NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng đắc tam-minh
Sau khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã toàn thắng
Ác-ma-thiên vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch,
Đức-Bồ-tát thực
hành pháp-hành thiền-định (samathabhāvanā) với
đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc
thiền sắc-giới:
* Đệ-nhất-thiền sắc-giới có 5 chi-thiền là
hướng-
tâm, quan-sát, hỷ, lạc, nhất tâm, do chế ngự được 5 pháp chướng-ngại là tham-dục,
sân-hận, buồn-chán - buồn-ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.
* Đệ-nhị-thiền sắc-giới có 3 chi-thiền là
hỷ, lạc,
nhất tâm, do chế ngự được 2 chi-thiền là
hướng-tâm, quan-sát.
* Đệ-tam-thiền sắc-giới có 2 chi-thiền là
lạc,
nhất tâm, do chế ngự được 1 chi-thiền là
hỷ.
* Đệ-tứ-thiền sắc-giới có 2 chi-thiền là
xả, nhất
tâm, do chế ngự được 1 chi-thiền
lạc, thay bằng chi-thiền
xả.
Đó là 4 bậc thiền sắc-giới làm nền-tảng để chứng đắc Tam-Minh.
Tam-Minh (Tevijja)
1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ-tứ- thiền sắc-giới
thiện-tâm, có định-tâm trong sáng thanh-tịnh, thiền-tâm không lay động, làm
nền-tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc
tiền-kiếp-minh:
trí-tuệ nhớ rõ lại tiền-kiếp, từ một kiếp đến
hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu
kiếp, ... cho đến vô lượng kiếp không giới hạn.(1)
Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ nhớ rõ tiền-kiếp thuộc loại chúng-sinh nào,
trong cõi-giới nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, thực hành đại-thiện-nghiệp,
bất-thiện-nghiệp, ...
Tiền-kiếp-minh là
minh thứ nhất mà
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha
đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm
tháng tư (âm lịch).
2- Thiên-nhãn-minh (Dibbacakkhuñāṇa)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ-tứ- thiền sắc-giới
thiện-tâm, có định-tâm trong sáng thanh- tịnh, thiền-tâm không lay động làm nền
tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc
thiên-nhãn-minh:
trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh hơn
thiên-nhãn của chư-thiên, phạm-thiên.
Thiên-nhãn-minh có 2 loại:
* Tử-sinh-minh
(Cutūpapātañāṇa):
Trí-tuệ thấy rõ,
biết rõ sự tử, sự tái-sinh của tất cả chúng-sinh muôn loài trong các cõi-giới,
do nghiệp nào, do quả của nghiệp nào…
* Vị-lai kiến-minh (Anāgataṃsañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ những kiếp
vị-lai của tất cả chúng-sinh.
Chư Phật sử dụng
vị-lai kiến-minh này để thọ
ký, xác định thời gian còn lại của các Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- giác, Đức-Bồ-tát
Độc-giác, các vị Bồ-tát thanh-văn-giác, v.v…, xác định thời gian còn lại của các
chúng-sinh trong kiếp vị-lai xa xăm.
Thiên-nhãn-minh là
minh thứ nhì mà
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm
rằm tháng tư (âm lịch).
3- Trầm-luân tận-minh (Āsavakkhayañāṇa)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha dùng đệ- tứ-thiền sắc-giới
thiện-tâm làm nền-tảng, để thực hành pháp-hành thiền-tuệ
suy xét thấy rõ các pháp thập-nhị duyên-sinh
(paṭiccasamuppāda) là
đối-tượng pháp-hành thiền-tuệ của chư Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị duyên- sinh
theo chiều thuận như sau:
- Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh. (Avijjāpaccayā saṅkhārā)
- Do các hành làm duyên, nên tái-sinh-thức sinh. (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)
- Do tái-sinh-thức làm duyên, nên danh-pháp, sắc-pháp sinh. (Viññāṇapaccayā
nāmarūpaṃ)
- Do danh-pháp sắc-pháp làm duyên, nên lục-xứ sinh. (Nāmarūpapaccayā
saḷāyatanaṃ)
- Do lục-xứ làm duyên, nên lục-xúc sinh. (Saḷāyatanapaccayā phasso)
- Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh. (Phassapaccayā vedanā)
- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh. (Vedanāpaccayā taṇhā)
- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh. (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
- Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu sinh. (Upādānapaccayā bhavo)
- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh sinh. (Bhavapaccayā jāti)
- Do tái-sinh làm duyên, nên lão tử… sinh. (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét
thập-nhị duyên-sinh
theo chiều-thuận, chiều-sinh, để
trí-tuệ-thiền-tuệ
thấy rõ,
biết rõ “sự-sinh” của mỗi pháp,
trí-tuệ-thiền-tuệ
chứng ngộ chân-lý khổ-Thánh-đế và
nhân
sinh khổ- Thánh-đế.
