TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 32
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH tập I
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
JĀTAKAPĀLI - BỔN SANH

XII. DVĀDASAKANIPĀTO - NHÓM MƯỜI HAI KỆ NGÔN

 

DVĀDASAKANIPĀTO - NHÓM MƯỜI HAI KỆ NGÔN

 

1650. Đàn bà là những người nhỏ nhen, có tâm khinh suất, vô ơn, bội bạc, Người đàn ông, nếu không bị phi nhân xâm nhập, thì không thể nào tin tưởng những người đàn bà.

 

1651. Các nàng không biết đến ân nghĩa, không biết đến việc cần phải làm, không biết đến mẹ, cha, hay anh em trai. Các nàng không thánh thiện, vượt qua nguyên tắc, và đi theo sự sai khiến của chính tâm mình.

 

1652. Mặc dầu chàng đã sống chung thời gian dài, chàng đáng yêu, đáng mến, có lòng thương xót, thậm chí chàng còn được xem như là sanh mạng, các nàng cũng từ bỏ chàng trong những lúc rủi ro và trong những lúc hữu sự; vì thế, trẫm không tin cậy những người đàn bà.

 

1653. Bởi vì tâm của những người đàn bà giống như tâm của loài khỉ. giống như bóng râm của cây luôn nhấp nhổm. Trái tim của những người phụ nữ luôn chao đảo, giống như cái vành của bánh xe quay vòng vòng.

 

1654. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng dụ dỗ người ấy bằng những lời nói mềm mỏng, tựa như những người dân xứ Kamboja dụ dỗ con ngựa rừng bằng rong rêu (có bôi mật ong).

 

1655. Vào lúc các nàng, trong lúc xem xét, không nhìn thấy tài sản của người đàn ông có vẻ có thể thâu tóm, các nàng lánh xa người ấy ở mọi nơi, tựa như người đã vượt qua, đã đi đến bờ bên kia của dòng sông, xa lánh chiếc bè.

 

1656. Phụ nữ giống như chất kết dính, tựa như ngọn lửa thiêu đốt tất cả. Các nàng có sự lừa phỉnh mau lẹ, tựa như con sông có dòng nước chảy xiết. Bởi vì các nàng ấy hầu hạ người yêu mến lẫn người không yêu mến, giống như con thuyền ghé vào bến đò ở hạ nguồn và ở thượng nguồn.

 

1657. Các nàng ấy không thuộc về một người, không thuộc về hai người, các nàng ấy tựa như cửa tiệm đã được trưng bày. Kẻ nào nghĩ rằng: ‘Các nàng ấy là thuộc về ta,’ kẻ ấy tưởng như có thể tóm gọn làn gió bằng cái lưới.

 

1658. Giống như dòng sông, con đường, quán nước, phòng hội, lều nghỉ chân, những người đàn bà ở thế gian được gọi là như vậy, giới hạn của các nàng ấy không được biết đến.

 

1659. Thật vậy, các nàng ấy như là ngọn lửa tế thần, tựa như đầu con rắn độc màu đen, ví như bầy bò chỉ gặm những cọng ngon nhất của bãi cỏ ở bên ngoài.

 

1660. Ngọn lửa tế thần, con voi, rắn độc màu đen, người được làm lễ phong vương, và tất cả các nữ nhân, năm hạng này, người nam có tánh thận trọng có thể giao thiệp. Thật vậy, mọi ý định của những hạng ấy khó mà biết được.

 

1661. Không nên thân cận người nữ có sắc đẹp quá mức, không với người nữ được nhiều người yêu thương, cũng không với người đàn bà khéo léo, không với người là vợ của người khác, không với người vì nguyên nhân tài sản; năm hạng nữ nhân này không nên thân cận.”

 

1. Bổn sanh Chim Cu Cu Nhỏ. [464]

 

1662. “Ngài là ai mà đứng ở không trung, trên bầu trời, với y phục tinh khiết? Vì sao các giọt nước mắt của ngài tuôn rơi? Nỗi sợ hãi ấy từ đâu đến?”

