SỐ 159
KINH ĐẠI THỪA BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Bát-nhã, người nước Kế tân.
Phẩm 1: Tựa Chính tôi được nghe:
Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá cùng với ba vạn hai ngàn đại Tỳ-kheo. Các vị đều là bậc A-la-hán: tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát, chỗ tạo tác đã xong, bỏ mọi gánh nặng, việc lợi mình đã được, hết mọi sự ràng buộc trong các cõi, đạt được đại tự tại, an trụ trong giới phẩm thanh tịnh, phương tiện khéo léo, trí tuệ trang nghiêm, chứng được tám pháp giải thoát, đến bờ Niết-bàn. Tên của các vị ấy là Cụ thọ A nhã Kiều-trần-như, A Sử Bỉ-thất-đa, Ma-ha Na- ma, Ba-đế-lợi-ca, Ma-ha Ca-diếp, Kiều-phạm-ba- đề, La-ba-đa, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca- diếp, Già-gia Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền- liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Ca-tỳ-na, Chân- đề-na, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, A-ni-lâu-đà, Vi- diệu-tý, Tu-bồ-đề, Bạc-câu-la, Tôn-đà-la-nan-đà, La-hầu-la… các vị như thế đều là Cụ thọ, A-la-hán. Và có những bậc Hữu học như ông A-nan… đều cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc, cùng nhau đảnh lễ chân Phật, rồi lui ra ngồi về một bên. Lại có tám vạn bốn ngàn vị Đại Bồ-tát cùng ở chỗ Đức Phật. Các vị đều là Đại pháp vương tử, Nhất sinh bổ xứ, có uy đức lớn như Đại Long vương, trăm phước viên mãn, thân quang chói lọi như ngàn mặt trời làm quang đãng mọi tối tăm, trí tuệ lắng suốt, hơn cả biển lớn; hiểu thấu cảnh giới bí mật của chư Phật, đốt đuốc đại pháp, dẫn dắt chúng sinh; làm bậc Đại thuyền sư trong bể sinh tử, thương xót chúng sinh như con đỏ, thường bố thí cho chúng sinh sự an vui trong mọi lúc, tiếng khen đồn khắp mười phương thế giới; thần thông vi diệu, lực dụng tự tại, đã thấu rõ được các môn Tổng trì; đủ bốn pháp biện tài vô ngại tự tại, đã viên mãn được đại nguyện tự tại, thành tựu tốt đẹp sự nghiệp tự tại, đã chứng nhập được Tam-muội tự tại, hoàn toàn viên mãn phước đức tự tại; thường là người bạn không phải thỉnh của chúng sinh, trải qua vô lượng kiếp siêng tu Sáu độ, luôn phụng sự chư Phật khắp nơi, không an trụ nơi Niết-bàn; dứt mọi phiền não, chủng tử tập khí đều trừ, tuy sinh trong sáu đường nhưng không hề vướng mắc lỗi lầm, luôn hiện thân khắp mười phương giảng thuyết diệu pháp, trong vô lượng thế giới, giáo hóa, đem lại lợi ích cho mọi loài; ngăn ngoại đạo, nén dẹp tâm tà, xa lìa nhân chấp đoạn, chấp thường, làm cho chúng sinh sinh ra chánh kiến mà không còn có tướng dao động, lui tới; chẳng phải trang nghiêm mà là làm trang nghiêm cả mười phương cõi Phật, không nói mà như nói ra tất cả diệu lý tịch diệt, an trụ nơi vô sở trụ, độ chúng sinh trong các cõi trời, người; thọ nhận nơi vô sở thọ các pháp mầu vui vẻ, rộng lớn; mặc áo giáp tinh tấn, cầm gươm trí tuệ, đánh vang trống pháp, phá bọn ma quân; thân thường thị hiện ngồi khắp trong đạo tràng, thổi loa đại pháp để giác ngộ mọi loài; tất cả các loài hữu tình đều được nhờ lợi ích, ai nghe qua tên hiệu, trông thấy sắc thân đều có được ba trí, ngộ được pháp của ba đời; biết rõ các căn lanh lợi, ngu độn của chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc, không còn mọi thứ nghi hoặc; chia rải mây pháp lớn, rưới mưa cam lộ, chuyển trí ấn pháp luân không thoái chuyển, đóng ngục sinh tử, mở cửa Niết-bàn; phát thệ nguyện rộng cho đến khi hết đời vị lai, nguyện độ thoát tất cả quần sinh. Các vị Bồ-tát ấy không bao lâu sẽ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị ấy là: Bồ-tát Vô Cấu, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Duy-ma-cật, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Kim Cang Tạng Vương, Bồ-tát Địa Tạng Vương, Bồ-tát Hư Không Tạng Vương, Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương, Bồ- tát Tam-muội Tự Tại Vương, Bồ-tát Diệu Cao Sân Vương, Bồ-tát Đại Hải Thâm Vương, Bồ-tát Diệu Biện Nghiêm Vương, Bồ-tát Hoan Hỷ Cao Vương, Bồ-tát Đại Thần Biến Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại Vương, Bồ-tát Thanh Tịnh Vũ Vương, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Dược Thượng, Bồ-tát Liệu Phiền Não Bệnh, Bồ-tát Bảo Sân, Bồ-tát Bảo Tài, Bồ-tát Bảo Thượng, Bồ-tát Bảo Đức, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Thủ Ấn, Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Bảo Thí, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Đại Bảo Tràng, Bồ-tát Bảo Vũ, Bồ-tát Bảo Đạt, Bồ-tát Bảo Trượng, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Bảo Cát Tường, Bồ-tát Bảo Tự Tại, Bồ- tát Chiên-đàn Hương, Bồ-tát Đại Bảo Cự, Bồ-tát Đại Bảo Nghiêm, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Tinh Quang, Bồ-tát Hỏa Quang, Bồ-tát Điện Quang, Bồ-tát Năng Niệm Tuệ, Bồ-tát Phá Ma, Bồ-tát Thắng Ma, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Bất Đoạn Đại Nguyện, Bồ-tát Đại Danh Xưng, Bồ-tát Vô Ngại Biện Tài, Bồ-tát Vô Ngại Chuyển Pháp Luân. Các vị Bồ-tát như Đại Bồ-tát Vô Cấu… trên đây như thế, cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Đức Phật thuyết pháp.
Lại có ức vạn Thiên tử nơi sáu cõi trời thuộc Dục giới như Thiên tử Thiện Trụ, Thiên tử Uy Đức, Thiên tử Phổ Quang, Thiên tử Thanh Tịnh Tuệ, Thiên tử Cát Tường, Thiên tử Đại Cát Tường,
Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại, Thiên tử Nhật Quang, Thiên tử Nguyệt Quang… Trong số các vị Thiên tử đó, Thích Đề-hoàn Nhân làm Thượng thủ. Và, các vị đều ưa thích diệu pháp Đại thừa, nguyện theo và phụng sự Như Lai trong ba đời, vào cảnh giới bí mật bất tư nghị, làm trang nghiêm các hội đạo tràng của chư Phật. Tất cả các vị Thiên tử ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều đến pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có hằng hà sa Thiên tử trong cõi Sắc như Thiên tử Đại Quang Phổ Chiếu, Thiên tử Vô Cấu Trang Nghiêm, Thiên tử Thần Thông Du Hý, Thiên tử Tam-muội Tự Tại, Thiên tử Đà-la-ni Tự Tại, Thiên tử Đại Đà-la-diên, Thiên tử Viên Mãn Thượng Nguyện, Thiên tử Vô Ngại Biện Tài, Thiên tử Cát Tường Phước Tuệ, Thiên tử Thường Phát Đại Nguyện… Trong số các vị Thiên tử này, Quang Minh Đại Phạm thiên vương làm Thượng thủ. Các vị ấy đều đầy đủ các pháp Tam-muội, thần thông, ưa thuyết giảng, giỏi biện tài, thường phụng sự chư Phật Như Lai trong ba đời từ khi ở bên gốc cây Bồ-đề, ngồi tòa Kim cang phá ma quân rồi, chứng đạo Bồ-đề cho đến khắp các chúng hội và đều ở trong lúc đầu tiên, khuyến thỉnh Như Lai chuyển xe diệu pháp, mở cửa cam lộ, độ tất cả chúng sinh trong cõi trời, người; khéo ngộ được nghĩa lý sâu xa bí mật của chư Phật, đối với đạo Đại Bồ-đề, không còn thoái chuyển. Tất cả các vị
Thiên tử ấy cùng với tất cả trăm ngàn quyến thuộc, đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có bốn vạn tám ngàn vị Đại Long vương như Long vương Ma-na-tư, Long vương Đức-xoa- ca, Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương A-nốc Đạt Trì, Long vương Đại Kim Diện, Long vương Như Ý Bảo Châu, Long vương Vũ Diệu Trân Bảo, Long vương Thường Chú Cam Vũ, Long vương Hữu Đại Uy Đức, Long vương Cường Lực Tự Tại… Trong các vị Long vương này, Long vương Sa-kiệt-la làm Thượng thủ. Các vị ấy đều ưa thích diệu pháp Đại thừa, phát thệ nguyện rộng, cung kính hộ trì chánh pháp. Tất cả các vị đại Long vương ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có năm vạn tám ngàn thần Dược-xoa như thần Dược-xoa Đại Sư Tử vương, thần Dược-xoa Chuyển Luân Quang Chiếu, thần Dược-xoa Diệu Na-la-diên, thần Dược-xoa Thậm Khả Bố Úy, thần Dược-xoa Liên Hoa Quang Sắc, thần Dược-xoa Chư Căn Mỹ Diệu, thần Dược-xoa Ngoại Hộ Chánh Pháp, thần Dược-xoa Cúng Dường Tam Bảo, thần Dược-xoa Vũ Chúng Trân Bảo, thần Dược-xoa Ma-ni Bát-la, … Trong số các vị thần này, thần Dược-xoa Tăng Thận Nhĩ Tà làm Thượng thủ. Các vị ấy đều đầy đủ ánh sáng trí tuệ khó nghĩ bàn, ngọn đuốc trí tuệ khó nghĩ bàn, hành tướng trí tuệ khó nghĩ bàn, giới đức trí tuệ khó nghĩ bàn, thường vì chúng sinh chế phục những loại ác quỷ, khiến họ được an vui lớn, làm cho phước đức, trí tuệ được tăng trưởng; luôn nối tiếp và giữ gìn pháp Đại thừa không bị đoạn tuyệt. Tất cả các vị thần Dược-xoa này cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có tám vạn chín ngàn Càn-thát-bà vương như Càn-thát-bà vương Đỉnh Thượng Bảo Quan, Càn-thát-bà vương Phổ Phóng Quang Minh, Càn- thát-bà vương Kim cang Bảo Tràng, Càn-thát-bà vương Diệu Âm Thanh Tịnh, Càn-thát-bà vương Biến Chí Chúng Hội, Càn-thát-bà vương Phổ Hiện Chư Phương, Càn-thát-bà vương Ái Nhạo Đại thừa, Càn-thát-bà vương Chuyển Bất Thoái Luân… Trong số các vị Càn-thát-bà vương này, Càn-thát-bà vương Chư Căn Thanh Tịnh làm Thượng thủ. Các vị ấy đối với Đại thừa đều sinh lòng ái kính sâu xa, làm lợi lạc cho chúng sinh, không bao giờ lười chán, mệt mỏi. Tất cả các vị Càn-thát-bà vương ấy cùng với hàng trăm, ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có ngàn ức A-tu-la vương như A-tu-la vương La-hầu-la, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa, A-tu-la vương Xuất Hiện Uy Đức, A-tu-la vương Đại Kiên Cố Lực, A-tu-la vương Mỹ Diệu Âm Thanh, A-tu-la vương Quang Minh Biến Chiếu, A- tu-la vương Đấu Chiến Hằng Thắng, A-tu-la vương Thiện Xảo Hiển Hóa… Trong số các vị A- tu-la vương này, có A-tu-la vương Quảng Đại Diệu Biện làm Thượng thủ. Các vị ấy đều khéo tu tập, xa lìa ngã mạn, thọ trì pháp Đại thừa, tôn kính Tam bảo. Tất cả các vị A-tu-la vương ấy cùng với trăm ngàn quyến thuộc tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có năm ức Ca-lâu-la vương như Ca-lâu-la vương Bảo Kế, Ca-lâu-la vương Kim Cang Tịnh Quang, Ca-lâu-la vương Tốc Tật Như Phong, Ca- lâu-la vương Hư Không Tịnh Tuệ, Ca-lâu-la vương Diệu Thân Quảng Đại, Ca-lâu-la vương Tâm Bất thoái chuyển, Ca-lâu-la vương Quảng Mục Thanh Tịnh, Ca-lâu-la vương Đại Phúc Bảo Mãn, Ca-lâu-la vương Hữu Đại Uy Đức, Ca-lâu-la vương Trí Tuệ Quang Minh. Trong số các vị Ca- lâu-la vương này, Ca-lâu-la vương Như Ý Bảo Quang làm Thượng thủ. Các vị ấy đều thành tựu Pháp nhẫn bất khởi, khéo đem lại được những sự lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tất cả các vị Ca-lâu- la vương ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có chín ức Khẩn-na-la vương như Khẩn-na- la vương Động Địa, Khẩn-na-la vương Diệu Bảo Hoa Tràng, Khẩn-na-la vương Bảo Thọ Quang Minh, Khẩn-na-la vương Thiện Pháp Quang Minh, Khẩn-na-la vương Tối Thắng Trang Nghiêm,
Khẩn-na-la vương Hỏa Pháp Quang Minh, Khẩn- na-la vương Thọ Trì Diệu Pháp, Khẩn-na-la vương Diệu Bảo Nghiêm Sức, Khẩn-na-la vương Thành Tựu Diệu Quán… Trong số các Khẩn-na-la vương này, Khẩn-na-la vương Duyệt Ý Nhạc Thanh làm Thượng thủ. Các vị ấy đều đầy đủ diệu tuệ thanh tịnh, thân tâm vui thích, dụng lực tự tại. Tất cả các vị Khẩn-na-la vương ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có chín vạn tám ngàn Ma-hầu-la-già vương như Ma-hầu-la-già vương Diệu Kế, Ma-hầu-la-già vương Cụ Đại Uy Đức, Ma-hầu-la-già vương Trang Nghiêm Bảo Kế, Ma-hầu-la-già vương Tịnh Nhãn Vi Diệu, Ma-hầu-la-già vương Quang Minh Bảo Tràng, Ma-hầu-la-già vương Sư Tử Hung Ức, Ma-hầu-la-già vương Như Sân Bất Động, Ma-hầu- la-già vương Khả Ái Quang Minh Ma-hầu-la-già vương… Trong số các vị Ma-hầu-la-già vương này, Ma-hầu-la-già vương Du Hý Thần Thông làm Thượng thủ. Các vị ấy đã tu tập được phương tiện thiện xảo, làm cho chúng sinh bỏ hẳn mọi sự trói buộc của ái dục. Tất cả các vị Ma-hầu-la-già vương ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có các vị Chuyển luân thánh vương trong vạn ức quốc độ ở phương khác như Chuyển luân thánh vương Kim Luân, Chuyển luân thánh vương Ngân Luân, Chuyển luân thánh vương Đồng Luân, Chuyển luân thánh vương Thiết Luân, cùng với quyến thuộc là ngàn người con và bảy thứ báu hết sức trang nghiêm với vô lượng voi, ngựa, xe cộ, vô số cờ phướn báu giăng treo, vô số vòng hoa, lọng báu, tơ lụa, phất trần trắng, đủ thứ loại châu báu, chuỗi ngọc vô cùng quý giá, các thứ hương xoa, hương bột, hòa hợp muôn thứ hương lạ vi diệu. Và mỗi người mang theo lò hương bằng mọi thứ báu vô giá, đốt hương đại bảo cúng dường Đức Thế Tôn, cùng đem những lời nói vi diệu khen ngợi trí tuệ của Đức Như Lai hết sức thâm diệu như biển rộng, rồi bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, nay chúng con không cầu quả báo hữu lậu trong ba cõi của hàng trời, người. Chúng con chỉ cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xuất thế gian mà thôi. Sở dĩ như thế là vì trong ba cõi tuy ở nơi tôn quý, hưởng phước vui nơi hàng trời, người, nhưng khi phước đời trước hết lại phải sinh vào nẻo xấu ác chịu vô lượng khổ; như thế ai là người có trí tuệ lại ưa thích sự vui sướng ở thế gian này!
