NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
Cuộc đời Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha
Năm Thái-tử Siddhattha được mười sáu (16) tuổi thì Đức-vua
Suddhodana truyền ngôi báu cho Thái-tử.
Trong buổi lễ đăng quang lên ngôi vua của Thái-tử Siddhattha và lễ
thành hôn với Công-chúa Yasodharā (1),
Đức-vua Siddhattha tấn phong Công-chúa Yasodharā lên ngôi vị
Chánh-cung Hoàng-hậu.
Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trị vì đất nước được thanh bình thịnh vượng,
thần dân thiên-hạ được an cư lạc nghiệp.
Đức Thái-Thượng-hoàng Suddhodana muốn Đức-vua Siddhattha trở
thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, không muốn Đức-vua Bồ-tát
Siddhattha từ bỏ cung điện đi xuất gia để trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác. Cho nên, Đức Thái-Thượng-hoàng truyền lệnh cho các quân
lính không được để cho Đức-vua Siddhattha nhìn thấy người già,
người bệnh, người chết và bậc xuất-gia.
Đức vua Bồ-tát Siddhattha lên ngôi Vua an hưởng sự an-lạc trên ngai vàng
thời gian trải qua 12 năm, chưa từng thấy cảnh nào để phát sinh động-tâm
(saṃvega).
Nguyên nhân Đức-Bồ-tát đi xuất gia
Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến Đức-vua Bồ-tát quyết định đi
xuất gia.
* Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức-vua Bồ- tát
Siddhattha ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên
Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một người già, do chư-thiên
hóa ra, để làm cho Đức-vua Bồ- tát phát sinh động-tâm (saṃvega).
Thật vậy, Đức-vua Bồ-tát chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên
Đức-vua Bồ-tát suy tư:
“Chắn chắn ta sẽ có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự
già được.”
Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa, Đức-vua Bồ-tát
truyền bảo quan đánh xe đưa Đức-vua hồi cung.
* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm
tháng 10, Đức-vua Bồ-tát lại ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi,
lần này Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một người bệnh, cũng
do chư-thiên hóa ra.
Như lần trước, Đức-vua Bồ-tát suy tư:
“Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được.”
Tâm trạng u buồn, Đức-vua Bồ-tát truyền lệnh bảo quan đánh xe đưa Đức-vua
hồi cung.
* Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm
tháng 2, để vơi bớt nỗi buồn, Đức-vua Bồ-tát lại ngự đi du lãm vườn thượng
uyển. Trên đường đi, bất chợt Đức- vua Bồ-tát nhìn thấy một người
chết, cũng do chư-thiên hóa ra.
Cũng như hai lần trước, Đức-vua Bồ-tát suy tư:
“Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được.”
Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Đức-vua Bồ-tát truyền lệnh bảo quan đánh xe đưa
Đức-vua hồi cung.
Từ đó, Đức-vua Bồ-tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự
chết. Đức-vua Bồ-tát tự hỏi, có con đường nào giải thoát khỏi
sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì
có sự tái-sinh.
“Ôi! Sự tái-sinh đáng kinh sợ thật!”
* Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6,
để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức-vua Bồ-tát ngự đi
du lãm vườn thượng uyển.
Trên đường đi, Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một bậc xuất-gia
đang tĩnh tọa dưới cội cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư-thiên hóa ra
để làm cho Đức-vua Bồ-tát nghĩ đến việc xuất-gia.
Thật vậy, khi Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy bậc xuất-gia, Ngài liền trút bỏ được mọi
nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Đức-vua
Bồ-tát quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự
tái-sinh là giải thoát khỏi khổ già, khổ bệnh, khổ chết.
Hôm ấy, Đức-Bồ-tát cảm thấy vô cùng hoan-hỷ, nên Đức-Bồ-tát vẫn tiếp tục
ngự đi du lãm vườn thượng uyển.
