TAM TẠNG PĀLI - VIỆT tập 35
TẠNG KINH - TIỂU BỘ
MAHĀNIDDESAPĀḶI - ĐẠI DIỄN GIẢI
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda

14. TUVAṬAKASUTTANIDDESO - DIỄN GIẢI KINH MỘT CÁCH NHANH CHÓNG

 

Giờ phần Diễn Giải Kinh Một Cách Nhanh Chóng được nói đến:

 

14 - 1

 

“Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời,

bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh.

Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt,

không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian?”

 

Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời – Việc hỏi: Có ba loại việc hỏi: việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy, việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy, việc hỏi để cắt đứt sự phân vân.

 

Việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy là việc nào? Thông thường, đối với tướng trạng chưa được biết, chưa được thấy, chưa được cân nhắc, chưa được xác định, chưa được rõ rệt,chưa được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi để biết, để thấy, để cân nhắc, để xác định, để phân biệt về điều ấy. Đây là việc hỏi để làm sáng tỏ điều chưa thấy.

 

Việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy là việc nào? Thông thường, đối với tướng trạng đã được biết, đã được thấy, đã được cân nhắc, đã được xác định, đã được rõ rệt, đã được minh định, thì người ta hỏi câu hỏi nhằm mục đích thông hiểu cùng với các vị sáng suốt khác. Đây là việc hỏi để thông hiểu điều đã thấy.

 

Việc hỏi để cắt đứt sự phân vân là việc nào? Thông thường, người bị rơi vào sự hoài nghi, bị rơi vào sự phân vân, bị sanh lên sự lưỡng lự rằng: “Phải chăng như vầy là đúng, phải chăng là không đúng, là cái gì đây, là thế nào đây?” người ấy hỏi câu hỏi nhằm mục đích cắt đứt sự phân vân. Đây là việc hỏi để cắt đứt sự phân vân. Đây là ba loại việc hỏi.

 

Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi của loài người, việc hỏi của phi nhân, việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra.

 

Việc hỏi của loài người là việc nào? Loài người đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi: các vị tỳ khưu hỏi, các vị tỳ khưu ni hỏi, các nam cư sĩ hỏi, các nữ cư sĩ hỏi, các vị vua hỏi, các vị Sát-đế-lỵ hỏi, các vị Bà-la-môn hỏi, các người thương buôn hỏi, các kẻ nô lệ hỏi, các người tại gia hỏi, các vị xuất gia hỏi. Đây là việc hỏi của loài người.

 

Việc hỏi của phi nhân là việc nào? Các phi nhân đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi: các loài rồng hỏi, các nhân điểu hỏi, các Dạ-xoa hỏi, các A-tu-la hỏi, các Càn-thát-bà hỏi, các đại vương hỏi, các Thiên chủ hỏi, các Phạm Thiên hỏi, các Thiên nhân hỏi. Đây là việc hỏi của phi nhân.

 

Việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra là việc nào? Đức Thế Tôn hóa hiện ra hình dáng (vị Phật) được tạo thành bởi ý, có tất cả các bộ phận thân thể lớn nhỏ, có giác quan không bị khiếm khuyết, vị (Phật) đã được hóa hiện ra ấy đi đến gặp đức Phật Thế Tôn và hỏi câu hỏi, đức Thế Tôn trả lời. Đây là việc hỏi của vị (Phật) đã được hóa hiện ra. Đây là ba loại việc hỏi.

 

Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích của bản thân, việc hỏi về lợi ích của người khác, việc hỏi về lợi ích của cả hai. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích trong đời này, việc hỏi về lợi ích trong đời sau, việc hỏi về lợi ích tối thượng. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về lợi ích của sự không tội lỗi, việc hỏi về lợi ích của sự buông bỏ, việc hỏi về lợi ích của sự trong sạch. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về quá khứ, việc hỏi về vị lai, việc hỏi về hiện tại. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về nội phần, việc hỏi về ngoại phần, việc hỏi về nội phần và ngoại phần. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về thiện, việc hỏi về bất thiện, việc hỏi về vô ký. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về uẩn, việc hỏi về giới, việc hỏi về xứ. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về thiết lập niệm, việc hỏi về chánh tinh tấn, việc hỏi về nền tảng của thần thông. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về quyền, việc hỏi về lực, việc hỏi về giác chi. Còn có ba loại việc hỏi khác nữa: việc hỏi về Đạo, việc hỏi về Quả, việc hỏi về Niết Bàn.

