TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 32
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập I
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH
1933. “Thưa ông Kosiya, các con chim két ăn ruộng lúa đã được chín tới. Thưa vị Bà-la-môn, tôi báo cho ngài biết. Tôi không có thể ngăn cản chúng.
1934. Và ở nơi đó có một con chim. Nó có vẻ đẹp toàn diện trong số những con chim ấy. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, nó còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.”
1935. “Hãy giăng các bẫy lông đuôi ngựa để cho con chim ấy có thể bị vướng vào. Và ngươi hãy bắt sống nó, rồi mang đến chỗ của ta.”
1936. “Các con chim này sau khi ăn uống rồi bay đi. Một mình ta bị cột vào bẫy. Tội ác nào đã được tạo ra bởi ta?”
1937. “Này chim két, ta nghĩ rằng những con chim khác có bao tử bình thường, còn ngươi có bao tử vượt trội. Sau khi ăn lúa sāli theo như ý thích, ngươi còn dùng mỏ gắp lấy lúa rồi ra đi.
1938. Có phải ngươi làm cho đầy kho thóc ở nơi kia? Này chim két, phải chăng ngươi có thù hận với ta? Này chim, được ta hỏi, ngươi hãy trả lời, ngươi cất giấu lúa sāli ở đâu?”
1939. “Tôi không có thù hận với ông, kho thóc của tôi không có. Tôi trả nợ và tôi cho vay nợ. Tôi đi đến chóp đỉnh của rừng cây bông vải, tôi cũng có cất giữ của chôn giấu tại nơi ấy. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”
1940. “Việc cho vay nợ của ngươi là như thế nào? Và việc trả nợ là như thế nào? Ngươi hãy giải thích việc cất giữ của chôn giấu, rồi ngươi sẽ được thoát khỏi cái bẫy.”
1941. “Này ông Kosiya, những chim con của tôi còn nhỏ, cánh còn chưa mọc. Được tôi nuôi dưỡng, chúng sẽ phụng dưỡng tôi; bằng cách đó, tôi cho chúng vay nợ.
1942. Mẹ và cha của tôi đã lớn tuổi, đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ. Sau khi mang lại lúa cho họ bằng cái mỏ, tôi có thể trả nợ đã vay trước đây.
1943. Ở nơi ấy, còn có những con chim khác có cặp cánh bị liệt, vô cùng yếu ớt. Là người mong mỏi phước báu, tôi cho lúa đến chúng; các bậc sáng suốt đã gọi việc ấy là của chôn giấu.
1944. Việc cho vay nợ của tôi là như thế ấy. Việc trả nợ của tôi là như thế ấy. Việc cất giữ của chôn giấu đã được giải thích. Này ông Kosiya, ông hãy biết như vậy.”
1945. “Con chim này quả thật là hiền thiện, là loài lưỡng sanh có đạo đức tuyệt vời! Đạo đức này ở một số người không tìm thấy.
1946. Ngươi hãy ăn lúa sāli theo như ý thích cùng với tất cả thân quyến. Này chim két, chúng ta hãy gặp lại nhau. Sự xuất hiện của ngươi được ta yêu thích.”
1947. “Này ông Kosiya, chúng tôi đã được ăn và đã được uống ở chỗ trú ngụ của ông, và chúng tôi có sự vui thích ở bên ông. Ông hãy ban phát vật thí nơi những người đã buông bỏ gậy gộc, và ông hãy phụng dưỡng mẹ cha già yếu.”
1948. “Quả thật, Nữ thần May Mắn đã đến với ta ngày hôm nay! Ta đây đã gặp được con chim cao quý của loài chim. Sau khi lắng nghe những lời khéo nói của chim két, ta sẽ làm các việc phước thiện không phải là ít.”
1949. “Ông Kosiya ấy có ý hài lòng, phấn chấn, đã cho chuẩn bị cơm ăn và nước uống, rồi với tâm tịnh tính, đã làm thỏa mãn các vị Sa- môn và Bà-la- môn với cơm ăn và nước uống.”
1. Bổn sanh Ruộng Lúa Sāli. [484]
1950. “Hỡi nàng Candā, ta nghĩ rằng mạng sống này bị dẫn đi. Ta bị xây xẩm bởi sự sôi sục của máu. Hỡi nàng Candā, ta đang lìa bỏ sự sống, các hơi thở của ta bị ngưng lại.
1951. Mạng sống của ta chìm xuống, ta có sự đau đớn. Trái tim ta bị đốt nóng, ta mệt nhọc vô cùng. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.
1952. Ta bị héo tàn, tựa như cọng cỏ (bị phơi ở tảng đá bị đốt nóng), tựa như khu rừng (bị chặt cây tận gốc). Ta bị khô cạn, tựa như dòng sông không không còn đầy nước. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.
1953. Những giọt nước mắt này của ta tuôn chảy tựa như nước mưa rơi xuống chảy thành dòng ở chân núi. Nỗi khổ ấy của ta bởi vì nàng đang sầu muộn, không phải do các nỗi sầu muộn khác.”
1954. “Thưa hoàng tử, ngài quả là độc ác! Ngài đã bắn trúng người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ. Chồng thiếp đây đã bị trúng tên, nằm dài trên mặt đất, dưới gốc cây trong rừng.
1955. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người mẹ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.
1956. Thưa hoàng tử, nỗi sầu muộn ở trái tim của thiếp trong khi thiếp nhìn thấy người chồng nhân điểu, hãy để cho người vợ của ngài nhận lấy nỗi sầu muộn ở trái tim này của thiếp.
1957. Thưa hoàng tử, chớ để cho người mẹ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.
1958. Thưa hoàng tử, chớ để cho người vợ của ngài nhìn thấy những người con và người chồng của bà là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”
1959. “Này nàng Candā, nàng chớ khóc lóc. Hỡi nàng có con mắt như bông hoa vanatimira, nàng chớ sầu muộn. Nàng sẽ trở thành người vợ của ta, nàng sẽ là người phụ nữ được tôn vinh ở hoàng cung.”
1960. “Thưa hoàng tử, chắc chắn rằng thiếp sẽ chết, chứ thiếp sẽ không bao giờ thuộc về ngài, là kẻ đã giết hại loài nhân điểu vô tội bởi vì lòng ham muốn có được thiếp.”
1961. “Này cô nàng nhút nhát, này cô nàng ước muốn được sống, này nàng nhân điểu, nàng hãy đi về núi Hi-mã-lạp. Này cô nàng có thức ăn là các lá cây tālissa và tagara, các con thú ở trong rừng sẽ vui đùa với nàng.”
1962. “Những ngọn núi ấy, các động núi ấy, và các hang núi ấy, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1963. Những tấm thảm lá đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1964. Những tấm thảm hoa đáng yêu ấy, nơi được lai vãng bởi các loài thú dữ, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1965. Những dòng sông quý báu từ ngọn núi chảy tràn có nước trong vắt, những con suối được rải rắc với những bông hoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1966. Những đỉnh núi ngọc lục của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1967. Những đỉnh núi vàng ròng của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1968. Những đỉnh núi đồng đỏ của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1969. Những đỉnh núi cao vút của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1970. Những đỉnh núi bạc trắng ngần của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1971. Những đỉnh núi đủ màu sắc của dãy Hi-mã-lạp sơn đáng ngắm nhìn, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1972. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể Dạ-xoa, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?
