BuddhaSasana Home Page
Buddhasāsana
Pāli Hàm Thụ Tỳ
khưu Giác Giới Chùa Siêu Lý, Vĩnh
Long Xin lưu ý: Ðọc
với phông chữ Unicode Việt Phạn VU-Times -ooOoo-
CHƯƠNG IX
CÚ PHÁP VÀ MỆNH ÐỀ
CÚ PHÁP
Ðịnh
nghĩa: Cú
pháp là phép dùng câu hay
cách lập thành câu văn của một ngôn ngữ.
Cú
pháp tiếng Pāli rất
phức tạp, tuy vậy cũng có hệ thống nguyên tắc.
A- THÀNH PHẦN CÚ
PHÁP TIẾNG PĀLI
Một câu thường
gồm có 3 thành phần, gọi là những đơn vị cú pháp, đó là:
* Chủ từ
(Kattu)
Một câu đơn giản
tối thiểu cũng phải có hai thành phần là chủ từ (kattu)
và thuật từ (kiriyā).
Chú ý: Một câu không có túc từ vì câu ấy sử dụng thuật
từ là tự động từ, tự nó đã làm đủ nghĩa của câu rồi;
ngược lại một câu có túc từ vì câu ấy sử dụng thuật từ
là tha động từ, tự nó chưa thể làm đủ nghĩa của câu...
Cũng có trường
hợp một câu chỉ gồm túc từ (kamma) và thuật từ
(kiriyā)
hay chỉ có thuật
từ (kiriyā).
Trong trường hợp này chủ từ (kattu) phải được
hiểu ngầm.
Sau đây là những
thí dụ:
- Câu gồm 3 đơn
vị cú pháp:
*
Byaggho
migaṃ māresi.
(Con hổ đã giết con nai)
- Câu thiếu túc
từ:
*
Ahaṃ sayāmi.
(Tôi ngủ)
- Câu thiếu chủ
từ:
*
Seṭṭhino Yaso nāma putto ahosi.
(Có con trai của
trưởng giả tên là Yasa).
*
Mā pāpaṃ
karotha.
(Các anh chớ làm điều ác)
*
Gāme vasati.
(Nó sống trong
làng).
1- Chủ từ (kattu)
Chủ từ là thành
phần đứng làm chủ trong một câu hay một mệnh đề; nói
cách khác, là tiếng chủ động của thuật từ (nhiều chủ từ
có thể có cùng một thuật từ).
Chủ từ trong một
câu có thể là một danh từ, hay một tính từ dùng như danh
từ, hoặc là một đại danh từ, một danh động từ, một hợp
từ, một đoản cú, hoặc cũng có thể là một mệnh đề danh
từ.
Thí dụ:
a) Chủ từ là một
danh từ:
Kumāro
odanaṃ bhuñjati.
(Cậu
bé ăn cơm).
b) Chủ từ là một
tính từ dùng như danh từ:
Dvisu
itthīsu ekā vatthaṃ dhovi.
(Trong
hai người đàn bà, một bà đã giặt y phục).
c) Chủ từ là một
đại danh từ:
So
sunakhaṃ pahari.
(Nó đã đánh đập con chó).
d) Chủ từ là một
danh động từ:
Karaṇīyāni tumhehi
kattabbāni honti.
(Các
việc nên làm, cần được các anh làm).
e) Chủ từ là một
hợp từ (phức hợp ngữ):
Byagghadīpacchādayo
mahallakesu vanesu avasuṃ.
(cọp, beo, gấu
v.v... đã sống tại những khu rừng già).
f) Chủ từ là một
đoản cú:
Māgadho
Bimbisāro rājā attano
pāsādassa uparimatale ṭhito (hoti).
(Ðức vua
Bimbisāra
xứ
Magadha
đứng trên sân thượng lâu đài của mình).
g) Chủ từ là một
mệnh đề danh từ:
Saccaṃ kira
tvaṃ Nanda sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi.
(Có thật chăng,
này Nanda, người đã trình bày như vậy cho nhiều vị Tỳ
kheo).
2- Túc từ
(kamma)
Túc từ là thành
phần bổ túc ý nghĩa cho động từ, cũng gọi là đối từ của
động từ. Có hai loại túc từ: gián tiếp túc từ và trực
tiếp túc từ.
Thí dụ:
Ahaṃ
yācakāya āhāraṃ demi.
(Tôi
cho vật thực đến người hành khất).
Trong thí dụ
trên thì "yācakāya"
(người hành khất) là gián tiếp túc từ của động từ. Tiếng
gián tiếp túc từ thường là chỉ định cách (catutthī)
hay
định sở cách (sattamī).
Tiếng "āhāraṃ"
(vật thực) là
trực tiếp túc từ của động từ. Tiếng trực tiếp túc từ
thường là đối cách (dutiyā).
Túc từ trong câu
có thể là một danh từ, một tính từ dùng như danh từ, một
đại danh từ, một danh động từ, một hợp từ, một đoản cú,
hoặc có thể là một mệnh đề danh từ.
Thí dụ:
a) Túc từ là một
danh từ:
Kassako
khettaṃ kasati.
(Người nông phu cày ruộng).
b) Túc từ là một
tính từ dùng như danh từ:
Corā
dhanavantaṃ māresuṃ.
(Những kẻ cướp
đã giết chết người phú gia).
c) Túc từ là một
đại danh từ:
Kumāro
maṃ pahari.
(Cậu
bé đã đánh tôi).
d) Túc từ là một
danh động từ:
Thero tassa
āgamanaṃ paccāsiṃsati.
(Vị trưởng lão
trông đợi sự đi đến của ông ấy).
e) Túc từ là một
hợp từ (phức hợp ngữ):
So
pattacīvaraṃ ādāya piṇḍaya carati.
(Vị ấy cầm lấy y
bát rồi đi khất thực).
f) Túc từ là một
đoản cú:
Ahaṃ
Jetavane viharantaṃ Bhagavantaṃ passiṃ.
(Tôi đã yết kiến
Ðức Thế Tôn khi Ngài trú tại
Jetavana).
g) Túc từ là một
mệnh đề danh từ:
Satthā ...
tattha maṃ nethā' ti āha.
(Bậc đạo sư đã
nói rằng: "Hãy đưa ta đến đấy").
3. Thuật từ (kiriyā)
Thuật từ là
tiếng diễn tả
hành động của câu, hay là tiếng diễn đạt cái dụng của
chủ từ .
Thuật từ thường
là động từ và cũng có thể là một thành ngữ động từ.
Thí dụ:
a) Thuật từ là
một động từ:
Tvaṃ
yācakassa āhāraṃ dadasi.
(Anh cho vật
thực đến kẻ hành khất).
b) Thuật từ là
một thành ngữ động từ:
So
paribhuñjitvā tatth' eva divāvihāraṃ akāsi.
(Vị ấy sau khi
thọ thực đã nghỉ trưa ngay tại chỗ đó).
Một thuật từ
trong câu có thể có một hay nhiều chủ từ.
Thí dụ:
Migo
aṭaviyaṃ dhāvati.
(Con nai chạy trong rừng).
B- SỰ KHUẾCH
TRƯƠNG ÐƠN VỊ CÚ PHÁP
Khuếch trương là
sự mở rộng, làm cho câu được phong phú về từ ngữ và ý
nghĩa. Sự khuếch trương phổ biến có 3 trường hợp:
- Khuếch trương
chủ từ.
1. Sự khuếch
trương chủ từ:
Khuếch trương
chủ từ là sự mở rộng thành phần chủ ngữ trong một câu
cho ý nghĩa thêm phong phú.
Chủ từ trong một
câu có thể được khuếch trương bằng một hay nhiều bổ túc
từ, như là bằng những tính từ hoặc danh từ đồng cách,
hoặc bằng một từ ngữ ở sở thuộc cách hay định sở cách,
cũng có thể bằng một hợp từ, một đoản cú, hoặc một mệnh
đề liên kết.
Sau đây là những
thí dụ (tiếng khuếch trương trong dấu /
* / ):
a) Bằng tiếng
tính từ:
/Dve /
kassakā khettaṃ kasanti.