Các vị Chuyển luân nói lời ấy rồi đều nhất tâm chắp tay và cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc của họ đều an tọa nơi pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có mười sáu vị Đại Quốc vương như Đại vương Tịnh Phạn nước Ca-tỳ-la, Tần-bà-sa-la vương nước Ma-già-đà, Đại vương Ca-tư nước Ba- la-nại, Đại vương Vu Xiển nước Hữu-vu-đà, Ca- tỳ-na vương nước Sa-la… Trong mười sáu Đại vương và các Tiểu vương ấy, vua Ba-tư-nặc quốc chủ nước Xá-vệ tên là Nguyệt Quang làm Thượng thủ. Các vị ấy đều đầy đủ phước đức trí tuệ thần thông, có uy đức lớn như Chuyển luân vương; tất cả oán địch đều tự nhiên hàng phục, nhân dân đông đảo sung túc, đất nước giàu có, an vui. Các vị ấy từng vun trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật nên thường được chư Phật hộ niệm. Trong kiếp Trang nghiêm có ngàn Đức Phật ra đời, các vị Đại vương, Tiểu vương ấy thường làm thí chủ; trong Hiền kiếp với ngàn Đức Phật ra đời, các vị Đại vương, Tiểu vương ấy cũng làm thí chủ; trong kiếp Tinh tú sau này với ngàn Đức Phật ra đời, các vị ấy sẽ làm thí chủ; cho đến đời vị lai tất cả chư Phật xuất hiện nơi thế gian, các vị vua ấy đều dốc hết sức mạnh của bản nguyện, thường làm việc bố thí tạo mọi lợi ích cho loài hữu tình, tùy nghi hội nhập các cửa phương tiện. Tuy làm Quốc vương, nhưng các vị vua ấy không tham đắm sự vui sướng của thế gian, đều chán bỏ sinh tử, tu nhân giải thoát, dốc cầu Phật đạo, ưa thích pháp Đại thừa, luôn giáo hóa đem lợi lạc cho quần sinh, không chấp trước các tướng, nối dòng Tam bảo, khiến hạt giống đó không hề đoạn tuyệt. Các vị ấy vì duyên nghe pháp cúng dường Như Lai, sắm sửa nhiều đồ ăn quý giá, kính cẩn đem hương hoa đến nơi Phật, cùng với một vạn, hai vạn cho đến ngàn vạn các quyến thuộc đều ngồi nơi pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có các phu nhân của mười sáu Đại Quốc vương như phu nhân Vi-đề-hy, phu nhân Diệu Thắng Man, phu nhân Thậm Khả Ái Nhạo, phu nhân Tam Giới Vô Tỷ, phu nhân Phước Báo Quang Minh, phu nhân Như Ý Bảo Quang, phu nhân Mạt-lỵ, phu nhân Diệu Đức… Trong các vị phu nhân ấy, phu nhân Thù Thắng Diệu Nhan làm Thượng thủ. Các vị phu nhân ấy đã khéo nhập được vô lượng các pháp chánh định. Song vì muốn hóa độ chúng sinh, các phu nhân ấy thị hiện nữ thân, dùng ba pháp môn giải thoát tu tập tâm mình mà có trí tuệ lớn, phước đức viên mãn, thể hiện tâm đại từ đại bi dứt mọi duyên chấp, không hề bị ngăn ngại, thương xót chúng sinh như con đỏ. Do sức mạnh từ bản nguyện, các phu nhân ấy được gặp Thế Tôn và vì muốn nghe pháp nên tới nơi Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không hề chớp. Các vị phu nhân ấy đem vô lượng các thứ vật cúng dường thượng diệu trong cõi người, kính dâng lên Thế Tôn cùng với vô số chuỗi ngọc báu quý giá bậc nhất cúng dường lên Đức Như Lai, rồi các phu nhân ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc thảy ngồi lại nơi pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có vô số người như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ,
Phệ-xá, Thú-đạt-la, cùng các Trưởng giả Cư sĩ, tất cả nhân dân trong các cõi nước. Các đại chúng ấy phát khởi lòng tin thanh tịnh, ân sâu nặng, vì xưa kia đã từng vun trồng căn lành, nên sinh ra được gặp Phật nghe pháp và vì cầu đạo xuất thế, nên khởi ra tưởng khó gặp, mà tới chỗ Phật. Tới nơi, các vị ấy đều phát tâm, chắp tay và cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều ngồi nơi pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có vô số đồ chúng ngoại đạo như Khổ Hạnh ngoại đạo, Thế Trí ngoại đạo, Nhạo Viễn Ly ngoại đạo, Lộ-già-gia-đà ngoại đạo, mà Lộ-già-gia-trị- ca-nễ ngoại đạo làm Thượng thủ. Các ngoại đạo ấy đã thành tựu năm pháp thần thông bay đi tự tại và phát tâm hy hữu, vì nhân duyên nghe pháp nên đi tới chỗ Đức Phật; mỗi vị cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều tới pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có vô lượng vô số phi nhân ngạ quỉ như quỷ Vô Tài, quỷ Thực Nhân Thổ, quỷ Não Chúng Sinh, quỷ Thực Di Thóa, quỷ Thọc Bất Bão, quỷ Xú Cực Xú, quỷ Thực Phẩn Uế, quỷ Thực Nhân Thai, quỷ Thực Sinh tử, quỷ Thực Bất Tịnh, quỷ Sinh Cát Tường. Trong các loại quỷ ấy, đại Quỷ thần vương Tỳ-lô-đà-già làm Thượng thủ. Các quỷ ấy đều lìa bỏ tâm độc ác, quy y Phật, Pháp, Tăng và hộ vệ chánh pháp của Như Lai. Các quỷ ấy vì duyên nghe pháp nên đến nơi Phật, năm vóc gieo xuống đất cung kính lễ Phật và vì khao khát được ngưỡng mộ công đức của Đức Thế Tôn nên các quỷ ấy cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều ngồi tại pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có vô lượng, vô số các vua của hàng chim, thú như Mạng mạng điểu vương, Anh vũ điểu vương, cùng Sư tử vương, Tượng vương, Lộc vương. Trong tất cả các vua của hàng chim thú ấy, Kim sắc Sư tử vương làm Thượng thủ. Các vua của hàng chim thú ấy đều quy mạng Bậc Đại Sư Như Lai, vì muốn nghe pháp nên đi đến nơi Phật và tùy theo nguyện lực mà cúng dường Đức Thế Tôn. Các vua của hàng chim thú ấy bạch Phật:
– Kính xin Đức Như Lai thương xót nhận lấy sự cúng dường ít ỏi của chúng con! Chúng con mong lìa bỏ hẳn hạt giống ác nghiệp trong ba đường, để được hưởng quả báo phước lạc trong cõi trời, người; xin Như Lai mở rộng pháp môn cam lộ Đại thừa, để chúng con chóng dứt được ngu si và sẽ được giải thoát!
Khi các vua cầm thú nói lời ấy rồi thì đều nhất tâm, chắp tay chiêm ngưỡng Như Lai và cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc cùng ngồi lại nơi pháp hội nghe Phật thuyết pháp.
Lại có trăm ngàn Diễm-ma-la vương cùng vô số các Đại La-sát với đủ mọi hình loại, mọi ác vương, quan thuộc chốn u minh và những ngục lại coi giữ việc hình, tra xét tội phước, nhờ uy lực Phật, dứt bỏ tâm ác, cùng Diễm-ma-la vương đến nghe pháp và bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, tất cả chúng sinh vì ngu si, tham đắm năm dục lạc, tạo năm tội nghịch nên bị đọa vào trong các địa ngục, luân chuyển vô cùng tận. Sở dĩ bị như thế, là do chỗ nghiệp nhân của mình mà phải chịu khổ não nhiều, cũng như con tằm, cái kén ở đời, tự mình làm ra sự ràng buộc lấy mình liên tục! Kính xin Như Lai tuôn mưa pháp lớn để diệt lửa địa ngục, tỏa gió mát lành, mở cửa giải thoát để đóng kín ba nẻo ác!
Khi Diễm-ma vương nói lời ấy rồi, liền đem mọi thứ châu báu cúng dường Như Lai, nhất tâm cung kính nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng và cùng với hàng trăm ngàn quyến thuộc đều lễ xuống chân Phật, rồi lui về một bên để nghe Phật thuyết pháp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử kết hoa sen báu. Tòa sư tử ấy màu lưu ly biếc, do các thứ ngọc lạ tô điểm xen kẽ tạo thành; ngọc báu pha lê làm cuống sen, vàng ròng màu tía làm cánh sen và dùng ngọc Ma-ni làm tua hoa trong đài sen. Có tám vạn bốn ngàn hoa sen lớn quý bằng vàng tốt của châu Nam Diêm-phù-đề làm quyến thuộc. Đức Phật được đại chúng nhiễu quanh trước sau cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.
Khi ấy, Đức Thế Tôn ngồi kiết già trên tòa sư tử, diện mạo uy nghi thù thắng như núi Tu-di do bốn thứ báu tạo thành ở trong bể lớn, tự nhiên phát ra trăm ngàn mặt trời soi sáng khắp hư không, phóng ra vô lượng ánh sáng, phá mọi tối tăm; và cũng như ức vầng trăng tròn ở trong các vì sao, tỏa ra ánh sáng mát lành cả thế giới. Lúc ấy Đức Như Lai nhập pháp tam-muội Hữu đỉnh thiên cực thiện gọi là Tâm anh lạc bảo trang nghiêm vương, an trụ nơi định ấy thân tâm không động.
Cùng lúc, tất cả các vị Thiên tử ở cõi Vô sắc tung rải vô lượng thứ hoa hương vi diệu, từ trong hư không như mây sa xuống. Mười tám vị Phạm vương trên các cõi trời thuộc Sắc giới, rải vô số những thiên hoa tạp sắc, cùng trăm ngàn vạn thứ diệu hương nơi cõi Phạm thiên, đầy khắp hư không như mây sa xuống. Chư Thiên cùng chúng Thiên tử trên sáu cõi trời thuộc Dục giới, dùng phước lực của cõi Thiên, tung rải các thứ hoa, như hoa Ưu- đàm-bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Chiêm-bặc-ca, hoa A-đề-mục-đa, hoa Ba-lợi-thi-ca, hoa Tô-ma-na, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa ở trong hư không lớp lớp rơi xuống, cúng dường Phật và chúng Pháp bảo. Lại rắc những bảo hương vô giá trên cõi trời, bảo hương ấy như mây, hóa thành màu sắc trăm báu và dùng thần lực của cõi trời, làm cho hương thơm lan tỏa khắp các thế giới ở cõi này để cúng dường đại hội.
Khi Đức Thế Tôn từ trong thiền định dậy, ngay nơi bản tọa Ngài lại nhập Sư tử phấn tấn tam-muội, hiện đại thần thông, khiến tam thiên đại thiên thế giới này bày đủ sáu thứ chấn động là: động, động mạnh, động mạnh khắp; tóe ra, tóe ra mạnh, tóe ra mạnh khắp; rung, rung mạnh, rung mạnh khắp; đánh, đánh mạnh, đánh mạnh khắp; gầm, gầm mạnh, gầm mạnh khắp; nổ, nổ mạnh, nổ mạnh khắp. Lại, thế giới này, phương Đông tóe ra, phương Tây tắt đi; phương Tây tóe ra, phương Đông tắt đi; phương Nam tóe ra, phương Bắc tắt đi; phương Bắc tóe ra, phương Nam tắt đi; ở giữa tóe ra, ở bên tắt đi; ở bên tóe ra, ở giữa tắt đi. Đất của thế giới này trang nghiêm, trong sạch và đều mềm nhũn, làm cho cỏ cây sinh sôi nảy nở, tạo lợi ích cho muôn loài. Do những chấn động ấy, trong tam thiên giới không còn có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh nữa và những chúng sinh trong các nẻo ác khác bị đau khổ không được rảnh rang cũng đều được khỏi khổ, xả thân này, được sinh vào cõi người và sáu cõi trời thuộc Dục giới. Họ đều biết thân mạng của kiếp trước, thảy đều vui mừng hớn hở và đồng đến nơi Phật, đem tâm nhớ tới ân sâu nặng đảnh lễ chân Phật mang các thứ ngọc báu, cùng vô số chuỗi ngọc cúng dường lên Phật và giác ngộ nghĩa Tam luân không để báo ân Phật.
Bấy giờ, ở nơi ngực và những lỗ chân lông của Như Lai phóng ra hào quang sáng lớn tên là Chư Bồ-tát du hý thần thông, khiến các Bồ-tát tâm không thoái chuyển đối với quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Sắc của hào quang ấy như sắc của thứ vàng nơi Nam Diêm-phù-đề. Và sắc hào quang vàng ấy soi khắp tam thiên đại thiên thế giới cùng các thế giới khác. Cho đến trăm ức ngọn Diệu cao sơn vương, tất cả Tuyết sơn, Hương sơn, Hắc sơn, Kim sơn, Bảo sơn, Di-lâu sơn, Đại-di-lâu sơn, Mục-chân-lân-đà sơn, Đại-mục-chân-lân-đà sơn, Tiểu thiết vi sơn, Đại thiết vi sơn, sông lớn, sông nhỏ, biển cả, suối chảy, ao tắm và đến trăm ức thế giới trong bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, sao, thiên cung, long cung, các tôn thần cung, những quốc ấp, vương cung, làng xóm, cùng nơi cõi Diêm-ma-la có những tướng trạng của chúng sinh do nghiệp tạo tội phải chịu khổ trong tám ngục hàn, tám ngục nhiệt và các địa ngục khác. Cả đến những hình tướng thọ khổ của hàng súc sinh, ngạ quỉ trong mười phương, những tướng trạng chịu sướng, khổ của chúng sinh thuộc năm cõi trong tất cả thế gian…, tất cả những tướng trạng như thế đều hiện trong ánh hào quang lớn sắc vàng này.
Lại nữa, trong ánh hào quang này hiện rõ mọi tướng mạo của các vị Bồ-tát tu hành Phật đạo. Như Bồ-tát Thích-ca trong thời xa xưa làm vua Quang Minh, khi mới bắt đầu phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến lúc thành Phật đạo bên gốc cây Bồ-đề, nhập Niết-bàn trong rừng Sa-la; và trong khoảng ấy, ba vô số trăm vạn kiếp, có tất cả những sự về Từ, Bi, Hỷ, Xả, cùng tám vạn bốn ngàn pháp môn Ba-la-mật cũng đều hiện đủ. Trong thời quá khứ, Bồ-tát làm Kim luân vương, cai trị bốn thiên hạ cho đến tận cùng biển cả, Bồ-tát đem chánh pháp giáo hóa thế gian qua vô lượng kiếp, nhân dân rất thịnh, đất nước giàu vui, tất cả của cải quý báu đầy dẫy quốc giới. Khi ấy, Kim luân vương kia quán sát thế gian đều là vô thường, chán năm dục lạc, bỏ ngôi Kim luân, xuất gia học đạo. Hoặc khi Bồ-tát làm người con yêu quý của vị Đại Quốc vương, xả thân mạng, gieo mình vào nơi hổ đói. Hoặc khi Bồ-tát làm Thi-tỳ vương cắt thịt mình cứu chim bồ câu. Hoặc khi Bồ- tát xả thân nai chúa cứu con hươu đang có mang. Hoặc khi Bồ-tát vì cầu nửa bài kệ mà xả toàn thân nơi núi Tuyết. Hoặc hiện thân thọ sinh nơi nhà vua Tịnh Phạn, bỏ sáu vạn thể nữ, cùng bỏ mọi thứ kỹ nhạc tuyệt hay nơi hậu cung mà vượt thành xuất gia; sáu năm tu khổ hạnh, ngày chỉ ăn hạt vừng, hạt gạo, hàng phục được các ngoại đạo; nơi gốc Bồ-đề phá tan ma quân, đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả tướng mạo của trăm ngàn hằng sa hạnh nguyện khó nghĩ bàn như thế đều hiện rõ trong ánh hào quang lớn sắc vàng này.
