NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
ĐỨC-PHÁP
(DHAMMA)
PHẬT-GIÁO
(BUDDHASĀSANA)
Phật-giáo là lời giáo huấn của
Đức-Phật, từ khi trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác
có danh hiệu là
Đức- Phật Gotama vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại cội
Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, khi Đức-Phật Gotama tròn đúng 35 tuổi, cho đến
ngày rằm tháng tư (âm-lịch) trước khi
Đức-Phật Gotama
tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, Đức-Phật tròn đúng 80 tuổi.
Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45
năm. Tất cả lời giáo huấn của Đức-Phật gọi là Phật- giáo. Phật-giáo có 3 phần
chính:
1- Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana).
2- Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipattisāsana).
3- Pháp-thành Phật-giáo (Paṭivedhasāsana).
Các hàng thanh-văn đệ-tử học
pháp-học Phật-giáo hiểu
biết đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp-hành Phật-giáo, khi hành-giả thực
hành pháp-hành Phật-giáo đúng đắn dẫn đến chứng đắc
pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và
Niết-bàn, gọi là 9 pháp- siêu-tam-giới (Navalokuttaradhamma).
Pháp-Học Phật-Giáo (Pariyattisāsana)
Pháp-học Phật-giáo là gì?
Trong Chú-giải Chi-bộ-kinh định nghĩa:
“Pariyattī’ti tepiṭakaṃ Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi.”
(1)
Pháp-học Phật-giáo là Phật-ngôn Tam-tạng Pāḷi cùng Chú-giải
Pāḷi.
Tiếng Pāḷi là ngôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức-Phật
hiện-tại và Chư Phật vị-lai.
Pāḷibhāsā vốn là ngôn ngữ của người dân Magadha mà
Đức-Phật sử dụng làm ngôn ngữ thuyết-pháp tế độ chúng-sinh, để hiểu biết
pháp-học chánh-pháp (pariyatti saddhamma), rồi thực hành pháp-hành chánh-pháp
(paṭipatti saddhamma) dẫn đến chứng đắc pháp-thành chánh-pháp (paṭivedha
saddhamma) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, ngôn ngữ này gọi là ngôn ngữ Pāḷibhāsā.
Pháp-học Phật-giáo gồm tất cả những lời giáo huấn,
những điều chế định của Đức-Phật trong suốt 45 năm kể từ khi trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cho đến trước khi Đức-Phật
Gotama tịch diệt Niết-bàn, được ghi chép đầy đủ trọn vẹn trong
Tam-tạng Pāḷi
(Tipiṭakapāḷi) và
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi).
Trong
Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) không chỉ có những lời giáo huấn của
Đức-Phật, mà còn có những lời của các hàng thanh-văn đệ-tử, chư-thiên, chư phạm-
thiên, … được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như là Phật-giáo.
Và
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) là lời giảng giải
những pháp khó hiểu trong Tam-tạng Pāḷi, khi thì Đức- Phật giảng giải rải rác
gọi là pakiṇṇakadesanā: Đức- Phật thuyết giảng, giải thích rõ mỗi điều
riêng rẽ trong Tam-tạng Pāḷi, khi thì chư Thánh A-ra-hán giảng giải.
Những lời giảng giải ấy được gom lại gọi là bộ
Chú- giải Pāḷi
(Aṭṭhakathāpāḷi).
Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi
(Aṭṭhakathāpāḷi) thuộc về Pháp-học Phật-giáo.
Pháp-học là nền tảng căn bản của Phật-giáo, nếu không
có pháp-học Phật-giáo thì chắc chắn không có pháp-hành Phật-giáo và pháp-thành
Phật-giáo, không có giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Nếu có pháp-học Phật-giáo đúng đắn thì dẫn đến phần thực hành pháp-hành
Phật-giáo đúng đắn.
Nếu có thực hành pháp-hành Phật-giáo đúng đắn thì có quả là pháp-thành
Phật-giáo, đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
Pháp vị-giải-thoát (Vimuttirasa)
Phật-giáo có một vị duy nhất là
vị giải thoát
như Đức-
Phật đã dạy:
Seyyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda,
yaṃ dhamma- vinayo ekaraso vimuttiraso.
Ayampi Pahārāda, yaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso ...(2)
- Này Pahārāda! Đại-dương chỉ có một vị duy nhất là “vị mặn”.
- Này Pahārāda! Cũng như vậy, Pháp và Luật này chỉ có một vị duy nhất là
“vị-giải-thoát”.
- Này Pahārāda! Pháp và Luật này chỉ có một vị duy nhất là “vị-giải-thoát”.
Phân loại toàn giáo-pháp của Đức-Phật
Phật-ngôn (Buddhavacana)
Toàn giáo pháp của Đức-Phật, Phật-ngôn chia ra làm ba thời-kỳ:
- Phật-ngôn đầu tiên (Paṭhama Buddhavacana).
- Phật-ngôn thời-kỳ giữa (Majjhima Buddhavacana).
- Phật-ngôn cuối cùng (Pacchima Buddhavacana).
* Phật-ngôn đầu tiên là gì?
Đức-Bồ-tát Siddhattha khi trở thành Đức-Phật-
Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại cội Đại-Bồ-đề trong khu
rừng Uruvelā, vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch), Đức-Phật Gotama tròn 35 tuổi.
Đức- Phật an hưởng vị-giải-thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày.
Khi ấy, Đức-Thế-Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm:
153- Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ. Gahakāraṃ gavesanto,
dukkhājāti punappunaṃ.
154- Gahakāraka! diṭṭho’si, puna gehaṃ na kāhasi. Sabbā te phāsukā bhaggā,
gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ. Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā.(3)
153- Này tham-ái! Người thợ xây nhà “thân”,
Như-Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp.
Nên tử sinh luân-hồi vô số kiếp,
Tái-sinh mãi trong tam-giới là khổ.
154- Này tham-ái! Người thợ xây nhà “thân”,
Bây giờ Như-Lai đã gặp ngươi rồi!
Tất cả sườn nhà, “phiền-não” của ngươi,
Như-Lai đã hủy hoại sạch cả rồi.
Đỉnh nhà “vô minh” cũng bị tiêu diệt,
Ngươi không còn xây nhà Như-Lai nữa.
Tâm Như-Lai đã chứng ngộ Niết-bàn,
Diệt tận tất cả mọi tham-ái,(4)
Như-Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai bài kệ này, Đức-Phật Gotama tự thuyết ở trong tâm tại cội Đại-Bồ-đề là
Phật-ngôn đầu tiên của Đức- Phật (Paṭhama Buddhavacana).
* Phật-ngôn cuối cùng là gì?
Đức-Phật Gotama du hành thuyết pháp tế độ cho
chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, khắp mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời
dục-giới, cõi trời sắc-giới (không có cõi trời vô-sắc-giới, bởi vì chư
phạm-thiên cõi này không có sắc-uẩn nên không có lỗ tai để lắng nghe
chánh-pháp), suốt 45 năm ròng rã ngày đêm.
Đến ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức-Phật Gotama ngự đến khu rừng Kusinārā, tịch
diệt Niết-bàn. Đức- Phật Gotama tròn 80 tuổi.
Trước giờ tịch diệt Niết-bàn, vào canh chót, Đức-Phật Gotama nhắc nhở khuyên dạy
các hàng đệ tử đứng đầu là tỳ-khưu rằng:
“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo. Vayadhammā saṅkhārā, appamādena
sampādetha.”(5)
- Này chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ!
Bây giờ Như-Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng rằng:
“Tất cả các pháp-hữu-vi có trạng-thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng
tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi
(chánh-niệm), thực hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.”
Đó là Phật-ngôn cuối cùng của Đức-Phật (Pacchima Buddhavacana).
Thật vậy, Đức-Phật khuyên dạy chấm dứt câu chót: “appamādena sampādetha.”
Từ đó, Đức-Phật không còn dạy một lời nào nữa.
Đức-Phật nhập các bậc thiền sắc-giới và các bậc thiền vô-sắc-giới thuận và
nghịch, rồi cuối cùng Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, gọi là
Ngũ-uẩn Niết-bàn (khandhaparinibbāna)
diệt ngũ-uẩn rồi, không còn
tái-sinh kiếp nào nữa, hoàn toàn giải thoát khỏi khổ sinh là giải thoát mọi cảnh
khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Phật-ngôn thời-kỳ giữa là gì?
Ngoại trừ hai câu kệ Phật-ngôn đầu tiên và câu kệ Phật-ngôn cuối cùng của
Đức-Phật ra, còn lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức-Phật trong
suốt 45 năm là Phật-ngôn thời-kỳ giữa của Đức-Phật (Majjhima Buddhavacana).
Pháp và Luật (Dhammavinaya)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật phân ra làm hai loại:
*
Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Vi-Diệu-Pháp
Pāḷi.
*
Luật (Vinaya) là Tạng Luật Pāḷi.
Trong bài kinh
Mahāparinibbānasutta: Đại-Niết-bàn, trước khi tịch diệt
Niết-bàn, Đức-Phật dạy Ngài Trưởng- lão Ānanda rằng:
“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena
satthā.” (6)
- Này Ānanda! Pháp mà Như-Lai đã thuyết, Luật mà Như-Lai đã chế định, sau khi
Như-Lai đã tịch diệt Niết- bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Đức Tôn-Sư của các con.
Theo Chú-giải kinh Đại-Niết-bàn ấy giảng giải rằng:
*
Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh Pāḷi và Tạng
Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.
*
Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật Pāḷi.
Tīṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasīti dhammakkhandhasahassāni.
Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam-Tạng Pāḷi, Ngũ-bộ Pāḷi, Cửu-phần Pāḷi,
84.000 Pháp-môn Pāḷi.
- Tạng Luật Pāḷi : gồm có 21.000 pháp-môn.
- Tạng Kinh Pāḷi : gồm có 21.000 pháp-môn.
- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi:
gồm có 42.000 pháp-môn.
Đức-Phật còn giảng giải rằng:
“Iti imāni caturāsiti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova
parinibbāyāmi. Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni
caturāsiti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti.”
(7)
(Như vậy, 84.000 Pháp-môn này tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt
Niết-bàn. Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy
dỗ các con. Sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì có 84.000 pháp môn ấy là
“Đức Tôn Sư” sẽ giáo huấn các
con, theo dạy dỗ các con.)
Trên đây là đoạn Chú-giải mà chính Đức-Phật đã giảng giải, chỉ dạy cho các hàng
thanh-văn đệ-tử nên hiểu biết rõ rằng:
“Sau khi Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn rồi, không phải không còn
Đức Tôn-Sư, mà khi ấy, 84.000 pháp- môn chính là
Đức Tôn-Sư
sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng thanh-văn đệ-tử.”
Tam-Tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo tạng thì có ba tạng:
I- Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi).
II- Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi).
III- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi).
I- Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi)
Tạng Luật Pāḷi gồm những lời răn dạy của Đức-Phật. Đức-Phật đã ban hành những
điều-giới tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni, những pháp-hành tăng-sự, những điều cho phép và
những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm,
v.v...
Tạng Luật Pāḷi
có 5 Bộ:
I.1- Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều-giới:
- 4 điều-giới
Pārājika.
- 13 điều-giới
Saṃghādisesa.
- 2 điều-giới
Aniyata.
- 30 điều-giới
Nissaggiya pācittiya, …
I.2- Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều-giới:
- 92 điều-giới
Suddha pācittiya.
- 4 điều-giới
Pāṭīdesanīya.
- 75 điều-giới
Sekhiya.
- 7 điều
Adhikaraṇasamatha.
- Những điều-giới của tỳ-khưu ni.
I.3- Bộ Mahāvaggapāḷi
(Tạng Luật)
Trong bộ luật Mahāvagga Pāḷi này, Đức-Phật thuyết
giảng về chuyện chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, thuyết pháp kinh
Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, Đức-Phật ban hành phép xuất-gia
thọ sadi, tỳ-khưu, v.v...
I.4- Bộ Cūḷavaggapāḷi
Trong bộ luật Cūḷavagga Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều pháp-hành tăng-sự đến
chư tỳ-khưu. Bộ này, lần đầu tiên Đức-Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất
gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật, cùng với 500 cận-sự-nữ
dòng Sakya cùng xuất gia thọ tỳ-khưu-ni, v.v...
I.5- Bộ Parivārapāḷi
Trong bộ luật Parivāra Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới
và nhiều vấn đề khác, ...
Đó là 5 bộ trong Tạng Luật Pāḷi mà chỉ có Đức-Phật duy nhất chế định và ban hành
đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, … mà thôi. Còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không
có khả năng chế định ra điều-giới và các pháp- hành tăng-sự, ... Các điều-giới,
các pháp-hành tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định và đã ban hành rồi, các hàng
thanh-văn đệ-tử cần phải nên nghiêm chỉnh hành theo mà không được phép sửa đổi,
thêm hoặc bớt điều nào cả.
Tạng Luật Pāḷi có ba đặc tính đặc biệt
- Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
- Đức-Phật giáo-huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana).
- Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).
1- Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?
Đức-Phật đã chế định ra điều-giới, các pháp-hành tăng-sự, điều cho phép và không
cho phép, việc nên làm và không nên làm, ... đến chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni.
Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức-Phật
đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm điều nào
thì vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều- giới ấy.
Đức-Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng- luật, còn các hàng Thánh
thanh-văn đệ-tử không được phép chế định một điều nào cả.
2- Đức-Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào?
Khi nào tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc
chư-thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư tỳ-khưu-tăng. Khi ấy,
Đức- Phật mới chế định điều-giới, ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, để đem
lại 10 điều lợi ích như sau:
2.1- Saṃghasuṭṭhutāya:
Để đem lại sự tốt lành cho tỳ- khưu-Tăng,
tỳ-khưu-ni-Tăng.
2.2- Saṃghaphāsutāya:
Để đem lại sự an lành cho tỳ- khưu-Tăng,
tỳ-khưu-ni-Tăng.
2.3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya:
Để khiển trách tỳ-khưu,
tỳ-khưu-ni phá giới, khó dạy không biết hổ-thẹn tội-lỗi và không biết ghê-sợ
tội-lỗi.
2.4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya:
Để đem lại sự an lành đến
những tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết kính yêu giới.
2.5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya:
Để ngăn ngừa những tai họa
xảy ra trong kiếp hiện-tại.
2.6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya:
Để tránh khỏi tai họa
tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) trong kiếp
vị-lai.
2.7- Appasannānaṃ pasādāya:
Để làm cho phát sinh đức-tin đến những
người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.
2.8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya:
Để làm tăng trưởng thêm đức-tin cho
những người đã có đức-tin nơi Tam-Bảo.
2.9- Saddhammaṭṭhitiyā:
Để làm cho chánh-pháp “pháp-học chánh-pháp,
pháp-hành chánh-pháp, pháp- thành chánh-pháp” được trường tồn lâu dài.
2.10- Vinayānuggahāya:
Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh.
Sau khi có tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên, thì Đức-Phật mới chế định
ra điều-giới. Cho nên, những tỳ-khưu nào, tỳ-khưu-ni nào phạm lỗi đầu tiên,
tỳ-khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy không phải phạm điều-giới ấy.
Đức-Phật chế định điều-giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi
Đức-Phật đã chế định điều- giới nào rồi, ban hành đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nếu
tỳ- khưu nào, tỳ-khưu-ni nào cố ý phạm điều-giới ấy thì tỳ- khưu ấy, tỳ-khưu-ni
ấy đã phạm điều-giới ấy.
3- Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu như
thế nào?
Đức-Phật ban hành điều-giới đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cốt để răn dạy tỳ-khưu,
tỳ-khưu-ni biết giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và
khẩu.
Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn điều-giới được trong sạch, có thể diệt được
phiền-não loại thô (vitikkama-kilesa), để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định,
pháp- hành thiền-tuệ được phát triển.
Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật Pāḷi.
Tỳ-khưu-giới
Đức-Phật chế định, ban hành điều-giới của tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có
227 điều-giới như sau:
1- Pārājika: Giới bại hoại
có 4 điều-giới.
2- Saṃghādisesa: Giới hành phạt
có 13 điều-giới.
3- Aniyata: Giới bất định có 2 điều-giới.
4- Nissaggiya pācittiya: Xả rồi sám hối
có 30 điều-giới nghĩa là
tỳ-khưu phải xả bỏ vật bị phạm giới trước, sau đó mới xin sám hối (pācittiya
āpatti).
5- Suddha pācittiya: Giới sám hối lỗi có 92 điều-giới.
6- Pāṭidesanīya: Giới sám hối riêng rẽ có 4 điều-giới.