(Hai nông dân
đang cày thửa ruộng).
b) Bằng tiếng
danh từ đồng cách:
Rājā /
Ajātasattu / Vedehīputto
/ Devadattas-sa bhikkhuno upaṭṭhāsi. (Vua
Ajātasattu,
con bà Vedehī,
đã hộ độ Tỳ kheo
Devadatta).
c) Bằng một từ ngữ ở sở thuộc cách hay định sở cách:
/Gahapatino/ putto
kālam-akāsi.
(Con trai của gia chủ đã chết).
d) Bằng một hợp
từ:
/Sabbālaṅkarapaṭimandito/ Kāliṅgo
cakka-vattī nagarā nikkhami.
(Vị Chuyển Luân
Vương Kāliṅga
được trang điểm
với mọi trang sức, đã rời khỏi thành phố).
e) Bằng một đoản
cú:
/Gāmaṃ
gacchanto kumāro/
goṇaṃ disvā bhāyi.
(Ðứa bé khi đang
đến làng, thấy con bò, nó đã sợ).
f) Bằng một mệnh
đề liên kết:
/Yo
pana dhammānudhammappaṭipanno vi-harati sāmīcipaṭipanno
anudhammacārī/ so
Tathā-gataṃ sakkaroti garu karoti.
(Ai sống có hạnh
tùy pháp trong pháp, hạnh kiểm chân chánh, hành thuận
pháp, là người ấy kính lễ, tôn trọng Như Lai).
2. Sự khuếch
trương túc từ:
Khuếch trương
túc từ là sự mở rộng từ ngữ và ý nghĩa của thành phần
túc từ trong một câu để làm cho phong phú thêm.
Túc từ trong một
câu, cũng như chủ từ, có thể được khuếch trương bằng một
hay nhiều bổ túc từ là những tiếng tính từ, hoặc những
tiếng danh từ đồng cách, hoặc bằng một từ ngữ ở sở thuộc
cách hay định sở cách, hoặc một hợp từ, một đoản cú, hay
một mệnh đề liên kết.
Thí dụ:
a) Bằng tiếng
tính từ:
Puriso /mahantaṃ
/ rukkhaṃ chindati.
(Gã đàn ông đốn
cội cây lớn)
b) Bằng tiếng
danh từ đồng cách:
So rājā
attano / pitaraṃ seniyaṃ / Bimbi-sāraṃ jīvitā
voropesi. (Vị vua ấy đã
đoạt mạng sống đức Bình Sa Vương, vị lãnh tụ quân, cha
của mình).
c)
Bằng từ ngữ ở sở thuộc
cách hay định sở cách:
Rājā /
seṭṭhino/ puttaṃ māresi.
(Ðức vua đã giết chết
người con trai của ông trưởng giả).
d) Bằng một hợp
từ:
Kāliṅgo
cakkavattī /Keḷāsekūtapaṭibhāga-gaṃ/
gajaratanaṃ āruyha agamāsi.
(vị Chuyển Luân Vương Kāliṅga
sau khi ngự lên tượng báu to bằng đỉnh núi Keḷāsa,
ngài đã ra đi).
e) Bằng một
đoản cú:
Rājā
Pasenadi Kosalo /dhammaṃ desentaṃ/ Bhagavantaṃ
passi. (Ðức vua
Pasenadi xứ Kosala đã yết kiến Ðức Thế Tôn khi Ngài
đang thuyết pháp).
f) Bằng một
mệnh đề liên kết:
/Yo me
ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetasā / taṃ ahaṃ
kittayissāmi. (Ai tán
dương trí tuệ của ta bằng tâm thanh tịnh, ta khen ngợi
kẻ ấy).
3. Sự khuếch
trương thuật từ:
Khuếch trương
thuật từ là gia tăng từ ngữ bổ túc thêm cho thuật từ
trong câu được phong phú.
Thuật từ có thể
được khuếch trương bằng một trạng từ, hay một từ ngữ,
một đoản cú tương đương trạng từ, hoặc bằng một mệnh đề
trạng từ. Sau đây là những. Thí dụ:
a) Bằng một
trạng từ:
Ahaṃ
/sukhaṃ / sayāmi.
(Tôi
ngủ được an lạc).
b)
Bằng
từ ngữ hay đoản cú tương đương trạng từ:
Puriso
rukkhaṃ /pharasunā chindati:
(Người đàn ông đốn cây bằng chiếc
búa).
c) Bằng một
mệnh đề trạng từ:
/Sace
yujjhitukāmo' si/ jayaṃ samma dadāmi te.
(Này bạn, nếu bạn muốn chiến đấu, tôi
sẽ dành cho bạn phần chiến thắng).
C- SỰ HÒA HỢP
GIỮA CÁC ÐƠN VỊ CÚ PHÁP
Sự hòa hợp giữa
các đơn vị cú pháp là
nói đến sự phù hợp tương xứng giữa:
- Chủ từ và
thuật từ trong câu.
Sự hòa hợp giữa
các đơn vị cú pháp
trong câu sẽ giúp dễ dàng phân tích câu và nhận định
được ý nghĩa cùng vai trò của các từ ngữ trong câu.
1. Sự hòa
hợp giữa chủ từ và thuật từ trong câu
a) Tiếng chủ từ
và thuật từ trong cùng một câu, hay một mệnh đề, phải
được đồng nhất về ngôi vị (purisa) và ngữ số
(vacana).
Thí dụ:
*
Puriso rukkhaṃ chindati. (Người đàn
ông đốn cây).
b) Trong một
câu có hai hay nhiều tiếng chủ từ cùng
diễn tả một
hành động và có nối nhau bằng liên từ "ca" thì thuật từ
luôn luôn ở số nhiều.
Thí dụ:
* Sunakho
ca babbu ca gehe vasiṃsu. (Chó và mèo đã sống
trong nhà).
c) Tuy nhiên
trong một câu có hai tiếng chủ từ mà liên kết nhau bằng
liên từ "vā" (hoặc, hoặc là) thì thuật từ không
bị buộc ở số nhiều.
Thí dụ:
* Puriso
vā itthī vā pāpaṃ vā pāpaṃ katvā dukkhaṃ vindati.
(Nam nhân hoặc nữ nhân khi đã làm điều ác thì phải
chịu sự khổ đau).
d) Một câu có
nhiều chủ từ cùng
diễn tả một hành động, mà trong những chủ từ ấy
có một thuộc ngôi thứ nhất (uttamapurisa) thì
thuật từ của câu sẽ là ngôi thứ nhất.
Thí dụ:
* Ahañca
tvañca nagaraṃ gacchāma. (Tôi và anh, chúng ta
sẽ đi đến thành phố).
e) Nếu có nhiều
chủ từ cùng một thuật từ, mà trong đó có một thuộc ngôi
thứ hai (majjhimapurisa) và một thuộc ngôi thứ ba
(paṭhamapurisa) thì thuật từ được đặt ở ngôi thứ
hai.
Thí dụ:
Tvaṃ ca
so ca sindhumhi
nahāyittha. (Anh và nó
đã tắm ở biển).
f) Trong một
câu nghi vấn thể, có chủ từ là một nghi vấn đại danh từ,
cho dù tiếng chủ từ ấy có tiếng khuếch trương ở ngôi vị
nào chăng nữa, thì thuật từ vẫn đặt ở ngôi thứ ba.
Thí dụ:
Ahaṃ ca tvaṃ
ca ko balavā ahosi? (Tôi
và anh, ai có sức mạnh?) ...
2. Sự hòa
hợp giữa thành phần tính từ khuếch trương và danh từ
liên hệ
a) Các tính từ
(cả những phân từ) khi làm thành phần khuếch trương cho
một danh từ hay đại danh từ, thì phải hòa hợp với danh
từ hay đại danh từ ấy về ngữ tính (liṅga), ngữ
cách (vibhatti) và ngữ số (vacana).
Thí dụ:
* Daharo/
migo /mahantamhi/ vanamhi vasi. (Con nai
tơ đã sống trong khu rừng lớn).
b) Các tính từ
số đếm khi làm khuếch trương cho một danh từ, thì chỉ
cần đồng ngữ cách, còn về ngữ tính (liṅga) và ngữ
số (vacana) thì tùy theo những con số có cách
thức riêng.
Thí dụ:
* Eko kumāro
(một cậu bé).
