NỀN TẢNG PHẬT GIÁO
(MŪLABUDDHASĀSANA)
QUYỂN 1
TAM BẢO
(Ratanattaya)
CHƯƠNG I
BA NGÔI CAO CẢ
(TIYAGGA)
ĐỨC-PHÁP
(DHAMMA)
Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã (Anattalakkhaṇasutta)
Ngày rằm tháng 6 (âm-lịch),
Đức-Phật Gotama thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh
Dhammacakkappavattana-sutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân, để tế độ nhóm 5 vị tỳ-
khưu, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña trở thành
bậc Thánh Nhập-lưu
đầu tiên trong
giáo pháp của Đức-Phật Gotama. Tiếp theo sau, mỗi ngày một vị trở thành bậc
Thánh Nhập-lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm
5 vị tỳ- khưu
đều trở thành
bậc Thánh
Nhập-lưu.
Đến ngày 20 tháng 6,
Đức-Phật Gotama thuyết bài
kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh
Trạng-thái-vô-ngã, để tế độ nhóm
5 vị tỳ-khưu trở thành
bậc Thánh A-ra-hán.
Phần I: Ý nghĩa kệ khai Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã
Dhammacakkaṃ pavattetvā...
Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai
Tên gọi là
I-si-pa-ta-na
Gần kinh-thành
Ba-ra-na-xi
ấy,
Ngày rằm tháng sáu, trăng tròn sáng tỏ,
Đức-Phật thuyết bài kinh Chuyển-pháp-luân,
Ngài Koṇḍañña trở thành bậc Thánh
Nhập-lưu,
Tuần tự theo mỗi ngày, thêm một vị.
Nhóm năm tỳ-khưu thành Thánh Nhập-lưu,
Đến ngày 20 tuần trăng hạ huyền
Đức-Phật thuyết kinh Trạng-thái-vô-ngã.
Tế độ tỳ-khưu trở thành A-ra-hán.
Này chư thiện-trí! Xin hãy lắng nghe
Chúng tôi tụng kinh Trạng-thái-vô-ngã.
Phần II: Ý nghĩa bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã
(Anattalakkhaṇasutta)
(1)
Lời của Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa rằng:
- Evaṃ me sutaṃ...
- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa khả kính! Con là Ānanda, được nghe
bài Kinh Trạng-thái vô-ngã từ Đức-Thế-Tôn như vầy:
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana (trước
kia chư Phật Độc-Giác thường ngự xuống). Tại nơi đây, Đức-Thế-Tôn bèn gọi nhóm 5
tỳ-khưu rằng:
- Này chư tỳ-khưu!
Chư tỳ-khưu đáp lời Đức-Thế-Tôn:
- Dạ, kính bạch Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng Kinh Trạng-thái-vô-ngã như sau:
Ngũ-uẩn là vô-ngã
1- Sắc-uẩn là vô-ngã
- Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
- Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu sắc-uẩn này là ta (ngã) thì sắc-uẩn này không
bị vô-thường biến đổi, không bị bệnh khổ thân, các con có thể mong muốn sắc- uẩn
này rằng:
“Sắc-uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này. Sắc-uẩn của tôi đừng có
bệnh khổ thân, xấu xí như thế kia.”
- Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì sắc-uẩn này là vô- ngã, do đó, sắc-uẩn này bị
vô-thường biến đổi, bị bệnh khổ thân.
Vì vậy, các con không thể mong muốn sắc-uẩn này rằng:
“Sắc-uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này. Sắc-uẩn của tôi đừng có
bệnh khổ thân, xấu xí như thế kia.”
(Sắc-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy theo ý muốn của ai.)
2- Thọ-uẩn là vô-ngã
- Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn
của ai).
- Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu thọ-uẩn này là ta (ngã) thì thọ-uẩn này không
bị vô-thường biến đổi, không bị bệnh khổ thân, không bị bệnh khổ tâm, các con có
thể mong muốn thọ-uẩn này rằng:
“Thọ-uẩn của tôi được an-lạc như thế này. Thọ-uẩn của tôi đừng khổ đau như thế
kia.”
- Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì thọ-uẩn này là vô- ngã, do đó thọ-uẩn này bị
vô-thường biến đổi, bị bệnh khổ thân, bị bệnh khổ tâm.
Vì vậy, các con không thể mong muốn thọ-uẩn này rằng:
“Thọ-uẩn của tôi được an-lạc như thế này. Thọ-uẩn của tôi đừng khổ tâm như thế
kia.”
(Thọ-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của
ai.)
3- Tưởng-uẩn là vô-ngã
- Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý
muốn của ai).
- Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu tưởng-uẩn này là ta (ngã), thì tưởng-uẩn này
không bị vô-thường biến đổi, không bị bệnh khổ tâm, các con có thể mong muốn
tưởng-uẩn này rằng:
“Tưởng-uẩn của tôi tưởng nhớ điều tốt, điều thiện như thế này. Tưởng-uẩn của tôi
đừng tưởng nhớ điều xấu, điều ác như thế kia.”
- Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì tưởng-uẩn này là vô-ngã, do đó, tưởng-uẩn này
bị vô-thường biến đổi, bị bệnh khổ tâm. Vì vậy, các con không thể mong muốn
tưởng-uẩn này rằng:
“Tưởng-uẩn của tôi tưởng nhớ điều tốt, điều thiện như
thế này. Tưởng-uẩn của tôi đừng tưởng nhớ điều xấu,
điều ác như thế kia.”
(Tưởng-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của
ai.)
4- Hành-uẩn là vô-ngã
- Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý
muốn của ai).
- Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu hành-uẩn này là ta (ngã), thì hành-uẩn này
không bị vô-thường biến đổi, không bị bệnh khổ tâm, các con có thể mong muốn
hành- uẩn này rằng:
“Hành-uẩn của tôi hành thiện-nghiệp như thế này. Hành-uẩn của tôi đừng hành
ác-nghiệp như thế kia.”
- Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì hành-uẩn này là vô- ngã, do đó, hành-uẩn này
bị vô-thường biến đổi, bị bệnh khổ tâm.
Vì vậy, các con không thể mong muốn hành-uẩn này rằng:
“Hành-uẩn của tôi hành thiện-nghiệp như thế này. Hành-uẩn của tôi đừng hành
ác-nghiệp như thế kia.”
(Hành-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của
ai.)
5- Thức-uẩn là vô-ngã
- Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý
muốn của ai).
- Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu thức-uẩn này là ta (ngã), thì thức-uẩn này
không bị vô-thường biến đổi, không bị bệnh khổ tâm, các con có thể mong muốn
thức- uẩn này rằng:
“Thức-uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này. Thức-uẩn của tôi đừng
biết điều xấu, điều ác như thế kia.”
- Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì thức-uẩn này là vô- ngã, do đó, thức-uẩn này
bị vô-thường biến đổi, bị bệnh khổ tâm. Vì vậy, các con không thể mong muốn
thức-uẩn này rằng:
“Thức-uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này. Thức-uẩn của tôi đừng
biết điều xấu, điều ác như thế kia.”