7- Sekhiya: Giới hành
có 75 điều-giới.
8- Adhikaraṇasamatha: Pháp giảng hòa có 7 pháp.
Tuy nhiên, trong Tạng Luật Pāḷi gom tất cả mọi điều-giới của tỳ-khưu đầy đủ có
91.805.036.000 điều-giới.
Như trong bộ
Visuddhimagga dạy:
“Navakoṭisahassāni, asitisatakoṭiyo. Paññāsasatasahassāni, chattiṃsa ca
punāpare. Ete saṃvaravinayā, Sambuddhena pakāsitā.
Peyyālamukhena niddiṭṭhā, sikkhā vinayasaṃvare.”(8)
Đức-Phật đã chế định những điều-giới trong Tạng Luật Pāḷi theo cách tính rộng
thì gồm có 91.805.036.000 điều-giới, giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu tránh xa mọi
hành-ác.
Tỳ-khưu-ni giới
Đức-Phật chế định ban hành điều-giới của tỳ-khưu-ni
Bhikkhunipātimokkhasīla
gồm có 311 điều-giới như sau:
1- Pārājika
có 8 điều-giới.
2- Saṃghādisesa
có 17 điều-giới.
3- Nissaggiya pācittiya
có 30 điều-giới.
4- Suddha pācittiya
có 166 điều-giới.
5- Pāṭidesanīya
có 8 điều-giới.
6- Sekhiya có 75 điều-giới.
7- Adhikaraṇasamatha
có 7 pháp.
Tên điều-giới |
Tỳ-khưu-giới |
1- Điều-giới
Pārājika có |
4 điều-giới |
2- Điều-giới
Saṃghādisesa có
|
13 điều-giới |
3- Điều-giới
Aniyata có |
2 điều-giới |
4- Điều-giới
Nissaggiya pācittiya
có |
30 điều-giới |
5- Điều-giới
Suddha pācittiya có |
92 điều-giới |
6- Điều-giới
Pāṭidesanīya có |
4 điều-giới |
7- Điều-giới
Sekhiya có |
75 điều-giới |
8- Điều-giới
Adhikaraṇasamatha có |
7 điều-giới |
|
227 điều-giới |
Tên điều-giới |
Tỳ-khưu-ni giới |
1- Điều-giới
Pārājika có |
8 điều-giới |
2- Điều-giới
Saṃghādisesa có
|
17 điều-giới |
3- Điều-giới
Nissaggiya pācittiya
có |
30 điều-giới |
4- Điều-giới
Suddha pācittiya có |
166 điều-giới |
5- Điều-giới
Pāṭidesanīya có |
8 điều-giới |
6- Điều-giới
Sekhiya có |
75 điều-giới |
7- Điều-giới
Adhikaraṇasamatha có |
7 điều-giới |
|
311 điều-giới |
Phạm giới Āpatti
Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni phạm giới Āpatti có 7 loại
1- Pārājika āpatti: Phạm giới bại hoại. Mất phẩm hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu ni.
2- Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới hành phạt. Xin chư Tăng hình phạt.
3- Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng.
Lỗi kém thua hai giới trên.
4- Pācittiya āpatti: Phạm giới sám hối lỗi.
5- Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới sám hối riêng rẽ.
6- Dukkaṭa āpatti: Phạm giới
hành bậy.
7- Dubbhāsita āpatti: Phạm giới nói bậy.
Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính:
1- Phạm giới āpatti nặng có hai loại
* Pārājika āpatti:
Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới
nặng này thì tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy bị mất phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, họ
phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành sa-di suốt đời).
* Saṃghādisesa āpatti:
Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những
điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni ấy tuy còn phẩm-hạnh tỳ-khưu,
tỳ-khưu-ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức-Phật ban
hành: hành parivāsakamma, hành mānatta- kamma và hành abbhānakamma, để cho giới
của mình được trở lại trong sạch.
2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại
Thullaccaya āpatti, pācittiya āpatti, pāṭidesanīya
āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti.
Nếu tỳ-khưu,
tỳ-khưu-ni nào phạm một trong 5 loại giới này thì tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni ấy có thể
xin sám hối với một vị tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong
sạch.
Quả báu của sự giữ gìn giới
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Đức-Phật thuyết dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni
giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, có được quả báu theo nhân
quả tuần tự như sau:
1- Giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn đem lại lợi ích là giữ gìn cẩn trọng 6 môn
(nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) được thanh-tịnh.
2- Có giữ gìn cẩn trọng 6 môn được thanh-tịnh đem lại lợi ích là tâm không nóng
nảy, tâm mát mẻ.
3- Tâm mát mẻ đem lại lợi ích là có tâm hài lòng hoan-hỷ.
4- Tâm hài lòng hoan-hỷ đem lại lợi ích là pháp-hỷ.
5- Pháp-hỷ đem lại lợi ích
là pháp an-tịnh.
6- Pháp an-tịnh đem lại lợi ích là pháp an-lạc.
7- Pháp an-lạc đem lại lợi ích là pháp thiền-định.
8- Pháp thiền-định đem lại lợi ích là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
thật-tánh của ngũ-uẩn.
9- Trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ- uẩn đem lại lợi ích là
trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn.
10- Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn đem lại lợi ích là diệt tận được tham-ái
bằng 4 Thánh-đạo-tuệ.
11- Diệt tận được tham-ái đem lại lợi ích là giải thoát khổ bằng 4
Thánh-quả-tuệ.
12- Giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ đem lại lợi ích cho trí-tuệ quán-triệt
biết rõ giải thoát khổ rồi.
13- Trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải thoát khổ rồi đem
lại lợi ích là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong
tam-giới.
Hành-giả giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng đem lại nhiều lợi
ích cho mọi thiện-pháp, cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, cho đến
lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi
Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Ngài Trưởng- lão Upāli bạch hỏi
Đức-Thế-Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi. Đức-Phật dạy rằng:
- Này Upāli! Tỳ-khưu học Tạng Luật Pāḷi có được 5 quả báu là:
1- Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
2- Mình là nơi nương nhờ
của những người khác, họ
đến học hỏi để hiểu rõ giới luật.
3- Người có thiện-tâm dũng cảm trong các hội chúng.
4- Người thắng kẻ thù bên
trong là phiền-não và kẻ
thù bên ngoài bằng chánh-pháp.
5- Người hành theo chánh-pháp để duy trì chánh-pháp
được trường tồn.
Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật Pāḷi.
II- Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi)
Tạng Kinh Pāḷi
là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ mà Đức-Phật đã thuyết
giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ có lời của chư Thánh A-ra-hán, chư-thiên,
chư phạm-thiên, Đức-vua, Sa-môn, Bà-la-môn, … trong các
bài kinh ấy. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì
xem như lời dạy của Đức-Phật.
Tạng Kinh Pāḷi
gồm có 5 bộ lớn:
II.1- Trường-Bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi):
gồm có những bài kinh dài.
II.2- Trung-Bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi):
gồm có những bài kinh loại trung.
II.3- Đồng-Loại Bộ-kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi):
gồm những bài kinh có điểm giống gom thành nhóm.
II.4- Chi-Bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi):
gồm những bài kinh có chi-pháp rõ
ràng.
II.5- Tiểu-Bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi):
gồm những bài kinh, bài kệ không
có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu-Bộ-kinh này.
Tạng Kinh Pāḷi
có ba đặc tính đặc biệt
- Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
- Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh (yathānulomasāsana).
- Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt được tà-kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
1- Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?
Đức-Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh gồm có nhiều hạng chúng-sinh khác
nhau như tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ, Vua chúa, Bà-la-môn, dân
chúng, cho đến chư-thiên, chư phạm-thiên, v.v...
Mỗi khi chúng-sinh lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp,
họ đều hiểu rõ ràng chánh-pháp, bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng
của mỗi chúng-sinh.
Vì vậy, sau khi nghe pháp xong, có số trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, có số trở
thành bậc Thánh Nhất-lai, có số trở thành bậc Thánh Bất-lai, có số trở thành bậc
Thánh A-ra-hán, tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín
pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi
chúng-sinh.
Cũng có số chúng-sinh chưa trở thành bậc Thánh- nhân, họ đang tạo duyên lành,
bồi bổ các pháp-hạnh ba- la-mật để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong thời
vị-lai kiếp này, hoặc kiếp sau.
2- Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh như thế nào?
Đức-Phật có hai loại trí-tuệ đặc biệt là:
- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ biết rõ 5 pháp- chủ già dặn hoặc non nớt của
mỗi chúng-sinh.
- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ biết rõ phiền-não trầm luân ngấm ngầm của mỗi
chúng-sinh.
Cho nên, Đức-Phật biết rõ được chúng-sinh có duyên lành chứng đắc
Thánh-đạo,
Thánh-quả, Niết-bàn, hoặc không chứng đắc, nên Đức-Phật thuyết pháp tế độ phù
hợp với duyên lành của chúng-sinh ấy.
Khi chúng-sinh ấy lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật dễ dàng chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền- não,
tham-ái, trở thành bậc Thánh-nhân.
Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, biết chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh
của bệnh nhân, liền bốc thuốc tốt nên bệnh nhân mau lành bệnh.
3- Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt tà-kiến như thế nào?
Đức-Phật biết rõ mỗi chúng-sinh có tà-kiến khác nhau (trong 62 loại tà-kiến),
nên Đức-Phật thuyết dạy chúng- sinh ấy phát sinh chánh-kiến, nên diệt được
tà-kiến theo chấp ngã, các loại tà-kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng
đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân một cách dễ dàng.
Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
III- Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi)
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm những chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) cao siêu, vi
diệu, là những pháp có thật-tánh rõ ràng như: thiện-pháp (kusaladhamma),
bất-thiện-pháp (akusaladhamma), không phải thiện- pháp, không phải bất-thiện
pháp (abyākatadhamma), …
Những pháp ấy được phân chia ra là ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự tánh, ... tâm (citta),
tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa), Niết-bàn (Nibbāna), thuộc về chân-nghĩa-pháp
(paramatthadhamma) không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không
phải đàn bà, không phải chúng-sinh, … chỉ là những thật-tánh-pháp mà thôi.
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được Đức-Phật thuyết tại cung trời Tam-thập-Tam-thiên vào
mùa hạ thứ 7 của Đức- Phật, để tế độ Phật-mẫu mà kiếp hiện-tại là vị thiên-nam
Santussita ở cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Vị thiên-nam Santussita hiện xuống cung
trời Tam-thập-Tam-thiên lắng nghe Đức-Phật thuyết Tạng Vi-diệu-pháp này suốt
ba tháng hạ (9). Vị thiên-nam Santussita trở thành bậc Thánh Nhập-lưu cùng với
800 tỷ chư-thiên, chư phạm- thiên cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn
cao thấp tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín
pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị.
Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập-Tam-thiên,
mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng, còn Đức-Phật
thật ngự đi khất thực nơi Bắc-cưu-lưu-châu, rồi ngự đến hồ nước Anotatta tại
rừng núi Himavanta, Đức-Phật thọ thực. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta mỗi
ngày đến hầu phục vụ Đức-Phật. Sau khi thọ thực xong, Đức- Phật thuyết giảng lại
Vi-diệu-pháp tóm lược ngày hôm ấy cho Ngài Đại-Trưởng-lão.
Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng Tạng
Vi-diệu-pháp.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về dạy lại bằng cách khai triển đầy đủ cho
nhóm 500 đệ-tử của Ngài.
Như vậy, suốt ba tháng hạ mùa mưa, Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi
trên cung trời Tam-thập- Tam-thiên, thì tại cõi người, Ngài Đại-Trưởng-lão
Sāriputta cũng giảng dạy lại cho nhóm 500 đệ-tử thông thuộc, thấu suốt Tạng
Vi-diệu-pháp Pāḷi. Về sau Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi được lưu truyền rộng rãi đến
các hàng thanh-văn đệ-tử cho đến ngày nay.
Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 7 bộ
III.1- Bộ Dhammasaṅgaṇīpāḷi:
Bộ Pháp-hội-tụ
gồm
tất cả các chân-nghĩa-pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā
chia làm hai loại:
- Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi-pháp gồm có 32 mātikā. Duka mātikā: Pháp
đầu đề có hai chi-pháp gồm có 100 mātikā, …
III.2- Bộ Vibhaṅgapāḷi:
Bộ Pháp-phân-tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại,
uẩn (khandha), xứ (āyatana), tự tánh (dhātu), v.v…
III.3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại
gồm các pháp phân loại thành ngũ-uẩn
(khandha), 12 xứ (āyatana), 18 tự-tánh (dhātu), tứ đế (sacca)…
III.4- Bộ Puggalapaññattipāḷi:
Bộ Pháp-nhân-chế-định
phân biệt các hạng người khác nhau.
III.5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề đặt vấn
đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh-pháp.
III.6- Bộ Yamakapāḷi:
Bộ Pháp-song-đối
gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với
nhau từng cặp.
III.7- Bộ Paṭṭhānapāḷi:
Bộ Pháp-duyên-hệ
giải về 24 duyên (paccaya) có quan hệ
với nhau.
Bộ Pháp-duyên-hệ
này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi-diệu nhất trong
Phật-giáo.
Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi có ba đặc tính đặc biệt
- Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp (Paramatthadesanā).
- Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến
chấp-ngã (yathādhamma- sāsana).
- Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp
(nāmarūpaparicchedakathā).
1- Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp như thế nào?
Đức-Phật chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não
không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Đức-Phật thông hiểu thấu suốt tất cả các chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) đó
là tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa) và Niết-bàn (Nibbāna).
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có Ñeyyadhamma
(10) đầy đủ năm pháp đặc biệt, nên
Đức-Phật có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết giảng chân-nghĩa-pháp,
thuyết dạy Tạng Vi-diệu-pháp này.
Ngoài Đức-Phật ra, không có một vị đạo-sư nào có khả năng thuyết giảng
chân-nghĩa-pháp này, bởi vì họ không phải là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
2- Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến
chấp-ngã như thế nào?
Đức-Phật biết rõ tà-kiến theo chấp ngã của chúng- sinh khác nhau như:
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp
sắc-pháp cho là ta (ngã).
Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp
ngũ-uẩn (pañcakkhandha) là pháp vô-ngã (anattā), bởi
vì trong ngũ-uẩn có 4 danh-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về
danh-pháp tam-giới là pháp vô-ngã (anattā), còn một sắc-uẩn thuộc về sắc- pháp
cũng là pháp vô-ngã.
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp sắc-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp
danh-pháp tam-giới cho là ta.
Để tế độ nhóm chúng-sinh này, Đức-Phật thuyết pháp 12 xứ (12 āyatana) là pháp
vô-ngã (anattā), bởi vì trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ,
thân- xứ, và sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ thuộc về sắc-pháp là pháp
vô-ngã (anattā). Còn lại ý-xứ thuộc về danh-pháp và phần pháp-xứ thuộc về
sắc-pháp, danh-pháp cũng là pháp vô-ngã.
* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp và sắc-pháp tương đương cho là ta
(ngã).
Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp
18 tự-tánh
(11)
(18 dhātu) là
pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong
18 tự-tánh, có 10 tự-tánh: nhãn-tự-tánh,
nhĩ-tự- tánh, tỷ-tự-tánh, thiệt-tự-tánh, thân-tự-tánh, và sắc-tự- tánh,
thanh-tự-tánh, hương-tự-tánh, vị-tự-tánh, xúc-tự- tánh thuộc về sắc-pháp là pháp
vô-ngã (anattā). Còn lại
7 tự-tánh khác: nhãn-thức-tự-tánh, nhĩ-thức-tự-tánh, tỷ- thức-tự-tánh,
thiệt-thức-tự-tánh, thân-thức-tự-tánh, ý-tự- tánh, ý-thức-tự-tánh thuộc về
danh-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Riêng pháp-tự-tánh thuộc về danh-pháp và
sắc-pháp cũng là pháp vô-ngã, v.v...
Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là
pháp vô-ngã (anattā), không
phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, ... để
diệt tà-kiến theo chấp ngã.
3- Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp tam-giới như thế nào?
Đức-Phật thuyết giảng phân tích cho chúng-sinh thấy rõ, biết rõ sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới thuộc về pháp hữu-vi; mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam-giới,
có thật- tánh-pháp, có trạng-thái riêng, có sự sinh, sự diệt, nên có
3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, để
diệt tâm tà-kiến thấy sai chấp lầm từ sắc-pháp từ danh-pháp tam-giới cho là tự
ngã của ta, diệt tâm tham-ái trong sắc-pháp, danh-pháp tam- giới cho là của ta,
diệt tâm ngã-mạn chấp sắc-pháp, danh-pháp tam-giới cho là ta hơn người, ta bằng
người, ta kém thua người, ...
Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Vi-diệu-pháp.
Quả báu của sự học Tam-Tạng Pāḷi
* Hành-giả theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật Pāḷi, giữ gìn
giới đức trong sạch trọn vẹn.
Hành-giả có giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, nương nhờ giới, thực hành
pháp-hành thiền-định và thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán cùng với tam- minh
(12) do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Luật Pāḷi.
* Hành-giả học thông-thuộc Tạng Kinh Pāḷi có giới trong sạch thanh-tịnh làm nền
tảng, thực hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc bát-thiền.(13)
Hành-giả dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối-tượng,
thực
hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục
thông
(14) do năng lực quả báu của pháp-học
Tạng Kinh Pāḷi.
* Hành-giả học thông-thuộc
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi
có
giới và định làm nền tảng,
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ
tuệ-phân-tích
(15), do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.
Ngũ-Bộ Pāḷi (Pañcanikāyapāḷi)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ gồm có
40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ 6 tại động Kaba Aye,
Yangon xứ Myanmar.
- Trường-Bộ-Kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi).
- Trung-Bộ-Kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi).
- Đồng-Loại-Bộ-Kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi).
- Chi-Bộ-Kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi).
- Tiểu-Bộ-Kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi).
1- Trường-bộ-kinh Pāḷi là gì?
Trường-bộ-kinh Pāḷi
gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển:
1- Sīlakkhandhavaggapāḷi
gồm có 13 bài kinh dài.
2- Mahāvaggapāḷi
gồm có 10 bài kinh dài.
3- Pāthikavaggapāḷi
gồm có 11 bài kinh dài.
2- Trung-bộ-kinh Pāḷi là gì?
Trung-bộ-kinh Pāḷi
gồm có 152 bài kinh loại vừa chia làm 3 quyển:
1- Mūlapaṇṇāsapāḷi:
có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm có 50
bài kinh loại vừa.
2- Majjhimapaṇṇāsapāḷi:
có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm
có 50 bài kinh loại vừa.
3- Uparipaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, chương 1, 2, 3 và 5: mỗi chương có 10 bài kinh
loại vừa, còn chương 4 có 12 bài kinh trung bình, gồm có 52 bài kinh loại vừa.
3- Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi là gì?
Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi
có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau, đặc biệt bộ này
những bài kinh có điểm đồng loại nhau, được gom chung lại với nhau thành một
chương riêng biệt.
Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư-thiên gom chung lại với nhau thành nhóm
gọi là devatasaṃyutta. Những bài kinh liên quan đến Đức-vua xứ Kosala gom chung
lại thành chương gọi là Kosalasaṃyutta, v.v...
Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 5 bộ chia làm 3 quyển:
1- Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi
gồm có 11 chương và
Nidānavaggasaṃyuttapāḷi
gồm có 10 chương.
2 - Khandhavaggasaṃyuttapāḷi
gồm có 13 chương và
Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi
gồm có 10 chương.
3- Mahāvaggasaṃyuttapāḷi
gồm có 12 chương.
Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh.
4- Chi-bộ-kinh Pāḷi là gì?
Chi-bộ-kinh Pāḷi
gồm có những bài kinh có chi-pháp. Những bài kinh có một
chi-pháp, những bài kinh có hai chi-pháp, v.v... cho đến những bài kinh có 11
chi-pháp.
* Những bài kinh có một chi-pháp gọi là:
Ekakanipāta.
* Những bài kinh có các chi-pháp khác:
Dukanipāta, Tikanipāta, Catukkanipāta,
Pañcakanipāta, … cho đến những bài kinh có 11 chi-pháp gọi là:
Ekādasakanipāta.
Chi-bộ-kinh Pāḷi
này có 11 nipāta, gom thành 3 quyển, gồm tất cả có 9.557 bài
kinh ngắn dài khác nhau.
1- Ekaka-duka-tika-catukka nipātapāḷi.
2- Pañcaka-chakka-sattaka nipātapāḷi.
3- Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasaka nipātapāḷi.
5- Tiểu-bộ-kinh Pāḷi là gì?
Tiểu-bộ-kinh Pāḷi này gồm có tất cả các bài kinh nào, quyển nào không có trong 4
bộ trên đều được gom vào Tiểu-bộ-kinh Pāḷi
này.
Tiểu-bộ-kinh Pāḷi
gồm có Tạng Luật Pāḷi, Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi
và một phần
Tạng Kinh Pāḷi còn lại gồm có 28 quyển:
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần
Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ, có 5 quyển:
- Pārājikapāḷi.
- Pācittiyapāḷi.
- Mahāvaggapāḷi.
- Cūḷavaggapāḷi.
- Parivārapāḷi.
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi
phần Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi
có 7 bộ, gồm có 12 quyển:
- Dhammasaṅgaṇīpāḷi.
- Vibhaṅgapāḷi.
- Dhātukathā và
- Puggalapaññattipāḷi.
- Kathāvatthupāḷi.
- Yamakapāḷi (3 quyển).
- Paṭṭhānapāḷi (5 quyển).
* Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần
Tạng Kinh gồm có 19 bộ, gồm có 11 quyển:
- Khuddakapāṭhapāḷi, Dhammapadagāthāpāḷi, Udāna- pāḷi, Itivuttakapāḷi,
Suttanipātapāḷi (gồm có 5 bộ).
- Vimānavatthupāḷi, Petavatthupāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi (gồm có 4
bộ).
- Apādānapāḷi (phần 1).
- Apādānapāḷi (2), Buddhavaṃsapāḷi, Cariyapiṭakapāḷi.
- Mahāniddesapāḷi.
- Cūḷaniddesapāḷi.
- Jātakapāḷi (2 quyển).
- Paṭisambhidāmaggapāḷi.
- Nettipāḷi, Peṭakopādesapāḷi.
- Milindapañhāpāḷi.
Ngũ-bộ gồm có 40 quyển.
Cửu-Phần (Navaṅga)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo phần (aṅga) thì có 9 phần như
sau:
1- Suttapāḷi (Kinh): gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh
Maṅgalasuttapāḷi, Ratanasuttapāḷi và Tạng luật Pāḷi cũng được gom chung vào phần
Suttapāḷi này.
2- Geyyapāḷi (Kệ):
gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu kệ (không có đoạn
văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi, ...
3- Veyyākaraṇapāḷi (Kinh):
gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không có kệ
xen vào) như Dhamma- cakkappavattanasuttapāḷi, Mahāsatipaṭṭhānasuttapāḷi,... và
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được gom chung vào trong phần Veyyākaraṇapāḷi này.
4- Gāthāpāḷi (Kệ):
gồm những bài kệ không có tên bài kinh như
Dhammapadagāthāpāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi, ...
5- Udānapāḷi (Bài tự thuyết):
gồm có 82 bài tự thuyết của Đức-Phật do tâm
hoan-hỷ phát sinh.
6- Itivuttakapāḷi:
gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ
Bhagavatā, ... Điều này đúng như lời Đức-Thế-Tôn dạy ...
7- Jātakapāḷi (Tiền-kiếp):
những câu kệ liên quan đến 547 tích tiền-kiếp của
Đức-Phật Gotama, bắt đầu tích Apannakajātakapāḷi và cuối cùng
Vessantarajātakapāḷi.
8- Abhūtadhammapāḷi: gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ trước
(acchariyabhūta- dhammapāḷi), thường khởi đầu bằng câu:
“Này chư tỳ-khưu, những pháp phi thường chưa từng có từ trước ...” như bài kinh
Pahārādasutta ...
9- Vedalla: gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí-tuệ hợp với hỷ như
Cūḷavedallasuttapāḷi, Mahāvedallasutta- pāḷi, Sakkapañhāsuttapāḷi, ...
84.000 Pháp-Môn (Dhammakkhandhapāḷi)
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia thành pháp-môn Pāḷi
(Dhammakkhandhapāḷi) thì có 84.000 pháp-môn Pāḷi, trong bộ Tam-tạng Pāḷi như
sau:
1- Tạng Luật Pāḷi gồm có 21.000 Pháp-môn.
2- Tạng Kinh Pāḷi gồm có 21.000 Pháp-môn.
3- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi
gồm có 42.000 Pháp-môn.
Phương pháp đếm pháp-môn trong Tam-Tạng Pāḷi
* Trong Tạng Luật Pāḷi:
Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức-Phật chế định
điều-giới, ban hành giới đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni là một pháp-môn.
Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới, v.v...
mỗi điều là một pháp-môn.
Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp-môn.
* Trong Tạng Kinh Pāḷi:
Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp-môn.
Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp-môn,
mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp-môn, v.v…
Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp-môn.
* Trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi:
Pháp phân chia mỗi tika, mỗi duka là một
pháp-môn, phân loại tâm và tâm- sở đồng sinh là một pháp-môn, v.v…
Như vậy, trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 42.000 pháp-môn.
Trong 84.000 pháp-môn Pāḷi này, Đức-Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp-môn
Pāḷi, còn 2.000 pháp- môn Pāḷi do chư bậc Thánh A-ra-hán thuyết dạy.
Như Ngài Trưởng-lão Ānanda, bậc thủ kho tàng pháp-bảo Pāḷi của Đức-Phật Gotama
dạy trong bộ Theragāthāpāḷi, Ānandattheragāthā có câu kệ rằng:
“Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto. Caturāsiti sahassāni, ye me
dhammā pavattino.”
(16)
“Tôi là Ā-nan-da,
Đã học từ kim ngôn Đức-Phật,
Được tám mươi hai ngàn pháp-môn,
Học từ chư Thánh
A-ra-hán,
Gom nhặt được hai ngàn pháp-môn,
Tôi là thủ kho tàng pháp-bảo,
Trọn tám mươi bốn ngàn pháp-môn.”
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama gồm có 84.000 pháp-môn Pāḷi vẫn còn lưu
truyền trong các nước có truyền thống Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo
nguyên-thủy) như nước Tích Lan (Srilankā), nước Miến Điện (Myanmar), nước
Thái-Lan, nước Campuchia, nước Lào, v.v…
Ngày nay, Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo nguyên- thủy) được truyền bá đến nhiều
nước trên thế giới, trong số các nước ấy có Phật-giáo nguyên-thủy Theravāda tại
Việt-Nam.
Duy trì pháp-học Phật-giáo
Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana) là toàn lời giáo huấn của Đức-Phật được ghi
trong Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi là nền-tảng căn bản của Phật-giáo.
Khi
pháp-học Phật-giáo còn tồn tại, thì
pháp-hành Phật-giáo mới mong được phát
triển. Khi pháp-hành Phật-giáo được phát triển tốt, thì
pháp-thành Phật-giáo mới
có thể phát sinh.
Nếu
pháp-học Phật-giáo bị tiêu hoại, thì
pháp-hành Phật-giáo
và
pháp-thành
Phật-giáo chắc chắn sẽ không còn nữa.
Vì vậy, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão là những Bậc thông-thuộc Tam-tạng
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, tổ chức kết tập toàn giáo-pháp của Đức-Phật, không để rời
rạc,
không cho thất lạc, rồi giữ gìn duy trì toàn bộ pháp-học Phật-giáo được trường
tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất
cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại.
Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi
Để giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo cho được đầy đủ, nguyên vẹn, không để rời
rạc, không cho thất lạc, cho nên, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão đã kết tập
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng tiếng Pāḷi trải qua các thời-kỳ như sau:
Kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhất
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đứng ra tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn 3
tháng 4 ngày, trong mùa an cư nhập hạ tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành
Rājagaha xứ Māgadha.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này gồm có 500 vị Thánh
A-ra-hán có đầy đủ tứ tuệ-phân-tích, lục thông, … đặc biệt thông-thuộc Tam-tạng
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì đại hội, đọc
tuyên ngôn đoạn cuối kết luận rằng:
“……Saṃgho appaññattaṃ nappaññapeti, paññattaṃ na samucchindati, yathāpaññattesu
sikkhāpadesu samādāya vattati, khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī evametaṃ
dharayāmi.”
(17)
“……Chư tỳ-khưu-Tăng! Không được phép chế-định thêm điều-giới nào mà Đức-Phật
không chế-định, không được phép xóa bỏ điều-giới nào mà Đức-Phật đã chế-định. Chư tỳ-khưu Tăng cần phải giữ gìn, duy trì, thực hành nghiêm chỉnh đúng
theo các điều-giới mà Đức-Phật đã chế định. Tất cả chư tỳ-khưu-Tăng đều hài
lòng nên làm thinh. Tôi ghi nhận sự hài lòng này của quý vị bằng trạng-thái làm
thinh như vậy.”
Tất cả chư tỳ-khưu-Tăng gồm có 500 bậc Thánh A- ra-hán đều đồng tâm nhất trí
tuân theo lời tuyên ngôn của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì chất vấn Ngài Trưởng-lão Upāli giải đáp
về Tạng Luật, và chất vấn Ngài Trưởng-lão Ānanda giải đáp về Tạng Kinh Pāḷi và
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện suốt 7 tháng mới hoàn
thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này bằng cách truyền khẩu
(mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức-vua Ajātasattu đất nước Māgadha là người hộ độ chư Thánh A-ra-hán trong kỳ
kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này.
Phân chia phận sự duy trì Tam-Tạng Pāḷi, Ngũ-Bộ
Sau khi kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi xong, chư Thánh A-ra-hán phân
công mỗi vị có bổn phận giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi như sau:
* Về
Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão
Upāli. Ngài Trưởng-lão có bổn phận dạy Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi
đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi này.
Khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, Đức-Phật đã từng tuyên dương Ngài
Trưởng-lão Upāli là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về trì luật trong
các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
* Về
Trường-bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão
Ānanda. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy Trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Trường-bộ-kinh
Pāḷi này.
* Về
Trung-bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của nhóm đệ-tử của
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Các vị Đại-đức này có bổn phận dạy Trung- bộ-kinh
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Trung-bộ-kinh Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi này.
* Về
Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahākassapa. Ngài Đại-Trưởng-lão có bổn phận dạy Đồng-loại-bộ-
kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Đồng-loại-bộ-kinh
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về Chi-bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāya) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão
Anuruddha. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy Chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về
Tiểu-bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi) thuộc về phận sự chung của 500 chư
Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy Tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến
các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
* Về
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭaka- pāḷi) gồm có 7 bộ lớn, thuộc phận
sự chung của 500 chư Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy Tạng Vi- diệu-pháp
Pāḷi và Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi đến các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama được kết tập lại đầy đủ trọn vẹn. Ngài
Đại-Trưởng-lão và chư Vị Trưởng-lão có bổn phận dạy cho các hàng đệ-tử học thuộc
lòng, ghi nhớ đầy đủ trọn vẹn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, gìn giữ duy trì
pháp-học Phật-giáo cho được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi
ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại
Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhì
Giáo-pháp của Đức-Phật được giữ gìn duy trì nguyên vẹn đúng theo pháp-học
Phật-giáo trải qua được 100 năm, thì có nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesālī đặt ra
10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật là:
1- Kappati siṅgīloṇakappo: Tỳ-khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác-ý
rằng:
“Muối dùng làm đồ gia vị món ăn ngày hôm sau, cũng được.”
2- Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ-khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng
tay, cũng được.
3- Kappati gāmantarakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng:
“Bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo luật,
cũng được.”
4- Kappati āvasakappa: Trong cùng mahāsīmā có nhiều nhóm riêng rẽ cùng hành
uposathakamma, cũng được.
5- Kappati anumatikappo: Chư Tăng trong nhóm
đang hành-Tăng-sự nghĩ rằng:
“Sẽ cho phép tỳ-khưu đến sau, cũng được.”
6- Kappati āciṇṇakapo: Tỳ-khưu hành theo pháp mà thầy tổ của mình thường thực
hành, cũng được.
7- Kappati amathitakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã
biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
8- Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ-khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng được.
9- Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ: Tỳ-khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng
được.
10- Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ-khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.
Đó là 10 điều do nhóm tỳ-khưu Vajjīputta đề xướng không hợp theo pháp-luật của
Đức-Phật.
Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta nghe tin nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ
Vesālī đặt ra 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật như vậy. Ngài Đại-
Trưởng-lão liền đến tận nơi hội họp chư tỳ-khưu-Tăng giải thích, để cho họ hiểu
rõ, đó là 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật.
