TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 35
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
MAHĀNIDDESAPĀḶI
- ĐẠI DIỄN GIẢI
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
Giờ sẽ nói đến Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa:
Thật vậy, một số người nói xấu với tâm ý xấu xa.
Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói xấu.
Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói xấu đã khởi lên,
bởi vậy bậc hiền trí không có bợn nhơ ở bất cứ đâu.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
"Thật vậy, một số người nói xấu với tâm ý xấu xa.
Quả vậy, một số người có tâm ý chân thật cũng nói xấu.
Bậc hiền trí không tiếp cận lời nói xấu đã khởi lên,
bởi vậy bậc hiền trí không có bợn nhơ ở bất cứ đâu."
Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích,
trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ,
làm thế nào có thể vượt quá quan điểm của chính mình?
Bởi vì biết như thế nào thì nên nói như thế ấy.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
"Bị dẫn dắt bởi lòng mong muốn, đã đi theo sự ưa thích,
trong khi tự mình làm cho (các quan điểm trở nên) đầy đủ,
làm thế nào có thể vượt quá quan điểm của chính mình?
Bởi vì biết như thế nào thì nên nói như thế ấy."
Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói vị ấy là không có Thánh pháp.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
Người nào, dầu không được hỏi đến, mà nói với những người khác về giới và phận sự của bản thân, người nào tự chính mình nói về bản thân, các bậc thiện xảo đã nói vị ấy là không có Thánh pháp.
Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt,
không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’
đối với vị nào không có sự tích tụ ở bất cứ đâu ở thế gian,
các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.
(Đức Thế Tôn dạy Sabhiya):
Với đường lối đã được thực hành bởi bản thân, đã đạt đến sự hoàn toàn tịch diệt, có sự hoài nghi đã được xa lìa, sau khi dứt bỏ hẳn hữu và phi hữu, vị tỳ khưu ấy đã sống (Phạm hạnh), có sự tái sanh đã được cạn kiệt.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Và vị tỳ khưu an tịnh, có trạng thái đã được hoàn toàn diệt tắt,
không khoe khoang về các giới rằng: ‘Tôi là thế này,’
đối với vị nào không có sự tích tụ ở bất cứ đâu ở thế gian,
các bậc thiện xảo nói vị ấy là có Thánh pháp.”
Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác,
được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch,
(người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân,
rồi đã nương vào điều ấy, (là) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện.
Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác: Sự xét đoán - Có hai sự xét đoán: xét đoán do tham ái và xét đoán do tà kiến. ―như trên― điều này là xét đoán do tham ái. ―như trên― điều này là xét đoán do tà kiến. Đây là hai sự xét đoán. Được tạo tác: được tạo tác, được tác thành, được sửa soạn, được thành lập, như thế cũng là được tạo tác. Hoặc các pháp hoại, các pháp diệt, các pháp lìa khỏi luyến ái, các pháp diệt tắt là không thường còn, được tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện, như thế cũng là được tạo tác. Của người nào: của người có tà kiến. Các pháp gọi là 62 tà kiến. ‘Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác’ là thế ấy.
Được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch: Được chú trọng - Có hai sự chú trọng: chú trọng do tham ái và chú trọng do tà kiến. ―như trên― đều này là chú trọng do tham ái. ―như trên― điều này là chú trọng do tà kiến. Đối với vị ấy, sự chú trọng do tham ái không bị dứt bỏ, sự chú trọng do tà kiến không bị xả bỏ. Đối với vị ấy, do không dứt bỏ sự chú trọng do tham ái, do không xả bỏ sự chú trọng do tà kiến, người ấy sống, chú trọng cho tham ái hoặc tà kiến, có tham ái là ngọn cờ, có tham ái là biểu hiện, có tham ái là chủ đạo, có tà kiến là ngọn cờ, có tà kiến là biểu hiện, có tà kiến là chủ đạo, sống được vây quanh bởi tham ái hoặc bởi tà kiến. Là: là (nghĩa là) được biết đến, có, được nhận lấy. Không trong sạch: không trong sạch (nghĩa là) không trong trắng, không thanh tịnh, bị ô nhiễm, liên quan phiền não. ‘Được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch’ là thế ấy.