 

Tôi hỏi ngài: Tôi hỏi ngài, tôi yêu cầu ngài, vị tôi mời ngài, vị tôi thỉnh ngài, xin ngài hãy thuyết giảng cho tôi; – ‘tôi hỏi ngài’ là như thế. Đấng quyến thuộc của mặt trời: Mặt trời nói đến Thái Dương. Dòng tộc Thái Dương là dòng tộc Gotama; đức Thế Tôn cũng là dòng tộc Gotama. Đức Thế Tôn là bà con trong dòng tộc, là quyến thuộc trong dòng tộc của Thái Dương, vì thế đức Phật là quyến thuộc của mặt trời; – ‘tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời’ là như thế.

 

Bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh - Sự viễn ly: Có ba sự viễn ly: thân viễn ly, tâm viễn ly, sanh y viễn ly.

 

Thế nào là thân viễn ly? Ở đây, vị tỳ khưu thân cận chỗ trú ngụ xa vắng, khu rừng rậm, gốc cây, sườn núi, thung lũng, khe núi, bãi tha ma, khu rừng thưa, đồng trống, đống rơm, và sống viễn ly về thân. Vị ấy đi một mình, đứng một mình, ngồi một mình, nằm một mình, đi vào làng để khất thực một mình, đi trở về một mình, ngồi cô độc một mình, quyết định kinh hành một mình, thực hành một mình, cư trú, cư xử, vận hành, bảo hộ, duy trì, nuôi dưỡng một mình. Đây là thân viễn ly.

 

Thế nào là tâm viễn ly? Đối với vị thể nhập sơ thiền, tâm được viễn ly các pháp che lấp. Đối với vị thể nhập nhị thiền, tâm được viễn ly tầm và tứ. Đối với vị thể nhập tam thiền, tâm được viễn ly hỷ. Đối với vị thể nhập tứ thiền, tâm được viễn ly lạc và khổ. Đối với vị thể nhập không vô biên xứ, tâm được viễn ly sắc tưởng, bất bình tưởng, dị biệt tưởng. Đối với vị thể nhập thức vô biên xứ, tâm được viễn ly không vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập vô sở hữu xứ, tâm được viễn ly thức vô biên xứ tưởng. Đối với vị thể nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tâm được viễn ly vô sở hữu xứ tưởng. Đối với vị Nhập Lưu, tâm được viễn ly sự nhận thức sai trái về thân, sự hoài nghi, sự bám víu vào giới và phận sự, tà kiến tiềm ẩn, hoài nghi tiềm ẩn, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Nhất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất thô thiển, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị Bất Lai, tâm được viễn ly sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, ái dục tiềm ẩn và bất bình tiềm ẩn có tính chất vi tế, và các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy. Đối với vị A-la-hán, tâm được viễn ly ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ngã mạn tiềm ẩn, hữu ái tiềm ẩn, vô minh tiềm ẩn, các phiền não cộng trú với mỗi pháp ấy, và mọi hiện tướng ở bên ngoài. Đây là tâm viễn ly.

 

Thế nào là sanh y viễn ly? Sanh y nói đến các ô nhiễm, các uẩn, và các hành. Sanh y viễn ly nói đến Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Đây là sanh y viễn ly.

 

Thân viễn ly là đối với các vị có thân đã lui về nơi ẩn dật, đã thích thú trong việc xuất ly; tâm viễn ly là đối với các vị có tâm hoàn toàn trong sạch, đã đạt đến sự trong sạch tuyệt đối; và sanh y viễn ly là đối với các cá nhân không còn mầm mống tái sanh, đã đạt đến việc lìa khỏi các pháp tạo tác.

