TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 32
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập I
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH

 

V. PAÑCAKANIPĀTO - NHÓM NĂM KỆ NGÔN

 

1. PHẨM BÔNG TAI NGỌC MA-NI

 

708. “Bị tước đoạt cỗ xe, ngựa, và các bông tai ngọc ma-ni,

tương tự y như thể, bị tước đoạt các con và những người vợ,

khi tất cả các của cải không còn tồn tại,

vì sao ngài không bực bội vào thời điểm sầu muộn?”

 

709. “Các của cải lìa bỏ con người trước tiên,

hoặc là con người từ bỏ chúng trước hết,

này kẻ ước ao dục vọng, là tính chất không trường tồn của tài sản,

vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.

 

710. Mặt trăng mọc lên, tròn dần, rồi khuyết,

mặt trời sau khi đốt nóng bầu trời rồi rút lui,

này kẻ thù địch, các pháp thế gian đã được ta nhận biết,

vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.

 

711. Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt,

bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt,

vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt,

người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

 

712. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”

 

1. Bổn Sanh Bông Tai Ngọc Ma-ni.

 

713. “Tại sao con lại phải vội vàng đi cắt cỏ xanh tươi và nói lảm nhảm với con bò già có mạng sống đã lìa rằng: ‘Hãy ăn đi, hãy ăn đi.’

 

714. Bởi vì con bò đã chết không thể nào sống lại nhờ vào cơm ăn nước uống. Và con nói lảm nhảm một cách vô ích như là kẻ điên khùng.”

 

715. “Đầu, các chân trước sau, và đuôi tồn tại y như thế, hai lỗ tai tồn tại y như thế, con nghĩ rằng con bò có thể sống lại được.

 

716. Cái đầu hay các tay chân của ông nội không còn được nhìn thấy, trong khi khóc lóc ở tháp thờ bằng đất sét, có lẽ cha mới là điên khùng?”

 

717. “Quả thật, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, con có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

 

718. Khi ta bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người cha của ta, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của ta.

 

719. Ta đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe con, ta không sầu muộn, không khóc lóc.

 

720. Những vị có trí tuệ hành động như vậy, họ là những người có lòng bi mẫn, họ giúp cho vượt qua nỗi sầu muộn, giống như Sujāta đã giúp cho người cha.”

 

2. Bổn Sanh Thanh Niên Sujāta.

 

721. “Này Brahmadatta, điều này không thể là mãi mãi,

sự an toàn, sự dễ dàng về vật thực, và sự thoải mái ở cơ thể,

khi đã hết thời kỳ tốt đẹp, chớ trở nên hốt hoảng,

tựa như chiếc bè bị vỡ ở giữa biển khơi.

 

722. Người ta làm những điều gì thì nhìn thấy những điều ấy ở bản thân,

người làm thiện nhìn thấy điều thiện, và người làm ác nhìn thấy điều ác,

gieo hạt giống như thế nào thì mang lại kết quả như thế ấy.”

 

723. “Điều này là lời nói của thầy dạy học, thầy Pārāsariya đã nói điều ấy: ‘Con chớ làm việc ác, sau này con sẽ hối hận về việc ác đã làm ấy.’

 

724. Này Piṅgiya, chính là cây này, nó có cành cây tỏa rộng,

ở nơi này ta đã giết chết một ngàn vị Sát-đế-lỵ,

ở nơi này đã được trang hoàng, đã được bôi tinh dầu trầm hương,

chính nỗi khổ đau ấy đã quay trở lại với ta.

 

725. Nàng có làn da màu vàng, có thân thể được bôi trầm hương,

tựa như nhánh non của cây sobhañjana đã được vươn lên,

ta sẽ qua đời không được nhìn thấy nàng Ubbarī,

điều ấy sẽ làm cho ta đau khổ hơn là cái chết.”

 

3. Bổn Sanh Cành Cây Tỏa Rộng.

 

726. “Giống như con rắn từ bỏ lớp vỏ già cỗi, phần thân thể của mình, rồi ra đi, tương tự như thế ấy khi thân xác không còn lợi ích, khi là người đã ra đi, đã từ trần.

