NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
ĐỨC-PHÁP
(DHAMMA)
Đức-Pháp
dịch từ danh từ Pāḷi
Dhamma, trong phần này nghĩa là Chánh-pháp
(Saddhamma) mà
Đức-Phật Gotama
đã thuyết giảng hoàn hảo
phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương
trong sáng thanh-tịnh. Chánh-pháp có 10 pháp là:
- Pháp-học Chánh-pháp (Pariyattidhamma).
- 9 pháp siêu-tam-giới (Navalokuttaradhamma).
Pháp-Học Chánh-Pháp
Pháp-học Chánh-pháp là lời giáo huấn của
Đức-Phật Gotama
gồm
có Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.
Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên
Đức-Phật Gotama
xuất hiện trên thế gian vào canh chót
đêm rằm tháng tư, đồng thời Đức-Pháp
cũng xuất hiện
cùng một lúc ấy, còn Đức-Tăng
chưa xuất hiện.
Vào ngày rằm tháng 6, sau khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian tròn
đúng 2 tháng, lần đầu tiên Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacak-
kappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Trưởng-lão
Koṇḍañña trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji
tại vườn phóng sinh nai tên gọi Isipatana gần kinh-thành Bārāṇasī.
Khi ấy, mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng vừa ló dạng hướng Đông,
Đức-Phật Gotama
thuyết giảng bài kinh
Dhammacakkappavattanasutta: Kinh
Chuyển-Pháp- Luân này.
Bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân
(Dhammacakkappavattanasutta)
(1)
Phần I: Ý nghĩa kệ khai Kinh Chuyển-Pháp-Luân
“Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnaṃ ...”
Vị Đại-Phạm-thiên
Sa-ham-pa-ti,
Thỉnh cầu Đức-Phật, thuyết pháp độ sinh,
Đức-Phật đại bi nhận lời thỉnh cầu.
Thuyết pháp giảng giải pháp tứ Thánh-đế,
Chánh-pháp cao thượng chứng ngộ Niết-bàn
Tế độ chúng-sinh, nhóm năm tỳ-khưu
Tại khu rừng rậm, nơi phóng sinh nai
Tên gọi là I-si-pa-ta-na,
Mong sự lợi ích cho toàn chúng-sinh,
Lắng nghe bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này,
Thành tựu kết quả cõi người, cõi trời,
Niết-bàn tịch tịnh an-lạc tuyệt đối.
Nay chúng tôi tụng kinh Chuyển-Pháp-Luân.
Phần II: Ý nghĩa bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân
Lời Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa rằng:
- “Evaṃ me sutaṃ …”
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa khả kính, con là Ānanda được nghe
bài kinh Chuyển-pháp- luân từ Đức-Thế-Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai, tên là Isipatana,
trước kia Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, chư Phật Độc-Giác đã từng ngự xuống đây.
Tại nơi ấy, Đức-Thế-Tôn gọi nhóm 5 tỳ-khưu là Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài
Trưởng-lão Vappa, Ngài Trưởng lão Bhaddiya, Ngài Trưởng-lão Mahānāma và Ngài
Trưởng-lão Assaji mà truyền dạy rằng:
Hai pháp thấp hèn (Dve antā)
- Này chư tỳ-khưu! Có 2 pháp thấp hèn cực đoan thuộc về hai biên kiến mà
người xuất gia không nên hành.
Hai pháp ấy như thế nào?
* Một là việc thường thụ hưởng dục lạc trong ngũ-dục do tâm tham-ái hợp với
thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời,
không phải là pháp- hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại lợi ích an-lạc.
* Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân và có
đoạn-kiến,
thuộc pháp-hành khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải là pháp-hành của bậc Thánh-
nhân, không đem lại lợi ích an-lạc.
Pháp-Hành Trung-Đạo (Majjhimapaṭipadā)
- Này chư tỳ-khưu! Không thiên về 2 pháp thấp hèn thuộc về thường-kiến và
đoạn-kiến ấy, Như-Lai đã thực- hành theo
pháp-hành trung-đạo
nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam- giới, làm
cho tuệ-nhãn (cakkhu) đã phát sinh thấy rõ, biết rõ tứ
Thánh-đế, làm cho trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam- giới (ñāṇa) đã phát sinh thấy rõ,
biết rõ tứ Thánh-đế, để chứng ngộ Niết-bàn làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát
sinh trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đặc biệt chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, để tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi
trong tam-giới.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai đã thực-hành theo
pháp- hành trung-đạo
nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, làm
cho tuệ-nhãn (cakkhu) đã phát sinh thấy rõ, biết rõ tứ
Thánh-đế, làm cho trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới (ñāṇa) đã
phát sinh thấy rõ, biết rõ tứ Thánh-đế, để chứng ngộ Niết-bàn làm vắng lặng mọi
phiền não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đặc biệt chứng đắc 4
Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, để tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi
trong tam-giới.
Pháp-hành trung-đạo
như thế nào?
- Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành trung-đạo đó chính là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao
thượng là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng,
chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này gọi là
pháp-hành trung-đạo.
- Này chư tỳ-khưu! Như-Lai đã thực-hành theo pháp-hành trung-đạo
này, đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn (cakkhu) đã phát sinh thấy rõ,
biết rõ tứ Thánh-đế, làm cho trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới
(ñāṇa) đã phát sinh thấy rõ, biết rõ tứ Thánh-đế, để chứng ngộ Niết-bàn làm vắng
lặng mọi phiền não, để phát sinh trí-tuê-thiền-tuệ siêu-tam-giới đặc biệt chứng
đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, để tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh
luân-hồi trong tam-giới.
Tứ Thánh-Đế
1- Khổ-Thánh-đế (Dukkha Ariyasacca)
- Này chư tỳ-khưu! Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ,
đó là:
* Tái-sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ.
* Phải gần gũi, thân cận với người không thương yêu là khổ.
* Phải xa lìa người thương yêu là khổ.
* Mong muốn đừng có sinh, đừng có già, đừng có bệnh, đừng có chết … mà điều ấy
không thể nào được như ý là khổ.
Tóm lại, chấp trong
ngũ-uẩn chấp-thủ
do tâm tham-ái và tà-kiến
là khổ.
Những thật-tánh khổ ấy gọi là khổ-Thánh-đế.
2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế
(Dukkhasamudaya Ariyasacca)
- Này chư tỳ-khưu! Nhân sinh khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã
chứng ngộ, đó là tham-ái là nhân dắt dẫn tái-sinh kiếp sau, hợp với tham muốn,
ái-dục say mê trong mỗi kiếp ấy, say mê trong các đối-tượng, đắm say trong kiếp
sống.
Nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy là:
* Dục-ái (kāmataṇhā): tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái,
vị-ái, xúc-ái, pháp-ái).
* Hữu-ái (bhavataṇhā): tham-ái trong 6 đối-tượng ái hợp với thường-kiến, hoặc
tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới, vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi
vô-sắc-giới.
* Phi-hữu-ái (vibhavataṇhā): tham-ái trong 6 đối- tượng ái hợp với đoạn-kiến.
Những thật-tánh tham-ái ấy gọi là nhân sinh khổ- Thánh-đế.