 

An tịnh: theo một khía cạnh (nào đó), an tịnh cũng là vị thế an tịnh; điều ấy chính là Bất Tử, Niết Bàn, là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn nói đến: “Vị thế này là an tịnh, vị thế này là hảo hạng, tức là sự yên lặng của tất cả các hành, sự buông bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt trừ tham ái, sự lìa khỏi luyến ái, sự tịch diệt, Niết Bàn.” Hoặc là, theo một khía cạnh khác, các pháp nào vận hành đưa đến việc chứng đắc sự an tịnh, đưa đến việc chạm đến sự an tịnh, đưa đến việc chứng ngộ sự an tịnh, như là: bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh tinh tấn, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, đạo lộ thánh thiện tám chi phần. Các pháp này gọi là vị thế an tịnh, vị thế nương tựa, vị thế trú ẩn, vị thế nương nhờ, vị thế không còn sợ hãi, vị thế Bất Hoại, vị thế Bất Tử, vị thế Niết Bàn.

 

Bậc đại ẩn sĩ: bậc đại ẩn sĩ là (nói đến) đức Thế Tôn. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm giới uẩn lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm định uẩn lớn lao – tuệ uẩn lớn lao – giải thoát uẩn lớn lao – tri kiến giải thoát uẩn lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm sự phá tan khối tăm tối lớn lao, sự phá vỡ điều trái khuấy lớn lao, sự nhổ lên mũi tên tham ái lớn lao, sự tháo tung mối rối rắm tà kiến lớn lao, sự xô ngã ngọn cờ ngã mạn lớn lao, sự vắng lặng pháp tạo tác lớn lao, sự thoát khỏi dòng lũ lớn lao, sự quăng bỏ gánh nặng lớn lao, sự cắt đứt vòng quay luân hồi lớn lao, việc dập tắt sự nóng nảy lớn lao, việc tịch tịnh sự bực bội lớn lao, việc nâng lên ngọn cờ Giáo Pháp lớn lao’ là bậc đại ẩn sĩ. ‘Vị tầm cầu, tìm tòi, tìm kiếm các sự thiết lập niệm lớn lao – các chánh tinh tấn lớn lao – các nền tảng của thần thông lớn lao – các quyền lớn lao – các lực lớn lao – các yếu tố đưa đến giác ngộ lớn lao – đạo lộ thánh thiện tám chi phần lớn lao – chân lý tuyệt đối lớn lao, Bất Tử, Niết Bàn’ là bậc đại ẩn sĩ. Vị được tầm cầu, được tìm tòi, được tìm kiếm bởi các chúng sanh có uy lực lớn lao (hỏi rằng): ‘Đức Phật ngự ở đâu? Đức Thế Tôn ngự ở đâu? Chúa của chư Thiên ngự ở đâu? Đấng Nhân Ngưu ngự ở đâu?’ là bậc đại ẩn sĩ; – ‘bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh’ là như thế.

 

Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt?: Sau khi nhìn thấy, sau khi nhìn xem, sau khi cân nhắc, sau khi xét đoán, sau khi phân biệt, sau khi làm rõ rệt như thế nào mà (vị tỳ khưu) dập tắt luyến ái, dập tắt sân hận, dập tắt si mê của bản thân, dập tắt, làm an tịnh, làm yên tịnh, làm vắng lặng, làm vắng lặng, làm tịch tịnh sự giận dữ, thù hằn, thâm hiểm, ác ý, ganh tỵ, bỏn xẻn, xảo trá, bội bạc, bướng bỉnh, hung hăng, ngã mạn, ngã mạn thái quá, đam mê, xao lãng, tất cả ô nhiễm, tất cả uế hạnh, mọi sự lo lắng, mọi sự bực bội, mọi sự nóng nảy, tất cả pháp tạo tác bất thiện? Vị tỳ khưu: là vị tỳ khưu phàm nhân tốt lành hoặc vị tỳ khưu là bậc Hữu Học; – ‘sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt?’ là như thế.

 

Không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian: trong khi không chấp thủ, trong khi không nắm lấy, trong khi không bám víu, trong khi không cố chấp đối với bốn thủ. Ở thế gian: ở thế gian của khổ cảnh, ở thế gian của loài người, ở thế gian của chư Thiên, ở thế gian của các uẩn, ở thế gian của các giới, ở thế gian của các xứ. Bất cứ cái gì: bất cứ cái gì đề cập đến sắc, đề cập đến thọ, đề cập đến tưởng, đề cập đến các hành, đề cập đến thức; – ‘không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian’ là như thế.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Tôi hỏi ngài, đấng quyến thuộc của mặt trời,

bậc đại ẩn sĩ, về sự viễn ly và vị thế an tịnh.