3. Sự hòa
hợp giữa tiếng chỉ thị đại danh từ và phiếm chỉ đại danh
từ trong câu có mệnh đề liên kết
a) Tiếng phiếm
chỉ đại danh từ trong một mệnh đề tính từ, khuếch trương
cho tiếng chỉ thị đại danh từ, thì phải đồng nhất với
tiếng chỉ thị đại danh từ ấy về ngữ tính (liṅga)
và ngữ số (vacana).
Thí dụ:
Ye
puññaṃ karonti te sagge nibbattanti.
(Những ai làm phước, những người ấy
sẽ sanh vào cõi trời).
D- VỊ TRÍ CỦA ÐƠN
VỊ CÚ PHÁP TRONG CÂU
1. Trong văn cú
tiếng Pāli không có sự nhất định về vị trí của
chủ từ, túc từ và thuật từ trong một câu, vì đã có sự
hòa hợp cách vị, nên tìm cũng dễ dàng.
Thí dụ:
câu "Puriso rukkhaṃ chindati". (Người đàn ông đốn
cây), có thể gặp là: "Puriso chindati rukkhaṃ"
hay "Rukkhaṃ chindati puriso" hoặc "Chindati
rukkhaṃ puriso", thế mà vẫn không lệch nghĩa.
Trong thí dụ
trên, chủ từ là "puriso", túc từ "rukkhaṃ"
và thuật từ là "chindati".
2. Những tiếng
định tính cho danh từ hay từ tương đương, thường được
đặt trước danh từ hay từ tương đương ấy.
Thí dụ:
* /Mahallako/
puriso /appakaṃ/ odanaṃ bhuñji. (Người
đàn ông già cả đã ăn một ít cơm).
3. Từ ngữ sở
thuộc cách hoặc định sở cách khuếch trương cho một danh
từ ... được đặt trước danh từ ấy.
Thí dụ:
* /Rañño/
parijanā /gāme/ jane pīlesuṃ. (Những tùy
tùng của vua đã áp chế dân trong làng).
4. Mệnh đề tính
từ khuếch trương cho một tiếng, cũng thường đặt trước
tiếng ấy.
Thí dụ:
* /Yaṃ
nissitā jagatiruhaṃ vihaṅgamā/ svāyaṃ aggiṃ
pamuñcati. (Cây mà các loại chim nương ở, cây ấy bốc
lửa).
5. Cũng có khi
mệnh đề tính từ được đặt ở sau.
Thí dụ:
* Sukhaṃ
supanti munayo/ ye itthīsu na baj-jhare/ .
(Các vị tu sĩ ngủ được an lạc, là những vị mà không bị
buộc ràng đối với phụ nữ).
6. Trong câu
đàm thoại, hô khởi ngữ (tiếng hô cách) có thể được đặt ở
đầu câu hay ở vào vị trí nào trong câu cũng được.
Thí dụ:
* Bhante
imasmiṃ sāmane kati dhurāni honti. (Bạch ngài, trong
giáo lý này có bao nhiêu phận sự?).
7. Câu nghi vấn
thể được diễn đạt bằng cách sử dụng những nghi vấn từ.
Tùy theo câu, có thể là sử dụng tiếng nghi vấn tính từ,
hoặc nghi vấn đại danh từ, nghi vấn trạng từ hay nghi
vấn bất biến từ.
a) Tiếng nghi
vấn tính từ thường được đặt trước danh từ mà nó định
tính.
Thí dụ:
* Tattha
katamo rūpakkhandho. (Ở đây sắc uẩn là thế nào?)
b) Tiếng nghi
vấn đại danh từ được đặt ở đầu câu. Tuy nhiên, có khi
nghi vấn đại danh từ làm tính từ định tính cho một danh
từ, thì lại đặt trước danh từ ấy.
Thí dụ:
* Ko
tattha vasati? (Ai sống ở đấy?).
c) Tiếng nghi
vấn trạng từ cũng thường được đặt ở đầu câu hay mệnh đề.
Thí dụ:
*
Kittāvatā nu kho bhante upāsakohotī' ti. (Bạch
tôn giả, đến mức độ nào mới là người cận sự nam? )
d) Một vài nghi
vấn trạng từ trong vai trò làm bổ túc từ cho động từ,
thì có thể được đặt trước động từ.
Thí dụ:
* Kiṃ/
kathesi bhātika? (Thưa hiền huynh, anh nói gì?)
e) Tiếng nghi
vấn bất biến từ cũng thường đặt ở đầu câu.
Thí dụ:
* Kacci
nu kho' haṃ suññāgāre abhiramāni. (Ta có thích ở
nơi tĩnh lặng không?)
f) Cũng có khi
tiếng nghi vấn bất biến từ đặt ở vị trí thứ hai trong
câu.
Thí dụ:
* Gato nu
Cittakūtaṃ vā Keḷāsaṃ vā Yugan-dharaṃ vā? (Có phải
nó đã đến núi Cittakūta hay Keḷāsa hoặc
Yugandhara?)
g) Câu nghi vấn
thể đôi khi không sử dụng nghi vấn từ, mà lại
diễn tả bằng
cách đặt tiếng hô khởi ngữ ở đầu câu.
Thí dụ:
Bho
pabbajita amhākaṃ gehaṃ
agamatthā'ti? (Hỡi vị xuất
gia! Ngài đã đến nhà chúng tôi chưa?)
8. Những tiếng
trạng từ chỉ thời gian và trạng từ chỉ ý kiến, rất
thường được đặt ở đầu câu hay mệnh đề.
Thí dụ:
* Aciraṃ
vat' ayaṃ kāyo paṭhaviṃ adhisessati. (Ôi! chẳng bao
lâu, thân này sẽ nằm dài dưới đất).
9. Những cảm
thán từ cũng thường được đặt ở đầu câu.
Thí dụ:
* Aho
imasmiṃ loke ayuttaṃ vattati. (Than ôi! sự bất công
dẫy đầy trong thế gian này).
10. Các bất
biến từ như "sace", "yadi" (nếu) cũng thường được
đặt ở đầu câu.
Thí dụ:
* Sace
me antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna
nivattissāmi. (Nếu không có sự tai hại đến tôi, thì
tôi sẽ trở lại trong khoảng bảy ngày).
11. Các bất
biến từ "ce" (nếu), "ca" (và, với),
"vā" (hoặc là, hay là) không được đặt ở đầu câu.
Thí dụ:
* Pāpañ
ce puriso kayirā na taṃ kayirā punappunaṃ. (Nếu
người có làm điều ác rồi, thì chẳng nên làm điều ấy thêm
nữa).
12. a) Một câu
có mệnh đề chính và mệnh đề phụ, thì mệnh đề phụ thường
được đặt trước mệnh đề chính.
Thí dụ:
* /Yathā
me dhanacchedo na hoti/ tathā karis-sāmi. (Như
thế nào mà không mất mát tài sản của tôi, thì tôi sẽ làm
theo thế ấy).
b) Ðôi khi cũng
có trường hợp mệnh đề phụ đứng sau mệnh đề chính.
Thí dụ:
*
Apasakka tāva bhagini/ yāva bhikkhū bhuñjanti/.
(Này bà chị, hãy tránh đi cho đến khi chư Tỳ kheo
thọ thực xong).
Toát yếu:
Cú pháp
là phép xếp đặt thành câu văn hay lời nói.
Thành phần cú
pháp tiếng Pāli có ba đơn vị chính, là chủ từ,
túc từ và thuật từ. Một câu có thuật từ là tự động từ,
thì câu ấy không cần có túc từ (nếu có chỉ là gián tiếp
đối từ); ngược lại câu có thuật từ là tha động từ thì
đòi hỏi có túc từ.
Ðôi khi câu có
chủ từ được hiểu ngầm.
Về sự khuếch
trương đơn vị cú pháp:
chủ từ và túc từ trong câu có thể được khuếch trương
bằng một hay nhiều bổ túc từ như tính từ, hoặc danh từ
đồng cách, hoặc từ ngữ ở sở thuộc cách hay định sở cách,
hoặc một hợp từ, một đoản cú, một mệnh đề liên kết.
Thuật từ có thể được khuếch trương bằng một trạng từ hay
một từ ngữ, một đoản cú tương đương trạng từ, hay một
mệnh đề trạng từ.