1973. Ở ngọn núi Gandhamādana được bao phủ bởi các loại thảo dược, được thân cận bởi tập thể nhân điểu, trong khi không nhìn thấy chàng ở nơi ấy, hỡi chàng nhân điểu, thiếp sẽ phải làm thế nào?”
1974. Thưa đấng Phạm Thiên cao cả, thiếp xin đảnh lễ hai bàn chân của ngài, vị đã rưới nước bất tử lên người chồng yêu dấu của thiếp, người phụ nữ khốn khổ, để thiếp được đoàn tụ với người yêu dấu nhất.
1975. Giờ đây, hai ta hãy du ngoạn những dòng sông quý báu ở ngọn núi, những con suối được rải rắc với những bông hoa, những nơi trú ngụ của nhiều loại cây khác biệt, với những lời nói yêu thương trao đổi giữa hai người.”
2. Bổn sanh Nhân Điểu Canda. [485]
1976. “Những người nhà quê thắt những cây đuốc ở trên hòn đảo. Chúng mong muốn ăn thịt những đứa con của thiếp. Thưa chàng diều hâu, chàng hãy nói với bạn bè và thân hữu, chàng hãy báo tin cho các con chim về sự bất hạnh của quyến thuộc.”
1977. “Hỡi bạn chim, bạn là con chim hàng đầu của loài chim. Hỡi chim ưng chúa, tôi đi đến nương tựa bạn. Những người nhà quê tàn bạo mong muốn ăn thịt những đứa con của tôi. Xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”
1978. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu trong lúc tầm cầu sự an lành vào ban ngày và ban đêm. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”
1979. “Việc nào là việc cần phải làm vì lòng thương tưởng bởi người cao thượng đối với người cao thượng, việc này đã được bạn thực hiện. Bạn hãy có sự bảo vệ bảo thân, chớ để bị cháy bỏng. Chúng tôi sẽ giữ được các con lúc bạn đang còn sống.”
1980. “Trong khi làm công việc bảo vệ che chở cho chính ngươi, ngay cả những sự tiêu tan thân xác, ta cũng không sợ sệt. Bởi vì một số bạn bè làm cho những người bạn bè, họ từ bỏ mạng sống; đó là bản thể của những người tốt.”
1981. “Con chim thuộc loài noãn sanh này đã làm công việc vô cùng khó làm. Vì lợi ích, con chim ưng đã bảo vệ các con chim con trước lúc nửa đêm.”
1982. “Một số người bị lỗi lầm, thậm chí bị tử vong bởi vì việc làm của mình, cũng vẫn tương trợ vì lòng thương tưởng bạn bè. Hỡi người bạn ẩn mình ở trong nước, các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn, xin bạn hãy làm điều lợi ích giúp tôi.”
1983. “Các bậc sáng suốt kết thành bạn bè và thân hữu vì tài sản, vì thóc lúa, và còn vì bản thân nữa. Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi, bởi vì người cao thượng thực hiện việc cần phải làm đối với người cao thượng.”
1984. “Cha thương, cha hãy ngồi yên, không phải nhọc công. Con trai làm công việc lợi ích thay cha. Con sẽ thực hiện nghĩa cử ấy cho cha, trong khi bảo vệ những người con của chim diều hâu.”
1985. “Quả đúng vậy, con thương! Đó là bản thể của những người tốt! Là việc con trai nên làm công việc lợi ích thay cha. Tuy nhiên, sau khi nhìn thấy cha có thân hình vạm vỡ, chúng sẽ không quấy nhiễu những người con của chim diều hâu.”
1986. “Hỡi vị tinh tấn hạng nhất ở loài thú, khi bị áp lực bởi nỗi sợ hãi, loài vật và loài người nhờ cậy đến vị tối cao. Các con của tôi bị khổ sở, tôi đã đi đến giang sơn của bạn. Bạn là vị vua của chúng tôi, xin bạn hãy đem lại sự an lành cho tôi.”
1987. “Này chim diều hâu, ta sẽ thực hành nghĩa cử ấy đối với ngươi. Chúng ta hãy đi đến để giết chết đám thù địch ấy của ngươi. Tại làm sao mà một người có sự hiểu biết, có khả năng, trong khi biết rõ mà lại không ra sức bảo vệ cho người của mình?”
1988. “Nên kết thành bạn bè với người có tâm tốt. Và người cao thượng nên làm việc cao thượng vì những điều hạnh phúc. Tựa như người có mặc áo giáp chặn đứng các mũi tên, chúng ta được ân sủng, hãy vui sướng với các con.
1989. Nhờ vào hành động nỗ lực của bạn bè thân thuộc, của con sư tử không bỏ rơi bạn hữu, các con chim hót líu lo tiếng hót đi vào trái tim.
1990. Sau khi tìm đến bạn bè thân hữu, bậc sáng suốt ấy thụ hưởng con cái và thú vật, hay tài sản. Nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, tôi cùng các con và người chồng của tôi được toàn vẹn.
1991. Mục đích là có thể đạt được bởi người kết bạn với vua và bởi người kết bạn với dũng sĩ, bởi vì người có bạn bè đạt được những điều này. Người có sự đeo đuổi ước muốn ấy có bạn, có danh tiếng, có vị thế đã được nâng lên, và vui sướng ở thế gian này.
1992. Thưa chàng diều hâu, dầu là người nghèo khó cũng vẫn nên kết giao bạn bè. Chàng hãy nhìn xem, nhờ vào lòng thương tưởng của bạn bè, chúng ta được đoàn tụ cùng với các thân quyến.
1993. Thưa chàng diều hâu, con chim nào kết giao tình thân hữu với bậc dũng sĩ, với người có sức mạnh, con chim ấy được hạnh phúc như vậy, giống như là thiếp và chàng vậy.”
3. Bổn sanh Chim Ưng Vĩ Đại. [486]
1994. “Có y da dê thô cứng, tóc bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này lẩm nhẩm. Phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đã được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?
1995. Tâu bệ hạ, nếu người có nhiều kiến thức làm các hành động xấu xa, và không thực hành thiện pháp, người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau.”
1996. “Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý.”
1997. “Các sự hiểu biết không hẳn là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý. Bởi vì người sau khi học tập các sự hiểu biết thì đạt được danh tiếng, còn với sự thực hành, người đã được huấn luyện đạt đến sự an tịnh.”
1998. “Người mẹ, người cha, các quyến thuộc là những người cưu mang. Kẻ đã được sanh ra từ người nào thì đương nhiên thuộc về người ấy. Con là Uddālaka, là người thuộc dòng dõi gia tộc Sotthiya của ngài.”
1999. “Này con, thế nào là vị Bà-la-môn? Thế nào là người có sự toàn hảo? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”
2000. “Sau khi khước từ (thế gian) và thờ phượng thần lửa, trong khi hành lễ rưới nước, trong khi dâng hiến, vị Bà-la-môn nâng cao cây gậy tế thần. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”
2001. “Không có sự trong sạch với việc hành lễ rưới nước, vị Bà-la-môn cũng không có sự toàn hảo, không có sự nhẫn nại, cũng không có sự hiền hòa; vị ấy cũng không được hoàn toàn diệt tắt.”
2002. “Vị Bà-la-môn ấy là thế nào? Người có sự toàn hảo là thế nào? Và thế nào là sự hoàn toàn diệt tắt? Như thế nào được gọi là vị đứng vững ở thiện pháp?”
2003. “Là người không ruộng vườn, không bà con, không ích kỷ, không mong cầu, không tham lam xấu xa, đã được cạn kiệt tham ái trong các hữu. Với sự thực hành như vậy, là vị Bà-la-môn, là người có sự an ổn. Do việc ấy, người đời đã công nhận là vị đứng vững ở thiện pháp.”