(Thức-uẩn như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào nhân- duyên, không tùy thuộc theo
ý muốn của ai.)
Ngũ-uẩn có 3 trạng-thái-chung
6- Sắc-uẩn có 3 trạng-thái-chung
- Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này?
- Sắc-uẩn này là thường hay vô-thường?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sắc-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
- Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn nào là vô-thường, vậy sắc-uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sắc-uẩn nào sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường luôn
luôn hành hạ, nên sắc-uẩn ấy là khổ.
- Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn nào có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, có
trạng-thái thường biến đổi, không theo ý của ai. Vậy, các con có nên theo
chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến trong sắc-uẩn ấy rằng:
“Sắc-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), sắc-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn),
sắc-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ trong sắc-uẩn ấy như
vậy. Bạch Ngài.
7- Thọ-uẩn có 3 trạng-thái-chung
- Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này?
- Thọ-uẩn này là thường hay vô-thường?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thọ-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
- Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn nào là vô-thường, vậy thọ-uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thọ-uẩn nào sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường luôn
luôn hành hạ, nên thọ-uẩn ấy là khổ.
- Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn nào có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, có
trạng-thái thường biến đổi, không chiều theo ý của ai. Vậy, các con có nên theo
chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến trong thọ- uẩn ấy rằng:
“Thọ-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), thọ-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn),
thọ-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ trong thọ-uẩn ấy như
vậy. Bạch Ngài.
8- Tưởng-uẩn có 3 trạng-thái-chung
- Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này?
- Tưởng-uẩn này là thường hay vô-thường?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tưởng-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
- Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn nào là vô-thường, vậy tưởng-uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tưởng-uẩn nào sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường
luôn luôn hành hạ, nên tưởng-uẩn ấy là khổ.
- Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn nào có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, có
trạng-thái thường biến đổi, không chiều theo ý của ai. Vậy, các con có nên theo
chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến trong tưởng- uẩn ấy rằng:
“Tưởng-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), tưởng-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn),
tưởng-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ trong tưởng-uẩn ấy như
vậy. Bạch Ngài.
9- Hành-uẩn có 3 trạng-thái-chung
- Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này?
- Hành-uẩn này là thường hay vô-thường?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hành-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
- Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn nào là vô-thường, vậy hành-uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hành-uẩn nào sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường luôn
luôn hành hạ, nên hành- uẩn ấy là khổ.
- Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn nào có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, có
trạng-thái thường biến đổi, không chiều theo ý của ai. Vậy, các con có nên theo
chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến trong hành- uẩn ấy rằng:
“Hành-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), hành-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn),
hành-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ trong hành-uẩn ấy như
vậy. Bạch Ngài.
10- Thức-uẩn có 3 trạng-thái-chung
- Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này?
- Thức-uẩn này là thường hay vô-thường?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thức-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
- Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn nào là vô-thường, vậy thức-uẩn ấy là khổ hay lạc?
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thức-uẩn nào sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường luôn
luôn hành hạ, nên thức- uẩn ấy là khổ.
- Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn nào có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, có
trạng-thái thường biến đổi, không chiều theo ý của ai. Vậy, các con có nên theo
chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến trong thức- uẩn ấy rằng:
“Thức-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), thức-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn),
thức-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ trong thức-uẩn ấy như
vậy. Bạch Ngài.
Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ trong ngũ-uẩn 11- Trí-tuệ-thiền-tuệ không
chấp-thủ trong sắc-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, sắc-uẩn nào đã sinh trong
thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại; hoặc
sắc-uẩn bên trong của mình, hoặc sắc-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc
sắc-uẩn thô, hoặc sắc-uẩn vi-tế, hoặc sắc-uẩn thấp hèn, hoặc sắc-uẩn cao quý,
hoặc sắc-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc sắc-uẩn nào sinh ở nơi gần, gồm 11 loại
sắc-uẩn ấy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo
thật-tánh của sắc-uẩn ấy rằng:
“Sắc-uẩn ấy không phải là của ta (do tham-ái), sắc- uẩn ấy không phải là ta (do
ngã-mạn), sắc-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta (do tà-kiến).”
12- Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ trong thọ-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, thọ-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong
thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại; hoặc thọ-uẩn bên trong của mình,
hoặc thọ-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc thọ-uẩn thô, hoặc thọ-uẩn
vi-tế, hoặc thọ-uẩn thấp hèn, hoặc thọ-uẩn cao quý, hoặc thọ-uẩn nào sinh ở nơi
xa, hoặc thọ-uẩn nào sinh ở nơi gần, gồm 11 loại thọ-uẩn ấy, các con nên biết
bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả thọ-uẩn
ấy rằng:
“Thọ-uẩn ấy không phải là của ta (do tham-ái), thọ- uẩn ấy không phải là ta (do
ngã-mạn), thọ-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta (do tà-kiến).”
13- Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ trong tưởng-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, tưởng-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh
trong thời vị-lai, đang sinh
trong thời hiện-tại; hoặc tưởng-uẩn bên trong của mình, hoặc tưởng-uẩn bên ngoài
mình (của người khác), hoặc tưởng-uẩn thô, hoặc tưởng-uẩn vi-tế, hoặc tưởng-uẩn
thấp hèn, hoặc tưởng-uẩn cao quý, hoặc tưởng-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc
tưởng-uẩn nào sinh ở nơi gần, gồm 11 loại tưởng-uẩn ấy, các con nên biết bằng
trí-tuệ- thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả tưởng-uẩn ấy
rằng:
“Tưởng-uẩn ấy không phải là của ta (do tham-ái), tưởng-uẩn ấy không phải là ta
(do ngã-mạn), tưởng-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta (do tà-kiến).”
14- Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ trong hành-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, hành-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh
trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại; hoặc hành-uẩn bên trong của
mình, hoặc hành-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc hành-uẩn thô, hoặc
hành-uẩn vi-tế, hoặc hành-uẩn thấp hèn, hoặc hành-uẩn cao quý, hoặc hành-uẩn nào
sinh ở nơi xa, hoặc hành-uẩn nào sinh ở nơi gần, gồm 11 loại hành-uẩn ấy, các
con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất
cả hành-uẩn ấy rằng:
“Hành-uẩn ấy không phải là của ta (do tham-ái), hành-uẩn ấy không phải là ta (do
ngã-mạn), hành-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta (do tà-kiến).”
15- Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ trong thức-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, thức-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh
trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại; hoặc thức-uẩn bên trong của
mình, hoặc thức-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc thức-uẩn thô, hoặc
thức-uẩn vi-tế, hoặc thức-uẩn thấp
hèn, hoặc thức-uẩn cao quý, hoặc thức-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thức-uẩn nào
sinh ở nơi gần, gồm 11 loại thức- uẩn ấy, các con nên biết bằng
trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả thức-uẩn ấy
rằng:
“Thức-uẩn ấy không phải là của ta (do tham-ái), thức-uẩn ấy không phải là ta (do
ngã-mạn), thức-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta (do tà-kiến).”
16- Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ-uẩn
- Này chư tỳ-khưu! Thật-tánh của ngũ-uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh-văn đã lắng
nghe chánh-pháp của Đức-Phật, nên phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
ngũ-uẩn đúng theo thật-tánh, nên trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong sắc-uẩn, nhàm
chán trong thọ-uẩn, nhàm chán trong tưởng-uẩn, nhàm chán trong hành-uẩn, nhàm
chán trong thức-uẩn.
Khi trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ-uẩn nên tâm xả ly tham-ái, do tâm xả
ly tham-ái nên chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo-tâm giải thoát khỏi mọi tham-ái, mọi
phiền-não. Trí-tuệ quán-triệt biết rõ rằng:
“A-ra-hán Thánh-quả-tâm đã giải thoát hoàn toàn mọi phiền-não trầm-luân, không
còn phải thực hành pháp- hành bát-chánh-đạo nữa, mọi phận-sự trong tứ Thánh-đế
đã được hoàn thành, phạm hạnh cao thượng đã được hoàn thiện. Kiếp này là kiếp
chót, không còn tái-sinh kiếp nào nữa.
Nhóm 5 tỳ-khưu trở thành bậc Thánh A-ra-hán
Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài Kinh Trạng-thái vô- ngã này xong, nhóm 5 tỳ-khưu
phát sinh đại-duy-tác-tâm vô cùng hoan-hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.
Trong khi Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh này,
nhóm 5 tỳ-khưu thực hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ
Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; Bất-lai
Thánh- đạo, Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn; đến A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán
Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân, không
còn chấp-thủ trong ngũ-uẩn này nữa, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
(Xong bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã.)
Giải thích danh từ trong bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã
Ý nghĩa danh từ Anattā
Định nghĩa danh từ
anattā:
Na attā anattā, natthi attā etassa khandha- pañcakassā’ti vā anattā.
Tất cả các pháp không phải
ta, không phải
của ta là
pháp-vô-ngã; hay
ngũ-uẩn ấy
không phải ta, không phải
của ta cũng là
pháp-vô-ngã.
Ý nghĩa
Anattā:
Vô-ngã
ở đây là phủ định
attā:
ngã, ta và của ta.
Trong bộ
Ṭīkā
(2) giải thích danh từ
Anattā:
Vô-ngã
có 4 ý nghĩa sau:
1- Avasavattanaṭṭha:
Vô-ngã nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai.
2- Asāmikaṭṭha: Vô-ngã nghĩa là vô chủ, không có ai là chủ.
3- Suññataṭṭha:
Vô-ngã nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta.
4- Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô-ngã nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại ngã
theo quan niệm tà-kiến thấy sai chấp lầm.
Trong bài kinh
Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng- Thái-Vô-Ngã, danh từ
Anattā và
attā có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau.
*
Anattā (Vô-ngã):
Ngũ-uẩn này là vô-ngã, không chiều theo ý muốn của ai.
*
Attā (Ngã):
Ta muốn ngũ-uẩn được như thế này, không muốn ngũ-uẩn như thế kia
v.v… chiều theo ý muốn của ta, nhưng thật-tánh của ngũ-uẩn này là vô- ngã, nên
không chiều theo ý muốn của ai.
Attā nghĩa là
ta, ngã.
- Do tà-kiến theo chấp sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn cho là ta
(ngã), tự ngã.
- Do ngã-mạn chấp là ta.
- Do tham-ái chấp là của ta.
Tuy nhiên,
attā còn có ý nghĩa khác.
Ý nghĩa danh từ Attā
* Theo trong bộ tự điển Pāḷi
Abhidhānappadīpikā: Tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861
danh từ attā có ý nghĩa rằng:
“Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.”
“Danh từ
attā
có 4 ý nghĩa là citta (tâm),
kāya (thân), sabhāva (thật-tánh-pháp) và paramatta (ngã tối-thượng, đại-ngã).”
Giải thích:
1-
Attā có ý nghĩa là
citta: tâm.
Ví dụ:
* Attasammāpaṇidhi: Đặt để
tâm đúng trong thiện- pháp, tâm mong muốn chân-chính.
* Attamicchāpaṇidhi: Đặt để
tâm sai lầm trong ác- pháp, tâm mong muốn sai lầm.
* “Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.”
(3)
Mong tất cả chúng-sinh
tâm thường được an-lạc.
*“Attā hi kira duddamo.”
(4)
Thật vậy, dạy được
tâm mình là khó lắm! “Attānaṃ damayanti paṇḍitā.”
(5)
“Chư bậc thiện-trí rèn luyện, dạy tâm”…
Attā ở đây có ý nghĩa là
tâm.
2-
Attā có ý nghĩa là
kāya: thân thể.
Ví dụ:
Đức-Phật ban hành những giới của tỳ-khưu-ni, trong đó có giới như:
*“Yā pana bhikkhunī
attānaṃ vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyaṃ.”
(6)
“Tỳ-khưu-ni nào tự đấm vào
thân của mình rồi khóc, tỳ-khưu-ni ấy phạm āpatti
pācittiya (ứng-đối-trị).”
*“Attā hi attano natthi, kuto puttā kuto dhanaṃ?”
(7)
“Chính thân này, còn không phải của ta.
Con của ta, của cải của ta từ đâu có được?...”
Attā ở đây có ý nghĩa là
thân thể.
3-
Attā có ý nghĩa là
sabhāva: thật-tánh-pháp.
Ví dụ:
*“Attā hi attano nātho, ko hi nātho paro siyā.”
(8)
“Chính thiện-pháp là nơi nương nhờ chân-chính của ta, ngoài thiện-pháp ra, có ai
là nơi nương nhờ của ta được?
*“Attadīpā bhikkhave! viharatha attasaraṇā anaññasaraṇā, dhammadīpā dhammasaraṇā
anañña- saraṇā.”
(9)
“Này chư tỳ-khưu! Các con sống, chính thiện-pháp là hòn đảo, chính thiện-pháp là
nơi nương nhờ, không nên nương nhờ nơi nào khác; chánh-pháp là hòn đảo, chánh-
pháp là nơi nương nhờ, không nên nương nhờ nơi nào khác …”
Attā: Ta ở đây có nghĩa là
thật-tánh-pháp đó là
tam-giới thiện-pháp,
siêu-tam-giới thiện-pháp, là nơi nương nhờ
chân-chính của ta.
4-
Attā có ý nghĩa là
parama attā: ngã tối-thượng,
đại-ngã, theo tà-kiến của ngoại đạo.
Nhóm ngoại đạo có tà-kiến cho rằng:
“Tất cả vạn vật, vũ trụ này do parama attā tạo ra, gọi là ngã tối-thượng, Đấng
tạo-hóa.”
Parama attā: Ngã tối-thượng, đại-ngã
theo tà-kiến của nhóm ngoại đạo này, trái
nghĩa với anattā: vô-ngã
trong giáo-pháp của Đức-Phật.
Như vậy, trong 4 ý nghĩa của
attā, có 3 ý nghĩa là tâm, thân, thật-tánh-pháp
thuộc về chánh-kiến. Còn
Parama attā: Ngã tối-thượng, Đại-ngã theo quan niệm
ngoài Phật-giáo thuộc về tà-kiến.
Attādiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã,
hoặc
Attānudiṭṭhi:
Tà- kiến theo chấp ngã
là tà-kiến
thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ
sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn
cho là
ta,
hoặc tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ
sắc-pháp
cho là
ta là
ngã,
hoặc
từ danh-pháp
cho
là ta
là
ngã, cũng ở trong ý nghĩa tà-kiến
này.
Ngoài
parama attā thuộc về
tà-kiến ra, còn
attā có
3 ý nghĩa khác thuộc về
chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma) là pháp có thật-tánh rõ ràng, có chi-pháp
riêng biệt thuộc về chánh-kiến.
Trong bộ tự điển Pāḷi
Abhidhānappadīpikā: Tự điển từ ngữ Pāḷi chương 3:
Sāmaññakaṇda, phần 9: Anekatthavagga:
* Một chữ Pāḷi có nhiều nghĩa
Ví dụ: Câu kệ thứ 861: Attā có 4 ý nghĩa, câu kệ 784: dhamma có 14 ý nghĩa, v.v…
Chương 1: Saggakaṇda:
* Một ý nghĩa có nhiều chữ Pāḷi
Ví dụ: Câu kệ thứ nhất đến thứ 5: Ý nghĩa
Đức-Phật
có 32 danh từ Pāḷi đều có nghĩa là
Đức-Phật.
Câu kệ thứ 6 đến thứ 9: Ý nghĩa
Niết-bàn có 46 danh từ Pāḷi đều có nghĩa là
Niết-bàn, v.v…
Cho nên, các hàng thanh-văn đệ-tử học
Phật-ngôn Pāḷi (Buddhavacanapāḷi), học
Tam-tạng Pāḷi (tipiṭaka- pāḷi) và
Chú-giải Pāḷi (aṭṭhakathāpāḷi), cần phải học
quyển tự điển Pāḷi “Abhidhānappadīpikā” gồm có
1.203 câu kệ, để tránh khỏi nhầm lẫn chữ Pāḷi với ý nghĩa, và ý nghĩa với chữ
Pāḷi, bởi vì một chữ Pāḷi có nhiều ý nghĩa, một ý nghĩa có nhiều chữ Pāḷi.
*
Attadiṭṭhi có nghĩa là
tà-kiến thấy sai, chấp lầm trong ngũ-uẩn: sắc-uẩn,
thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn bên trong của mình cho là
ta, là
ngã và
tà-kiến thấy sai, chấp lầm ngũ-uẩn bên ngoài mình (của người khác, con vật khác)
cho là chúng-sinh, là người, là đàn ông, đàn bà, con voi, con ngựa, v.v... gọi
là tà-kiến chấp-ngã
(attadiṭṭhi) hoặc
tà-kiến theo chấp-ngã (attānudiṭṭhi) thông
thường đối với các hạng phàm-nhân.
Chúng-sinh trong tam-giới
Tất cả chúng-sinh trong tam-giới có ba loại:
1- Chúng-sinh có
ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn)
trong 11 cõi dục-giới, 15 cõi sắc-giới phạm-thiên (trừ cõi sắc-giới
Vô-tưởng-thiên).
2- Chúng-sinh có
tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn và thức-uẩn) trong 4 cõi
vô-sắc-giới phạm-thiên.
3- Chúng-sinh có
nhất-uẩn (sắc-uẩn) trong cõi sắc- giới Vô-tưởng-thiên.
Ngũ-uẩn (Pañcakkhandha)
Uẩn (khandha)
có nghĩa là “phần, nhóm” gồm những phần có trạng-thái tương tự
nhau, ghép chung vào 1 nhóm gọi là khandha: uẩn
Ví dụ:
Con người có ngũ-uẩn.
1- Sắc-uẩn đó là
28 sắc-pháp, mỗi sắc-pháp là mỗi uẩn thuộc về
phần thân.
2- Thọ-uẩn đó là
thọ tâm-sở.
3- Tưởng-uẩn
đó là tưởng tâm-sở.
4- Hành-uẩn đó là
50 tâm-sở nói chung (trừ thọ tâm- sở và tưởng tâm-sở).
5- Thức-uẩn đó là
89 hay 121 tâm nói chung.
Mỗi tâm là 1 thức-uẩn.
Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn gồm 4 danh- uẩn thuộc về danh-pháp
tam-giới nương nhờ lẫn nhau không thể tách rời nhau được, mỗi tâm là mỗi uẩn
thuộc về phần tâm.
Thân và
tâm
nương nhờ lẫn nhau duy trì sự sống còn của mỗi
chúng-sinh.
Nếu khi
tâm rời khỏi
thân thì
thân trở thành tử thi.
Phần Giải Thích
1- Sắc-uẩn (Rūpakkhandha)
gồm có 28 sắc-pháp, chia thành hai loại:
*
Mahābhūtarūpa:
Sắc-tứ-đại
có 4 sắc-pháp lớn là:
1- Địa-đại (Pathavī):
Chất đất có trạng-thái cứng hoặc mềm.
2- Thủy-đại (Āpo):
Chất nước có trạng-thái lỏng hoặc
đông đặc.
3- Hỏa-đại (Tejo):
Chất lửa có trạng-thái nóng hoặc lạnh.
4- Phong-đại (Vāyo):
Chất gió có trạng-thái lưu động, phồng hoặc xẹp.
* Upādāyarūpa:
Sắc-pháp phụ thuộc
gồm có 24 sắc- pháp, luôn luôn phụ thuộc vào 4
sắc tứ-đại:
- 5 tịnh-sắc (pasādarūpa): nhãn tịnh-sắc, nhĩ tịnh-sắc, tỷ tịnh-sắc, thiệt
tịnh-sắc, thân tịnh-sắc.
- 5 sắc đối-tượng (visayarūpa): đối-tượng sắc, đối- tượng thanh, đối-tượng
hương, đối-tượng vị, đối-tượng xúc(10).
- 2 sắc tính (bhāvarūpa): sắc nam-tính, sắc nữ-tính.
- 1 hadayarūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm.
- 1 sắc-mạng-chủ (jīvitarūpa).
- 1 sắc-vật-thực (āhārarūpa).
- 1 sắc-chân-không (paricchedarūpa).
- 2 sắc-cử-động (viññattirūpa): sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
- 3 sắc-chuyển-biến (vikārarūpa): sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc uyển chuyển.
- 4 sắc-trạng-thái (lakkhaṇarūpa): sắc sinh, sắc liên tục, sắc già dặn, sắc
vô-thường.
Đó là 28
sắc-pháp bên trong thân, thuộc về
sắc-uẩn.
Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc-pháp.
* Nếu là người nam thì trừ
sắc nữ-tính.
* Nếu là người nữ thì trừ
sắc nam-tính.
* Nếu người bị đui mù, câm điếc, thì người ấy có số lượng sắc-pháp giảm xuống
theo bệnh tật.
2- Thọ-uẩn (Vedanakkhandha)
đó là
thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ nơi
đối-tượng.