 

1663. “Tâu bệ hạ, ở trong lãnh thổ của bệ hạ, mọi người đã biết rõ tôi là ‘Bhaddasāla’ (Cây May Mắn). Trong khi tồn tại sáu mươi ngàn năm, tôi đã được họ tôn vinh.

 

1664. Tâu vị chúa tể các phương, trong khi cho xây dựng các thành phố, các ngôi nhà, và luôn cả các tòa lâu đài đa dạng, họ đã không xúc phạm đến tôi. Họ đã tôn vinh tôi như thế nào, mong rằng bệ hạ cũng hãy tôn vinh tôi y như thế.”

 

1665. “Trẫm chưa nhìn thấy cây nào như ngài; thân cây của ngài đồ sộ về kích thước, về chiều cao, và về chu vi. Ngài là tuyệt vời về chủng loại.

 

1666. Trẫm sẽ cho làm tòa lâu đài có một cột trụ, làm thích ý. Trẫm sẽ đưa ngài về nơi ấy. Này vị Dạ-xoa, cuộc sống của ngài sẽ được lâu dài.”

 

1667. “Nếu tâm của bệ hạ đã sanh khởi như vậy, là việc tách rời tôi với thân cây, vậy hãy cắt lìa tôi thành nhiều phần, hãy cắt đứt thành từng khúc.

 

1668. Sau khi cắt ở phần ngọn, ở phần giữa, và sau cùng hãy cắt ở phần gốc. Trong khi tôi bị cắt đứt như vậy, thì cái chết có thể là không đau đớn.”

 

1669. “Giống như chặt đứt bàn tay và bàn chân, rồi lỗ tai và lỗ mũi ở người còn sống, kế đến chặt đứt cái đầu sau cùng; cái chết ấy có thể là đau đớn.

 

1670. Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, phải chăng việc được cắt thành khúc là an toàn? Điều gì là nguyên nhân, liên quan đến điều gì mà ngài lại muốn được cắt thành khúc?”

 

1671. “Việc tôi muốn được cắt thành khúc là có nguyên nhân, liên quan đến nguyên nhân được gắn liền với thực tế. Tâu đại vương, xin hãy lắng nghe tôi.

 

1672. Các thân quyến của tôi được phát triển an toàn, được sanh ra yên ổn ở bên cạnh tôi. Tôi lại có thể gây tổn thương đến họ, là việc đem lại sự không an toàn cho những người khác (nếu bị đốn ngã nguyên cây).”

 

1673. “Này thần cây may mắn, này vị chúa tể của khu rừng, ngài suy nghĩ có vẻ thấu đáo. Ngài có sự mong muốn điều lợi ích cho các thân quyến, thưa ngài, trẫm ban cho ngài sự không sợ hãi.”

 

2. Bổn sanh Thần Cây May Mắn. [465]

 

1674. “Các cư dân ấy cày và gieo hạt. Những người sống nhờ vào kết quả của công việc không phải là những người có phần chia của hòn đảo nhỏ này. Chính nơi này của chúng tôi còn quý báu hơn Jambudīpa.”

 

1675. “Mặt trăng vào ba hay năm đêm sắp đến, sẽ có một đợt triều lớn của biển cả tràn ngập hòn đảo cao quý này. Cái chết chớ có xảy ra cho quý vị. Quý vị hãy đi đến chỗ nương náu khác.”

 

1676. “Đợt triều của nước biển được sanh lên này không có thể tràn ngập hòn đảo cao quý này. Điều này đã được ta thấy nhờ vào nhiều điềm báo. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.

 

1677. Có nhiều thức ăn, có nhiều cơm nước, có sự thành tựu về của cải. Chỗ trú ngụ này là cao quý. Ta không nhìn thấy bất cứ sự sợ hãi nào cho quý vị. Quý vị hãy vui đùa cùng các con cháu.”