Đó là nguyên nhân khiến Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ
kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārāma, gần thành Vesālī,
khoảng thời gian 100 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh
A-ra-hán có đầy đủ tứ tuệ- phân-tích, lục thông, thông thuộc Tam-tạng Pāḷi và
Chú- giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta chủ trì. Ngài
Đại-Trưởng-lão Revata chất vấn, Ngài Đại- Trưởng-lão Sabbakāmi giải đáp, …
Công cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện trong khoảng
thời gian suốt 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải
Pāḷi, hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
lần thứ nhất.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này cũng bằng
khẩu truyền
(mukhapāṭha), chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức Vua Kālāsoka xứ Vesālī hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần
thứ nhì này.
Giáo-pháp của Đức-Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo pháp-học
Phật-giáo. Tất cả chư tỳ- khưu thực hành nghiêm chỉnh giới-luật, làm cho những
người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo thì phát sinh đức- tin, những người nào đã có
đức-tin trong sạch nơi Tam- Bảo rồi thì đức-tin càng tăng trưởng.
Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ ba
Sau kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì, Phật-giáo càng ngày
càng phát triển, chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni càng đông, cận-sự-nam, cận-sự-nữ có
đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo càng nhiều. Các thí chủ làm phước-thiện bố-thí
cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời-kỳ
Đức-vua Dhammāsoka (Asoka).
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, trị vì toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu, có đức-tin
trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm phước
thiện bố-thí, cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ- khưu-Tăng rất đầy đủ, sung
túc.
Trái lại, các nhóm tu-sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực. Vì vậy, một
số tu-sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư tỳ-khưu, về mặt hình thức thì
giống tỳ-khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà- kiến cố-hữu của mình
không hề thay đổi.
Cho nên, chư tỳ-khưu thật chánh-kiến và tỳ-khưu giả tà-kiến sống lẫn lộn với
nhau không thể hành-Tăng-sự chung với nhau được.
Tình trạng này kéo dài suốt 7 năm, chư tỳ-khưu trình sự việc này lên Đức-vua
Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức-vua để thanh lọc tỳ-khưu giả ngoại
đạo tà-kiến ra khỏi nhóm chư tỳ-khưu thật chánh-kiến.
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch
nơi Tam-bảo, hộ trì phụng sự Tam-bảo, Đức-vua học giáo-pháp của Đức-Phật với
Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh-kiến trong Phật-giáo và
các tà-kiến của ngoại đạo.
Đức-vua Asoka thỉnh chư tỳ-khưu đến xét hỏi, qua cuộc xét hỏi này, Đức-vua đã
loại được 60.000 tỳ-khưu giả có tà-kiến ra khỏi chư tỳ-khưu thật có chánh-kiến.
Đức-vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người
cư-sĩ, còn lại tất cả tỳ-khưu thật có chánh-kiến trong Phật-giáo đoàn kết cùng
nhau hành-Tăng-sự trở lại.
Nhân dịp này, Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa
đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ ba.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này được tổ chức tại chùa
Asokārāma, xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức-Phật tịch diệt
Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này gồm có 1.000 bậc Thánh
A-ra-hán có tứ tuệ-phân- tích, lục thông, thông thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải
Pāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập
được thực hiện trong khoảng thời gian suốt 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi hoàn toàn giống như bản chính của hai kỳ kết tập
trước.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này cũng bằng
khẩu truyền
(Mukhapātha), chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức-vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
lần thứ ba này.
Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ tư
Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch
nơi Tam-bảo, hộ trì, phụng sự Tam-bảo, không những hộ trì Phật-giáo được phát
triển trong nước, mà còn gửi các phái đoàn chư tỳ-khưu- Tăng sang các nước láng
giềng khác, để truyền bá Phật- giáo.
Vào năm Phật-lịch 236 sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Asoka gởi
phái đoàn 5 vị tỳ-khưu- Tăng do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda
(18) trưởng đoàn
cùng với Ngài Trưởng-lão Iṭṭiya, Ngài Trưởng-lão Uttiya, Ngài Trưởng-lão
Sambala, Ngài Trưởng-lão Bhaddasāla sang truyền bá Phật-giáo ở đảo quốc
Srilankā.
Vào thời ấy, Đức-vua Devānampiyatissa trị vì đảo quốc Srilankā, là bạn thân của
Đức-vua Asoka. Đức-vua Devānampiyatissa và các quan trong triều cùng với toàn
thể dân chúng đón rước, cung thỉnh phái đoàn chư Trưởng-lão-Tăng rất trọng thể.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda thuyết pháp tế độ Đức-vua cùng với các quan, dân
chúng trên đảo quốc phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo,
Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có số kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành cận-
sự-nam, cận-sự-nữ.
Có số cận-sự-nam (upāsaka) xin xuất gia trở thành tỳ- khưu trong Phật-giáo.
Còn có số cận-sự-nữ (upāsikā) có ý nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni
trong Phật-giáo, như bà Anuḷādevī Hoàng-hậu của Đức-vua Devānampiyatissa cùng
với 500 cận-sự-nữ (upāsikā) trong hoàng tộc, và số đông cận-sự-nữ dân chúng
trong đảo quốc.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda truyền dạy gửi đoàn sứ giả đến tâu Đức-vua Asoka,
kính xin Đức-vua gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni sang đảo quốc Srilankā.
Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư tỳ-khưu-ni-Tăng do Đại-đức tỳ-khưu-ni
Saṃghamittāttherī
(19) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā, để hành lễ thọ
tỳ-khưu-ni cho Hoàng-hậu Anuḷādevī và 500 cận-sự-nữ trong hoàng tộc và số đông
cận-sự-nữ dân chúng trong đảo quốc.
Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittāttherī có kính thỉnh một cây Đại-Bồ-đề sang trồng
trên đảo quốc Srilankā.
Cây Đại-Bồ-đề được thỉnh đến trồng tại tỉnh Anurādhapura, đảo-quốc Srilankā. Cây
Đại-Bồ-đề này được duy trì tồn tại cho đến nay vẫn còn tươi tốt. Nhà- nước
Srilankā chăm sóc cây Đại-Bồ-đề rất chu đáo.
Phật-giáo được phát triển rất thịnh hành trên đảo quốc Srilankā, chư
tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng tăng trưởng càng ngày càng đông.
Một thời đảo quốc Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu
thốn, nên đời sống của chư tỳ- khưu cũng chịu ảnh hưởng. Số Đại-đức tỳ-khưu sức
khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi thuộc lòng rất
vất vả.
Khi cuộc phiến loạn đã được dẹp xong, chư Đại- Trưởng-lão suy xét về sau này trí
nhớ và trí-tuệ con người càng ngày càng kém dần, cho nên, chư Đại-đức tỳ-khưu
học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi cho được đầy đủ trọn vẹn không phải là việc dễ dàng.
Một hôm, Đức-vua Vaṭṭagāmanī ngự đến ngôi chùa Mahāvihāra làm phước-thiện
bố-thí, cúng dường vật dụng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Nhân dịp ấy, chư Đại-Trưởng-lão thưa với Đức-vua Vaṭṭagāmanī rằng:
- Thưa Đại-vương, từ xưa đến nay, chư Đại-đức tỳ- khưu có phận sự học thuộc lòng
Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, để giữ gìn duy trì giáo-pháp của Đức-Phật.
Trong thời vị-lai, đàn hậu sinh là những Đại-đức tỳ- khưu, khó mà học thuộc lòng
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi một cách đầy đủ trọn vẹn được.
Như vậy, giáo-pháp của Đức-Thế-Tôn sẽ bị mai một theo thời gian.
- Thưa Đại-vương, muốn giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được đầy
đủ và trọn vẹn.
Cho nên, chư Đại-Trưởng-lão có ý định tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi bằng chữ viết ghi chép trên lá buông, để lưu lại cho đời sau.
Nghe chư Đại-Trưởng-lão thưa như vậy, Đức-vua Vaṭṭagāmanī phát sinh
đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời của chư Đại-Trưởng-lão.
*
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ tư
này được tổ chức tại động Ālokalena vùng
Matulajanapada nước Srilankā, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức-Phật tịch
diệt Niết-bàn.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này gồm 1.000 bậc Thánh
A-ra-hán có tứ tuệ-phân-tích, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahādhammarakkhita làm chủ
trì, công cuộc kết tập ghi chép trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng chữ
viết trên lá buông được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất.
Sau đó, chư bậc Thánh A-ra-hán kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng cách
khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chính của ba kỳ kết tập Tam- tạng
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trước.
Kỳ
kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư
này là lần đầu tiên được
ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ trọn vẹn bộ Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi gọi là: “Potthakaropanasaṅgīti”.
Đức Vua Vaṭṭagāmanī Abhaya nước Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này.
Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ năm
Dưới thời Đức-vua Asoka, Đức-vua có gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng do
Ngài Đại-Trưởng-lão Soṇa và Ngài Đại-Trưởng-lão Uttara đi đến vùng Suvaṇṇabhūmi
gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái-Lan, Campuchia, Lào, … để truyền bá
Phật-giáo. Phật-giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm, tùy
theo vận mệnh của mỗi nước.
Đất nước Myanmar vào thời đại Đức-vua Mindon đóng đô tại kinh-thành Mandalay,
Đức-vua là người có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo, tận tâm hộ trì Tam-Bảo, suy
nghĩ rằng:
“Phật-giáo thường liên quan đến sự tồn vong của đất nước, mỗi khi đất nước bị
xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật-giáo.”
Đức-vua Mindon muốn bảo toàn giáo-pháp của Đức- Phật, nên Đức-vua thỉnh chư
Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi khắc chữ trên những tấm bia
đá, để giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi, Pháp-bảo cho được bền vững lâu dài.
Nghe Đức-vua thỉnh như vậy, chư Đại-Trưởng-lão vô cùng hoan-hỷ chấp thuận theo
lời thỉnh cầu của Đức- vua. Chư Đại-Trưởng-lão tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi
lần thứ năm tại kinh-thành Mandalay xứ Myanmar, Phật-lịch năm 2404.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này gồm 2.400 Ngài Trưởng-lão toàn là những
Bậc uyên bác Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta
Jāgara chủ trì, ngoài ra còn có những Ngài Trưởng-lão rất xuất sắc như Ngài
Bhaddanta Narindabhidhaja, v.v…
Công trình khắc bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên tấm bia đá bắt đầu khởi công vào
năm Phật-lịch 2404 cho đến năm Phật-lịch 2415, trải qua suốt 11 năm ròng rã, mới
hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi trên 729 tấm bia đá:
- Tạng Luật Pāḷi gồm có 111 tấm.
- Tạng Kinh Pāḷi gồm có 410 tấm.
- Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 208 tấm.
Sau khi khắc trọn bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư
Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu vấn và đáp suốt 6
tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi y theo bản chính của 4 kỳ kết
tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần trước, gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này do Đức- vua Mindon nước Myanmar hộ độ.
Lần đầu tiên trọn bộ Tam-tạng Pāḷi được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá
này hiện nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh-thành cổ Mandalay, đất nước Myanmar.
Các nhà in kinh sách Phật-giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền tảng
căn bản.
Về sau Vị Đạo-sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi trên những
tấm bia đá. Hiện nay những tấm bia đá khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi vẫn còn nguyên
vẹn tại kinh-thành cổ Mandalay.
Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ sáu
Phật-giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi), Phụ- chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), … đã được in ra
thành sách. Công việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó mà
tránh khỏi sự sai sót. Vì vậy, các bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, … của mỗi
nước Phật-giáo có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp-học Phật-giáo
không hoàn toàn giống y nguyên bản chính.
Chính-phủ Myanmar thành lập hội Phật-giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm
Phật-lịch 2497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu, tại động nhân
tạo Lokasāma (Kaba-Aye), thủ-đô Yangon, Myanmar.
Chính phủ Myanmar thỉnh tất cả mọi bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
(Aṭṭhakathāpāḷi) hiện có trên các nước Phật-giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng
chữ, từng câu của mỗi bản.
Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu này gồm 2.500 Ngài Trưởng-lão thông hiểu
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi … rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban
đối chiếu sửa lại cho đúng.
Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật-lịch năm 2498 cho đến
ngày rằm tháng tư Phật- lịch năm 2500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ
Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭha- kathāpāḷi), Phụ-chú-giải
Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), …
Sau đó, chính-phủ Myanmar thỉnh chư Ngài Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão kết tập
Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu chất vấn và giải đáp, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta
Revata chủ trì, Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Sobhana vấn, và Ngài
Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Vicittāsārābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭaka- kovida
Tipiṭakadhara dhammabhaṇḍāgarika thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi và thấu suốt
Tam-tạng Pāḷi, bậc Thủ kho tàng Tam-tạng Pāḷi giải đáp đúng theo Tam-tạng Pāḷi
và Chú-giải Pāḷi.
Trong buổi đại lễ trọng thể này, chính-phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ-tướng U Nu,
tổ chức hoàn thành kết tập Tam-tạng Pāḷi rất long trọng, có mời các nguyên-thủ
quốc gia của các nước Phật-giáo cùng với phái đoàn chư Tăng, cận-sự-nam,
cận-sự-nữ gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử
Phật-giáo đã trải qua một nửa tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của
chính-phủ Myanmar cùng các cận-sự-nam, cận-sự- nữ trong nước và các nước trên
thế giới.
Bộ Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển, bộ Chú-giải Pāḷi gồm có 51 quyển, bộ
Phụ-chú-giải Pāḷi gồm có 26 quyển và các bộ khác hoàn thành trong kỳ kết tập lần
thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các nước Phật-giáo Theravāda.
Để Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng-sinh
được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại-Trưởng-
lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp-học Phật-giáo từ thời-kỳ
Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, và sau khi Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn.
Tất cả quý Ngài Đại-Trưởng-lão có phận sự bảo tồn đầy đủ trọn vẹn pháp-học
Phật-giáo, nên quý Ngài Đại- Trưởng-lão đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam-tạng
Pāḷi và Chú-giải Pāḷi không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại- Trưởng-lão đã có
công giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo từ trước cho đến nay.
Công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp-học
Phật-giáo, là bổn phận của các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia tỳ-khưu,
sa-di cũng như các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Hàng thanh-văn đệ-tử nào học thuộc lòng được lời giáo huấn của Đức-Phật bằng
ngôn ngữ Pāḷi dù ít dù nhiều, thì hàng thanh-văn đệ-tử ấy đã gieo duyên lành
trong Phật-giáo, bởi vì ngôn ngữ Pāḷi là mūlabhāsā: ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ của
chư Phật quá-khứ, Đức-Phật Gotama hiện-tại và chư Phật vị-lai.
Vì vậy, hàng thanh-văn đệ-tử nào học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi cần phải
hiểu biết rõ ý nghĩa trực tiếp ngôn ngữ Pāḷi hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ của
nước mình, thì được lưu trữ, tích lũy trong tâm của mình suốt trong vòng tử sinh
luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Nếu kiếp nào gặp được Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng
nghe chánh-pháp thì kiếp ấy dễ hiểu chánh-pháp, dễ chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, ...
Tại nước Myanmar, công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được phổ cập đến
chư sa-di, chư tỳ-khưu.
Hằng năm, bộ Tôn-giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi
bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải
Pāḷi.
* Thi Tam-Tạng Pāḷi
Phật-lịch năm 2492 (dương-lịch năm 1948), chính phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo bắt đầu
tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó về sau, hằng năm đều
có tổ chức thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi.
* Nếu vị sa-di, tỳ-khưu nào đậu kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi xong thì vị ấy
được kính dâng danh-hiệu cao thượng là
Tipiṭakadhara:
Bậc cao-thượng-thông-
thuộc Tam-tạng Pāḷi.
Tiếp theo thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi. Nếu vị tỳ-khưu nào
thi đậu kỳ thi viết trả lời xong thì vị tỳ-khưu ấy được kính dâng danh-hiệu cao
thượng là Tipiṭakakovida:
Bậc cao-thượng-thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi.
Ngài Trưởng-Lão đã đậu cả 2 kỳ thi
Tipiṭakadhara và
Tipiṭakakovida là
Bậc
cao-thượng-thông-thuộc và thấu- suốt Tam-tạng Pāḷi, và đặc biệt chính phủ
Myanmar, bộ Tôn-giáo kính dâng danh-hiệu cao thượng nhất gọi là
Tipiṭakadhara
Dhammabhaṇḍāgārika: Bậc cao-thượng- thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, Bậc thủ-kho-tàng
Pháp-bảo Tam-tạng Pāḷi đến Ngài Đại-Trưởng-lão có đầy đủ tài đức lớn.
* Đến Phật-lịch 2563 (dương-lịch 2019), đã trải qua 72 kỳ thi Tam-tạng Pāḷi,
theo tài liệu của bộ Tôn-giáo Myanmar năm 2020 có kết quả qua kỳ thi Tam-tạng
Pāḷi như sau:
-
Ekapiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhất-tạng Pāḷi có 536 Ngài Đại-đức.