Các đơn vị cú
pháp tiếng Pāli
có sự đòi hỏi hòa hợp nhau: như là chủ từ và thuật từ
thường phải đồng nhất về ngôi vị và ngữ số; tiếng tính
từ định tính cho danh từ phải phù hợp với danh từ ấy về
tính, cách và số (nhất thiết là ngữ cách ...); tiếng
phiếm chỉ đại danh từ trong mệnh đề khuếch trương phải
hòa hợp với tiếng chủ yếu chỉ thị đại danh từ về tính và
số.
Các đơn vị cú
pháp tiếng Pāli
không có luật nhất định về vị trí trong câu, nhờ có sự
hòa hợp đơn vị, nên sự tìm hiểu ý nghĩa cũng không khó.
* * *
MỆNH ÐỀ
Ðịnh
nghĩa:
Mệnh đề là một câu mà nó là thành phần của một câu lớn.
Mệnh đề là một
câu mà tự nó không tạo thành một ý nghĩa đầy đủ.
Mệnh đề là một
nhóm từ ngữ tạo nên thành phần của một câu và trong đó
có một động từ giới hạn.
Tóm lại, mệnh
đề là một thành phần câu rộng rãi, trong đó hàm chứa một
động từ đã chia.
Một câu đơn
giản (chỉ gồm một chủ từ và một thuật từ) không được gọi
là một mệnh đề.
A- CÁC LOẠI MỆNH
ÐỀ
I- Nói theo
hình thức
Mệnh đề tiếng
Pāli nói theo hình thức thì có 2 loại là: mệnh đề
chính và mệnh đề phụ.
Trong một câu
phức, ít ra phải có một mệnh đề chính và một mệnh đề
phụ.
Một câu khi có
mệnh đề phụ, thì phần câu còn lại sẽ là mệnh đề chính.
1- Mệnh
đề chính là mệnh đề
tạo thành ý nghĩa chính cho câu; nó có thể đứng riêng mà
vẫn có ý nghĩa đầy đủ và còn được gọi là mệnh đề độc
lập.
2- Mệnh
đề phụ là mệnh đề có ý
nghĩa làm phụ thuộc cho mệnh đề chính. Mệnh đề phụ không
thể đứng độc lập để
tạo thành câu có ý nghĩa xác đáng.
Thí dụ:
Sace me
antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi.
(Nếu không có sự tai hại đến tôi, tôi sẽ trở lại trong
khoảng bảy ngày).
Trong thí dụ
trên, câu có hai mệnh đề: chính và phụ. Mệnh đề chính
của câu là: Sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi.
(Tôi sẽ trở lại trong khoảng bảy ngày).
Mệnh đề phụ của
câu là: Sace me antarāyo natthi. (Nếu không có sự
tai hại đến tôi).
II- Nói theo
ý nghĩa
Mệnh đề tiếng
Pāli nói theo ý nghĩa thì gồm có 3 loại:
- Mệnh đề danh
từ (nāmavakyaṅga).
- Mệnh đề tính
từ (guṇavakyaṅga).
- Mệnh đề trạng
từ (lakkhakavakyaṅga).
1- Mệnh
đề danh từ là một mệnh
đề có vai trò như một danh từ, nó thay thế danh từ để
làm chủ từ hay túc từ.
Thí dụ:
a) Saccaṃ
kira tvaṃ Nanda sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi?
(Này Nanda, có thật chăng ngươi đã trình bày như vậy
với nhiều vị Tỳ kheo?)
Trong thí dụ
trên, mệnh đề danh từ là "Tvaṃ Nanda sambahulānaṃ
bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi"
Cả mệnh đề này
thay thế danh từ, làm chủ từ của câu. Nếu hỏi: sự việc
gì mà bị chất vấn, có thật chăng, thì tất phải nói: sự
việc mà ngươi đã trình bày như vậy đến nhiều vị Tỳ kheo"
(tvaṃ Nanda sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi).
Vì vậy đoạn này
là mệnh đề danh từ. Và ở đây từ ngữ "Saccaư kira
(hoti) " (có thật chăng) là thuật từ của câu vậy.
b) Satthā
tato pi Jīvakambavanaṃ gantu-kāmo tattha maṃ nethā' ti
āha. (Bậc đạo sư sau đó muốn đi đến rừng xoài của
Jìvaka, đã nói rằng: "Hãy đưa ta đến đấy).
Nếu đặt vấn đề:
Bậc đạo sư nói gì? thì sẽ được trả lời: đã nói "Hãy đưa
ta đến đấy". (Tattha maṃ netha). Vậy đoạn:
"tattha maṃ netha" là mệnh đề danh từ vì thay thế
danh từ làm túc từ cho thuật từ "āha" (đã nói).
2 - Mệnh
đề tính từ là một mệnh
đề có vai trò như một tính từ, nó thay thế tính từ để bổ
nghĩa hay khuếch trương cho chủ từ hoặc túc từ hoặc một
từ nào trong câu.
Thí dụ:
a) Sukhaṃ
supanti munayo ye itthīsu na bajjhare. (Những vị tu
sĩ ngủ được an lạc, là những vị mà không bị buộc ràng
với phụ nữ).
Thí dụ trên,
đoạn "ye itthīsu na bajjhare" (là những vị mà
không bị buộc ràng với phụ nữ) là mệnh đề tính từ, vì nó
bổ túc ý nghĩa cho chủ từ "munayo" (các tu sĩ).
Nếu hỏi: "Các vị tu sĩ là người thế nào mà ngủ được an
lạc", thì sẽ được trả lời: "là những vị mà không bị buộc
ràng đối với phụ nữ" (ye itthīsu na bajjhare).
b) Yaṃ
nissitā jagatiruhaṃ vihaṅgamā svā-yaṃ aggiṃ pamuñcati.
(Các loài chim nương ở cây
nào, cây ấy bốc lửa).
Thí dụ trên,
đoạn "yaṃ nissitā jagatiruhaṃ vihaṅgamā" (các
loài chim nương ở cây nào) là một mệnh đề tính từ, vì nó
khuếch trương cho chủ từ "svāyaṃ" (cây ấy). Nếu
đặt vấn đề: cây ấy bốc lửa, là cây gì?, sẽ được đáp:
"cây mà các loài chim nương ở" (yaṃ nissitā
jagatiruhaṃ vihaṅ-gamā).
c) Yo me
ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetasā taṃ ahaṃ kittayissāmi.
(Ai tán dương trí tuệ của ta với tâm thanh tịnh, ta
khen ngợi kẻ ấy).
Thí dụ trên,
đoạn "yo me ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetanā".
(Ai tán dương trí tuệ của ta với tâm thanh tịnh), ấy là
mệnh đề tính từ vì đó khuếch trương cho túc từ "taṃ"
(kẻ ấy). Nếu hỏi: khen ngợi kẻ ấy là ai? ", sẽ được trả
lời: là người mà tán dương trí tuệ của ta với tâm thanh
tịnh (yo me ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetasā".
3- Mệnh
đề trạng từ là một
mệnh đề có vai trò như một trạng từ, nó thay thế trạng
từ để khuếch trương cho thuật từ trong câu.
Mệnh đề trạng
từ có nhiều hình thức, tùy theo ý nghĩa vai trò của nó.
Gồm có:
- Mệnh đề trạng
từ chỉ thời gian.
a) Mệnh đề
trạng từ chỉ thời gian là một đoản cú thay thế trạng từ
trong ý nghĩa chỉ thời điểm đã xảy ra hành động. Mệnh đề
này được giới hạn bằng một trạng từ chỉ thời gian, cũng
có thể bằng một bất biến quá khứ phân từ, hay bằng một
từ ngữ ở đối cách, sở dụng cách, định sở cách, trong ý
nghĩa chỉ thời gian.
Thí dụ:
* Purā
āgacchante etaṃ anāgataṃ mahab-bhayaṃ subacā hotha
sakhilā aññamaññaṃ sagāravā. (Trước khi xảy đến nỗi
đại kinh hoàng vị lai đó, các ngươi hãy nhu thuận, hiền
hòa và tôn trọng lẫn nhau).
* Ahaṃ
odanaṃ pacitvā bhuñjiṃ. (Sau khi nấu cơm, tôi đã
ăn).
* Ekaṃ
samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati. (Vào một
thuở, Ðức Thế Tôn trú ngụ tại Sāvatthi).
* Tena
kho pana samayena Nigrodho pari-bbājako mahatiyā
paribbājakaparisāya saddhiṃ nisinno hoti. (Vào lúc
ấy, du sĩ Nigrodha đang ngồi với đại hội chúng du
sĩ).