Lại nữa, trong ánh hào quang này hiện rõ ra tám bảo tháp lớn không thể nghĩ bàn được của Như Lai là bảo tháp kỷ niệm nơi sinh trong cung vua Tịnh Phạn nước Câu-sa-la; bảo tháp kỷ niệm khi thành Phật dưới gốc cây Bồ-đề, bên thành Già-gia nước Ma-già-đà; bảo tháp kỷ niệm khi Ngài bắt đầu Chuyển pháp luân độ sinh trong vườn Lộc dã nước Ba-la-nại; bảo tháp tại vườn của ông Cấp Cô Độc trong nước Xá-vệ kỷ niệm nơi Ngài cùng các ngoại đạo luận nghị sáu tháng mà Ngài được xưng tụng là Bậc Nhất Thiết Trí; bảo tháp bên thành Khúc nữ nước An-đạt-la kỷ niệm sự thần dị khi Ngài lên Đao-lợi thiên thuyết pháp cho thân mẫu, cùng Phạm thiên vương, Thiên đế Thích và mười hai vạn thính chúng, từ cõi trời Ba mươi ba hiện ra ba đường thềm báu xuống cõi Diêm-phù; bảo tháp tại núi Kỳ-xà-quật bên thành Vương xá, nước Ma- kiệt-đà kỷ niệm khi Ngài nói về các kinh Đại thừa: Đại Bát-nhã, Pháp Hoa Nhất Thừa Tâm Địa kinh…; bảo tháp tại rừng Am-la-vệ, nước Tỳ-xá- ly kỷ niệm lúc ông Trưởng giả Duy-ma-cật hiện bệnh trong sự bất khả tư nghị; bảo tháp kỷ niệm lúc sẽ viên tịch của Ngài trong rừng Sa-la, bên sông Bạt-đề nước Câu-thi-na. Tám tháp báu như thế là phương thức giáo hóa của bậc Đại thánh, là chốn quy y, cung kính cúng dường, làm nhân thành Phật của hữu tình trong cõi người và cõi trời.
Như thế các âm thanh cùng hình ảnh những sự kiện khó nghĩ bàn ở ba đời đều hiện rõ trong ánh hào quang lớn này.
Lại, chư Phật trong ba đời ở mười phương thế giới cùng các Đại Bồ-tát tụ hội đông đủ nơi đạo tràng, các sự việc về thần thông biến hóa hiếm có và những tiếng nói pháp vi diệu của các Đức Như Lai nói ra, đều ghi rõ như tiếng vang ứng hợp trong ánh hào quang lớn sắc vàng này không gì là không trông thấy, nghe thấy. Tất cả chúng sinh gặp được ánh hào quang này, thấy tướng lành kia đều phát tâm Vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi đại chúng trông thấy thần lực bất khả tư nghị của Phật, ai cũng đều khen chưa từng có bao giờ và đều bảo nhau:
– Ngày nay Như Lai nhập chánh định, phóng ra hào quang sáng lớn soi khắp mười phương thế giới khiến chúng ta được thấy Như Lai trong thuở xa xưa có những sự khó nghĩ bàn để điều phục những chúng sinh tà kiến trong đời ác trược, khiến họ phát sinh sự hiểu biết chân chánh và dốc hướng về đạo Bồ-đề. Đức Như Lai là bậc hiếm có! Ngài đúng là Cha của tất cả thế gian, trong vô lượng kiếp khó thấy được Ngài. Chúng ta nhiều kiếp tu các hạnh nguyện, nên nay mới được gặp Bậc Đại Sư của trời, người trong ba cõi. Kính mong Đức Từ Tôn thương xót thế gian, từ thiền định dậy, nói pháp sâu xa, chỉ dạy cho chúng sinh đạt được những lợi lạc, vui vẻ!
Tất cả chúng sinh nói lên lời ấy rồi đứng im, chiêm ngưỡng dung nhan Đức Từ Tôn.
Bấy giờ, trong pháp hội có một vị Bồ-tát tên là Sư Tử Hống, trong ba vô số kiếp, Bồ-tát đã tu hành về phước đức, trí tuệ, trong Hiền kiếp này Bồ-tát sẽ chứng đắc quả vị Phật nhận ngôi Quán đảnh làm Bậc Đại Pháp Vương. Bồ-tát hướng về bốn phương xem xét đại chúng trong hải hội, cất tiếng nói lớn:
– Trong vô lượng kiếp xa xưa tôi đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đã phụng sự hằng sa chư Phật, đã từng ở nơi đệ nhất chúng hội đạo tràng, được thấy những thần thông biến hóa bất tư nghị của chư Phật. Nhưng tôi chưa từng trông thấy ánh hào quang sắc vàng này, hiện rõ tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát, cùng hiện ra mọi tướng mạo của Như Lai, làm cho tôi được thấy những sự khó nghĩ bàn trong ba đời. Vậy, kính mong các Nhân giả nhất tâm, chắp tay, chiêm ngưỡng Tôn nhan, từ thiền định dậy Ngài sẽ trao cho chúng sinh thuốc cam lộ, trừ những bệnh nhiệt não, làm cho chúng sinh chứng được Pháp thân thường, lạc, ngã, tịnh. Các Đức Như Lai có hai pháp mà các Ngài không ở lâu trong chánh định: một là đại Từ, hai là đại Bi. Nương vào đại Từ phải cho chúng sinh được an vui, dựa vào đại Bi phải nhổ sạch mọi đau khổ cho chúng sinh. Do hai pháp ấy, trong vô số kiếp các Ngài đã dốc tu tập, hun đúc nơi tâm các Ngài mà thành ngôi Chánh giác. Chúng sinh trong thế gian chịu nhiều khổ não, do nhân duyên ấy, không bao lâu nữa Đức Như Lai từ chánh định dậy, sẽ vì chúng sinh diễn thuyết về diệu pháp Tâm địa quán môn của Đại thừa. Tôi xin kính cáo đại chúng: “Đại chúng không nên cầu các phước lạc trong trời, người mà nên cầu ngay đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xuất thế gian. Sở dĩ thế là sao? Ngày nay, Đức Thế Tôn từ nơi ngực phóng ra hào quang sắc vàng, những nơi được soi tới cũng đều như sắc vàng cả, đó là sự hiển thị của Phật có ý nghĩa rất sâu xa mà tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác ở thế gian dù hết sức suy nghĩ lường tính cũng không thể biết được. Các vị còn ở trong phàm phu địa, không quán tự tâm, nên phải bị trôi giạt trong bể sinh tử! Chư Phật, Bồ-tát vì quán được tâm, nên vượt qua được bể sinh tử, đến bờ Niết-bàn. Pháp của Như Lai trong ba đời đều như thế, các Ngài phóng ra hào quang tỏa sáng ấy, không phải là không có nhân duyên!”.
Tất cả chúng hội nghe Đại sĩ nói như thế, trong tâm đều vui mừng hớn hở, cho rằng gặp được sự chưa từng có bao giờ.
Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Sư Tử Hống muốn nhấn mạnh lại nghĩa ấy bằng lời kệ sau đây:
Kính lễ Thiên Nhân Đại Giác Tôn
Hằng sa phước trí đều viên mãn
Chúng sinh trông thấy sinh lòng mến
Tướng Kim quang trăm phước trang nghiêm.
Mình ở ngôi tôn hơn ba cõi
Công đức tối thắng không gì sánh
Dùng sức thần thông tự tại khắp
Tùy chỗ tạo nghiệp, hiện trước họ.
Tôi dùng Thiên nhãn quán thế gian
Tất cả không ai bằng được Phật
Hiếm có kim dung như trăng tròn
Hiếm có còn hơn hoa Ưu-đàm.
Vô biên phước trí lợi quần sinh
Đại quang soi như ngàn mặt trời
Chúng sinh ngu si khổ nhiều kiếp
Nhờ hào quang soi trừ được cả.
Tôi quán Như Lai hạnh nguyện xưa,
Thân cận cúng dường vô số Phật
Trải qua vô số, vô lượng kiếp
Vì chúng sinh, hướng tới Bồ-đề.
Thường ở trong bể khổ sinh tử
Làm Đại thuyền sư vớt mọi loài
Diễn nói pháp chân tịnh cam lộ
Khiến vào cửa Vô vi giải thoát.
Ba vô số kiếp độ chúng sinh
Siêng tu tám muôn Ba-la-mật
Nhân tròn, quả đủ thành Chánh giác
Trụ yên thọ mạng không đi, lại.
Mỗi một tướng tốt khắp pháp giới
Tướng thập phương Phật đều thế cả
Cảnh giới sâu xa khó nghĩ bàn
Tất cả trời, người không lường được.
Thể, dụng chư Phật không sai khác
Như ngàn đèn soi sáng càng thêm
Trí tuệ như không, không bờ bến
Ứng vật hiện hình như trăng nước.
Vô biên pháp giới thường vắng lặng
Như như bất động ví hư không
Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân
Tự nhiên đầy đủ hằng sa đức.
Khắp cả pháp giới không cùng tận
Không sinh, không diệt, không đi, lại
Pháp vương thường ở Diệu pháp cung
Ánh sáng Pháp thân soi khắp cả.
Pháp tánh Như Lai không vướng ngại
Tùy duyên ứng khắp, lợi quần sinh
Chúng sinh đều thấy ngay trước mặt
Vì mình tuyên nói pháp cam lộ.
Tùy tâm dốc diệt các phiền não,
Mọi khổ trời, người đều giũ sạch
Pháp vương kỳ diệu phá sinh tử
Ánh sáng soi tỏa như núi vàng.
Vì độ chúng sinh khỏi thế gian
Hay đốt đuốc pháp xua tăm tối
Chúng sinh chìm trong bể sinh tử
Quẩn quanh năm nẻo không hẹn ra.
Thiện Thệ hằng làm thuyền pháp diệu
Ngăn chặn dòng ái, tới bờ giác
Đại trí phương tiện không thể lường
Thường cho chúng sinh vui vô tận.
Ngài là cha lành của thế gian
Thương xót tất cả loài hữu tình
Như Lai ra đời rất khó gặp
Vô số ức kiếp một lần hiện.
Ví như hoa Ưu-đàm, điềm “Diệu”
Là hoa hiếm có trong người, trời
Trong vô lượng kiếp một lần hiện
Thấy Phật ra đời cũng đồng vậy.
Các chúng sinh ấy không phước tuệ
Thường đắm chìm trong bể sinh tử
Ức kiếp không thấy các Như Lai
Theo các nghiệp ác thường chịu khổ.
Chúng ta vô số trăm ngàn kiếp
Tu bốn Vô lượng, ba Giải thoát
Nay thấy Đại Thánh Mâu-ni Tôn
Cũng như rùa mù gặp gỗ nổi.
Nguyện trong hằng sa kiếp đời sau
Niệm niệm không rời Thiên Nhân Sư
Như bóng theo hình không hề lìa
Ngày đêm siêng tu về“Chủng trí”. Kính
mong Thế Tôn thương xót tôi Thường
cho được thấy Đại Từ Tôn Ba
nghiệp tinh tấn thường phụng trì Nguyện
cùng chúng sinh thành Chánh giác. Nay
Đại Đạo Sư trong ba cõi Trên
tòa kiết già nhập chánh định Một
mình vắng lặng nhà Không tịch Thân
tâm chẳng động như Tu-di. Thế
gian tất cả Phạm, Thiên, Ma Không
thể biết rõ Như Lai định Phàm,
Thánh cõi này và phương khác Đều
biết Điều Ngự ở trong thiền Đặt
nhiều đồ cúng rất nhiệm mầu Kính
dâng Năng Nhân – Đức Tối Thắng.
Chư Thiên cõi Dục lại cúng dường
Hoa trời rơi rộn khắp hư không
Nén hương vô giá do Thập thiện
Biến hóa mây hương màu trăm báu
Che khắp vô lượng chúng trời, người
Mưa chen báu diệu hiến Như Lai.
Hơi hương ngào ngạt trước Tam bảo
Trăm ngàn kỹ nhạc vang cõi không
Không gảy tự tấu thành diệu khúc
Cúng dường Thế Tôn đủ phước tuệ.
Mười tám cõi Phạm rải hoa trời
Và tuôn nhiều báu ngàn muôn thứ
Chuỗi ngọc Ma-ni cõi Phạm ma
Mọi báu tô điểm nơi Thiên y.
Cờ phướn tươi, lớn bằng vật báu
Cầm đến cúng dường Mâu-ni Tôn
Cõi trời Vô sắc rải hoa quý
Hoa ấy rộng lớn như vành xe.
Rải hương vi tế đầy thế giới
Cúng dường chánh định khó bàn, nghĩ
Long vương, Tu-la, Nhân, Phi nhân
Dâng bao châu báu do cảm mến
Đều đem cúng Bậc Thiên Trung Thiên
Ưa nghe đạo Bồ-đề tối thắng.
Khi Đấng Thế Tôn: Đại y vương,
Khéo chữa phiền não khổ của đời
Lực Tam-muội Sư tử tần thân
Sáu thứ chấn động khắp tam thiên
Dùng đó giác ngộ kẻ có duyên
Trong ấy vô duyên khó biết được.
Tùy trời, người kia khó thể độ
Thấy các thần thông của Đức Phật
Chiêm ngưỡng dung quang Mâu-ni Tôn
Ba nghiệp sạch rồi đều vân tập.
Như Lai tâm Từ dứt duyên chấp
Lợi ích chúng sinh thành thắng đức
Nơi ngực phóng đại quang minh này
Là: “Chư Bồ-tát bất thoái chuyển”.
Như khi kiếp hết, bảy mặt trời
Hiện phóng ngàn tia sáng chói lọi
Tất cả ánh sáng thế gian có
Không bằng tia sáng chân lông Phật.
Vô lượng đại thần quang vô ngại
Soi khắp mười phương các cõi Phật
Phước trí Như Lai đều viên mãn
Chỗ phóng thần quang cũng khó lường.
Hào quang rực rỡ như sắc vàng
Soi khắp mười phương bao quốc độ
Bóng hiện trong kim quang của Phật
Sắc tượng thế gian đều thấy rõ.
Tam thiên đại thiên thế giới này
Trong có tất cả các sơn vương
Bốn báu tạo thành núi Diệu cao
Tuyết sơn, Hương sơn, Thất Kim sơn
Mục-chân-lân-đà, Di-lâu sơn
Đại thiết vi sơn và Tiểu sơn
Biển cả, sông ngòi cùng ao tắm
Vô số trăm ức bốn đại châu
Mặt trời, trăng, sao mọi cung báu
Thiên cung, Long cung, các cung thần
Quốc ấp, vương cung, các làng xóm
Hào quang đều hiển hiện như thế.
Lại hiện nhân xưa của Như Lai
Tích công, góp đức cầu Phật đạo
Như Lai xưa ở nước Thi-tỳ
Từng làm Nhân vương trên tôn vị
Ngọc báu đầy dẫy trong quốc giới
Thường đem chánh pháp giác hóa đời
Từ, Bi, Hỷ, Xả thường không mỏi
Bỏ sự khó bỏ, hướng Bồ-tát.
Cắt thân cứu chim câu nào hối
Thâm tâm thương xót cứu chúng sinh.
Thuở xưa khi Phật tại phàm phu
Vào trong non Tuyết cầu Phật đạo
Nhiếp tâm, dũng mãnh chăm tinh tấn
Vì cầu nửa kệ xả toàn thân.
Do nhân duyên cầu chánh pháp
Trong mười hai kiếp vượt sinh tử
Khi xưa Ngài là Tiên Ma-nạp
Trải tóc cúng dường Phật Nhiên Đăng
Bởi vì nhân duyên tinh tấn ấy
Tám kiếp vượt qua bể sinh tử.
Thuở xưa làm Vương tử Tát-đỏa
Bỏ thân yêu quý gieo miệng hổ
Vì nhân duyên lợi người, lợi mình
Vượt nhân sinh tử mười một kiếp.
Trưởng giả Lưu Thủy: Đại y vương
Bình đẳng cứu giúp bao chúng sinh
Vớt cá đều được sinh Thiên thượng
Trời mưa chuỗi ngọc báo ân lại.