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét
thập-nhị nhân-diệt
theo
chiều nghịch, chiều diệt như sau:
- Do diệt tận vô-minh, nên diệt các hành. (Avijjāyatveva asesavirāganirodhā
saṅkhāranirodho)
- Do diệt các hành, nên diệt tái-sinh-thức. (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)
- Do diệt tái-sinh-thức, nên diệt danh-pháp, sắc-pháp. (Viññāṇanirodhā
nāmarūpanirodho)
- Do diệt danh-pháp sắc-pháp, nên diệt lục-xứ. (Nāmarūpanirodhā
saḷāyatananirodho)
- Do diệt lục-xứ, nên diệt lục-xúc. (Saḷāyatananirodhā phassanirodho)
- Do diệt lục-xúc, nên diệt lục-thọ. (Phassanirodhā vedanānirodho)
- Do diệt lục-thọ, nên diệt lục-ái. (Vedanānirodhā taṇhānirodho)
- Do diệt lục-ái, nên diệt tứ-thủ. (Taṇhānirodhā upādānanirodho)
- Do diệt tứ-thủ, nên diệt nhị-hữu. (Upādānanirodhā bhavanirodho)
- Do diệt nhị-hữu, nên diệt tái-sinh. (Bhavanirodhā jātinirodho)
- Do diệt tái-sinh, nên diệt lão, tử…. (Jātinirodhā jarāmaraṇa … nirodho)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét
thập-nhị nhân- diệt
theo
chiều-nghịch, chiều-diệt, để
trí-tuệ-thiền-tuệ
thấy rõ, biết rõ “sự-diệt” của mỗi pháp,
trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý
Diệt khổ-Thánh-đế
và Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét
thập-nhị duyên-sinh,
thập-nhị nhân-diệt theo
chiều-thuận, chiều-nghịch, chiều-sinh,
chiều-diệt; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
sự-sinh, sự-diệt
của mỗi pháp;
trí-tuệ- thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3
trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã
của mỗi pháp; dẫn đến chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không
thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được 4
pháp-trầm-luân (āsava) bằng 4 Thánh-đạo-tuệ
theo tuần tự như sau:
1- Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được
một pháp-
trầm-luân là
tà-kiến trầm-luân (diṭṭhāsava)
đồng
thời diệt được tất cả mọi tà-kiến khác.
2- Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được
một pháp-
trầm-luân là
tham-dục trầm-luân (kāmāsava)
trong
ngũ-dục loại thô (còn loại vi-tế chưa diệt được) đồng thời diệt được tất cả
mọi tham-tâm loại thô khác.
3- Bất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được
một pháp-
trầm-luân là
tham-dục trầm-luân (kāmāsava) trong
ngũ-dục loại vi-tế không còn dư sót, đồng thời diệt được tất cả
mọi tham-tâm
loại vi-tế khác.
4- A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được
hai pháp-
trầm-luân là
kiếp-sinh trầm-luân (bhavāsava)
và
vô- minh trầm-luân (avijjāsava), đồng thời diệt tận
hoàn toàn mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc
biệt diệt tận được tất cả mọi tiền-khiên- tật-xấu (vāsanā)
đã tích lũy
từ vô số kiếp trong quá-khứ.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã tự mình chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc Thánh A-ra-hán cao thượng đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới
chúng-sinh.
Trầm-luân tận-minh là
minh thứ 3
mà
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh chót của đêm
rằm tháng tư (âm lịch), trước lúc rạng đông (aruṇa).