 

1678. “Chính vị thần ở hướng nam tuyên bố về sự thật của điều ấy là ‘an toàn.’ Vị thần hướng bắc đã không biết về sự sợ hãi và không sợ hãi. Quý vị chớ sợ hãi. Việc gì quý vị sầu muộn? Quý vị hãy vui mừng.”

 

1679. “Giống như các Dạ-xoa này tranh cãi nhau, một bên bảo là sợ hãi, một bên bảo là an toàn. Vậy thì quý vị hãy lắng nghe lời nói của tôi. Mong rằng tất cả quý vị chớ bị tiêu hoại một cách mau chóng và chớp nhoáng.

 

1680. Tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và làm chiếc thuyền, chiếc ghe chắc chắn, có đầy đủ tất cả bộ phận di chuyển (cây chèo, bánh lái, v.v...). Nếu vị thần ở hướng nam đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng bắc tuyên bố điên rồ.

 

1681. Con thuyền sẽ thật sự có lợi ích cho chúng ta sau này khi có tai họa sanh khởi, và chúng ta sẽ không rời bỏ hòn đảo này. Và nếu vị thần ở hướng bắc đã nói sự thật, thì vị thần ở hướng nam tuyên bố điên rồ. Tất cả hãy leo lên chính chiếc thuyền ấy, như vậy chúng ta có thể vượt đến bờ kia một cách an toàn.

 

1682. Thật vật, trong khi không nắm lấy theo người thứ nhất là điều đúng đắn, sau khi nắm lấy việc đi theo quan điểm của người sau, và ở đây, người nào suy xét điều ở giữa rồi nắm lấy, chính người nam ấy đạt đến vị thế tốt nhất.”

 

1683. “Cũng giống như những người kia ở giữa dòng nước của biển cả, những người thương buôn đã đi đến sự an toàn nhờ vào hành động của bản thân. Sau khi thấu triệt lợi ích ở tương lai, người nào không bỏ qua dầu là việc có tính chất nhỏ nhen, người ấy là vị có trí tuệ uyên bác.

 

1684. Và những kẻ ngu tham đắm theo hương vị bởi vì si mê, sau khi không thấu triệt lợi ích trong tương lai, chúng ngồi yên trong hiện tại khi có sanh lên công việc, giống như là những người đàn ông ấy (bị mất mạng) ở giữa biển cả.

 

1685. Nên làm trước công việc cần làm cho thời vị lai (nghĩ rằng): ‘Mong rằng công việc không làm cho tôi rối loạn vào thời điểm của công việc.’ Vị ấy là người như thế ấy, có sự thực hiện công việc cần phải làm trước thời hạn. Công việc không làm cho vị ấy rối loạn vào thời điểm của công việc.”

 

3. Bổn sanh Biển Cả Và Thương Buôn. [466]

 

1686. “Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, đương nhiên (người ấy) có ý vui mừng sau khi đã đạt được điều con người ước muốn.

 

1687. Đối với người ham muốn về dục, nếu điều ấy thành tựu đến người ấy, từ đó người ấy có các dục nhiều thêm, tựa như người có cơn khát vào mùa nóng nực.

 

1688. Tựa như loài bò, khi con bò có sừng phát triển (cơ thể) thì cái sừng của nó cũng phát triển; tương tự như vậy, đối với kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức, tham ái và sự khao khát phát triển nhiều thêm khi kẻ ấy tăng trưởng (về tuổi tác).

 

1689. Thậm chí sau khi đã ban cho ruộng lúa sāli, ruộng lúa mạch, bò, ngựa, nô lệ, và con người ở trái đất cũng không đủ cho một người, sau khi biết như thế, nên hành xử công bằng.

 

1690. Vị vua sau khi chiến thắng trái đất bằng vũ lực,

trong khi cư ngụ ở phần đất liền có đại dương bao quanh,

có vẻ không thỏa mãn bờ bên này của biển cả,

luôn bờ bên kia của biển cả cũng mong mỏi.

 

1691. Chừng nào còn tưởng nhớ các dục ở trong tâm, người ấy còn chưa đạt đến sự thỏa mãn. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi, từ đó quay trở lại, dừng lại; những người nào đã được thỏa mãn về trí tuệ, những người ấy quả thật đã được thỏa mãn.