 

727. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”

 

728. “Không được gọi, từ nơi kia nó đã đi đến; chưa được phép, từ nơi này nó đã ra đi. Nó đã đi đến như thế nào thì nó đã ra đi như thế ấy, trong trường hợp ấy sự than vãn có lợi ích gì?

 

729. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”

 

730. “Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên tiều tụy; trong trường hợp ấy liệu có được kết quả gì cho tôi? (Việc ấy) còn có thể làm tăng thêm sự ưu sầu cho quyến thuộc bạn bè thân hữu của chúng tôi.

 

731. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”

 

732. “Cũng giống như đứa bé trai khóc lóc đòi mặt trăng đang di chuyển, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.

 

733. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”

 

734. “Này người Bà-la-môn, cũng giống như lọ nước đã bị vỡ, không thể hàn gắn lại, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.

 

735. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”

 

4. Bổn Sanh Con Rắn.

 

736. “Những người khác sầu muộn, khóc lóc, những người khác có khuôn mặt đẫm nước mắt. Còn ông có vẻ mặt trầm tĩnh, này Ghata, tại sao ông không sầu muộn?”

 

737. “Sầu muộn không đem lại việc đã qua, không mang đến hạnh phúc ở tương lai. Vì thế, này Dhaṃka, ta không sầu muộn; sầu muộn không phải là người bạn.

 

738. Trong khi sầu muộn thì trở nên vàng vọt, ốm o, đối với người này thức ăn không được ưa thích. Các kẻ thù trở nên mừng rỡ, là điều không được ưa thích đối với người bị mũi tên (sầu muộn) xuyên thủng.

 

739. (Sầu muộn) sẽ không xảy đến cho ta dầu ta ở làng hoặc ở rừng, dầu ta ở đất trũng hoặc ở đất bằng, điều căn bản đã được ta nhận thức như vậy.

 

740. Bản thân người nào, chỉ một mình, là không đủ khả năng để đem lại mọi hỷ lạc của thiền, thì toàn bộ trái đất cũng sẽ không mang đến hạnh phúc cho người ấy.”

 

5. Bổn Sanh Vua Ghata.

 

741. “Một mình con lần lượt bê từng tảng đá bỏ vào hang núi ở trong rừng, với dáng vẻ vội vã lặp đi lặp lại, này Kāraṇḍiya, ở đây có lợi ích gì cho con?”

 

742. “Chính con sẽ làm cho trái đất bốn bề giáp với biển cả này bằng phẳng thậm chí giống như bàn tay sau khi đã san bằng các đồi và các ngọn núi, vì thế, con ném đá vào hang động.”

 

743. “Một người sử dụng bàn tay không đủ khả năng để làm công việc san bằng trái đất này. Này Kāraṇḍiya, ta nghĩ rằng trong lúc cố gắng lấp đầy chỉ một hang động này, con sẽ từ bỏ mạng sống.”

 

744. “Nếu một người không có thể làm công việc san bằng quả địa cầu này, thưa Bà-la-môn, tương tự y như vậy, với những người này là những người có quan điểm khác biệt, thầy sẽ không hướng dẫn được họ.”

 

745. “Thưa ngài, ngài đã nói ý nghĩa cho ta bằng hình thức tóm tắt. Này Kāraṇḍiya, điều ấy là như vậy. Giống như trái đất này bằng phẳng là không thể được, những con người với con người là tương tự như thế.”

 

6. Bổn Sanh Thanh Niên Kāraṇḍiya.

 

746. “Thưa ông voi, tôi xin đảnh lễ ngài, vị có sáu mươi tuổi thọ,

ở trong rừng, chúa bầy, có danh vọng.

Tôi chắp hai cánh lại làm lễ ngài.

Xin ngài chớ hại chết những chim con yếu ớt của tôi.”

 

747. “Thưa ông voi, tôi xin đảnh lễ ngài, vị độc hành,

ở trong rừng, đi kiếm ăn ở vùng núi đồi.

Tôi chắp hai cánh lại làm lễ ngài.

Xin ngài chớ hại chết những chim con yếu ớt của tôi.”

 

748. “Ta sẽ giết hại những chim cút con của ngươi.

Ngươi là loài yếu ớt, ngươi sẽ làm gì ta?

Đối với một trăm ngàn chim cút như thế ấy,

ta có thể dẫm nát với bàn chân trái.”