3- Diệt khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodha Ariyasacca)
- Này chư tỳ-khưu! Diệt khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng
ngộ, đó là Niết-bàn, là pháp diệt tận được mọi tham-ái ấy không
còn dư sót bằng 4 Thánh-đạo-tuệ, Niết-bàn xả ly tất cả, Niết-bàn từ bỏ chấp
trong ngũ-uẩn chấp-thủ, Niết-bàn giải thoát khổ, Niết-bàn không còn luyến ái,
không còn dính mắc.
Những thật-tánh Niết-bàn ấy gọi là diệt khổ-Thánh-đế.
4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế
(Dukkhanirodhagaminī Paṭipadā Ariyasacca)
- Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt
khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh- nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ
8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng,
chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
Những thật-tánh pháp-hành bát-chánh-đạo ấy gọi là pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế.
Tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế
1- Tam-tuệ-luân trong khổ-Thánh-đế
1.1- Trí-tuệ-học biết khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) biết rõ khổ- Thánh-đế đã phát sinh,
trí-tuệ (ñāṇa) biết rõ thật-tánh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt
(paññā) biết rõ tái-sinh là khổ, sinh, già là khổ,… tóm lại ngũ- uẩn chấp-thủ là
khổ đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) biết rõ thấu suốt hoàn toàn khổ-Thánh-đế đã
phát sinh, ánh sáng trí-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ khổ- Thánh-đế đã
phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa
trở thành Đức- Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ-Thánh-đế là pháp mà
trí-tuệ-học
có phận sự học hỏi, hiểu biết rõ ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ-Thánh-đế.”
1.2- Trí-tuệ-hành phận sự biết khổ-Thánh-đế
(Kiccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ, biết rõ tái-sinh là khổ,
sinh, già là khổ,… tóm lại ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ đã phát sinh, tuệ-minh
(vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng
trí-tuệ- thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ khổ-Thánh- đế đã phát sinh
đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa trở thành
Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ-Thánh-đế, là pháp mà
trí-tuệ-hành
có phận sự nên biết rõ ngũ-uẩn chấp-thủ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.”
1.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự biết khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, trí- tuệ-thiền-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ, biết rõ tái-sinh là khổ,
sinh, già là khổ,… tóm lại ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ đã phát sinh, tuệ-minh
(vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng
trí- tuệ-thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ khổ- Thánh-đế đã phát sinh
đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa trở thành
Đức- Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của ngũ-uẩn chấp-thủ là khổ-Thánh-đế là pháp mà trí-tuệ-hành có phận
sự nên biết rõ, thì trí-tuệ-thành đã biết rõ ngũ-uẩn chấp-thủ bằng 4
Thánh-đạo- tuệ rồi.”
2- Tam-tuệ-luân trong nhân sinh khổ-Thánh-đế
2.1- Trí-tuệ-học biết nhân sinh khổ-Thánh-đế
(Saccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế
đã phát sinh, trí-tuệ (ñāṇa) biết rõ thật-tánh nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, trí-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ 108 loại tham-ái đó là 3 loại taṇhā là
kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā nhân với 6 loại đối-tượng là sắc-ái,
thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái thành 18 loại tham-ái, rồi nhân với 2
bên là bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác thành 36 loại, rồi
nhân với 3 thời là thời quá-khứ, thời hiện-tại, thời vị-lai gồm có 108 loại
tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) biết rõ thấu
suốt hoàn toàn nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ (āloko)
diệt màn vô-minh che phủ nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai
trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa trở thành
Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế, là pháp mà
trí-tuệ-học
có phận sự học hỏi, hiểu biết rõ tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế.”
2.2- Trí-tuệ-hành phận sự diệt nhân sinh khổ- Thánh-đế (Kiccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế
đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh nhân sinh
khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ, biết rõ
108 loại tham-ái đó là 3 loại taṇhā là kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā … gồm
có 108 loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā)
thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh
sáng trí-tuệ-thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ nhân sinh khổ-Thánh- đế
đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế, mà trước
đây, khi chưa trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế, là pháp mà
trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt tham-ái bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.”
2.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự diệt tận nhân sinh
khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế
đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh nhân sinh
khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ, biết rõ
108 loại tham-ái đó là 3 loại taṇhā là kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā … gồm
có 108 loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā)
thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn nhân sinh khổ- Thánh-đế đã phát sinh, ánh
sáng trí-tuệ-thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ nhân sinh khổ-Thánh-đế
đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế, mà trước
đây, khi chưa trở thành Đức- Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế, là pháp mà trí-tuệ-hành có
phận sự nên diệt, thì trí- tuệ-thành đã diệt tận được tham-ái bằng 4
Thánh- đạo-tuệ rồi.”
3- Tam-tuệ-luân trong diệt khổ-Thánh-đế
3.1- Trí-tuệ-học biết diệt khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) biết rõ diệt khổ-Thánh-đế đã
phát sinh, trí-tuệ (ñāṇa) biết rõ thật- tánh diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh,
trí-tuệ sáng suốt (paññā) biết rõ 2 loại Niết-bàn là sa-upādisesanibbāna,
anupādisesanibbāna, biết rõ 3 loại Niết-bàn là animita- nibbāna,
appaṇihitanibbāna, suññatanibbāna đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) biết rõ thấu
suốt hoàn toàn diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ (āloko) diệt màn
vô-minh che phủ diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp
diệt khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng
nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của Niết-bàn là diệt khổ-Thánh-đế, là pháp mà
trí-tuệ-học có
phận sự học hỏi, hiểu biết rõ Niết-bàn là diệt khổ-Thánh-đế.”
3.2- Trí-tuệ-hành phận sự chứng ngộ diệt khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ diệt khổ-Thánh-đế đã
phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh diệt khổ-Thánh-đế
đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ sáng suốt (paññā) biết rõ 2 loại Niết-bàn là
sa-upādisesanibbāna, anupādisesanibbāna, biết rõ 3 loại Niết-bàn là
animitanibbāna, appaṇihita- nibbāna, suññatanibbāna đã phát sinh, tuệ-minh
(vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh
sáng trí-tuệ- thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ diệt khổ-Thánh-đế đã
phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi
chưa trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của Niết-bàn là diệt khổ-Thánh-đế, là pháp mà
trí-tuệ-hành có
phận sự nên chứng ngộ Niết- bàn bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.”
3.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Niết-bàn diệt
khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ diệt khổ-Thánh-đế đã
phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh diệt khổ-Thánh-đế
đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ sáng suốt (paññā) biết rõ 2 loại Niết-bàn là
sa-upādisesanibbāna, anupādisesanibbāna, biết rõ 3 loại Niết-bàn là
animitanibbāna, appaṇihita- nibbāna, suññatanibbāna đã phát sinh, tuệ-minh
(vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh
sáng trí-tuệ- thiền-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ diệt khổ-Thánh-đế đã
phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi
chưa trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của Niết-bàn là diệt khổ-Thánh-đế, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự
nên chứng ngộ, thì trí- tuệ-thành đã chứng ngộ Niết-bàn bằng 4
Thánh-đạo- tuệ rồi.”
4- Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế
4.1- Trí-tuệ-học biết pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) biết rõ pháp- hành dẫn đến
diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ (ñāṇa) biết rõ thật-tánh pháp-hành dẫn
đến diệt khổ- Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt (paññā) biết rõ pháp-hành
bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp,
chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đã phát sinh, tuệ-minh
(vijjā) biết rõ thấu suốt hoàn toàn pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát
sinh, ánh sáng trí-tuệ (āloko) diệt màn vô-minh che phủ pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe,
chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của pháp-hành bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy,
chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, là
pháp mà trí-tuệ-học có phận sự học hỏi, hiểu biết rõ pháp-hành
bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến,… là pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế.”
4.2- Trí-tuệ-hành phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế
(Kiccañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí- tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ thật-tánh
pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ sáng suốt
(paññā) thấy rõ, biết rõ pháp-hành bát-chánh- đạo có 8 chánh là chánh-kiến, … đã
phát sinh, tuệ-minh (vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn pháp-hành dẫn
đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí- tuệ-thiền-tuệ (āloko) diệt màn
vô-minh che phủ pháp- hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với
Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế, mà trước đây, khi chưa
trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của pháp-hành bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, … là pháp mà
trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo bằng
trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới.”
4.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến
diệt khổ- Thánh-đế (Katañāṇa)
- Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhu) thấy rõ, biết rõ pháp-hành dẫn
đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ, biết rõ
thật-tánh pháp- hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ
sáng suốt (paññā) biết rõ pháp-hành bát- chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, …
đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) thấy rõ, biết rõ thấu suốt hoàn toàn pháp-hành
dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh sáng trí-tuệ-thiền-tuệ (āloko) diệt
màn vô-minh che phủ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với
Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa
trở thành Đức-Phật, Như-Lai chưa từng nghe, chưa từng biết rằng:
“Thật-tánh của pháp-hành bát-chánh-đạo có 8 chánh là chánh-kiến, … là pháp-hành
dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế, là pháp mà
trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến
hành, thì trí-tuệ-thành đã tiến hành pháp-hành bát-chánh- đạo hợp đủ 8 chánh
bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi.”
Vai trò quan trọng của tam-tuệ-luân
- Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của
tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành
12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh chưa phát sinh đến với Như-Lai.
- Này chư tỳ-khưu! Khi ấy Như-Lai chưa truyền dạy rằng: “Như-Lai chứng đắc thành
Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại,
vua chúa, sa-môn, bà-la-môn, chư-thiên, ma- vương và phạm-thiên cả thảy.”
- Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của
tứ Thánh-đế theo
tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học,
trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng,
thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.
- Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai
đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-
giới chúng-sinh: nhân-loại, vua chúa, sa-môn, bà-la- môn, chư-thiên, ma-vương và
phạm-thiên cả thảy.”
Trí-tuệ quán-triệt (Paccavekkhaṇañāṇa)
Trí-tuệ quán-triệt đã phát sinh đến với Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán
Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như- Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp
chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái-sinh kiếp nào nữa.”
Ngài Trưởng-Lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp- luân này xong, nhóm 5 tỳ-khưu
phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời giáo huấn của Đức-Phật.
Trong khi Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Chuyển-Pháp- luân toàn văn xuôi này xong,
thì Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña đã phát sinh
dhammacakkhu:
pháp-nhãn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo,
Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi)
và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu
tiên trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama, nên Ngài thấy rõ, biết rõ chắc chắn
rằng:
“Tất cả các pháp-hữu-vi nào trong tam-giới có trạng- thái-sinh, thì tất cả
pháp-hữu-vi ấy đều có trạng-thái-diệt.”
Toàn thể chư-thiên, phạm-thiên đồng tán dương ca tụng
Khi Đức-Phật thuyết giảng kinh Chuyển-pháp-luân vừa xong, toàn thể
chư-thiên trên mặt đất
(bhummaṭṭha- devatā) đồng thanh tán dương ca
tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, chưa từng có sa-môn nào, bà-
la-môn nào, vị chư-thiên nào, ma-vương nào, vị phạm- thiên nào hoặc bất cứ một
ai nào trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”
* Toàn thể chư-thiên cõi Tứ-Đại-thiên-vương nghe lời tán dương ca tụng của
chư-thiên trên mặt đất, cũng đồng thanh tán dương ca tụng như chư-thiên trên mặt
đất rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Toàn thể chư-thiên cõi Tam-thập-Tam-thiên nghe lời tán dương ca tụng của
chư-thiên cõi Tứ-Đại-thiên- vương, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Toàn thể chư-thiên cõi Dạ-Ma-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên
cõi Tam-thập-Tam-thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Toàn thể chư-thiên cõi Đâu-suất-đà-thiên nghe lời tán dương ca tụng của
chư-thiên cõi Dạ-ma-thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Toàn thể chư-thiên cõi Hóa-lạc-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên
cõi Đâu-suất-đà-thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Chư-thiên cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên
cõi Hóa-lạc-thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, …”
* Toàn thể chư phạm-thiên cõi trời sắc-giới nghe lời tán dương ca tụng của
chư-thiên cõi Tha-hóa-tự-tại- thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
“Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển-pháp-luân vô thượng tại khu rừng phóng
sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, chưa từng có sa-môn nào, bà-
la-môn nào, vị chư-thiên nào, ma-vương nào, vị phạm- thiên nào hoặc bất cứ một
ai nào trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”
Ngay thời khắc ấy, ngay lúc ấy, ngay tích tắc ấy, lời tán dương ca tụng vang dội
lên đến cõi sắc-giới phạm- thiên tột đỉnh là “Sắc-cứu-cánh-thiên” (Akaniṭṭhā).
Mười ngàn thế giới này đều chuyển động lên xuống, chuyển động nhấc lên nhấc
xuống, chuyển động bên này sang bên kia.
Ánh sáng hào quang của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác lan tỏa rộng vô biên khắp cùng
toàn cõi-giới chúng-sinh, gấp bội lần ánh sáng hào quang do oai lực chư-thiên,
phạm-thiên cả thảy.
Ngài Trưởng-Lão Koṇḍañna có tên gọi là Aññāsikoṇḍañña
Khi Ngài Trưởng-Lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, Đức-Thế-
Tôn hoan-hỷ tự thốt lên cho toàn thế giới biết rằng:
“Aññāsi vata bho Koṇḍañño Aññāsi vata bho Koṇḍañño” ti.
Iti hidaṃ āyasmato Koṇḍaññassa “Aññāsikoṇḍañño” tveva nāmaṃ ahosī’ti.
- Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế rồi!
- Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế rồi!
Cho nên, Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña có tên gọi là Aññāsikoṇḍañña (Ngài Trưởng-lão
Koṇḍañña đã chứng ngộ).
Ngài Trưởng-Lão Aññāsikoṇḍañña xin thọ tỳ-khưu
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão
Aññāsikoṇḍañña thấy đúng chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ thật-tánh đúng theo chân-lý
tứ Thánh-đế, đã thấu suốt chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-
tam-giới, đã thoát ra khỏi mọi hoài-nghi, không còn nghi ngờ thế này thế kia
nữa, đạt đến tâm dũng mãnh vững chắc, do nhân-duyên tự mình chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế y theo Đức-Phật, nên không còn tin nơi người khác nữa, có đức-tin vững
chắc trong lời giáo huấn của Đức-Phật.
Ngài Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng! Con xin nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, kính xin
Ngài cho phép con được thọ sa-di và tỳ-khưu.