 

1692. Sự thỏa mãn về trí tuệ là cao quý, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục. Với người đã được thỏa mãn về trí tuệ, tham ái không tạo được quyền lực.

 

1693. Thật vậy, nên giảm thiểu các dục, nên là người có ham muốn ít, không tham lam. Người (có trí tuệ lớn lao) ước chừng như biển cả, người ấy không bị đốt nóng bởi các dục.

 

1694. Tựa như người thợ thuộc da đang cắt miếng da tạo thành chiếc giày, mỗi khi dứt bỏ được chút nào của các dục, thì đạt đến hạnh phúc được chút ấy. Nếu mong muốn hạnh phúc trọn vẹn, thì nên lìa bỏ tất cả các dục.”

 

1695. “Tám kệ ngôn đã được ngài nói, tất cả đều xứng đáng bạc ngàn. Thưa vị Bà-la-môn vĩ đại, xin ngài hãy thọ nhận. Lành thay lời đã nói ấy của ngài.”

 

1696. “Không có lợi ích gì cho ta với một ngàn, với một trăm, hay với mười ngàn. Trong khi ta nói kệ ngôn cuối cùng, tâm ý của ta không còn thích thú ở dục.”

 

1697. “Chàng thanh niên thật sự hiền thiện, là bậc hiền sĩ hiểu biết tất cả thế gian, là bậc sáng suốt biết toàn diện tham ái, nguồn sanh ra khổ đau.”

 

4. Bổn sanh Các Dục. [467]

 

1698. “‘Quả thật, có mười sự việc này, mà người nào trước đây đã không làm thì sau này người ấy bị hối tiếc,’ đức vua Janasandha đã nói như thế.

 

1699. Tâm nóng nảy sau khi không đạt được vật đã không được tích lũy trước đây (nghĩ rằng): ‘Trước đây ta đã không tầm cầu tài sản,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1700. ‘Trong khi có vẻ có khả năng (để học tập) trước đây, nghề nghiệp đã không được ta học tập, sự sinh sống của người không có nghề nghiệp là khó khăn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1701. ‘Trước đây, ta đã là người biết giả dối, đâm thọc, nói lén sau lưng. Và ta đã là người tàn nhẫn và thô lỗ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1702. ‘Trước đây, ta đã có sự giết hại sanh mạng và đã là người hung dữ, không thánh thiện. Ta đã không thương xót các sinh linh,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1703. ‘Thật vậy, trong khi đang có nhiều người phụ nữ không cưới hỏi, tôi đã quyến rũ vợ của người khác,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1704. ‘Thật vậy, trước đây ta đã không ban phát vật thí trong khi có nhiều cơm nước được sẵn sàng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1705. 'Trong khi có khả năng, ta đã không nuôi dưỡng mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1706. ‘Ta đã khi dễ người cha, người thầy và người cố vấn đang đem lại cho ta sự hưởng thụ mọi điều ước muốn,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1707. ‘Trước đây, ta đã không hộ độ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, luôn cả những bậc có giới hạnh, các vị nghe nhiều hiểu rộng,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1708. ‘Lành thay hạnh khắc khổ đã được hành trì, và bậc an tịnh đã được hộ độ! Và trước đây hạnh khắc khổ đã không được ta hành trì,’ sau này người ấy bị hối tiếc như thế.

 

1709. Và người nào thực hành đúng đường lối các sự việc này trong khi làm các phận sự của con người, người ấy sau này không bị hối tiếc.”

 

5. Bổn sanh Đức Vua Janasandha. [468]

 

1710. “Thưa bậc sáng trí, có phải con chó đen tuyền và ghê rợn, có răng nanh trắng hếu, oai vệ, bị buộc lại bằng năm sợi dây thừng là của ngài?”