(Người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân - Điều nào ... cho bản thân: điều nào ở bản thân. Bản thân: đề cập đến việc đã theo tà kiến. Do tà kiến của bản thân, (người ấy) nhìn thấy hai sự lợi ích: lợi ích ở đời hiện tại và lợi ích ở đời vị lai.
Lợi ích ở đời hiện tại do tà kiến là lợi ích nào? Vị thầy có quan điểm nào thì các đệ tử có cùng quan điểm ấy. Các đệ tử trọng vọng, cung kính, sùng bái, cúng dường, nể nang vị thầy có quan điểm ấy. Và do điều đó (vị thầy) nhận được các vật dụng về y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh. Điều này là lợi ích ở đời hiện tại do tà kiến.
Lợi ích ở đời vị lai do tà kiến là lợi ích nào? Là có sự mong mỏi quả thành tựu ở vị lai rằng: ‘Quan điểm này đủ để đưa đến bản thể loài rồng, hoặc đưa đến bản thể nhân điểu, hoặc đưa đến bản thể A-tu-la, hoặc đưa đến bản thể Càn-thát-bà, hoặc đưa đến bản thể đại vương, hoặc đưa đến bản thể Thiên chủ, hoặc đưa đến bản thể Phạm Thiên, hoặc đưa đến bản thể Thiên nhân. Quan điểm này đủ để đưa đến sự trong sạch, đưa đến sự thanh tịnh, đưa đến sự hoàn toàn thanh tịnh, đưa đến sự thoát khỏi, đưa đến sự giải thoát, đưa đến sự hoàn toàn giải thoát. Với quan điểm này, họ trở nên trong sạch, họ trở nên thanh tịnh, họ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, họ được thoát khỏi, họ được giải thoát, họ được hoàn toàn giải thoát. Với quan điểm này, ta sẽ trở nên trong sạch, ta sẽ trở nên thanh tịnh, ta sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, ta sẽ được thoát khỏi, ta sẽ được giải thoát, ta sẽ được hoàn toàn giải thoát.’ Điều này là lợi ích ở đời vị lai do tà kiến. Với tà kiến của bản thân, (người ấy) nhìn thấy, nhìn ngắm, quan sát, suy xét, xem xét hai sự lợi ích này. ‘(Người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân’ là thế ấy.
Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện - Có ba sự an tịnh: sự an tịnh tuyệt đối, sự an tịnh do chi phần ấy, sự an tịnh do quy định.
Sự an tịnh tuyệt đối là điều nào? Sự an tịnh tuyệt đối nói đến Bất Tử, Niết Bàn, sự yên lặng của tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sự an tịnh tuyệt đối.
Sự an tịnh do chi phần ấy là điều nào? Đối với vị đã thể nhập sơ thiền, các pháp che lấp (thiền định) được an tịnh. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tầm và tứ được an tịnh. Đối với vị thể nhập tam thiền, hỷ được an tịnh. Đối với vị thể nhập tứ thiền, lạc và khổ được an tịnh. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, không vô biên xứ tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, thức vô biên xứ tưởng được an tịnh. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ tưởng được an tịnh. Đây là sự an tịnh do chi phần.
Sự an tịnh do quy định là điều nào? Sự an tịnh do quy định nói đến 62 tà kiến, các điều này là sự an tịnh của tà kiến. Hơn nữa, sự an tịnh do quy định là sự an tịnh được đề cập ở ý nghĩa này.
Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện: rồi đã nương vào, phụ thuộc vào, đã bám vào, đã tiến vào, đã bám chặt, đã hướng đến sự an tịnh bị thay đổi, sự an tịnh bị khuấy động, sự an tịnh bị di động, sự an tịnh bị chuyển động, sự an tịnh bị dao động, sự an tịnh bị tác động, sự an tịnh được sắp xếp, sự an tịnh được xét đoán, sự an tịnh là pháp hoại, pháp diệt, pháp lìa khỏi luyến ái, pháp diệt tắt có tính chất không thường còn, được tạo tác, được sanh lên tùy theo điều kiện. ‘Rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện’ là thế ấy.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các pháp của người nào được xét đoán, được tạo tác, được chú trọng, là (các pháp) không trong sạch, (người ấy) nhìn thấy điều nào là việc lợi ích cho bản thân, rồi đã nương vào điều ấy, (vào) sự an tịnh bị thay đổi, tùy theo điều kiện.”
Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua
sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp (tà kiến).
Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người
rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).
Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua - Các sự chấp chặt vào tà kiến: Sự cố chấp và bám víu rằng: ‘Thế giới là thường còn; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không’ là sự chấp chặt vào tà kiến. Sự cố chấp và bám víu rằng: ‘Thế giới là không thường còn, thế giới là có giới hạn, thế giới là không có giới hạn, mạng sống là vật ấy thân thể là vật ấy, mạng sống là vật khác thân thể là vật khác, đức Như Lai hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai hiện hữu và không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết, đức Như Lai không hiện hữu và không phải là không hiện hữu ở nơi khác sau khi chết; chỉ điều này là sự thật, cái khác là rỗng không’ là sự chấp chặt vào tà kiến. ‘Các sự chấp chặt vào tà kiến’ là thế ấy. Quả thật không dễ vượt qua: Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua, khó vượt qua, khó vượt lên, khó vượt hẳn, khó vượt trội, khó vượt trên hẳn. ‘Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua’ là thế ấy.
Sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp - Trong số các pháp: trong số 62 tà kiến. Sau khi đã suy xét: sau khi suy xét, sau khi suy nghiệm, sau khi chọn lựa, sau khi chọn lọc, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân biệt, sau khi làm rõ. Điều đã được chọn lựa là sự nắm lấy có giới hạn, sự nắm lấy từng phần, sự nắm lấy tối thượng, sự nắm lấy toàn phần, sự nắm lấy theo số lượng, sự nắm lấy tổng thể ở các sự chấp chặt rằng: ‘Điều này là sự thật, là đúng đắn, là như thế, là đang xảy ra, có bản thể như vậy, không bị sai lệch, được nắm giữ, được bám víu, được cố chấp, được bám chặt, được hướng đến. ‘Sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp’ là thế ấy.
Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người - Vì thế: bởi điều ấy, bởi lý do ấy, bởi nhân ấy, bởi duyên ấy, bởi căn nguyên ấy. Loài người là chúng sanh, đàn ông, thanh niên, người nam, cá nhân, mạng sống, người còn sanh tử, con người, người đi theo nghiệp, nhân loại.
Rời bỏ và nắm giữ tà kiến: Rời bỏ - Rời bỏ bởi hai lý do: rời bỏ do sự can ngăn của người khác, hoặc là trong khi không thành tựu rồi rời bỏ.
Rời bỏ do sự can ngăn của người khác là thế nào? Người khác can ngăn rằng: ‘Vị thầy ấy không toàn tri, pháp không khéo được thuyết giảng, nhóm không khéo được huấn luyện, quan điểm không tốt lành, sự thực hành không khéo được quy định, đạo lộ không đưa đến giải thoát, sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự hoàn toàn thanh tịnh, sự thoát khỏi, sự giải thoát, hay sự hoàn toàn giải thoát không có ở đây; họ trở nên trong sạch, trở nên thanh tịnh, trở nên hoàn toàn thanh tịnh, được thoát khỏi, được giải thoát, hoặc được hoàn toàn giải thoát không có ở đây, họ trở nên thấp hèn, hèn kém, hèn mọn, thấp kém, thấp thỏi, tồi tệ, nhỏ nhoi; người khác can ngăn là như vậy. Trong khi bị căn ngăn như vậy rồi rời bỏ vị thầy, rời bỏ sự thuyết giảng pháp, rời bỏ nhóm, rời bỏ quan điểm, rời bỏ sự thực hành, rời bỏ đạo lộ; rời bỏ do sự can ngăn của người khác là như vậy.