Đức-Thế-Tôn đưa bàn tay phải ra, chỉ bằng ngón tay trỏ truyền dạy rằng:
- “Ehi bhikkhu Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa
antakiriyāya.”
- Này Aññāsikoṇḍañña! Con hãy đến với Như-Lai. Con trở thành tỳ-khưu theo ý
nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa,
phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh-tấn hành phạm-hạnh cao thượng để chứng đắc
A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, cuối cùng giải thoát khổ tử
sinh luân-hồi.
Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña đã trở thành vị
tỳ-khưu.
(Xong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân.)
Khi lắng nghe
Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài
kinh Chuyển-Pháp-Luân này, trong nhóm 5 tỳ-khưu chỉ có
Ngài Trưởng-lão
Aññāsikoṇḍañña
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên y theo Đức-Phật,
chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp
của Đức-Phật Gotama
(2), cùng với
180
triệu chư-thiên, phạm-thiên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo
Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực của các
pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm-
pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của mỗi vị.
Sau khi đã trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu, Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña
được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách
Ehi bhikkhūpasampadā.
Đức- Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía
Ngài Đại-Trưởng-lão
Aññāsikoṇḍañña truyền dạy rằng:
“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa
antakiriyāya.”
Thật kỳ diệu thay! Khi Đức-Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ
đạo-sĩ của Ngài Đại-Trưởng- lão Aññāsikoṇḍañña biến mất, thay vào tăng
tướng mới, đạo mạo một tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ- khưu thành tựu
do quả của phước-thiện như thần-thông. Vị tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm,
thân, khẩu thanh-tịnh như một vị tỳ-khưu có 60 hạ.
Tam-Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian
Đức-Phật Gotama
thuyết giảng bài kinh Chuyển-
Pháp-Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu.
Ngài Đại-Trưởng-lão
Aññāsikoṇḍañña trở thành bậc Thánh Nhập-lưu
đầu tiên
trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, và trở thành
vị tỳ-khưu đầu tiên
trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama. Ngay khi ấy,
Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn đầu
tiên xuất hiện trên thế gian.
Còn lại 4 vị tỳ-khưu khác, Đức-Phật tiếp tục chỉ dạy.
* Sáng ngày 16 tháng 6,
Đức-Phật không ngự đi khất thực, ở lại tại khu
rừng Uruvelā để chỉ dạy Ngài Vappa và
Ngài Bhaddiya, còn 3 vị
tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji
đi khất thực đem vật thực về dâng đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại phân chia
đều cho 5 tỳ-khưu độ trong ngày.
Ngày 16 tháng 6,
Ngài Vappa
chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở
thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ
tỳ-khưu cũng theo cách
Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 17 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy
Ngài Bhaddiya và
Ngài Mahānāma,
còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsi- koṇḍañña, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi
khất thực đem vật thực về dâng đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho
5 tỳ-khưu.
Ngày 17 tháng 6,
Ngài Bhaddiya
chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn,
trở thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ
tỳ-khưu theo cách
Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 18 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy
Ngài Mahānāma và
Ngài Assaji,
còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya đi
khất thực đem vật thực về dâng đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho
5 vị tỳ-khưu.
Ngày 18 tháng 6,
Ngài Mahānāma
chứng ngộ chân- lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn,
trở thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ
tỳ-khưu theo cách
Ehibhikkhūpasampadā.
* Ngày 19 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy
Ngài Assaji, còn 4 vị tỳ-khưu đi
khất thực đem vật thực về dâng đến Đức- Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị
tỳ-khưu.
Ngày 19 tháng 6,
Ngài Assaji
chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở
thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ
tỳ-khưu theo cách
Ehibhikkhūpasampadā.
Như vậy nhóm 5 tỳ-khưu đều trở thành 5 bậc Thánh Nhập-lưu và cũng trở thành 5
tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Để nâng đỡ nhóm
5 tỳ-khưu Thánh Nhập-lưu
lên bậc Thánh A-ra-hán.
* Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh
Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã.
Thật vậy, sau khi nghe Đức-Phật thuyết bài
kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã xong,
nhóm 5 tỳ-khưu đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhất-lai
Thánh- đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả,
Niết-bàn, A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả, Niết-bàn diệt tận được
mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp không còn dư sót, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo-pháp của
Đức- Phật
Gotama.
Như vậy, ngoài Đức-Phật ra, còn có 5 vị
Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của
Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian này.
Tìm hiểu bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân
Hai pháp cực đoan thuộc 2 biên kiến
* Thường thụ hưởng an-lạc trong ngũ-dục: sắc-dục, thanh-dục, hương-dục,
vị-dục, xúc-dục, do tâm tham hợp với thường-kiến là cách sống của người tại gia.
Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng:
tâm sân thật là tai hại! Khổ
tâm là do tâm sân. Muốn diệt tâm sân chỉ có đối-tượng ngũ-dục đáng hài lòng, để
tâm tham phát sinh hài lòng trong mọi đối-tượng ngũ-dục ấy.
* Thường tự mình ép xác hành-khổ-hạnh như nằm trên gai nhọn, ngâm mình trong
nước lạnh, đốt lửa làm nóng thân thể, v.v… với tâm sân do đoạn-kiến theo cách
thực hành pháp-hành khổ-hạnh của tu-sĩ ngoại đạo.
Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng:
tâm tham trong ngũ-dục thật
là tai hại! Mọi sự say mê trong ngũ-dục do tâm tham. Muốn diệt tâm tham chỉ có
tự mình ép xác thực hành pháp-hành khổ-hạnh, để tâm sân không hài lòng phát sinh
mà thôi.
Bậc xuất-gia không nên thực hành 2 pháp cực đoan thuộc về 2 biên kiến, mà nên
thực hành theo pháp-hành trung-đạo (majjhimapaṭipadā)
là pháp-hành dẫn đến diệt tâm tham và tâm
sân, đồng thời diệt
tâm si.
Pháp-hành trung-đạo (Majjhimā paṭipadā)
là pháp-hành
bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh:
chánh-kiến, chánh- tư-duy, chánh-ngữ,
chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh- tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định. Đó là
pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới
bốn loài.
Tóm lược Tứ Thánh-Đế
* Trong bài
kinh Chuyển-Pháp-Luân
Ariyasacca: Thánh-đế là sự-thật chân-lý mà
bậc Thánh-nhân
đã chứng ngộ.
Ariyasacca: Thánh-đế
có 4 pháp:
1- Dukkha ariyasacca:
Khổ-Thánh-đế đó là
ngũ-uẩn chấp-thủ, là sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ,
hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ thuộc về tam-giới. Ngũ-uẩn là
đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ đều là
khổ-Thánh-đế.
2- Dukkhasamudaya ariyasacca:
Nhân sinh
khổ-Thánh-đế đó là
tham tâm-sở gọi là
tham-ái, có ba loại tham-ái (taṇhā):
-
Kāmataṇhā:
Dục-ái là tham-ái
trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) trong
cõi dục-giới.
-
Bhavataṇhā:
Hữu-ái là
tham-ái
trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp
với thường-kiến và tham-ái
trong thiền sắc-giới, thiền
vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
-
Vibhavataṇhā:
Phi-hữu-ái là
tham-ái
trong 6 đối- tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái,
xúc-ái, pháp- ái) hợp với đoạn-kiến.