2004. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, phải chăng có vị tốt hơn, có vị kém thua?”
2005. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua.”
2006. “Các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, các thương buôn, các nô bộc, các người hạ tiện, các người hốt rác, tất cả đều hiền hòa, đều đã được huấn luyện, tất cả đều được hoàn toàn diệt tắt.
2007. Trong số tất cả các vị đã có trạng thái mát mẻ, không có vị tốt hơn hay vị kém thua, vậy Bà-la-môn hạnh, tính chất dòng dõi gia tộc Sotthiya, mà ngài thực hành đều bị mất đi.”
2008. “Đền đài, cung điện trở nên bị che khuất bởi những tấm vải nhuộm nhiều màu. Bóng che không phải là của những tấm vải ấy, mà màu sắc ấy làm nhòa đi.
2009. Tương tự như vậy ở loài người, khi những người trẻ tuổi được trong sạch sau khi hiểu thông Giáo Pháp và trở thành những vị có sự hành trì tốt đẹp, người ta không hỏi về xuất thân của các vị ấy.”
4. Bổn sanh Đạo Sĩ Uddālaka. [487]
2010. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy ở đời này hãy đạt được ngựa, voi, bạc, vàng, và người vợ hợp ý; cầu cho gã hãy có nhiều con, có nhiều vợ.”
2011. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy mang tràng hoa, mặc vải Kāsi, và thoa bột trầm hương; cầu cho kẻ này hãy có nhiều con; cầu cho gã hãy thể hiện sự ham muốn tột độ ở các dục.”
2012. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người nông dân có nhiều thóc lúa, có danh tiếng; hãy là người tại gia có nhiều con cái, có tài sản, đạt được tất cả các dục; cầu cho gã hãy trú ngụ ở nhà, không nhận biết tuổi tác của bản thân.”
2013. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Sát-đế-lỵ có hành động bạo lực, là vị vua trên các vị vua, có sức mạnh, có danh tiếng; cầu cho gã trú ngụ ở trái đất bao gồm cả bốn phương.”
2014. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là vị Bà-la-môn chưa xa lìa luyến ái, chuyên chú vào thời khắc và đường đi của các vì sao; cầu cho vị chúa của vương quốc có danh tiếng hãy tôn vinh kẻ ấy.”
2015. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho tất cả thế gian hãy quý trọng kẻ có sự khắc khổ, chuyên học tập trọn vẹn đầy đủ bộ Kinh Vệ Đà; cầu cho dân chúng sau khi hiểu rõ hãy tôn vinh kẻ ấy.”
2016. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy hưởng thụ ngôi làng cao quý, thịnh vượng, có bốn sự dư thừa (về nhân lực, thóc lúa, củi, nước), bởi vì đã được ban tặng bởi vị Chúa của chư Thiên; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết lúc vẫn chưa xa lìa luyến ái.
2017. Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho kẻ ấy hãy là người trưởng làng đang vui sướng với các điệu vũ, với các lời ca ở giữa bạn bè; cầu cho gã chớ gánh chịu bất cứ sự bất hạnh nào từ phía đức vua.”
2018. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho vị vua độc nhất đã chinh phục trái đất hãy thiết lập cô nàng vào ngôi vị chánh hậu trong số một ngàn nữ nhân; cầu cho cô nàng hãy là người quý phái trong số các phụ nữ.”
2019. “Thưa vị Bà-la- môn, cô nàng nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho cô nàng ấy có thể thọ dụng thức ăn ngon ngọt một cách thản nhiên ở giữa tất cả các nữ tỳ đã tụ hội lại; cầu cho cô nàng hãy sống phô trương về lợi lộc.”
2020. “Thưa vị Bà-la- môn, kẻ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho gã hãy là vị thường trú ở ngôi tự viện lớn; cầu cho gã hãy là người làm công việc xây dựng tại thành phố Kajaṅgalā (rộng một do-tuần); cầu cho gã hãy kiến thiết cửa sổ nội trong một ngày.”
2021. “Thưa vị Bà-la- môn, con voi nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó hãy bị trói buộc bởi một trăm sợi xích ở sáu chỗ (bốn chân, cổ, và hông); cầu cho nó hãy bị dẫn đi từ khu rừng đáng yêu đến kinh thành; cầu cho nó hãy bị hành hạ bởi những cây giáo nhọn, bởi những gậy móc câu.”
2022. “Thưa vị Bà-la- môn, con khỉ nào đã lấy đi các củ sen của ngài, cầu cho nó có đeo vòng hoa bạch tiền, bị chì xuyên thủng lỗ tai, bị hành hạ bởi roi vọt; cầu cho nó hãy đi đến gần miệng rắn (ở trò biểu diễn khỉ và rắn); cầu cho nó hãy đi lang thang ở đường phố, bị cột trói cẩn thận.”
2023. “Thật vậy, kẻ nào đối với vật không bị mất mà đã nói là: ‘Bị mất,’ cầu cho kẻ ấy hãy nhận được và hưởng thụ các dục; cầu cho gã hãy chạm trán Thần Chết ở giữa ngôi nhà (vì đã không được xuất gia). Và thưa các ngài, kẻ nào trong số các vị nghi ngờ về bất cứ ai (thì cũng gánh chịu như vậy).
2024. “Chúng lang thang ở trên đời, trong khi tầm cầu vật ưa thích và vật mong muốn, là vật được yêu quý, vật làm vừa lòng đối với số đông ở tại nơi này, ở thế gian của cuộc sống. Vì sao các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục?”
2025. “Thật vậy, chúng bị hành hạ và bị trói buộc ở các dục; khổ đau và nguy hiểm được sanh ra ở các dục; các vị quân vương bị say đắm ở các dục; vì si mê, chúng làm các hành động xấu xa.
2026. Sau khi tạo ra tội ác do bản chất xấu xa, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục, vì thế, các vị ẩn sĩ không ca ngợi các dục.”
2027. “Trong khi xem xét các củ sen của vị ẩn sĩ, ta đã cầm lấy chúng ở bờ hồ và đã cất giấu ở trong đất. Các vị ẩn sĩ sống trong sạch, không xấu xa. Thưa vị thực hành Phạm hạnh, các củ sen này là của ngài.”
2028. “Chúng tôi không phải là các vũ công của ngài, hơn nữa không là những người có thể đùa giỡn. Chúng tôi không là bà con, hơn nữa không là bạn bè của ông. Thưa vị nâng đỡ kẻ khác, thưa bậc có ngàn mắt, thưa đấng Thiên Vương, liên quan đến việc gì mà ông đùa giỡn với các bậc ẩn sĩ?”
2029. “Ngài là vị thầy của ta, và là người cha của ta. Thưa vị Bà-la- môn, nơi nương tựa này là dành cho người bị phạm lỗi lầm. Thưa vị có trí tuệ uyên bác, xin ngài hãy tha thứ cho một sự sai trái. Các bậc sáng suốt không có năng lực của sự giận dữ.”
2030. “Một đêm của các vị ẩn sĩ đã được trải qua tốt đẹp! Là việc chúng ta đã gặp được đấng Thiên Chủ, chúa của các Thiên thần. Thưa các vị, xin tất cả các vị hãy hoan hỷ, bởi vì vị Bà-la- môn đã nhận lại các củ sen.”