Trong khi không thành tựu rồi rời bỏ là thế nào? Trong khi không thành tựu giới rồi rời bỏ giới, trong khi không thành tựu phận sự rồi rời bỏ phận sự, trong khi không thành tựu giới và phận sự rồi rời bỏ giới và phận sự. Và nắm giữ tà kiến: Nắm lấy vị thầy, nắm lấy sự thuyết giảng pháp, nắm lấy nhóm, nắm lấy quan điểm, nắm lấy sự thực hành, nắm lấy đạo lộ, rồi bám víu, cố chấp. ‘Rời bỏ và nắm giữ tà kiến’ là thế ấy.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Các sự chấp chặt vào tà kiến quả thật không dễ vượt qua
sau khi đã suy xét điều đã được chọn lựa trong số các pháp (tà kiến).
Vì thế, trong số các sự chấp chặt ấy, loài người
rời bỏ và nắm giữ tà kiến (này đến tà kiến khác).”
Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?
Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian - Đã rủ sạch: đã rủ sạch được gọi là tuệ. Tuệ là sự nhận biết, kiến thức, sự chọn lựa, sự khám phá, sự chọn lựa pháp, sự quan sát, sự suy xét, sự phân biệt, sự thông thái, sự thông thạo, sự khôn khéo, sự thông suốt, sự cân nhắc, sự rõ ràng, sự hiểu biết rộng rãi, sự thông minh, pháp dẫn đầu, sự thấy rõ, sự tỉnh giác, vật xuyên thủng, tuệ là tuệ quyền, tuệ lực, tuệ là vũ khí, tuệ là lâu đài, tuệ là ánh sáng, tuệ là hào quang, tuệ là báu vật, là sự không si mê, sự chọn lựa pháp, chánh kiến.
Vì lý do gì mà đã rủ sạch được gọi là tuệ? Nhờ vào tuệ ấy, uế hạnh về thân được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về khẩu được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; uế hạnh về ý được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sự luyến ái được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; sân hận ― si mê ― giận dữ ― thù hằn ― gièm pha ― ác ý được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; ganh tỵ được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; bội bạc được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; bướng bỉnh được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; hung hăng ― ngã mạn ― kiêu căng ― đam mê ― xao lãng được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; tất cả ô nhiễm ― tất cả uế hạnh ― mọi sự lo lắng ― mọi sự bực bội ― mọi sự nóng nảy ― mọi sự tạo tác bất thiện được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Vì lý do ấy mà đã rủ sạch được gọi là tuệ. Hoặc là nhờ vào chánh kiến, tà kiến được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh tư duy, tà tư duy được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch; nhờ vào chánh ngữ, tà ngữ được rủ bỏ ― nhờ vào chánh nghiệp, tà nghiệp được rủ bỏ ― nhờ vào chánh mạng, tà mạng được rủ bỏ ― nhờ vào chánh tinh tấn, tà tinh tấn được rủ bỏ ― nhờ vào chánh niệm, tà niệm được rủ bỏ ― nhờ vào chánh định, tà định được rủ bỏ ― nhờ vào chánh trí, tà trí được rủ bỏ ― nhờ vào chánh giải thoát, tà giải thoát được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Hoặc là nhờ vào Thánh Đạo tám chi, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, mọi sự tạo tác bất thiện được rủ bỏ, được rủ sạch, được tẩy sạch, được gột sạch. Bậc A-la-hán đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu các pháp cần được rủ sạch này, vì thế bậc A-la-hán đã được rủ sạch. Vị ấy có ái luyến đã được rủ bỏ, có điều ác đã được rủ bỏ, có ô nhiễm đã được rủ bỏ, có sự bực bội đã được rủ bỏ. ‘Được rủ sạch’ là thế ấy.