* Rājūsu
attano attano raṭṭhesu carantesu bahusevakā
setacchattādīni gahetvā te anugacchanti. (Trong khi
các vị vua du ngoạn trong xứ sở của chính họ thì có
nhiều kẻ hầu cận cầm lấy những tàn lọng trắng đi theo
các vị ấy).
b) Mệnh đề
trạng từ chỉ nơi chốn là một đoản cú thay thế trạng từ
trong ý nghĩa chỉ về địa điểm xảy ra hành động ... Mệnh
đề trạng từ chỉ nơi chốn được giới hạn bằng một trạng từ
chỉ nơi chốn hay một bất biến từ, hoặc cũng có thể được
giới hạn bằng từ ngữ ở định sở cách trong ý nghĩa chỉ
nơi chốn.
Thí dụ:
* Maññe
sovaṇṇayo rāsī soṇṇamālā ca Nan-dako yattha dāso
āmajāto ṭhito thullāni gajjati. (Tôi nghĩ rằng,
Nandaka có đống vàng và vòng hoa vàng, tại nơi mà
tên nô lệ thuở sơ sanh đã đứng gào lên những tiếng thô
bỉ).
* Tassa
gamanamagge ... supaṇṇapotakā sa-muḍḍapiṭṭhe
parivattantā mahāravaṃ raviṃsu. (Trên đường bôn tẩu
của vị ấy ... các con chim supaịịa
đang nhào lộn trên
mặt biển đã kêu lên tiếng kêu lớn).
c) Mệnh đề
trạng từ chỉ sự so sánh là một đoản cú được giới hạn
bằng một tiếng tỷ giảo bất biến từ, chỉ ý nghĩa so sánh.
Thí dụ:
* Tato naṃ
dukkhaṃ anveti cakkam' va vahato padaṃ. (Rồi đó, sự
khổ đau theo nó, ví như bánh xe theo chân con vật kéo).
* Vassikā
viya pupphāni maddavāni pamuñ-cati evaṃ rāgañca
dosañca vippamuñcetha bhik-khavo. (Giống như hoa lài
lìa bỏ những cánh tàn úa, cũng thế, hỡi chư Tỳ kheo, các
ngươi hãy lìa bỏ tham và sân).
d) Mệnh đề
trạng từ chỉ cách thức là một đoản cú với ý nghĩa trình
bày cách thức của hành động. Mệnh đề này được giới hạn
bằng một trạng từ hay bất biến từ, hoặc có thể bằng từ
ngữ ở hình thức sở dụng cách ...
Thí dụ:
* Yathā me
dhanacchedo na hoti tathā karis-sāmi. (Theo cách nào
mà không hư hoại tài sản của tôi, thì tôi sẽ làm theo
cách ấy).
*
Dānaveyyāvaṭiko pi paṇṇe āropitaniyāmen' eva tesaṃ tesaṃ
gehāni bhikkhū pahini. (Người quản đốc thí đã gởi
các vị Tỳ kheo đến những tư gia của họ tùy theo sự đăng
ký trong bảng).
e) Mệnh đề
trạng từ chỉ lý do hay mục đích là một đoản cú có ý
nghĩa chỉ nguyên nhân mà hành động xảy ra. Mệnh đề này
được giới hạn bằng một trạng từ hay bất biến từ, cũng có
thể bằng một vị biến cách, hay bằng từ ngữ ở hình thức
chỉ định cách với ý nghĩa "vì, để ..."
Thí dụ:
* "Yato ca
so bahutaraṃ bhojanaṃ ajjhu-pāhari tato tatth' eva
samsīdi amattaññū hi so ahu" (Vì rằng nó đã ăn quá
nhiều vật thực nên nó đã quỵ tại đấy. Nó thật là người
vô độ).
* Ahaṃ
odanaṃ pacituṃ aggiṃ jālemi. (Tôi đun lửa để nấu
cơm).
* Ayaṃ
seṭṭhī bhagavantaṃ dassanāya
icchati.
(Ông trưởng giả này mong yết kiến Ðức Thế Tôn).
*
Kiṃ atthāya āgato'si. (Anh đến vì mục đích
gì).
f) Mệnh đề
trạng từ chỉ mức độ là một đoản cú mang ý nghĩa giới hạn
một sự kiện của hành động. Mệnh đề này được dẫn nhập
bằng một trạng từ hay bất biến từ.
Thí dụ:
* Yāva so
mattaṃ aññāsi bhojanasmiṃ vihaṅgamo tāva addhānaṃ āpādi
mātarañca apasayī. (Chừng nào con chim ấy biết tiết
độ trong vật thực,
chừng ấy nó đã chịu đựng được đường xa và nuôi mẹ được).
g) Mệnh đề
trạng từ chỉ điều kiện hay hậu quả, được giới hạn bằng
một trạng từ hay bất biến từ chỉ điều kiện ...
Thí dụ:
* Sace
yujjhitukāmo' si jayaṃ samma dadāmi te. (Này
bạn, nếu bạn muốn chiến đấu, thì tôi dành cho bạn phần
chiến thắng).
* Khamati
saṅghassa tasmā tuṇhī. (Ðược bằng lòng đến
Tăng rồi, do đó mới im lặng).
B- SỰ DẪN NHẬP
CỦA MỆNH ÐỀ
Mệnh đề có 3
loại như đã được nói đến. Muốn nắm vững để phân tích,
cần phải hiểu sự dẫn nhập của mệnh đề.
Qua những thí
dụ đã nêu trên, ta thấy rằng:
1. Mệnh
đề danh từ được dẫn
nhập bằng bất biến
từ "iti" (rằng, như vầy), đôi khi cần được hiểu ngầm.
Thí dụ:
* Satthā
tato pi Jīvakambavanaṃ gantukāmo tattha maṃ nethā' ti
āha. (Bậc đạo sư sau đó muốn đi đến rừng xoài của
Jìvaka, ngài đã nói rằng: Hãy đưa ta đến đấy).
* Saccaṃ
kira tvaṃ Nanda sambahulānaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ ārocesi.
(Có thật chăng, này Nanda, (là) ngươi đã
trình bày như vậy cho nhiều vị Tỳ kheo).
Ở thí dụ trên,
câu mệnh đề được dẫn nhập bằng tiếng "iti" (là)
hiểu ngầm.
2. Mệnh
đề tính từ được dẫn
nhập bằng tiếng liên quan đại danh từ (hay phiếm chỉ đại
danh từ).
Thí dụ:
* Sukhaṃ
supanti munayo ye itthīsu na bajjhare. (Các
vị tu sĩ ngủ được an lạc, là những vị mà không bị
ràng buộc đối với phụ nữ).
* Yo me
ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetasā taṃ ahaṃ kittayissāmi.
(Ai tán dương trí tuệ của ta với tâm thanh tịnh, ta
khen ngợi kẻ ấy).
3. Mệnh
đề trạng từ được dẫn
nhập bằng tiếng trạng từ hay bất biến từ, đôi khi cần
được hiểu ngầm.
Thí dụ:
* Yathā me
dhanacchedo na hoti tathā karis-sāmi. (Như thế nào
mà không mất mát tài sản của tôi, tôi sẽ làm theo thế
ấy).
Ở đây tiếng
"yathā" (cặp: yathā tathā) là tiếng dẫn nhập
cho mệnh đề trạng từ trong câu này.
* Yadà te
vivadissanti tadà chindati me vasaṃ. (Khi nào chúng
còn tranh chấp, khi ấy chúng còn chịu ở dưới quyền hạn
của ta).
Ở đây tiếng
"yadā" (cặp: yadā tadā) là tiếng dẫn nhập
mệnh đề trạng từ của câu này.
* Yattha
bhagavā dhammaṃ deseti tattha mahājano sannipatati.
(Tại đâu Ðức Thế Tôn thuyết pháp, thì tại ấy đại chúng
tụ họp lại).
Ở đây tiếng "yattha"
(cặp: yattha ... tattha) là tiếng dẫn nhập
mệnh đề trạng từ trong câu này.
* Yato ca so
bahutaraṃ bhojanaṃ ajjhupāhari tato tatth' eva saṃsīdi
mattaññū hi so ahu. (Vì rằng nó đã ăn quá nhiều vật
thực, do đó nó đã quỵ tại đấy. Nó thật là người vô độ).
