NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
Những ngày tháng cuối cùng của Đức-Phật
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng trở lại kinh-thành
Sāvatthi, ngự tại ngôi chùa Jetavana.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta suy xét rằng:
“Chư Phật với bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn, vị nào sẽ tịch diệt Niết-bàn
trước?”
Ngài Đại-Trưởng-lão biết rõ rằng:
“Bậc Thánh Tối-thượng Thanh-văn đệ-tử tịch diệt Niết-bàn trước Đức-Phật.”
Ngài Đại-Trưởng-lão suy xét về tuổi thọ của Ngài, biết rõ tuổi thọ của Ngài
Đại-Trưởng-lão chỉ còn 7 ngày nữa, nên Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta
liền đến hầu đảnh lễ Đức-Phật lần cuối cùng, xin phép trở về nhà để tịch diệt
Niết-bàn.
Đức-Phật truyền hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta rằng:
- Này Sāriputta! Con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại nơi nào vậy?
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta kính bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại ngôi nhà trong làng
Nālākagāma, xứ Magadha nơi con đã sinh trưởng, đồng thời để tế độ cho thân mẫu
của con. Tuy bà có bảy người con đã trở thành bậc Thánh A- ra-hán, nhưng bà vẫn
chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cùng với 500 đệ-tử đảnh lễ Đức-Phật, xin phép từ
giã Đức-Phật.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về lại ngôi nhà xưa ở tại căn phòng của mình.
Trong đêm cuối cùng của cuộc đời,
Ngài Đại-Trưởng- lão Sāriputta phát
bệnh kiết lị đi ngoài, phân lẫn nhiều máu, bệnh tình rất trầm trọng.
Khi ấy, đứng nhìn qua căn phòng của Ngài Đại- Trưởng-lão, bà thân mẫu của Ngài
Đại-Trưởng-lão thấy tứ Đại-Thiên-vương từ cõi tứ Đại-thiên-vương có hào
quang sáng ngời đến chiêm bái, đảnh lễ Ngài Đại- Trưởng-lão lần cuối cùng, rồi
lui ra. Tiếp đến, Đức-vua trời Sakka từ cõi Tam-thập-tam-thiên đến
chiêm bái, đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão lần cuối cùng, rồi lui ra.
Tuần tự các Đức-vua-trời cõi Dạ-ma-thiên, Đức-vua- trời cõi
Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua-trời cõi Hóa-lạc- thiên, Đức-vua-trời cõi
Tha-hóa-tự-tại-thiên trong các cõi trời dục-giới và tiếp đến
chư
Đại-Phạm-thiên cõi trời sắc-giới phạm-thiên cũng đều đến chiêm bái, đảnh lễ
Ngài Đại-Trưởng-lão lần cuối cùng.
Bà thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão nhìn thấy chư- thiên,
chư Đại-Phạm-thiên
có hào quang sáng ngời, vị sau hơn vị trước, bà muốn biết những vị chư-thiên ấy
là vị nào mà có lòng tôn kính con của bà đến như thế!
Bà thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến phòng của Ngài
Đại-Trưởng-lão, hỏi Ngài Trưởng-lão Cunda (con trai của bà) rằng:
- Này Cunda! Các vị chư-thiên nào mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ
Sư huynh của con như vậy?
Ngài Trưởng-lão Cunda thưa rằng:
- Thưa thân mẫu, đầu tiên, tứ Đại-Thiên-vương từ cõi trời tứ Đại-Thiên-vương
đến chiêm bái, đảnh lễ Sư huynh của con.
Nghe Ngài Trưởng-lão Cunda thưa như vậy, bà nghĩ thầm: tứ Đại-Thiên-vương
mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ con ta.
Vậy, con ta phải là bậc cao thượng. Nếu vậy, thì Đức- Phật là Bậc Tôn-Sư của con
ta, chắc chắn Đức-Phật còn cao thượng hơn thế nữa. Và bà hỏi tiếp:
- Này Cunda, còn các vị chư-thiên khác là vị nào vậy?
Ngài Trưởng-lão Cunda thưa tiếp:
- Thưa thân mẫu, chư vị kế đến tuần tự là Đức-vua- trời Sakka từ cõi trời
Tam-thập-tam-thiên, Đức-vua-trời Sujāma từ cõi trời Dạ-ma-thiên, Đức-vua-trời
Santussita từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua-trời Sunimmita từ cõi trời
Hóa-lạc-thiên, Đức-vua-trời Paranimmita từ cõi trời Tha-hóa tự-tại-thiên, và
tiếp đến chư Đại-Phạm- thiên từ các tầng trời sắc giới, ...
Nghe Ngài Trưởng-lão Cunda thưa như vậy, bà thầm nghĩ rằng:
“Đại-Phạm-thiên mà ta tôn kính,
chư Đại-Phạm-thiên
ấy mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ con của ta. Vậy, con ta cao thượng
đến như vậy sao! Nếu vậy, Đức-Phật là Bậc Tôn-Sư của con ta, chắc chắn Ngài còn
cao thượng biết dường nào!”
Do nghĩ như vậy, nên bà phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, bà ân cần
thăm hỏi bệnh tình của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và bày tỏ ý nghĩ
của mình.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết đúng lúc hợp thời, nên Ngài
Đại-Trưởng-lão thuyết giảng về ân-Đức-Phật để tế độ
thân mẫu của Ngài.
Sau khi lắng nghe Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thuyết pháp xong, bà liền chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu
Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là
tà-
kiến và
hoài-nghi, trở thành bậc
Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-Bảo.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tự nghĩ rằng:
“Nay ta đã đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu của ta xong
rồi.”
Khi ấy, trời sắp rạng đông,
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bảo
Ngài
Trưởng-lão Cunda gọi chư tỳ-khưu đến tụ hội đông đủ, rồi đỡ ngồi dậy, Ngài
Đại-Trưởng- lão dạy rằng:
- Này chư hiền giả! Quý vị đã theo tôi suốt 44 năm, nếu tôi có làm điều gì,
có nói lời gì làm không vừa lòng quý vị, vậy, nay xin quý vị hiền giả hãy bỏ lỗi
cho tôi.