Bảy ngày kiễng chân tán Như Lai
Do vì tinh tấn vượt chín kiếp.
Thuở trước làm voi trắng sáu ngà
Ngà đẹp lạ lùng không gì sánh
Bỏ thân mạng mình cho người săn
Cầu Vô thượng Bồ-đề của Phật.
Hoặc làm Viên mãn phước trí vương
Cho mắt, tinh tấn cầu Phật đạo,
Lại làm Kim sắc đại lộc vương
Xả thân, tinh tấn cầu Phật đạo,
Làm vua Từ Lực nước Ca-thi
Toàn thân thí cho năm Dạ-xoa.
Lại làm Trang Nghiêm vương nước lớn
Đem vợ con cho không tiếc lẫn,
Hoặc làm Tối thượng thân Bồ-tát
Đầu, mắt, tủy, não cho chúng sinh
Từ bi, Bồ-tát làm như thế
Đều nguyện cầu chứng đạo Bồ-đề.
Phật xưa từng làm Chuyển luân vương
Ngọc báu bốn châu đầy khắp cả
Gồm đủ ngàn con cùng quyến thuộc
Thập thiện dạy người trăm ngàn kiếp.
Đất nước yên ổn như thiên cung
Hưởng năm an lạc vô cùng tận
Khi Luân vương kia hiểu thân mình
Và cả thế gian không bền chắc:
Chư Thiên Vô tưởng tám muôn tuổi
Phước hết trở về trong nẻo ác
Như mộng, ảo ảnh cùng bọt, bóng
Như sương sớm mai và ánh chớp.
Thấu rõ ba cõi như nhà lửa
Tám khổ đầy dẫy khó thoát khỏi
Chưa được giải thoát lên bờ giác
Ai người có chí thích luân hồi?
Chỉ có Như Lai thân xuất thế
Không sinh, không diệt thường an lạc
Những hạnh Bồ-tát khó làm ấy
Tất cả hiện trong hào quang vàng.
Trong hào quang này hiện tám tháp
Là ruộng phước tốt của chúng sinh:
Tháp cung Tịnh Phạn nhớ nơi sinh
Tháp gốc Bồ-đề ghi thành Phật
Tháp trong vườn Lộc chuyển xe pháp
Tháp vườn Cô độc ghi tiếng khen
Tháp báu dựng bên thành Khúc nữ
Tháp nơi Linh thứu tuyên Bát-nhã
Tháp Duy-ma-cật tại Am-la
Tháp trong Sa-la ghi viên tịch
Tám tháp của Phật ghi như thế
Chư Thiên, Long thần thường cúng dâng
Kim cang Mật Tích bốn Thiên vương
Ngày đêm gìn giữ thường không rời.
Nếu xây tám tháp để cúng dường
Hiện thân phúc thọ được lâu dài
Trí tuệ thêm lên, chúng tôn kính
Nguyện thế, xuất thế đều viên mãn.
Nếu ai lễ bái và tâm niệm
Tám tháp như thế không nghĩ bàn
Hai người được phúc như nhau cả
Chóng chứng đạo Vô thượng Bồ-đề.
Những sự lợi ích ba đời ấy
Ở trong hào quang đều thấy rõ.
Bồ tát trong mười phương cõi Phật
Các Linh Tiên đầy đủ thần thông
Chuyển luân vương trong muôn ức cõi
Theo hào quang này đều vân tập
Đều dùng thần lực lại cúng dường
Rải ngọc như ý dâng Từ Tôn.
Kỹ nhạc chư Thiên trăm ngàn thứ
Không gảy tự ngân tiếng diệu kỳ,
Hoa trời rơi rộn đầy hư không
Mọi hương xông khắp trong đại hội
Cờ phướn báu, vô số chuỗi ngọc
Cầm đem cúng dường Nhân Trung Tôn.
Kệ tụng nhiệm mầu khen Như Lai:
Quý thay thường nhập trong chánh định!
Hiện đại thần lực chẳng nghĩ bàn
Điều phục chúng sinh khó hóa độ
Khiến tâm an trụ, không thoái chuyển.
Tôi nơi chỗ Phật dốc tùy hỷ
Kính mong Thế Tôn ra khỏi định
Vì mọi chúng sinh Chuyển pháp luân.
Dứt hẳn tất cả các phiền não.
Trụ nơi vô trụ đại Niết-bàn!
Như hàng chúng tôi tâm thanh tịnh
Từ muôn ức cõi lại nghe pháp
Dùng sức chánh định thường xét kỹ
Vật mọn kính xin Ngài thương nhận!
Người cho, người nhận và của cho
Ở trong ba đời vô sở đắc.
Chúng tôi an trụ tâm tối thắng
Cúng dường tất cả mười phương Phật
Đời đời thân cận Đại Bi Chủ
Thường thường phụng sự Đại Từ Tôn
Đem căn diệu thiện vô sở đắc
Pháp giới viên dung về chân giác.
Quá khứ Như Lai vào tịch định
Hiện đại thần thông chuyển xe pháp
Nay Phật Thế Tôn cũng lại thế
Nhập định, phóng quang đồng chư Phật.
Vì vậy nghĩ rằng Thích Sư Tử
Quyết định muốn nói Tâm địa môn.
Nếu muốn xa lìa nhân sinh tử
Quyết đạt quả chân thường ba đời
Các vị chắp tay nhất tâm đợi
Sẽ vào cung Như Lai an lạc.
❑
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ chánh định khoan thai trở dậy, bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại sĩ các ông, các hàng Thiện nam vì muốn được gần gũi bậc Cha lành của thế gian, vì muốn được nghe pháp xuất thế, vì muốn suy nghĩ đúng như diệu lý, vì muốn tu tập Trí Như như nên mới đến nơi Phật cung kính cúng dường. Nay Ta diễn nói về Tâm địa diệu pháp (Pháp diệu nơi cõi tâm), để dẫn dắt chúng sinh, khiến họ chứng nhập trí tuệ của Phật. Diệu pháp như thế, chư Phật Như Lai trải qua vô lượng kiếp tu tập giáo hóa mới tuyên giảng. Như hoa Ưu-đàm, Như Lai Thế Tôn ra đời rất khó gặp được và Như Lai xuất hiện ở đời nói diệu pháp này lại càng khó gặp hơn! Sở dĩ thế là sao? Tất cả chúng sinh xa lìa hạnh nguyện của Bồ-tát Đại thừa, nhằm hướng về Bồ-đề của Duyên giác, Thanh văn, chán ngán sinh tử, mong nhập Niết-bàn mãi, chứ không thích diệu quả thường lạc của Đại thừa. Song, các Như Lai chuyển bánh xe pháp, xa lìa bốn lỗi mà nói pháp tương ứng. Một là nói không trái nơi chốn tức hợp hoàn cảnh. Hai là nói không lỗi thời tức hợp thời. Ba là nói không trái căn khí tức hợp trình độ chúng sinh. Bốn là nói không trái pháp tức hợp chánh pháp. Theo bệnh cho thuốc, khiến bệnh được dứt tức là đức Bất cộng của Như Lai. Hàng Thanh văn, Duyên giác còn chưa được cảnh giới bất cộng tự tại của các chúng Bồ-tát huống là được đức Bất cộng của Như Lai. Do nhân duyên ấy nên họ khó thấy, khó nghe được Pháp môn tâm địa của Chánh đạo của Bồ-đề! Nhưng nếu có các thiện nam, thiện nữ nào một lần nghe được diệu pháp ấy chỉ trong khoảng chốc lát, nhiếp niệm quán tâm được, là họ hun đúc thành hạt giống Đại Bồ-đề Vô thượng, không bao lâu nữa họ sẽ ngồi trên tòa báu Kim cang, nơi cây Bồ-đề, được thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi ấy, nơi thành lớn Vương xá có năm trăm vị Trưởng giả tên là: Trưởng giả Diệu Đức, Trưởng giả Dũng Mãnh, Trưởng giả Thiện Pháp, Trưởng giả Niệm Phật, Trưởng giả Diệu Trí, Trưởng giả Bồ-đề, Trưởng giả Diệu Biện, Trưởng giả Pháp Nhãn, Trưởng giả Quang Minh, Trưởng giả Mãn Nguyện... Các vị Trưởng giả giàu có nổi tiếng ấy đã thành tựu được chánh kiến, nên tới cúng dường Như Lai cùng các Thánh chúng. Các Trưởng giả đó nghe Đức Thế Tôn tán thán pháp môn Tâm địa của Đại thừa liền nghĩ rằng: “Chúng ta thấy Đức Như Lai phóng hào quang sắc vàng, hiện rõ những sự khổ hạnh khó làm của Bồ-tát. Chúng ta không có tâm ưa thích thực hiện hạnh khổ hạnh! Ai lại trong nhiều kiếp ở nơi sinh tử, vì chúng sinh mà chịu bao thứ khổ não được?”. Các Trưởng giả ấy nghĩ thế rồi, liền từ tòa đứng dậy, để trần vai bên phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính, tuy khác miệng nhưng đồng âm, bạch trước Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chúng tôi không ưa thích những hạnh của các Bồ-tát Đại thừa, cũng không thích nghe những âm thanh nói về khổ hạnh. Sở dĩ thế là sao? Vì tất cả hạnh nguyện tu tập của các Bồ- tát, đều không phải là những sự tri ân, báo ân. Vì sao? Vì các vị ấy xa lìa cha mẹ, dốc chí xuất gia, đem vợ con mình cho những kẻ ham muốn; cho đến đầu, mắt, tủy, não tùy theo sự mong muốn của họ, đều bố thí cả, để mình chịu các sự bức não; trong ba vô số kiếp tu tập đủ các pháp Độ, với tám vạn bốn ngàn hạnh Ba-la-mật, vượt dòng sinh tử, mới đến được cõi Bồ-đề đại an lạc; chẳng bằng quyết hướng về đạo quả Thanh văn, Duyên giác, chỉ khoảng ba đời hay trăm kiếp tu tập tư lương, dứt được nhân sinh tử, chứng quả Niết-bàn, chóng đến nơi yên vui, như thế mới gọi là báo ân!
Đức Phật bảo năm trăm vị Trưởng giả:
Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông nghe Ta tán thán pháp Đại thừa, liền sinh tâm thoái chuyển, nhưng các ông lại phát khởi ra ý nghĩa sâu xa, để đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh không biết ân đức trong đời mai sau. Các ông hãy nghe cho kỹ, nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, nay Ta sẽ vì các ông mà phân biệt, diễn nói về những chỗ có ân của thế gian và xuất thế gian để các ông hiểu.
Này thiện nam, những lời của các ông nói chưa có thể gọi là đúng lý. Sao vậy? Ân của thế gian và xuất thế gian có bốn bậc: Một là ân cha mẹ. Hai là ân chúng sinh. Ba là ân Quốc vương. Bốn là ân Tam bảo. Bốn ân như thế, tất cả chúng sinh đều bình đẳng gánh chịu.
Thiện nam, ân cha mẹ là cha có ân từ, mẹ có ân bi. Ân bi của mẹ, nếu ta ở đời trong một kiếp để nói về ân ấy cũng không thể hết được. Nay Ta vì các ông nói một ít phần về công ân ấy để các ông hiểu. Giả sử có người vì việc phước đức, cung kính, cúng dường một trăm vị đại Bà-la-môn tịnh hạnh, một trăm vị đại Thần tiên được năm pháp thần thông, một trăm người bạn lành, xếp đặt cho các vị ấy ở yên trong nhà được xây bằng bảy báu rất đẹp, đem trăm ngàn thứ đồ ăn ngon quý, y phục bằng mọi thứ báu tua rũ, các chuỗi ngọc, dựng các phòng xá bằng gỗ Chiên-đàn, trầm hương, chăn gối, giường nằm trang nghiêm bằng trăm báu, cùng trăm thứ thuốc thang chữa khỏi các bệnh và nhất tâm cúng dường trọn trăm ngàn kiếp, cũng không bằng một niệm để tâm hiếu thuận, đem chút ít vật nuôi nấng sắc thân mẹ hiền. Và theo chỗ cúng dường hầu hạ ấy, đem so sánh với công đức trước thời đến trăm ngàn vạn phần cũng không thể nào xét lường kịp.
Sự thương nhớ con của mẹ hiền ở thế gian không gì sánh được. Ân ấy đến với con ngay từ khi chưa có hình hài. Nghĩa là bắt đầu từ khi thọ thai, trải trong mười tháng, đi, đứng, ngồi, nằm, mẹ chịu mọi khổ não, không thể dùng miệng mà nói hết được. Tuy có những sự vui thú, ăn uống, may mặc, nhưng mẹ vẫn không sinh tâm ưa thích, mà tâm mẹ chỉ luôn luôn lo nghĩ đến con không chút quên lãng.
Hãy tự suy nghĩ: Khi sắp sinh sản, mẹ âm thầm chịu đựng mọi khổ, ngày đêm sầu não, nhưng đến lúc lâm bồn và sự đau khổ ấy quá đỗi như trăm ngàn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực không thể nào xiết được, có khi đến chết. Sinh nở rồi, mẹ không còn bị khổ não gì nữa, lúc đó họ hàng thân thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo được ngọc Như ý. Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời, mẹ như là nghe được âm nhạc. Mẹ dùng ngực mình làm chỗ ngủ nghỉ của con, hai đầu gối mẹ là nơi chơi giỡn của con và ngực mẹ tuôn ra những dòng sữa như nước suối cam lộ để nuôi lớn con. Ân nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương xót ấy rộng lớn không gì sánh được. Thế gian, núi non là cao, ân của mẹ hiền còn cao hơn thế, cao hơn cả núi Tu-di. Thế gian cõi đất là nặng, ân của mẹ hiền còn nặng hơn thế!
Thảng hoặc có con trai, con gái nào bội ân, không hiếu thuận với cha mẹ, làm cho cha mẹ sinh tâm oán niệm, mà mẹ bực bội thốt ra một lời nói ác, tức thời con phải đọa theo lời nói ấy, hoặc vào địa ngục, hay ngạ quỉ, súc sinh. Thế gian, nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán niệm của cha mẹ còn nhanh hơn gió ấy, tất cả Như Lai, chư Thiên, Kim cang cùng các vị Tiên được năm pháp thần thông cũng không thể cứu giúp được.
Nếu các thiện nam, thiện nữ nào nghe lời dạy bảo của mẹ hiền và vâng thuận không trái, thời được chư Thiên hộ niệm, phước lạc vô tận. Những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn quý của trời, người hoặc là Bồ-tát vì độ chúng sinh, hiện làm nam, nữ đem lại lợi ích cho cha mẹ.
Như thiện nam, thiện nữ nào vì báo ân cha mẹ, suốt một kiếp, mỗi ngày ba thời, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ, cũng chưa trả được công ân một ngày của cha mẹ. Sở dĩ thế là sao? Tất cả nam, nữ lúc ở trong thai mẹ, miệng nút cuống vú, uống huyết mẹ, khi ra khỏi bào thai, trước thời ấu thơ, uống hết đến một trăm tám mươi hộc sữa của mẹ; mẹ được chút vị bổ nào đều cho con cả, ngay đến những y phục quý tốt cũng đều như thế. Và dù rằng sinh phải đứa con ngu si, xấu xí đi nữa tình yêu con của mẹ cũng chỉ là một không hai. Xem như xưa kia, có người đàn bà đi chơi xa tại nước khác, bế con lội qua sông Hằng, không ngờ nước sông lên to, chảy xiết, sức yếu không vượt qua nổi lại, yêu mến con quá, không nỡ rời bỏ con, nên cả hai mẹ con đều chết chìm. Song do sức của tâm Từ và căn lành ấy tức thời người mẹ được sinh lên cõi trời Sắc cứu cánh, làm Đại Phạm vương.
Do nhân duyên ấy, mẹ có mười đức:
- Như đại địa: vì trong thai mẹ là chỗ nương tựa của con.
- Năng sinh: mẹ phải trải qua mọi sự khổ não mới sinh được con.
- Năng chánh: thường là do tay mẹ ve vuốt, uốn nắn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân con.