Ở đây tiếng "yato"
(cặp: yato ... tato) là tiếng dẫn nhập mệnh
đề trạng từ trong câu này.
* Yāvā' haṃ
āgamissāmi tāva idh'eva tiṭṭhāhi. (Hãy đứng ở đây
cho đến khi tôi trở lại).
Ở đây tiếng
"yāva" (cặp: yāva tāva) là tiếng dẫn nhập mệnh đề
trạng từ của câu này.
* Yāvatihaṃ
jānaṃ paṭicchādeti tāvatihaṃ tena bhikkhunā
akāmāparivatthabbaṃ. (Vì
biết mà che giấu cho đến bao nhiêu ngày, thì với vị Tỳ
kheo ấy cần được biệt trú bấy nhiêu ngày, dù
không muốn).
Ở đây
"yāvatihaṃ" (cặp: yāvatihaṃ ... tāvati-haṃ) và tiếng
"yāvatihaṃ" (tāvatihaṃ) là tiếng dẫn nhập mệnh đề
trạng từ trong câu này.
* Sabbe
saṅkhārā aniccā' ti yadā paññāya passati atha nibbindati
dukkhe ... (Khi nào với trí tuệ thấy rõ rằng: "mọi
pháp hành là vô thường", thì sẽ chán ngán trong sự khổ).
Ở đây tiếng
"yadā" (cặp: yadā ... atha) là tiếng dẫn nhập mệnh
đề trạng từ trong câu này.
* Sace
yujjhitukāmo'si jayaṃ samma dadāmi te. (Này bạn, nếu
bạn muốn chiến đấu, tôi sẽ dành cho bạn phần chiến
thắng).
Ở đây tiếng
"sace" là tiếng dẫn nhập mệnh đề trạng từ trong câu
này.
* Tato naṃ
dukkhaṃ anveti cakkaṃ' va vahato padaṃ. (Từ đó đau
khổ theo nó ví như bánh xe theo chân con vật kéo).
Ở đây là tiếng
dẫn nhập mệnh đề trạng từ trong câu này.
* Vassikā
viya pupphāni maddavā ni pamuñcati evaṃ rāgañca dosañca
vippamuñcetha bhikkhavo. (Như hoa lài rời bỏ những
cánh hoa tàn úa, cũng thế ấy, hỡi các Tỳ kheo, hãy lìa
bỏ tham và sân).
Ở đây tiếng
"viya" (cặp: viya ... evaṃ) là tiếng dẫn nhập
mệnh đề trạng từ trong câu này.
* Seyyathāpi
nāma puriso sīsacchinno abhabbo tena sarīrabandhanena
jīvituṃ evameva bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā
assamaṇo hoti asakyaputtiyo. (Cũng ví như người bị
đứt đầu không thể còn sống với phần thân thể còn lại,
cũng thế ấy, vị Tỳ kheo khi đã hành điều dâm dục thì
thành phi Sa-môn, phi Thích tử).
Ở đây tiếng
"seyyathāpi" (cặp: seyyathāpi ... evameva) là
tiếng dẫn nhập mệnh đề trạng từ trong câu này.
*Bhagavantamhi
Jetavanavihāre viharante sam-bahulā kulaputtā arahattaṃ
pāpuṇiṃasu. (Khi Ðức Thế Tôn trú tại Tịnh xá
Jetavana, có nhiều nam tử đã đạt thành quả vị
A-la-hán).
Ở đây trong câu
có mệnh đề trạng từ là "Bhagavantamhi Jetavanavihāre
viharante" được dẫn nhập bằng tiếng trạng từ
"yadā" (khi mà) hiểu ngầm.
C- MỆNH ÐỀ KHUẾCH
TRƯƠNG
Có 3 loại mệnh
đề như đã nói ở trên.
1. Ở đây mệnh
đề danh từ không là thành phần khuếch trương cho đơn vị
cú pháp nào cả, vì nó chỉ có phận sự thay thế danh từ để
làm chủ từ hoặc túc từ của câu.
2. Về mệnh đề
tính từ thì trở thành khuếch trương cho chủ từ hay túc
từ ...
3. Phần mệnh đề
trạng từ luôn luôn là khuếch trương cho thuật từ.
Toát yếu:
Mệnh đề là một
đoản cú có vai trò phụ trợ trong một câu. Mệnh đề tự nó
không thể đứng độc lập. Trong một câu phức phải có từ
hai mệnh đề, một chính và một phụ ...
Mệnh đề nói
theo hình thức gồm có 2 là mệnh đề chính và mệnh đề phụ.
Nếu nói theo ý nghĩa thì gồm có 3 là mệnh đề danh từ,
mệnh đề tính từ và mệnh đề trạng từ.
Mệnh đề phụ
không đứng độc lập và thiếu mệnh đề chính.
Mệnh đề danh từ
có vai trò như một danh từ, nó thay thế danh từ để làm
chủ từ hay túc từ. Mệnh đề danh từ không làm thành phần
khuếch trương.
Mệnh đề tính từ
có vai trò như một tính từ, dùng để khuếch trương, bổ
nghĩa thêm cho tiếng chủ từ hay túc từ.
Mệnh đề trạng
từ có vai trò như trạng từ, dùng để khuếch trương, cho
thuật từ của câu.
Mệnh đề danh từ
được dẫn nhập bằng tiếng "iti" (rằng, là, như
vầy), đôi khi phải hiểu ngầm. Mệnh đề tính từ được dẫn
nhập bằng tiếng phiếm chỉ đại danh từ "ya" (ai,
cái nào, người mà, cái mà). Mệnh đề trạng từ được dẫn
nhập bằng tiếng trạng từ hay bất biến từ "yathā",
"yadā" v.v... có khi phải hiểu ngầm.
* * *
BÀI ÔN TẬP
CHƯƠNG IX
A- Câu hỏi
lý thuyết
I- Hãy
trả lời các câu hỏi:
1. Cú pháp là
gì?
2. Có bao nhiêu
đơn vị cú pháp?
3. Chủ từ và
thuật từ trong cùng một câu phải hòa hợp như thế nào?
4. Thế nào là
sự khuếch trương các đơn vị cú
pháp?
5. Mệnh đề là
gì?
6. Có mấy loại
mệnh đề? Và mỗi loại mệnh đề có vai trò thế nào?
7. Mệnh đề có
dùng làm khuếch trương cho đơn vị cú
pháp được chăng?
8. Mệnh đề được
dẫn nhập ra sao?
II- Câu
hỏi trắc nghiệm:
(Ðánh chéo
vào vòng tròn bên cạnh mục từ Ðúng hoặc Sai để chọn câu
trả lời đúng)
1. Trong một
câu gọi là đầy đủ, ít ra cũng gồm có một thuật từ và một
chủ từ.
=> Ðúng => Sai
2. Chủ từ trong
một câu có thể có nhiều thuật từ
và thuật từ trong
một câu cũng có thể có nhiều chủ từ.
=> Ðúng => Sai
3. Một câu đơn
giản (chỉ gồm một chủ từ và một thuật từ) được gọi là
mệnh đề.
=> Ðúng => Sai
4. Một mệnh đề
được dẫn nhập bằng tiếng phiếm chỉ đại danh từ thì gọi
là:
a- Mệnh đề danh
từ.
B- Dịch ra
tiếng Việt và chỉ rõ đơn vị cú
pháp cùng phân tích
mệnh đề (nếu có thể):
1. Athakho
pāyāsi rājañño (1) uttaraṃ māṇavaṃ
āmantāpetvā etad-a-voca saccaṃ kira tvaṃ tāta Uttara
(2) evaṃ anuddisasi (3) iminā' haṃ
dānena pāyāsiṃ rājaññaṃ imasmiṃ yeva loke samāgacchiṃ
(4) mā parasmiṃ' ti.
2.
Kosalarājā (5) mahantena balena āgantvā
Bārāṇasiṃ gahetvā taṃ rājānaṃ māretvā tass' eva
aggamahesiṃ (6) attano aggamahesiṃ akāsi.
3. Evaṃ
mahāsatto (7) khuddakamakkhikāya (8)
pivanamattaṃ pi lohitaṃ anuppādetvā sattarājāno
palāpetvā (9) kaṇiṭṭhabhātaraṃ oloketvā kāme
pahāya isipabbajjaṃ (10) pabbajitvā abhiññā
ca samāpattiyo ca nibbattetvā jīvitapariyosāne (11)
brahmalokūpago (12) ahosi.