Chư tỳ-khưu bạch rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Ngài Đại-Trưởng- lão là Bậc Thầy khả kính,
khả ái của chúng con. Chúng con không nghe thấy một điều gì cả. Và chúng con đã
theo Thầy như bóng theo hình suốt 44 năm qua, nếu chúng con có làm điều gì, có
nói lời nào làm không vừa lòng Thầy thì nay kính xin Thầy có tâm từ tha thứ cho
chúng con. Bạch Ngài.
Sau buổi lễ chân thành sám hối lẫn nhau,
vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch)
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta
tịch diệt Niết-bàn, giải
thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Ngay khi ấy, trái đất cũng tự nhiên rùng mình chuyển động. Sau khi lễ hỏa táng
thi thể Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong,
Ngài Trưởng-lão Cunda
thỉnh Xá-lợi của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến kính dâng lên
Đức-Phật tại ngôi chùa Jetavana.
Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ xá-lợi của
Ngài
Đại-Trưởng-lão Sāriputta tại kinh-thành Sāvatthi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn
Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết- bàn, Đức-Phật
cùng với chư tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành Sāvatthi ngự đến kinh-thành Rājagaha,
ngự tại ngôi chùa Veḷuvana. Khi ấy, Ngài Đại Trưởng-lão Mahāmoggallāna
đang trú tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha, nhóm ngoại đạo thuê mướn bọn cướp
vây đánh Ngài Đại-Trưởng-lão.
Đã nhiều lần Ngài Đại-Trưởng-lão đều lẫn tránh được. Đến lần cuối cùng, Ngài
Đại-Trưởng-lão suy xét thấy ác-nghiệp cũ đến thời-kỳ cho quả cuối cùng trước khi
tịch diệt Niết-bàn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão nhẫn- nại chịu đựng để nhóm cướp
đánh đập Ngài Đại- Trưởng-lão tan xương nát thịt. Chúng tưởng Ngài Đại-
Trưởng-lão đã chết, nên ném xác Ngài Đại-Trưởng-lão vào bụi cây, rồi bỏ đi.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna
sử dụng phép thần-thông liên kết
xương thịt lại, bay đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xin phép tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn vào
ngày 30
tháng 10 (âm lịch), tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha.
Lễ hỏa táng xong, Đức-Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá-lợi của
Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tại kinh-thành Rājagaha.
Như vậy, trong tháng 10 (âm lịch) năm ấy,
vào ngày rằm tháng 10, Ngài
Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, đến ngày 30 tháng 10, Ngài
Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn.
Hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của
Đức- Phật Gotama
đã tịch diệt Niết-bàn.
Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành Rājagaha du hành đến
kinh-thành Vesālī.
Một hôm, Đức-Phật ngự vào kinh-thành Vesālī để khất thực, sau khi thọ thực xong,
Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cùng ngự đến ngôi tháp
Cāpālacetiya.
Sau khi Đức-Phật ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn,
Ngài Trưởng-lão Ānanda
đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Phật dạy rằng:
- Này Ānanda! Bậc nào đã thường thực hành bốn pháp-thành-tựu (idhipāda), đã
thực hành trở thành thuần thục, đã thực hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã
luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực hành bốn
pháp thành-tựu này.
- Này Ānanda! Bậc ấy có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ hoặc hơn kiếp tuổi
thọ được như ý.
- Này Ānanda, Như-Lai đã thường thực hành bốn pháp thành-tựu (idhipāda), đã thực
hành trở thành thuần thục, đã thực hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã
luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực hành bốn
pháp thành-tựu này.
- Này Ānanda, Như-Lai cũng có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm) hoặc
hơn kiếp tuổi thọ (hơn 100 năm) được theo như ý.
Đức-Phật đã truyền dạy gián tiếp như vậy, nhưng Ngài Trưởng-lão Ānanda
không hiểu, nên không thỉnh mời Đức-Phật rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100
năm).
- Kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông
chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho phần đông
chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chư-thiên và
nhân-loại.
Bởi vì, khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda bị Ác-ma- thiên quấy nhiễu, nên
không hiểu ý của Đức-Phật. Dù Đức-Phật dạy như vậy lần thứ hai, lần thứ ba, Ngài
Trưởng-lão Ānanda vẫn không hiểu được.
Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Phật, rồi xin phép đi ra ngoài ngồi
dưới gốc cây không xa nơi Đức- Phật.
Ác-ma-thiên thỉnh Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn
Khi Ngài Trưởng-lão Ānanda vừa mới ra ngoài,
Ác- ma-thiên liền
đến hầu Đức-Phật, rồi đứng một nơi hợp lẽ bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn, kính
thỉnh Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn ngay bây giờ. Bây giờ là lúc tịch diệt
Niết-bàn của Đức-Thế-Tôn.
Thật ra, Ác-Ma-thiên đã nhiều lần đến thỉnh Đức-Phật tịch diệt
Niết-bàn, những lần trước, Đức-Phật đều khước từ. Nhưng lần này,
Đức-Phật
hứa với Ác-ma-thiên rằng:
- Này Ác-ma-thiên! Ngươi hãy yên tâm, không lâu nữa, Như-Lai sẽ tịch diệt
Niết-bàn. Kể từ nay chỉ còn ba tháng nữa, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.
Như vậy, Đức-Phật có trí-tuệ sáng suốt, xác định thời gian
ba tháng
nữa sẽ xả tuổi thọ, xả sinh-mạng của Đức-Phật tại ngôi tháp
Cāpālacetiya, đúng vào
ngày rằm tháng giêng (âm lịch).
Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động chưa từng có như vậy. Thấy điều lạ
thường nên Ngài Trưởng-lão Ānanda vào hầu Đức-Phật, bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nguyên nhân nào làm trái đất rung chuyển. Bạch
Ngài.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Ānanda! Ngay hôm nay, vừa mới rồi, Như-Lai có trí-tuệ sáng suốt hứa
với Ác-ma-thiên rằng:
“Chỉ còn ba tháng nữa mà thôi, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.”
Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy,
Ngài Trưởng-lão Ānanda
kính thỉnh
rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính thỉnh Đức- Thế-Tôn duy trì trọn kiếp
tuổi thọ (100 năm).
Con xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần
đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho phần đông
chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chư- thiên và
nhân-loại.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
- Này Ānanda! Con chớ nên thỉnh Như-Lai nữa. Bây giờ không phải lúc thỉnh
cầu Như-Lai nữa. Như-Lai đã gián tiếp dạy con nhiều lần mà con vẫn không hiểu,
con không có lời thỉnh cầu Như-Lai.