 

1711. “Tâu đức vua Usīnara, con chó này sẽ không vì mục đích (ăn thịt) các loài thú; khi nào có sự sai trái của con người, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1712. Khi nào các hạng Sa-môn, cạo đầu, tay cầm bình bát, trùm y hai lớp, sẽ cày đất với các lưỡi cày, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1713. Khi nào các nữ đạo sĩ khổ hạnh, đã được xuất gia, cạo đầu, trùm y hai lớp, sẽ đi đến thế gian (ngũ dục), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1714. Khi nào các vị đạo sĩ bện tóc, có râu dài, có răng bị đóng bợn, với đầu lấm bụi, đi đến việc cho vay lấy lãi, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1715. Khi nào các vị Bà-la-môn, sau khi học thuộc lòng kinh Sāvittī thuộc Vệ Đà và trình tự của lễ tế, sẽ làm lễ tế với tiền công, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1716. Khi nào những đứa con không đỡ đần mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ, trong khi chúng có khả năng, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1717. Khi nào chúng sẽ nói với mẹ hoặc luôn cả cha đã già nua, đã qua thời tuổi trẻ, rằng: ‘Các người là ngu dốt,’ khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1718. Khi nào ở thế gian, chúng sẽ đi đến (quyến rũ) vợ của thầy, vợ của bạn, vợ của cậu, em của cha (cô, o), khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1719. Khi nào các vị Bà-la-môn cầm lấy gươm với cái khiên rồi giơ gươm lên và sẽ gây ra việc giết chóc ở đường lộ, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1720. Khi nào những đứa con trai của các góa phụ, có nước da trắng, có cánh tay lớn, không trung thực, sẽ thực hiện việc chia rẽ bạn bè, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

1721. Khi nào những kẻ xảo trá, gian lận, có ý nghĩ gây khổ đau cho người khác sẽ xuất hiện ở thế gian, khi ấy con chó đen sẽ được thả ra.

 

6. Bổn sanh Con Chó Đen Lớn. [469]

 

1722. “Ta chẳng những không mua, cũng không bán. Thậm chí, sự tích lũy của ta cũng không có. Thật vậy, phần có được vô cùng khó khăn này là ít ỏi. Lượng cơm này không đủ cho hai người.”

 

1723. “Có chút ít thì nên bố thí chút ít, có vừa phải nên bố thí vừa phải, có nhiều nên bố thí nhiều, không bố thí là không thích đáng.

 

1724. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

 

1725. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người này là vô ích, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là vô ích.

 

1726. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

 

1727. “Người nào không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), sự cúng tế của người ấy là sự thật, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là sự thật.

 

1728. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

 

1729. “Người cúng tế ở hồ nước, và ở nhiều nơi, ở Gayā, ở Doṇa, ở bến nước Timbaru, ở dòng nước chảy xiết, ở sông lớn.

 

1730. Sự cúng tế của người này là ở đây, luôn cả việc nỗ lực (về tài sản) cũng là ở đây. Người này không một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước).

 

1731. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

 

1732. “Người nào một mình hưởng thụ bữa ăn trong khi khách ngồi (xơi nước), kẻ ấy nuốt phải lưỡi câu có sợi cước dài, có sự trói buộc.

 

1733. Này Kosiya, ta nói với ông về điều ấy. Ông hãy bố thí các vật thí và ông hãy thọ hưởng. Ông hãy bước lên đạo lộ thánh thiện; kẻ ăn một mình không thể đạt được hạnh phúc.”

 

1734. “Thật vậy, các vị Bà-la-môn này có màu sắc cao quý. Và đây là con chó của các ngài, nguyên nhân là thế nào? Nó biến hóa thành cao, thấp, có màu sắc và ánh sáng. Thưa các vị Bà-la-môn, xin các ngài hãy nói cho chúng tôi, các ngài là những người nào vậy?”

 

1735. “Canda và Suriya, cả hai đã đi đến nơi này. Còn đây là Mātali, người điều khiển Thiên xa. Ta là Sakka, Chúa của cõi Tam Thập. Và vị kia được gọi là Pañcasikha.