4. Ekaṃ
samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viha-rati Jetavane
Anāthapiṇḍikassa ārāme tatra kho Bhagavā bhikkhū
āmantesi bhikkhavo' ti.
5. Sā
vejjen' āgantvā kīdisaṃ (13) bhadde' ti
puṭṭhā pubbe me akkhīni thokaṃ rujiṃsu (14)
idāni atirekataraṃ rujantī' ti āha.
6.
Tathāgatassa tattha hatthināgena (15)
upaṭ-ṭhiyamānassa vasanabhāvo (16)
sakalajampudīpe pākaṭo (17) ahosi.
7. Tasmiṃ
samaye Bārāṇasīvāsino devatāmaṅ-galikā (18)
honti bahū ajeḷakakukkuṭasūkarādayo honti bahū
ajeḷakakukkuṭasūkarādayo (19) va dhitvā
nānappakārehi pupphagandhehi c' eva maṃsalohite-hi ca
balikammaṃ (20) karonti.
8. Puṇṇo
theraṃ disvā va kasiṃ ṭhapetvā pañcapatiṭṭhitena
(21) theraṃ vanditvā dantakaṭṭhaṃ kappiyaṃ katvā
(22) adāsi.
9. Imehi
lakkhaṇehi samannāgato (23) nāma agāramajjhe
vasanto rājaà hoti cakkavattī pabbajanto loke
vivaṭacchado (24) sabbaññū buddho hoti.
10.
Pāṭaliputtassa kho Ānanda tayo antarāyā bhavissanti
aggito vā udakato vā mithubhedā (25) vā.
11. Mahājano
attano attano puttadhītuñātīnaṃ atthāya (26)
paridevamāno mahāsaddaṃ akāsi.
12. Athakho
Bhagavā Kapilavatthusmiṃ yathā-bhirantaṃ viharitvā yena
Sāvatthī tena cārikaṃ (27) pakkāmi anupubbena
cārikaṃ caramāno yema sāvatthī tad-avasari (28).
13.
Seyyathāpi mahārāja puriso iṇaṃ (29) ādāya
kammante payojeyya (30) tassa te kammantā
samij-jheyyuṃ so tatonidānaṃ (31) labhetha
pamojjhaṃ adhigaccheyya somanassaṃ.
14. So ce
bhikkhūnaṃ santike dūtaṃ pahineyya ahaṃ hi gilāno
āgacchantu bhikkhū icchāmi bhik-khūnaṃ āgatan' ti
gantabbaṃ bhikkhave sattāha-karaṇīyena (32).
15. Imāni
bhante asītigāmikasahassāni (33)
idh'ūpasaṅkantāni bhagavantaṃ dassanāya (34)
sādhu mayaṃ bhante
labheyyāma bhagavantaṃ dassa-naàyā' ti.
Chú thích
từ vựng:
(1)
Mājañña:
người
trong vương tộc, hoàng thân (nam). -ooOoo- Ðầu
trang
| 00
| 01
| 02a
| 02b
| 02c
| 03a
| 03b
| 03c
| 04
| 05
| 06
| 07
| 08
| 09
| 10
Chân thành cám ơn Tỳ
khưu Giác Giới, chùa Siêu Lý, Vĩnh Long, đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson,
09-2004). [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
(Bodhisīla Bhikkhu)
PL. 2548 - TL. 2004
* Túc từ (Kamma)s
* Thuật từ (Kiriyā)
Byaggho
là chủ từ; migaṃ
là túc từ;
māresi
là thuật từ tha động từ.
Ahaṃ
là chủ từ;
sayāmi
là động từ.
Ahosi
là thuật từ; Seṭṭhino Yaso
nāma putto
là bổ túc từ của
động từ (thuật từ).
Pāpaṃ
là túc từ; (mā)
karotha
là thuật từ, chủ từ câu này phải được hiểu ngầm theo
động từ.
Vasati
là thuật từ; gāme
chỉ là gián tiếp
đối từ của động từ ...
Dhanavā
gehaṃ kiṇissati.
(Người giàu có
sẽ mua ngôi nhà).
Ahaṃ
sukhaṃ jīvāmi.
(Tôi sống một cách an lạc).
Tattha gamanaṃ
sukhāvahaṃ bhavissati.
(Sự
đi đến đấy sẽ đem lại an lạc).
Tena kho pana samayena
Bārāṇasiyaṃ Yaso nāmakulaputto seṭṭhiputto sukhumālo
hoti.
(Vào thời ấy tại
thành Bārāṇasī
có gia-nam-tử
tên là Yasa, con trưởng giả, người mảnh khảnh).
Hatthī ca kapi ca
araññe vasanti.
(Con voi và con khỉ sống trong rừng).
- Khuếch trương túc từ.
- Khuếch trương thuật từ.
/Dhanavā / seṭṭhī
gehaṃ kārāpesi.
(Ông trưởng giả
giàu có đã cho kiến tạo ngôi nhà).
/Māgadho seniyo
Bimbisāro / rājā buddhassa
veḷuvanaṃ pūjesi. (Vua
Bimbisāra,
người
Magadha,
vị lãnh tụ quân đội, đã cúng dường khu trúc lâm đến đức
Phật).
/Gāme/ kutumbiko
nagaraṃ gamissati.
(Vị tộc trưởng trong làng sẽ đi đến thành phố).
Rājā /nagare / purise nīhari. (Nhà vua đã
tẩn xuất những người đàn ông trong thành phố).
Tuyhaṃ asso /sīghaṃ /
dhāvi. (Con ngựa của
anh đã chạy nhanh).
So gāmaṃ /iminā khuddakena maggena/ gac-chati.
(Nó đi đến làng theo con đường nhỏ này).
Yāva so mattaṃ aññāsi bhojanasmiṃ vihaṅ-gamo tāva/
addhānaṃ āpādī mātarañ ca aposayī.
(Chừng nào con chim ấy biết tiết độ trong sự ăn uống,
chừng ấy nó đã chịu đựng được đường xa và nuôi mẹ được).
- Thành phần tính từ khuếch trương và danh từ liên hệ.
- Tiếng chỉ thị đại danh từ và phiếm chỉ đại danh từ
trong câu có mệnh đề liên kết.
* So araññamhi
sayi. (Nó đã ngủ tại khu rừng).
* Tumhe odanaṃ
bhuñjissatha. (Các anh sẽ ăn cơm).
* Ahaṃ gehaṃ karomi. (Tôi
kiến tạo ngôi nhà).
* Sace tvaṃ rukkhaṃ chindissasi, ahaṃ taṃ
āharissāmi.
(Nếu anh đốn
cây, tôi sẽ mang cây ấy về).
* Luddakā ca byaggho ca aññamaññaṃ
yuj-jhiṃsu. (Những người thợ săn và con hổ đã
chiến đấu với nhau).
* Sakkā goṇā vā assā vā khette tiṇaṃ
khādiṃ-su. (Có thể là những con bò hoặc những
con ngựa đã ăn cỏ trong thửa ruộng).
* Mayaṃ ca te ca gāme vasimhā. (Chúng tôi
và họ đã sống trong làng).
* Ahaṃ ca tumhe ca te ca imaṃ nadiṃ tarāma.
(Tôi, các anh và
chúng nó hãy vượt qua con sông này).
* Gacchanto/ puriso tiṇaṃ khādantaṃ/ goṇaṃ
coreti. (Gã đàn ông đang đi, đã đánh trộm con bò
đang ăn cỏ).
* Ahaṃ gāme /vasamāno/ satthuno
godhesiṃ. (Tôi khi đang sống tại khu làng, đã chiến
đấu với kẻ thù).
* Ekā itthī (một người đàn bà).
* Ekaṃ cīvaraṃ (một chiếc y).
* Vīsati / purisā tesaṃ paññāsaṃ arayo
yuj-jhanti. (20 người đàn ông chiến đấu với 50 kẻ
thù của họ).
* Imamhi gāme sataṃ gehā bhavissanti.
(Trong khu làng này có 100 ngôi nhà).
* Mayhaṃ dhanaṃ dvīhi corehi corīyati.
(Tài sản của tôi bị hai tên trộm đánh cắp).