 

749. “Không hẳn ở mọi nơi đều có việc phải làm với sức mạnh,

chính sức mạnh đem lại sự chết chóc cho kẻ ngu.

Này voi chúa, ta sẽ làm điều bất lợi đối với ngươi,

kẻ đã giết hại những chim con yếu ớt của ta.”

 

750. “Hãy nhìn xem con quạ, con chim cút, con ếch, và con nhặng xanh. Những con vật này đã giết chết con voi. Hãy nhìn xem người có thù hận đưa đến sự thù hận, vì thế không nên tạo ra sự thù hận với kẻ không yêu mến và với bất cứ người nào.”

 

7. Bổn Sanh Chim Cút.

 

751. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt hai cánh tay của thiếp.”

 

752. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt hai bàn chân của thiếp.”

 

753. “Chính Thiếp là nữ tiện nhân, là người phá hoại sự thăng tiến của đức vua Mahāpatāpa. Xin hãy thả tự do cho đứa bé Dhammapāla này. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy ra lệnh chặt cái đầu của thiếp.”

 

754. “Chẳng lẽ vị vua này không có các bạn bè, các quan cố vấn, và các thân hữu? Và họ không nói với đức vua rằng: ‘Xin bệ hạ chớ giết chết đứa con trai chính thống của mình.’

 

755. Chẳng lẽ vị vua này không có các bạn bè, các bà con, và các thân hữu? Và họ không nói với đức vua rằng: ‘Xin bệ hạ chớ giết chết đứa con trai ruột của mình.’

 

756. Hai cánh tay được bôi tinh dầu trầm hương của Dhammapāla, người thừa kế lãnh thổ, bị chặt đứt, tâu bệ hạ, hơi thở của thiếp bị tắc nghẹn.”

 

8. Tiểu Bổn Sanh Dhammapāla.

 

757. “Hỡi nai lớn, chàng hãy cố gắng. Hỡi chân vàng, chàng hãy cố gắng. Chàng hãy giựt đứt lưới bẫy với đai da. Một mình, thiếp sẽ không vui thích ở khu rừng.”

 

758. “Ta cố gắng nhưng không thoát được. Ta tống mạnh vào mặt đất. Lưới bẫy với đai da cứng rắn cứa đứt bàn chân của ta.”

 

759. “Này người thợ săn, ông hãy trải rộng các lá cây, rồi hãy rút gươm ra. Ông hãy giết chết tôi trước, rồi giết chết con nai lớn sau.”

 

760. “Ta chưa từng được nghe hay được thấy con nai cái nói tiếng người. Này nai hiền, cầu cho ngươi và luôn cả con nai lớn ấy được an lành..”

 

761. “Này người thợ săn, mong rằng ông cùng với tất cả thân quyến được vui mừng như vầy, giống như tôi hôm nay được vui mừng, sau khi nhìn thấy con nai lớn được cứu thoát.”

 

9. Bổn Sanh Con Nai Vàng.

 

762. “Mùi hương của các hoa timira thoảng đến, và vùng biển nhỏ có âm thanh vang dội. Nàng Susandhi ở xa nơi này lắm, sự mong muốn của đức vua Tamba thúc giục tôi.”

 

763. “Làm thế nào ngươi đã vượt qua biển cả, làm thế nào ngươi đã nhìn thấy hòn đảo Seruma? Này Sagga, làm thế nào đã có sự gặp gỡ giữa nàng và ngươi được?”

 

764. “Chiếc thuyền của các thương buôn tầm cầu tài sản khởi hành từ Bharukaccha đã bị vỡ tan bởi các con hải quái, tôi đã trôi nổi nhờ vào tấm ván gỗ.

 

765. Công nương ấy, luôn có mùi thơm trầm hương, đã nâng tôi dậy bằng cơ thể mịn màng, mềm mại, tựa như người mẹ bồng ẵm đứa con trai ruột.

 

766. Nàng ấy đã làm tôi thỏa mãn với cơm, nước, y phục, và chỗ nằm, và đích thân nàng cũng đã chăm sóc tôi. Tâu đức vua Tam ba, ngài hãy nhận biết như vậy.”