2031. “Khi ấy, Ta cùng với Sāriputta, Moggallāna, Kassapa, Anuruddha, Puṇṇa, và Ānanda đã là bảy anh em.
2032. Khi ấy, Uppalavaṇṇā đã là cô em gái, Khujjuttarā đã là người tớ gái. Khi ấy, gia chủ Citta đã là người tôi trai, Sātāgira đã là Dạ-xoa.
2033. Khi ấy, voi Pārileyya đã là con voi, Madhuda đã là con khỉ thủ lãnh. Khi ấy, Kāḷudāyī đã là Thiên Chủ Sakka. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như vậy.”
5. Bổn sanh Các Củ Sen. [488]
2034. “Thiếp là chánh hậu của đức vua Ruci, người vợ đã được cưới về đầu tiên; đức vua Suruci đã cưới thiếp về được mười ngàn năm.
2035. Thưa vị Bà-la-môn, thiếp đây không biết rõ đức vua, người chủ quản kinh thành Mithilā, xứ Videha. Thiếp đã không khi dễ đức vua Suruci bằng thân, bằng lời, hay bằng ý, công khai hay kín đáo.
2036. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.
2037. Thưa vị Bà-la-môn, cha, mẹ, và luôn cả thầy của người chồng hợp ý, họ đã là những người hướng dẫn cho thiếp trong khi họ còn sống.
2038. Thiếp đây có sự ưa thích việc không hãm hại, có sự thực hành thiện pháp một cách tự nguyện. Thiếp đã hầu hạ cha mẹ chồng một cách nghiêm chỉnh, đêm ngày không biếng nhác.
2039. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.
2040. Thưa vị Bà-la-môn, có mười sáu ngàn vương phi. Thiếp đã không bao giờ có sự ganh tỵ hay giận dữ đối với các nàng ấy.
2041. Thiếp vui mừng với việc các nàng ấy có được điều tốt đẹp, và không nàng nào là không được thiếp yêu thương. Thiếp luôn luôn cảm thông với tất cả các cô vợ chung chồng tựa như với chính bản thân mình.
2042. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.
2043. Đối với các nô bộc, các người làm công, các người hầu, và những người khác có cuộc sống phụ thuộc, thiếp chu cấp cho họ một cách hợp lý, luôn luôn có thần thái vui vẻ.
2044. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.
2045. Đối với các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, hoặc luôn cả những người nghèo khổ, thiếp làm cho họ toại ý với cơm ăn và nước uống, luôn luôn là người có bàn tay mở ra.
2046. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.
2047. Vào ngày mười bốn, ngày mười lăm, với cả ngày mồng tám của mỗi nửa tháng, và những ngày phụ trội của nửa tháng, thiếp hành trì ngày trai giới được tốt đẹp trọn vẹn tám điều, luôn luôn thu thúc trong các giới.
2048. Thưa bậc ẩn sĩ, với lời nói chân thật này, xin cho đứa con trai hãy được sanh ra. Nếu thiếp đang nói lời dối trá, thì cái đầu hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”
2049. “Này nàng công chúa có danh tiếng, toàn bộ tất cả các đức hạnh mà nàng tán dương về bản thân, này người nữ hiền thục, các đức hạnh ấy được tìm thấy ở nàng.
2050. Một vị Sát-đế-lỵ thành tựu về dòng dõi, được sanh ra tốt đẹp, có danh tiếng, vị vua công chính của xứ sở Videha, sẽ là người con trai được sanh lên cho nàng.”
2051. “Dơ bẩn, mang theo bụi bặm và cáu ghét, đứng ở không trung trên bầu trời, ngài nói lời nói làm thích ý, có sự chạm đến trái tim của thiếp.
2052. Phải chăng ngài là vị Thiên nhân từ cõi Trời, hay là vị ẩn sĩ có đại thần lực? Ngài là ai mà đã ngự đến đây? Xin ngài hãy cho thiếp biết về bản thân ngài.”
2053. “Hội chúng chư Thiên hội tụ ở giảng đường Sudhammā đảnh lễ vị nào, thì vị ấy chính là ta, Thiên Chủ Sakkha, vị có ngàn mắt, ta đã đi đến gặp nàng.
2054. Các người nữ ở thế gian của cuộc sống là những người sống yên tịnh, có trí tuệ, có giữ giới, kính mẹ chồng như Thiên thần, chung thủy.
2055. Với người nữ thông minh, có việc làm trong sạch như thế ấy, chư Thiên, hạng không phải là người, đi đến gặp nàng, thuộc hạng người.
2056. Này người nữ hiền thục, với thiện hạnh đã khéo được thực hành trước đây, nàng đã được sanh vào gia tộc vua chúa ở nơi này, là người nữ có sự thành tựu mọi ước muốn.
2057. Hỡi nàng công chúa, đây là vận mệnh tốt đẹp của nàng ở cả hai nơi: sự sanh lên thế giới chư Thiên và danh tiếng ở cuộc sống tại nơi này.
2058. Này người nữ thông minh, này người nữ có hạnh phúc, nàng hãy gìn giữ thiện pháp lâu dài ở bản thân. Ta đây đi về cõi Trời. Việc gặp gỡ nàng là đáng quý đối với ta.”
6. Bổn sanh Vua Suruci. [489]
2059. “Này chim bồ câu, giờ đây ngươi ít ham muốn. Này chim, phải chăng đối với ngươi không có nhu cầu về vật thực? Này bạn, vì sao chim bồ câu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
2060. “Trước đây, tôi đã đi đến sự say đắm với chim bồ câu mái. Cả hai chúng tôi vui thú ở khu vực này. Rồi con diều hâu đã bắt đi chim bồ câu mái. Không có chim mái, tôi đã trở thành kẻ không còn ham muốn.
2061. Do trạng thái xa cách bởi sự tách rời của chim mái, tôi cảm nhận rằng cảm thọ được tạo thành bởi ý. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự luyến ái chớ quay lại với tôi.”
2062. “Này con vật có sự di chuyển ngoằn ngoèo, này con vật di chuyển bằng ngực, này con vật có hai lưỡi, này rắn, ngươi có răng nanh là vũ khí, có nọc độc dữ dội. Này bạn, vì sao rắn lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
2063. “Con bò mộng của chủ làng có sức mạnh, có cục bướu rung rinh, đã đạt được tướng mạo và sức vóc. Nó đã đạp lên tôi. Bị tức giận, tôi đã cắn nó. Bị giày vò bởi nỗi đau đớn, nó đã đi đến sự chết.
2064. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng, than van, khóc lóc, rồi đã bỏ đi. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự giận dữ chớ quay lại với tôi.”
2065. “Có nhiều thịt của những xác chết ở bãi tha ma. Thức ăn này có vẻ hợp ý đối với ngươi. Này bạn, vì sao chó rừng lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
2066. “Vui thích với xác chết, bị khởi tham đắm với thịt voi, tôi đã đi vào bụng của một con voi to lớn. Sức nóng, gió, và ánh nắng gay gắt, chúng đã làm khô héo hậu môn của con voi.
2067. Thưa bậc đáng kính, tôi trở nên gầy ốm và vàng vọt. Con đường trở ra của tôi đã không còn. Và có đám mây lớn đã đổ mưa dữ dội; nó đã làm ẩm ướt hậu môn của con voi.
2068. Thưa bậc đáng kính, do đó, tôi đã đi ra khỏi, giống như mặt trăng đã được thoát khỏi miệng của Rāhu (nguyệt thực). Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng sự tham lam chớ quay lại với tôi.”