Khi Đức-vua Bồ-tát hồi cung, ngay trong đêm ấy Đức-vua Bồ-tát nghe tin
Chánh-cung Hoàng-hậu Yasodharā đã sinh hạ Hoàng-tử, tình thương
con phát sinh trong tâm, Đức-vua Bồ-tát than rằng:
“Sự ràng buộc lớn!”
Do đó, Hoàng-tử được đặt tên là “Rāhula”.
Mặc dù vậy, chí nguyện xuất-gia của Đức-vua Bồ-tát vẫn không thay đổi.
Đêm ấy, Đức-vua Bồ-tát đến tìm gặp Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo:
- Này Channa! Đêm nay, Trẫm sẽ rời khỏi hoàng cung, đi xuất gia, khanh hãy
sửa soạn cho Trẫm con ngựa Kaṇḍaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay
biết cả.
Như vậy, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha lên ngôi vua, trị vì đất nước được 13
năm.
Đức-Bồ-tát Siddhattha đi xuất gia
Bỗng nhiên Đức-vua Bồ-tát thoáng nghĩ:
“Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng-nhi.”
Đức-vua Bồ-tát đi nhẹ nhàng lén vào phòng Chánh- cung Hoàng-hậu Yasodharā, dưới
ánh đèn mờ nhạt, Chánh-cung Hoàng-hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay qua
Hoàng-nhi, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn thấy rõ mặt Hoàng-nhi, nên
Đức-vua Bồ-tát thầm nghĩ:
“Nếu ta đến gần e rằng Chánh-cung Hoàng-hậu sẽ thức giấc, làm trở ngại việc
xuất-gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn thấy mặt Hoàng-nhi, thì chờ
sau khi ta trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không
muộn.”
Vào nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Đức-vua
Bồ-tát Siddhattha nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, lên ngựa Kaṇḍaka, còn
Channa đi theo sau, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trốn khỏi hoàng cung, đi xuất gia,
lúc 29 tuổi.
Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư-thiên nâng đỡ, không phát ra tiếng động, nên
không một ai hay biết, khi đến cửa thành thì liền có chư-thiên mở cửa cho ngựa
Kaṇḍaka phi nhanh qua.
Đức-vua Bồ-tát Siddhattha ngự đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya và
xứ Malla khoảng 30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma,
Đức-vua Bồ-tát Siddhattha ra hiệu cho ngựa Kaṇḍaka bay sang bờ bên
kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa cởi các đồ trang phục đức-vua, rồi bảo Channa
rằng:
- Này Channa! Trẫm sẽ xuất gia tại nơi đây, khanh hãy mang tất cả đồ trang
phục nầy trở về hoàng cung, trình tâu cho Đức-Phụ-vương của Trẫm biết.
Đức-vua Bồ-tát Siddhattha dùng thanh gươm báu cắt tóc, chừa lại khoảng hai
lóng tay, tất cả những sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên
phải nằm sát trên da đầu và cạo sạch râu.
Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời của Đức-Phật, không còn phải
cắt tóc, cạo râu nữa.
Sau khi cắt tóc xong, Đức-vua Bồ-tát cầm nắm tóc trên tay, phát nguyện rằng:
“Nếu ta trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì xin cho nắm tóc này ở trên hư
không, còn như nếu ta không trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì nắm tóc này
sẽ rơi xuống đất.”
Đức-Bồ-tát ném nắm tóc lên hư không.
Thật là phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên trên hư không khoảng một do tuần
rồi đứng yên một chỗ.
Lúc ấy, Đức-vua Trời Sakka nhìn thấy bèn đem cái hộp bằng ngọc hiện xuống, cung
kính đặt nắm tóc của Đức-vua Bồ-tát vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Cuḷamanī
tại cõi Tam-thập-tam-thiên.
Khi ấy, vị Đại phạm-thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ
tiền-kiếp của Đức-vua Bồ-tát trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa,
biết hôm nay Đức-vua Bồ-tát Siddhattha xuất gia, nên
mang 8 thứ vật dụng của bậc Sa-môn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây
thắt lưng và đồ lọc nước đến kính dâng cúng dường Đức-vua Bồ-tát.