- Dưỡng dục: mẹ phải theo hợp bốn mùa mà nuôi nấng con khôn lớn.
- Bậc trí: mẹ thường dùng phương tiện làm cho con sinh trí tuệ.
- Trang nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang sức cho con.
- An ổn: mẹ ôm ấp, làm cho con nghỉ ngơi an lành.
- Dạy, trao: mẹ dùng phương tiện khéo để dẫn dắt con.
Răn bảo: mẹ dùng lời lành để con xa lìa những điều ác.
- Cho gia nghiệp: mẹ thường đem gia nghiệp giao lại cho con.
Này thiện nam, ở thế gian này, cái gì gọi là rất giàu? Điều gì là rất nghèo? Mẹ hiền còn sống nơi gia đình là giàu; mẹ hiền khuất bóng là nghèo; mẹ hiền còn sống là mặt trời giữa trưa, mẹ hiền mất đi là mặt trời đã lặn; mẹ hiền còn sống là mặt trăng sáng, mẹ hiền mất đi là đêm tối tăm! Thế nên, các ông phải siêng năng gia tăng việc tu tập về sự hiếu dưỡng đối với phụ mẫu, thời như người cúng dường Phật, phước báo ấy và phước báo này bằng nhau không khác! Các ông nên báo ân cha mẹ như thế!
Này thiện nam, ân chúng sinh là tất cả chúng sinh từ thời vô thỉ đến nay, luân chuyển trong năm đường: Trời, người, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, trải qua trăm ngàn kiếp và ở trong nhiều đời thường làm cha mẹ lẫn nhau; vì làm cha mẹ lẫn nhau nên tất cả nam tử là cha lành, tất cả nữ nhân là mẹ hiền và trong đời đời kiếp kiếp xưa kia cũng có ân lớn như ân của cha mẹ hiện tại không khác. Như thế, các ân xưa chưa trả được, rồi hoặc nhân vọng nghiệp sinh ra các sự thuận nghịch, vì sự chấp trước lại thành ra oán hại lẫn nhau. Sao vậy? Xưa có trí tuệ sáng suốt nhưng vì vô minh che lấp không hiểu đời trước mình đã từng làm cha mẹ lẫn nhau, nên phải trả ân và đem lại lợi ích cho nhau; không làm được điều ấy là bất hiếu! Do nhân duyên ấy, các loài chúng sinh trong tất cả các thời, cũng đều có ân lớn, thực là khó trả. Những sự như thế gọi là ân chúng sinh!
Ân quốc vương: Vị đứng làm chủ một nước là người có đủ phước đức tối thắng. Vị ấy tuy sinh trong cõi nhân gian nhưng được tự tại, các Thiên tử trong cõi trời Ba mươi ba luôn giúp sức, thường hộ trì và đối với cõi nước, sông núi, đất đai, tận cùng biển cả đều thuộc quyền nơi Quốc vương. Vị ấy là một người có phước đức tối thắng hơn tất cả phước của chúng sinh. Vị ấy là bậc Đại Thánh vương dùng chánh pháp giáo hóa, khiến chúng sinh đều được an vui. Ví như tất cả cung điện, nhà cửa của thế gian, trụ (cột) là căn bản; nhân dân thịnh vượng, vui vẻ, Quốc vương là căn bản, vì phải dựa vào chánh pháp của Quốc vương mới có. Như ngoại đạo cho Phạm vương sinh ra muôn vật, thì đây Thánh vương đặt ra pháp luật trị nước, làm lợi ích chúng sinh cũng vậy. Thánh vương cũng hay quan sát thiên hạ, đem lại sự yên vui cho nhân dân. Quốc vương làm mất chánh trị thì nhân dân không có chỗ nương tựa. Nếu Quốc vương đem chánh pháp giáo hóa, tám sự khủng bố lớn lao không xâm nhập vào trong nước được. Tám sự khủng bố ấy là: nước ngoài xâm lấn, phản nghịch ở ngay trong cõi, ác quỷ gieo rắc tật bệnh, đất nước đói thiếu, gió mưa trái thời, nhật thực, nguyệt thực và tinh tú biến hiện quái lạ. Nhân vương dùng chánh pháp giáo hóa, đem lại lợi ích cho nhân dân thì tám nạn như thế không xâm phạm được. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một con, yêu mến hơn hết, ông luôn luôn thương xót con, cho con sự lợi ích, cho con sự yên vui, ngày đêm không rời. Vị đại Thánh vương trong nước cũng như thế, đồng coi quần sinh như con một, tâm ủng hộ họ ngày đêm không rời. Nhân vương như thế hay khiến chúng sinh tu mười điều thiện, nên gọi là Phước đức chủ, vị nào không làm cho chúng sinh tu thiện là Phi phúc chủ. Sở dĩ thế là sao? Nếu một người tu thiện ở trong vương quốc, sự tạo phúc của họ chia làm bảy phần, người làm thiện được năm phần, Quốc vương kia được hai phần. Trái lại, nhân lành của Quốc vương tu, nhân dân cũng đồng được phúc lợi. Và nếu tạo mười nghiệp ác cũng như thế, nghĩa là, cũng đồng như sự ấy. Tất cả những vật sinh nơi ruộng đất, vườn rừng trong nước đều chia làm bảy phần, cũng lại như thế. Nếu có Nhân vương thành tựu chánh kiến, theo đúng pháp dạy đời, thời gọi vị ấy là Thiên chủ. Vì vị ấy đem pháp lành của cõi trời dạy thế gian nên chư Thiên, Thiện thần cùng Hộ thế vương thường lại giúp đỡ và giữ gìn vương cung. Nhân vương tuy ở nhân gian nhưng tu hành theo nghiệp của cõi Thiên, nên tâm thưởng, phạt không thiên lệch. Chánh pháp của tất cả các bậc Thánh vương đều như thế!
Thánh vương như thế gọi là Chánh pháp vương. Và do nhân duyên ấy nên Chánh pháp vương thành tựu được mười đức:
- Soi sáng (năng chiếu): đem mắt trí tuệ soi sáng thế gian.
- Trang nghiêm: đem phước đức, trí tuệ làm trang nghiêm đất nước.
- Làm cho vui (dữ lạc): đem an lạc lớn cho nhân dân.
- Dẹp oán (phục oán): tất cả giặc oán tự nhiên quy phục.
- Khỏi sợ (ly bố): đẩy lùi tám nạn, lìa khỏi sợ hãi.
- Trọng dụng bậc hiền tài: hợp các người hiền bàn bạc việc nước.
- Pháp bản (giữ lấy gốc chánh pháp): muôn họ an cư nương nhờ Quốc vương.
- Trì thế (giữ gìn thế gian): đem pháp của Thiên vương giữ gìn thế gian.
- Nghiệp chủ (chủ của mọi nghiệp): các nghiệp thiện ác đều thuộc Quốc vương.
- Nhân chủ: tất cả nhân dân, Quốc vương là chủ.
Tất cả Quốc vương, do phước đức từ đời trước nên đã thành tựu mười thắng đức như vậy.
Vì thế, Đại Phạm thiên vương cùng Đao-lợi thiên thường giúp Nhân vương hưởng thọ những sự vui thắng diệu; các La-sát vương và chư Thần… tuy không hiện thân giúp đỡ, nhưng âm thầm lại hộ vệ Nhân vương cùng với quyến thuộc.
Nhân vương thấy nhân dân tạo các ác nghiệp mà không ngăn cấm được thì chư Thiên, Thần đều xa tránh. Nếu thấy nhân dân tu thiện thì chư Thiên, Thần… vui mừng tán thán và tất cả đều xướng rằng: “Thánh vương ta!…” Long, Thiên vui mừng rưới nước mưa cam lộ, năm thứ lúa thóc hoa màu dồi dào, nhân dân vui vẻ, thịnh vượng. Nếu Nhân vương không gần những người ác, chăm làm lợi ích cho khắp thế gian, đều theo nẻo hành hóa chánh đáng, thời ngọc báu Như ý hiện ngay trong vương quốc, các vua nước láng giềng đều quy phục, Nhân, Phi nhân đều khen ngợi. Và nếu có ác nhân ở trong vương quốc sinh tâm phản nghịch thì trong chốc lát, phúc của người ấy tự suy diệt, khi mất đi, phải bị đọa trong địa ngục, trải qua loài súc sinh chịu đủ mọi thứ đau khổ. Sở dĩ thế là sao? Bởi vì kẻ ấy không biết ân đức của Thánh vương, khởi ra những nghiệp ác, phản bội nên phải chịu quả báo như thế. Nếu có nhân dân thực hành tâm thiện, hết lòng giúp đỡ Nhân vương và tôn quý kính trọng như Phật, thì người ấy ngay trong đời hiện tại luôn được yên ổn, thịnh vượng, vui vẻ, có mong cầu gì đều được vừa lòng. Sở dĩ thế là sao? Tất cả quốc vương trong thời quá khứ đã từng thọ giới cấm thanh tịnh của Như Lai và đã thường làm Nhân vương hưởng sự an ổn, vui sướng. Vì nhân duyên ấy, quả báo trái ngược hay thuận hợp đều như vang ứng tiếng. Ân đức của Thánh vương rộng lớn như thế!
Này thiện nam, ân Tam bảo là ân không thể nghĩ bàn được, vì Tam bảo luôn luôn đem lại lợi lạc cho chúng sinh không có thời nào và chỗ nào dừng nghỉ.
Thân tướng của chư Phật là chân thiện vô lậu, do tu nhân trong vô số đại kiếp mà chứng được. Chư Phật dứt sạch hết mọi nghiệp quả trong ba cõi, công đức như núi báu rực rỡ, không gì so sánh kịp, mà tất cả hữu tình không thể nào biết hết. Phước đức chư Phật rất sâu như biển cả, trí tuệ vô ngại như hư không, thần thông biến hóa tràn đầy thế gian, ánh sáng soi khắp mười phương, ba đời.
Tất cả chúng sinh do bị phiền não nghiệp chướng ngăn che không hiểu biết đúng đắn, nên phải chìm đắm trong bể khổ sinh tử vô cùng. Tam bảo ra đời làm Đại thuyền sư, ngăn chặn dòng ái dục, để chúng sinh vượt lên bờ Niết-bàn. Những bậc có trí ai cũng đều chiêm ngưỡng.
Này thiện nam, chỉ một ngôi Phật bảo đã gồm đủ ba thân: Một là Tự tánh thân. Hai là Thọ dụng thân. Ba là Biến hóa thân.
- Thân Phật thứ nhất có Đại đoạn đức, là chỗ hiển lộ nhị không, tất cả chư Phật đều bình đẳng.
- Thân Phật thứ hai có Đại trí đức, chân thực thường hằng, dứt sạch các lậu, tất cả chư Phật đều cùng một ý.
- Thân Phật thứ ba có Đại ân đức, an định, thông hợp, biến hiện, tất cả chư Phật đều đồng sự. Này thiện nam, tự tánh thân của Phật là vô thỉ, vô chung, lìa tất cả các tướng, dứt hết mọi thứ hý luận, tròn đầy, cùng khắp, không còn bờ bến và tịch nhiên thường trụ.
Thọ dụng thân ấy có hai tướng: Một là Tự thọ dụng thân. Hai là Tha thọ dụng thân.
Tự thọ dụng thân do tu muôn hạnh, đem lại lợi ích yên vui cho các chúng sinh trong ba vô số kiếp, đạt được Thập địa mãn tâm, vận dụng thân lực đi thẳng đến cõi trời Sắc cứu cánh, ra khỏi tam giới, làm nghiêm tịnh quốc độ vi diệu, ngồi trên hoa sen vô số lượng châu báu lớn, mà các chúng Bồ-tát đông đảo không thể nêu bày hết được, ở trong hải hội vây quanh trước sau, đem lụa vô cấu kết trên đỉnh đầu, cúng dường cung kính, tôn trọng, tán thán, như thế gọi là “Lợi ích của phước báo tối hậu”. Khi ấy, Bồ-tát nhập Kim cang định, dứt bỏ tất cả sở tri chướng, phiền não chướng vi tế, chứng được Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; diệu quả như thế gọi là “Lợi ích của phước báo hiện tiền”. Chân báo thân ấy gọi là hữu thỉ, vô chung, thọ mạng tùy theo sự mong muốn, kiếp số không có hạn lượng. Và lại từ khi bắt đầu thành Chánh giác cho đến lúc tận cùng của thời vị lai, các căn tướng tốt trang nghiêm cùng khắp pháp giới.
Bốn trí viên mãn là Báo thân đích thực thọ dụng pháp lạc:
- Một là Đại viên cảnh trí, do chuyển Dị thục thức (thức thứ tám), mà được trí tuệ này, ví như tấm gương tròn lớn hiện đủ các sắc tướng hình tượng. Cũng thế, trong gương trí tuệ của Như Lai, hiện ra các nghiệp thiện, ác của chúng sinh; do nhân duyên ấy, trí tuệ này gọi là Đại viên cảnh trí. Dựa vào đại bi nên thường duyên với chúng sinh, nương vào đại trí nên thường như pháp tánh, quán sát song song cả chân đế, tục đế, không gián đoạn, thường giữ gìn lấy thân căn vô lậu và là chỗ y chỉ của tất cả công đức.
- Hai là Bình đẳng tánh trí, do chuyển Ngã kiến thức (thức thứ bảy) mà được trí tuệ này. Vì chứng được tự tha bình đẳng, cả hai tự tánh đều vô ngã, nên gọi là Bình đẳng tánh trí.
- Ba là Diệu quán sát trí, do chuyển Phân biệt thức (thức thứ sáu) mà được trí tuệ này. Hay quán sát tự tướng, cộng tướng của mọi pháp và ở trước chúng hội nêu giảng pháp nhiệm mầu, làm cho chúng sinh chứng được Bất thoái chuyển, nên gọi là Diệu quán sát trí.
Bốn là Thành sở tác trí, do chuyển nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức mà đạt được trí tuệ này, hay hiện ra tất cả mọi Hóa thân, làm cho chúng sinh thành tựu trọn vẹn các thiện nghiệp, do nhân duyên ấy nên gọi là Thành sở tác trí.
Bốn trí ấy là trí tuệ trên hết, đầy đủ tám vạn bốn ngàn nẻo vào trí tuệ. Tất cả các pháp công đức như thế gọi là Tự thọ dụng thân của Như Lai.