Sau khi nhìn thấy như thế nào, vị tỳ khưu được tịch diệt,

không còn chấp thủ bất cứ cái gì ở thế gian?”

 

14 - 2

 

Đức Thế Tôn nói: “Nên chặn đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

Đức Thế Tôn nói: “Nên chặn đứng tất cả gốc rễ của cái được gọi là vọng tưởng: ‘Tôi là’ nhờ vào trí tuệ. Bất cứ những tham ái nào ở nội phần, sau khi dẹp bỏ chúng, nên học tập, luôn luôn có niệm.”

 

14 - 3

 

Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ

ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác),

không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn,

bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Bất cứ pháp (đức tính tốt) nào có thể biết rõ

ở nội phần (nơi bản thân) hay là ở ngoại phần (nơi người khác),

không vì điều ấy mà tạo ra sự ngã mạn,

bởi vì điều ấy không được các bậc thiện nhân gọi là sự tịch diệt.”

 

14 - 4

 

Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn,

kém thua, hoặc thậm chí là tương đương.

Bị tác động bởi nhiều hình thức,

trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên vì việc (ngã mạn) ấy mà nghĩ rằng (bản thân) là tốt hơn,

kém thua, hoặc thậm chí là tương đương.

Bị tác động bởi nhiều hình thức,

trong khi sắp đặt về bản thân, không nên dừng lại ở điều ấy.”

 

14 - 5

 

Nên làm yên tịnh ngay ở nội tâm,

vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh bằng (đạo lộ) khác.

Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm,

điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Nên làm yên tịnh ngay ở nội tâm,

vị tỳ khưu không nên tìm kiếm sự an tịnh bằng (đạo lộ) khác.

Đối với vị đã được an tịnh ở nội tâm,

điều được nắm bắt là không có, từ đâu có điều được buông lơi?”

 

14 - 6

 

Giống như ở giữa biển cả

là đứng yên, sóng biển không được sanh ra,

tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng,

vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Giống như ở giữa biển cả

là đứng yên, sóng biển không được sanh ra,

tương tự như vậy, nên trầm tĩnh, không dục vọng,

vị tỳ khưu không nên tạo ra (thái độ) kiêu ngạo ở bất cứ đâu.”

 

14 - 7

 

Bậc có mắt được mở ra đã nói về

pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa.

Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành,

về giới giải thoát, và luôn cả về định nữa.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Bậc có mắt được mở ra đã nói về

pháp thực chứng, có sự xua đi các hiểm họa.

Thưa ngài đại đức, xin ngài hãy nói về đường lối thực hành,

về giới giải thoát, và luôn cả về định nữa.”

 

14 - 8

 

Không nên buông thả với đôi mắt,

nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,

không nên thèm muốn ở các vị nếm,

và không nên chấp là của tôi về bất cứ thứ gì ở thế gian.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên buông thả với đôi mắt,

nên che đậy lỗ tai đối với chuyện làng xóm,

không nên thèm muốn ở các vị nếm,

và không nên chấp là của tôi về bất cứ thứ gì ở thế gian.”

 

14 - 9

 

Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh),

vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì,

không nên tham đắm sự hiện hữu,

và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm.

 

Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh) – Xúc: xúc do bệnh. (Vị tỳ khưu) có thể bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi xúc do bệnh ở mắt; bị xúc chạm, bị chế ngự, bị xâm nhập, bị tiếp cận bởi xúc do bệnh ở tai trong, do bệnh ở mũi, do bệnh ở lưỡi, do bệnh ở thân, do bệnh ở đầu, do bệnh ở lỗ tai, do bệnh ở miệng, do bệnh ở răng, do ho, do suyễn, do sổ mũi, do nhiệt, do cảm sốt, do đau bụng, do xây xẩm, do kiết lỵ, do đau bụng bão, do dịch tả, do phong cùi, do mụt nhọt, do bệnh chàm, do lao phổi, do động kinh, do mụt, do nhọt, do ghẻ ngứa, do sảy, do loét tay chân, do máu, do mật, do bệnh tiểu đường, do bệnh trĩ, do ghẻ lở, do loét hậu môn, do bệnh phát khởi từ mật, do bệnh phát khởi từ đàm, do bệnh phát khởi từ gió, do bệnh tổng hợp từ mật-đàm-gió, do bệnh sanh lên vì thay đổi thời tiết, do bệnh sanh lên vì bốn oai nghi không đồng đều, do bệnh vì sự cố gắng quá sức, do bệnh sanh lên vì quả của nghiệp, do lạnh, do nóng, do đói, do khát, do tiêu, do tiểu, do các xúc chạm với ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát; – ‘khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh)’ là như thế.