2069. “Trước đây, ngươi sống trong khi ăn các con mối ở gò mối. Này bạn, vì sao gấu lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
2070. “Trong khi nguyền rủa thậm tệ chỗ ở của mình, tôi đã đi đến Malatā vì cơn đói dữ dội. Do đó, dân chúng đã đi ra khỏi ngôi làng và đã đánh tôi tới tấp bằng gậy gộc, đùi cui.
2071. Với đầu bị vỡ, với thân thể bị lem luốc máu me, tôi đã đi về lại chỗ ở của mình. Vì thế, tôi gìn giữ ngày trai giới, mong rằng cơn đói dữ dội chớ quay lại với tôi.”
2072. “Thưa bậc đáng kính, việc mà ngài đã hỏi chúng tôi, tất cả chúng tôi đã trả lời theo sự hiểu biết. Thưa bậc đáng kính, chúng tôi cũng xin hỏi ngài. Thưa vị Bà-la-môn, vì sao ngài lại chịu đựng đói, khát và trở thành vị thực hành trai giới?”
2073. “Một vị Độc Giác Phật, bậc không bị ô nhiễm, đã ngồi chốc lát ở khu ẩn cư của ta. Vị ấy đã cho ta biết về nơi đi và nơi đến, danh tánh, dòng họ, và tất cả tánh hạnh (của ta trong tương lai).
2074. Dầu là như vậy, ta đã không sờ vào bàn chân của vị ấy, và ta cũng đã không hỏi ngài, bởi vì đã bị ngã mạn chế ngự. Vì thế, ta gìn giữ ngày trai giới, mong rằng ngã mạn chớ quay lại với ta.”
7. Bổn sanh Năm Vị Hành Trai Giới. [490]
2075. “Quả thật, nếu ta đã bị ông bắt vì nguyên nhân tài sản, thì chớ gây thương tích cho ta sau khi đã bắt sống. Này ông bạn, ông hãy đưa ta về gặp đức vua. Ta nghĩ ông sẽ nhận được tài sản không phải là ít.”
2076. “Mũi tên này của tôi đã được đặt vào cây cung cao quý không phải để giết chết Công ngày hôm nay. Tôi sẽ phá vỡ cái bẫy ở chân Công. Này vua của loài công, Công hãy ra đi một cách thoải mái.”
2077. “Ông đã theo đuổi ta bảy năm, chịu đựng đói khát đêm ngày. Giờ ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta?
2078. Khi ta đã bị rơi vào sự khống chế của cái bẫy thì ông lại muốn giải thoát khỏi sự trói buộc cho ta. Phải chăng hôm nay ông kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ông ban phát cho tất cả chúng sanh?”
2079. “Xin Công hãy nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Này vua của loài công, tôi hỏi Công ý nghĩa này: Sau khi từ đây chết đi, người ấy đạt được sự an vui gì?
2080. “Ta nói về người kiêng cữ việc giết hại mạng sống, là người ban phát pháp không sợ hãi cho tất cả chúng sanh. Ngay trong kiếp hiện tại này, nhận được sự khen ngợi, và người ấy đi đến cõi trời khi cơ thể rã tan.”
2081. “Một số vị (Sa-môn và Bà-la-môn) đã nói rằng: ‘Chư Thiên không hiện hữu. Cuộc sống ở tại nơi này đi đến sự tiêu tan. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy cũng đi đến sự tiêu tan.’ Họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si. Có sự tin tưởng vào lời nói của các bậc A-la-hán ấy, vì thế, tôi đánh bắt các con chim.”
2082. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới này hay thế giới khác? Vậy ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng như thế nào?”
2083. “Mặt trăng và mặt trời, cả hai đều dễ dàng nhìn thấy. Trong khi chiếu sáng, chúng di chuyển ở không trung. Chúng thuộc về thế giới khác, không thuộc về thế giới này. Ở thế giới nhân loại, người ta đã nói về chúng là: ‘Chư Thiên.’”
2084. “Ngay ở nơi này, những vị (Sa-môn và Bà-la-môn) ấy là có học thuyết hạ liệt, bị đánh giá thấp. Những kẻ chủ trương vô nhân không nói về nghiệp. Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy là không có.’ Và họ nói sự bố thí là trạng thái trí tuệ của người ngu si.”
2085. “Quả đúng vậy, lời nói ấy của ngài là sự thật. Bởi vì, làm sao có thể nói bố thí là không có quả báo? Tương tự, quả báo của việc làm tốt và việc làm quấy (làm sao lại không có). Và tại sao sự bố thí lại có thể là trạng thái trí tuệ của người ngu si?
2086. Làm như thế nào? Làm việc gì? Thực hành điều gì? Trong khi thân cận cái gì? Với loại khắc khổ gì? Này vua của loài công, xin Công hãy giải thích cho tôi để tôi không phải đọa vào địa ngục.”
2087. “Có những vị Sa- môn ở trái đất, các vị ấy mặc vải màu ca-sa, sống không nhà, đi khất thực đúng thời vào lúc sáng sớm, bởi vì các bậc an tịnh kiêng cử việc khất thực phi thời.
2088. Ông hãy đi đến gặp các vị ấy ở nơi ấy vào lúc hợp thời và hãy hỏi điều ông yêu thích ở trong tâm. Các vị ấy sẽ giải thích các điều ấy và ý nghĩa của thế gian này và thế gian khác theo sự hiểu biết.”
2089. “Tựa như con rắn (lột bỏ) lớp da cũ đã bị già cỗi, ví như cây còn xanh (giũ bỏ) chiếc lá úa vàng, cuộc đời thợ săn này của tôi đã được dứt bỏ. Hôm nay, tôi dứt bỏ cuộc đời thợ săn.
2090. Và luôn cả những con chim đã bị tôi giam giữ là có đến hàng trăm ở chỗ trú ngụ của tôi. Hôm nay, tôi ban tặng cuộc sống cho chúng, và tôi đã đạt được sự giải thoát, còn chúng bay về chỗ ở của mình.”
2091. “Người thợ săn đã đi lại ở trong khu rừng, tay cầm bẫy thú để bắt con chim công chúa có danh tiếng. Sau khi bắt được con chim công chúa có danh tiếng, người ấy đã được thoát khỏi khổ, giống như Ta đã được giải thoát.”
8. Bổn sanh Con Chim Công Vĩ Đại. [491]
2092. “Chúng tôi đã đi lang thang tìm kiếm ở các ngọn núi và các khu rừng, tôi đã đi lang thang tìm kiếm các thân quyến, những vị này đây đã đi đến với tôi.
2093. Rễ và trái cây này có nhiều, thức ăn này không phải là ít, ngọn núi và các con sông này là đáng yêu; việc cư ngụ sẽ là thoải mái.
2094. Tôi sẽ trú ngụ ở tại nơi này với tất cả thân quyến. Tôi không năng nỗ, không ngờ vực, không sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.”
2095. “Bạn nên tìm kiếm chỗ trú khác đi. Kẻ thù của chúng ta có mặt ở nơi này. Này heo Taccha, gã ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”
2096. “Vậy ai là kẻ thù của chúng ta ở nơi này? Kẻ nào quấy nhiễu các thân quyến đã khéo tụ tập lại, còn chưa bị quấy nhiễu? Được hỏi, xin các vị hãy giải thích điều ấy cho tôi.”
2097. “Là con thú có các đường sọc đứng ở thân, chúa của loài thú, có sức mạnh, có răng nanh là vũ khí. Này heo Taccha, kẻ ấy đi đến nơi này và giết chết những con heo rừng mập nhất, ngon nhất.”