* Thọ tâm-sở (cảm thọ nơi đối-tượngt) có ba loại thọ:
- Thọ khổ (dukkhavedanā) có trạng-thái khổ khó chịu.
- Thọ lạc (sukhavedanā) có trạng-thái lạc dễ chịu.
- Thọ xả (upekkhāvedanā) có trạng-thái không khổ, không lạc.
* Thọ tâm-sở có 5 loại theo
thân, tâm:
- Thọ khổ (dukkhavedanā) đồng sinh với thân-thức- tâm (khổ thân).
- Thọ lạc (sukhavedanā) đồng sinh với thân-thức-tâm (thân an-lạc).
- Thọ hỷ (somanassavedanā) đồng sinh với ý-thức- tâm (tâm an-lạc).
- Thọ ưu (domanassavedanā) đồng sinh với sân-tâm (khổ tâm).
- Thọ xả (upekkhāvedanā) đồng sinh với ý-thức-tâm (tâm không khổ, không lạc).
Mỗi
thọ tâm-sở đồng sinh với
tâm ấy thuộc về
thọ-uẩn.
3- Tưởng-uẩn
(saññakkhandha) đó là
tưởng tâm-sở
có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối-tượng.
- Sắc tưởng (rūpasaññā)
tưởng nhớ các đối-tượng sắc.
- Thanh tưởng (saddasaññā)
tưởng nhớ các đối-tượng âm thanh.
- Hương tưởng (gandhasaññā) tưởng nhớ các đối- tượng hương.
- Vị tưởng (rasasaññā)
ghi nhớ các đối-tượng vị.
- Xúc tưởng (phoṭṭhabbasaññā)
tưởng nhớ các đối- tượng xúc.
- Pháp tưởng (dhammasaññā) tưởng nhớ các đối- tượng pháp.
Mỗi
tưởng tâm-sở
đồng sinh với tâm ấy thuộc về
tưởng-uẩn.
4- Hành-uẩn
(saṅkhārakkhandha)
đó là
50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở)
có trạng-thái cấu tạo, tạo tác các pháp. Vì vậy,
tác-ý tâm-sở (cetanācetasika)
dẫn đầu hành-uẩn.
* Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với bất- thiện-tâm tạo nên
bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) do thân, khẩu, ý.
* Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với thiện- tâm tạo nên thiện-nghiệp do
thân, khẩu, ý.
Số tâm-sở ấy đồng sinh với tâm ít hoặc nhiều tùy theo năng lực của mỗi tâm.
Ngoại trừ thọ tâm-sở
và tưởng tâm-sở
ra,
các tâm-sở
còn lại thuộc về hành-uẩn.
5- Thức-uẩn (viññāṇakkhandha) gồm có 89 hoặc 121 tâm
có trạng-thái biết 6 loại
đối-tượng.
Đối-tượng có 6 loại, nên tâm chia ra làm 6 loại tâm:
- Nhãn-thức-tâm (cakkhuviññāṇa)
có 2 tâm, làm phận sự nhìn thấy các đối-tượng
sắc.
- Nhĩ-thức-tâm (sotaviññāṇa)
có 2 tâm, làm phận sự nghe các đối-tượng âm thanh.
- Tỷ-thức-tâm (ghānaviññāṇa)
có 2 tâm, làm phận sự ngửi các đối-tượng hương.
- Thiệt-thức-tâm (jivhāviññāṇa)
có 2 tâm, làm phận sự nếm các đối-tượng vị.
- Thân-thức-tâm (kāyaviññāṇa)
có 2 tâm, làm phận sự xúc giác các đối-tượng xúc.
- Ý-thức-tâm (manoviññāṇa)
có 79 tâm hoặc 111 tâm, có nhiều phận sự như biết các
đối-tượng pháp
(11) tùy theo năng lực của mỗi ý-thức-tâm.
Mỗi
tâm thuộc về mỗi
thức-uẩn.
Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm-sở đồng sinh ít hoặc nhiều tùy theo
năng lực và phận sự của tâm ấy.
Các tâm-sở này
có 4 trạng-thái là đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng
đối-tượng với tâm, đồng nơi sinh với tâm. Cho nên, khi mỗi tâm sinh rồi diệt
nghĩa là 4 danh-uẩn đồng sinh, rồi 4 danh-uẩn đồng diệt ...
Chúng-sinh có ngũ-uẩn, khi 6 loại tâm phát sinh do nương nhờ nơi 6 nơi sinh
(vatthurūpa) như sau:
- Nhãn-thức-tâm
có 2 tâm phát sinh do nương nhờ
nhãn-tịnh-sắc (cakkhuvatthu).
- Nhĩ-thức-tâm
có 2 tâm phát sinh do nương nhờ nhĩ- tịnh-sắc (sotavatthu).
- Tỷ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ tỷ- tịnh-sắc (ghāṇavatthu).
- Thiệt-thức-tâm
có 2 tâm phát sinh do nương nhờ
thiệt-tịnh-sắc (jivhāvatthu).
- Thân-thức-tâm
có 2 tâm phát sinh do nương nhờ
thân-tịnh-sắc (kāyavatthu).
-
Ý-thức-tâm gồm có 75 tâm (trừ 4 vô-sắc-giới quả- tâm không nương nhờ
vatthurūpa) phát sinh do nương nhờ hadayavatthurūpa (sắc-pháp là nơi sinh của
ý-thức- tâm).
Như vậy, mỗi tâm phát sinh có đủ ngũ-uẩn phát sinh.
-
Vatthurūpa có 6 loại là nơi nương nhờ để 6 loại tâm
phát sinh, thuộc về sắc-uẩn.
-
Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
- Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.
- Tưởng tâm-sở
đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn.
- Số tâm-sở
còn lại (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở)
đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.
* Mỗi tâm có 4 danh-uẩn
(thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn) vốn dĩ có
trạng-thái sinh rồi diệt liên tục trong mỗi lộ-trình-tâm do hội đủ nhân-duyên hỗ
trợ, từ vô thủy trải qua vô số kiếp, từ kiếp này sang kiếp kia cho đến kiếp
hiện-tại. Mỗi tâm sinh rồi diệt liên tục có phận sự lưu trữ
mọi đại-thiện-nghiệp
và cũng lưu trữ đầy đủ trọn vẹn mọi ác-nghiệp, không hề mất mát một mảy may nào
cả. Cho nên, mỗi kiếp tử sinh luân-hồi của mỗi chúng-sinh chỉ có liên quan
nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.
*
Thân của mỗi chúng-sinh thuộc về
sắc-uẩn vốn dĩ cũng có trạng-thái sinh rồi
diệt liên tục, là quả của nghiệp, bị hạn chế chỉ trong kiếp hiện-tại của
chúng-sinh mà thôi. Sau khi chúng-sinh ấy chết, thân bị tan rã, không có liên
quan nào đến kiếp sau nữa.
Mỗi chúng-sinh đang sống hiện hữu thì tâm và thân nương nhờ lẫn nhau, khi tâm
rời khỏi thân đồng thời sắc-mạng-chủ (rūpajīvitindriya) trong thân bị cắt đứt,
chấm dứt một kiếp gọi là chết, thân trở thành tử thi.
