có khổ là sự-thật
chân-lý mà thôi.
Kiếp Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha làm đoạn đường cúng dường đón rước
Đức-Phật Dīpaṅkara, ngay kiếp ấy, nếu Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha
thay đổi ý nguyện không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà chỉ
muốn trở thành bậc Thánh Thanh-văn-giác thì ngay kiếp ấy,
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,
chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái,
mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán cùng với tứ
tuệ-phân-tích, lục thông trong giáo-pháp của Đức-Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ
tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha có tâm đại-bi (mahākaruṇā) đối với
chúng-sinh còn đang đắm chìm trong biển khổ trầm luân, đang chịu mọi cảnh khổ tử
sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha không
đành giải thoát khổ tử sinh luân-hồi cho riêng mình, nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ
Sumedha vẫn giữ ý nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ trầm luân,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha chấp nhận chịu đựng kéo dài thêm vô số
kiếp khổ tử sinh luân-hồi trong khoảng thời gian dài 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn
đại-kiếp trái đất nữa, để tiếp tục thực hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30
pháp-hạnh ba-la-mật, hầu mong trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác,
để thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh
luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Vậy nhóm chúng-sinh ấy là ai?
Trong nhóm chúng-sinh ấy có mỗi người chúng ta phải vậy không?
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha trong thời quá-khứ, nay kiếp
hiện-tại chính là Đức-Phật Gotama trong thời đại của
chúng ta.
Thời gian hoàn thành 30 pháp-hạnh ba-la-mật
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsam- bodhisatta) có trí-tuệ siêu-việt (paññādhika)
nghĩa là Đức- Bồ-tát có trí-tuệ có nhiều năng
lực hơn đức-tin và tinh- tấn. Cho nên, thời gian còn lại để hoàn thành
đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10
pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, kể từ
khi Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký đầu tiên cho đến Đức-Phật Kassapa thứ
24 thọ ký cuối cùng là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Đức-Bồ-tát có trí-tuệ siêu-việt, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, tiếp
tục thực hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho đến kiếp
chót là kiếp Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha đã trải qua 3 thời-kỳ:
thời-kỳ đầu có 7 a-tăng-kỳ, thời-kỳ giữa có 9 a-tăng-kỳ, thời-kỳ cuối có 4
a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất gồm có 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp
trái đất, đó là khoảng thời gian bằng nửa (½) thời gian của Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt và bằng một phần tư (¼) thời gian của
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt thực hành bồi bổ cho
đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, để trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.
Như vậy, chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt, hoặc có
đức-tin siêu-việt, hoặc có tinh-tấn siêu-việt, mỗi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
thực hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, tuy có thời gian mau
hoặc lâu khác nhau, nhưng đều có chung mục đích trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi
biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Pháp-hạnh ba-la-mật có cứu cánh Niết-bàn
Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-giác, chư Đức-Bồ-tát Độc-giác, chư vị Bồ-tát
thanh-văn-giác thực hành đầy đủ trọn vẹn các pháp-hạnh ba-la-mật của mình
đều có cứu cánh Niết-bàn.
- Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
hoàn thành xong mọi phận sự, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
- Chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác trở thành Đức-Phật Độc- Giác, đến
khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong
tam-giới.
- Chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác trở thành bậc Thánh A-ra-hán
hoàn thành xong mọi phận sự, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Chư Đức-Bồ-tát thực hành các pháp-hạnh ba-la- mật có cứu cánh Niết-bàn
là nương nhờ nơi các đại- thiện-nghiệp ấy được lưu trữ ở
trong tâm mỗi kiếp, được tích lũy từ kiếp này sang kiếp kia trong
vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài làm duyên dẫn đến chứng ngộ
Niết-bàn.
Mỗi kiếp của chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, chư Đức-Bồ-tát Độc-giác, chư vị
Bồ-tát thanh-văn-giác dù cho thân của mỗi kiếp bị
thay đổi theo năng lực quả của nghiệp, còn tâm vẫn
sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, tâm có phận sự
tích lũy và lưu trữ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, không hề bị mất mát một
mảy may nào cả, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, trên
con đường thẳng có cứu cánh Niết-bàn.