3-
Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt khổ-Thánh-đế đó là
Niết-bàn.
4-
Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca: Pháp hành dẫn
đến diệt khổ-Thánh-đế đó là
pháp-hành bát- chánh-đạo
hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp,
chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.
* Trong bộ
Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo giảng giải về 16 thật-tánh của
tứ Thánh-đế: (3)
1-
Khổ-Thánh-đế (Dukkha-ariyasacca)
đó là ngũ-uẩn
chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp tam-giới
đó là 81 tam-giới-tâm (trừ
8 siêu-tam-giới-tâm) và 51 tâm-sở (trừ tham tâm-sở),
có 4
thật-tánh:
* Thật-tánh khổ của ngũ-uẩn là luôn luôn hành hạ.
* Thật-tánh khổ của ngũ-uẩn là do nhân-duyên cấu tạo.
* Thật-tánh khổ của ngũ-uẩn làm nóng nảy.
* Thật-tánh khổ của ngũ-uẩn là luôn luôn biến đổi.
2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca)
đó
là tham tâm-sở
gọi là
tham-ái,
có 3 loại tham- ái (taṇhā) là
nhân sinh khổ-Thánh-đế,
có 4
thật-tánh là:
* Thật-tánh tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh tham-ái làm cho phát sinh khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh tham-ái là ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh tham-ái là dính mắc trong khổ-Thánh-đế.
3- Diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca)
đó là
Niết-bàn
là pháp
diệt khổ-Thánh-đế,
có 4
thật-tánh:
* Thật-tánh Niết-bàn là giải thoát khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh Niết-bàn là không bị ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
* Thật-tánh Niết-bàn là không bị nhân-duyên cấu tạo.
* Thật-tánh Niết-bàn là không tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Dukkha- nirodhagaminī
paṭipadā ariyasacca) đó là
pháp-hành bát-chánh-đạo
hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư- duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp,
chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, chánh-định,
có 4 thật-tánh là:
* Thật-tánh bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.
* Thật-tánh bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
* Thật-tánh bát-chánh-đạo là pháp-hành giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong
tam-giới.
* Thật-tánh bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đầu làm phận sự:
- Biết khổ-Thánh-đế.
- Diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế.
- Chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
Tất cả 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế này đồng thành- tựu cùng một lúc
trong 4 Thánh-đạo-tâm.
Tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế
1-
Saccañāṇa: Trí-tuệ-học hiểu biết trong tứ Thánh-đế.
2-
Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế.
3-
Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
1- Tam-tuệ-luân trong Khổ-Thánh-đế
1.1-
Trí-tuệ-học là trí-tuệ học, hiểu biết rõ khổ-Thánh-đế đó là
ngũ-uẩn chấp-thủ (dukkhaṃ ariyasaccaṃ).
1.2-
Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ
phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
khổ-đế là pháp nên biết
bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyaṃ).
1.3-
Trí-tuệ-thành
là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý khổ- Thánh-đế, chứng đắc
4
Thánh-đạo-tuệ, biết rõ
khổ- Thánh-đế
là pháp nên biết thì
đã biết
bằng 4 Thánh-đạo- tuệ rồi (dukkhaṃ
ariyasaccaṃ pariññātaṃ).
2- Tam-tuệ-luân trong nhân sinh Khổ-Thánh-đế
2.1-
Trí-tuệ-học là trí-tuệ học, hiểu biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế đó
là
3 loại tham-ái
(dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ).
2.2-
Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ
phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
nhân sinh khổ-đế
là
pháp nên diệt
bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới
(dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabbaṃ).
2.3-
Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý nhân sinh khổ-Thánh-đế, chứng đắc
4 Thánh-đạo-tuệ, biết rõ
nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt thì
đã diệt tận bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhasamudayaṃ ariya-
saccaṃ pahīnaṃ).
3- Tam-tuệ-luân trong diệt Khổ-Thánh-đế
3.1-
Trí-tuệ-học là trí-tuệ học, hiểu rõ diệt khổ-Thánh-đế đó là
Niết-bàn (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ).
3.2-
Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực hành pháp-hành thiền- tuệ phát sinh
trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ diệt khổ-đế là
pháp nên
chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhaṃ
ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ).
3.3-
Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý diệt khổ-Thánh-đế, chứng đắc
4
Thánh-đạo-tuệ, biết rõ diệt khổ-Thánh-đế là
pháp nên chứng ngộ
thì đã chứng ngộ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ
sacchikataṃ).
4- Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế
4.1-
Trí-tuệ-học là trí-tuệ học, hiểu rõ pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo (dukkhanirodhagāminī paṭipadā
ariyasaccaṃ).
4.2-
Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực hành pháp-hành thiền- tuệ phát sinh
trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế
là
pháp nên tiến-hành bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới
(dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbaṃ).
4.3-
Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế,
chứng đắc 4 Thánh-đạo- tuệ biết rõ
pháp-hành dẫn đến diệt
khổ-Thánh-đế là
pháp nên tiến hành thì
đã tiến hành
bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitaṃ).
Tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế gồm có 12 (3x4) loại trí-tuệ có vai trò quan
trọng làm phận sự chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế mà
Đức-Phật Gotama đã
thuyết giảng trong bài kinh Dhammacakkappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân
rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của
tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân, (trí-tuệ học, trí-tuệ hành,
trí-tuệ thành) (4x3) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh
đã phát sinh đến Như-Lai.
- Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Anuttaraṃ
sammāsambodhiṃ abhisambuddho” Như-Lai đã chứng đắc thành Đức- Phật
Chánh-Đẳng-Giác vô-thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, vua chúa,
Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, phạm-thiên cả thảy.
Thực hành pháp-hành thiền-tuệ
Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ
chân-lý tứ
Thánh-đế, rồi chứng đắc
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
Hành-giả cần phải học và hành theo tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế.
1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế.
2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế.
3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
Hành-giả cần phải học và hành theo tuần tự trong
tam-tuệ-luân
như sau:
1- 4 Trí-tuệ-học trong Tứ Thánh-đế
Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên cần phải học
pháp-học
trong tứ Thánh-đế đó là học
4 trí- tuệ-học trong tứ Thánh-đế
cho
hiểu biết rõ chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:
1.1-
Khổ-Thánh-đế
đó là ngũ-uẩn chấp-thủ
Ngũ-uẩn chấp-thủ nghĩa là
ngũ-uẩn
là
đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ trong đối-tượng:
-
Kāmupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục,
hương-dục, vị-dục, xúc-dục)
trong cõi dục-giới,
có chi-pháp là
tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm.
-
Diṭṭhupādāna: Chấp-thủ trong tà-kiến (ngoài sīlab- batupādāna
và attavādupādāna), có chi-pháp là
tà-kiến tâm-sở đồng
sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
-
Sīlabbatupādāna: Chấp-thủ trong pháp-thường-hành sai lầm,
có chi-pháp là
tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm
hợp với tà-kiến.
-
Attavādupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-uẩn cho là ta,
có
chi-pháp là
tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với
tà-kiến.
4 pháp chấp-thủ này trong tam-giới: dục-giới, sắc- giới, vô-sắc-giới.
Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 pháp đó là:
1- Sắc-uẩn chấp-thủ đó là
28 sắc-pháp,
là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
2- Thọ-uẩn chấp-thủ
đó là thọ tâm-sở
trong 81 tam- giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
3- Tưởng-uẩn chấp-thủ
đó là tưởng tâm-sở
trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
4- Hành-uẩn chấp-thủ
đó là 50 tâm-sở
(trừ thọ tâm- sở và tưởng tâm-sở) trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng
của pháp chấp-thủ.
5- Thức-uẩn chấp-thủ
đó là 81 tam-giới-tâm
là đối- tượng của pháp chấp-thủ.
Ngũ-uẩn chấp-thủ
này thuộc
khổ-Thánh-đế
là pháp nên biết.
- Chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc- giới đều có đủ
ngũ-uẩn.
- Chúng-sinh ở trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có
4 danh- uẩn (thọ-uẩn,
tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) mà thôi.
- Chúng-sinh ở trong cõi
sắc-giới Vô-tưởng-thiên
chỉ có 1 uẩn là
sắc-uẩn mà thôi.
Mỗi tâm phát sinh đều có đủ
4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn,
hành-uẩn, thức-uẩn).
Thật vậy,
mỗi tâm phát sinh chắc chắn có
số tâm-sở đồng sinh
với tâm ấy.
- Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
- Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về
thọ-uẩn.
- Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn.
- Số tâm-sở
còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về
hành-uẩn.
- Vatthurūpa: là nơi nương nhờ của tâm với tâm-sở phát sinh thuộc về sắc-uẩn.
* Đối với chúng-sinh trú trong
11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ
cõi Vô-tưởng-thiên), mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ
ngũ-uẩn phát
sinh.
* Đối với chúng-sinh trú trong
4 cõi vô-sắc-giới, mỗi tâm phát sinh đều
có đầy đủ tứ-uẩn phát sinh.
* Đối với chúng-sinh trú trong
1 cõi sắc-giới Vô- tưởng-thiên chỉ có
nhất-uẩn là sắc-uẩn.
* Còn
thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong
8 siêu-tam-giới-tâm (4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh- quả-tâm) không phải là
đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ.
Như vậy,
28 sắc-pháp và 81 tam-giới-tâm và 51 tâm- sở (trừ tham tâm-sở)
đều thuộc về
khổ-Thánh-đế là pháp nên biết.
1.2-
Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham
tâm-sở gọi là
tham-ái.
Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại:
- Tham-ái có 3 loại đó là:
1-
Kāmataṇhā:
Dục-ái là tham-ái trong 6
đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái)
trong
cõi dục-giới.
2-
Bhavataṇhā:
Hữu-ái là tham-ái trong 6
đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp
với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi
sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
3-
Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối-
tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp- ái) hợp với
đoạn-kiến.
-
Tham-ái có 6 loại đó là
tham-ái trong 6 đối-tượng:
1-
Sắc-ái (rūpataṇhā) là tham-ái
trong đối-tượng sắc-dục.
2- Thanh-ái
(saddataṇhā)
là tham-ái trong đối-tượng
thanh-dục.
3- Hương-ái
(gandhataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng
hương-dục.
4- Vị-ái
(rasataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng
vị-dục.
5- Xúc-ái
(phoṭṭhabbataṇhā)
là tham-ái trong đối-tượng
xúc-dục.
6- Pháp-ái
(dhammataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng
pháp-dục.
- Tham-ái có 18 loại đó là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng
ái thành 18 loại tham-ái.
- Tham-ái có 54 loại đó là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời
(quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) thành 54 loại tham-ái.
- Tham-ái có 108 loại đó là 54 loại tham-ái nhân với 2 (bên
trong của mình và bên ngoài mình của người khác, đối-tượng khác) thành 108 loại
tham-ái.
Các loại tham-ái thuộc về
nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt.
1.3 -
Diệt khổ-Thánh-đế đó là
Niết-bàn, diệt
nhân sinh khổ-Thánh-đế.
Niết-bàn có 2 loại đó là:
1- Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) là Niết- bàn
đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não
không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: tất cả mọi phiền-não Niết-bàn,
nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
2- Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna)
là Niết-bàn đối
với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không
còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha-
parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào
tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:
1- Vô-hiện-tượng Niết-bàn (Animittanibbāna) là Niết-
bàn đối với hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ,
biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ
trạng-thái vô- thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái
vô-ngã, do năng lực tín pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn
pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của
giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện- tượng Niết-bàn
(animittanibbāna): Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
2- Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối
với hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ có trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết
rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ
trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái
vô-ngã, do năng lực định pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín
pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), hoặc do năng lực của định,
dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna): Niết-bàn
không có tham-ái nương nhờ.
3- Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) là Niết- bàn
đối với hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ,
biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ
trạng-thái vô- ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái
vô-thường, do năng lực tuệ pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại
(tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ), hoặc do năng lực của
tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna):
Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ- Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.
1.4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là
bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết- bàn, diệt khổ-Thánh-đế.
Bát-chánh-đạo có 8 chánh:
1- Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi): Trí-tuệ chân-chính là
trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
2- Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa): Tư-duy chân- chính
là:
- Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục,
- Tư-duy không làm khổ mình khổ người,
- Tư-duy không làm hại mình hại người.
3- Chánh-ngữ
(Sammāvācā): Lời nói chân-chính là:
- Không nói-dối, mà nói lời chân thật,
- Không nói lời chia rẽ, mà nói lời hòa hợp,
- Không nói lời thô tục, mà nói lời nhã nhặn,
- Không nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích.
4- Chánh-nghiệp (Sammākammanta): Nghề nghiệp
chân-chính là:
- Không sát-sinh,
- Không trộm-cắp,
- Không tà-dâm.
5- Chánh-mạng
(Sammā-ājīva): Nuôi mạng chân- chính là
tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác và khẩu nói ác.
6- Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma): Tinh-tấn chân- chính
là:
- Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
- Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
- Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
- Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
7- Chánh-niệm
(Sammāsati)
là niệm chân-chính có 4 pháp
là pháp-hành tứ-niệm-xứ:
- Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
- Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
- Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
- Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
8- Chánh-định (Sammāsamādhi): Định chân-chính là
định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
Bát-chánh-đạo
hợp đủ 8 chánh
chỉ đồng sinh
trong 8 hoặc 40 tâm siêu-tam-giới có Niết-bàn làm đối-tượng mà thôi, bởi vì
trong bát-chánh-đạo có ba chánh: chánh- ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng là ba
chế-ngự tâm-sở thuộc loại niyata-ekatocetasika: ba tâm-sở cố định chỉ
đồng sinh trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có Niết- bàn làm đối-tượng mà thôi.
Thật ra, bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là 8 tâm-sở:
- Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở.
- Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở.
- Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.
- Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.
- Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.
- Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.
- Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.
- Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.
Tám tâm-sở
này không thể đồng sinh với dục-giới-tâm, sắc-giới-tâm,
vô-sắc-giới-tâm, bởi vì trong bát-chánh-đạo có 3
chánh: chánh-ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng là 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về
loại aniyata-yogīcetasika: bất-định tâm-sở gọi là nānākadāci: mỗi tâm-sở này
sinh riêng rẽ và không nhất định trong 8 dục-giới thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm và
tâm-sở này có mỗi đối-tượng khác nhau.