-
Ekapiṭakadhara và
Ekapiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhất-tạng Pāḷi và
thấu-suốt Nhất-tạng Pāḷi có 153 Ngài Đại-đức.
-
Dvipiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhị-tạng Pāḷi có 405 Ngài Đại-đức.
*
Dvipiṭakadhara và
Dvipiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhị-tạng Pāḷi và
thấu-suốt Nhị-tạng Pāḷi có 135 Ngài Đại-đức.
*
Tipiṭakadhara là bậc cao-thượng-thông-thuộc Tam- tạng Pāḷi có 22 Ngài
Trưởng-lão.
*
Tipiṭakadhara và
Tipiṭakakovida là bậc cao-thượng- thông-thuộc, thấu-suốt
Tam-tạng Pāḷi có 15 Ngài Trưởng-lão
như sau:
1- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vicittāsārā- bhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara,
Mahātipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 6,
Phật-lịch 2497 (DL.1953) lúc Ngài 42 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1992, thọ 81
tuổi.
2- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Neminda (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Tipiṭakakovida,
Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 12, Phật- lịch 2503 (DL.
1959) lúc Ngài 32 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 64 tuổi.
3- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Kosalla (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida,
Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍā- gārika) đậu trong kỳ thi thứ 16, Phật-lịch 2507 (DL.
1963) lúc Ngài 36 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 68 tuổi.
4- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sumaṅgalā- laṅkāra (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 26, Phật-
lịch 2517 (DL. 1973) lúc Ngài 27 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 2006, thọ 60 tuổi.
5- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida,
Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 37, Phật-lịch 2528 (DL.
1984) lúc Ngài 42 tuổi.
6- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vāyāmindā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 47, Phật-
lịch 2538 (DL. 1994) lúc Ngài 40 tuổi.
7- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sīlakkhandhā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật-
lịch 2543 (DL. 1999) lúc Ngài 36 tuổi.
8- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vaṃsapālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật-
lịch 2543 (DL. 1999) lúc Ngài 34 tuổi.
9- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Gandhamālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 53, Phật-
lịch 2544 (DL. 2000) lúc Ngài 33 tuổi.
10- Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sundara (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida,
Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547
2003) lúc Ngài 48 tuổi.
11- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indakapāla (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida,
Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547 (DL.
2003) lúc Ngài 43 tuổi.
12- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Abhijātābhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida,
đậu trong kỳ thi thứ 62, Phật-lịch 2553 (DL. 2009) lúc Ngài 41 tuổi.
13- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indācariya (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida) đậu
trong kỳ thi thứ 64, Phật-lịch 2555 (DL. 2011) lúc Ngài 47 tuổi.
14- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Vīriyānanda (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida) đậu
trong kỳ thi thứ 69, Phật-lịch 2560 (DL. 2016) lúc Ngài 46 tuổi.
15- Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Paññā- vaṃsābhivaṃsa (Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida) đậu
trong kỳ thi thứ 72, Phật-lịch 2563 (DL. 2019) lúc Ngài 45 tuổi.
Nước Myanmar đã có 15 Ngài Đại-Trưởng-Lão đã thi đậu Tipiṭakadhara,
Tipiṭakakovida và còn các Ngài Trưởng-lão khác đã thi đậu Tipiṭakadhara, đậu
Dvipiṭakadhara, Dvipiṭakadhara và Dvipiṭakakovida, Ekapiṭakadhara,
Ekapiṭakadhara và Ekapiṭakakovida,…
Quý Ngài Đại-Trưởng-lão là Bậc đáng tôn kính đối với tất cả các hàng thanh-văn
biết dường nào!
Pháp-học Phật-giáo là nền tảng căn bản của pháp- hành Phật-giáo. Thật vậy,
Phật-giáo được duy trì do nhờ pháp-học Phật-giáo, cho nên quý Ngài Đại-Trưởng-
lão đã cố gắng giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo lưu truyền lâu dài trên thế
gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho chúng-sinh,
nhất là nhân- loại và chư-thiên.
Học Tam-Tạng Pāḷi qua các thời-kỳ
* Thời-kỳ đầu: Kể từ khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian cho đến trước
Phật-lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ
Chú-giải Pāḷi chưa ghi thành chữ viết, cho nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi bằng cách khẩu truyền tâm thọ.
Vị thầy dạy đọc, các học trò lặp
theo ghi nhớ nằm lòng.
Như vậy, vị thầy thông-thuộc được chừng nào, các học trò cũng thông-thuộc được
chừng ấy. Nếu vị thầy không thuộc lòng bộ nào, thì vị thầy gửi các học trò của
mình đến Ngài Đại-Trưởng-lão khác xin học bộ ấy.
Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi trong thời-kỳ ấy
rất vất vả khó khăn.
* Thời-kỳ sau:
Kể từ sau thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ
tư, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, kỳ kết tập
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần này được ghi bằng chữ viết trên lá buông. Cho
nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tương đối ít vất vả khó khăn hơn
thời- kỳ trước, song có phần hạn chế, bởi vì số bổn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải
Pāḷi được ghi trên lá buông không nhiều.
* Thời hiện-tại này:
Hầu hết các nước Phật-giáo lớn như: nước Myanmar, nước
Thái-Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, v.v… đều có trọn bộ Tam- tạng
Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi được in ra thành sách bằng mẫu tự của nước mình.
Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn, nhưng việc dạy Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi và việc học
Tam-tạng Pāḷi trong mỗi nước chưa phổ biến rộng đến toàn thể các hàng xuất-gia
chư sa-di, chư tỳ- khưu, hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
Hiện nay tại nước Myanmar, các Ngài Đại-Trưởng- lão dạy Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi, và chư sa-di, chư tỳ-khưu theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi
tại nhiều ngôi chùa lớn trong thủ-đô Yangon và các ngôi chùa lớn tại các tỉnh
thành lớn.
Hằng năm, chính-phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng
Pāḷi, để cho chư sa-di, chư tỳ-khưu đến dự thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và thi
viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
* Thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, việc thông hiểu về pháp-học
Phật-giáo không những chư Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão, chư sa-di, mà còn có
nhiều vị cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.
Thí dụ:
Cận-sự-nam Cittagapati là bậc Thánh Bất-lai cũng là vị pháp sư được
Đức-Phật Gotama tuyên dương.
Cận-sự-nữ Khujjuttarā là tỳ-nữ của bà Chánh-cung
Hoàng-hậu Sāmāvatī, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu có tài thuyết pháp tế độ
bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng với 500 nữ hầu bà, đều chứng đắc thành
bậc
Thánh Nhập-lưu.
Cận-sự-nữ Khujjuttarā
trở thành Bahussutā: Bậc đa-văn-túc-trí
được Đức-Phật Gotama tuyên dương.
Về sau, Cận-sự-nữ Khujjuttarā cũng trở thành Tipiṭaka- dharā: Bậc thông thuộc
Tam-tạng Pāḷi, v.v…
Ngày nay, công việc bảo tồn pháp-học Phật-giáo là phận sự chung của các hàng
thanh-văn đệ-tử gồm cả bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu lẫn các hàng tại gia
cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.
Để giữ gìn, duy trì pháp-học Phật-giáo chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi
người thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần
phải học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi, Ṭīkāpāḷi,
Anuṭīkāpāḷi, … theo khả năng của mình, để lưu trữ, tích lũy trong tâm của mình,
để tạo duyên lành sâu sắc trong Phật-giáo thật sự.
Nếu khi đã thông hiểu pháp-học Phật-giáo thì hành-giả mới có thể thực hành đúng
theo pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ
được.
Hoặc khi giảng dạy đến người khác, cũng đúng theo chánh-pháp. Cho nên, học
pháp-học Phật-giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho mình và cho
người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì bảo tồn pháp-học Phật-giáo được
trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài
cho tất cả chúng-sinh.
Cúng dường Đức-Pháp-Bảo
Trong thời Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có một vị Bà-la-môn đến hầu đảnh
lễ Đức-Phật, bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính cúng dường Đức-Phật-bảo, cúng dường
Đức-Tăng-bảo thì có Đức-Phật, chư tỳ-khưu-Tăng thọ nhận rõ ràng, còn thành kính
cúng dường đến Đức-Pháp-bảo, thì con phải cúng dường bằng cách nào? Bạch Ngài.
Đức Phật truyền dạy rằng:
- Sacepi Brahmaṇa Dhammaratanaṃ pūjetukāmo ekaṃ bahussutaṃ pūjehi.
(20)
- Này Bà-la-môn! Nếu con muốn cúng dường đến Đức-Pháp-bảo thì con nên cúng dường
đến vị Đa-văn túc-trí (bahussuta).
Ông Bà-la-môn đảnh lễ Đức-Phật xong, xin phép lui ra và đi hỏi chư tỳ-khưu để
biết vị nào là bậc Đa-văn túc-trí học nhiều hiểu rộng.
Chư tỳ-khưu chỉ dẫn, giới thiệu đến
Ngài Trưởng-lão Ānanda là
bậc Đa-văn-túc-trí
(bahussuta) bậc Thủ-kho- tàng Pháp-bảo.
Ông Bà-la-môn tìm đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão
Ānanda, rồi kính dâng đến Ngài Trưởng-lão bộ y trị giá
1.000 kahāpaṇa (tiền Ấn-Độ ngày xưa). Ngài Trưởng-lão
Ānanda thọ nhận bộ y quý giá ấy.
Sau đó, Ngài Trưởng-lão Ānanda kính dâng bộ y ấy đến Ngài Đại-Trưởng-lão
Sāriputta là bậc Thống-lĩnh- pháp (Dhammasenāpati).
Hiện nay, Phật-giáo tại Myanmar còn có những Bậc Tipiṭakadhara và Tipiṭakakovida
là Bậc cao-thượng-thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, và đặc biệt có những
bậc Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika: Bậc cao-thượng-thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi,
Bậc thủ-kho-tàng Pháp-bảo Tam-tạng Pāḷi.
Nếu thí-chủ có tác-ý đại-thiện-tâm hướng tâm đến cúng dường Đức-Pháp-bảo thì nên
cúng dường đến các Bậc cao thượng ấy, gọi là cúng dường Đức-Pháp-bảo. Hoặc
thí-chủ cúng dường đến Ngài Trưởng-lão Tipiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Tam-tạng
Pāḷi, hoặc Ngài Trưởng-lão Dvipiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Nhị- tạng Pāḷi hoặc
Ngài Trưởng-lão Ekapiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Nhất-tạng Pāḷi, v.v… thậm chí
quý vị sa-di, tỳ-khưu đang ngày đêm kiên trì học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi để tham dự kỳ thi Tam-tạng Pāḷi, cũng gọi là cúng dường
Đức-Pháp-bảo.
Tipiṭaka - Aṭṭhakathā - Ṭīkā - Anuṭīkā
Pháp-học Phật-giáo gồm có:
- Tipiṭakapāḷi (Tam-tạng Pāḷi).
- Aṭṭhakathāpāḷi (Chú-giải Pāḷi).
- Ṭīkāpāḷi (Phụ-chú-giải Pāḷi).
- Anuṭīkāpāḷi (Phụ-theo Chú-giải Pāḷi).
Căn cứ theo kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu Phật-lịch 2500 năm tại động
Kaba Aye, thủ-đô Yangon, nước Myanmar như sau:
-
Tipiṭakapāḷi gồm có 40 quyển.
-
Aṭṭhakathāpāḷi gồm có 51 quyển.
-
Ṭīkāpāḷi-Anuṭīkāpāḷi gồm có 26 quyển.
Tipiṭakapāḷi (Tam-Tạng Pāḷi)
Tipiṭakapāḷi (Tam-tạng Pāḷi) gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi Tạng như
sau:
I- Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật Pāḷi)
có 5 quyển:
1-
Pārājikapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
2-
Pācittiyapāḷi do
Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
3-
Mahāvaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ
Đức-Phật.
4-
Cūḷavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
5-
Parivārapāḷi
do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
II- Suttantapiṭakapāḷi (Tạng Kinh Pāḷi)
có 23 quyển phân chia theo
5 Nikāya (Bộ)
như sau:
*
Dīghanikāya (Trường-bộ-kinh Pāḷi)
có 3 quyển:
1-
Sīlakkhandhavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
2-
Mahāvaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
3-
Pāthikavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
*
Majjhimanikāya (Trung-bộ-kinh)
có 3 quyển:
4-
Mūlapaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
5-
Majjhimapaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
6-
Uparipaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
*
Saṃyuttanikāya (Đồng-loại-bộ-kinh)
có 5 phần gom vào 3 quyển:
7-
Sagāthāvagga và
Nidānavaggasaṃyuttapāḷi do
Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
8-
Khandhavagga và
Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi
do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
9-
Mahāvaggasaṃyuttapāḷi do Đức-Phật, trong thời kỳ Đức-Phật.
*
Aṅguttaranikāya (Chi-bộ-kinh)
từ 1 đến 11 chi gom vào 3 quyển:
10-
Ekaka-duka-tika-catukkanipātapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
11-
Pañcaka-chakka-sattakanipāta do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
12-
Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasakanipāta do Đức- Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
*
Khuddakanikāya (Tiểu-bộ-kinh)
gồm có 19 bộ gom vào 11 quyển:
13-
Khuddakapāṭha-dhammapada-udāna-itivuttaka- sutta-nipātatapāḷi do Đức-Phật,
trong thời-kỳ Đức-Phật.
14-
Vimānavatthu-petavatthu-theragāthā-therīgāthā- pāḷi
do Đức-Phật và chư Thánh
A-ra-hán, trong thời-kỳ Đức-Phật.
15-
Apadānapāḷi (paṭhama) do Đức-Phật, trong thời- kỳ Đức-Phật.
16-
Apadānapāḷi (dutiya) và
Buddhavaṃsa,
Cariyā- piṭakapāḷi do Đức-Phật và chư
Thánh A-ra-hán, trong thời-kỳ Đức-Phật.
17-18- Jātakapāḷi (paṭhama-dutiya) do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
19-
Mahāniddesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ Đức-Phật.
20-
Cūḷaniddesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ Đức-Phật.
21-
Paṭisambhidāmaggapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ
Đức-Phật.
22-
Netti-peṭakopadesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākaccayana, trong thời-kỳ
Đức-Phật.
23-
Milindapañhāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena, Phật-lịch năm 500.
III- Abhidhammapiṭakapāḷi (Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi)
có 7 bộ lớn phân chia thành 12 quyển:
1-
Dhammasaṅgaṇīpāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
2-
Vibhaṅgapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
3-
Dhātukathā và
Puggalapaññattipāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
4-
Kathāvatthupāḷi do Đức-Phật và sau có Ngài Đại- Trưởng-lão Moggaliputtatissa,
Phật-lịch 235.
5-6-7-
Yamakapāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya)
(3 quyển) do Đức-Phật, trong thời-kỳ
Đức-Phật.
8-9-10-11-12-
Paṭṭhānapāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya- catuttha-pañcama)
(5 quyển)
do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi tạng như vậy.
Aṭṭhakathāpāḷi (Chú-Giải Pāḷi)
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển, Chú- giải này được phân chia
theo mỗi Tạng như sau:
1- Chú-giải Tạng Luật Pāḷi
Gồm có 6 quyển
1-2- Pārājikakaṇḍa aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi
Samantapāsādikā
aṭṭhakathā do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.
3- Pācityādi aṭṭhakathāpāḷi
gọi Samantapāsādikā aṭṭhakathā do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.
4- Cūḷavaggādi aṭṭhakathāpāḷi
gọi Samantapāsādikā aṭṭhakathā
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.
5- Kaṅkhāvitaraṇī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng- lão Mahābuddhaghosa,
Phật-lịch 976 - 1000.
6- Vinayasaṅgaha aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa,
Phật-lịch 976.
2- Chú-giải Tạng Kinh Pāḷi gồm có 42 quyển được phân chia theo mỗi bộ (Nikāya)
như sau:
* Chú-giải Trường-bộ-kinh Pāḷi
có 3 quyển
1- Sīlakkhandhavagga aṭṭhakathāpāḷi gọi Sumaṅgala- vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi
do
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
2- Mahāvagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
3- Pāthikavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgala-vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
* Chú-giải Trung-bộ-kinh Pāḷi có 4 quyển
4-5- Mūlapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya)
(2 quyển), gọi Papañcasūdanī
aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
6- Majjhimapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi
Papañca- sūdanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
7- Uparipaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi
gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
* Chú-giải Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi
có 3 quyển
8- Sagāthavaggasaṃyutta aṭṭhakathāpāḷi
gọi Sāratthapakāsanī
aṭṭhakathāpāḷi do
Ngài Đại-Trưởng- lão Mahābudhaghosa, Phật-lịch 976.