 

10. Bổn Sanh Hoàng Hậu Susandhi.

 

Phẩm Bông Tai Ngọc Ma-ni là thứ nhất.

 

*****

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

Giờ chuyện bị tước đoạt, người có cỏ xanh tươi,

rồi chiếc bè bị vỡ, giống như con rắn, vua Ghata,

ở hang động, thưa ông voi, người phá hoại sự thăng tiến,

con nai, với chuyện Sagga cao quý, là mười.

 

--ooOoo--

 

2. PHẨM MÀU DA VÀ DÁNG VÓC

 

767. “Nghe nói sư tử Sudāṭha nói rằng: ‘Cọp Subāhu không hơn ta về màu da và dáng vóc, về dòng dõi, về sức mạnh, và về sự dũng cảm,’ có đúng không?”

 

768. “Nghe nói cọp Subāhu nói rằng: ‘Sư tử Sudāṭha không hơn ta về màu da và dáng vóc, về dòng dõi, về sức mạnh, và về sự dũng cảm,’ có đúng không?

 

769. Này bạn Subāhu, trong khi tôi sống như vậy nếu bạn muốn hại tôi, thì từ nay, tôi sẽ không thích thú việc cộng trú với bạn nữa.

 

770. Kẻ nào tin các lời nói của những người khác là sự thật, thì có thể bị sứt mẻ tình bạn một cách mau chóng và tạo ra sự thù hận với nhiều người.

 

771. Kẻ nào luôn cảnh giác, ngờ vực sự chia rẽ, có sự soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Người nào không bị chia cắt bởi những kẻ khác, và ở người nào (có thể) trông cậy được (không có sự nghi ngờ, không có sự sợ hãi), tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (mẹ), người ấy quả thật là bạn.”

 

1. Bổn Sanh Màu Da và Dáng Vóc.

 

772. “Thần đã có hoài nghi rằng: ‘Giới hạnh là tốt hơn hay kiến thức là tốt hơn.’ Hoài nghi của thần không còn nữa: ‘Giới hạnh là tốt hơn kiến thức.’

 

773. Dòng dõi và sắc đẹp là vô ích, nghe nói chỉ có giới hạnh là tối thượng. Đối với người không thành tựu giới hạnh, lợi ích do kiến thức không tồn tại.

 

774. Vị Sát-đế-lỵ duy trì phi pháp và thương nhân nương tựa phi pháp, những kẻ ấy tái sanh vào khổ cảnh sau khi lìa bỏ cả hai thế giới (người và Trời).

 

775. Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, và các người hốt rác, sau khi thực hành đức hạnh ở nơi này, sẽ được bình đẳng ở cõi Trời.

 

776. Các kiến thức không đưa đến tương lai, dòng dõi cũng không, các thân quyến cũng không, và giới hạnh hoàn toàn trong sạch của bản thân là nguồn đem lại hạnh phúc ở tương lai.”

 

2. Bổn Sanh Suy Xét Về Giới.

 

777. “Người vượt qua liêm sỉ, xem thường (tình bạn),

người nói rằng: ‘Tôi là thuộc về bạn,’

người không chọn lấy các công việc tốt hơn (cho bạn),

nên biết rõ về kẻ ấy rằng: ‘Người này không phải là bạn của ta.’

 

778. Có thể làm điều gì thì nên nói điều ấy, không thể làm điều gì thì không nên nói điều ấy. Các bậc sáng suốt biết rõ người nói mà không làm.

 

779. Kẻ nào luôn cảnh giác, ngờ vực sự chia rẽ, có sự soi mói khuyết điểm, kẻ ấy không phải là bạn. Người nào không bị chia cắt bởi những kẻ khác, và ở người nào (có thể) trông cậy được (không có sự nghi ngờ, không có sự sợ hãi), tựa như đứa con trai nằm dựa vào ngực (mẹ), người ấy quả thật là bạn.”

 

780. Trong khi thực hành phận sự của con người, người cân nhắc về kết quả và sự lợi ích làm tăng trưởng (tình bạn thông qua) việc tạo ra sự vui thích, sự nâng đỡ, sự đem lại lời khen tặng, sự thoải mái.

 

781. Sau khi đã uống hương vị của sự ẩn cư và hương vị của sự an tịnh, người uống hương vị hoan hỷ của Giáo Pháp trở nên không còn buồn bực, không còn ác xấu.”