Ngoại trừ bậc Thánh A-ra-hán ra, còn lại tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi
người nói riêng sau khi chết, nghiệp của người ấy cho quả tái-sinh kiếp sau.
Tái-sinh-tâm là quả-tâm có 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn)
làm phận sự tái-sinh kiếp sau đồng sinh với hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi
sinh của ý-thức-tâm gọi là sắc-uẩn, như vậy đối với chúng-sinh trong cõi có
ngũ-uẩn thì đã có đủ ngũ-uẩn từ khi tái-sinh.
Như vậy, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài của mỗi chúng-sinh
chỉ có liên quan về phần tâm có phận sự lưu trữ, tích lũy tất cả mọi
thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia
mà thôi, còn phần thân là quả của nghiệp bị cắt đứt, chấm dứt mỗi kiếp, hoàn
toàn không liên quan đến kiếp nào cả.
Đức-Phật dạy
ngũ-uẩn này là pháp-vô-ngã
với ý nghĩa:
“Anattā asārakaṭṭhena: Pháp-vô-ngã với ý nghĩa là vô dụng, không có cốt lõi vững
chắc, không có tính chất bền vững lâu dài.”
“Avasavattanaṭṭhena anattā: Pháp-vô-ngã (anattā) với ý nghĩa không chiều theo ý
muốn của ai…”
Những ví dụ về ngũ-uẩn
Trong kinh
Pheṇapiṇḍūpamasutta
(12) Đức-Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn có
ý nghĩa, được tóm lược như sau:
1-
Sắc-uẩn ví như bọt nước (Pheṇapiṇḍūpamarūpaṃ)
Sắc-uẩn
(thân) đó là 28 sắc-pháp ví như là bọt nước.
Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống
bọt nước nhỏ lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm
vật gì để đem lại sự lợi ích lâu dài.
Nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã giữa đường, thì khi trôi ra đến
biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng.
Cũng như vậy, sắc-uẩn (thân) này đó là 28 sắc-pháp sinh rồi diệt có trạng-thái
vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh, thường có mọi
thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc-uẩn (thân) này khi tái-sinh đầu thai ban đầu nhỏ xíu,
theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập, ... rồi cuối
cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức-Phật ví sắc-uẩn (thân) này như bọt nước.
2- Thọ-uẩn ví như bong bóng nước
(Vedanāpubbuḷūpaṃ)
Thọ-uẩn, đó là thọ tâm-sở ví như bong bóng nước.
Trời mưa lớn, mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước, nổi lên những bong bóng
nước. Những bong bóng nước
này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng đem lại sự lợi ích, trở thành vô
dụng.
Cũng như vậy, thọ-uẩn này đó là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả, ... sinh rồi diệt mau
lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ có khổ mà thôi, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức-Phật ví thọ-uẩn này như bong bóng nước.
3- Tưởng-uẩn ví như ảo ảnh
(Maricikūpamā saññā)
Tưởng-uẩn, đó là tưởng tâm-sở ví như ảo ảnh.
Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực và
khát nước đi trên đường, nhìn về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống
như đằng trước có nước sông.
Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng cách.
Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng.
Cũng như vậy, tưởng-uẩn này tưởng nhớ, ghi nhớ những đối-tượng không còn thật
nữa. Ví như khi khát nước, tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn
khát được, trở thành vô dụng.
Cho nên, Đức-Phật ví tưởng-uẩn này như ảo ảnh.
4- Hành-uẩn ví như cây chuối
(Saṅkhārā kadalūpamā)
Hành-uẩn, đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) ví như cây chuối.
Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy
chặt cây chuối đem về nhà.
Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm thấy lõi cây, chỉ là vô dụng
mà thôi.
Cũng như vậy, hành-uẩn này tạo tác các pháp-hữu-vi, mà các pháp-hữu-vi,
sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt, có
trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, không phải ta, không
phải của ta, chỉ là vô dụng mà thôi.
Cho nên, Đức-Phật ví hành-uẩn này như cây chuối.
5- Thức-uẩn ví như ảo thuật
(Mayūpamaṃ viññāṇaṃ)
Thức-uẩn, đó là 89 hoặc 121
tâm, ví như trò ảo thuật.
Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh
tay, để đánh lừa khán giả một cách tinh xảo.
Cũng như vậy, đối với hàng phàm-nhân, thức-uẩn biết mọi đối-tượng cho là ta
biết, nhưng biết sai lầm đảo điên.
Các pháp-hữu-vi là vô-thường, biết là thường; các pháp-hữu-vi là khổ, biết là
lạc; các pháp-hữu-vi là vô- ngã, biết là ngã (ta); các pháp-hữu-vi là bất tịnh,
biết là tịnh, xinh đẹp, …
Nhưng thật ra, các pháp-hữu-vi là vô-thường, khổ, vô- ngã, bất-tịnh. Thế mà
thức-uẩn của các hàng phàm-nhân biết ngược lại rằng:
“Các pháp-hữu-vi là thường, lạc, ngã, tịnh.”
Cho nên, Đức-Phật ví thức-uẩn này như trò ảo thuật.
Pháp-Vô-Ngã (Anattā)
Pháp-vô-ngã không chỉ là ngũ-uẩn, mà còn các pháp- hữu-vi và pháp-vô-vi cũng đều
là pháp-vô-ngã nữa.
Đức-Phật dạy:
“Sabbe dhammā anattā: Tất cả các pháp-hữu-vi, pháp-vô-vi đều là pháp-vô-ngã.”
Pháp-hữu-vi
(Saṅkhatadhamma)
đó là ngũ-uẩn (khandha), 12 xứ (āyatana), 18
tự-tánh (dhātu), … mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới là pháp bị cấu tạo do
bởi 4 nhân-duyên: nghiệp (kamma), tâm (citta), thời tiết (utu), vật thực
(āhāra). Nên có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường,
trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, đều là pháp-vô-ngã (anattā).
Pháp-vô-vi
(Asaṅkhatadhamma) đó là Niết-bàn, là pháp không bị cấu tạo do bởi 4
nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực; và các chế-định-pháp (paññatti-
dhamma cũng là pháp không bị cấu tạo do bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời
tiết, vật thực. Nên không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái chung:
trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, cũng là pháp-vô-ngã
(anattā).
Như Đức-Phật dạy trong Tạng-Luật, bộ Parivārapāḷi:
“Aniccā sabbe saṅkhārā, dukkhānattā ca saṅkhatā. Nibbānañceva paññatti, anattā
iti vinicchayā.”
(13)
Tất cả các pháp-hữu-vi,
sắc-pháp, danh-pháp tam-giới,
đều có đủ ba trạng-thái, vô-thường, khổ, vô-ngã.
Niết-bàn và chế-định-pháp, cũng thuộc về pháp-vô-ngã.
Pháp-Vô-Ngã là những pháp nào?