 

1736. Các điệu nhạc, các trống nhỏ, các trống một mặt, và các trống lớn đánh thức người đang ngủ ấy. Và người ấy vui mừng khi được thức tỉnh.

 

1737. Những người nào là những người bỏn xẻn, keo kiệt, những kẻ mắng nhiếc các vị Sa- môn và Bà-la-môn, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến địa ngục.

 

1738. Những người nào là những người đang mong mỏi cõi Trời, đứng vững ở đạo đức, ở sự tự chế ngự, và ở sự san sẻ, thì ngay ở nơi này, sau khi rời bỏ cơ thể thân xác, d0 sự hoại rã của thân, chúng di chuyển đến chốn an vui.

 

1739. Ông là thân quyến của chúng tôi ở những kiếp sống trước. Ông đây bỏn xẻn, giận dữ, có bản chất ác độc. Vì lợi ích cho chính ông mà chúng tôi đã đi đến nơi này. Mong sao cho kẻ có bản chất ác độc chớ đọa vào địa ngục.”

 

1740. “Các ngài quả thật là những người mong muốn điều lợi ích cho tôi, nên các ngài mới chỉ dạy cho tôi. Tôi đây sẽ thực hành đúng theo mọi điều đã được nói ra bởi các bậc hữu ân.

 

1741. Ngay từ hôm nay, tôi đây ngưng hẳn. Tôi cũng không làm bất cứ điều gì ác độc, cũng không có bất cứ cái gì mà tôi không thể bố thí, và tôi cũng không thể uống nước sau khi tôi chưa bố thí.

 

1742. Và trong khi tôi bố thí vào mọi lúc như vậy, thưa vị chúa của chư Thiên, các của cải này sẽ cạn kiệt. Kế đó, tôi sẽ xuất gia, thưa Thiên chủ Sakka, sau khi tôi từ bỏ các dục tùy theo mức giới hạn (của chúng).”

 

7. Bổn sanh Kẻ Keo Kiệt Kosiya. [470]

 

1743. “Đối với những kẻ thù trước đây chưa bao giờ có sự đối diện trong khoảng cách bảy bước chân ở thế gian này, giờ họ đã trở thành hai người bạn sống liên kết với nhau; nguyên nhân là thế nào?

 

1744. Nếu hôm nay, vào bữa ăn sáng của trẫm, các khanh không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy, trẫm sẽ trục xuất tất cả các khanh ra khỏi xứ sở, bởi vì với những kẻ có tuệ tồi thì không có lợi ích cho trẫm.”

 

1745. “Ở nơi tập trung đông đảo dân chúng, ở nơi hãi hùng, ở cuộc hội họp ồn ào của loài người, chúng tôi có ý nghĩ bị rối loạn, có tâm tánh thất thường, không có khả năng để trả lời câu hỏi ấy.

 

1746. Tâu vị chúa của loài người, các bậc sáng trí với tâm được chuyên nhất và chỉ một mình, đã đi đến nơi thanh vắng, sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng về ý nghĩa, sau khi nắm vững được vấn đề ở nơi cô quạnh, các vị sẽ nói về ý nghĩa ấy.”

 

1747. “Đối với các trai trẻ dòng quý tộc và các trai trẻ thuộc hoàng gia, thịt cừu là đáng yêu, đáng chuộng. Những vị ấy không ăn thịt chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

 

1748. Họ lột da của loài cừu vì nguyên nhân của sự thoải mái trong việc trải lên lưng ngựa. Và họ không trải lên bằng da của loài chó. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

 

1749. Bởi vì cừu là loài thú có sừng cong, và không có các sừng ở loài chó. Cừu có thức nhai là cỏ và chó có thức ăn là thịt. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

 

1750. Cừu là loài ăn cỏ và là loài ăn lá. Còn chó không ăn cỏ và không ăn lá. Chó có thể săn bắt thỏ và mèo. Rồi tình thân hữu có thể xảy ra giữa con cừu và con chó.”