 

3. Bổn Sanh Sự Liêm Sỉ.

 

782. “Người nào, trong khi có ngọn đèn, trong khi đi tìm kiếm lửa đã nhìn thấy con đom đóm lúc ban đêm và đã nghĩ là ngọn lửa?

 

783. Kẻ ấy, trong khi nghiền nát bụi phân bò và các cỏ khô ở con đom đóm (để nhóm lửa), do hiểu biết sai lệch, đã không thể làm bùng lên ngọn lửa.

 

784. Cũng như vậy, bằng cách thức sai trái, kẻ ngu không đạt được sự lợi ích, trong khi vắt sữa bò cái từ sừng bò, là nơi không tìm thấy sữa.

 

785. Các chàng trai trẻ thu thập điều lợi ích theo nhiều cách thức, nhờ vào sự quở trách của những kẻ thù và nhờ vào sự nâng đỡ của các thân hữu.

 

786. Nhờ việc thu phục các tướng lãnh của quân đội, và nhờ vào kế hoạch của các cận thần, các vị chúa tể trái đất cư ngụ ở trái đất, nơi cất giữ nhiều của cải.”

 

4. Bổn Sanh Con Đom Đóm.

 

787. “Này anh bạn có khuôn mặt đẹp, ta là kẻ đánh bạc, bị thua vì những con súc sắc ở sòng bạc. Bạn hãy ném xuống những trái xoài chín, chúng ta sẽ thọ hưởng sự nỗ lực của bạn.”

 

788. “Này ông bạn, quả thật ông ca ngợi không đúng về ta bằng điều dối trá; ông đã nghe hoặc đã thấy con khỉ nào được gọi là có khuôn mặt đẹp?

 

789. Này người bắt rắn, hôm nay vẫn còn trong trí của ta về việc ông đối xử với ta, sau khi đi vào tiệm bán ngũ cốc, ông, bị say rượu, đã đánh đập ta lúc ta đang bị đói khát.

 

790. Trong khi ta nhớ lại việc nằm dài khổ sở, thậm chí ông có cho ta làm vua, ta sẽ không bao giờ ban thưởng cho ngươi dầu được cầu xin, bởi vì ta đã bị kinh hoàng vì sợ hãi như thế ấy.

 

791. Và nếu biết người nào đã được sanh ra trong gia đình danh giá, được nuôi dưỡng đầy đủ lúc ở bào thai, không bỏn xẻn, bậc sáng trí có thể kết giao bạn bè và thân hữu với người ấy.”

 

5. Bổn Sanh Người Bắt Rắn.

 

792. “Chất độc có màu sắc của mật ong, có vị của mật ong, có hương của mật ong. Dạ-xoa Gumbiya, với sự tìm kiếm thực phẩm, đã đặt để chất độc ở trong rừng.

 

793. Những kẻ nào nghĩ rằng: ‘Mật ong’ rồi đã ăn vào chất độc ấy. Đối với những kẻ ấy, chất ấy có vị cay. Họ đã đi đến cái chết vì chất độc ấy.

 

794. Và quả thật những người nào, sau khi xem xét, đã lánh xa chất độc ấy, những người ấy được an lạc, được thoát khỏi các cơn bệnh đang thiêu đốt.

 

795. Tương tự y như thế ở loài người, chất độc là các dục đã được phô bày, và vật chất này là sự trói buộc, quyền lực của thần chết có sự trú ngụ ở thân xác này.

 

796. Tương tự y như thế, những người nào luôn luôn lánh xa các dục, các bệnh tật, các sự trói buộc này, những người ấy vượt qua sự quyến luyến ở thế gian.”

 

6. Bổn Sanh Dạ-xoa Gumbiya.

 

797. “Kẻ này đã bảo đứa trẻ nắm lấy con rắn độc màu đen bảo là ‘con chim sáo con,’ gã này đã bị con rắn ấy cắn, kẻ chỉ dạy điều ác đã bị giết chết.

 

798. Kẻ nào muốn giết chết người không đánh đập và không phải là kẻ sát nhân, kẻ ấy bị giết chết nằm dài như vậy, giống như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).