Nay, Như-Lai đã hứa với Ác-ma-thiên rồi, không thể nào khác được.
Thấy Ngài Trưởng-lão Ānanda khổ tâm vô hạn, vì hối hận về điều sơ suất của mình,
nên Đức-Phật an ủi Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Như-Lai đã từng dạy rằng:
“Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy.
Đó là sự thật hiển nhiên.
Vì vậy, những người thân yêu, các bậc kính mến ấy làm sao lại có thể chiều theo
ý muốn của mình được.
Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn
có sự diệt, sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng:
“Xin pháp ấy đừng diệt, đừng hủy hoại cũng không thể nào được.”
- Này Ānanda! Như-Lai cùng con đi đến giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn
ấy.
Ngài Trưởng-lão Ānanda theo sau Đức-Phật đến giảng đường Kuṭāgāra. Khi ấy,
Đức-Phật dạy rằng:
- Này Ānanda! Con nên đi mời tất cả chư tỳ-khưu trong kinh-thành Vesālī đến
tụ hội tại giảng đường Upaṭṭhāna.
Vâng theo lời dạy của Đức-Phật,
Ngài Trưởng-lão Ānanda
đi mời chư
tỳ-khưu đến tụ hội tại giảng đường.
Chánh-pháp 37 pháp chứng đắc thánh-đạo
Khi ấy, Đức-Phật ngự đến giảng đường Upaṭṭhāna, ngồi trên pháp tòa cao
quý rồi truyền dạy chư tỳ-khưu-Tăng rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng để chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, các con nên
học hỏi, hiểu biết rõ, rồi nên thực hành, thường thực- hành chánh-pháp ấy, để
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, để
duy trì phạm-hạnh cao thượng, để chánh-pháp được trường tồn lâu dài, để đem lại
sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, để đem lại
sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho chư-thiên và nhân-loại.
- Này chư tỳ-khưu! Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng để chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là:
* 4 pháp niệm-xứ (Satipaṭṭhāna):
1) Thân niệm-xứ.
2) Thọ niệm-xứ.
3) Tâm niệm-xứ.
4) Pháp niệm-xứ.
* 4 pháp tinh-tấn
(Samappadhāna):
1) Tinh-tấn ngăn các ác-pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh.
2) Tinh-tấn diệt ác-pháp đã phát sinh.
3) Tinh-tấn làm cho thiện-pháp phát sinh.
4) Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện-pháp đã phát sinh.
* 4 pháp thành-tựu (Iddhipāda):
1) Thành-tựu do hài-lòng.
2) Thành-tựu do tinh-tấn.
3) Thành-tựu do quyết-tâm.
4) Thành-tựu do trí-tuệ.
* 5 pháp-chủ
(Indriya):
1) Tín pháp-chủ.
2) Tấn pháp-chủ.
3) Niệm pháp-chủ.
4) Định pháp-chủ.
5) Tuệ pháp-chủ.
* 5 pháp-lực (Bala):
1) Tín pháp-lực.
2) Tấn pháp-lực.
3) Niệm pháp-lực.
4) Định pháp-lự.
5) Tuệ pháp-lực.
* 7 pháp giác-chi
(Bojjhaṅga):
1) Niệm giác-chi.
2) Phân-tích giác-chi.
3) Tinh-tấn giác-chi.
4) Hỷ giác-chi.
5) Tịnh giác-chi.
6) Định giác-chi.
7) Xả giác-chi.
* 8 pháp chánh-đạo (Magga): VK
1) Chánh-kiến.
2) Chánh-tư-duy.
3) Chánh-ngữ.
4) Chánh-nghiệp.
5) Chánh-mạng.
6) Chánh-tinh-tấn.
7) Chánh-niệm.
8) Chánh-định.
- Này chư tỳ-khưu! Các chánh-pháp ấy Như-Lai đã thuyết giảng đến các con, để
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
- Này chư tỳ-khưu! Bây giờ Như-Lai nhắc nhở các con rằng:
“Tất cả các pháp-hữu-vi (sắc-pháp, danh-pháp) có sự diệt là thường, các con nên
cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế bằng pháp không dể duôi,
thực hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.”
Thời gian không còn lâu, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết- bàn. Kể từ hôm nay chỉ còn
lại ba tháng nữa mà thôi, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.
Tiếp theo Đức-Phật dạy bài kệ:
“Paripakko vayo mayhaṃ, parittaṃ mama jīvitaṃ.
Pahāya vo gamissāmi, kataṃ me saraṇamattano.
Appamattā satīmanto, susīlā hotha bhikkhavo.
Susamāhitasaṅkappā, sacittamanurakkhatha.
Yo imasmiṃ dhammavinaye, appamatto vihassati.
Pahāya jātisaṃsāraṃ, dukkhassaṅtaṃ karissati.”
(1)
- Này chư tỳ-khưu!
Tuổi của Như-Lai đã già rồi.
Mạng sống của Như-Lai còn ít,
Như-Lai sẽ vĩnh biệt các con.
Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn,
Là nơi nương nhờ của chính mình.
- Này chư tỳ-khưu thật đáng thương!
Các con là người không dể duôi,
Có giới hạnh trong sạch đầy đủ,
Luôn có chánh-niệm và tỉnh-giác,
Có định-tâm, tư-duy đúng đắn,
Cẩn trọng giữ gìn tâm của mình.
Người nào sống trong pháp luật này,
Không dể duôi, luôn có chánh-niệm,
Chứng ngộ Niết-bàn, pháp diệt khổ,
Người ấy diệt tử sinh luân-hồi.
Từ kinh-thành Vesālī đến khu rừng Kusinārā
Một buổi sáng, Đức-Phật ngự vào kinh-thành Vesālī để khất thực, sau khi thọ thực
xong trở về, Đức-Phật đứng nhìn kinh-thành Vesālī lần cuối cùng, rồi dạy bảo
Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Như-Lai cùng các con đến làng Bhaṇḍagāma.
Đức-Phật ngự đi cùng với số đông chư tỳ-khưu-Tăng đến
làng Bhaṇḍagāma.
Tại nơi đây Đức-Phật thuyết pháp khuyên dạy chư tỳ-khưu một thời gian ngắn, rồi
tiếp tục ngự đến làng Ambagāma, làng Jambagāma, thành Bhoganagara, tại
mỗi nơi Đức-Phật thuyết pháp khuyên dạy chư tỳ-khưu, rồi tiếp tục ngự đến
thành phố Pāvānagara. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự tại vườn xoài (ambavana) của
ông Cunda Kammāraputta.