Này các thiện nam, hai là Tha thọ dụng thân của Như Lai, đầy đủ tám vạn bốn ngàn tướng tốt, ở nơi cõi tịnh chân thực nói pháp Nhất thừa, khiến cho các Bồ-tát thọ dụng được pháp lạc vi diệu của Đại thừa. Tất cả chư Như Lai vì nhằm hóa độ các chúng Bồ-tát nơi Thập địa, nên hiện ra mười loại Tha thọ dụng thân: Thân Phật thứ nhất, ngồi trên hoa sen trăm cánh vì Bồ-tát Sơ địa nói về trăm pháp minh môn; Bồ-tát ngộ rồi hiện ra thần thông biến hóa lớn lao, cùng khắp trong trăm thế giới của chư Phật, đem lại lợi ích yên vui cho vô số chúng sinh. Thân Phật thứ hai, ngồi trên hoa sen ngàn cánh, vì Bồ-tát Nhị địa nói về ngàn pháp minh môn; Bồ-tát ngộ rồi hiện ra thần thông biến hóa lớn lao, cùng khắp trong ngàn thế giới của chư Phật, đem lại lợi ích yên vui cho vô lượng chúng sinh. Thân Phật thứ ba, ngồi trên hoa sen muôn cánh, vì Bồ-tát Tam địa nói về muôn pháp minh môn; Bồ- tát ngộ rồi hiện ra thần thông biến hóa lớn lao, cùng khắp trong muôn quốc độ của chư Phật, đem lại lợi ích yên vui cho vô số chúng sinh. Như thế, Như Lai tăng trưởng dần dần, cho đến Tha thọ dụng thân nơi Thập địa, ngồi trên hoa sen diệu bảo không thể nêu bày được, vì Bồ-tát Thập địa nói về các pháp minh môn số nhiều không thể nói hết; Bồ- tát ngộ rồi, hiện ra thần thông biến hóa lớn lao, cùng khắp quốc độ vi diệu của chư Phật, số nhiều không thể nói được, đem lại lợi ích yên vui cho vô lượng, vô biên chủng loại chúng sinh với con số nhiều không thể tuyên thuyết, không thể tuyên thuyết được. Mười thân như thế, đều ngồi nơi cây Bồ-đề bằng bảy báu, chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các vị thiện nam, mỗi một cánh hoa đều là một Tam thiên thế giới, trong đó đều có trăm ức núi chúa Diệu cao cùng bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, tinh tú và chư Thiên trong ba cõi cũng đều đủ cả. Các Thiệm-bộ châu ở trên mỗi mỗi cánh hoa sen, có tòa Kim cang, cây Bồ-đề, có trăm ngàn vạn đến số nhiều không thể nói được những vị Hóa Phật lớn, nhỏ đều ở bên gốc cây Bồ-đề, phá ma quân rồi, cùng lúc chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thân của các vị Hóa Phật lớn, nhỏ như thế đều đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp kèm theo, vì các Bồ-tát trong hàng Tư lương và Bốn thiện căn cùng hàng Nhị thừa, phàm phu, tùy nghi vì họ nói ra diệu pháp về Ba thừa; vì các Bồ-tát nói về sáu pháp Ba-la-mật thích ứng khiến các vị ấy được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Phật tuệ rốt ráo; vì các vị cầu quả vị Bích-chi-phật nói về Mười hai pháp nhân duyên; vì các vị cầu đạo quả Thanh văn nói về pháp Tứ đế, vượt qua sinh, lão, bệnh, tử đạt đến cứu cánh Niết-bàn; vì các chúng sinh khác nói về giáo pháp cho hàng trời, người, khiến họ đạt được diệu quả an lạc trong cõi trời, người. Các vị Hóa Phật lớn, nhỏ như thế đều gọi là “Biến hóa thân của Phật”. Này thiện nam, hai loại Ứng, Hóa thân Phật như thế, tuy hiện ra diệt độ nhưng thân Phật ấy vẫn nối tiếp thường trụ.
Các vị thiện nam, như một Phật bảo có vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn được những ân đức rộng lớn đem lại lợi lạc cho chúng sinh như thế, nên cũng do nhân duyên ấy mà gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này thiện nam, trong một Phật bảo thâu tóm đầy đủ sáu thứ công đức vi diệu: Một là Ngôi vô thượng có ruộng công đức lớn lao trên hết. Hai là Ngôi vô thượng có ân đức lớn. Ba là Ngôi chí tôn trong những chúng sinh không chân, hai chân cho đến nhiều chân. Bốn là Bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm. Năm là Ngôi độc nhất xuất hiện trong Tam thiên đại thiên thế giới. Sáu là Ngôi gồm thâu đầy đủ tất cả ý nghĩa trong công đức thế gian và xuất thế gian. Do đầy đủ sáu thứ công đức như thế và thường đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh, nên gọi là “Ân Phật bảo thật không thể nghĩ bàn được!”.
Khi ấy, năm trăm vị Trưởng giả bạch Phật rằng:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói: Trong một Phật bảo có vô lượng Hóa Phật, hiện ra cùng khắp thế giới đem lại lợi lạc cho chúng sinh, vậy do nhân duyên gì mà nhiều chúng sinh trong thế gian này không thấy Phật, phải chịu mọi khổ não?
Đức Phật bảo năm trăm vị Trưởng giả:
– Ví như mặt trời tỏa trăm ngàn ánh sáng soi khắp thế giới, mà trong đó có những người mù không thấy được ánh sáng mặt trời, thời ý các thiện nam nghĩ sao, mặt trời có bị lỗi không?
Các Trưởng giả bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, mặt trời không có lỗi! Đức Phật dạy:
Thiện nam tử, chư Phật Như Lai thường diễn nói chánh pháp, đem lại lợi lạc cho chúng sinh, nhưng các chúng sinh ấy thường tạo nghiệp ác không hiểu biết đúng đắn, không có tâm hổ thẹn, không ưa thân cận Phật, Pháp, Tăng, chúng sinh như thế cội rễ của tội rất sâu nặng, trải qua vô lượng kiếp không được trông thấy, nghe biết về tên hiệu Tam bảo, cũng như những người mù kia không trông thấy ánh sáng mặt trời vậy. Nếu có chúng sinh cung kính Như Lai, ưa thích pháp Đại thừa, tôn trọng Tam bảo, nên biết là người ấy nghiệp chướng được tiêu trừ, phước đức, trí tuệ tăng trưởng, căn lành thành tựu, chóng được thấy Phật, lìa hẳn sinh tử và sẽ chứng được đạo quả Bồ- đề.
Các vị thiện nam, như một Phật bảo có vô lượng Phật, thời Như Lai nói về Pháp bảo cũng thế, nghĩa là trong một Pháp bảo cũng có vô lượng nghĩa.
Này thiện nam, trong Pháp bảo có bốn loại: Một là giáo pháp. Hai là lý pháp. Ba là hành pháp. Bốn là quả pháp. Tất cả những thanh, danh cú, văn thuộc pháp vô lậu, nhằm phá tan vô minh cùng phiền não, nghiệp chướng, gọi là Giáo pháp. Các pháp hữu vi, vô vi gọi là Lý pháp. Các hành về Giới, Định, Tuệ gọi là Hành pháp. Tạo được diệu quả vô vi thì gọi là Quả pháp. Bốn pháp như thế là Pháp bảo, dẫn dắt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, đến bờ Niết-bàn.
Này thiện nam, Thầy chư Phật tức là Pháp bảo. Sở dĩ như thế là sao? Chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai do dựa vào pháp tu hành, mà dứt được tất cả chướng ngại, thành Bồ-đề, cho đến tận cùng thuở vị lai luôn đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Do nhân duyên ấy, Như Lai trong ba đời thường cúng dường các Pháp bảo Ba-la-mật nhiệm mầu, huống chi là tất cả chúng sinh trong ba cõi chưa được giải thoát, há không cung kính Pháp bảo vi diệu!
Này thiện nam, kiếp xưa Ta từng làm vị Nhân vương cầu pháp, phải gieo mình vào trong hầm lửa lớn để cầu chánh pháp, mới dứt hẳn được sinh tử và chứng được Đại Bồ-đề. Thế nên, Pháp bảo phá tất cả lao ngục sinh tử, cũng như Kim cang có thể hủy hoại muôn vật khác. Pháp bảo soi sáng chúng sinh tăm tối như mặt trời soi sáng thế giới. Pháp bảo cứu giúp chúng sinh nghèo thiếu như ngọc Ma- ni hóa hiện mọi của báu. Pháp bảo đem lại cho chúng sinh sự vui mừng cũng như tiếng trống cõi trời làm vui chư Thiên. Pháp bảo làm bậc thềm báu cho chư Thiên, vì nghe chánh pháp nên được sinh vào cõi trời. Pháp bảo là chiếc thuyền lớn bền vững vượt qua bể sinh tử đến bờ Niết-bàn. Pháp cũng như Chuyển luân thánh vương, trừ giặc phiền não ba độc. Pháp bảo là y phục đẹp quý, che phủ sự không thẹn của các chúng sinh. Pháp bảo cũng như giáp trụ Kim cang, phá bốn loại ma, chứng đạo Bồ- đề. Pháp bảo cũng như gươm trí tuệ sắc, cắt đứt sinh tử, thoát khỏi mọi ràng buộc. Pháp bảo chính là xe báu của Ba thừa, chuyên chở chúng sinh ra khỏi nhà lửa. Pháp bảo cũng như tất cả đèn sáng, soi sáng nơi ba đường tối tăm. Pháp bảo cũng như cung, tên, giáo, mác, trấn giữ cõi nước, dẹp tan oán địch. Pháp bảo cũng như bậc Đạo sư nơi đường hiểm, khéo dẫn dắt chúng sinh đạt đến chốn chứa nhiều châu báu.
Này thiện nam, Như Lai trong ba đời nói ra diệu pháp, có những sự khó nghĩ bàn như thế, nên gọi là ân “Pháp bảo không thể nghĩ bàn được”.
Này các thiện nam, thế gian, xuất thế gian có ba hạng Tăng: Một là Bồ-tát tăng. Hai là Thanh văn tăng. Ba là Phàm phu tăng.
Như các ông Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc… là Bồ-tát tăng.
Như các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… là Thanh văn tăng.
Và như có các vị phàm phu chân thiện, thành tựu Biệt giải thoát giới cho đến những vị đạt đầy đủ tất cả chánh kiến, thường rộng rãi vì chúng sinh diễn thuyết, khai thị mọi pháp của Thánh đạo, đem lại lợi lạc cho chúng sinh, gọi là Phàm phu tăng. Tuy rằng các vị ấy chưa được Giới, Định, Tuệ, Giải thoát vô lậu, nhưng cúng dường các vị ấy cũng được phước đức vô lượng.
Ba hạng Tăng như thế gọi là Phúc điền tăng đích thực.
Lại có một hạng gọi là Phúc điền tăng. Hạng này đối với xá-lợi Phật, hình tượng Phật cùng các Pháp, Tăng, các giới Thánh chế, sinh tâm kính tín sâu xa; tự nơi mình không có tà kiến và làm cho người khác cũng thế. Lại hay tuyên thuyết chánh pháp, tán thán Nhất thừa, tin tưởng sâu xa nhân quả, thường phát nguyện làm điều thiện, tùy theo lỗi mình phạm, mà ăn năn dốc dứt trừ nghiệp chướng. Nên biết sức tin Tam bảo của người ấy, hơn các ngoại đạo gấp trăm ngàn vạn lần và cũng hơn cả bốn loại Chuyển luân thánh vương, huống chi là các loại khác trong tất cả chúng sinh. Như hoa Uất-kim tuy héo úa nhưng còn hơn tất cả các loài tạp hoa khác. Tỳ-kheo có chánh kiến cũng thế, hơn chúng sinh khác gấp trăm ngàn vạn lần. Tuy rằng vị ấy hủy phạm giới cấm, nhưng không hoại chánh kiến, do nhân duyên ấy nên gọi là Phúc điền tăng. Nếu các thiện nam, thiện nữ nào cúng dường các vị Phúc điền tăng như thế, được phước đức không cùng tận như cúng dường ba hạng Chân thực Tăng bảo trước được công đức như thế nào, thời ở đây đạt được công đức cũng bằng thế không khác. Bốn hạng Thánh, Phàm Tăng như vậy đã đem lại lợi lạc cho chúng sinh thường không hề gián đoạn, nên gọi là ân “Tăng bảo không thể nghĩ bàn được”.
Bấy giờ, năm trăm vị Trưởng giả bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay, chúng tôi nghe pháp âm của Phật, được hiểu sự lợi ích của Tam bảo tại thế gian. Song, nay chúng tôi không biết do nghĩa gì mà nói Phật, Pháp, Tăng được gọi là bảo? Kính xin Phật giải thuyết, bày tỏ cùng chúng hội, cùng tất cả chúng sinh đời mai sau kính tín Tam bảo, dứt hẳn mọi mối ngờ vực, có được lòng tin bền chắc, làm cho họ vào được bể bất tư nghị của Tam bảo!
Đức Phật bảo các ông Trưởng giả:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các vị thiện nam đã có thể hỏi Như Lai về những diệu pháp rất sâu xa như thế, tất cả chúng sinh đời mai sau sẽ được lợi ích yên vui nhiều lắm! Ví như ngọc báu bậc nhất của thế gian có đầy đủ mười nghĩa, làm trang nghiêm cõi nước, đem lại lợi ích cho chúng sinh, thời Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế:
- Bền chắc: như ngọc Ma-ni không ai có thể phá được; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng như vậy: ngoại đạo, Thiên ma không thể phá được.
- Không nhơ: ngọc báu hơn hết của thế gian luôn thanh tịnh trong sáng không lẫn chút bụi nhơ; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, đều xa lìa những phiền não bụi bặm cấu nên.
- Cho vui: như bình Thiên đức, thường cho chúng sinh an vui; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng như vậy, có thể đem đến cho chúng sinh an vui trong thế gian và xuất thế gian.
- Khó gặp: như ngọc báu tốt lành, hiếm có, khó được; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, chúng sinh nhiều nghiệp chướng ức kiếp cũng khó gặp được.
- Có khả năng phá hủy: như ngọc báu Như ý có khả năng phá tan sự nghèo cùng của con người; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng vậy, phá tan những sự nghèo khổ của chúng sinh trong thế gian.
Uy đức: như vị Chuyển luân vương có cỗ xe báu, hay dẹp yên oán địch; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, đủ sáu pháp thần thông, luôn hàng phục bốn loại ma.
- Mãn nguyện: như ngọc Ma-ni tùy tâm mong cầu, sẽ hóa hiện dồi dào mọi thứ của báu; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng vậy, hay làm thỏa mãn những chúng sinh muốn tu tập nguyện theo nẻo thiện.
- Trang nghiêm: như ngọc báu thế gian trang nghiêm vương cung; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, trang nghiêm cung báu Bồ-đề của bậc Pháp vương.
- Tối diệu: như diệu bảo nơi cõi trời vô cùng vi diệu; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, vượt trên các diệu bảo tối thắng của thế gian.
- Bất biến: ví như vàng thực vào lửa không hề biến đổi; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, tám thứ gió của thế gian không thể lay động được.
Phật, Pháp, Tăng bảo đầy đủ vô lượng thần thông biến hóa, đem lại lợi ích cho chúng sinh, từng không có khi nào dừng nghỉ. Vì những nghĩa ấy nên chư Phật, Pháp, Tăng được gọi là “Bảo”. Này các thiện nam, Ta vì các ông mà nói qua về bốn nơi có ân của thế gian, xuất thế gian như trên để các ông hiểu. Các ông nên biết: “Tu hạnh Bồ- tát cần phải trả bốn ân như thế!”.
Khi ấy, năm trăm vị Trưởng giả bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, bốn ân như thế rất là khó trả, vậy nên tu hạnh gì để trả được những ân ấy?
Đức Phật bảo các vị Trưởng giả:
– Này các thiện nam, người vì cầu đạo Bồ-đề cần phải có tâm tu về ba bậc của mười pháp Ba-la- mật: Một là mười pháp Bố thí ba-la-mật-đa. Hai là mười pháp Thân cận ba-la-mật-đa. Ba là mười pháp Chân thực ba-la-mật-đa. Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thường đem bảy thứ châu báu đầy ngập Tam thiên đại thiên thế giới, bố thí cho vô lượng chúng sinh nghèo cùng nhưng bố thí như thế chỉ gọi là Bố thí ba-la-mật-đa, chứ không được gọi là Chân thực ba-la-mật-đa. Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào phát tâm đại bi, vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem thê tử mình bố thí cho người khác, tâm không tiếc lẫn; thân, thịt, tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, cho đến thân mạng, đem bố thí cho người lại xin nhưng bố thí như thế mới chỉ gọi là Thân cận ba-la-mật-đa, chứ chưa được gọi là Chân thực ba-la-mật-đa. Nếu các thiện nam, thiện nữ nào phát khởi tâm Vô thượng Đại Bồ-đề, trụ nơi Vô sở đắc, khuyên các chúng sinh đồng phát tâm ấy, đem pháp chân thực bằng một bài kệ bốn câu bố thí cho một chúng sinh, làm cho họ hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thế mới gọi là Chân thực ba-la-mật-đa. Hai bậc bố thí trước chưa gọi là báo ân được, nếu thiện nam, thiện nữ nào tu bậc thứ ba: Chân thực ba-la-mật-đa như thế, mới gọi là chân thực báo đáp bốn ân. Sở dĩ thế là sao? Hai bậc bố thí trước còn có tâm Sở đắc, bậc bố thí thứ ba tâm là Vô sở đắc, đem pháp chân thực bố thí cho một chúng sinh, khiến phát tâm Vô thượng Đại Bồ-đề, sau này khi người ấy chứng được đạo quả Bồ-đề, rộng độ chúng sinh vô cùng tận, nối tiếp hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt, do nhân duyên ấy nên gọi là Báo ân.