2098. “Không phải các răng nanh của chúng ta không có, không phải sức mạnh của chúng ta ở cơ thể bị tiêu hoại. Tất cả chúng ta, sau khi hợp nhất lại, sẽ tạo thành một sức mạnh duy nhất.
2099. “Này heo Taccha, ông nói lời nói thấm vào trái tim, thoải mái lỗ tai. Thậm chí kẻ nào trốn chạy ở chiến trận, sau này chúng ta sẽ giết chết kẻ ấy.”
2100. “Phải chăng hôm nay ngươi kiêng cữ việc giết hại mạng sống? Phải chăng pháp không sợ hãi được ngươi ban phát cho tất cả chúng sanh? Này con thú, phải chăng các răng nanh của ngươi không có sự nỗ lực? Là kẻ đã đạt được bầy heo mà ngươi lại trầm tư như là kẻ ăn mày?”
2101. “Không phải các răng nanh của tôi không có, không phải sức mạnh của tôi ở cơ thể bị tiêu hoại. Nhưng sau khi nhìn thấy các thân quyến có sự chiếm cứ phía bên kia, vì thế, tôi trầm tư ở khu rừng, phía bên này.
2102. Trước đây, những con heo này chạy tứ tán. Bị khốn khổ vì sợ hãi, chúng tìm kiếm nơi nương náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, sống thành một khối. Hôm nay, tôi khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.
2103. Đã đạt được người lãnh đạo, đã kết hợp lại, chung một lập trường, có sự hợp nhất, chúng có thể hãm hại tôi; vì thế, đối với chúng, tôi không màng.”
2104. “Chỉ một vị thần Inda chiến thắng các A-tu-la. Chỉ một chim điều hâu giết chết các con chim bằng võ lực. Chỉ một con cọp đạt được bầy thú rồi giết chết con mập nhất, ngon nhất, bởi vì sức mạnh của nó là như thế ấy.”
2105. “Tuy nhiên, không phải vị thần Inda, không phải chim điều hâu, cũng không phải con cọp chúa tể loài thú, mà là các thân quyến, khi có sự hợp nhất, khi đã kết hợp lại, có thể tạo ra quyền lực đối với con cọp.”
2106. “Những con chim nhỏ kumbhilaka sống theo bầy, di chuyển theo nhóm, vui vẻ cùng nhau nhảy nhót và bay lượn.
2107. Và trong khi chúng đang bay lượn, một con nào trong số đó tách khỏi bầy, chim diều hâu chộp lấy con chim ấy; đường lối ấy phù hợp với cọp.”
2108. “Được khích lệ bởi gã đạo sĩ bện tóc hung bạo, quan tâm vật chất, con thú có răng nanh đã nhảy bổ vào những con thú có răng nanh, nghĩ rằng giống như trước đây.”
2109. “Thật là tốt đẹp có nhiều thân quyến, luôn cả các cây cối mọc trong rừng! Con cọp đã bị giết chết ở cái hố bởi những con heo rừng có sự hợp nhất.”
2110. “Sau khi giết chết cả hai là người Bà-la-môn và con cọp, các con heo rừng trở nên hoan hỷ, vui mừng, và chúng đã rống lên tiếng rống lớn.
2111. Rồi ở nơi gốc cây sung, các con heo rừng ấy đã làm lễ rưới nước đăng quang cho con heo rừng Taccha: ‘Ngài là đức vua, là chúa tể của chúng tôi.’”
9. Bổn sanh Heo Rừng Taccha. [492]
2112. “Các thương buôn đi đến từ nhiều quốc độ khác nhau, sau khi lập thành đoàn và bầu lên một người thủ lãnh, họ đã khởi hành mang theo tài sản và lương thực.
2113. Sau khi đi đến khu rừng hoang vu ấy, bị thiếu thức ăn, không còn nước, họ đã nhìn thấy cây đa to lớn, có bóng mát, làm thích ý.
2114. Và họ đã ngồi xuống tại đó, ở bóng mát của cây đa ấy. Các thương buôn là những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ rằng:
2115. ‘Cây này bị ẩm ướt, và cũng có nước chảy. Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía đông của cây này.’
2116. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nước trong sạch, không bị vẩn đục. Các thương buôn ấy, tại đó, đã tắm rửa, đã uống nước cho đến khi đã thỏa ước muốn.
2117. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ nhì rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía nam của cây này.’
2118. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều lúa sāli, thịt, cơm, cháo chua kiểu ít nước, mứt gừng, các loại xúp đậu.
2119. Các thương buôn ấy, tại đó, đã ăn, đã nhai cho đến khi đã thỏa ước muốn. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ ba rằng:
2120. ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía tây của cây này.’ Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra những nữ nhân đã được trang điểm.
2121. Các nàng có vải vóc và đồ trang sức đủ màu sắc rực rỡ, có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni. Mỗi thương buôn được một nữ nhân, và hai mươi lăm nữ nhân (thuộc về người thủ lãnh).
2122. Họ đã quây quần xung quanh, ở bóng râm của cây ấy. Các thương buôn ấy đã tiêu khiển với các nàng ấy cho đến khi đã thỏa ước muốn.
2123. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ tư rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt cành phía bắc của cây này.’
2124. Và ngay khi được chặt đứt, cành cây ấy đã rỉ ra nhiều ngọc trai, ngọc bích, bạc, và vàng, các thảm lót và các tấm trải bằng sợi len.
2125. Các thương buôn ấy, tại đó, đã buộc các tấm vải xứ Kāsi và các tấm mền xứ Uddiya thành các kiện hàng cho đến khi đã thỏa ước muốn.
2126. Những kẻ ngu dốt, bị bao trùm bởi si mê, đã suy nghĩ lần thứ năm rằng: ‘Nào, các vị thương buôn, chúng ta hãy chặt gốc của cây này. Thậm chí chúng ta có thể nhận được nhiều hơn.’
2127. Khi ấy, vị trưởng đoàn đã đứng dậy, chắp tay yêu cầu rằng: ‘Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.
2128. Cành cây phía đông cho nước, phía nam cho cơm nước, cành phía tây cho phụ nữ, và phía bắc cho tất cả các dục. Các vị xúc phạm điều gì đến cây đa? Này các vị thương buôn, cầu mong có sự tốt lành cho quý vị.’
2129. Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ hãm hại bạn bè là kẻ ác xấu.’
2130. Và chúng với số đông đã không nghe theo lời nói của vị ấy có một mình. Chúng đã khởi sự chặt cây đa ấy ở gốc bằng những cái rìu sắc bén.
2131. Sau đó, các con rồng đã tiến ra, hai mươi lăm con được vũ trang, ba trăm con cầm cung, và sáu ngàn con cầm tấm chắn.
2132. ‘Các ngươi hãy giết chết, hãy trói những kẻ này lại. Các ngươi chớ tha cho kẻ nào sống, ngoại trừ vị trưởng đoàn. Các người hãy làm cho tất cả bọn chúng biến thành tro.’
2133. Chính vì thế, con người sáng suốt, trong khi nhìn thấy lợi ích cho bản thân, không nên rơi vào quyền lực của tham, nên tiêu diệt ý nghĩ thù ngịch.
2134. Sau khi biết được điều ấy là bất lợi, (biết được) tham ái là nguồn sanh khởi của khổ, vị tỳ khưu có tham ái đã được xa lìa, không có nắm giữ, có niệm, nên sống hạnh du sĩ.”