Nghe tin Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đã ngự đến thành phố
Pāvānagara, hiện đang trú tại vườn xoài của mình.
Ông Cunda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy,
Đức-Phật thuyết pháp tế độ ông Cunda. Nghe Đức-Phật thuyết giảng, ông Cunda phát
sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ lời giáo
huấn của Đức-Phật.
Khi ấy, ông kính đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai kính thỉnh Đức- Thế-Tôn cùng với chư
Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nhận thọ thực tại tư gia của chúng con. Bạch Ngài.
Đức-Phật thọ nhận bằng cách im lặng. Biết Đức-Phật đã nhận lời thỉnh mời, nên
ông Cunda cung kính đảnh lễ Đức-Phật, xin phép trở về.
Đức-Phật thọ thực món Sūkuramaddava
Ông Cunda Kammāraputta sai bảo gia nhân làm những món ăn ngon, trong đó
có món ăn đặc biệt gọi là sūkuramaddava
(2):
Ekajeṭṭhakasūkurassa pavattamaṃsa nghĩa là món thịt heo chín mềm ngon bổ
dưỡng đặc biệt.
Đêm đã qua, buổi sáng hôm ấy,
Đức-Phật ngự cùng với
chư Đại-đức
tỳ-khưu-Tăng đến tư gia của ông Cunda. Ông Cunda cung kính thỉnh mời
Đức-Phật ngồi chỗ cao quý nhất, còn tất cả chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngồi chỗ đã
trải sẵn. Ông cung kính đảnh lễ Đức-Phật, và kính dâng món ăn đặc biệt
sūkuramaddava ấy. Đức- Phật truyền dạy rằng:
- Này Cunda! Con dâng món sūkuramaddava này chỉ đến một mình Như-Lai mà
thôi, con nên dâng những món ăn khác đến chư tỳ-khưu-Tăng.
Món sūkuramaddava còn lại, con nên đem đi chôn dưới đất, bởi vì, ngoại trừ
Như-Lai ra, Như-Lai không thấy có một người nào trong đời này, gồm cả Sa-môn,
Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương cõi trời dục-giới dùng món sūkuramaddava này, rồi
có thể tiêu hóa được.
Vâng theo lời của Đức-Phật, ông Cunda đem
món ăn sūkuramaddava còn lại chôn
sâu dưới đất.
Khi Đức-Phật thọ thực xong, ông Cunda đảnh lễ Đức- Phật, rồi ngồi một nơi hợp
lẽ. Khi ấy, Đức-Phật thuyết pháp tế độ ông Cunda, làm cho ông vô cùng hoan-hỷ
lời giáo huấn của Đức-Phật.
Từ giã ông Cunda, Đức-Phật ngự đi cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên
đường đi đến khu rừng Kusinārā.
Trên đường, Đức-Phật phát bệnh kiết lị đi ngoài ra máu, bệnh tình rất trầm
trọng, Đức-Phật dừng chân nghỉ, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác nhập A-ra-hán
Thánh- quả làm cho thọ khổ do bệnh kiết lị được giảm bớt, nên Đức-Phật truyền
dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Bây giờ Như-Lai cùng với các con đến xứ Kusinārā.
Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên đường đi xứ Kusinārā.
Trên đường đi Đức-Phật mệt nhoài, đến gốc cây Đức-Phật dừng lại và truyền bảo
Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Con trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp cho Như-Lai ngồi nghỉ.
Vâng lời Đức-Phật, Ngài Trưởng-lão Ānanda trải tấm y xong, Đức-Phật ngồi nghỉ,
rồi truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Con hãy đi lấy nước cho Như-Lai dùng, Như-Lai khát nước lắm
rồi!
Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vừa rồi có 500 chiếc xe bò băng qua dòng sông, vì
nước sông còn ít, nên đã làm cho nước đục ngầu, gần đây có con sông Kakudhānādī
nước trong sạch, bờ sông thoai thoải, Đức-Thế-Tôn có thể độ nước trong sạch và
tắm mát trên con sông ấy.
Đức-Phật khát nước quá không sao chịu nổi, nên Đức-Phật truyền bảo Ngài
Trưởng-lão Ānanda đến lần thứ hai, lần thứ ba như trên.
Ngài Trưởng-lão Ānanda đành phải vâng lời Đức- Phật, Ngài Trưởng-lão vừa mang
bát đến dòng sông nước còn ít ấy, nước sông đang đục ngầu liền biến thành nước
trong sạch. Ngài Trưởng-lão vô cùng ngạc nhiên, lấy bát múc nước đem về bạch
Đức-Phật:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thật phi thường thay! Chưa từng thấy bao giờ!
Đức-Thế-Tôn có nhiều oai lực quá! Dòng nước sông còn ít nước và bị 500 chiếc xe
bò vừa băng qua làm cho nước sông đục ngầu. Khi con đến gần bỗng nhiên biến
thành dòng nước trong sạch.
Con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn độ nước.
Đức-Phật độ nước xong liền cảm thấy đỡ khát. Sau khi ngồi nghỉ cho đỡ mệt,
Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên đường đến con sông
Kakudhānādī.
Khi đến nơi, Đức-Phật ngự xuống dòng sông ấy tắm mát, độ nước xong, Đức-Phật ngự
đi lên, rồi dạy bảo Ngài Trưởng-lão Cundaka rằng:
- Này Cundaka! Con hãy trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp để cho Như-Lai nằm nghỉ
ngơi.
Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Cundaka trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp xong,
Đức-Phật nằm nghiêng bên phải hai chân duỗi thẳng đặt so le, chân phải duỗi
thẳng, chân trái đầu gối hơi co, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác nhập
A-ra-hán Thánh-quả. Ngài Trưởng-lão Cundaka ngồi gần hầu Đức-Phật.
Khi xả A-ra-hán Thánh-quả, Đức-Phật gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda dạy
rằng:
- Này Ānanda! Nếu có ai trách ông Cunda Kammāra- putta rằng:
“Thật không có lợi cho ông, ông đã làm điều không tốt! Độ vật thực của ông,
Đức-Thế-Tôn phải tịch diệt Niết-bàn.”