 

1751. “Là con thú bốn chân thuộc loài tứ túc, con cừu có tám móng (mỗi chân có hai móng) không bị phát hiện. Con chó này mang lại vật che đậy (rơm, cỏ) cho con cừu kia; con cừu kia mang lại thịt cho con chó này.

 

1752. Vị thủ lĩnh xứ sở Videha đi đến tòa lâu đài, vị chúa của loài người đã thực sự nhìn thấy tận mắt việc trao đổi về thức ăn giữa con thú này với con kia. Và điều ấy xảy ra giữa con chó và con cừu.”

 

1753. “Thật vậy, lợi ích có hình thức không phải là nhỏ đã có cho trẫm, là việc trẫm đây có được các bậc sáng suốt như thế này ở gia tộc! Bằng lời nói khéo léo, các bậc sáng trí thấu triệt ý nghĩa vi tế và sâu sắc của câu hỏi.

 

1754. Với tâm ý được hài lòng tột đỉnh, trẫm sẽ ban cho tất cả các bậc sáng suốt các khanh mỗi vị một cỗ xe kéo bởi lừa cái, mỗi vị một ngôi làng hạng nhất, giàu có.”

 

8. Bổn sanh Câu Hỏi Về Con Cừu. [471]

 

1755. “Sau khi chưa nhìn thấy tội lỗi của người khác, sau khi chưa tự mình xem xét các tội nhỏ lớn về mọi khía cạnh, vị chúa tể không nên ra lệnh hình phạt.

 

1756. Và vị Sát-đế-lỵ nào không xem xét mà thực hành hình phạt, vị ấy là kẻ nuốt phải xương, tựa như người mù bẩm sinh ăn phải ruồi.

 

1757. Người gia hình kẻ không đáng bị phạt và không gia hình kẻ đáng bị phạt, tựa như người mù đi ở đường gồ ghề không nhận biết chỗ bằng phẳng và không bằng phẳng.

 

1758. Và vị nào có thể chỉ dạy sau khi đã xem xét kỹ lưỡng các sự việc lớn nhỏ ấy về mọi khía cạnh, vị ấy quả thật xứng đáng để phát biểu.

 

1759. Không thể thiết lập bản thân vào địa vị quan trọng theo cách quá nhu nhược hay theo cách quá khắc nghiệt; vì thế, nên hành xử cả hai cách.

 

1760. Người nhu nhược thì bị khinh miệt, và người quá khắc nghiệt thì có kẻ thù nghịch. Sau khi biết cả hai điều ấy, nên thực hành theo lối trung dung.

 

1761. Người bị ái luyến có thể nói nhiều, người bị sân hận cũng nói nhiều. Tâu bệ hạ, không vì nguyên nhân phụ nữ, mà ngài có thể giết hại con trai.”

 

1762. “Tất cả thế gian là một phe, và người phụ nữ này chỉ một mình. Vì thế, trẫm sẽ thực hành theo lời vương hậu. Ngươi hãy đi. Các khanh hãy ném nó xuống vực.”

 

1763. “Con đã bị ném vào khe núi, ở địa ngục có nhiều cây thốt-nốt, sâu thẳm, và khó vượt qua; vì sao con đã không chết ở nơi ấy?”

 

1764. “Ở nơi ấy, có con rắn có oai lực của loài rắn, có sức mạnh, được sanh ra ở vùng núi đồi, đã đón nhận con bằng những vòng thân thể cuộn tròn; vì thế, con đã không chết ở nơi ấy.”

 

1765. “Này hoàng tử, hãy đến, trẫm sẽ đưa con về lại nhà của mình. Con hãy cai trị xứ sở. Này người đạo đức, con sẽ làm gì ở trong rừng?”

 

1766. “Giống như con cá cắn lưỡi câu, khi kéo lên thì có chảy máu. Sau khi đã kéo lên thì có sự thoải mái; con nhìn thấy bản thân mình tương tự như vậy.”

 

1767. “Con nói cái gì về lưỡi câu? Con nói cái gì về có chảy máu? Con nói cái gì về đã được kéo lên? Được hỏi, con hãy giải thích điều ấy cho trẫm.”