10. Bổn sanh Người Thương Buôn Vĩ Đại. [493]
2135. “Thật là phi thường ở thế gian, việc dựng đứng lông đã sanh khởi; Thiên xa đã hiện ra cho vị vua danh tiếng của xứ Videha!”
2136. Vị Thiên tử có đại thần lực Mātali, người điều khiển Thiên xa, đã thỉnh mời đức vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha.
2137. “Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, xin bệ hạ hãy đến, hãy bước lên cỗ xe này. Tâu bệ hạ, chư Thiên ở cõi Trời Tam Thập với cả Thiên Chủ Inda có ý muốn nhìn thấy bệ hạ. Bởi vì trong khi tưởng nhớ đến bệ hạ, chư Thiên ngồi chung ở giảng đường Sudhammā.”
2138. Và sau đó, đức vua Sādhīna, vị lãnh tụ, đã bước lên cỗ xe. Sau khi ngự lên cỗ xe thắng một ngàn ngựa, đức vua đã đi đến chỗ ngụ của chư Thiên. Sau khi nhìn thấy đức vua đang tiến đến, chư Thiên đã đón mừng ngài.
2139. “Tâu đại vương, chào mừng bệ hạ, và việc ngự đến không khó nhọc của bệ hạ. Tâu vị ẩn sĩ vương, giờ đây xin thỉnh bệ hạ ngồi xuống kề bên vị Thiên Vương.”
2140. Thiên Chủ Sakka cũng đã đón mừng vị vua trị vì kinh thành Mithilā, xứ Videha, và Thiên Chủ Vāsava đã thỉnh mời với các dục và chỗ ngồi.
2141. “Thật tốt đẹp thay bệ hạ đã ngự đến chỗ trú ngụ của những vị có quyền lực. Tâu vị ẩn sĩ vương, bệ hạ hãy sống giữa chư Thiên có sự thành đạt tất cả các dục. Bệ hạ hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”
2142. “Trước đây, trẫm đã đi đến cõi Trời, vui thích với các điệu vũ, với các lời ca, và với các điệu nhạc. Giờ đây, hôm nay, trẫm đây không vui thích ở cõi Trời. Thưa vị chúa tối thượng của loài người. Phải chăng tuổi thọ của trẫm đã cạn kiệt, cái chết đã gần kề, hay là trẫm bị mê mờ?”
2143. “Tâu vị tinh tấn tối thượng của loài người, không phải tuổi thọ của bệ hạ đã cạn kiệt, cái chết của bệ hạ hãy còn xa, và cũng không phải bệ hạ bị mê mờ. Các phước báu của bệ hạ là ít ỏi, và bệ hạ đã thọ hưởng quả thành tựu của chúng ở nơi này.
2144. Tâu vị vua hạng nhất, tâu vị chúa tể một phương, bệ hạ hãy sống với năng lực của chư Thiên, hãy hưởng thụ các dục không thuộc về nhân loại giữa chư Thiên cõi Tam Thập.”
2145. “Cỗ xe giống như vật vay mượn, tài sản giống như vật vay mượn, tương tự như vậy, chính việc thành đạt này là do duyên ban phát từ người khác.
2146. Và trẫm không thích điều ấy, là việc do duyên ban phát từ người khác. Các phước báu đã được tự mình tạo ra, tài sản ấy là dành riêng cho trẫm.
2147. Trẫm đây, sau khi đi đến cõi người, sẽ làm nhiều việc thiện với việc bố thí, với việc thực hành bình đẳng, với việc tự chế ngự, và với việc rèn luyện. Sau khi làm điều ấy, trẫm được an lạc và sau này không bị ân hận.”
2148. “Những ruộng đồng này đây, con kênh đào khéo uốn quanh này, những đầm cỏ xanh mướt này đây, những con sông, những dòng suối này.
2149. Những hồ sen đáng yêu này đây với những con ngỗng đỏ kêu ríu rít, được bao phủ bởi những loài thủy thảo và bởi những hoa sen hồng sen xanh. Những người đã yêu mến những nơi này của trẫm, vậy họ đã đi đến phương trời nào?
2150. Ở đây, những đồng ruộng ấy, khoảnh đất kia, những khu vườn nọ, các khu rừng ấy, những vùng phụ cận này, trẫm không nhìn thấy chính những người dân ấy của trẫm. Này Nārada, hướng này đối với trẫm hình như hoàn toàn rỗng không.
2151. Trẫm đã nhìn thấy các cung điện chiếu sáng bốn phương, đã diện kiến vị Thiên Vương, và đã diện kiến chư Thiên ở cõi Tam Thập.
2152. Trẫm đã sống ở cung Trời, đã được cung phụng các dục không thuộc về nhân loại, ở giữa chư Thiên cõi Tam Thập có sự thành đạt các dục tuyệt trần.
2153. Trẫm đây, sau khi đã nhìn thấy như thế, đã đi đến nơi này vì việc phước thiện. Trẫm sẽ thực hành mỗi thiện pháp, trẫm không có ham muốn với vương quyền.
2154. Trẫm sẽ thực hành đạo lộ đưa đến sự bình an, đạo lộ ấy đã được các bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, đạo lộ mà những vị có sự hành trì tốt đẹp đang đi.”
11. Bổn sanh Đức Vua Sādhīna. [494]
2155. Đức vua yêu thích thiện pháp Yudhiṭṭhila đã nói với Vidhura rằng: “Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, –
2156. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2157. “Tâu bệ hạ, khó có được những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.
2158. Tâu đại vương, thật vậy, có mười hạng là dòng dõi Bà-la-môn. Xin bệ hạ hãy lắng nghe sự phân tích và xếp loại về họ một cách chi tiết của thần.
2159. Các vị mang các túi xách chứa đầy rễ cây được buộc lại, tổng hợp các phương thuốc, làm công việc tắm rửa, và lẩm nhẩm chú thuật.
2160. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thầy thuốc, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2161. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác cũng có giới hạnh, có kiến thức, –
2162. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2163. Các vị ấy cầm lấy cái cồng và đi phía trước khua vang. Các vị còn chuyển tin nhắn, học tập về các cách điều khiển cỗ xe.
2164. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người hầu, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2165. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2166. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2167. Các vị Bà-la-môn cầm lấy bầu nước uống và cây gậy cong, rồi tiếp cận các vị vua ở các thôn làng và các thị trấn (nói rằng): ‘Ở trong làng và ở trong rừng, khi chưa được bố thí, chúng tôi sẽ không đứng lên.’
2168. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người thâu thuế, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2169. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2170. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2171. Những vị có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi, được phủ đầy những bụi bặm, các vị ấy là những hành khất đi lang thang.
2172. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như những người đào bứng gốc cây, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2173. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2174. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2175. 2176. “Tâu quân vương, các vị bán các loại loại hàng hóa có giá trị cao thấp khác nhau như là: trái harīṭaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái sa-kê, các cây chà răng, trái beluva, các trái táo, trái rājāyatana, mía và mật đường, ống xông khói, mật ong và thuốc nhỏ mắt.
2177. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các thương buôn, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2178. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2179. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
Ở các văn bản Pāḷi của Miến Điện, Thái Lan, và PTS của Anh Quốc còn có thêm một hạng Bà-la-môn nữa ở chỗ này; như thế thì số lượng các hạng Bà-la-môn sẽ là 11, thay vì 10 như ở Tạng của Sri Lanka. Phần Pāli ở bên cạnh được thêm vào từ Tạng Miến Điện (Tạng Thái và Tạng của PTS cũng tương tự như thế).