Khi ấy, con nên giảng giải cho ông Cunda hiểu rõ, để ông phát sinh đại-thiện-tâm
hoan-hỷ rằng:
“Này ông Cunda! Thật là điều lợi ích lớn cho ông! Ông đã làm phước-thiện bố-thí
đặc biệt. Đức-Thế-Tôn độ vật thực của ông lần cuối cùng, rồi tịch diệt Niết-bàn.
Điều này chính bần Tăng được nghe từ kim ngôn của Đức-Thế-Tôn rằng:
‘Hai lần cúng dường vật thực đến Như-Lai có quả báu lớn bằng nhau. Quả báu hai
lần này lớn hơn các lần cúng dường vật thực khác đến Như-Lai là:
1- “Vật thực của bà Sujātā được cúng dường đến Đức-Bồ-tát
Siddhattha. Sau khi độ vật thực xong, đêm hôm ấy Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
2- Vật thực của ông Cunda Kammāraputta được cúng dường đến
Như-Lai. Sau khi độ vật thực xong, đêm hôm ấy Như-Lai tịch diệt Niết-bàn.”
Vật thực được cúng dường đến Như-Lai trong hai trường hợp này có quả báu lớn
bằng nhau. Quả báu này lớn hơn các lần cúng dường vật thực đến Như-Lai, trong
các trường hợp khác.’
- Này Ānanda! Con nên giảng giải cho ông Cunda Kammāraputta hiểu rõ như vậy, để
ông phát sinh đại- thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ, mà không buồn.
Thật vậy, trong Chú-giải bài kinh này giải rằng:
*Món ăn nấu bằng sữa bò của bà Sujātā mà Đức-Bồ- tát Siddhattha đã độ xong,
cuối đêm ấy Đức-Bồ-tát trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là
Đức-Phật Gotama cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Nhờ món ăn đầy
bổ dưỡng ấy mà kim thân của Đức-Thế-Tôn có sức khỏe chịu đựng, duy trì suốt 49
ngày đêm, để hưởng sự an-lạc tịch tịnh Niết-bàn.
*Món ăn sūkuramaddava của ông Cunda Kammāra- putta mà Đức-Thế-Tôn đã độ xong.
Nhờ món ăn đầy bổ dưỡng ấy mà kim thân của Đức-Thế-Tôn có sức khoẻ chịu đựng nổi
căn bệnh kiết lị rất trầm trọng, Đức-Thế- Tôn mới có thể ngự đến khu rừng Sāla
xứ Kusinārā để tịch diệt Niết-bàn như đã dự định trước.
Tuy hai lần cúng dường hai món vật thực đặc biệt này có khoảng cách thời gian xa
nhau 45 năm, nhưng đều có quả báu lớn bằng nhau, như Đức-Phật đã dạy.
Sau khi nằm nghỉ ngơi một lát, Đức-Phật truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda, Như-Lai cùng với các con nên đi sang bên kia bờ sông
Hirañvatī.
Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng sang bên kia bờ sông Hirañvatī ấy,
rồi tiếp tục đến khu rừng Sāla xứ Kusinārā.
Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn tại Kusinārā (544 TCN)
Vào buổi chiều ngày rằm tháng tư, Đức-Phật ngự đến khu rừng Sāla tại Kusinārā,
nơi nghỉ ngơi của hoàng tộc Malla, Đức-Phật truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda
rằng:
- Này Ānanda! Con nên đặt chiếc giường quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây
Sāla (song long thọ).
Khi ấy, Đức-Phật nằm nghiêng bên phải, đầu quay về hướng Bắc, hai chân duỗi
thẳng so le, chân phải duỗi thẳng, chân trái đầu gối hơi co, hai bàn chân đặt
không đều nhau, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác, không định trước giờ xả.
Cúng dường Đức-Phật
Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân để cúng dường
Đức-Phật. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời, ...
từ cõi trời rơi xuống như mưa để cúng dường Đức-Phật. Những tiếng nhạc trời trỗi
lên để cúng dường Đức-Phật. Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda
rằng:
- Này Ānanda! Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim
thân của Như-Lai, để cúng dường Như-Lai. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những
đóa hoa trời, hương trời từ các cõi trời rơi xuống, những tiếng nhạc trời từ các
cõi trời cũng trỗi lên để cúng dường Như-Lai.
- Này Ānanda! Sự cúng dường đến Như-Lai bằng phẩm vật như vậy không gọi là cách
cúng dường cao thượng.
Người nào là tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu-ni, hoặc cận-sự- nam, hoặc cận-sự-nữ, là người
thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo,
hành theo chánh-pháp, người ấy được gọi là người có lòng tôn kính, lễ bái, cúng
dường Như-Lai bằng cách cúng dường cao thượng.
- Này Ānanda! Các con nên luôn luôn tâm niệm rằng: “Chúng ta là hành-giả thực
hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc
Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo,
thực hành theo chánh-pháp.”
Sở dĩ, Đức-Phật đề cao sự cúng dường bằng cách thực hành chánh-pháp là cao
thượng hơn sự cúng dường bằng phẩm vật, là vì, chỉ có sự cúng dường bằng thực
hành chánh-pháp mới có thể giữ gìn, duy trì giáo-pháp của Đức-Phật trường tồn
trên thế gian.
Ngài Trưởng-lão Ānanda khóc
Vào canh chót đêm ấy, Đức-Phật sắp tịch diệt Niết- bàn, Ngài Trưởng-lão Ānanda
đang còn là bậc Thánh Nhập-lưu, nên Ngài Trưởng-lão tủi thân, lánh ra một nơi
vắng vẻ đứng khóc, than vãn:
“Ta còn là bậc Thánh Nhập-lưu cần phải thực hành pháp-hành thiền-tuệ, để dẫn
đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót,
trở thành bậc Thánh A- ra-hán, nhưng Đức-Thế-Tôn là bậc Thầy tế độ của ta sắp
tịch diệt Niết-bàn.”
Khi ấy, Đức-Phật không thấy Ngài Trưởng-lão Ānanda, nên truyền hỏi chư
tỳ-khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Ānanda đang ở đâu?
Chư tỳ-khưu bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Ānanda lánh ra một nơi vắng vẻ,
đứng khóc, than vãn, vì tủi thân. Bạch Ngài.
Đức-Phật truyền bảo một vị tỳ-khưu gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu Đức-Phật.