 

799. Kẻ nào muốn giết chết người không đánh đập và không giết hại, kẻ ấy bị giết chết nằm dài như vậy, giống như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).

 

800. Giống như người tung ra nắm bụi đất ngược chiều gió, bụi bặm ấy hãm hại chính kẻ ấy, tương tự như người đàn ông bị giết chết (bởi con rắn).

 

801. Kẻ nào làm điều xấu xa đến người không làm điều xấu xa,

đến người trong sạch, không có ô nhiễm,

điều ác xấu sẽ nung nấu chính kẻ ngu ấy,

tựa như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.”

 

7. Bổn Sanh Con chim Sáo.

 

802. “Bị rơi vào trong tay của kẻ thù, bị trói buộc bởi cật của cây tre, các ngươi vẫn có sắc mặt điềm tĩnh, tại sao các ngươi không sầu muộn?”

 

803. “Lợi ích không thể nào đạt được do sầu muộn do than vãn, thậm chí chỉ là chút ít. Sau khi biết kẻ ấy đang sầu muộn, bị khổ sở, các địch thủ trở nên hoan hỷ.

 

804. Và thật vậy, bởi vỉ người sáng suốt trong những lúc rủi ro,

không run rẩy, biết cách phán quyết tình huống.

Các địch thủ của người này bị đau khổ,

sau khi nhìn thấy khuôn mặt như cũ, không thay đổi.

 

805. Do việc lẩm bẩm (cầu nguyện), do chú thuật, do việc khéo nói,

do việc hối lộ, hoặc do dòng dõi gia tộc,

ở nơi nào có thể đạt được lợi ích theo cách này hay cách khác,

thì ở nơi ấy nên nỗ lực theo cách thức như thế ấy.

 

806. Và khi có thể biết được rằng lợi ích ấy là không thể đạt được bởi chính ta hoặc bởi người khác, không nên sầu muộn và nên chịu đựng (nghĩ rằng): ‘Nghiệp là chắc chắc, ta làm gì giờ đây.’”

 

8. Bổn Sanh Cật Của Cây Tre.

 

807. “Tôi đã làm điều gì đối với chư Thiên, điều ác gì đã được tạo ra bởi tôi khiến bánh xe giáng xuống đầu và quay tròn ở trên đỉnh đầu (của tôi)?”

 

808. “Sau khi đã vượt qua lâu đài pha-lê, lâu đài bạc, lâu đài ngọc ma-ni, và lâu đài vàng, vì mục đích gì mà ngươi đã đi đến nơi này?”

 

809. “Tôi nghĩ rằng các của cải nơi kia sẽ nhiều hơn nơi này, như vậy do ý nghĩ này, ngài hãy nhìn xem tôi đã đi đến sự bất hạnh.”

 

810. “Với bốn, gã đã đi đến tám, và với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai, trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn.

 

811. Các ước muốn quá to lớn là khó được làm cho đầy đủ, chúng có khuynh hướng lan tỏa rộng ra. Những người nào thèm muốn điều ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).”

 

9. Bổn Sanh Mittavindaka.

 

812. “Con thiên nga đã nói với vị thần ở cây palāsa rằng: ‘Này bạn, cây đa sanh ra và mọc rễ ở nơi chạng ba của bạn. Nó sẽ cắt đứt mạng sống của bạn.”

 

813. “Hãy để cho cây đa lớn lên. Ta sẽ là chỗ nương tựa cho nó giống như người cha và người mẹ, nó sẽ là như vậy đối với ta.”

 

814. “Việc bạn để cho cây con, mầm nguy hiểm, lớn lên ở chạng ba, chúng tôi đã nói điều ấy và chúng tôi ra đi; việc lớn lên của nó không làm chúng tôi vui thích.”

 

815. “Giờ đây, nó quả thật làm tôi sợ hãi. Sau khi hiểu rõ lời chỉ dạy vĩ đại như ngọn núi Neru của chim thiên nga, nỗi sợ hãi to lớn đã đến với tôi.”

 

816. “Cái gì hủy hoại nơi nương tựa trong khi lớn lên,

sự phát triển của cái ấy không được các bậc thiện nhân khen ngợi.

Trong khi nghi ngờ sự phá hoại của nó,

bậc sáng trí đã giải quyết bằng sự tiêu diệt tận gốc rễ.”