Cho nên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã trở thành
bậc Thánh A-ra-hán cao thượng đầu tiên trong muôn ngàn
cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
độc
nhất vô nhị có danh hiệu là
Đức-Phật Gotama tại
cội cây Assattha, đúng như 24 Đức-Phật quá-khứ đã từng thọ ký, nên cây
Assattha này trở thành Mahābodhirukkha
(2):
cây Đại-Bồ-đề
của
Đức- Phật Gotama
tại khu rừng Uruvelā
(nay gọi là Buddhagayā tại nước Ấn-Độ (India)).
Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian (589 TCN)
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành
Đức-Phật Gotama lúc tròn đúng 35 tuổi.
Mười ngàn cõi-giới chúng-sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc-giới phạm-thiên tột
đỉnh, chư-thiên, phạm-thiên vô cùng vui mừng hoan-hỷ thốt lên lời:
Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!
* Buddho uppanno!
(Đức-Phật-Bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!)
* Dhammo uppanno!
(Đức-Pháp-Bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!)
* Saṃgho uppanno!
(Đức-Tăng-Bảo cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)
Tiếng hoan hô vang dội khắp toàn mười ngàn cõi-giới chúng-sinh.
Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:
* Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức-Phật.
* Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.
* Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không thấy được gì, thì
nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy rõ mọi vật trên đời.
* Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không nghe được âm
thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.
* Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không đi lại
được, thì nay họ đi lại dễ dàng.
* Đặc biệt nhất, địa-ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với ba
cõi-giới, dành cho những chúng-sinh có tà-kiến cố-định (niyatamicchādiṭṭhi) hoàn
toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp. Địa-ngục tối tăm ấy, dù ánh sáng của 7
mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu sáng đến nơi ấy, song ánh
sáng hào quang của Đức-Phật Gotama tỏa khắp mười ngàn cõi-giới, chiếu sáng đến
tận địa-ngục Lokantarika, cho nên, những chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục ấy có
thể nhìn thấy lẫn nhau, …
Toàn thể mười ngàn cõi-giới, chư-thiên, phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu
nhất từ các cõi trời đến cúng dường
Đức-Phật Gotama và
tán dương ca tụng hằng ngàn bài kệ.
Phật ngôn đầu tiên của Đức-Phật Gotama
Khi ấy, Đức-Phật Gotama tự thuyết ở trong tâm bằng hai bài kệ rằng:
153-“Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ.
Gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.
154- Gahakāraka! diṭṭho’si, puna gehaṃ na kāhasi.
Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ.
Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā.(3)
153-
Này người thợ “tham-ái” xây nhà “thân” Như-Lai cố tìm
ngươi mà chưa gặp,
Nên tử sinh luân-hồi vô số kiếp, Tái-sinh mãi trong tam-giới là khổ.
154-
Này “tham ái”! người thợ xây nhà “thân” Bây giờ Như-Lai đã
gặp ngươi rồi.
Tất cả sườn nhà, “phiền-não”
(4)
của ngươi, Như-Lai đã hủy hoại sạch cả rồi,
Đỉnh nhà “vô-minh” cũng bị tiêu diệt,
Nay ngươi không còn xây nhà Như-Lai,
Tâm Như-Lai đã chứng ngộ Niết-bàn,
Diệt tận tất cả mọi “tham-ái”
(5)
Như-Lai đã chứng đắc A-ra-hán.
Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm của
Đức-Phật Gotama
này là
Phật ngôn đầu tiên của Đức-Phật Gotama (Paṭhamabuddhavacana).
Đức-Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn
Sau khi đã trở thành
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh
hiệu là Đức-Phật Gotama, Ngài an hưởng pháp vị giải
thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày như sau:
1- Tuần lễ thứ nhất: Đức-Phật ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu,
tại cội Đại-Bồ-đề, ban ngày nhập A-ra-hán Thánh-quả, ban đêm suy xét
thập-nhị duyên-sinh theo chiều-thuận, chiều-sinh; suy xét
thập-nhị
nhân-diệt theo chiều-nghịch, chiều-diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau,
Đức- Phật nhập A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải
thoát Niết-bàn, suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi
là tuần lễ “Pallaṅkasattāha”.