Yo dhammaṃ passati so maṃ passati.
(Ai thấy pháp, là
người ấy thấy ta).
Yo magge gacchati tassa pitā hīyo mari.
(Người mà đi trên đường, cha người ấy đã chết hôm qua).
Yo me ñāṇaṃ pakittesi pasannena cetasā taṃ
ahaṃ kittayissāmi. (Ai đã tán dương trí tuệ của ta
bằng tâm thanh tịnh, thời ta khen ngợi kẻ ấy).
* /So/ dhanavā puññaṃ kātuṃ na icchi. (Kẻ
phú gia ấy đã không muốn làm phước).
* /Vane/ coro /mayhaṃ/ dhanaṃ avahari.
(Kẻ trộm trong rừng đã cướp tài sản của tôi).
* Āvuso imaṃ temāsaṃ katīhi viriyāpathehi
vītināmessatha? (Hỡi chư hiền, các vị sẽ trải qua 3
tháng này với mấy uy nghi?)
* Passatha nu tumhe bhikkhave amuṃ mahantaṃ
aggikkhandhaṃ? (Này chư tỳ kheo, các ngươi có thấy
đám lửa to kia không?).
* Āma samma idān' āhaṃ vihāraṃ gantvā theraṃ
disvā āgato' mhi. (Thưa bạn, sau khi tôi đến tịnh
xá, khi thấy vị trưởng lão rồi, tôi đã đi về).
* Kiṃ kathesi bhātika? (Thưa hiền huynh,
anh nói gì?).
* Kathaṃ gato' si āvuso. (Này hiền giả,
ông đi đến đâu).
* Ko eso' ti (Ai đó?).
* Ko te
upajjhāyo? (Ai là thầy tế độ của ngươi?).
* Imasmiṃ sāsane /kati dhurāni honti.
(Trong giáo lý này có
bao nhiêu phận sự?).
* Imaṃ temāsaṃ katīhi iriyāpathehi
vītinā-messatha? (Chư vị sẽ trải qua 3 tháng này với
mấy uy nghi?).
* Kīva ciraṃ vimānasmiṃ idha vasas' uposa-the?
(Này Uposathā, ở đây ngươi sống trong lâu đài
bao lâu?)
* Kuto āgato' si? (Ngươi từ đâu đến?)
* Kikimatthāya/ āgato' si? (Ngươi đến vì
mục đích gì?)
* Nanu te puttena Maṭṭhakuṇḍalinā mayi manaṃ
pasādetvā sagge nibbattabhāvo kathito? (Phải chăng
sự kiện tái sanh cõi trời nhờ có tín tâm nơi ta, đã được
thuật lại do Maṭṭhakuṇḍali, con trai ông?)
* Passatha nu tumhe bhikkhave amuṃ ma-hantaṃ
aggikkhandhaṃ? (Này chư Tỳ kheo, các ngươi có thấy
đám lửa lớn kia không?)
* Ajja me uposatho paṇṇaraso. (Hôm nay
ngày rằm là ngày trai giới của tôi).
* Aññadatthu sissaṃ Mūsilaṃ ādariya tvaṃ eva
jessati. (Chắc chắn, thưa giáo sư, ngài sẽ thắng đứa
học trò Mūsila).
* Itthaṃ sudaṃ bhagavā āyasmantaṃ Rāhulaṃ
imāhi gāthāhi abhiṇhaṃ ovadati. (Chính cách ấy, Ðức
Thế Tôn giáo giới Tôn giả Ràhula liên tục bằng
những kệ ngôn này).
* Hā! hato'smi. (Ôi! tôi chết mất).
* Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho uposa-thaṃ
kareyya. (Nếu cơ hội đã đến cho Tăng rồi, thì Tăng
nên hành lễ Bố-tát đi).
* Byaggho ca sīho ca ekavane saṃvasituṃ
na sakkonti. (Hổ và sư tử không thể chung sống trong
một khu rừng).
* Evañ ca pana bhikkhave imaṃ sikkhāpa-daṃ
uddiseyyātha. (Và như vậy, này chư Tỳ kheo, các
ngươi nên xiển thuật học giới này).
* So khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādey-ya vā
bhuñjeyya vā. (Vị ấy nhai hoặc ăn vật thực cứng hoặc
vật thực mềm).
* /Yāvā' haṃ āgamissāmi/ tāva idh'eva
tiṭṭhāhi. (Hãy đứng ở đây cho đến khi tôi trở
lại).
* /Yadā te vivadissanti/ tadā chinti me
vasaṃ. (Khi nào họ còn tranh chấp nhau, thì khi
ấy họ sẽ phải chịu dưới quyền hạn của ta).
* /Yattha Bhagavā dhammaṃ deseti / tattha
mahājano sannipatati. (Chỗ nào Ðức Thế Tôn thuyết
pháp, chỗ ấy đại chúng tụ họp
lại).
- Mệnh đề trạng từ chỉ nơi chốn.
- Mệnh đề trạng từ chỉ sự so sánh.
- Mệnh đề trạng từ chỉ cách thức.
- Mệnh đề trạng từ chỉ lý do hay mục đích.
- Mệnh đề trạng từ chỉ mức độ.
- Mệnh đề trạng từ chỉ điều kiện hay hậu quả.
b- Mệnh đề tính từ .
c- Mệnh đề trạng từ.
d- Cả ba đều đúng.
(2) Tāta:
(hô khẩu ngữ) tiếng gọi thân mật Tāta Uttara (Này
Uttara thân mến!)
(3) Anuddisati: tuyên bố, nói thẳng ra (đt).
(4) Samāgacchati: hội ngộ, gặp gỡ (đt).
(5) Kosalarāja: Ðức vua xứ Kosala (nam) .
(6) Aggamahesī:
hoàng hậu, thượng phẩm phu nhân (nữ).
(7) Mahāsatta: chúng sanh vĩ đại, bậc đại hữu
tình (nam).
(8) Khuddakamakkhikā: con ruồi nhỏ (nữ).
(9) Palāpetvā: đã giải tán, đã cho tản đi rồi
(bbqkpt).
(10) Isipabbajjā:
sự tu làm
đạo sĩ, sự xuất gia ẩn sĩ (nữ).
(11) Jīvitapariyosāna: sự mạng chung, lúc
kết liễu mạng sống (trung).
(12) Brahmalokūpaga: sự đạt đến cõi phạm thiên,
sự thanh tịnh phạm thiên giới (tt).
(13) Kīdisa: ra sao rồi? thế nào rồi? (tt).
(14) Rujati: xốn xang, nhức nhối (đt).
(15) Hatthināga: con long tượng, con voi chúa
(nam).
(16) Vasanabhāva: tình trạng sống, môi trường
sống, hoàn cảnh sống (nam).
(17) Pākaṭa: nổi bật, hiện rõ, tiếng vang (tt).
(18) Devatāmaṅgalika: tin thiên mạng, tin tưởng
vận may hay điều lành nhờ chư thiên (tt).
(19) Ajeḷakakukkuṭasūkarādi: dê, cừu, gà và heo
v.v... (nam).
(20) Balikamma: cuộc tế lễ, lễ tế thần (trung).
(21) Pañcapatiṭṭhita: ngũ thể tạ địa, lạy cách
năm điểm chạm đất (tt).
(22) Kappiyaṃ katvā (kappiya - tỉnh, katvā
b.b qkpt): làm đúng cách làm theo tiêu chuẩn.
(23) Samannāgata: hội đủ, có được thành tựu (tt).
(24) Vivaṭacchada: có màn che được mở tung (tt).
(25) Mithubheda: sự chia rẽ nội bộ (nam).
(26) Atthāya: vì do (bbt).
(27) Cārikā: cuộc hành trình (nữ). :
(28) Avasari: đã đến nơi, đã tới (động qk)
(29) Iṇa: nợ nần, trái thuế (trung).
(30) Payojeyya: thực hiện, thi hành (động. khả
năng).
(31) Tatonidānaṃ: nguyên nhân ấy, duyên cớ ấy
(trạng).
(32) Sattāhakaraṇīya: việc phải làm trong bảy
ngày, việc cần làm trong một tuần (tt).
(33) Asītigāmikasahassa: 80.000 dân làng (trung).
(34) Dassana: sự thấy, sự yết kiến, để yết kiến
(trung) .
last updated: 07-09-2004