Cho nên, chư Đức-Bồ-tát ấy tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài từ vô thủy
đến hữu chung, kiếp chót trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Còn các hàng chúng-sinh nào đã tạo mọi thiện-nghiệp mà không có mục đích cứu
cánh Niết-bàn, thì thiện- nghiệp ấy cũng được tích lũy và lưu trữ ở trong
tâm của họ, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới
bốn loài, trên con đường vòng tròn, trải qua vô số
kiếp từ vô thủy đến vô chung không có kiếp chót, không
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
Mỗi chúng-sinh liên quan từ kiếp này qua kiếp kia, từ vô thủy trải qua vô số
kiếp quá-khứ đến kiếp hiện-tại hoàn toàn không liên quan với thân
(sắc-uẩn) của mỗi kiếp chúng-sinh, mà sự thật, chỉ liên quan với
tâm (4 danh-uẩn) của mỗi kiếp chúng-sinh với nhau mà thôi,
bởi vì mỗi tâm sinh rồi diệt liên tục có phận
sự lưu trữ, tích lũy đầy đủ tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp từ vô
thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện- tại, không hề mất mát một
mảy may nào cả. Ví dụ:
Kiếp chót Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sẽ trở thành
Đức-Phật Gotama, đó là quả của 30 pháp-hạnh
ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn gọi là đại-thiện-nghiệp ba-la-mật mà vô
số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo trong khoảng thời gian suốt 20
a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
Kiếp chót Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha đản-sinh vào ngày rằm tháng tư
(âm-lịch) tại khu vườn Lumbinī, Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha có đầy đủ
32 tướng tốt của bậc-đại-nhân, 80 tướng tốt phụ, đó là quả của 30
đại-thiện-nghiệp ba-la-mật.
Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Gotama
vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại khu rừng Uruvelā (nay gọi là Buddhagayā,
nước Ấn-độ) lúc 35 tuổi, đó là quả của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát.
Thực hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật
Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiếp tục thực hành 30
pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, trong khoảng thời gian còn
lại suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.
- Pháp-hạnh ba-la-mật nghĩa là gì?
- Thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bằng cách nào?
Ba-la-mật là dịch âm từ Pāḷi: Pāramī.
Pāramī có rất nhiều nghĩa, nghĩa chính yếu là
pháp-duyên hỗ trợ dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn cao thượng.
Thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bằng cách nào?
Để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc nào, Đức-Bồ- tát cần phải có
đại-thiện-tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não nhất là
tham-ái (taṇhā), ngã-mạn (māna),
tà-kiến (diṭṭhi) đồng thời hợp với tâm đại-bi
(mahākaruṇā) và trí-tuệ hướng đến chứng ngộ Niết-bàn
(upāyakosallañāṇā).
* Nếu hội đầy đủ các điều kiện như vậy thì Đức-Bồ- tát thành tựu
pháp-hạnh ba-la-mật bậc ấy.
* Nếu không hội đầy đủ các điều kiện như vậy thì không thành tựu
pháp-hạnh ba-la-mật bậc ấy, mà chỉ là đại-thiện-nghiệp
thông thường mà thôi, không phải là pháp-duyên hỗ trợ dẫn đến
sự chứng ngộ Niết-bàn cao thượng.
Pháp-hạnh ba-la-mật có 10 pháp:
1- Bố-thí ba-la-mật (Dānapāramī).
2- Giữ-giới ba-la-mật (Sīlapāramī).
3- Xuất-gia ba-la-mật (Nekkhammapāramī).
4- Trí-tuệ ba-la-mật (Paññāpāramī).
5- Tinh-tấn ba-la-mật (Vīriyapāramī).
6- Nhẫn-nại ba-la-mật (Khantipāramī).
7- Chân-thật ba-la-mật (Saccapāramī).
8- Phát-nguyện ba-la-mật (Adhiṭṭhānapāramī).
9- Tâm-từ ba-la-mật (Mettāpāramī).
10- Tâm-xả ba-la-mật (Upekkhāpāramī).
Mỗi pháp-hạnh ba-la-mật có ba bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:
- Bố-thí ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Giữ-giới ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Xuất-gia ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Tinh-tấn ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Chân-thật ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Phát-nguyện ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Tâm-từ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
- Tâm-xả ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
Như vậy, 10 pháp-hạnh ba-la-mật trở thành 30 pháp- hạnh ba-la-mật:
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ (pāramī).
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī).
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramattha- pāramī).
Muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
cần phải thực hành 30 pháp- hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, mới có thể
trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Cho nên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần
phải thực hành 30 pháp-hạnh ba- la-mật như sau:
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ (Pāramī)
Khi thực hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ nào, Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh những gì thuộc về bên ngoài
thân mình như của cải, tài sản, ngôi báu, thậm chí cả vợ, con nữa để thành tựu
pháp-hạnh ba-la-mật ấy.
Ví dụ: Tích Đức-vua Bồ-tát Vessantara là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực
hành pháp-hạnh bố-thí ba- la-mật, hạnh đại-thí hoàng-tử Jāli và công-chúa Kaṇhā
yêu quý nhất đến cho ông bà-la-môn Jūjaka.
Đức-vua Bồ-tát Vessantara cũng thực hành pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, hạnh
đại-thí vợ yêu quý là Chánh-cung Hoàng-hậu Maddī yêu quý đến cho ông bà-la-môn.
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung (Upapāramī)
Khi thực hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh những bộ phận nào trong thân
thể để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung ấy.
Ví dụ: Tích Đức-vua Bồ-tát Sivi là tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama thực hành
pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc trung, bố-thí 2 con mắt bên phải và bên trái đến
cho vị bà-la-môn già mù đôi mắt.
- 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng (Paramattha- pāramī)
Khi thực hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh sinh-mạng của mình, để thành
tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy (2).
Ví dụ: Tích Đức-Bồ-tát thỏ thiện-trí Sasapaṇḍita thực hành pháp-hạnh bố-thí
ba-la-mật bậc thượng, nên Đức- Bồ-tát thỏ nhảy lên đống lửa thiêu chín làm món
ăn để bố-thí đến vị bà-la-môn khất thực.
Những kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama
thực hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn trong suốt thời gian 4
a- tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để trở thành Đức- Phật
Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Có nhiều kiếp Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực hành bồi bổ các
pháp-hạnh ba-la-mật ở cõi người. Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết ở cõi người, dục-
giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới,
nhưng để sớm hoàn thành 30 pháp-hạnh ba-la-mật, nên Đức-Bồ-tát thiên-nam
không muốn hưởng sự an-lạc ở cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà Đức-Bồ-tát
thiên-nam nguyện từ bỏ kiếp thiên-nam ở cõi trời ấy (chết),
đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người-nam trong cõi người, để thuận lợi
cho việc thực hành các pháp-hạnh ba-la-mật, bởi vì cõi người trong cõi
Nam-thiện-bộ-châu này rất đặc biệt hơn các cõi khác trong tam-giới:
* Thuận lợi cho việc thực hành phạm-hạnh cao thượng.
* Thuận lợi cho việc thực hành mọi thiện-pháp: dục- giới thiện-pháp, sắc-giới
thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện- pháp và đặc biệt siêu-tam-giới thiện-pháp.
* Thuận lợi cho việc thực hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật.
* Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Chư Phật Độc-Giác, chư Thánh Tối-thượng
thanh-văn-giác, chư Thánh Đại- thanh-văn-giác đều thành-tựu tại cõi người này.
Những kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, tiền-kiếp của
Đức-Phật Gotama, bổ sung cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật trong
suốt 4 a- tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp, được 24 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
thọ ký, xác định thời gian còn lại, bắt đầu từ Đức-Phật Dīpaṅkara thứ
nhất cho đến Đức-Phật Kassapa thứ 24 cuối cùng, trải qua vô số kiếp
không sao kể xiết được.
Đến kiếp gần kiếp áp chót là Đức-vua Bồ-Tát Vessantara thực hành bồi bổ
thêm cho đầy đủ pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật: bố-thí voi báu, bố-thí hoàng-tử
Jāli, công-chúa Kaṇhā, bố-thí Chánh-cung Hoàng-hậu Maddī, v.v…
Sau khi Đức-vua Bồ-tát Vessantara băng hà, dục-giới thiện-nghiệp
cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam tên Setaketu trên cõi trời Tusita
(Đâu-suất-đà-thiên), cõi trời thứ 4 trong 6 cõi trời dục-giới, hưởng sự an-lạc
trong cõi trời ấy.
(1)
Nữ Bà-la-môn Sumittā chính là
tiền-kiếp của Công-chúa Yasodharā.
(2) Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo,
Quyển VI, VII,
VIII Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10