Ở bất cứ đâu: ở bất cứ đâu, về bất cứ điều gì, ở bất cứ chỗ nào, nội phần hoặc ngoại phần hoặc nội phần và ngoại phần. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ. Được sắp đặt - Có hai sự sắp đặt: sắp đặt do tham ái và sắp đặt do tà kiến. ―như trên― điều này là sắp đặt do tham ái. ―như trên― điều này là sắp đặt do tà kiến. Đây là hai sự sắp đặt. Ở hữu và phi hữu: ở dục giới sắc giới vô sắc giới, ở cảnh giới của nghiệp, ở cảnh giới của sự tái sanh; ở cảnh giới của nghiệp là dục giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là dục giới, ở cảnh giới của nghiệp là sắc giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là sắc giới, ở cảnh giới của nghiệp là vô sắc giới, ở cảnh giới của sự tái sanh là vô sắc giới, ở sự sanh lên được tiếp diễn, ở cảnh giới tái sanh được tiếp diễn, ở sự tiếp nối tái sanh được tiếp diễn, ở sự tái sanh của bản ngã được tiếp diễn. Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian: đối với vị đã rủ sạch, tư tưởng đã được sắp đặt, đã được tác thành, đã được thành lập liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian thì không có, không hiện diện, không tìm thấy, không tồn tại, được dứt bỏ, được trừ tuyệt, được vắng lặng, được tịch tịnh, không thể sanh khởi nữa, đã bị thiêu đốt bởi ngọn lửa trí tuệ. ‘Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian’ là thế ấy.
Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn - xảo quyệt nói đến các hành vi lường gạt; ở đây có người sau khi làm uế hạnh bằng thân, sau khi làm uế hạnh bằng lời nói, sau khi làm uế hạnh bằng ý, vì nguyên nhân che đậy việc ấy, xác quyết ước muốn xấu xa: (Vị ấy) ước muốn rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ suy tư rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ nói lời rằng: ‘Chớ ai biết về tôi,’ nỗ lực bằng thân rằng: ‘Chớ ai biết về tôi.’ Sự xảo quyệt với hình thức như vầy là có trạng thái xảo quyệt, là việc tội lỗi, lường gạt, gian lận, thay đổi, tránh né, cất giấu, che giấu, che đậy, che đậy kín, không phơi bày, không làm rõ, khéo che đậy, việc làm ác, điều này gọi là xảo quyệt.
Ngã mạn - Ngã mạn theo một loại: là sự cao ngạo của tâm. Ngã mạn theo hai loại: ngã mạn do tâng bốc bản thân và ngã mạn do khinh bỉ người khác. Ngã mạn theo ba loại: ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi tốt hơn,’ ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi ngang bằng,’ ngã mạn (với ý nghĩ) ‘Tôi thấp hèn.’ Ngã mạn theo bốn loại: do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do danh vọng rồi sanh khởi ngã mạn, do khen ngợi rồi sanh khởi ngã mạn, do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo năm loại: (nghĩ rằng:) ‘Ta đạt được các sắc thích ý’ rồi sanh khởi ngã mạn, (nghĩ rằng:) ‘Ta đạt được các thinh ― các hương ― các vị ― các xúc thích ý’ rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo sáu loại: Do sự thành tựu của mắt rồi sanh khởi ngã mạn, do sự thành tựu của tai ― do sự thành tựu của mũi ― do sự thành tựu của lưỡi ― do sự thành tựu của thân ― do sự thành tựu của ý rồi sanh khởi ngã mạn. Ngã mạn theo bảy loại: ngã mạn, cống cao, cống cao dựa trên ngã mạn, tự ti, ngã mạn thái quá, ngã mạn về bản thân, ngã mạn do hiểu biết sai trái. Ngã mạn theo tám loại: do lợi lộc rồi sanh khởi ngã mạn, do không có lợi lộc rồi sanh khởi tự ti, do danh tiếng rồi sanh khởi ngã mạn, do không có danh tiếng rồi sanh khởi tự ti, do khen ngợi rồi sanh khởi ngã mạn, do chê trách rồi sanh khởi tự ti, do sung sướng rồi sanh khởi ngã mạn, do khổ đau rồi sanh khởi tự ti. Ngã mạn theo chín loại: Người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người tốt hơn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người ngang bằng có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi tốt hơn,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi ngang bằng,’ người thấp hèn có sự ngã mạn (nghĩ rằng) ‘Tôi thấp hèn,’ Ngã mạn theo mười loại: Ở đây có người sanh khởi ngã mạn về xuất thân, về dòng dõi, về con nhà gia thế, về vẻ đẹp của vóc dáng, về tài sản, về học vấn, về công việc, về tài nghệ, về kiến thức, về sự học hỏi, về tài biện giải, hoặc về sự việc này khác.’ Ngã mạn với hình thức như vầy là biểu hiện của ngã mạn, bản thể của ngã mạn, sự cao ngạo, sự nâng cao, (như) ngọn cờ, sự tự nâng lên, sự khoe khoang tự đắc của tâm, điều này gọi là ngã mạn. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn - Vị đã rủ sạch sau khi từ bỏ, sau khi dứt bỏ, sau khi xua đi, sau khi làm chấm dứt, sau khi khiến cho không còn hiện hữu xảo quyệt và ngã mạn. ‘Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn’ là thế ấy.
Bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận? - Sự vướng bận - Có hai sự vướng bận: sự vướng bận do tham ái và sự vướng bận do tà kiến. ―như trên― điều này là sự vướng bận do tham ái. ―như trên― điều này là sự vướng bận do tà kiến. Đây là hai sự vướng bận. Đối với vị ấy, sự vướng bận do tham ái được dứt bỏ, sự vướng bận do tà kiến được xả bỏ. Do tình trạng dứt bỏ sự vướng bận do tham ái, do tình trạng xả bỏ sự vướng bận do tà kiến, thì vị không có sự vướng bận có thể ra đi bởi sự luyến ái gì, có thể ra đi bởi sự sân hận gì, có thể ra đi bởi sự si mê gì, có thể ra đi bởi sự ngã mạn gì, có thể ra đi bởi tà kiến gì, có thể ra đi bởi sự phóng dật gì, có thể ra đi bởi hoài nghi gì, có thể ra đi bởi các pháp tiềm ẩn gì, có phải là người bị luyến ái, hoặc bị sân hận, hoặc bị si mê, hoặc bị bảo thủ, hoặc bị bám víu, hoặc vững chải? Các sự tạo tác ấy được dứt bỏ. Do tình trạng dứt bỏ của các pháp tạo tác, thì vị ấy có thể ra đi về cảnh giới tái sanh gì, hay (trở thành) người địa ngục, hoặc hạng sanh vào thai bào của loài thú, hoặc người ở cảnh giới ngạ quỷ, hoặc loài người, hoặc chư Thiên, hoặc hữu hình, hoặc vô hình, hoặc hữu tưởng, hoặc vô tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng? Vị ấy không có nhân, không có duyên, không có lý do, mà vì điều ấy có thể ra đi. ‘Bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?’ là thế ấy.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Quả thật, đối với vị đã rủ sạch thì không có tư tưởng được sắp đặt liên quan đến hữu và phi hữu ở bất cứ đâu ở thế gian. Vị đã rủ sạch sau khi dứt bỏ xảo quyệt và ngã mạn, thì bởi điều gì mà vị ấy có thể ra đi khi vị ấy không có sự vướng bận?”
Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp,
vì điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận?
Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy;
vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.
Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:
“Quả thật, người vướng bận tiếp cận sự tranh luận về các pháp,
vì điều gì, bằng cách nào có thể nói về người không vướng bận?
Bởi vì điều được nắm lấy và được rời bỏ là không có đối với vị ấy;
vị ấy đã rũ bỏ mọi tà kiến ở ngay tại nơi đây.”
Diễn Giải Kinh Nhóm Tám về Xấu Xa là thứ ba.
--ooOoo--
[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09][10][11][12][13][14][15][16]
[Thư Mục Tổng Quát][ĐẠI DIỄN GIẢI][TIỂU DIỄN GIẢI]