Phân biệt bát-chánh-đạo tam-giới và siêu-tam-giới
Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại
như sau:
1-
Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi)
là trí-tuệ chân-chính thấy
đúng, biết đúng, có 5 loại:
1.1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp là trí-tuệ thấy
đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là của riêng ta, và
ta là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp, chịu quả khổ của ác-nghiệp
ấy.
1.2- Vipassanā sammādiṭṭhi:
Chánh-kiến thiền-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ
tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ,
biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3
trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của
sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.
1.3- Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.
1.4- Phala sammādiṭṭhi:
Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ là trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh- quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.
1.5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán- triệt là trí-tuệ
quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, phiền-não nào đã diệt tận được rồi,
phiền-não nào còn lại chưa diệt được.
Trong 5 loại chánh-kiến này:
Chánh-kiến sở-nghiệp, chánh-kiến thiền-tuệ, chánh- kiến quán-triệt
thuộc về tam-giới.
Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ, chánh-kiến Thánh-quả- tuệ có Niết-bàn là đối-tượng
thì thuộc về
siêu-tam-giới.
* Thật ra, chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở
(paññindriya cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4
đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4
vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc- giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4
Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm
ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.
* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì
chánh-kiến thuộc về siêu- tam-giới.
2- Chánh-tư-duy
(Sammāsaṅkappa) là tư-duy chân- chính, có ba loại:
1- Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục.
2- Tư-duy không làm khổ mình, khổ người.
3- Tư-duy không làm hại mình, hại người.
Thật ra, chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakka cetasika) đồng sinh
với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại- duy-tác-tâm, đệ-nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm,
đệ-nhất- thiền sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-tư-duy
thuộc về tam-giới.
* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì
chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.
3- Chánh-ngữ
(Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có ba loại:
3.1- Kathā sammāvācā:
Chánh-ngữ lời nói là nói hay, nói thật, nói lời
chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
3.2- Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác ý đại-thiện-tâm tránh xa
4 tà-ngữ:
- Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chân thật.
- Tránh xa lời nói chia rẽ, mà nói lời hòa hợp.
- Tránh xa lời nói thô tục, mà nói lời nhã nhặn.
- Tránh xa lời nói vô ích, mà nói lời hữu ích.
3.3- Virati sammāvācā:
Chánh-ngữ chế-ngự là chế- ngự tâm-sở tránh xa
tà-ngữ, khi đang thực hành pháp- hành thiền-tuệ.
Trong ba loại chánh-ngữ này:
Chánh-ngữ lời-nói, chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.
Chánh-ngữ
chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là
đối-tượng thuộc về
siêu-tam-giới.
Thật ra,
chánh-ngữ đó là
chánh-ngữ tâm-sở
(sammāvācā cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4
Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc
về tam-giới.
* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì
chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
4- Chánh-nghiệp (Sammākammanta)
là nghề nghiệp
chân-chính, có ba loại:
4.1- Kiriyā sammākammanta:
Chánh-nghiệp hành- động là hành thiện-nghiệp
đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
4.2- Cetanā sammākammanta:
Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh
xa ba tà-nghiệp:
- Tránh xa sự sát-sinh.
- Tránh xa sự trộm-cắp.
- Tránh xa sự tà-dâm.
4.3- Virati sammākammanta:
Chánh-nghiệp chế-ngự là chế-ngự tâm-sở tránh xa
tà-nghiệp, khi đang thực hành pháp-hành thiền-tuệ.
Trong ba loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động, chánh-nghiệp tác-ý thuộc
về tam-giới.
Chánh-nghiệp chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm có
Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới.
Thật ra, chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammanta cetasika) đồng
sinh với 8 đại-thiện- tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-nghiệp
thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm
thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
5- Chánh-mạng
(Sammā-ājīva)
là nuôi mạng chân- chính,
có hai loại:
5.1- Vīriyasammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh-tấn nuôi mạng
chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác, do khẩu nói ác.
5.2- Viratisammā-ājīva: Chánh-mạng chế-ngự là chế- ngự tâm-sở tránh xa
cách sống tà mạng, khi đang thực hành pháp-hành thiền-tuệ.
Trong hai loại chánh-mạng này:
Chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam-giới.
Chánh-mạng chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn
là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.
Thật ra,
chánh-mạng
đó là
chánh-mạng
tâm-sở (sammā-ājīva cetasika)
đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4
Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-mạng
thuộc về tam-giới.
* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm
thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
6- Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân-
chính, có 4 pháp:
1- Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
2- Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
3-Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
4- Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
Thật ra,
chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn
tâm-sở (vīriya cetasika)
đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8
đại-duy-tác- tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô- sắc-giới
thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tinh-tấn thuộc
về tam-giới.
* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì
chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
7- Chánh-niệm
(Sammāsati)
là niệm chân-chính, có bốn
pháp là pháp-hành tứ-niệm-xứ:
7.1- Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
7.2- Thọ niệm-xứ:
Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
7.3- Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
7.4- Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
Thật ra, chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8
đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc- giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm,
4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4
Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về
tam-giới.
* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì
chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
8- Chánh-định
(Sammāsamādhi)
là định chân-chính trong
5 bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
1- Đệ-nhất-thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
2- Đệ-nhị-thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
3- Đệ-tam-thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
4- Đệ-tứ-thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
5- Đệ-ngũ-thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
Thật ra,
chánh-định
đó là
nhất-tâm tâm-sở
(ekaggatā cetasika)
đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-
tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô- sắc-giới thiện-tâm, 4
vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
* Nếu khi
nhất-tâm tâm-sở
đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-định
thuộc về tam-giới.
* Nếu khi
nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4
Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu- tam-giới.
4 loại trí-tuệ-học
trong tứ Thánh-đế thuộc về
pháp-học Phật-giáo (pariyattisāsana).
2- 4 Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế
Sau khi đã
học phần pháp-học tứ Thánh-đế đó là
4
trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong, hành-giả luân chuyển đến phần
thực hành phận sự trong tứ Thánh-đế đó là
4 trí-tuệ-hành
phận sự trong tứ đế.
Hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ, cần phải biết
trí-tuệ-hành phận
sự trong mỗi đế thấy rõ, biết rõ mỗi Thánh-đế có mỗi phận sự riêng biệt như sau:
2.1-
Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hay sắc-
pháp, danh-pháp trong tam-giới, là pháp mà trí-tuệ- hành có phận sự nên biết
sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới
(không phải phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.2-
Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là ba loại tham-ái, là
pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt tham-ái
(4) từng thời (tadaṅgappahāna) bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam- giới (không phải
phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).
2.3-
Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, là pháp mà
trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ Niết-bàn
(5)
từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên
diệt, nên tiến hành).
2.4-
Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là
pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành
pháp-hành bát-chánh-đạo bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên
biết, nên diệt, nên chứng ngộ).
Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế này, trí-tuệ- hành có phận sự nên biết
sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế là chính, còn ba trí-tuệ-hành phận
sự của ba đế còn lại là phụ.
Thật ra,
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế
có sắc- pháp, danh-pháp
trong tam-giới làm đối-tượng, phát sinh đồng thời không trước, không sau.
Nếu khi
trí-tuệ-thiền-tuệ
thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong
tam-giới nào là khổ-đế, là pháp nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ.
- Cũng đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế bị diệt, không thể nương nhờ nơi
sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy để phát sinh.