2- Tuần lễ thứ nhì:
Đức-Phật rời khỏi ngôi bồ-đoàn quý báu, ngự
về phía Đông Bắc, cách cội Đại-Bồ-đề 14 sải tay. Đức-Phật đứng nhìn về ngôi
bồ-đoàn quý báu, nơi mà Ngài đã toàn thắng 5 loại
māra, đã trở thành
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
Đức-Phật đứng nhìn ngôi bồ-đoàn quý báu không nháy mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ
ngày 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”.
3- Tuần lễ thứ ba:
Đức-Phật đi kinh hành trên đoạn đường dài 60
hắc tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư-thiên hóa ra để cúng dường
Đức-Phật.
Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Đại-Bồ-đề theo chiều Đông Tây. Đức-Phật hóa
phép-thần-thông
yamakapaṭihāriya hóa thành 2 dòng nước
và lửa song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Đức-Phật ngự đi kinh
hành, suy xét về chánh-pháp suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6
tháng 5, gọi là tuần lễ “Caṅkamasattāha”.
4- Tuần lễ thứ tư:
Đức-Phật ngự tại lâu đài bằng vàng, về phía
Tây Bắc của cội Đại-Bồ-đề do chư-thiên hóa ra để cúng dường Đức-Phật. Tại đây,
Đức-Thế-Tôn suy xét về Tạng Vi-Diệu-Pháp (Abhidhammapiṭaka)
gồm có 7
bộ:
- Bộ Dhammasaṅganī: Bộ Pháp-hội-tụ.
- Bộ Vibhaṅga: Bộ Pháp-phân-tích.
- Bộ Dhātukathā: Bộ Pháp-phân-loại.
- Bộ Puggalapaññatti: Bộ Chúng-sinh chế-định.
- Bộ Kathāvatthu: Bộ Pháp-luận-đề.
- Bộ Yamaka: Bộ Pháp-song-đối.
- Bộ Paṭṭhāna: Bộ Pháp-duyên-hệ.
Suy xét suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần
lễ “Ratanagharasattāha”.
5- Tuần lễ thứ năm:
Đức-Phật ngự đến cội cây da ở phía Đông,
cách cội Đại-Bồ-đề 32 sải tay, khi thì Đức- Phật suy xét chánh-pháp, khi thì
Đức-Phật nhập A-ra- hán Thánh-quả. Khi ấy, có ba cô thiên-nữ:
Taṇhā, Aratī và Rāgā
là con gái của Ác-ma-thiên, từ cõi Tha-hóa-tự-
tại-thiên hiện xuống để quyến rũ Đức-Phật với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ
gợi tình, nhưng Đức-Phật không quan tâm, Ngài vẫn an nhiên tự tại
nhập
A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn.
Ba nàng đã dùng hết khả năng của mình mà không thể cám dỗ được Đức-Phật, bởi vì
Đức-Phật là bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi
phiền-não không còn dư sót, nên không một ai trong tam-giới này có thể làm cho
tâm Đức-Phật xao động. Ba nàng không quyến rũ được Đức-Phật nên hồi tâm tán
dương ca tụng Đức-Phật, rồi từ giã trở về cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên.
Đức-Phật ngự tại cội da này nhập
A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể
từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”.
6- Tuần lễ thứ sáu: Đức-Phật ngự đến cội me gần hồ Mucalinda,
cách xa cội Đại-Bồ-đề 51 sải tay về phía Đông Nam, Đức-Phật ngồi nhập
A-ra-hán Thánh-quả. Khi ấy, trời mưa lớn,
Đức-Long-Vương Mucalinda
hiện ra dùng thân mình cuộn thành vòng tròn, chồng lên 7 vòng, để bao bọc xung
quanh kim thân Đức-Phật, và phồng mang che trên đầu Đức-Phật, để mưa không làm
ướt và lạnh. Đức-Long-vương tỏ lòng thành kính cúng dường Đức-Phật.
Đức-Phật nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến ngày
27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”.
7- Tuần lễ thứ bảy: Đức-Phật ngự đến cội cây gọi là Rājāyatana
cách xa cội Đại-Bồ-đề 4 sải tay, về phía Nam. Đức-Phật nhập
A-ra-hán
Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, gọi là
tuần lễ “Rājāyatanasattāha”.