Đức-Bồ-tát Siddhattha mặc y vàng màu lõi mít, tượng
trưng màu lá cờ chiến thắng của bậc Thánh A-ra- hán, trở thành
bậc xuất-gia, lúc Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha
được 29 tuổi.
Đức-Bồ-tát thọ giáo pháp-hành thiền-định
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha tìm đến vị Đạo-sư Ālāra
Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận Đức-Bồ-tát, rồi
truyền dạy pháp-hành thiền-định.
Đức-Bồ-tát thực hành pháp-hành thiền-định qua một thời gian không lâu,
Đức-Bồ-tát chứng đắc được 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, và chứng đắc
đến đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là: vô-sở-hữu-xứ-thiền
thiện- tâm (akiñcaññāyatanajjhānakusalacitta) ngang bằng với bậc thiền mà
vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc.
Vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức-Bồ-tát rằng:
- Này hiền-giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm nào, thì
hiền-giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ấy. Hiền-giả chứng
đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào, thì tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền
vô-sắc-giới thiện-tâm ấy.
- Này hiền-giả! Từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo- sư dạy dỗ nhóm đệ-tử này.
Đức-Bồ-tát suy xét rằng:
“Đệ-tam-thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở- hữu-xứ-thiền thiện-tâm này
sẽ cho quả tái-sinh lên cõi vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là cõi
Vô-sở-hữu-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại-kiếp, không phải là pháp
dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt tận tham-ái, không diệt tận được
phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4
Thánh-quả, Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát
khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.”
Đức-Bồ-tát Siddhattha không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Đức-Bồ-tát
xin từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu
mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.
Sau khi từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta, Đức-Bồ-tát Siddhattha tìm đến vị
Đạo-sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận
Đức-Bồ-tát, rồi truyền dạy pháp-hành thiền-định.
Đức-Bồ-tát thực hành pháp-hành thiền-định qua một thời gian không lâu,
Đức-Bồ-tát chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới và chứng đắc đến đệ-tứ-thiền
vô-sắc-giới tột đỉnh gọi là: Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm
(nevasaññānāsaññāyatanajjhānakusalacitta) là bậc thiền vô-sắc-giới tột
đỉnh ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.
Vị Đạo-sư tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát rằng:
- Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc- giới tột đỉnh nào, thì
hiền-giả cũng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy. Hiền-giả chứng đắc
bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới
tột đỉnh ấy.
- Này hiền-giả! Tôi xin thỉnh hiền-giả làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ-tử này.
Đức-Bồ-tát suy xét rằng:
“Đệ-tứ-thiền vô-sắc-giới gọi là phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền thiện-tâm
này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là cõi
Phi-tưởng-phi- phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại- kiếp,
không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ- uẩn, không diệt tận được tham-ái,
không diệt tận được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng
đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh,
tử, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.”
Đức-Bồ-tát Siddhattha xin từ giã Đạo-sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm
pháp-môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.
Đức-Bồ-tát thực hành pháp-hành khổ-hạnh
(Dukkaracariyā)
Sau khi từ giã vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta, Đức-Bồ- tát Siddhattha ngự đến khu
rừng Uruvelā gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 tỳ-khưu:
Ngài Koṇḍañña là trưởng nhóm cùng với Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài
Mahānāma và Ngài Assaji xin theo hộ độ Đức-Bồ- tát Siddhattha.
Đức-Bồ-tát Siddhattha tinh-tấn thực hành
pháp-hành khổ-hạnh (dukkaracariyā) đó là
pháp-khó-hành như là phương-pháp nín thở vào, thở ra bằng miệng và
mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở vào, thở ra bằng miệng,
bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ
dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến
nỗi làm cho Đức-Bồ-tát chết ngất.
* Số chư-thiên tưởng rằng: “Sa-môn Gotama chết rồi!”