 

10. Bổn Sanh Cây Palāsa.

 

Phẩm Màu Da và Dáng Vóc là thứ nhì.

 

*****

 

3. PHẨM MỘT NỬA

 

817. “Tâu bệ hạ, khi bệ hạ đã trở thành như vầy, đã rơi vào quyền lực của thần, có cách thức nào đó có thể giúp cho bệ hạ thoát khỏi khổ đau chăng?”

 

818. “Này khanh, khi trẫm đã trở thành như vầy, đã rơi vào quyền lực của khanh, chẳng có cách thức nào có thể giúp cho trẫm thoát khỏi khổ đau cả.”

 

819. “Tâu bệ hạ, không có cái gì khác ngoài tánh nết tốt đẹp, tâu bệ hạ, không có cái gì khác ngoài lời nói tốt đẹp có thể hộ trì (bệ hạ) vào thời điểm từ trần, tài sản khác là tương tự y như vậy.

 

820. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào ấp ủ điều ấy, sự thù hận của những người ấy không được lặng yên.

 

821. Nó đã sỉ vả tôi, nó đã đánh đập tôi, nó đã chế ngự tôi, nó đã tước đoạt của tôi. Những người nào không ấp ủ điều ấy, sự thù hận ở những người ấy được lặng yên.

 

822. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.”

 

1. Bổn Sanh Vua Dīghiti Xứ Kosala.

 

823. “Ông là người đã rời khỏi gia đình, sống không nhà, là người tốt, là vị Sa- môn, đối với ông việc ấy là không tốt, là việc ông sầu muộn về người đã từ trần.

 

824. “Thật vậy, thưa Thiên chủ Sakka, do việc sống chung với con người hay con thú, sự yêu thương sanh khởi trong tim; không thể nào không sầu muộn về người (hay thú) ấy.”

 

825. “Những người nào khóc lóc người đã chết và người sẽ chết, những người ấy sẽ mãi khóc lóc và than vãn. Này ẩn sĩ, vì thế, ông chớ khóc lóc. Các hiền nhân đã nói việc khóc lóc là vô ích.

 

826. Thật vậy, này Bà-la-môn, nếu người đã chết, người đã qua đời có thể sống lại nhờ việc khóc lóc, thì tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và khóc lóc cho các thân quyến của người này người khác.”

 

827. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ngài có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.

 

828. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên đã cắm vào trái tim của tôi.

 

829. Tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Thưa Thiên chủ, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”

 

2. Bổn Sanh Nai Con.

 

830. “‘Nó đã đi đâu? Nó đã đi nơi nào?’ người ta lải nhải như thế. Chỉ một mình trẫm biết, con chuột đã bị chết ở trong giếng nước.”

 

831. “Giống như việc ngươi đi tới đi lui chỗ này và chỗ khác tựa như con lừa, sau khi đã giết chết con chuột ở trong giếng nước, có phải ngươi muốn nhai lúa mạch?”

 

832. “Này kẻ ngu muội, ngươi là con nít, còn non trẻ, ở giai đoạn đầu của cuộc đời. Sau khi cầm lấy vật có cán dài này, ta sẽ không cho ngươi toàn mạng sống.”

 

833. “Ta chưa ngự đến cung điện ở cõi trời, hoặc chưa thoát khỏi sự liên hệ với thân thể của ta hoặc với đứa con trai, tuy nhiên ta bị chính đứa con trai cầu mong cho chết và ta được thoát chết nhờ những bài thơ.

 

834. Nên học tập mọi loại kiến thức thấp thỏi, cao siêu, và trung bình.

Nên hiểu biết ý nghĩa của tất cả và không nên gắn bó với tất cả.

Vào thời điểm như thế ấy, kiến thức là có sự đem lại lợi ích.”

 

3. Bổn Sanh Con Chuột.

 

835. “Này Bà-la-môn, sau khi cầm lấy tất cả hành lý, chàng đã vượt đến bờ kia. Chàng hãy mau quay trở lại, và cấp tốc đưa luôn cả thiếp vượt khỏi nơi này liền bây giờ.”