9- Nidānavagga và Khandhavaggasaṃyutta aṭṭha- kathāpāḷi
gọi
Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābudddhaghosa Phật-lịch 977 - 1000.
10- Sāḷāyatanavagga Mahāvaggasaṃyutta aṭṭhakathā- pāḷi
gọi
Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
* Chú-giải Chi-bộ-kinh Pāḷi
có 3 quyển
11-12-13- Aṅguttara aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya- tatiya)
(3 quyển)
gọi Manorathapūraṇī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch
977 - 1000.
* Chú-giải Tiểu-bộ-kinh Pāḷi
có 29 quyển
14-15- Visuddhimagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama- dutiya)
(2 quyển) do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 972.
16- Khuddakapāṭha aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- jotikā aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
17-18- Dhammapada aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya)
(2 quyển) do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
19-20- Suttanīpāta aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi
Paramatthajotikā aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa,
Phật-lịch 977 - 1000.
21-27- Jātaka aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya-
catuttha-pañcama-chaṭṭha-sattama) (7 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão
Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
28- Udāna aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
29- Itivuttaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
30- Vimānavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- dīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
31- Petavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
32-33- Theragāthā aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya)
(2 quyển) gọi
Paramatthadīpanī
aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
34- Therīgathā aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
35- Cariyāpiṭaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- dīpanī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
36- Cūḷaniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhamma- jotikā aṭṭhakathāpāḷi
do
Ngài Đại-Trưởng-lão Upasena.
37- Mahāniddesa aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhamma- jotikā aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Upasena.
38- Buddhavaṃsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Madhurattha- vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Buddhadatta, Phật-lịch hơn 900.
39-40- Paṭisambhidāmagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama- dutiya)
(2 quyển) gọi
Saddhammapakāsanī aṭṭhakathā- pāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahānāma, Phật-lịch
1061.
41-42- Apadāna aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi
Visuddhajanavilāsinī do Ngài Đại-Trưởng- lão Poraṇācariya.
3- Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi
có 3 quyển:
1- Dhammasaṅgaṇī aṭṭhakathāpāḷi
gọi Aṭṭhasālinī aṭṭhakathāpāḷi
do Ngài
Đại-Trưởng-lão, Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
2- Vibhaṅga aṭṭhakathāpāḷi
gọi Sammohavinodanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
3- Pañcapakaraṇa aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa,
Phật-lịch 977 - 1000.
* Bộ
Abhidhammatthasaṅgaha xem như là Chú-giải
(21)
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển được phân chia theo mỗi Tạng Pāḷi
như vậy.
Ṭīkāpāḷi - Anuṭīkāpāḷi
(Phụ-chú-giải - Phụ-theo-chú-giải)
Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) gồm có 26
quyển được phân chia theo mỗi Tạng như sau:
1- Phụ-chú-giải Tạng Luật có 7 quyển
1-2-3- Sāratthadīpanīṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya) (3 quyển) do Ngài Trưởng-lão
Sāriputta, Phật-lịch 1707 - 1725.
4-5- Vimativinodanīṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão
Coḷiyakassapa.
6- Vājirabuddhiṭīkā
do Ngài Đại-Trưởng-lão Vajirabuddhi.
7- Kaṅkhāvitaraṇīpurāṇa-abhinavaṭīkā
gọi Vinayattha- mañjūsāṭīkā
do Ngài
Đại-Trưởng-lão Buddhanāga.
Ngoài ra, còn các Phụ-chú-giải về Tạng Luật Pāḷi như:
- Vinayālaṅkāraṭīkā (paṭhama-dutiya)
(2 quyển).
- Vinayavinicchayaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển).
- Khuddasikkhā, Mūlasikkhāṭīkā, v.v...
2- Phụ-chú-giải Tạng Kinh Pāḷi có 16 quyển phân chia theo mỗi bộ (Nikāya) như
sau:
* Phụ-chú-giải Trường-bộ-kinh Pāḷi
có 5 quyển
1- Sīlakkhandhavaggaṭīkā
gọi Līnatthapakāsanāṭīkā
do Ngài Đại-Trưởng-lão
Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
2-3- Sīlakkhandhavagga abhinavaṭīkā (paṭhama- dutiya (2 quyển) gọi
Sādhujanavilāsinīṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Ñāṇābhivaṃsadhammasenāpati.
4- Mahāvaggaṭīkā
gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
5- Pāthikavaggaṭīkā
gọi Līnatthapakāsanāṭīkā,
do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla,
Phật-lịch 1100 - 1200.
* Phụ-chú-giải Trung-bộ-kinh Pāḷi có 3 quyển
6-7- Mūlapaṇṇāsaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển)
gọi
Līnatthapakāsanīṭīkā do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhamma- pāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
8- Majjhima-Uparipaṇṇāsaṭīkā
gọi Līnatthapakāsanī- ṭīkā
do Ngài Đại-Trưởng-lão
Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
* Phụ-chú-giải Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi
có 2 quyển
9-10- Saṃyuttaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển)
gọi
Līnatthapakāsanāṭīkā do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhamma- pāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
* Phụ-chú-giải Chi-bộ-kinh có 3 quyển
11-12-13- Aṅguttaraṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya) (3 quyển) gọi
Sāratthamañjūsāṭīkā
do Ngài Đại-Trưởng- lão Sāriputta, Phật-lịch 1707 - 1725.
* Phụ-chú-giải Tiểu-bộ-kinh
có 3 quyển
14-15- Visuddhimaggamahāṭīkā (paṭhama-dutiya)
(2 quyển) gọi
Paramatthamañjūsāṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
16- Nettiṭīkā và Nettivibhāvinīṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Saddhammapāla,
Phật-lịch 1986.
3- Phụ-chú-giải - Phụ-theo-chú-giải về Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi có 3 quyển
1-
Dhammasaṅgaṇīmūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkapāḷi do
Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.
2-
Vibhaṅgamūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkā do Ngài
Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.
3-
Pañcapakaraṇamūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkāpāḷi do
Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.
Ngoài ra, còn các Phụ-chú-giải về Tạng Vi-diệu-pháp:
- Abhidhammavatāraṭīkā (2 quyển).
- Maṇisārāmañjūsāṭīkā
(2 quyển).
- Abhidhammavibhāvanīṭīkā, v.v…
Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkapāḷi)
và Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi)
gồm có 26
quyển được phân chia theo mỗi Tạng như sau:
- Tạng Luật có 7 quyển.
- Tạng Kinh có 16 quyển.
- Tạng Vi-diệu-pháp có 3 quyển.
Phật-Giáo có 3 loại
1-
Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana)
Pháp-học Phật-giáo đó là
Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi
đã có từ thời-kỳ
Đức-Phật. Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, trải qua thời gian lâu, các hàng
hậu sinh theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi không phải vị nào cũng có khả
năng hiểu rõ đúng đắn theo chánh-pháp.
Do đó, quý Ngài Đại-Trưởng-lão là Bậc thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và
Chú-giải Pāḷi, biên soạn thêm những bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi)
và
bộ Phụ-
theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) để giảng giải những điều khó hiểu trong
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Tam-Tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) là gì?
Tam-tạng Pāḷi đó là
Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi mà
Đức-Phật đã chế định, đã thuyết giảng suốt 45 năm, kể từ khi trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, cho đến trước khi Đức-Phật
Gotama tịch diệt Niết-bàn.
Trong bộ Tam-tạng Pāḷi này, không chỉ có lời giáo huấn của Đức-Phật, mà còn có
lời của chư Thánh A-ra- hán, chư-thiên, phạm-thiên, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, v.v…
Những lời ấy được Đức-Phật nhắc lại, hoặc xác nhận, cũng được xem như là lời dạy
của Đức-Phật.
Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) là gì?
Chú-giải Pāḷi đó là những lời giảng giải những điều nào khó hiểu từ trong
Tam-tạng Pāḷi, để giúp cho hiểu biết đúng đắn theo chánh-pháp. Có khi chính
Đức-Phật giảng giải những điều ấy gọi là pakiṇṇakadesanā: Đức- Phật thuyết
giảng, giải thích rõ mỗi điều riêng rẽ; có khi chư Thánh A-ra-hán giảng giải.
Qua các thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi đều có các Chú-giải Pāḷi. Các Chú-giải ấy
được gom lại thành các bộ lớn gọi là bộ Đại-chú-giải (mahā-āṭṭhakathāpāḷi).
Vào thời-kỳ Phật-lịch khoảng 972 năm (sau khi Đức- Phật tịch diệt Niết-bàn),
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā-buddhaghosa là Bậc có trí-tuệ siêu việt, thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi
và Chú-giải Pāḷi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa từ xứ Ấn- Độ đi sang đảo quốc Srilankā. Lần
đầu tiên, Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa biên soạn bộ Visuddhi- magga
(Thanh-Tịnh-đạo) vào năm Phật-lịch 972.
Sau đó, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa xin phép chư Đại-Trưởng-lão trên đảo
quốc Srilankā cho Ngài dịch toàn bộ Đại-chú-giải (Mahā-aṭṭhakathāpāḷi) bằng
tiếng Sihali ra tiếng Pāḷi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa có trí-tuệ siêu-việt, thông-thuộc và
thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, nên Ngài Đại-Trưởng-lão có khả năng
đặc biệt phân loại toàn bộ Đại-chú-giải ra theo từng mỗi Tạng Pāḷi riêng biệt:
Chú-giải Tạng Luật Pāḷi, Chú-giải Tạng Kinh Pāḷi, Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp
Pāḷi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa phân loại Chú-giải Pāḷi theo mỗi Tạng Pāḷi,
phân chia ra thành mỗi phần, mỗi đoạn, mỗi điều-giới, mỗi bài kinh, bài kệ, đặc
biệt mỗi chữ khó hiểu trong mỗi đoạn, mỗi câu v.v…
Công trình dịch thuật toàn bộ Chú-giải từ tiếng Sihali ra tiếng Pāḷi, rồi phân
loại ra từng Tạng (Piṭaka), từng Bộ (Nikāya), … để lại cho các đàn hậu sinh được
dễ dàng thuận lợi học pháp-học Phật-giáo và thực hành pháp-hành Phật-giáo.
Phụ-chú-giải (Ṭīkāpāḷi) và Phụ-theo-chú-giải
(Anuṭīkāpāḷi) là gì?
Những bộ
Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ- theo-chú-giải Pāḷi
(Anuṭīkāpāḷi) là những lời giảng giải, giải thích những điều khó hiểu từ trong
Tam-tạng Pāḷi
và Chú-giải Pāḷi. Những bộ sách này được biên soạn sau khi Đức-Phật tịch diệt
Niết-bàn trải qua nhiều năm sau.
Chư Đại-Trưởng-lão suy xét thấy các thế hệ hậu sinh có trí-tuệ mỗi ngày một kém
dần, cho nên, việc theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để hiểu biết đúng đắn
theo chánh-pháp không phải là việc dễ dàng.
Vì vậy, quý Ngài Đại-Trưởng-lão tiền bối là những Bậc thông-thuộc và thấu-suốt
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đã dày công biên soạn ra những bộ Phụ-chú-giải
Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkā- pāḷi) này, để giúp cho
thế hệ hậu sinh theo học pháp-học Phật-giáo được dễ hiểu, hiểu đúng lời giáo
huấn của Đức-Phật.
Pháp-học Phật-giáo là nền tảng căn bản của
pháp- hành Phật-giáo. Cho nên, hành
giả cần phải học và hiểu biết đúng theo pháp-học Phật-giáo đó là điều tối ư quan
trọng, bởi vì, nếu khi hành-giả hiểu đúng pháp-học Phật- giáo, rồi mới có thể
thực hành đúng theo pháp-hành Phật-giáo đó là thực hành đúng theo
pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Nếu khi thực hành đúng theo
pháp-hành thiền-tuệ
thì mới dẫn đến kết quả chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn,
đó là
pháp-thành Phật-giáo, pháp giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn
loài.
Nếu hành-giả học hiểu không đúng về pháp-học Phật- giáo thì thực hành không đúng
pháp-hành Phật-giáo.
Nếu hành-giả thực hành không đúng pháp-hành thiền- tuệ thì không dẫn đến chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, cũng
không thể giải thoát khỏi khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên, hành-giả muốn thực hành đúng theo pháp- hành Phật-giáo đó là thực hành
đúng theo pháp-hành- giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, thì nên
theo học pháp-học Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi. Nếu chưa
hiểu rõ thì theo học thêm các bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ
Phụ-theo-chú- giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) để cho hiểu rõ.
Khi đã hiểu biết rõ phần pháp-học Phật-giáo rồi, hành-giả cố gắng tinh-tấn thực
hành pháp-hành Phật- giáo đó là thực hành pháp-hành-giới, pháp-hành thiền- định,
pháp-hành thiền-tuệ
(22) được thuận lợi.
Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử là chư tỳ-khưu, sa- di, các cận-sự-nam,
cận-sự-nữ nên theo học pháp-học Phật-giáo để hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật
Gotama làm nền tảng căn bản cho pháp-hành Phật-giáo.
Công việc theo học
pháp-học Phật-giáo còn là một bổn phận thiêng liêng của hàng
thanh-văn đệ-tử
giữ gìn và duy trì
pháp-học Phật-giáo được trường tồn lâu dài
trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chính mình và
truyền dạy đến những người khác, cùng nhau bảo tồn pháp-học Phật-giáo được
trường tồn đến 5.000 năm tuổi thọ Phật-giáo, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa,
sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh, nhất là chư- thiên và nhân-loại.
Hơn nữa, ngôn ngữ Pāḷi (Pāḷibhāsā) vốn là ngôn ngữ của dân Magadha, Mūlabhāsā là
ngôn ngữ gốc mà chư
Phật quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại, chư Phật vị-lai đều sử dụng thuyết-pháp tế độ
chúng-sinh, nên người nào học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được lưu-trữ trong
tâm không bao giờ bị mai một theo thời gian và không gian trong vòng tử sinh
luân-hồi trong ba giới bốn loài.
2-
Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipattisāsana)
Sau khi đã học hỏi nghiên cứu hiểu biết rõ pháp-học Phật-giáo ở giai đoạn đầu,
rồi tiếp theo giai đoạn giữa là hành pháp-hành Phật-giáo.
Pháp-hành Phật-giáo là gì?
Pháp-hành Phật-giáo có nhiều pháp, trong đó có 3 pháp-hành chính là:
* Pháp-hành-giới.
* Pháp-hành thiền-định.
* Pháp-hành thiền-tuệ.
2.1- Pháp-hành-giới là gì?
Pháp-hành-giới là pháp-hành mà hành-giả có tác-ý đại-thiện-tâm giữ gìn thân và
khẩu tránh xa mọi hành-ác. Hành-giả thực hành pháp-hành-giới có tác-ý đại-thiện-
tâm tránh xa 3 thân hành điều ác và tránh xa 4 khẩu nói điều ác, giữ gìn giới
của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành
thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
Giới của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử khác nhau:
- Đối với hàng tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có ngũ-giới và bát-giới
ājīvaṭṭhamakasīla là thường giới. Ngoài ra, cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn có thể thọ
trì bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, thập-giới, tùy theo khả năng của mỗi
người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
- Đối với bậc xuất-gia:
* Vị sa-di có 10 sa-di-giới, 10 điều-giới hoại phẩm hạnh sa-di, 10 giới hành
phạt, 75 điều-giới hành, … 14 pháp-hành như tỳ-khưu,…
* Vị tỳ-khưu có tứ thanh-tịnh-giới. Trong tứ thanh- tịnh-giới ấy, có
Bhikkhupātimokkkasīla có 227 điều-giới, nếu tính đầy đủ trong Tạng Luật thì có
91.805.036.000 điều-giới.
Muốn giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn, thanh-tịnh, điều trước tiên,
hành-giả cần phải học hỏi, hiểu rõ kỹ càng tất cả mọi điều-giới của mình, rồi
mới có thể thực hành pháp-hành-giới
(23) là tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu,
giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, làm cho thân và khẩu được
thanh-tịnh.
Do năng lực của giới có thể diệt được phiền-não loại thô ở thân và khẩu
(vitikkamakilesa), để làm nền-tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ
được phát triển.
2.2- Pháp-hành thiền-định là gì?
Pháp-hành thiền-định là pháp-hành dẫn đến định-tâm trong một
đối-tượng-thiền-định duy nhất, để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền
vô-sắc-giới.