Vâng lời Đức-Phật, vị tỳ-khưu đi mời Ngài Trưởng- lão Ānanda đến hầu Đức-Phật.
Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.
Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Như-Lai đã từng dạy rằng:
“Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy.
Đó là sự thật hiển nhiên.
Vì vậy, những người thân yêu, các bậc kính mến ấy làm sao lại có thể chiều theo
ý muốn của mình được.
Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn
có sự diệt, sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng:
“Xin pháp ấy đừng diệt, đừng hủy hoại cũng không thể nào được.”
- Này Ānanda! Con là một thị giả tận tụy chăm sóc Như-Lai với tâm-từ được biểu
hiện bằng thân, khẩu, ý. Đó là sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, bồi
bổ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật rồi.
- Này Ānanda! Con nên cố gắng tinh-tấn, chắc chắn con sẽ diệt tận được mọi
phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán một cách nhanh chóng.
Đức-Phật khen ngợi Ngài Trưởng-lão Ānanda đã tận tụy chăm sóc Đức-Phật một cách
rất chu đáo. Ngài Trưởng-lão Ānanda là bậc thiện-trí biết cách cư xử đối với mọi
người, biết cách sắp xếp thời gian hợp lý, hướng dẫn mọi người đến hầu Đức-Phật.
Ngài Trưởng-lão Ānanda biết đúng lúc, hợp thời hướng dẫn tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni,
cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Đức- vua, các quan, nhóm ngoại đạo, v.v... vào hầu
Đức-Phật.
Lý do Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn tại Kusinārā
Tuy có nhiều xứ lớn, kinh-thành lớn, nhưng Đức-Phật không chọn làm nơi tịch diệt
Niết-bàn của Đức-Phật, mà chọn Kusinārā bởi có 3 lý do:
1- Trong quá-khứ,
Kusinārā là một kinh-thành rộng lớn có
tên là kinh-thành Kusavatī, có Đức Chuyển-luân Thánh-vương Mahādassana trị vì tứ
châu thiên-hạ. Nếu Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn nơi khác, thì không có lý do
thuyết bài kinh Mahādassanasutta.
Vì vậy, Đức-Phật chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết-bàn, để Đức-Phật
có cơ hội thuyết bài kinh Mahādassanasutta. Chúng-sinh lắng nghe bài
kinh này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, cố gắng tinh-tấn thực hành
mọi thiện-pháp.
2- Đạo-sĩ Subhadda là người đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật,
hiện đang ở tại xứ Kusinārā. Ngoài Đức-Phật ra, không có vị Thánh Thanh-văn
đệ-tử nào có khả năng tế độ Đạo-sĩ Subhadda được.
Vì vậy, Đức-Phật phải ngự đến xứ Kusinārā để tế độ Đạo-sĩ Subhadda, bậc
thanh-văn đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.
Vị tỳ-khưu Subhadda sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán, trước khi Đức-Phật
tịch diệt Niết-bàn.
3- Đức-Phật biết rõ rằng:
Sau khi nghe tin Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, làm lễ hỏa táng xong, các
nước lớn sẽ kéo đến tranh giành Xá-Lợi của Đức-Phật.
Đức-Phật thấy rõ, biết rõ chỉ có vị
Bà-la-môn Doṇa là người có
khả năng đứng ra làm trung gian hòa giải các sứ giả từ các nước lớn và biết cách
phân chia các Xá-Lợi cho mỗi xứ thỉnh đem về xây Bảo-tháp tôn thờ Xá-Lợi.
Vị Bà-la-môn Doṇa hiện đang ở tại xứ Kusinārā, nên Đức-Phật
quyết định chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết-bàn.
Đêm cuối cùng của Đức-Phật
Đêm cuối cùng của Đức-Phật là
đêm rằm tháng tư
(âm lịch).
*Canh đầu: Nghe tin canh chót đêm ấy, Đức-Phật sẽ tịch
diệt Niết-bàn tại khu rừng Sāla. Đức-vua, Hoàng-hậu, Hoàng-tử, Công-chúa cùng
các bậc bô lão trong hoàng tộc Malla, cùng hoàng thân quốc thích tuần tự đến hầu
đảnh lễ Đức-Phật lần cuối cùng. Tiếp theo các quan trong triều, toàn thể dân
chúng xứ Kusinārā tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức-Phật lần cuối cùng, kéo dài trọn
canh đầu.
*Canh giữa:
Đạo-sĩ Subhadda
nghe tin Đức-Phật sắp tịch diệt Niết-bàn vào canh chót đêm ấy nên suy nghĩ rằng:
“Ta có nhiều điều thắc mắc, đã từ lâu chưa có một vị Sa-môn nào có thể giải
đáp, làm cho ta đoạn-tuyệt được thắc mắc ấy. Nay nghe tin Sa-môn Gotama,
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đã ngự đến khu rừng Sāla xứ Kusi- nārā này, Đức-Phật
sắp tịch diệt Niết-bàn vào canh chót đêm nay. Ta nên đến hầu Sa-môn Gotama, để
hỏi những điều thắc mắc của ta, kính nhờ Đức-Phật giải đáp.”
Đạo-sĩ Subhadda
đến khu rừng Sāla tìm gặp Ngài Trưởng-lão Ānanda xin
phép vào hầu Đức-Phật. Ngài Trưởng-lão Ānanda bảo rằng:
- Này đạo-sĩ Subhadda! Xin ông không nên quấy rầy, làm phiền Đức-Thế-Tôn
trong lúc này, Đức-Thế-Tôn đang mệt quá rồi!
Đạo-sĩ Subhadda
tha thiết khẩn khoản xin Ngài Trưởng-lão Ānanda cho phép
vào hầu Đức-Phật. Nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda và đạo-sĩ Subhadda đang nói chuyện
qua lại với nhau, Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:
- Này Ānanda! Con không nên ngăn Subhadda, để cho Subhadda đến gặp Như-Lai.
Đạo-sĩ Subhadda có cơ hội đến hầu vấn an Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp
lẽ, ông bạch rằng:
- Kính bạch Sa-môn Gotama, các sa-môn, bà-la-môn là đạo-sư, trưởng phái có
tiếng tăm, có nhiều thế lực, đứng đầu một môn phái, mà phần đông dân chúng tán
dương ca tụng, tôn sùng là bậc Thánh-thiện như các vị đạo-sư Puraṇakassapa,
đạo-sư Makkhaligosāla, đạo-sư Ajitakesakambala, đạo-sư Pakudhakaccayana, đạo-sư
Sañjayabelaṭṭhaputta, đạo-sư Nigaṇṭhanāṭaputta, có phải tất cả sa-môn, bà-la-môn
ấy đã chứng đắc như họ đã tuyên bố, hoặc tất cả không chứng đắc, hoặc có một số
chứng đắc, một số không chứng đắc? Bạch Ngài.