 

836. “Nàng ơi, nàng đã chọn ta là người không thân thiết thay thế người chồng thân thiết lâu nay, là người không chung thủy thay thế người chồng chung thủy. Nàng hỡi, nàng cũng có thể chọn người khác thay thế ta. Từ nơi này, ta sẽ đi xa hơn nữa.”

 

837. “Cô nàng nào cười lớn tiếng ở bụi cây bả đậu? Ở đây, không có nhảy múa, hoặc ca hát, hoặc vỗ tay theo nhịp. Này cô nàng có eo thon, vào thời điểm của sự khóc lóc, này người đẹp, vì sao nàng lại cười giỡn?”

 

838. “Này chó rừng ngu si, ngu muội, này sơn cẩu, ngươi là kẻ thiểu trí. Ngươi đã mất con cá và miếng thịt. Ngươi bị bứt rứt như là kẻ khốn khổ.”

 

839. “Lỗi của những người khác thì dễ nhìn thấy, trái lại của bản thân thì khó nhìn thấy. Nàng đã bị mất người chồng và người tình, chính nàng còn bị bứt rứt hơn ta nữa.”

 

840. “Này chúa tể của loài thú, điều ấy là như vậy, này sơn cẩu, giống như ngươi nói. Chắc chắn ta đây, sau khi đi khỏi nơi này, sẽ là người vợ phục tùng chồng.”

 

841. “Kẻ nào có thể lấy trộm cái đĩa bằng đất sét, kẻ ấy có thể lấy trộm cái đĩa bằng đồng. Nàng đã dám làm việc xấu xa, thì nàng sẽ còn làm như vậy nữa.”

 

4. Bổn Sanh Tiểu Xạ Thủ.

 

842. “Bây giờ, ta quả thật an vui, không bệnh tật,

không kẻ ngăn chặn, chim bồ câu đã đi ra ngoài.

Giờ đây, ta sẽ làm điều vui thích ở trong lòng,

đúng như thế, món thịt và rau tươi làm cho ta khỏe mạnh.”

 

843. “Con hạc nâu có chỏm lông, kẻ trộm cướp, tổ tiên của cơn dông, này là ai? Này hạc nâu, hãy đi đến nơi khác, con quạ bạn của tôi là dữ tợn.”

 

844. “Thôi đi với việc cười giỡn của bạn sau khi nhìn thấy tôi ở tình trạng đã bị người con trai của đầu bếp vặt lông và bôi trét bột ở thân như thế này!”

 

845. “Bạn đã được tắm rửa kỹ càng, đã được thoa dầu kỹ lưỡng, đã được thỏa mãn với cơm ăn và nước uống. Và cổ của bạn có hạt ngọc bích, phải chăng bạn đã đi đến Bārāṇasī?”

 

846. “Chớ để bạn hay thù của bạn đi đến Bārāṇasī. Tại nơi ấy, chúng đã nhổ các lông của tôi và buộc mảnh sành vào ở cổ.”

 

847. “Này bạn, bạn lại phạm vào điều ác, bởi vì bản chất của bạn là như thế ấy, bởi vì của cải thuộc con người là không dễ gì thọ dụng bởi loài chim.”

 

5. Bổn Sanh Chim Bồ Câu.

 

Phẩm Một Nửa là thứ ba.

 

*****

 

TÓM LƯỢC (HAI) PHẨM NÀY

 

Giờ là màu da, có giới hạnh, sự liêm sỉ, người đạt được (lợi ích),

khuôn mặt đẹp, vật chất, con chim sáo, chuyện kẻ thù,

rồi bánh xe, cây palāsa, với đức vua, đối với người tốt,

lúa mạch, loài ngu si, và chim bồ câu là thứ mười lăm.

 

Nhóm Năm Kệ Ngôn được chấm dứt.

 

*****

 

TÓM LƯỢC CÁC PHẨM Ở NHÓM NÀY

 

Bị tước đoạt, và màu da, không bằng phẩm ở phía trên,

đã khéo được thuyết giảng, hai mươi lăm chuyện bổn sanh,

về sự thực hành Phạm hạnh tối thượng của bậc Đại Ẩn Sĩ,

Ngài đã nói những câu kệ ngôn có ý nghĩa, có văn tự khéo léo.

 

--ooOoo--


[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09][10][11][12][13][14]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]