 

Vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì – không nên tạo ra, không nên làm sanh ra, không nên làm sanh khởi, không nên làm hạ sanh, không nên làm phát sanh ra sự than van, sự than trách, sự than thở, sự than vãn, trạng thái than van, trạng thái than trách, lời nói, nói lảm nhảm, nói huyên thuyên, nói kể lể, lối nói kể lể, trạng thái nói kể lể. Bất cứ điều gì: là ở bất cứ đâu, về bất cứ điều gì, ở bất cứ chỗ nào, nội phần, hoặc ngoại phần, hoặc nội phần và ngoại phần; – ‘vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì’ là như thế.

 

Không nên tham đắm sự hiện hữu: không nên tham muốn dục hữu, không nên tham muốn sắc hữu, không nên tham muốn vô sắc hữu, không nên khởi tham muốn, không nên tham đắm; – ‘không nên tham đắm sự hiện hữu’ là như thế.

 

Và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm – Sự khiếp đảm: sợ hãi và sự khiếp đảm cũng y như nhau, với cùng một biểu hiện. Bởi vì, điều này đã được đức Thế Tôn đề cập đến: “Phải chăng là điều này, là sự sợ hãi khiếp đảm ấy đang đi đến?” Đối tượng bên ngoài đã được nói đến là: các con sư tử, hổ, báo, gấu, chó rừng, chó sói, trâu rừng, ngựa, voi, rắn, bò cạp, rết, hoặc có thể là các kẻ cướp hay những kẻ tàn bạo có hành động gây sự hoặc chưa có hành động gây sự. Theo một kiểu cách khác, sự sợ hãi được nói đến là sự sợ hãi, trạng thái sợ hãi, trạng thái kinh hoàng, sự rởn lông, sự hốt hoảng, sự kinh sợ có nguồn sanh khởi ở tâm, thuộc nội phần; sợ hãi sự sanh, sợ hãi sự già, sợ hãi sự bệnh, sợ hãi sự chết, sợ hãi vua chúa, sợ hãi kẻ trộm, sợ hãi lữa, sợ hãi nước, sợ hãi sự chỉ trích của bản thân, sợ hãi sự chỉ trích của người khác, sợ hãi hình phạt, sợ hãi khổ cảnh, sợ hãi sóng nước, sợ hãi cá sấu, sợ hãi xoáy nước, sợ hãi cá dữ, sợ hãi về sinh kế, sợ hãi sự quở trách, sợ hãi do sự hổ thẹn ở tập thể, sợ hãi do sự say mê, sợ hãi do khổ cảnh, trạng thái sợ hãi, trạng thái kinh hoàng, sự rởn lông, sự hốt hoảng, sự kinh sợ. Và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm – Sau khi nhìn thấy, hoặc sau khi nghe nhiều điều khiếp đảm, thì không nên run rẩy, không nên run bắn lên, không nên rúng động, không nên run sợ, không nên hoảng sợ, không nên kinh sợ, không nên khiếp sợ, không nên sợ hãi, không nên rơi vào sự hoảng sợ, nên có tánh không nhút nhát, không kinh hoàng, không sợ sệt, không trốn chạy, (vị tỳ khưu) nên sống, có sự sợ hãi và khiếp đảm đã được dứt bỏ, có sự rởn lông đã được xa lìa; – ‘và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm’ là như thế.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Khi nào bị xúc chạm bởi xúc (bất hạnh),

vị tỳ khưu không nên thể hiện sự than vãn về bất cứ điều gì,

không nên tham đắm sự hiện hữu,

và không nên rúng động vì các sự khiếp đảm.”

 

14 - 10

 

Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống,

đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc,

sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,

và không nên hoảng sợ trong khi không nhận được chúng.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Đối với các thức ăn, rồi đối với các thức uống,

đối với các vật thực cứng, rồi đối với các loại vải vóc,

sau khi nhận được, không nên tạo ra sự cất giữ,

và không nên hoảng sợ trong khi không nhận được chúng.”