Như vậy, Đức-Phật đã an hưởng pháp vị an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ,
gồm có 49 ngày xung quanh cội Đại-Bồ-đề.(6)
Cúng dường vật thực đầu tiên lên Đức-Phật
Sau khi Đức-Phật Gotama an hưởng pháp vị an-lạc giải thoát Niết-bàn
suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày đêm xong, Đức-Thế-Tôn ngự đến ngồi dưới một cội
cây. Khi ấy, hai anh em lái buôn tên Tapussa và
Bhallika dẫn
đoàn xe bò 500 chiếc đi ngang qua, một thiên-nữ trong kiếp quá-khứ đã từng là mẹ
của hai anh em lái buôn hiện ra, báo cho hai anh em lái buôn biết rằng:
- Này hai con! Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian rồi, Đức-Phật an hưởng
pháp vị an-lạc suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày qua, chưa độ vật thực.
Vậy, hai con là người đầu tiên đem vật thực đến cúng dường lên Đức-Phật.
Nghe thiên-nữ báo tin như vậy, hai anh em vô cùng hoan-hỷ đem vật thực ngon
lành đến đảnh lễ, rồi cúng dường lên
Đức-Phật Gotama.
Đức-Phật Gotama
thọ nhận vật thực của hai anh em lái
buôn đầu tiên. Sau khi Đức-Phật Gotama
độ vật thực và độ nước xong, hai
anh em đảnh lễ Đức-Phật, kính xin thọ phép quy-y Nhị-bảo rằng:
“Ete mayaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, upāsake no
Bhagavā dhāretu. Ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.
(7)”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con thành kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn và xin
quy y nơi Đức-Pháp-bảo.
Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận hai chúng con là người cận-sự-nam (upāsaka) đã
quy y Nhị-bảo kể từ hôm nay cho đến trọn đời.
Hai anh em Tapussa và
Bhallika cũng là hai cận-sự- nam
(upāsaka) đã quy y Nhị-bảo đầu tiên trong giáo- pháp
của Đức-Phật Gotama.
Hai anh em Tapussa và
Bhallika kính xin Đức-Phật ban cho
báu-vật để tôn thờ. Đức-Phật Gotama ban 8 sợi tóc gọi là
8
sợi xá-lợi tóc cho hai anh em lái buôn thỉnh về tôn thờ (nay
8 sợi xá-lợi tóc được tôn thờ trong ngôi bảo tháp lớn
Shwê-đa-gôn tại thủ đô nước Myanmar).
Đức-Phật suy xét về pháp siêu-tam-giới
Đức-Phật suy xét về
9 pháp siêu-tam-giới (Lokuttara- dhamma) mà
Đức-Phật đã chứng đắc:
* 4 Thánh-đạo (Ariyamagga) là pháp diệt tận mọi
phiền-não.
* 4 Thánh-quả (Ariyaphala) là pháp làm vắng lặng mọi
phiền-não.
* 1 Niết-bàn
là pháp giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.
9 pháp siêu-tam-giới này là pháp của bậc Thánh- nhân
mà thôi. Còn chúng-sinh phàm-nhân đang bị dính mắc trong ngũ-dục, bị say mê
trong ngũ-dục, bị đắm chìm trong ngũ-dục, làm tôi tớ của
108 loại tham-ái
và làm nô lệ 1.500 loại phiền-não, thì khó mà
chứng ngộ được
chân-lý tứ Thánh-đế, khó mà chứng đắc được
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả,
Niết-bàn là
9 pháp siêu-tam-giới này.
Đức-Phật suy nghĩ:
“Nếu Như-Lai thuyết pháp mà chúng-sinh không thấu hiểu
chánh-pháp, không chứng đắc pháp siêu-tam-giới cao thượng, thì chỉ làm cho Như-
Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi.”
Vì vậy, Đức-Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ hai điều kiện:
1- Chủ thể: Đức-Phật
có tâm đại-bi
(mahākaruṇā) muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát mọi cảnh khổ.
Điều kiện này đã sẵn có nơi Đức-Phật.
2- Khách thể:
Vị Đại-Phạm-thiên
thỉnh cầu Đức- Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Đó là điều kiện làm cho chúng-sinh phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.
Bởi vì các đạo-sĩ, tu-sĩ, sa- môn, bà-la-môn, vua chúa, dân chúng, kể cả
chư-thiên đều tôn kính Đại-Phạm-thiên. Nay Đại-Phạm-thiên tôn kính Đức-Phật,
thỉnh cầu Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng-sinh
nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên, … cũng tôn kính Đức-Phật.