Sắc-uẩn là pháp-vô-ngã, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn đều là
pháp-vô-ngã; hay tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp tam-giới là pháp-vô-ngã. Bởi
vì không phải ta, và không phải của ta, không có ai là chủ, không chiều theo ý
muốn của ai, các pháp này phát sinh do
nhân-duyên, cho nên, các pháp ấy đều là
pháp-vô-ngã.
Sự thật,
pháp-vô-ngã chỉ có trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama mà thôi. Ngoài
Phật-giáo ra, không ai biết về pháp-vô-ngã.
Cái ta, cái ngã có thật hay không?
Đức-Phật dạy:
Tất cả các pháp-hữu-vi, pháp-vô-vi
đều là pháp-vô-ngã.
Như vậy, sự thật cái ta, cái ngã không có thật.
Vậy, do đâu mà có cái ta, cái
ngã?
Cái ta, cái ngã vốn không có thật. Sở dĩ có cái ta, cái
ngã là vì tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai, chấp lầm từ sắc-pháp cho là ta, từ
danh-pháp cho là ta.
Thật ra, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có 4
pháp là tâm, tâm-sở, sắc-pháp, Niết-bàn mà thôi.
Sắc-pháp
đó là 28 sắc-pháp, danh-pháp đó là 89 hoặc 121 tâm và 52 tâm-sở,
Niết-bàn cũng thuộc về danh-pháp, nhưng do tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai, chấp lầm
nơi sắc-pháp cho là ta, nơi danh-pháp cho là ta như sau:
Tà-kiến
đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với
tà-kiến thấy sai chấp lầm trong đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp cho là ta, là ngã.
* Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp
- Khi thân đi hay sắc đi, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân đi hay sắc
đi ấy cho là ta đi.
- Khi thân đứng hay sắc đứng, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân đứng
hay sắc đứng ấy cho là ta đứng.
- Khi thân ngồi hay sắc ngồi, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân ngồi
hay sắc ngồi ấy cho là ta ngồi.
- Khi thân nằm hay sắc nằm, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân nằm hay
sắc nằm ấy cho là ta nằm.
- Hoặc khi thân cử động các oai nghi phụ hoặc sắc cử động các oai-nghi phụ, thì
tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân cử động ấy hoặc sắc cử động ấy cho là ta
cử động, v.v…
* Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi danh-pháp
- Khi nhãn-thức-tâm nhìn thấy đối-tượng sắc, hình dáng, thì tâm tà-kiến thấy
sai, chấp lầm nơi nhãn-thức- tâm thấy cho là ta thấy.
- Khi nhĩ-thức-tâm nghe các đối-tượng âm thanh, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp
lầm nơi nhĩ-thức-tâm nghe ấy cho là ta nghe.
- Khi tỷ-thức-tâm ngửi các đối-tượng hương, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm
nơi tỷ-thức-tâm ngửi ấy cho là ta ngửi.
- Khi thiệt-thức-tâm nếm các đối-tượng vị, thì tâm tà- kiến thấy sai, chấp lầm
nơi thiệt-thức-tâm nếm ấy cho là ta nếm.
- Khi thân-thức-tâm xúc giác cứng mềm, nóng lạnh… thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp
lầm nơi thân-thức-tâm xúc- giác ấy cho là ta xúc-giác.
- Khi ý-thức-tâm biết các đối-tượng pháp, thì tâm tà- kiến thấy sai, chấp lầm
nơi ý-thức-tâm biết, tâm suy nghĩ ấy cho là ta biết, ta suy nghĩ, v.v…
Như vậy, cái ta, cái ngã vốn dĩ không có thật, mà chỉ có tâm tà-kiến là có thật
mà thôi.
Cho nên, không có pháp-hành diệt ngã, mà chỉ có pháp-hành thiền-tuệ mới diệt tận
được tâm tà-kiến chấp ngã mà thôi.
Pháp-hành diệt tâm tà-kiến chấp ngã như thế nào?
Hành-giả phàm-nhân là hạng người tam-nhân thực hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả
năng dẫn đến trí-tuệ- thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự trải qua 16
trí-tuệ-thiền- tuệ từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ
siêu-tam-giới.
Bắt đầu từ trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpa- paricchedañāṇa: trí-tuệ phân-tích
thấy rõ, biết rõ thật- tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại ấy là
pháp-vô-ngã (anattā) đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), cho đến
trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới thứ 14 gọi là Sotāpattimaggañāṇa: Nhập-lưu
Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, nên diệt tận được hai loại
phiền-não là tà-kiến chấp-ngã trong ngũ-uẩn (sakkāyadiṭṭhi) và hoài-nghi
(vicikicchā) không còn dư sót, liền tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới
thứ 15 gọi là Sotāpattiphalañāṇa: Nhập-lưu Thánh-quả-tuệ trong cùng Nhập-lưu
Thánh-đạo lộ- trình-tâm, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Và tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 16 cuối cùng gọi là paccavekkhaṇañāṇa:
trí-tuệ quán-triệt Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả đã chứng đắc,
Niết-bàn đã chứng ngộ; trí-tuệ quán-triệt phiền-não nào đã diệt tận được và
phiền-não nào còn lại chưa diệt tận được.
Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn, trong
kiếp hiện-tại, cho đến kiếp vị-lai nhiều nhất 7 kiếp trong cõi thiện dục-giới.
Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán,
rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn
loài.
Chấp ngã có ba loại
1- Chấp ngã do năng lực của tà-kiến.
2- Chấp ngã do năng lực của tham-ái.
3- Chấp ngã do năng lực của ngã-mạn.
1- Chấp ngã do năng lực của tà kiến đó là tà-kiến
thấy sai chấp ngã nơi ngũ-uẩn
chấp-thủ (sắc-uẩn chấp- thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn
chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ) cho là ngã, là ta (eso me attā: ngũ-uẩn ấy cho là
tự ngã của ta do năng lực của tâm tà-kiến).
Bậc Thánh Nhập-lưu đã diệt tận được tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn này vĩnh viễn
không còn nữa, nhưng chỉ còn tham-ái chấp ngã và ngã-mạn chấp ngã mà thôi.
Bậc Thánh Nhập-lưu tuyệt đối không còn tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ,
hoặc trong sắc-pháp, trong danh-pháp tam-giới cho là ta, là ngã (na meso attā:
ngũ-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ).
2- Tham-ái đó là tham tâm-sở (lobhacetasika) đồng sinh với 8 tham-tâm theo chấp
ngã nơi ngũ-uẩn chấp-thủ (sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-
thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ), hoặc nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp
tam-giới cho là của ta (etaṃ mama: ngũ-uẩn ấy cho là của ta do năng lực của tâm
tham-ái).
Bậc Thánh Nhất-lai đã diệt tận được tham-ái theo chấp ngã phần thô trong cõi
dục-giới, còn phần vi-tế thì chưa diệt được.
Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái theo chấp ngã phần vi-tế trong cõi
dục-giới cho là của ta
(netaṃ mama: ngũ-uẩn ấy không phải là của ta do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ).
Còn tham-ái phần vi-tế trong 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới,
trong cõi trời sắc-giới phạm- thiên, trong cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên thì
Bậc Thánh Bất-lai chưa diệt được.