2180. Một số viên quan tế tự thọ dụng bữa ăn ngoại lệ ở các ngôi làng, Nhiều người hỏi các vị ấy (về chiêm tinh, bói toán). Các vị là những người thiến và đóng dấu các con thú. Tại nơi ấy, thậm chí các con thú như trâu, heo rừng, dê bị giết chết.
2181. Tâu bệ hạ, các vị ấy, có hành vi giống như các đồ tể, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2182. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2183. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2184. Sau khi cầm lấy thanh gươm và mộc che, các vị Bà-la-môn đã giơ cao thanh kiếm, đứng ở các con đường của thương buôn, rồi còn hộ tống đoàn xe nữa.
2185. Tâu bệ hạ, các vị ấy, tương đương với những kẻ giữ bò hay những người man rợ, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2186. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2187. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2188. “Sau khi làm căn chòi nhỏ ở trong rừng, họ cho làm những cái bẫy và đánh bắt các con thỏ, mèo rừng, kỳ đà, cá, và rùa.
2189. Tâu bệ hạ, họ là những người thợ săn, các vị ấy cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2190. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2191. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2192. Những vị khác với sự mong muốn về tài sản, đã nằm dài bên dưới gầm giường, và các vị vua tắm ở bên trên vào lúc lễ tế Soma được chuẩn bị.
2193. Tâu bệ hạ, các vị ấy, giống như các người thợ cạo, cũng được gọi là Bà-la-môn. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2194. (Đức vua Koravya đã nói rằng): “Những kẻ ấy đã xa lìa phẩm hạnh Bà-la-môn, chúng không được gọi là Bà-la-môn. Này Vidhura, hãy tìm kiếm các vị khác có giới hạnh, có kiến thức, –
2195. –đã kiêng cử pháp đôi lứa, là những vị có thể thọ dụng vật thực của trẫm. Này khanh, chúng ta sẽ bố thí sự cúng dường ở nơi nào vật đã được bố thí là có quả báo lớn.”
2196. “Tâu bệ hạ, có những vị Bà-la-môn có giới hạnh, có kiến thức, đã kiêng cử pháp đôi lứa, những vị ấy có thể thọ dụng vật thực của bệ hạ.
2197. Các vị ấy ăn một bữa và không uống chất say. Tâu đại vương, những vị ấy đã được kể ra; có phải chúng ta chọn các vị như thế ấy?”
2198. “Này Vidhura, các vị Bà-la-môn này chắc chắn là có giới hạnh, có kiến thức. Này Vidhura, hãy tức tốc tìm kiếm các vị này và hãy thỉnh mời các vị ấy.”
12. Bổn sanh Mười Hạng Bà-La-Môn. [495]
2199. “Tôi đã nhìn thấy vị có vóc dáng thanh tao, từ vương quốc đã đi đến vùng đất khô cằn, là người được sở hữu ngôi nhà mái nhọn cao quý, được cung phụng giường nằm cao sang.
2200. Vì lòng yêu mến bệ hạ đây, thần đã dâng bệ hạ bữa cơm thượng hạng, được nấu với gạo sālī đã đãi sạch, tinh khiết, có trộn lẫn thịt.
2201. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, bệ hạ đã bảo trao đến vị Bà-la-môn. Bệ hạ đã không ăn cho mình. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của bệ hạ?”
2202. “Vị Bà-la-môn là thầy dạy học của trẫm, quán xuyến các công việc lớn nhỏ. Và vị thầy là nên được mời thỉnh; trẫm nên dâng bữa ăn (đến vị thầy).”
2203. “Giờ đây, tôi xin hỏi Bà-la-môn Gotama, vị được đức vua tôn vinh. Đức vua đã ban đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.
2204. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài đã dâng bữa ăn đến vị ẩn sĩ. Ngài là người nhận biết bản thân không phải là thửa ruộng cho sự bố thí. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”
2205. “Ta cưu mang các con và các người vợ. Ta bị trói buộc vào các căn nhà. Ta có thể hưởng thụ các dục của con người. Ta chỉ dạy cho các vị vua.
2206. Ta nên dâng bữa ăn đến bậc ẩn sĩ sống ở rừng, vị có sự khắc khổ thời gian dài, bậc trưởng thượng, có bản thân đã được tu tập.”
2207. “Và giờ đây, tôi xin hỏi bậc ẩn sĩ gầy ốm, nổi đầy gân, có móng tay chân và lông nách mọc dài, có răng bị đóng bợn, có đầu lấm bụi.
2208. Ngài sống một mình trong rừng, không mong mỏi về cuộc sống. Vị tỳ khưu là tốt hơn ngài về điều gì mà ngài đã dâng bữa ăn đến vị ấy?”
2209. “Ta đào các khoai mỡ và củ cải, các củ biḷālī và củ takkaḷa. Ta đập giũ các hạt kê, lúa dại, gom lại rồi trải ra phơi khô.
2210. Về rau cải, củ sen, mật ong, thịt thừa của thú rừng, táo rừng, và trái āmalaka, ta mang về các thứ ấy và thọ dụng. Đối với ta, có sự bám víu ấy.
2211. Là người nấu thức ăn, có vật sở hữu, còn chấp thủ, ta nên dâng bữa ăn đến vị không nấu, không có trạng thái chấp là của ta, không còn chấp thủ.”
2212. “Và giờ đây, tôi xin hỏi vị tỳ khưu đang ngồi im lặng, là bậc có sự hành trì tốt đẹp. Vị ẩn sĩ đã dâng đến ngài bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.
2213. Sau khi tiếp nhận bữa ăn ấy, ngài im lặng thọ dụng một mình. Ngài không mời mọc bất cứ người nào khác. Đây là pháp gì mà có được sự tôn kính của ngài?”
2214. “Ta không nấu, không bảo người khác nấu, ta không cắt gọt, không bảo người khác cắt gọt; ta đã nhận biết ta đây không còn bất cứ ô nhiễm nào, đã được lánh xa tất cả các điều ác xấu.
2215. Sau khi cầm vật thực bằng tay trái, bình nước bằng tay phải, vị ẩn sĩ đã dâng đến ta bữa ăn tinh khiết, có trộn lẫn thịt.
2216. Chính những vị này nên bố thí, những người có trạng thái chấp là của ta, có sở hữu. Ta nghĩ rằng người nào mời thỉnh thí chủ là việc làm trái khuấy.”
2217. “Quả thật vì lợi ích của ta mà hôm nay đấng thủ lãnh xa binh đã đi đến nơi này. Trước đây, ta không biết được vật đã được bố thí ở nơi nào có quả báo lớn.
2218. Các vị vua bị tham đắm vào các quốc độ, các vị Bà-la-môn vào các công việc lớn nhỏ, các vị ẩn sĩ bị tham đắm vào các rễ và trái cây, còn các vị tỳ khưu được giải thoát hoàn toàn.”
13. Bổn sanh Vật Thực Theo Tuần Tự. [496]
Chim két, loài nhân điểu, chim ưng, y da dê thô cứng,
các củ sen, hoàng hậu chánh cung, chuyện chim bồ câu,
rồi chim công, với con heo rừng Taccha, người thương buôn,
rồi đức vua Sādhīna, mười hạng Bà-la-môn, vật thực theo tuần tự.
Nhóm Linh Tinh được chấm dứt.
--ooOoo--
[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09][10][11][12][13][14]
[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]