Đức-Phật dạy rằng:
- Này Subhadda! Con không nên đề cập đến vấn đề ấy, con nên lắng nghe
Như-Lai thuyết pháp.
- Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh không có trong pháp luật nào, thì chắc
chắn không có tuần tự sa-môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, sa-môn thứ nhì là
bậc Thánh Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất-lai, sa-môn thứ tư là bậc
Thánh A-ra-hán trong pháp luật ấy.
- Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh có trong pháp luật nào, thì chắc chắn
có tuần tự sa-môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, sa-môn thứ nhì là bậc Thánh
Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất-lai, sa-môn thứ tư là bậc Thánh
A-ra-hán trong pháp luật ấy.
- Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh chỉ có trong pháp luật của Như-Lai mà
thôi. Cho nên, chắc chắn có tuần tự sa-môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu,
sa-môn thứ nhì là bậc Thánh Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất-lai, sa-môn
thứ tư là bậc Thánh A-ra-hán trong pháp luật của Như-Lai.
Ngoài pháp luật này của Như-Lai ra, những tà giáo khác không có sa-môn nào cả.
- Này Subhadda! Chư tỳ-khưu trong pháp luật này sống thực hành đúng theo
pháp-hành bát-chánh-đạo, và truyền dạy, hướng dẫn người khác cũng thực hành đúng
theo pháp-hành bát-chánh-đạo, thì trong đời này không bao giờ vắng bóng bậc
Thánh A-ra-hán.
Sau khi lắng nghe lời giáo huấn của Đức-Phật,
đạo-sĩ Subhadda vô cùng
hoan-hỷ tán dương ca tụng Đức-Phật, rồi kính xin quy y nương nhờ nơi
Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, kính xin Đức-Phật cho phép
xuất gia trở thành sadi, tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật.
Đức-Phật cho phép đạo-sĩ Subhadda xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Sau khi trở thành tỳ-khưu,
Ngài Đại-đức Subhadda một mình ở nơi thanh
vắng, không dể duôi, thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi
tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, trước khi
Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.
Ngài Trưởng-lão Subhadda là bậc Thánh A-ra-hán,
thanh-văn đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.
*Canh chót: Đức-Phật gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda
khuyên dạy rằng:
- Này Ānanda! Trong số các con, nếu có người nào nghĩ rằng:
“Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, chúng ta không còn Đức-Bổn-Sư nữa (natthi
no satthā)” thì các con chớ có nên nghĩ như vậy.
Pháp và Luật là Vị Tôn Sư
Đức-Phật dạy rằng:
“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena
satthā...” (3)
- Này Ānanda! Chánh-pháp nào mà Như-Lai đã thuyết, Luật nào mà Như-Lai đã chế
định, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, Chánh-pháp ấy, Luật ấy là vị
Tôn-sư của các con.
Trong Chú-giải bài kinh Mahāparinibbānasutta giải thích rằng:
Dhammo:
Chánh-pháp gồm có toàn bộ
Tạng Kinh Pāḷi
và toàn bộ Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.
Vinayo: Luật đó là toàn bộ Tạng Luật Pāḷi.
Giáo-pháp mà Đức-Phật Gotama đã thuyết giảng suốt 45 năm, kể từ khi trở thành
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cho đến khi Đức-Phật
Gotama tịch diệt Niết-bàn gom lại thành Tam-Tạng Pāḷi: Tạng Luật Pāḷi, Tạng
Kinh Pāḷi, Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 84.000 pháp-môn được phân chia như
sau:
1- Vinayapiṭakapāḷi: Tạng Luật Pāḷi gồm có 21.000 pháp-môn.
2- Suttantapiṭakapāḷi: Tạng Kinh Pāḷi gồm có 21.000 pháp-môn.
3- Abhidhammapāḷi: Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 42.000 pháp-môn.
* Trong Chú-giải bài kinh Mahāparinibbānasutta, Đức-Phật giảng giải rằng:
“Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova
parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni
caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti ...
(4)”
“Như vậy, 84.000 pháp-môn này tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt
Niết-bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy
dỗ các con, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì có 84.000 pháp-môn ấy là
“Vị Tôn-Sư” sẽ giáo huấn các con, sẽ theo dạy dỗ các con…”
Qua đoạn Chú-giải trên, chính Đức-Phật giải thích cho các hàng thanh-văn
đệ-tử hiểu rằng:
“Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn rồi, không phải các hàng thanh-văn đệ-tử không
còn có vị Tôn-Sư, mà thật ra, vẫn còn có 84.000 pháp-môn là Vị Tôn-Sư.”
Như vậy, mỗi pháp môn cũng là một
Vị Tôn-Sư có
khả năng dẫn dắt, dạy bảo các hàng thanh-văn đệ-tử thực hành dẫn đến
chứng
ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi
trong ba giới bốn loài.
Lời giáo huấn cuối cùng của Đức-Phật
Vào canh chót, Đức-Phật một lần nữa nhắc nhở khuyên dạy các hàng thanh-văn đệ-tử
lần cuối cùng rằng:
“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, Vayadhammā saṅkhārā, appamādena
sampādetha.(5)”
- Này chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ! Bây giờ Như-Lai nhắc nhở,
khuyên dạy các con lần cuối cùng rằng:
“Các pháp-hữu-vi (ngũ-uẩn) có sự diệt là thường. Các con hãy nên cố gắng
tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi, thực hành
pháp-hành tứ niệm-xứ.”
Đức-Phật vừa chấm dứt câu: “Appamādena sampādetha” từ đó không còn dạy
thêm một câu nào khác nữa.
Vì vậy, câu: “Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, vayadhammā saṅkhārā,
appamādena sampādetha.” là
Pacchimabuddhavacana: Lời Phật-ngôn
cuối cùng của Đức-Phật Gotama.
Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn
Sau khi chấm dứt lời dạy cuối cùng bằng câu: “Appamādena sampādetha.”