Lúc ấy, năm trăm vị Trưởng giả, theo Phật nghe được pháp Báo ân từ xưa tới nay chưa được nghe bao giờ ấy, tâm sinh hớn hở, cho là được sự chưa từng có, các ông liền phát tâm hướng cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, được pháp tam-muội Nhẫn nhục, chứng nhập trí tuệ bất tư nghị, mãi mãi không thoái chuyển.
Khi đó, tám vạn bốn ngàn chúng sinh trong pháp hội phát tâm Bồ-đề, được lòng tin kiên cố và cũng được pháp Tam-muội ấy; đại chúng trong hải hội đều được pháp tam-muội Kim cang nhẫn nhục, ngộ các pháp Nhẫn vô sinh và nhu thuận, hoặc chứng Sơ địa được pháp Nhẫn bất khởi. Vô lượng chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề, ở ngôi Bất thoái.
Đức Phật bảo năm trăm vị Trưởng giả:
– Tất cả chúng sinh trong đời vị lai nếu nghe được phẩm Tâm Địa Quán Báo Bốn Ân này, thọ trì, đọc tụng, tu tập, nêu bày, giảng nói, viết chép, truyền bá xa rộng, thì những người ấy phước đức, trí tuệ được tăng thêm, chư Thiên hộ vệ, hiện thân không đau yếu, thọ mạng lâu dài; khi mạng chung được sinh lên nội cung của Đức Di-lặc, trông thấy tướng bạch hào của Ngài liền siêu việt nẻo sinh tử, trong ba hội Long hoa sẽ được giải thoát và tùy ý vãng sinh trong mười phương Tịnh độ, thấy Phật, nghe pháp, vận Chánh định tụ chóng thành trí tuệ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai.
❑
Bấy giờ, về phía Đông bắc đại thành Vương xá cách tám mươi do-tuần có một nước nhỏ tên là Tăng trưởng phúc. Trong nước ấy có một ông Trưởng giả tên là Trí Quang, tuổi nhiều, già yếu, chỉ có một con, mà người con ấy tánh tình ác nghịch, không thuận cha mẹ, cha mẹ răn dạy gì đều không theo lời. Ông Trưởng giả xa nghe Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Như Lai ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá, vì vô lượng chúng sinh trong cõi đời xấu ác, nhơ đục, nêu giảng về pháp Báo ân của Đại thừa. Khi ấy, cả cha mẹ và con cùng mọi người quyến thuộc của ông vì muốn nghe pháp, nên đem các đồ cúng đến nơi Phật, cung kính cúng dường Phật.
Cúng dường rồi ông Trưởng giả liền bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có một người con, tánh nó ác tệ quá, không chịu nghe lời khuyên răn của cha mẹ. Nay con nghe thấy Phật giảng dạy về việc báo đáp bốn ân, con vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật, kính xin Đức Thế Tôn vì chúng con cùng các người trong quyến thuộc chỉ dạy rõ về nghĩa lý sâu xa, nhiệm mầu của bốn ân, khiến đứa con tệ ác của con sinh tâm hiếu thuận, đời nay, đời sau sẽ được sự an lạc.
Đức Phật bảo ông Trí Quang:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông vì pháp nên đến chỗ Ta, cúng dường cung kính và muốn nghe pháp ấy, vậy các ông nên nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo! Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Bồ-đề, muốn nghe các pháp quan trọng, khi cất chân, đặt chân xuống đất, tùy theo số lượng bụi nhỏ của đường đất đi xa hay gần mà do nhân duyên ấy, người đó cảm được Kim luân của Chuyển luân thánh vương, khi phước báo của Thánh vương hết, được làm Thiên vương trong Dục giới; khi phước báo của Thiên vương trong Dục giới hết, được làm Phạm thiên vương, được thấy Phật, nghe pháp và chóng chứng được đạo quả vi diệu. Đại trưởng giả cùng những người khác đi với ông vì cầu pháp nên đến chỗ Ta, tính ra như thế là phải đi qua tám mươi do-tuần đại địa vi trần, mỗi một số vi trần ấy sẽ tạo được những cảm ứng theo những quả báo về trời, người, Luân vương. Và được nghe pháp rồi, đời sau sẽ chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tuy trước Ta đã nói về nghĩa lý sâu xa, nhiệm mầu của bốn ân, nay vì các ông, Ta nêu lại nghĩa ấy, bằng lời kệ sau này:
Tối thắng Pháp vương, Đại Thánh chủ
Tất cả trời, người chẳng thể sánh
Trang nghiêm thân bằng mọi tướng tốt
Bể trí như hư không vô lượng.
Hạnh lợi tự, tha đều viên mãn
Tiếng khen đồn khắp trong các cõi
Dứt hẳn phiền não cùng tập khí
Khéo trì mật hạnh, giữ mọi căn.
Một trăm bốn mươi đức “bất cộng”
Bể phước rộng lớn đều tràn trề
Chánh định, thần thông đầy đủ cả
Thường an vui “Tám cung tự tại”.
Trời, người, ngoại đạo trong mười phương
Không ai “năng nan” như Điều Ngự
Miệng vàng nói biện tài vô ngại
Tuy không ai hỏi mà tự nói.
Ví như thủy triều không sái thời
Cũng như trống trời hợp lòng trời
Tự tại như thế chỉ có Phật
Ngũ thông tiên, Ma, Phạm chẳng được.
Trải vô số kiếp tu hạnh nguyện
Chứng được đại thần thông như thế
Trong cõi đại tịch Ta nhập định
Quán sát các căn và bệnh, thuốc.
Tự ra thiền định mà tán thán:
“Ba đời Phật pháp Tâm địa môn”
Các vị Trưởng giả liền thoái tâm
Chỉ ưa hạnh Nhị thừa tự lợi.
Ta mở pháp đại trí phương tiện
Dẫn vào cửa giải thoát “Tam không”
Diệu lý Như Lai chẳng thể lường
Chỉ Phật biết được chân bí mật.
Thanh văn lợi căn và Độc giác
Bồ-tát dốc cầu ngôi bất thoái
Mười hai kiếp số cùng so lường
Không có ai biết được phần nhỏ.
Giả sử phàm, Thánh trí mười phương
Trao cho một người làm bậc trí
Bậc trí như thế giống rừng trúc
Không thể so lường được phần nhỏ.
Thế gian phàm phu không mắt tuệ
Mê nơi ân đức mất diệu quả
Chúng sinh trong đời năm ác trược
Không hiểu ân sâu thường trái đức.
Ta vì khai thị về bốn ân
Khiến vào chánh kiến Bồ-đề đạo
Cha lành mẹ hiền, ân trưởng dưỡng
Tất cả trai, gái đều yên vui.
Ân cha lành cao hơn núi lớn
Ân mẹ hiền sâu như biển cả
Nếu ta ở đời trong một kiếp
Nói ân mẹ hiền không hết được.
Ta nay nói qua một phần nhỏ
Như ruồi, muỗi uống nước biển sâu:
Giả sử có người vì phước đức
Cúng dường Bà-la-môn tịnh hạnh
Vị ngũ thông thần tiên tự tại
Sư trưởng đại trí cùng bạn lành
Nhà cửa trang hoàng toàn bảy báu
Phòng ốc bằng gỗ hương Chiên-đàn
Đồ nằm trăm báu bày trải khắp
Mỹ vị thế gian như cam lộ,
Cùng các thuốc men chữa muôn bệnh
Vật dụng đều chứa đầy vàng bạc.
Cúng dường như thế ngày ba thời
Cho đến đủ số một trăm kiếp
Không bằng một niệm tỏ chút phần
Cúng dường mẹ hiền ruộng ân lớn
Phước đức vô biên không thể lường
Tính toán, thí dụ không sánh kịp.
Mẹ hiền thế gian có mang con
Mười tháng mang thai chịu khổ nhiều
Tình không tham đắm năm dục lạc
Tùy thời ăn uống cũng đồng thế
Ngày đêm thường mang lòng thương xót
Đi, đứng, ngồi, nằm chịu mọi khổ.
Ngay lúc sinh con khỏi bào thai
Như góp mũi nhọn rạch thân thể
Mê cảm Đông, Tây không phân biệt
Khắp mình đau đớn không chịu nổi
Hoặc nhân nạn ấy mà mất mạng
Họ hàng quyến thuộc đều buồn bã
Mọi khổ như thế đều vì con
Lo, buồn thống thiết nói sao cùng.
Nếu được mạnh khỏe thân yên vui
Như nghèo được ngọc mừng khôn tả
Đoái nhìn mặt con không biết chán
Tâm thương nhớ con không chút rời.
Ân tình mẫu tử thường như thế
Ra vào không rời con trước ngực
Sữa mẹ như nước suối cam lộ
Nuôi dưỡng kịp thời không lúc cạn.
Ân nơi từ niệm thực khó ví
Công đức nuôi nấng cũng khó lường
Ở đời đại địa gọi là nặng
Ân mẹ hiền nặng hơn đất kia
Trên đời Tu-di gọi là cao
Ân mẹ hiền cao hơn núi đó,
Ở đời nhanh nhất có gió lốc
Nhưng lòng mẹ hiền còn trội hơn.
Nếu có chúng sinh chẳng hiếu thuận
Khiến mẹ tạm thời khởi tâm hận
Thốt lời oán niệm chỉ phần nhỏ
Con theo lời ấy bị khổ nạn.
Chư Phật cùng các thần Kim cang
Bí pháp thần tiên không cứu được.
Nếu có trai gái nghe mẹ dạy
Vâng làm, nhan sắc không hề trái
Tất cả tai nạn đều tiêu trừ
Chư Thiên độ hộ thường an lạc.
Nếu hay thừa thuận theo mẹ hiền
Những nam, nữ ấy khác kẻ phàm
Bồ-tát lòng từ hóa nhân gian
Thị hiện báo ân mọi phương tiện.
Nếu có thiện nam và thiện nữ
Vì báo ân mẹ nên hiếu dưỡng:
Cắt thịt, trích huyết thường cung cấp
Như thế đủ số trong một kiếp
Mọi thứ cần tu trong đạo hiếu
Còn chưa báo được ân tạm thời
Mười tháng con ở trong thai mẹ
Thường ngậm cuống vú uống thai huyết
Từ khi là con nít, trẻ thơ
Uống hơn trăm hộc sữa của mẹ
Ăn uống, thuốc thang, y phục đẹp
Con trước, mẹ sau đó lệ thường.
Con nếu ngu si bị người ghét
Mẹ cũng thương nhớ không hề bỏ
Xưa, có người nữ bế con mình
Lội qua sông Hằng nước chảy mạnh
Sức khó vượt qua vì nước ngập
Mẹ chết cùng con không nỡ bỏ.
Vì sức thiện căn niệm lành ấy
Mạng mất được sinh lên Phạm thiên
Hưởng vui chánh định nơi cõi Phạm
Được gặp Như Lai nhận Phật ký.
Thế nên mẹ hiền có mười đức
Tùy hợp nghĩa lợi đặt ra tên:
Một là đại địa; hai, năng sinh;
Ba là năng chánh; bốn, dưỡng dục;
Năm, cho trí tuệ; sáu, trang nghiêm;
Bảy là an ổn; tám dạy, trao;
Chín là giáo giới; mười, cho của.
Ân khác không hơn ân đức mẹ.
Pháp gì ở đời là rất giàu?
Pháp gì ở đời là rất nghèo?
Mẹ còn tại nhà là rất giàu
Mẹ đã khuất bóng là rất nghèo.
Khi mẹ còn, là mặt trời ngọ
Khi mẹ mất, là mặt trời lặn
Khi mẹ còn, thảy đều đầy đủ,
Khi mẹ mất, thảy đều rỗng không.
Tất cả hàng Thiện nam ở đời
Ân cha mẹ nặng như gò, núi
Hiếu kính cần phải luôn ở lòng
Biết ân, trả ân là Thánh đạo.
Không tiếc thân mạng dâng đồ ngon
Chưa từng một niệm thiếu sắc dưỡng
Như khi cha mẹ bỗng mất đi
Dù muốn báo ân thật chẳng kịp.
Phật xưa tu hành vì từ mẫu
Cảm được tướng tốt sắc thân vàng
Tiếng lành vang dội khắp mười phương
Tất cả người, trời đều đảnh lễ
Nhân và Phi nhân thảy cung kính
Từ duyên xưa trước báo từ ân.
Ta đã lên cung trời Đao-lợi
Ba tháng, vì mẹ nói pháp mầu
Khiến mẹ lãnh hội, quy chánh đạo
Ngộ “Nhẫn vô sinh” thường không thoái
Như thế đều là báo bi ân
Tuy báo ân sâu vẫn chưa đủ.
Ngài Mục-liên Thần thông đệ nhất,
Dứt hết phiền não trong ba cõi
Dùng sức thần thông xem từ mẫu
Thấy đang chịu khổ trong ngạ quỉ.
Mục-liên tự đi trả ân mẹ
Cứu thoát từ thân nơi thọ khổ
Sinh lên các cõi trời Tha hóa
Cùng được an vui nơi Thiên cung.
Nên biết ân cha mẹ rất sâu
Chư Phật, Thánh hiền đều báo đức.
Nếu ai chí tâm cúng dường Phật
Hoặc tâm tinh cần tu hiếu dưỡng
Phước hai người ấy không sai khác
Ba đời hưởng báo cũng vô cùng.
Người đời, làm con tạo ác tội
Sa ba ngả ác chịu khổ mãi
Người chưa chứng Thánh, không thần thông
Không thấy luân hồi, khó báo được.
Thương thay người đời không Thánh lực
Không hay cứu gỡ cho mẫu hiền!
Do nhân duyên ấy, ông nên biết
Dốc tu phúc lợi công đức tốt:
Đem ngay thắng đức nơi nam, nữ,
Có đại kim quang soi địa ngục.
Trong hào quang diễn tiếng thâm diệu
Khai ngộ cha mẹ mở tâm ý.
Nhớ thuở xưa kia thường tạo tội
Một niệm tâm hối đều trừ diệt.
Miệng niệm: “Nam-mô Tam thế Phật”
Thân khổ nạn, ràng buộc, được thoát
Sinh lên trời, người, hưởng vui mãi
Thấy Phật, nghe Pháp, sẽ thành Phật.
Hoặc sinh Tịnh độ tại mười phương
Hoa sen bảy báu là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sinh
Bồ-tát Bất thoái là đồng học.
Được sáu thần thông, lực tự tại
Được vào cung Bồ-đề vi diệu
Bồ-tát đều là các nam, nữ
Nương nguyện lực lớn hóa nhân gian.
Thế là thực báo ân cha mẹ
Các ông, chúng sinh cùng tu học!
Chúng sinh luân hồi sinh sáu nẻo
Cũng như bánh xe không sau, trước
Hoặc là cha mẹ, là trai, gái
Đời đời, kiếp kiếp ân lẫn nhau
Như thấy cha mẹ… không khác chi
Không chứng Thánh trí, do đâu biết!
Tất cả nam tử đều là cha
Tất cả nữ nhân đều là mẹ
Ân đời trước thế chưa trả xong
Lại sinh niệm khác thành oán ghét!
Thường nên báo ân, ích lẫn nhau
Không nên đánh mắng thành hiềm oán!
Nếu muốn tu thêm nẻo phước trí
Ngày đêm sáu thời nên phát nguyện:
Nguyện con đời đời vô lượng kiếp
Được Túc trụ trí đại thần thông
Biết được trăm ngàn kiếp quá khứ
Lại nhớ biết nhau là cha mẹ.
Xoay vần sáu cõi, bốn loài sinh
Cho con một niệm đến nơi ấy
Vì nói diệu pháp, lìa nhân khổ
Trong trời, người, thọ hưởng vui mãi.
Khuyên phát nguyện Bồ-đề kiên cố
Tu hành sáu độ của Bồ-tát
Dứt hẳn hai nhân nơi sinh tử
Chóng chứng Niết-bàn Vô thượng đạo.
Mười phương tất cả các quốc vương
Chánh pháp giáo hóa là Thánh chủ
Phước đức quốc vương là tối thắng.
Việc làm tự tại gọi là “Thiên”
Vua trời Đao-lợi và trời khác
Thường đem phước lực giúp trị vì
Chư Thiên ủng hộ như con một
Vì thế được gọi là “Thiên tử”.