 

1768. “Con nói sự ham muốn là lưỡi câu, voi và ngựa là có chảy máu. Con nói đã bị từ bỏ là đã được kéo lên. Thưa vị Sát- đế- lỵ, ngài hãy nhận biết như thế.”

 

1769. “Kiều nữ Ciñcā là vương hậu, Devadatta là vua cha của Ta, Ānanda là con rắn sáng suốt, Sāriputta là vị Thiên nhân, khi ấy Ta là vị hoàng tử, các ngươi hãy ghi nhớ câu chuyện Bổn Sanh là như vậy.”

 

9. Bổn sanh Hoàng Tử Paduma Vĩ Đại. [472]

 

1770. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe kẻ đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh, có thể nhận biết đây là thù? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra kẻ ấy)?”

 

1771. “Gã không tươi cười sau khi thấy vị kia, không vui mừng với vị kia, không đáp trả những ánh mắt của vị này, và xử sự theo cách ngược lại.

 

1772. Gã giao thiệp với những kẻ thù của vị ấy, không phục vụ các bạn bè của vị ấy, ngăn chận những người có ý muốn tán dương, khen ngợi những kẻ đang khiển trách (vị ấy).

 

1773. Gã không nói điều bí mật cho vị ấy, không che dấu điều bí mật của vị ấy, không tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.

 

1774. Gã hân hoan ở sự không thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, không tưởng nhớ đến vị ấy. Gã không có lòng trắc ẩn đến vị kia từ phần chia ở nơi ấy, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.’

 

1775. Như thế, mười sáu biểu hiện này được thiết lập ở kẻ thù; nhờ vào những điều ấy, người sáng suốt sau khi nhìn thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là thù.”

 

1776. “Sau khi nhìn thấy và lằng nghe người đang làm những hành động gì mà các bậc sáng suốt có sự thông minh có thể nhận biết đây là bạn? Người hiểu biết nên nỗ lực như thế nào (để nhận ra người ấy)?”

 

1777. “Người ấy ghi nhớ việc đã đi xa của vị này, vui mừng việc trở lại của vị này. Do việc ấy, người được yêu thích đáp lại sự hân hoan qua lời nói.

 

1778. Người ấy giao thiệp với những bạn bè của chính vị ấy, không phục vụ các kẻ thù của vị ấy, ngăn chận những kẻ đang khiển trách, khen ngợi những người có ý muốn tán dương (vị ấy).

 

1779. Người ấy nói điều bí mật cho vị ấy, che đậy điều bí mật của vị ấy, tán dương việc làm của vị ấy, không khen ngợi trí tuệ của vị này.

 

1780. Người ấy hân hoan ở sự thành công của vị ấy, không hân hoan ở sự không thành công của vị ấy. Sau khi nhận được thức ăn tuyệt hảo, liền tưởng nhớ đến vị ấy. Người ấy có lòng trắc ẩn đến vị ấy từ phần chia ở nơi đó, (nói rằng): ‘Ồ, thậm chí vị ấy cũng có thể nhận phần từ nơi này.’

 

1781. Như thế, mười sáu biểu hiện này khéo được thiết lập ở người bạn, nhờ vào những điều ấy, người sáng suốt sau khi nhìn thấy và lằng nghe có thể nhận biết đây là bạn.”

 

10. Bổn sanh Bạn Và Thù. [473]

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

 

Có tâm khinh suất, Thần cây May Mắn, họ cày đất,

rồi chuyện về dục, và quả thật có mười sự việc,

rồi con chó đen, Kosiya tốt lành, và chuyện con cừu,

hoàng tử Paduma, rồi chuyện bạn hữu, là mười.    

 

Nhóm Mười Hai Kệ Ngôn được chấm dứt.

 

--ooOoo--

 


[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09][10][11][12][13][14]


[Thư Mục Tổng Quát][Thư mục Bổn Sanh I][Thư mục Bổn Sanh II][Thư mục Bổn Sanh III]