* Số khác tưởng rằng: “Sa-môn Gotama gần chết!”
* Số khác cho rằng: “Sa-môn Gotama không phải chết, cũng không phải gần
chết, mà Sa-môn Gotama đang thực hành pháp-hành bậc Thánh A-ra-hán!”
Đức-Bồ-tát Siddhattha tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật
thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen, … Do đó, kim
thân của Đức-Bồ-tát gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng
phải đường xương sống.
Trước kia kim thân của Đức-Bồ-tát có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80
tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời. Đến nay, các tướng tốt của bậc đại-
nhân và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.
Một hôm, Đức-Bồ-tát suy xét: “Ta đã thực hành pháp-hành khổ-hạnh là
pháp-khó-hành này đến chỗ tột cùng rồi. Trong quá-khứ, chưa từng có Sa-môn,
Bà-la- môn nào đã thực hành pháp-hành khổ-hạnh đến mức như ta đang thực hành.
Hiện-tại và vị-lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể thực hành
pháp-hành khổ-hạnh như ta, thế mà, ta không thể trở thành Đức- Phật
Chánh-Đẳng-Giác.
Như vậy, chắc chắn còn có một pháp-hành nào khác.”
Đức-Bồ-tát Siddhattha hồi tưởng lại:
“Khi còn nhỏ, ta cùng đi với Đức-Phụ-vương ra đồng làm lễ hạ điền,
Đức-Phụ-vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã
ngồi niệm đề mục hơi thở vào, hơi thở ra, và ta đã chứng đắc
đệ- nhất-thiền sắc-giới thiện-tâm. Vậy, chắc chắn pháp- hành thiền-định này làm
nền tảng, để cho ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng nên.”
Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe của
ta yếu đuối, ta không thể thực- hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm hơi
thở vào, hơi thở ra này được.
Vậy, điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, để phục hồi sức khỏe, rồi ta mới
có thể thực hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm hơi thở.”
Đức-Bồ-tát từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh
Đức-Bồ-tát Siddhattha đã thực hành pháp-hành khổ- hạnh
(dukkaracariyā) đó là pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã,
mà không đạt đến mục đích trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên
từ bỏ pháp-hành khổ- hạnh. Đức-Bồ-tát mang bát vào xóm nhà Senā đi khất thực trở
lại.
Nhìn thấy Đức-Bồ-tát đi khất-thực như vậy, nhóm 5 tỳ-khưu hiểu lầm Đức-Bồ-tát đã
từ bỏ sự tinh-tấn thực hành pháp-hành khổ-hạnh để trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác, mà trở lại đời sống bình thường, nên nhóm 5 tỳ-khưu không theo
hộ độ Đức-Bồ-tát nữa, họ dẫn nhau đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana,
gần kinh-thành Bārāṇasī, trú tại nơi ấy.
Đức-Bồ-tát độ vật thực lại được thời gian không lâu, thì sức khỏe của Đức-Bồ-tát
được hồi phục trở lại.
Trong thời-kỳ thực hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành, 32 tướng tốt của
bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-tát Siddhattha bị biến mất.
Nay, kim thân của Đức-Bồ-tát Siddhattha lại hiện rõ 32 tướng tốt của bậc
đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước.
3
Ngày 14 tháng tư âm lịch, vào canh chót đêm ấy, Đức- Bồ-tát Siddhattha nằm thấy
5 đại-mộng (Mahāsupina). Qua 5 đại-mộng này, Đức-Bồ-tát Siddhattha đoán biết
chắc chắn rằng:
“Ta sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
Sáng sớm hôm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi dưới gốc
cây da, để chờ đến giờ đi vào xóm khất-thực.
Tại gốc cây da này, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem
lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư-thiên, theo lời nguyện của nàng. Nàng Sujātā là
con gái của ông phú-hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvelā, khi nàng
trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện rằng:
“Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và
sinh được một đứa con trai
đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch),
tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư-thiên cội cây này.”
Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên, hằng năm vào ngày rằm
tháng tư âm lịch, nàng Sujātā thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư-thiên
cội cây này.
Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa của 8 con bò tinh khiết, khi nàng
đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một
mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn
lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy.
Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào
chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên.
Sở dĩ, có những sự việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có tứ
Đại-Thiên-vương trông coi lò lửa, Đức-vua-trời Sakka lấy củi bỏ vào lò,
Đức
Phạm-Thiên che lọng, tất cả chư-thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của
mình bỏ vào nồi cơm sữa.
Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Puṇṇā bảo rằng:
- Này Puṇṇā! Hôm nay chư-thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng
chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này! Con hãy mau đến cội cây da
quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn vị thiên
thần cội cây ấy.
Vâng lời, người tớ gái Puṇṇā đến gốc cây da để quét dọn, cô nhìn thấy
Đức-Bồ-tát
Siddhattha đang ngồi quay mặt về hướng Đông, từ kim thân của Đức-Bồ-tát phát ra
hào quang sáng ngời tỏa khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng:
“Sáng hôm nay, vị thiên-thần cội cây của chúng ta hiện ra ngồi đợi thọ nhận cơm
sữa cúng dường.”
Nghĩ như vậy, nên cô vô cùng hoan-hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ
biết.
Nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, nàng Sujātā phát sinh
đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ bảo người tớ gái Puṇṇā rằng:
- Này Puṇṇā! Kể từ hôm nay về sau, ngươi trở thành
đứa con gái của ta.
Sau khi nói xong, nàng Sujātā ban cho cô Puṇṇā những đồ trang sức quý giá, xứng
đáng với địa vị đứa con gái của nàng.
Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm,
thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần
tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt vừa đầy mâm. Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ
thường chưa từng có bao giờ. Nàng Sujātā lấy một chiếc lồng bàn đậy lại rồi phủ
lên một lớp vải trắng tinh.
Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm
sữa cùng người con gái Puṇṇā đi theo sau đến gốc cây da. Nhìn thấy Đức- Bồ-tát
có đầy đủ tướng tốt của bậc đại-nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim
thân của Đức-Bồ-tát sáng khắp vùng. Thấy vậy, nàng lại càng phát sinh đức- tin
trong sạch và vô cùng hoan-hỷ chưa từng có bao giờ, bởi vì nàng tưởng rằng:
Đức-Bồ-tát Siddhattha là vị thiên-thần cội cây hiện ra để thọ nhận phẩm vật cúng
dường tạ ơn của nàng.
Nàng Sujātā cung kính đi đến gần Đức-Bồ-tát đặt
chiếc mâm vàng đầy cơm sữa và bình nước, hoa quả, vật thơm, … cung kính dâng
cúng dường lên Đức-Bồ-tát.
Khi ấy, cái bát của Đức-Bồ-tát bỗng nhiên biến mất,
Đức-Bồ-tát nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:
- Kính bạch Đức-Thiên-thần, con thành kính dâng cúng dường chiếc mâm vàng đầy
phẩm vật này lên Ngài.
Kính xin Ngài có tâm từ tế độ thọ nhận chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, để cho
con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
Con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế
ấy.
Đức-Bồ-tát Siddhattha đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật cúng
dường ấy.
Đức-Bồ-tát thọ nhận cơm sữa bò của nàng Sujātā
Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức-Bồ-tát đứng dậy
rời khỏi gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông
Nerañjarā, nơi mà chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót quá-khứ, trước khi trở
thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này
gọi là bến Supaṭitthita. Đức-Bồ-tát Siddhattha đặt mâm vàng đầy cơm sữa tại
bến
Supaṭitthita, rồi xuống dòng sông Nerañjarā tắm.
Sau khi tắm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến
thắng của chư Thánh A-ra-hán, đoạn Đức-Bồ-tát ngồi quay mặt về hướng Đông, độ
hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ gồm 49
ngày, Đức-Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát
Niết-bàn).