 

14 - 11

 

Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây),

nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng,

và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm,

ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.

 

Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây) – Có thiền: là có thiền với sơ thiền, là có thiền với nhị thiền, có thiền với tam thiền, có thiền với tứ thiền, có thiền với thiền có tầm có tứ, có thiền với thiền không có tầm chỉ có tứ, có thiền với thiền không có tầm không có tứ, có thiền với thiền có hỷ, có thiền với thiền không có hỷ, có thiền với thiền đồng hành với hỷ, có thiền với thiền đồng hành với hân hoan, có thiền với thiền đồng hành với lạc, có thiền với thiền đồng hành với xả, có thiền với thiền không tánh, có thiền với thiền vô tướng, có thiền với thiền vô nguyện, có thiền với thiền hợp thế, có thiền với thiền xuất thế, có thiền với thiền, thích thú với thiền, gắn bó với trạng thái đơn độc, chú trọng mục đích của mình; – ‘có thiền’ là như thế.

 

Không nên xao lãng: Nên là người có sự thực hành nghiêm trang, có sự thực hành liên tục, có sự thực hành không ngừng nghỉ, có thói quen không biếng nhác, không buông bỏ mong muốn, không buông bỏ bổn phận trong các thiện pháp. (Nghĩ rằng): ‘Khi nào ta có thể làm đầy đủ giới uẩn chưa được đầy đủ, hoặc có thể bảo vệ giới uẩn đã được đầy đủ tại chỗ này chỗ này bằng trí tuệ?’ Điều này, trong trường hợp ấy, là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, dõng mãnh, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp. (Nghĩ rằng): ‘Khi nào ta có thể làm đầy đủ định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, tri kiến giải thoát uẩn chưa được đầy đủ? –nt– ‘Khi nào ta có thể biết toàn diện về Khổ chưa được biết toàn diện, hoặc có thể dứt bỏ Tập chưa được dứt bỏ, hoặc tu tập Đạo chưa được tu tập, hoặc chứng ngộ Diệt chưa được chứng ngộ?’ Điều này, trong trường hợp ấy, là sự mong muốn, tinh tấn, nỗ lực, gắng sức, dõng mãnh, không thối chí, niệm, sự nhận biết rõ, sự năng nỗ, cần mẫn, quyết tâm, chuyên cần, không xao lãng trong các thiện pháp; – ‘nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng’ là như thế.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Nên là vị có thiền, không nên buông thả bàn chân (đi đó đây),

nên xa lánh trạng thái hối hận, không nên xao lãng,

và ở những chỗ ngồi, ở những chỗ nằm,

ở những nơi có ít tiếng động, vị tỳ khưu nên cư trú.”

 

14 - 12

 

Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần.

Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo trá, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.

 

Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ: Sau khi phân chia đêm và ngày thành sáu phần, nên thức năm phần, nên nằm xuống một phần; – ‘không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ’ là như thế.

 

Việc trang điểm: Có hai sự trang điểm: có sự trang điểm của người tại gia, có sự trang điểm của bậc xuất gia. Việc trang điểm của người tại gia là các việc nào? Cắt tóc, tỉa râu, cài hoa, thoa vật thơm, thoa dầu, vật trang sức, chưng diện, vải vóc, vật đeo ở tay, khăn đội đầu, việc kỳ cọ, đấm bóp, tắm rửa, đập vỗ, soi gương, tô mắt, tẩm hoa thơm, thoa phấn ở mặt, bôi dầu ở mặt, buộc cánh tay, thắt nơ ở đầu, việc sử dụng gậy, ống cây, thanh gươm, dù che, giày dép đẹp, khăn bịt đầu, ngọc ma-ni, phất trần, quấn vải trắng có đường biên rộng, hoặc là như vậy; điều này là việc trang điểm của người tại gia. Việc trang điểm của bậc xuất gia là các việc nào? Việc trang hoàng y phục, việc trang hoàng bình bát, việc trang hoàng chỗ nằm ngồi, việc trang hoàng, trang điểm, tiêu khiển, giải trí, trạng thái mong muốn, bản tính mong muốn, hành động tô điểm, trạng thái tô điểm đối với các phần bên ngoài của cơ thể hôi thối này hoặc các vật dụng; điều này là việc trang điểm của người xuất gia.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

 “Không nên thực hiện nhiều việc ngủ nghỉ. Nên thân cận sự tỉnh thức, có sự tinh cần.