3- Ngã-mạn
đó là ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến
theo chấp ngã nơi ngũ- uẩn chấp-thủ (sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-
uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ); hoặc nơi sắc-pháp, nơi
danh-pháp tam-giới cho là ta (esohamasmi: ngũ-uẩn ấy cho là ta ‘ta hơn người, ta
bằng người, ta kém thua người’ do năng lực của ngã-mạn).
Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được ngã-mạn theo chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ
hoặc trong sắc-pháp, trong danh-pháp tam-giới cho là ta (nesohamasmi: ngũ-uẩn ấy
không phải là ta do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ).
(Như vậy, Bậc Thánh A-ra-hán không còn tham-ái theo chấp ngã trong 5 bậc thiền
sắc-giới, 4 bậc thiền vô- sắc-giới, trong cõi trời sắc-giới phạm-thiên, trong
cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên.)
Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát
khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
Chấp ngã - Không chấp ngã
Tất cả chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm-nhân, chưa phải
Thánh-nhân thì vẫn còn chấp ngã do các phiền-não, nhất là tà-kiến, tham-ái,
ngã-mạn.
* Hạng thiểu-trí phàm-nhân (andhaputhujjana) trong đời không đến gần gũi, thân
cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không lắng nghe chánh-pháp, không thực
hành pháp-hành thiền-tuệ, không hiểu biết thật-tánh của ngũ-uẩn, sắc-pháp,
danh-pháp tam-giới nên chấp ngã do năng lực của tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn nơi
ngũ-uẩn rằng:
* Chấp ngã do năng lực của tà-kiến trong ngũ-uẩn ấy cho là tự ngã của ta (eso me
attā).
* Chấp ngã do năng lực của tham-ái trong ngũ-uẩn
ấy cho là của ta (etaṃ mama).
* Chấp ngã do năng lực của ngã-mạn trong ngũ-uẩn ấy cho là ta ‘ta hơn người, ta
bằng người, ta kém thua người’ (eso hamasmi).
Hạng thiểu trí phàm-nhân ấy tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ mình lẫn
làm khổ người trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.
* Hạng thiện-trí phàm-nhân (kalyāṇaputhujjana) trong đời thường đến gần gũi thân
cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, thường lắng nghe chánh-pháp, thực hành
pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam- giới; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ
sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3
trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, dẫn
đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu
Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, diệt tận được tà-kiến không
còn dư sót nên không còn chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là tự ngã của ta (na meso
attā); chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc
Thánh Nhất-lai, diệt được tham-ái loại thô trong cõi dục-giới không còn dư sót nên không còn chấp ngã trong
ngũ-uẩn loại thô ấy cho là của ta (netaṃ mama); chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo,
Bất-lai Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai, diệt được tham-ái loại
vi-tế trong cõi dục-giới không còn dư sót nên không còn chấp ngã trong ngũ-uẩn
loại vi-tế ấy cho là của ta (netaṃ mama); chứng đắc A-ra-hán Thánh- đạo,
A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, diệt tận được
ngã-mạn không còn dư sót nên không còn chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là ta (neso
hamasmi). Đồng thời diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót.
Thật ra, chấp ngã do năng lực của tà-kiến, do năng lực của tham-ái, do năng lực
của ngã-mạn này chỉ làm trở ngại cho hành-giả thực hành pháp-hành thiền-tuệ
không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo,
Thánh-quả, Niết-bàn mà thôi.
* Chấp ngã do năng lực của tà-kiến, do năng lực của tham-ái, do năng lực của
ngã-mạn này không làm trở ngại cho bậc thiện-trí phàm-nhân tạo 10 loại phước-
thiện (puññakriyāvatthu), tạo 10 đại-thiện-nghiệp như sau:
Phước-thiện có 10 pháp:
1- Phước-thiện bố-thí (dānakusala).
2- Phước-thiện giữ-giới (sīlakusala).
3- Phước-thiện hành-thiền (bhāvanākusala).
4- Phước-thiện cung-kính
(apacāyanakusala).
5- Phước-thiện hỗ-trợ (veyyāvaccakusala).
6- Phước-thiện hồi-hướng (pattidānakusala).
7- Phước-thiện hoan-hỷ (pattānumodanākusala).
8- Phước-thiện nghe-pháp (dhammassavanākusala).
9- Phước-thiện thuyết-pháp
(dhammadesanākusala).
10- Phước-thiện chánh-kiến (diṭṭhijukammakusala).
Thiện nghiệp có 10 loại theo 3 môn:
* Thân thiện-nghiệp có 3 loại:
1. Thân không sát-sinh.
2. Thân không trộm-cắp.
3. Thân không tà-dâm.
* Khẩu thiện-nghiệp có 4 loại:
1. Khẩu không nói-dối.
2. Khẩu không nói lời chia rẽ.
3. Khẩu không nói lời thô tục.
4. Khẩu không nói lời vô ích.
* Ý thiện-nghiệp có 3 loại:
1. Ý không tham lam tài sản của người khác.
2. Ý không thù hận người khác.
3. Ý có chánh-kiến.
Sau khi bậc thiện-trí phàm-nhân chết, dục-giới thiện- nghiệp cho quả tái-sinh
kiếp sau trong 7 cõi thiện dục- giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.
* Chấp ngã do năng lực của tà-kiến, do năng lực của
tham-ái, do năng lực của
ngã-mạn
này cũng không làm trở ngại cho hành-giả là hạng người tam-nhân thực
hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc
5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4
bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.
(1) Bộ Saṃyuttanikāya, Khandhavagga, kinh
Anattalakkhaṇasutta.
(2) Bộ Sāratthadīpanīṭīkā, kinh Anattalakkhaṇasuttavaṇṇanā.
(3) Bộ Khu. Suttanipāta, trong kinh
Mettasutta.
(4) Khu Bộ Dhammapadagāthā, câu kệ thứ 159
(5) Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 80.
(6) Tạng Luật, phần Bhikkhunīpātimokkha.
(7) Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 62.
(8) Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 160.
(9) Bộ Saṃyuttanikāya, phần Khandhavagga, kinh
Attadīpasutta.
(10) Xúc gồm có 3 sắc-pháp: Đất, lửa, gió trong phần tứ đại, nên phần chi- pháp
không tính trong phần sắc-pháp phụ thuộc.
(11) Đối-tượng pháp có 6 loại là 89 tâm, 52
tâm-sở, 5 tịnh-sắc, 16 sắc vi-tế, Niết-bàn và chế-định-pháp.
(12) Bộ Saṃ, Khandhavagga, kinh
Pheṇapiṇḍūpamasutta.
(13) Vinayapiṭaka, bộ Parivāra, phần
Samuṭṭhānasīsasaṅkhepa.
Mục lục quyển 1 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | Phụ lục
Mục lục chính | Quyển 1 | Quyển 2 | Quyển 3 | Quyển 4 | Quyển 5 | Quyển 6 | Quyển 7 | Quyển 8 | Quyển 9 | Quyển 10