Sau khi độ cơm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha cầm chiếc mâm vàng rồi phát nguyện
rằng:
“Nếu hôm nay tôi sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác thì xin cho chiếc mâm
vàng này sẽ trôi ngược dòng nước, nếu không thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi
theo dòng nước.”
Phát-nguyện xong, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ném chiếc mâm vàng xuống
dòng sông Nerañjarā.
Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa
sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn
khá xa, rồi chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải 3 chiếc mâm vàng
của 3 Đức-Phật quá-khứ: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana và
Đức-Phật
Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long-vương Kālanāga
tỉnh giấc,
nên nghĩ rằng:
“Hôm qua một Đức-Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức-Phật khác xuất hiện.”
Long-vương Kālanāga thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ tán dương ca
tụng một sự kiện vô cùng hy hữu xuất hiện trên thế gian.
Trưa hôm ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nghỉ trong một khu rừng Sāla,
bên bờ sông Nerañjarā, những cây Sāla đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng, để đón
mừng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Chiều hôm ấy, trên đường Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đến cội cây
Assattha(2) tại khu rừng
Uruvelā, dọc theo hai bên đường, chư-thiên trang hoàng những đóa hoa trời rất
xinh đẹp, các hàng chư-thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng
với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng-sinh.
Ngôi bồ-đoàn quý-báu phát sinh
Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều về phía
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, nhìn thấy Đức-Bồ-tát liền phát sinh
đức-tin trong sạch, nên dâng cúng dường tám nắm cỏ lên Đức-Bồ-tát Siddhattha.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nhận tám nắm cỏ, rồi ngự đi thẳng đến cội
cây Assattha.
* Đức-Bồ-tát khi đứng hướng Nam của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát
nhìn thẳng về
hướng Bắc, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi tam-giới hướng Nam bị chìm
sâu xuống cõi địa-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới hướng Bắc được nổi lên đến
cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát suy nghĩ rằng:
“Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể trở thành
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát ngự đi sang đứng hướng Tây của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn
thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi
tam-giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới ở
hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-
tát suy nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát ngự đi sang đứng hướng Bắc của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn
thẳng hướng Nam, cũng
như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi tam- giới hướng Bắc bị chìm
sâu xuống cõi điạ-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới ở hướng Nam được nổi lên đến
cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát suy nghĩ rằng:
“Đây cũng không phải là chỗ ngồi để ta có thể trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.”
* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đi sang đứng hướng Đông của
cội cây
Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn thẳng về hướng Tây.
Thật phi thường thay! Đức-Bồ-tát có cảm giác toàn khắp cõi tam-giới đều ở trạng
thái thăng bằng, nên Đức- Bồ-tát suy nghĩ rằng:
“Chính đây là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh-Đẳng-Giác.”
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội cây
Assattha.
Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên hóa thành ngôi bồ-đoàn
quý-báu có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến
trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một ngôi bồ-đoàn đẹp tuyệt vời như vậy.
Bởi vì, ngôi bồ-đoàn quý báu này phát-sinh do oai- lực của 30 pháp-hạnh
ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở
thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ-đoàn
quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:
“Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc
xương đi nữa, nếu ta chưa trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ta quyết không bao
giờ rời khỏi ngôi Bồ-đoàn quý báu này.”
Ngôi bồ-đoàn nơi toàn thắng Ác-ma-thiên
Khi ấy, từ cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, Ác-ma-thiên hóa ra hàng ngàn cánh tay
đều cầm khí giới, cỡi voi trời Girimekhala dẫn đầu đoàn thiên ma tướng, thiên ma
binh rầm rộ hiện xuống vây quanh cội cây Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên
hư không, chúng thiên ma binh dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội
kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành cho được ngôi bồ-đoàn
của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Vừa mới đây, chư-thiên, phạm-thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường,
tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.