Đức-Phật nhập đệ-nhất-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ-nhất-thiền
sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-nhị-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- nhị-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tam-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- tam-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tứ-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ-tứ- thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập không-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả không-vô-biên
xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập thức-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả
thức-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập vô-sở-hữu-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả vô-sở-hữu-xứ-thiền
vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả
phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập diệt-thọ-tưởng.
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda hỏi Ngài Trưởng- lão Anuruddha rằng:
- Kính thưa pháp-huynh Anuruddha, Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi phải
không?
- Này pháp-đệ Ānanda! Đức-Thế-Tôn chưa tịch diệt Niết-bàn, Đức-Thế-Tôn đang nhập
diệt-thọ-tưởng.
- Đức-Thế-Tôn xả diệt-thọ-tưởng.
- Nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả
phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập vô-sở-hữu-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả vô-sở-hữu-xứ-thiền
vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập thức-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả
thức-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập không-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả
không-vô-biên-xứ-thiền vô-sắc-giới duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tứ-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ-tứ- thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tam-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- tam-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-nhị-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- nhị-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-nhất-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- nhất-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-nhị-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- nhị-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tam-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ- tam-thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
- Nhập đệ-tứ-thiền sắc-giới duy-tác-tâm, rồi xả đệ-tứ- thiền sắc-giới
duy-tác-tâm.
Tiếp theo
Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn
gọi
là Khandhaparinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn tại khu rừng Sāla, xứ Kusinārā,
nghĩa là sau khi diệt ngũ-uẩn rồi, không còn nhân duyên nào để tái-sinh ngũ-uẩn
khác nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Cho nên, tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp còn lại đều trở thành
vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được
nữa.
Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động. Đó là 1 trong 8 hiện tượng thường
xảy ra đối với Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-Phật Gotama là Bậc Cao-Cả nhất, Bậc Vĩ-Đại nhất, Bậc Tối-Thượng nhất
trong toàn cõi-giới chúng sinh, đã tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Sāla, xứ
Kusinārā.
Tất cả mọi chúng-sinh, hễ có sinh thì ắt phải có tử, không ngoại trừ một ai cả.
Đức-Phật và chư Thánh A-ra- hán không gọi là tử (chết) mà gọi là
tịch diệt Niết-bàn, bởi vì không còn tái-sinh kiếp sau nào nữa,
giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Đức-Phật và
chư Thánh A-ra-hán sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi,
không còn tái-sinh kiếp sau nữa, không phải không còn
nghiệp cho quả,
mà thật ra, nghiệp cũ của Đức-Phật và
chư bậc Thánh A-ra-hán
vẫn còn, nhưng tất cả mọi tham-ái đã bị diệt tận không còn dư sót nữa, nên
không có tham-ái dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā
ponobbhavikā). Cho nên, Đức-Phật, chư Thánh A-ra-hán sau khi đã tịch diệt
Niết-bàn rồi, không còn tái-sinh kiếp sau nữa.
Như vậy, ngoại trừ
Đức-Phật và chư Thánh A-ra-hán ra, còn lại các loài
chúng-sinh dù nhỏ dù lớn như chư-thiên trên 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên
trên 16 tầng trời sắc-giới, 4 tầng trời vô-sắc-giới khác, từ hạng phàm-nhân cho
đến bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai vẫn còn
tham-ái là nhân sinh khổ dẫn dắt tái-sinh kiếp sau.
Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn rồi, song
giáo-pháp của Đức-Phật vẫn còn tồn tại trên thế gian, như Đức-Phật đã giảng giải
trước khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn rằng:
“Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova
parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāni, anusāsāmi, mayi parinibbute
imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti ...”
“Như vậy, 84.000 pháp-môn này vẫn tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt
Niết-bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy
dỗ các con, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì có 84.000 pháp-môn ấy là
“Vị Tôn-Sư”sẽ giáo huấn các con, sẽ theo dạy dỗ các con …”
Tuy Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn cách đây 2.564 năm rồi, song
giáo-pháp của Đức-Phật Gotama vẫn còn được giữ gìn duy trì đầy đủ trọn vẹn
84.000 pháp-môn cho đến ngày nay.
Muốn được gần gũi thân cận với Đức-Phật, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử cố gắng
tinh-tấn học pháp-học Phật- giáo
và thực hành
pháp-hành Phật-giáo, tùy theo khả năng của mỗi hàng
thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
Các hàng thanh-văn đệ-tử nào có Phật-giáo trong tâm,
thì các hàng thanh-văn đệ-tử ấy được
nương nhờ nơi Đức-Phật, nương
nhờ nơi Đức-Pháp, nương nhờ nơi Đức-Tăng, được nương nhờ nơi
Tam-Bảo cao thượng, để các hàng thanh-văn đệ-tử ấy có thể
trở nên con người cao thượng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu
dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Đặc biệt còn làm duyên lành cho các hàng thanh-văn đệ-tử ấy để
chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát
khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài; đồng thời các hàng thanh- văn đệ-tử
ấy giữ gìn, duy trì Phật-giáo được trường tồn trên thế gian cho đến hết tuổi thọ
Phật-giáo 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến
cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại.
(1)
Dīghanikāya, bộ Mahāvagga, kinh
Mahāparinibhānasutta.
(2) Sūkuramaddava: Món thịt heo chín mềm, ngon
bổ dưỡng đặc biệt nhất. Một số bậc tiền bối có ý kiến cho rằng:
- Sūkuramaddava: là món cơm nấu bằng sữa bò tươi, sữa chua, bơ đặc, bơ lỏng, ...
món ăn rất bổ dưỡng (còn có nghĩa nấm heo).
- Sūkuramaddava: Là món ăn được nấu theo cách rasāyatanavidhi từ bộ sách xưa
Rasāyatanasattha. Ông Cunda hy vọng rằng: Nhờ món ăn bổ dưỡng này, Đức-Phật duy
trì được sinh-mạng, không tịch diệt Niết-bàn. Món Sūkuramaddava đặc biệt này có
chư-thiên bỏ thêm thiên vị, cho nên chỉ có Đức-Phật mới có thể tiêu hóa được mà
thôi.
(3) Dīghanikāya, Mahāvaggapāḷi, Kinh
Mahāparinibhānasutta.
(4) Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā,
Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā.
(5) Dī. Mahavaggapāḷi, Kinh
Mahāparinibhānasutta.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10