- Cũng đồng thời chứng ngộ sự diệt tham-ái, nhân sinh khổ nơi sắc-pháp,
danh-pháp trong tam-giới ấy.
- Cũng đồng thời đang tiến hành pháp-hành bát- chánh-đạo có chánh-niệm,
chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới ấy là khổ-đế là pháp nên biết, tham-ái là pháp nên diệt,
diệt-đế là pháp nên chứng ngộ, chính pháp- hành bát-chánh-đạo là pháp nên tiến
hành.
Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế phát sinh đồng thời không trước,
không sau.
4 loại trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế thuộc về
pháp-hành
Phật-giáo (paṭipattisāsana).
3- 4 Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong Tứ Thánh-đế
Khi hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ, thực- hành 4 trí-tuệ-hành phận sự
trong tứ đế bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới, đến khi hoàn thành mọi phận sự
trong tứ đế thì tự động được luân chuyển đến 4 trí-tuệ- thành hoàn thành phận sự
trong tứ Thánh-đế bằng trí- thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ có
đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới (không còn đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp trong
tam-giới nữa).
Khi ấy, khổ-Thánh-đế, đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự
nên biết bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã biết xong bằng
trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
- Cũng đồng thời nhân sinh khổ-Thánh-đế, đó là tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành
có phận sự nên diệt từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-
thành đã diệt tận được mọi tham-ái xong bằng trí-tuệ- thiền-tuệ siêu-tam-giới,
đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
- Cũng đồng thời diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có
phận sự nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã
chứng ngộ xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
- Cũng đồng thời pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế, đó là pháp-hành
bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp,
chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, là pháp mà trí-tuệ-hành có
phận sự nên tiến hành bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã tiến
hành xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ:
- Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
- Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận mọi tham-ái xong.
- Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành
xong.
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã
hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời cùng một lúc không trước,
không sau.
Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế thì trí-tuệ-thành
pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế đã hoàn thành xong phận sự tiến hành bát-
chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành còn lại là phụ cũng
hoàn thành xong phận sự trong mỗi Thánh-đế, cùng một lúc không trước không sau
với trí- tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
4 loại trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong mọi
phận sự tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-thành Phật-giáo (paṭivedhasāsana), đó là 4
Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn gọi là nava- lokuttaradhamma: 9 pháp
siêu-tam-giới.
Cho nên, bài kinh Dhammacakkappavattanasutta là một bài kinh đặc biệt gồm có đầy
đủ 3 loại Phật-giáo: pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành
Phật-giáo đó là trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-học Phật-giáo được
luân chuyển đến trí-tuệ-hành phận sự của tứ đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo được
luân chuyển đến trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế thuộc về
pháp-thành Phật-giáo.
Vì vậy, tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế gồm có 3x4=12 loại trí-tuệ trong tứ
Thánh-đế cũng gọi là dhammacakka bánh xe chuyển-pháp-luân gồm có 12 căm.
Quan hệ nhân quả của tam-tuệ-luân
* Từ quả đến nhân, từ nhân đến quả
4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế
chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là quả đã hoàn thành
xong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế.
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế
đã được thực hành đúng theo mỗi phận sự của
mỗi đế, đó là quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi-
pháp của mỗi Thánh-đế.
Như vậy,
4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ đúng các chi-pháp của mỗi
Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh cho quả 4 trí-tuệ-hành phận sự
trong tứ đế đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế.
4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế đã hoàn thành là nhân phát sinh cho quả là 4
trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-
đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn; Nhất-lai
Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả,
Niết- bàn; A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành
bậc
Thánh A-ra-hán.
Trí-tuệ quán triệt
thấy rõ, biết rõ phạm-hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là
kiếp chót, không còn phải tái- sinh kiếp nào khác nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Như trong đoạn kinh Chuyển-Pháp-Luân, Đức-Thế- Tôn khẳng định:
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, “akuppā me vimutti, ayam’antimājāti, natthi
dāni punabbhavo.”
Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán
Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp
chót, sau kiếp hiện-tại này, không còn phải tái-sinh kiếp nào nữa.”
Bảng tóm tắt tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế
Tam-Tuệ-Luân | Tứ Thánh-đế | |||
Khổ-Thánh-đế | Nhân sinh khổ-Thánh-đế | Diệt khổ-Thánh-đế | Pháp-hành diệt khổ-Thánh-đế | |
Trí-tuệ-học | Sắc-pháp Danh-pháp | Tham-ái | Niết-bàn | Bát-chánh-đạo |
Trí-tuệ-hành | Nên biết | Nên diệt | Nên chứng ngộ | Nên tiến-hành |
Trí-tuệ-thành | Đã biết | Đã diệt | Đã chứng ngộ | Đã tiến-hành |
Tứ Thánh-đế | Tam-Tuệ-Luân | ||
Trí-tuệ-học | Trí-tuệ-hành | Trí-tuệ-thành | |
Khổ-Thánh-đế | Sắc-pháp danh-pháp | Nên biết | Đã biết |
Nhân sinh khổ-Thánh-đế | Tham-ái | Nên diệt | Đã diệt |
Diệt khổ-Thánh-đế | Niết-bàn | Nên chứng ngộ | Đã chứngngộ |
Pháp-hành diệt khổ-Thánh-đế | Bát-Chánh-Đạo | Nên tiến- hành | Đã tiến-hành |
(1) Bộ Saṃ, Mahāvagga, kinh
Dhammacakkappavattanasutta.
(2) Tìm hiểu bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển
VI,
VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba- La-Mật, cùng soạn-giả.
(3) Bộ Visuddhimagga, phần
Pariññādikiccakathā.
(4)
Pahāna: Diệt tham-ái có 5
cách:
1-
Vikkhambhanappahāna: Diệt tham-ái bằng cách chế ngự do năng lực
thiền-định.
2-
Tadaṅgappahāna: Diệt tham-ái từng thời do năng lực trí-tuệ-thiền-tuệ
tam-giới.
3-
Samucchedappahāna: Diệt tận tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
4-
Paṭippassadhippahāna: An tịnh tham-ái đã bị diệt do năng lực của
Thánh-quả-tuệ.
5-
Nissaraṇappahāna: Thoát khỏi tham-ái đã bị diệt do đối-tượng
Niết-bàn.
(5)
Nirodho Nibbāna: Niết-bàn
có nghĩa là diệt có 5 loại:
1-
Vikkhambhana nibbāna: Diệt tham-ái bằng cách chế ngự do năng lực
thiền-định.
2-
Tadaṅga nibbāna: Diệt tham-ái từng thời do năng lực
trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
3-
Samuccheda nibbāna: Diệt tận tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
4-
Paṭippassadhi nibbāna: An tịnh tham-ái đã bị diệt do năng lực của
Thánh-quả-tuệ.
5-
Nissaraṇanibbāna: Thoát khỏi tham-ái đã bị diệt do đối-tượng
Niết-bàn.
(6) Bộ Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh
Gavampatisutta.
(7) Bộ Saṃyuttanikāya, Sagathavagga,
kinh
Vajirāsutta.
(8) Bộ Dhammapadagāthā câu kệ thứ 216.
(9) Xem bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo,
quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định,
quyển X: Pháp-Hành
Thiền-Tuệ, cùng soạn-giả
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10