Khi thoáng nhìn thấy Ác-ma-mhiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng
trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả chư-thiên, phạm-thiên đều
bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn điềm nhiên ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu một
cách an nhiên tự tại.
Ác-ma-thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết
hại Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha, để chiếm đoạt ngôi bồ-đoàn quý báu
ấy, với mục đích ngăn cản không cho Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật
Chánh-Đẳng-Giác.
Do oai-lực 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác
Siddhattha sắp trở
thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy
hiểm nào có thể làm hại Đức-Bồ-tát được.
Quả thật như vậy! Do oai-lực 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, các loại vũ khí và phép thuật của Ác-ma-thiên đều
hóa thành những vật cúng dường Đức-Bồ-tát.
Ngồi trên lưng voi trời Girimekhala, Ác-ma-thiên vô cùng căm uất chỉ tay về
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nói như ra lệnh rằng:
- Này Sa-môn Gotama! Nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi bồ-đoàn ấy, vì ngôi
bồ-đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha từ tốn đáp lại rằng:
- Này Ác-ma-thiên! Ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do oai-lực của 30
pháp-hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại- thí, 3 pháp-hành mà Như-Lai đã thực hành từ vô
số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này.
Vì vậy, ngôi bồ-đoàn này thuộc về của Như-Lai, không phải của ngươi.
Khi ấy, chỉ một mình Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi
bồ-đoàn quý báu, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức-Bồ-tát Chánh-
Đẳng-Giác Siddhattha cả, nên Ác-ma-thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức-Bồ-tát rằng:
- Thưa Sa-môn Gotama! Ngài nói rằng: “Ngôi bồ- đoàn quý báu ấy thuộc về của
Ngài. Vậy, ai làm chứng cho Ngài!”
Nhìn xung quanh đều không có một chư-thiên, phạm-thiên nào cả, Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt
đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng:
“Tiền-kiếp của Như-Lai đã trải qua vô số kiếp quá- khứ đã từng thực hành đầy đủ
trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, có 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành. Bây giờ, tại
nơi đây không có chúng-sinh nào đứng ra làm chứng cho Như-Lai, chỉ có mặt đất,
mặt đất này không có tâm thức có thể làm chứng cho Như-Lai được không?”
Thật phi thường thay! Lời chân-thật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha
vừa chấm dứt, thì ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những
tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác-ma-thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục
voi trời Girimekhala bỏ chạy trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên; còn đám thiên
ma binh, thiên ma tướng thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng
chạy tán loạn theo Ác-ma-thiên trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên.
Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu
dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác-ma-thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn
hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khắp mười ngàn thế giới chúng-sinh,
chư-thiên các cõi trời dục-giới, phạm-thiên các cõi trời sắc-giới, Long- vương
dưới long-cung, … toàn thể chư-thiên, phạm- thiên vui mừng reo hò vang dội khắp
các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của
Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha rằng:
- Đức-Bồ-tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
- Ác-ma-thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!
Như vậy, ngôi bồ-đoàn quý báu này được phát sinh do oai-lực của 30 pháp-hạnh
ba-la-mật của Đức-Bồ-tát
Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, nên gọi là “Aparājita- pallaṅka” nghĩa là
ngôi
bồ-đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác-ma-thiên.
Chư-thiên, phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ cõi trời đến cúng
dường, tán dương ca tụng oai- lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát
Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha.
(1)
Công-chúa Yasodharā của Đức-vua
Suppabuddha và Chánh-cung Hoàng- hậu Amitādevī xứ Devadaha. Công-chúa Yasodharā
là người đồng sinh với Đức-Bồ-tát Siddhattha trong ngày rằm tháng tư 16 năm về
trước.
(2) Cây Assattha này đồng sinh cùng một lúc
với Đức-Bồ-tát Siddhattha. Đúng 35 năm sau, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi
tại cội cây Assattha này, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là
Đức-Phật Gotama. Cho nên, cây Assattha này trở thành cây Đại-Bồ-Đề của Đức-Phật
Gotama.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10