Muốn thực hành pháp-hành thiền-định, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi,
nghiên cứu cho hiểu biết rõ
về 40 đề-mục thiền-định, rồi chọn một đề-mục thiền-
định nào thích hợp với bản tánh riêng của mình.
Sau đó, hành-giả học hỏi kỹ càng phương pháp thực hành pháp-hành thiền-định với
đề-mục thiền-định ấy.
Khi đã chọn đề-mục thiền-định rồi, hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định với
đề-mục thiền-định ấy làm đối-tượng. Hành giả chỉ có định-tâm trong đối-tượng-
thiền-định duy nhất ấy mà thôi.
Nếu đề-mục thiền-định sắc-giới ấy là đề-mục thiền- định có thể dẫn đến chứng đắc
tuần tự 5 bậc thiền sắc- giới thiện-tâm thì 5 bậc thiền sắc-giới phát sinh như
sau:
5 Bậc thiền sắc-giới
* Thiền sắc-giới
có 5 bậc đối với hành-giả thuộc về hạng
mandapuggala là
hành-giả có trí-tuệ trung bình, thực hành pháp-hành thiền-định, chứng đắc 5 bậc
thiền sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự như sau:
- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm
có 5 chi-thiền là hướng-tâm, quan-sát, hỷ,
lạc, nhất-tâm do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại là tham-dục, sân-hận, buồn-
chán - buồn-ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.
- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan-sát, hỷ, lạc, nhất-tâm
do chế ngự được chi-thiền hướng-tâm.
- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm
có 3 chi-thiền là hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự
được chi thiền quan-sát.
- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm
có 2 chi thiền là lạc, nhất-tâm do chế ngự được
chi thiền hỷ.
- Đệ-ngũ-thiền sắc-giới thiện-tâm
có 2 chi thiền là xả, nhất-tâm do thay thế chi
thiền lạc bằng chi thiền xả.
4 Bậc thiền sắc-giới
* Thiền sắc-giới có 4 bậc thiền đối với hành-giả thuộc về hạng
tikkhapuggala là
hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, thực hành pháp-hành thiền-định đến khi
chứng đắc đến đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm có khả năng chế ngự được 2
chi-thiền là hướng-tâm và quan- sát cùng một lúc, nên đệ-nhị-thiền sắc-giới có 3
chi-thiền.
Cho nên, hành-giả thuộc về hạng người tikkha- puggala thực hành pháp-hành
thiền-định, chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:
- Đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm, quan-sát, hỷ,
lạc, nhất-tâm do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại là tham-dục, sân-hân, buồn-
chán - buồn-ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.
- Đệ-nhị-thiền sắc-giới thiện-tâm
có 3 chi-thiền là hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự
được 2 chi-thiền hướng-tâm và quan-sát.
- Đệ-tam-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là
lạc, nhất-tâm do chế ngự được chi thiền hỷ.
- Đệ-tứ-thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm do thay thế
chi-thiền lạc bằng chi-thiền xả.
Sau khi đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nếu hành-giả tiếp tục thực
hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm thì
hành giả cần phải thay đổi đối-tượng sang đề-mục-thiền vô- sắc-giới.
* Thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc thiền mà mỗi bậc thiền vô-sắc-giới
thiện-tâm nào chỉ có riêng biệt mỗi đề-mục-thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi, nên có
4 đề-mục- thiền vô-sắc-giới dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc- giới
thiện-tâm.
Cho nên, hành-giả chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm như sau:
4 Bậc thiền vô-sắc-giới
- Đệ-nhất-thiền vô-sắc-giới gọi là “Không-vô-biên- xứ-thiền” có 2 chi-thiền là
xả, nhất-tâm.
- Đệ-nhị-thiền vô-sắc-giới gọi là “Thức-vô-biên-xứ- thiền” có 2 chi-thiền là xả,
nhất-tâm.
- Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới gọi là “Vô-sở-hữu-xứ- thiền” có 2 chi-thiền là xả,
nhất-tâm.
- Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới gọi là “Phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền” có 2
chi-thiền là xả, nhất-tâm.
Như vậy, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm đều có 2 chi-thiền giống nhau, chỉ có
khác nhau là mỗi đề-mục- thiền vô-sắc-giới riêng biệt nào để chứng đắc mỗi bậc
thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi.(24)
5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới đều có khả năng diệt phiền-não
bằng cách chế ngự được phiền- não loại trung trong tâm (pariyuṭṭhānakilesa),
phiền-não không phát hiện ra bên ngoài thân và khẩu.
Hành-giả có thể nhập-thiền (jhānasamāpatti) để hưởng sự an-lạc của bậc thiền, và
có thể luyện 5 phép-thần- thông tam-giới.
5 Phép-thần-thông Tam-giới
1- Iddhividha abhiññā:
Đa-dạng-thông là phép-thần- thông có khả năng biến hóa
một người thành nhiều
người, xuất hiện đến một nơi, đi xuyên qua núi, qua tường, bay trên hư không,
chui xuống mặt đất, v.v…
2- Dibbacakkhu abhiññā: Thiên-nhãn-thông
là phép- thần-thông có khả năng nhìn
thấy khắp mọi nơi trong cõi người, các cõi trời dục-giới, … như mắt của
chư-thiên.
3- Dibbasota abhiññā:
Thiên-nhĩ-thông là phép-thần- thông có khả năng nghe được
các thứ tiếng gần xa khắp mọi nơi như tai của chư-thiên.
4- Paracittavijānana abhiññā:
Tha-tâm-thông là phép thần thông có khả năng biết
được ý nghĩ của người khác, chúng-sinh khác, …
5- Pubbenivāsānussati abhiññā:
Tiền-kiếp-thông là phép-thần-thông có khả năng
nhớ lại những tiền-kiếp của mình với đủ chi tiết, như tiền-kiếp sinh làm loài
chúng-sinh nào, kiếp sống như thế nào, v.v…
Đó là 5 phép-thần-thông thuộc về tam-giới.(25)
* Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định nếu có khả năng chứng đắc bậc thiền
sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào cuối cùng, sau khi hành-giả chết, chắc chắn bậc
thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp
kế-tiếp, hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 16 tầng trời sắc-giới
phạm-thiên, được sinh trên tầng trời sắc-giới nào tùy theo bậc thiền sắc-giới
quả-tâm ấy.
Và hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định, nếu có khả năng chứng đắc bậc thiền
vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào cuối cùng, sau khi hành-giả chết, chắc chắn
bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao ấy có quyền ưu
tiên cho quả tái-sinh làm phạm-thiên trên 1 trong 4 cõi trời vô-sắc-giới
phạm-thiên, được sinh trên tầng trời vô sắc-giới nào tùy theo bậc thiền
vô-sắc-giới quả-tâm ấy.
Các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm còn có thể
làm nền tảng, làm đối-tượng cho pháp-hành thiền-tuệ.
2.3- Pháp-hành thiền-tuệ là gì?
Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành dẫn đến phát sinh
trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp, thấy rõ,
biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3
trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của
sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trở
thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
Muốn thực hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên, hành- giả cần phải học hỏi, hiểu
biết rõ kỹ càng tất cả các đối- tượng thiền-tuệ đó là thân, thọ, tâm, pháp, là
đối-tượng của pháp-hành tứ niệm-xứ:
- Thân niệm-xứ:
Thân là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
- Thọ niệm-xứ:
Thọ là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
- Tâm niệm-xứ:
Tâm là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
- Pháp niệm-xứ:
Pháp là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
- Thân niệm-xứ thuộc về sắc-pháp.
- Thọ niệm-xứ và
tâm niệm-xứ
thuộc về
danh-pháp.
- Pháp niệm-xứ
thuộc về
sắc-pháp, danh-pháp.
Sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng của
pháp-hành thiền-tuệ.
* Hành-giả còn là phàm-nhân thuộc hạng người tam- nhân thực hành pháp-hành
thiền-tuệ có đối-tượng thiền- tuệ là sắc-pháp hoặc danh-pháp tam-giới, có khả
năng dẫn đến phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới; tiếp tục trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự
sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3
trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của
sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại
phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Bậc Thánh Nhập-lưu
sau khi chết, vĩnh viễn không còn tái-sinh trong 4 cõi
ác-giới nữa, chỉ còn tái-sinh trong cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời
dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Đến kiếp thứ 7 ấy, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán,
rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Nếu Bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực hành pháp-hành thiền-tuệ thì
trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường,
trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai
Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là
sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
Bậc Thánh Nhất-lai sau khi chết, chỉ còn tái-sinh một kiếp trong cõi thiện-giới
là cõi người hoặc cõi trời dục-giới mà thôi.
Kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn,
chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Nếu Bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực hành pháp- hành thiền-tuệ thì
trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường,
trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới, dẫn đến
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và
Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là sân loại vi- tế không còn dư sót,
trở thành bậc Thánh Bất-lai.
Bậc Thánh Bất-lai
sau khi chết, không còn trở lại tái- sinh trong cõi dục-giới,
mà chỉ còn tái-sinh trên cõi trời sắc-giới mà thôi. Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn
sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới
ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
* Nếu Bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực hành pháp- hành thiền-tuệ thì
trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô- thường,
trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán
Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại
là tham, si, ngã-mạn, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không
biết ghê-sợ tội-lỗi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
Pháp-hành Phật-giáo có quả trực tiếp là
Pháp-thành Phật-giáo.
3-
Pháp-thành Phật-giáo (Paṭivedhasāsana)
Pháp-thành Phật-giáo là gì?
Pháp-thành Phật-giáo là quả của
pháp-hành Phật-giáo đó là quả trực tiếp của
pháp-hành thiền-tuệ.
Thật vậy,
pháp-thành Phật-giáo đó là
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là quả
của pháp-hành thiền-tuệ.
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả liên quan nhân với quả tương xứng với nhau,
Thánh-đạo-tâm nào sinh rồi diệt liền cho Thánh-quả-tâm ấy sinh không có thời
gian khoảng cách trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy (Maggavīthicitta).
4 Thánh-đạo --> 4 Thánh-quả
Nhập-lưu Thánh-đạo --> Nhập-lưu Thánh-quả.
Nhất-lai Thánh-đạo --> Nhất-lai
Thánh-quả.
Bất-lai Thánh-đạo --> Bất-lai Thánh-quả.
A-ra-hán Thánh-đạo --> A-ra-hán Thánh-quả.
Niết-bàn chỉ là đối-tượng của
4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm mà thôi.
4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn gọi là 9 pháp siêu-tam-giới.
Sự liên quan giữa pháp-học, pháp-hành, pháp-thành
- Pháp-học Phật-giáo là nhân có
pháp-hành Phật-giáo
là quả.
- Pháp-hành Phật-giáo là nhân có
pháp-thành Phật-giáo là quả.
Sự liên quan giữa pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo và pháp-thành
Phật-giáo là sự liên quan theo nhân với quả với nhau. Cho nên, khi pháp này phát
triển, thì pháp kia cũng phát triển, trái lại khi pháp này suy thoái, khiến cho
pháp kia cũng suy thoái.
Phật-giáo suy thoái (Sāsana Antaradhāna)
Phật-giáo đó là lời giáo huấn của Đức-Phật vô cùng cao siêu, vô cùng vi-tế. Cho
nên, các hàng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật là chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni,
cận-sự- nam, cận-sự-nữ giữ gìn, duy trì, bảo tồn pháp-học Phật- giáo, pháp-hành
Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo bằng trí-tuệ ba-la-mật, chắc chắn không phải là
bằng cách nào khác, mà trí-tuệ ba-la-mật của các hàng thanh-văn đệ-tử của
Đức-Phật càng ngày càng bị suy giảm dần, giảm dần theo thời gian.
Vì vậy, Phật-giáo bị mai một dần, bị suy thoái dần, theo thời gian tuổi thọ của
Phật-giáo 5.000 năm.
Thời-kỳ đầu:
Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, và sau khi Đức-Phật tịch diệt
Niết-bàn, Phật-giáo phát triển theo thời gian.
Về sau trải qua thời gian lâu, Phật-giáo bị suy thoái dần theo thời gian tuổi
thọ của Phật-giáo 5.000 năm, bởi vì, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật không
còn đủ khả năng trí-tuệ ba-la-mật để giữ gìn, duy trì, bảo tồn Phật-giáo vô cùng
cao siêu, vô cùng vi-tế.
Trong
Chú-giải Chi-bộ-kinh phần Ekakanipāta, giải thích về Phật-giáo suy thoái
như sau:
* Pháp-thành Phật-giáo suy thoái. (Adhigama antaradhāna.)
* Pháp-hành Phật-giáo suy thoái. (Paṭipatti antaradhāna.)
* Pháp-học Phật-giáo suy thoái. (Pariyatti antaradhāna.)
* Pháp-thành Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp- học Phật-giáo cả 3 loại
Phật-giáo này thuộc về danh-pháp đó là
trí-tuệ ba-la-mật, không phải
sắc-pháp,
nên Phật-giáo bị suy thoái, bị mai một không phải do lửa thiêu hủy, cũng không
phải nước lũ cuốn trôi, cũng không phải do bão tàn phá, mà Phật-giáo bị suy
thoái dần, bị mai một dần do trí-tuệ của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật
là chư tỳ-khưu, chư sa-di, các cận- sự-nam, cận-sự-nữ càng ngày càng giảm dần,
trí nhớ càng ngày càng giảm dần, đức-tin giảm dần nên không giữ gìn giáo-pháp
của Đức-Phật được trọn vẹn.
Đó là nguyên nhân làm cho Phật-giáo bị suy thoái.
Pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp- thành Phật-giáo được phát triển
hay bị suy thoái theo tuần tự theo sự liên quan nhân với quả.
Pháp-học Phật-giáo là nhân, pháp-hành Phật-giáo là quả. Pháp-hành Phật-giáo là
nhân, pháp-thành Phật- giáo là quả.
Sở dĩ pháp-thành Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái là vì pháp-hành Phật-giáo
càng ngày càng bị suy thoái.
Pháp-hành Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái là vì pháp-học Phật-giáo càng
ngày càng bị suy thoái, nên Phật-giáo dần dần bị suy thoái theo thời gian tuổi
thọ của Phật-giáo 5.000 năm.
Pháp-thành Phật-giáo suy đồi như thế nào?
* Trong Chú-giải bài kinh Gotamīsuttavaṇṇanā
(26) có đoạn giải thích pháp-thành
Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000
năm như sau:
- Một ngàn năm thứ nhất: Hành-giả thực hành pháp hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông,
tam-minh.
- Một ngàn năm thứ nhì: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán chỉ diệt tận được mọi phiền-não (sukkha-
vipassaka) mà thôi.
- Một ngàn năm thứ ba: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng
đắc đến bậc Thánh Bất-lai.
- Một ngàn năm thứ tư: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng
đắc đến bậc Thánh Nhất-lai.
- Một ngàn năm thứ năm: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh Nhập-lưu, và cuối cùng không còn bậc Thánh-nhân nào
trong cõi người này nữa.
Đó là lúc
pháp-thành Phật-giáo bị mai một, bị suy
đồi hoàn toàn trong cõi người này.
Theo Chú-giải Pāthikavaggaṭṭhakathā, Sampasādanīya- nīyasuttavaṇṇanā, phần
Tipiṭaka antaradhānakathā
(27) và Chú-giải Chi-bộ-kinh Ekakanipātaṭṭhakathā phần
pañca antaradhānāni đó là adhigama antaradhāna, paṭipatti antaradhāna, pariyatti
antaradhāna, liṅga antaradhāna, dhātu antaradhāna.
*
Pháp-thành Phật-giáo (Adhigama
antaradhāna) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả bị
mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm:
- Một ngàn năm thứ nhất: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán cùng với catupaṭisambhidā: Tứ tuệ-phân-tích.
- Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán cùng với chaḷābhiññā: Lục thông.
- Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán cùng với tevijja: Tam-minh.
- Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán chỉ diệt tận được mọi phiền-não (sukkha-
vipassaka) mà thôi.
- Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng
chứng đắc đến bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Nhập-lưu và cuối
cùng không còn ai có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh-nhân trên cõi người này
nữa.
Nếu những bậc Thánh-nhân còn hiện hữu trong cõi người này thì
pháp-thành
Phật-giáo vẫn chưa hoàn toàn bị mai một, bị suy đồi cho đến khi nào những bậc
Thánh-nhân ấy hết tuổi thọ, từ bỏ cõi người này, thiện- nghiệp cho quả tái-sinh
hóa-sinh làm phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới hoặc chư-thiên trong cõi trời
dục-giới. Khi ấy, trong cõi người hoàn toàn không còn bậc Thánh- nhân nào.