Do đại-thiện-tâm tôn kính ấy, chúng-sinh mới có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo:
Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo. Cho nên khi Đức-Phật thuyết pháp thì
tất cả chúng-sinh, nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên, ... mới lắng nghe
chánh-pháp, rồi thực hành theo chánh-pháp của Đức-Phật.
Đại-phạm-thiên thỉnh Đức-Phật thuyết pháp
Biết Đức-Phật Gotama đang còn do dự chưa muốn thuyết
pháp tế độ chúng-sinh, nên vị Đại-Phạm-thiên Sahampati
bèn thông báo cho toàn cõi phạm-thiên, chư- thiên khắp mười ngàn
cõi-giới chúng-sinh hay biết rằng:
- Nassati vata Bho loko!
- Vinassati vata Bho loko!
(8)
- Này chư vị! Toàn cõi-giới chúng-sinh bị bất lợi!
- Này chư vị! Toàn cõi-giới chúng-sinh bị thiệt hại!
Bởi vì, Đức-Phật Gotama đang do dự chưa muốn thuyết
pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử
sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Cho nên,
Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên,
phạm-thiên khắp mười ngàn cõi-giới hiện xuống kính lễ Đức-Phật, đồng kính thỉnh
rằng:
- Desetu Bhante Bhagavā dhammaṃ.
- Desetu Sugato dhammaṃ.
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con hết lòng thành kính, cung thỉnh Đức-Thế-Tôn
mở tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
- Kính bạch Đức-Thiện-Ngôn, chúng con hết lòng thành kính, cung thỉnh
Đức-Thiện-Ngôn mở tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
Có số chúng-sinh nào phiền-não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn. Nếu số chúng-sinh ấy không
có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Thế-Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết
dường nào!
Nghe lời thỉnh cầu của vị
Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên, chư
phạm-thiên, Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi suy xét bằng
Phật-nhãn (Buddhacakkhu)
thấy rõ có số chúng-sinh có phiền-não nhẹ, có số chúng-sinh có phiền-não
nặng, có số chúng-sinh có 5 pháp-chủ:
tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ,
niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ đủ năng lực, có số chúng-sinh có
5 pháp- chủ ít năng lực, có số chúng-sinh dễ dạy, có số chúng- sinh khó
dạy, …
Ví như 4 đóa hoa sen
(9):
1- Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
liền nở ngay ngày hôm ấy.
2- Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.
3- Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian ba hoặc bốn hôm nữa mới
nở được.
4- Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non
ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá, ...
Bốn loại hoa sen này được so sánh như bốn hạng người ở trong đời:
1- Ugghāṭitaññū: Hạng người có trí-tuệ bậc thượng, bén nhạy
khi được nghe tiền đề của chánh-pháp, chưa cần khai triển, hay
trong một bài kệ có bốn câu, chỉ nghe hai câu đầu, hạng người có trí-tuệ bậc
thượng ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh- đạo,
Thánh-quả, Niết-bàn, ngay khi ấy.
2- Vipañcitaññū: Hạng người có trí-tuệ bậc trung khi được nghe
tiền đề của chánh-pháp và
khai triển, hay được
nghe một bài kệ đầy đủ bốn câu, hạng người có trí- tuệ bậc-trung ấy có khả năng
chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ngay
sau đó.
3- Neyya: Hạng người có trí-tuệ bậc hạ khi được nghe
tiền đề của chánh-pháp và
khai triển xong, còn cần
phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh- nhân, bậc thiện-trí hướng dẫn
chỉ dạy thêm, hạng người có trí-tuệ bậc hạ ấy mới có khả năng chứng ngộ chân-lý
tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, trong kiếp hiện-tại này.
4- Padaparama: Hạng người có trí-tuệ kém dù được nghe nhiều,
học nhiều đi nữa hoặc có thân cận với bậc thiện-trí, người có trí-tuệ kém ấy
cũng chưa có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh- đạo,
Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp hiện-tại này. Nhưng đây là một cơ hội tốt, một
dịp may, để bồi bổ pháp-hạnh Ba-la-mật, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng
đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp vị-lai.