Nên dứt bỏ hẳn sự uể oải, xảo trá, cười cợt, đùa giỡn, việc đôi lứa, cùng với việc trang điểm.”

 

14 - 13

 

Không nên luyện tập chú thuật, giải mộng, xem tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.

 

1. “Những người dối trá, ương ngạnh, nói nhiều, lừa đảo, khoác lác, không định tĩnh, những người ấy không tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.

 

2. Các vị không dối trá, không nói nhiều, sáng trí, không ương ngạnh, khéo định tĩnh, thật vậy các vị ấy tiến triển trong Giáo Pháp đã được đấng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.”

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên luyện tập chú thuật, giải mộng, xem tướng, và luôn cả chiêm tinh. Người đệ tử thành tín không nên chuyên chú về việc giải đoán tiếng thú kêu, việc thụ thai, và việc chữa bệnh.”

 

14 - 14

 

Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh,

nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên run sợ vì sự chê bai, vị tỳ khưu khi được ca ngợi không nên kiêu hãnh,

nên xua đi sự tham lam cùng với sự bỏn xẻn, sự giận dữ và việc nói đâm thọc.”

 

14 - 15

 

Không nên dự vào việc mua bán,

vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào,

và không nên ràng buộc vào làng xóm,

không nên tỉ tê với người (thế tục) vì mong muốn lợi lộc.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên dự vào việc mua bán,

vị tỳ khưu không nên tạo sự chê trách ở bất cứ nơi nào,

và không nên ràng buộc vào làng xóm,

không nên tỉ tê với người (thế tục) vì mong muốn lợi lộc.”

 

14 - 16

 

Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang,

và không nên nói lời nói ám chỉ (liên quan bốn món vật dụng),

không nên học tập lối cư xử xấc xược,

không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

 “Và vị tỳ khưu không nên là kẻ nói khoe khoang,

và không nên nói lời nói ám chỉ (liên quan bốn món vật dụng),

không nên học tập lối cư xử xấc xược,

không nên nói ra ngôn từ đưa đến sự cãi vã.”

 

14 - 17

 

Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá,

không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá,

và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Không nên bị lôi kéo vào việc nói lời dối trá,

không nên cố tình thực hiện các điều xảo trá,

và không nên khinh khi người khác về sự sinh sống, về sự nhận thức, về giới và phận sự.”

 

14 - 18

 

Bị bôi nhọ sau khi nghe nhiều lời nói

của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu,

không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ,

bởi vì các bậc an tịnh không thể hiện sự phản kháng.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Bị bôi nhọ sau khi nghe nhiều lời nói

của các vị Sa-môn, của những kẻ phàm phu,

không nên đáp trả lại những kẻ ấy một cách thô lỗ,

bởi vì các bậc an tịnh không thể hiện sự phản kháng.”

 

14 - 19

 

Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này,

trong khi suy gẫm, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm,

sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’

không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Và sau khi hiểu thông Giáo Pháp này,

trong khi suy gẫm, vị tỳ khưu nên học tập, luôn luôn có niệm,

sau khi biết được sự diệt tắt là ‘an tịnh,’

không nên xao lãng về lời giáo huấn của đức Gotama.”

 

14 - 20

 

Bởi vì, vị ấy là người chiến thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo ở lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy” (Đức Thế Tôn nói vậy).

 

Vì thế, đức Thế Tôn đã nói rằng:

“Bởi vì, vị ấy là người chiến thắng, bậc không bị chế ngự, vị đã nhìn thấy pháp thực chứng, không do nghe nói lại theo truyền thống. Chính vì thế, luôn luôn không xao lãng, trong lúc kính lễ, nên học tập theo ở lời giáo huấn của đức Thế Tôn ấy” (Đức Thế Tôn nói vậy).

 

Diễn Giải Kinh ‘Một Cách Nhanh Chóng’ - Phần thứ mười bốn được đầy đủ.

 

--ooOoo--


[Mục lục][01][02][03][04][05][06][07][08][09][10][11][12][13][14][15][16]


[Thư Mục Tổng Quát][ĐẠI DIỄN GIẢI][TIỂU DIỄN GIẢI]