Đó là lúc
pháp-thành Phật-giáo bị mai một, bị suy
đồi hoàn toàn không còn trong cõi người này.
Pháp-hành Phật-giáo bị suy thoái như thế nào?
* Pháp-hành Phật-giáo
(Paṭipatti antaradhāna) đó là
pháp-hành-giới, pháp-hành
thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian
tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm.
Thời-kỳ đầu Phật-giáo, hành-giả thuộc hạng tam-nhân thực hành pháp-hành
thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc thành các bậc Thánh
A-ra-hán cùng với lục thông càng ngày càng nhiều.
Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ còn
có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán (sukkhavipassaka) không có bậc
thiền sắc-giới.
Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, hành-giả thực- hành pháp-hành thiền-tuệ
có khả năng chứng đắc các
bậc Thánh thấp dần, theo tuần tự thời gian từ bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh
Nhất-lai, bậc Thánh Nhập-lưu.
Đến thời-kỳ gần mãn tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm, hành-giả thực hành
pháp-hành thiền-tuệ không đúng theo pháp-hành trung-đạo và cuối cùng không còn
hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ nữa.
Đó là thời-kỳ
pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ bị mai một, bị suy đồi
trong cõi người.
* Pháp-hành-giới:
Cũng như pháp-hành thiền-tuệ và pháp-hành thiền-định, thời-kỳ
đầu Phật-giáo, hành-giả giữ gìn giới của mình trong sạch, đầy đủ và trọn vẹn.
Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu có đức-tin trong sạch nơi
Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên hết lòng tôn kính tất cả
mọi điều-giới mà Đức-Phật đã chế định, ban hành cho tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni. Chư
tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nghiêm chỉnh giữ gìn mọi điều-giới của mình được trong sạch
trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni có đức-tin càng
ngày càng giảm dần, xem thường những điều-giới nhẹ, nên phạm giới dubbhāsita
āpatti (giới nói bậy), phạm giới dukkaṭa āpatti (giới hành bậy), và dần dần tiếp
theo phạm giới pācittiya āpatti (giới sám hối lỗi), phạm giới thullaccaya āpatti
(giới trọng). Các loại giới này còn thuộc về loại giới nhẹ.
Từ đó về sau, thời gian theo tuần tự tỳ-khưu, tỳ-khưu- ni phạm giới nặng, như
phạm giới Saṃghādisesa āpatti (giới hành phạt), nhưng vẫn còn giữ phẩm hạnh
tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, cho đến khi tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm
giới pārājika āpatti (giới bại hoại), khi ấy, tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy không còn
phẩm hạnh tỳ-khưu, phẩm hạnh tỳ-khưu-ni nữa.
Thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư tại Đảo quốc Srilankā,
450 năm sau Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, khi ấy, tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn còn.
Khoảng 500 năm sau Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, tỳ-khưu-ni-tăng không còn
nữa, chỉ còn có chư tỳ-khưu-tăng tồn tại cho đến nay mà thôi.
Theo tuần tự thời gian đến khi gần mãn tuổi thọ Phật- giáo 5.000 năm, tỳ-khưu có
đức-tin càng ngày càng giảm dần, nên giữ gìn giới-hạnh của mình không còn trong
sạch, cho đến khi không còn hành-giới nữa.
Đó là thời-kỳ
pháp-hành-giới bị mai một, bị suy đồi và cũng là thời-kỳ
pháp-hành
Phật-giáo bị suy đồi trong cõi người.
Pháp-học Phật-giáo bị suy thoái như thế nào?
Pháp-học Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, lời giáo huấn của
Đức-Phật.
Pháp-học Phật-giáo là nhân, pháp-hành Phật-giáo là quả, nhân và quả đi đôi với
nhau.
Sở dĩ,
pháp-hành Phật-giáo bị mai một, bị suy thoái dần tuần tự theo thời gian
tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm là vì pháp-học Phật-giáo
bị mai một, bị suy đồi
theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm ấy.
Ban đầu, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão học thuộc lòng giữ gìn duy trì
Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, Pháp-học Phật-giáo đầy đủ y theo bản chánh qua
các kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Về sau, tuần tự theo thời gian chư Đại-Trưởng-lão và chư Trưởng-lão thông-thuộc,
thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đã tịch diệt không còn trong cõi người.
Chỉ còn chư tỳ-khưu có đức-tin càng ngày càng giảm dần, trí-tuệ ba-la-mật kém,
nên không đủ khả năng học thuộc lòng trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Đó là nguyên nhân làm cho pháp-học Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo
thời gian tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm như sau:
Tam-tạng Pāḷi là Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi bị mai
một, bị suy đồi theo tuần tự:
Trong Tam-tạng Pāḷi ấy, trước tiên Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi)
bị mai một, bị suy đồi.
*
Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn là:
1- Bộ Dhammasaṅgaṇīpāḷi: Bộ Pháp-hội-tụ gồm tất cả các chân-nghĩa-pháp thành
nhóm Mātikā.
2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích gồm các pháp phân tích ra 18 loại, …
3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại gồm các pháp phân loại thành ngũ-uẩn
(khandha),…
4- Bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ Pháp-nhân-chế-định
phân biệt các hạng người khác nhau.
5- Bộ Kathāvatthupāḷi:
Bộ Pháp-luận-đề đặt vấn đề
phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh-pháp.
6- Bộ Yamakapāḷi:
Bộ Pháp-song-đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau
từng cặp.
7- Bộ Paṭṭhānapāḷi:
Bộ Pháp-duyên-hệ giải về 24 duyên (paccaya) có quan hệ với
nhau.
* Bộ
Paṭṭhānapāḷi:
Pháp-duyên-hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi-diệu
nhất trong Phật-giáo.
Trong 7 bộ này, đầu tiên bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp- duyên-hệ là bộ lớn nhất,
vi-tế sâu sắc nhất, bị mai một trước; tiếp theo bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối;
tuần tự đến bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề, bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ
Nhân-chế-định, bộ Dhātu- kathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại, bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ
Pháp-phân-tích, cuối cùng bộ Dhammasaṅgaṇīpāli: Bộ Pháp-hội-tụ bị mai một, bị
suy đồi cuối cùng.
Dù Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, nhưng còn Tạng Kinh
Pāḷi và Tạng Luật Pāḷi là pháp-học Phật-giáo vẫn còn tồn tại.
Tiếp theo
Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi)
bị mai một, bị suy đồi. Tạng Kinh
Pāḷi có 5 bộ lớn:
- Dīghanikāyapāḷi (Trường-bộ-kinh).
- Majjhimanikāyapāḷi (Trung-bộ-kinh).
- Saṃyuttanikāyapāḷi (Đồng-loại-bộ-kinh).
- Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi-bộ-kinh).
- Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu-bộ-kinh).
Trong 5 bộ này, đầu tiên Aṅguttaranikāyapāḷi: Chi- bộ-kinh bị mai một trước.
Chi-bộ-kinh có 11 phần, gồm những bài pháp, bài kinh có 1 chi, 2 chi, 3 chi,
v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi.
*
Aṅguttaranikāyapāḷi, trước tiên, những bài kinh có 11 chi bị mai một trước,
tiếp theo những bài kinh có 10 chi và tuần tự đến những bài kinh có 9 chi, có 8
chi, có 7 chi, có 6 chi, có 5 chi, có 4 chi, có 3 chi, có 2 chi, cuối cùng những
bài pháp 1 chi bị mai một hoàn toàn.
Chi-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
* Tiếp theo
Saṃyuttanikāyapāḷi: Đồng-loại-bộ-kinh
bị mai một, bị suy đồi. Đồng-loại-bộ-kinh có 5 phần:
- Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi.
- Nidānavaggasaṃyuttapāḷi.
- Khaṇdhavaggasaṃyuttapāḷi.
- Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi.
- Mahāvaggasaṃyuttapāḷi.
Trong 5 phần này, trước tiên phần Mahāvagga- saṃyuttapāḷi bị mai một trước, tiếp
theo phần Sāḷā- yatanasaṃyuttapāḷi, tuần tự đến phần Khaṇdhavagga- saṃyuttapāḷi,
phần Nidānavaggasaṃyuttapāḷi và cuối cùng phần Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi bị mai
một hoàn toàn.
Đồng-loại-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
* Tiếp theo
Majjhimanikāyapāḷi: Trung-bộ-kinh
bị mai một, bị suy đồi.
Trung-bộ-kinh có 3 phần:
- Mūlapaṇṇāsapāḷi.
- Majjhimapaṇṇāsapāḷi.
- Uparipaṇṇāsapāḷi.
Trong 3 phần này, trước tiên phần
Uparipaṇṇāsapāḷi bị mai một trước, tiếp theo
phần Majjhimapaṇṇāsapāḷi và cuối cùng phần
Mūlapaṇṇāsapāḷi bị mai một hoàn toàn.
Trung-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
* Tiếp theo
Dīghanikāyapāḷi: Trường-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi.
Trường-bộ-kinh có 3 phần:
- Sīlakkhandhavaggapāḷi.
- Mahāvaggapāḷi.
- Pāthikavaggapāḷi.
Trong 3 phần này, trước tiên phần
Pāthikavaggapāḷi
bị mai một, bị suy đồi trước, tiếp đến phần
Mahāvaggapāḷi và cuối cùng phần
Sīlakkhandhavaggapāḷi bị mai một hoàn toàn.
Trường-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
* Tiếp theo
Khuddakanikāyapāḷi: Tiểu-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Dù Tạng Kinh Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, nhưng còn Tạng Luật Pāḷi là
pháp-học Phật-giáo vẫn còn tồn tại.
* Cuối cùng
Tạng Luật Pāḷi:
Vinayapiṭakapāḷi
bị mai một, bị suy đồi. Tạng Luật
Pāḷi có 5 bộ:
- Bộ Pārājikapāḷi.
- Bộ Pācittiyapāḷi.
- Bộ Mahāvaggapāḷi.
- Bộ Cūḷavaggapāḷi.
- Bộ Parivārapāḷi.
Trong 5 bộ này, trước tiên bộ
Parivārapāḷi bị mai một trước, tiếp theo bộ
Cūḷavaggapāḷi, tuần tự đến bộ
Mahāvaggapāḷi, bộ
Pācittiyapāḷi và cuối cùng bộ
Pārājikapāḷi bị mai một, song chỉ còn
Uposatha- kkhandhaka là pháp-học Phật-giáo
vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.
Về sau,
Uposathakkhandhaka bị mai một, cuối cùng không còn một ai thuộc lòng
được bài kệ gồm có 4 câu.
Khi ấy, pháp-học Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.
Tóm lại, trong 3 loại Phật-giáo là
pháp-học Phật- giáo, pháp-hành Phật-giáo,
pháp-thành Phật-giáo, thì
pháp-học Phật-giáo là cốt lõi, là nền tảng căn bản của
pháp-hành Phật-giáo và
pháp-thành Phật-giáo.
Thật vậy, nếu học pháp-học Phật-giáo hiểu biết đúng, kỹ càng, thì khi thực hành
pháp-hành Phật-giáo mới đúng. Nếu thực hành pháp-hành Phật-giáo đúng, thì có quả
là pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn mới phát sinh,
dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Trái lại, nếu học pháp-học Phật-giáo mà hiểu sai thì sẽ thực hành pháp-hành
Phật-giáo sai, nếu thực hành pháp-hành Phật-giáo sai thì sẽ không có quả là
pháp- thành Phật-giáo, không có 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, không thể
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, mà vẫn tiếp tục chịu mọi
cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Phật-giáo là lời giáo huấn của Đức-Phật bằng ngôn ngữ Pāḷi được ghi chép thành
Tam-tạng Pāḷi đó là Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.
Trong ba Tạng này, Tạng Luật Pāḷi là nền tảng căn bản của Phật-giáo, cũng là
tuổi thọ của Phật-giáo.
Thật vậy, dù Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Tạng Kinh Pāḷi bị mai một hoàn toàn, chỉ
còn có Tạng Luật Pāḷi thì Phật-giáo vẫn còn tồn tại trong cõi người.
Trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, phần đầu Nidāna
dạy rằng:
“Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu,
Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hotu.”
(28)
Tạng Luật là tuổi thọ của Phật-giáo.
Khi Tạng Luật được trường tồn,
Thì Phật-giáo được trường tồn.
(Xong phần Đức-Pháp.)
(1) Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần
Ekakanipātaṭṭhakathāvaṇṇanā. Pháp- học Phật-giáo bằng ngôn ngữ Pāḷi, không phải
là ngôn ngữ Sanskrit.
(2) Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, kinh
Pahārādasutta.
(3) Dhammapadagāthā số 153, 154.
(4) Tham-ái có tất cả 108 loại.
(5) Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh
Mahāparinibbānasutta.
(6) Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh
Mahāparinibbānasutta.
(7) Bộ Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh
Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā.
(8) Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.
(9) Bộ Saṃyuttanikāya, phần Khandhavagga, kinh
Attadīpasutta.
(10) Ñeyyadhamma có 5 pháp 1- Saṅkhāra: Các
pháp-hành cấu tạo. 2- Vikāra: Các pháp biến đổi. 3- Lakkhaṇa: Các trạng-thái của
các pháp. 4- Paññatti: Các chế-định-pháp. 5- Nibbāna: Niết-bàn.
(11) Tự-tánh: Tánh riêng của mỗi pháp. Ví
dụ: nhãn-tự-tánh (tự-tánh của nhãn-tịnh-sắc là tiếp xúc với đối-tượng sắc);
nhãn-thức-tự-tánh (tự-tánh của nhãn-thức-tâm là nhìn thấy đối-tượng sắc).
(12) Tam minh: Tiền-kiếp-minh, Thiên-nhãn
minh, Trầm-luân-tận-minh.
(13) Bát thiền: 4 bậc thiền sắc-giới và 4
bậc thiền vô-sắc-giới.
(14) Lục thông: Đa-dạng-thông, thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông, tiền-kiếp- thông,
tha-tâm-thông, trầm-luân-tận-thông.
(15) Tứ tuệ-phân-tích: Nghĩa phân-tích, Pháp phân-tích, Ngôn-ngữ phân-tích,
Tuệ-ứng-đối phân-tích.
(16) Bộ Theragāthāpāḷi,
Ānandattheragathāpāḷi.
(17) Vinayapiṭaka, Cūḷavaggapāḷi, phần
Saṅgītinidāna.
(18) Ngài Đại-đức Mahinda là bậc Thánh
A-ra-hán, vốn là Thái-tử của đức- vua Asoka.
(19)
Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Samghamittā là
bậc Thánh A-ra-hán, vốn là công-chúa của đức-vua Asoka.
(20) Bộ Chú-giải Pāthikavaggaṭṭhakathā, phần
Dhammaratanapūjā (91).
(21) Bộ Abhidhammatthasaṅgaha xem như là Chú-giải, do Ngài Đại-Trưởng- lão
Anuruddha vào khoảng thời gian sau Ngài Đại-Trưởng-lão Buddha- ghosa. Ngài
Đại-Trưởng-lão Anuruddha biên soạn 3 bộ: Paramattha- vinicchaya,
Nāmarūpapariccheda, Abhidhammatthasaṅgaha. Riêng bộ Abhidhammatthasaṅgaha dù là
bộ nhỏ vẫn có sự lợi ích lớn đối với người ban đầu học hỏi nghiên cứu về tạng
Vi-diệu-pháp, xem là “Bộ-cẩm-nang của môn Vi-diệu-pháp”.
(22) Nên tìm hiểu đầy đủ trong bộ “Nền-Tảng-Phật-Giáo”
quyển III: Pháp- Hành-Giới;
quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định và
quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn-giả.
(23) Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo,
quyển III: Pháp-Hành- Giới, cùng
soạn-giả.
(24) Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo,
quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định,
phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định, cùng soạn-giả.
(25) Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo,
quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định,
phương pháp tập luyện phép-thần-thông.
(26) Aṅg. Aṭṭhakanipātaṭṭhakathā,
Gotamīsuttavaṇṇanā.
(27) Dī. Pāthikavaggaṭṭhakathā,
Sampasādanīyasuttavaṇṇanā, Tipiṭka antara- dhānakathā và Aṅg.
Ekakanipātaṭṭhakathā, phần Pañca antarādhānāni.
(28) Bộ Pārājikakaṇda aṭṭhakathā, Bāhiranidānakathā.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03
| 04 | 05 | 06 | 07 | 08
| 09 | 10 | 11 | 12 | 13
| 14 | 15 | 16 | 17 | 18
| 19 | 20 | 21 | 22 | 23
| 24 | 25 | 26 | 27 | 28
| 29 | 30 | 31 | 32 | 33
| 34 | 35 | 36 | 37 | 38
| Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10