Đức-Phật xem xét tất cả chúng-sinh bằng Phật-nhãn thấy rõ có 4 hạng người như
vậy, cho nên, sự thuyết pháp của Đức-Phật sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho ba hạng
người trước có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, ngay trong
kiếp hiện-tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama)
trong kiếp vị-lai.
Vì vậy, Đức-Phật nhận lời thỉnh cầu của vị
Đại- Phạm-thiên Sahampati,
Đức-Phật sẽ thuyết pháp tế độ chúng-sinh. Đức-Phật dạy rằng:
- Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Trước đây chưa có đủ điều kiện nên Như-Lai
chưa thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
- Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Bây giờ, Như-Lai nhận lời thỉnh cầu của các
ngươi, Như-Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng-sinh có duyên lành nên tế
độ, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
Khi biết Đức-Phật đã nhận lời thỉnh cầu, nên vị
Đại- Phạm-thiên Sahampati
cùng toàn thể chư phạm-thiên, chư-thiên vô cùng hoan-hỷ đảnh lễ Đức-Phật,
rồi xin phép trở về cõi trời.
Trong đời này, chỉ có
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót và chư
Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót mới không cần lắng nghe chánh-pháp từ một vị thầy
nào, mà tự mình thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ
chân-lý tứ
Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả,
Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở
thành bậc Thánh A-ra-hán
đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác
độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh, hoặc trở thành
Đức-Phật
Độc-Giác mà thôi.
Ngoài Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót
và chư Bồ-tát Độc-Giác
kiếp chót ra, còn tất cả
chư Bồ-tát thanh-văn-giác bậc nào cũng
đều cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi
thực hành theo pháp-hành thiền-tuệ
mới có thể dẫn đến chứng ngộ
chân-lý tứ Thánh-đế y theo
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chứng đắc như
sau:
* Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn,
diệt tận
được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā),
trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu.
* Chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn,
diệt tận
được 1 loại phiền-não
là sân (dosa) loại thô,
trở thành
bậc Thánh Nhất-lai.
* Chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được
1 loại phiền-não sân (dosa) loại vi-tế, trở thành
bậc Thánh
Bất-lai.
* Chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả, Niết-bàn,
diệt tận
được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna),
buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội- lỗi (ahirika),
không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa), trở thành
bậc Thánh
A-ra-hán cao thượng.
Trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử bậc nào của Đức-Phật là hoàn toàn tùy thuộc
vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và
5 pháp-chủ (indriya):
tín pháp- chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ
của mỗi bậc Thánh-nhân.
Thật vậy, trong giáo-pháp của
Đức-Phật Gotama, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta
là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác xuất sắc bậc nhất về trí-tuệ,
trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Vậy mà tự Ngài không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, cho đến khi Ngài
lắng nghe Ngài Đại- Trưởng-lão Assaji thuyết dạy một bài kệ gồm bốn
câu, vừa nghe hai câu đầu, Ngài liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng
đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành
bậc
Thánh Nhập-lưu.
Vì vậy, gọi là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
(1)
Đối với Đức-Phật Độc-Giác và
Thanh-văn-Giác có giới hạn.
(2) Dưới cội cây nào mà mỗi Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, cây ấy được gọi là
Mahābodhirukkha: Cây Đại- Bồ-đề. Mỗi Đức-Phật có mỗi cây Đại-Bồ-đề khác nhau.
Cây Assattha này là cây Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā đồng sinh cùng một lúc
với Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, 35 năm về trước.
(3) Dhammapadagāthā số 153 và số 154.
(4) Phiền-não có tất cả 1.500 loại.
(5) Tham-ái có tất cả 108 loại.
(6) Hiện-tại Buddhagayā nước Ấn-Độ quanh cội
Đại-Bồ-đề có đánh dấu kỷ niệm 7 nơi mà Đức-Phật Gotama đã an hưởng pháp vị giải
thoát Niết-bàn.
(7) Vinayapiṭakapāḷi, Mahāvagga,
Rājāyatanakathā.
(8) Bộ Majjhimanikāyapāḷi, Mūlapaṇṇāsapāḷi,
Pāsarāsisutta.
(9) Bộ Chú-giải Majjhimanikāya, Mūlapannāsa,
kinh Pāsarāsisutta.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10