Thế gian cho vua là cội gốc
Là chỗ nhân dân tất cả nương
Cũng như nhà cửa của thế gian
Cột là cội gốc, dựng nên được.
Vua dùng chánh pháp hóa nhân dân
Giả như Phạm vương sinh muôn vật
Vua làm phi pháp không chánh lý
Như Diễm-ma vương diệt thế gian.
Nếu vua dung nạp kẻ gian tà
Khác nào voi giày xéo ao hoa
Đừng bảo do gặp đời ác, đục
Nên biết thiện, ác do vua tu!
Như mặt trời soi sáng thế gian
Quốc vương dạy đời cũng như thế
Mặt trời, đêm tuy không chiếu tới
Nhưng khiến chúng sinh được an lạc.
Vua đem phi pháp ra dạy đời
Tất cả nhân dân không tin cậy
Thế gian có những sự sợ hãi
Nhưng nhờ phúc vua không dấy sinh
Thành ra nhân dân được an lạc
Như thế là phúc vua soi tới.
Thế gian có những hoa rất đẹp
Nhờ phúc nhà vua mà nở tỏa,
Thế gian có những rừng, vườn đẹp
Nhờ phúc nhà vua đều tươi tốt,
Thế gian có những cây cỏ thuốc
Nhờ phúc nhà vua khỏi các bệnh,
Thế gian trăm thứ lúa, hoa màu
Nhờ phúc nhà vua đều thành hạt,
Nhân dân trên đời hưởng vui sướng
Nhờ phúc nhà vua thường tự nhiên.
Ví như Trưởng giả có một con
Trí tuệ đoan nghiêm đời không sánh
Cha mẹ yêu mến như con mắt
Ngày đêm thường sinh tâm hộ niệm.
Thánh vương trong nước cũng như thế
Nhớ mến chúng sinh như con một
Nuôi nấng người già, giúp cô độc
Tâm dù thưởng, phạt nhưng thường một.
Nhân vương như thế là Thánh chủ
Mọi loài tín ngưỡng như Như Lai
Nhân vương trị nước không tai biến
Muôn họ kính, chăm thường an ổn.
Vua không đem pháp chánh dạy đời
Bệnh tật lay lan hại chúng sinh
Như thế tất cả Nhân, Phi nhân
Tội, phúc rõ ràng không che được.
Trong pháp thiện, ác chia bảy phần
Người tạo được năm, vua được hai
Nhà cửa, ruộng, vườn, rừng đều thế
Thuế má phân chia cũng như vậy.
Chuyển luân thánh vương khi xuất hiện
Chia làm sáu phần vua được một
Nhân dân khi ấy được năm phần
Nghiệp báo thiện, ác cũng đều thế.
Nếu có Nhân vương tu chánh kiến
Như pháp dạy đời là “Thiên chủ”
Do dựa pháp trời mà dạy đời
Tỳ-sa-môn vương thường ủng hộ.
Ba cõi trời khác, chúng La-sát
Đều sẽ gìn giữ Thánh vương cung.
Thánh vương ra đời sửa sang nước
Lợi ích chúng sinh thành mười đức:
Một là soi sáng trong quốc giới
Hai là trang nghiêm cho quốc độ
Ba là thường cho sự yên vui
Bốn là hàng phục các oán địch
Năm là cấm ngăn mọi sợ hãi
Sáu là tập hợp các Thánh hiền
Bảy là căn bản của mọi pháp
Tám là hộ trì cho thế gian
Chín là thường làm công tạo hóa
Mười là chủ nhân dân, đất nước.
Nếu vua thành tựu mười thắng đức
Phạm vương, Đế Thích và chư Thiên
Dạ-xoa, La-sát, Quỷ thần vương
Ẩn mình thường lại hộ đất nước,
Long vương hoan hỷ tuôn mưa ngọt
Lúa thóc được mùa muôn họ yên,
Khắp nơi trong nước sinh châu báu
Người, ngựa sức mạnh, không oán địch,
Ngọc báu Như ý hiện trước vua
Các vua cõi ngoài tự triều phục.
Ai sinh tâm ác với quốc vương
Một niệm khởi tâm thành mọi ác
Người ấy mạng chung đọa địa ngục
Chịu khổ nhiều kiếp khó hẹn ra.
Nếu dốc lòng thành chăm giúp vua
Chư Thiên hộ niệm thêm phước lộc.
Trưởng giả Trí Quang, ông nên biết:
Tất cả Nhân vương do nghiệp cảm
Các pháp đều do nhân duyên thành
Nếu không nhân duyên không các pháp.
Nói không sinh thiên và cõi ác
Những người như thế không hiểu nhân
Không nhân, không quả: đại tà kiến
Không biết tội, phước sinh vọng chấp.
Nay vua được hưởng mọi phước vui
Xưa kia từng giữ ba tịnh giới
Giới đức huân tu chiêu cảm tới
Diệu quả trời, người, được thân vua.
Nếu người phát khởi tâm Bồ-đề
Nguyện lực giúp thành quả Vô thượng
Giữ bền giới tịnh trong thượng phẩm
Đi, ở tự tại làm Pháp vương;
Thần thông biến hóa khắp mười phương
Tùy duyên giúp hết cả muôn loại.
Trung phẩm thọ trì Bồ-tát giới
Phước đức tự tại Chuyển luân vương
Tùy tâm làm gì đều nên cả
Vô lượng trời, người đều tuân phụng.
Hạ thượng phẩm trì: Đại quỷ vương
Tất cả phi nhân đều theo phục
Thọ trì giới phẩm tuy khuyết phạm
Nhưng do giới thắng được làm vua.
Hạ trung phẩm trì: Cầm thú vương
Tất cả chim muôn đều quy phục
Trong giới thanh tịnh có khuyết phạm
Nhưng do giới thắng được làm vua.
Hạ hạ phẩm trì: Diễm-ma vương
Ở trong địa ngục thường tự tại
Tuy hủy giới cấm sinh nẻo ác
Nhưng do giới thắng được làm vua.
Do vì nghĩa ấy các chúng sinh
Nên thọ Bồ-tát thanh tịnh giới
Hãy giữ gìn khéo không khuyết phạm
Tùy chỗ sinh ra làm Nhân vương.
Nếu người không thọ giới Như Lai
Còn không được thân con cáo đồng
Huống là quả cảm trong trời, người
Ở ngôi vua hưởng mọi vui sướng
Thế nên làm vua phải tạo “nhân”
Giới nghiệp tinh, siêng, thành diệu quả.
Quốc vương chánh là chủ muôn dân
Lành thương như mẹ nuôi con nhỏ
Như thế Nhân vương có ân lớn
Tấm lòng dưỡng nuôi khó báo được.
Vì nhân duyên ấy, các chúng sinh
Nếu tu chứng được Đại Bồ-đề
Đối với chúng sinh khởi đại bi
Nên thọ Như Lai tam tụ giới.
Nếu muốn như pháp mà thọ giới
Cần nên sám hối tội tiêu diệt.
Nguyên nhân khởi tội có mười duyên:
Thân ba, miệng bốn và ý ba
Sinh tử vô thỉ, tội vô cùng
Bể lớn phiền não sâu không đáy.
Nghiệp chướng cao vót như Tu-di
Tạo nghiệp do nhân hai thứ khởi:
Tức là Hiện hành và Chủng tử
Tạng thức giữ, duyên Nhất thiết chủng.
Như bóng theo hình không rời thân
Trong tất cả thời chướng Thánh đạo
Gần, chướng diệu quả của trời, người
Xa, chướng Vô thượng Bồ-đề quả
Tại gia thường gắn nhân phiền não
Xuất gia thì phá giới thanh tịnh.
Nếu ai như pháp mà sám hối
Bao nhiêu phiền não đều trừ diệt
Cũng như kiếp lửa hoại thế gian
Đốt sạch Tu-di và biển cả.
Sám hối, đốt sạch củi phiền não
Sám hối, thường sinh lên đường trời
Sám hối, được vui nơi Tứ thiền
Sám hối, mưa báu ngọc Ma-ni
Sám hối, thân Kim cang thêm thọ
Sám hối, được vào cung “Thường lạc”
Sám hối, ra khỏi ngục ba cõi
Sám hối, nở ra hoa Bồ-đề
Sám hối, thấy Đại viên cảnh Phật
Sám hối, đến được chốn “Bảo sở”.
Nếu y như pháp mà sám hối
Nên nương hai pháp Quán môn tu:
Một là Quán sự diệt tội môn
Hai là Quán lý diệt tội môn.
Quán sự diệt tội lại chia ba:
Thượng, trung, hạ căn là ba phẩm.
Nếu có thượng căn cầu giới tịnh
Phát đại tinh tấn tâm không lùi
Thương khóc rơi lệ thường dốc khẩn
Ai cảm khắp mình đều ửng huyết
Luôn nghĩ đến thập phương Tam bảo
Cùng các chúng sinh trong sáu đường
Quỳ dài, chắp tay tâm an định,
Gột tâm phát lộ cầu sám hối:
“Kính xin thập phương Tam thế Phật
Lấy đại từ bi thương xót con
Con mãi luân hồi không chỗ nương
Sinh tử đêm dài thường chẳng biết.
Con ở phàm phu đủ mọi buộc
Tâm cuồng điên đảo, lăng xăng khắp
Con ở trong nhà lửa ba cõi
Nhiễm đắm sáu trần không cứu hộ.
Con sinh trong nhà nghèo, hạ tiện
Không được tự tại thường chịu khổ
Đầu thai nhằm cha mẹ tà kiến
Tạo tội nương theo quyến thuộc ác.
Kính xin chư Phật Đại Từ Tôn
Thương xót hộ niệm như con một.
Nhất tâm sám hối, không tạo tội
Tam thế Như Lai sẽ chứng minh!”.
Người sám hối dũng mãnh như thế
Gọi là thượng phẩm cầu giới tịnh.
Như có trung căn cầu giới phẩm
Một lòng mạnh mẽ sám mọi tội
Nghĩ mình lệ ứa không ai biết
Toàn tâm bồi hồi cầu nguyện Phật:
“Giải bày nghiệp sinh tử vô thủy
Xin nước từ bi gột bụi trần
Giũ bỏ tội chướng sạch sáu căn
Cho con Tam tụ giới Bồ-tát.
Con nguyện giữ vững không lui chuyển
Tấn tu, độ thoát khổ chúng sinh
Người chưa được độ, con chưa đắc
Đến thời vị lai thường không dứt”.
Như thế tinh cần, dũng mãnh làm,
Không tiếc thân mạng cầu Bồ-đề
Cảm tướng lạ thiên nhiệm mầu
Gọi là trung phẩm đại sám hối.
Nếu có hạ căn cầu giới tịnh
Khởi phát tâm Vô thượng Bồ-đề
Rơi lệ, thương khóc, lông thân rởn
Với chỗ tạo tội rất hổ thẹn
Đối trước Tam bảo khắp mười phương
Và trước chúng sinh trong sáu đường
Chí thành phát lộ từ vô thỉ.
Có những chúng sinh bị não loạn
Khởi tâm đại bi không chướng ngại
Không tiếc thân mạng hối ba nghiệp
Những tội đã làm đều tỏ bày
Những ác chưa làm không dám tạo.
Như thế, ba phẩm sám mọi tội
Đều gọi giới Thanh tịnh đệ nhất.
Dùng nước hổ thẹn rửa bụi trần
Thân tâm đều là “thanh tịnh phẩm”
Này các thiện nam, phải nên biết!
Đã nói các tịnh quán các sám hối
Trong sự, lý đó không sai biệt
Do bởi căn duyên ứng chẳng đồng.
Nếu khi tu tập quán chánh lý
Phải xa lìa tất cả mọi tán loạn.
Mặc áo mới sạch ngồi kiết già
Nhiếp tâm, chánh niệm bỏ các duyên:
Thường quán diệu Pháp thân chư Phật
Thể tính như Không, “bất khả đắc”
Tất cả các tội, tánh đều như
Nhân duyên điên đảo, tâm vọng khởi.
Tội tướng như thế vốn là không
Ở trong ba đời “vô sở đắc”
Chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng ở giữa
Tánh, tướng Như như đều không động.
Diệu lý chân như dứt danh ngôn
Chỉ có Thánh trí hay thông suốt
Chẳng “có”, chẳng “không”, chẳng “có không”
Chẳng có “có không”, lìa danh tướng
Thâu tóm pháp giới không sinh diệt
Chư Phật bản lai đồng một thể.
Kính xin chư Phật thùy gia hộ
Diệt được tất cả tâm điên đảo
Nguyện, con sớm ngộ nguồn chân tánh
Chóng chứng Như Lai Vô thượng đạo.
Nếu có thanh tín Thiện nam tử
Ngày đêm hay quán diệu lý Không
Tất cả tội chướng tự tiêu trừ
Thế là giữ giới tịnh trên hết.
Nếu người quán biết thực tướng Không
Hay diệt tất cả các tội trọng
Cũng như gió to thổi lửa dữ
Đốt cháy vô lượng các cỏ cây.
Các hàng Thiện nam quán chân thực
Là môn bí yếu của chư Phật.
Nếu muốn vì người phân biệt rộng
Hạng người vô trí đừng nêu giảng.
Tất cả chúng sinh loại phàm ngu
Nghe quyết sinh nghi tâm bất tín.
Nếu có bậc trí sinh tin hiểu
Niệm niệm quán sát ngộ Chân như
Chư Phật mười phương đều hiện trước
Bồ-đề diệu quả tự nhiên thành.
Các vị Thiện nam, sau Ta diệt
Những người tịnh tín trong đời sau
Theo hai quán môn thường sám hối
Nên thọ Bồ-tát Tam tụ giới
Nếu muốn thọ trì giới thượng phẩm
Nên thỉnh Giới sư: Phật, Bồ tát,
Thỉnh Ta: Thích-ca Mâu-ni Phật
Làm vị Hòa thượng giới Bồ tát,
Long chủng Tịnh trí tôn vương Phật
Sẽ làm tịnh giới A-xà lê,
Đạo sư mai sau: Phật Di lặc
Sẽ làm thanh tịnh Giáo thọ sư,
Hiện tại mười phương Lưỡng Túc Tôn
Sẽ làm thanh tịnh Chứng giới sư,
Mười phương tất cả các Bồ tát
Sẽ làm bạn bè tu học giới,
Phạm, Thích, Tứ vương, Kim cang thiên
Sẽ làm chúng ngoại hộ học giới,
Phụng thỉnh Phật, Bồ-tát như thế
Và các thầy truyền giới hiện tiền
Vì muốn trả khắp bốn ân sâu
Phát khởi tâm Bồ-đề thanh tịnh.
Nên thọ Tam tụ giới Bồ tát:
Nhiêu ích tất cả Hữu tình giới
Tu nhiếp tất cả Thiện pháp giới
Tu nhiếp tất cả Luật nghi giới
Tam tụ thanh tịnh giới như thế
Như Lai ba đời đều hộ niệm.
Chúng sinh phi pháp không nghe biết
Trong vô lượng kiếp chưa nghe thấy
Chỉ có thập phương Phật quá khứ
Đã thọ tịnh giới thường hộ trì
Hai phiền não chướng đoạn trừ hẳn
Chứng được quả Vô thượng Bồ đề.
Tất cả Thế Tôn đời vị lai
Giữ gìn Tam tụ tịnh giới báu
Dứt trừ ba chướng cùng tập khí
Sẽ chứng Chánh đẳng Đại Bồ đề.
Mười phương các Thiện Thệ hiện tại
Đều tu nhân Tam tụ tịnh giới
Dứt hẳn khổ sinh tử luân hồi
Được chứng tam thân Bồ-đề quả.
Siêu việt bể sinh tử sâu lớn
Tịnh giới Bồ-tát là thuyền bè,
Dứt hẳn ràng buộc tham, sân, si
Tịnh giới Bồ-tát là gươm bén,
Đường hiểm sinh tử các sợ hãi
Tịnh giới Bồ-tát là nhà cửa,
Trừ khỏi các nhân khổ nghèo hèn
Tịnh giới thường làm ngọc Như ý,
Bị ma quỷ ốp, các tật bệnh
Tịnh giới Bồ-tát là thuốc quý,
Là vua trời, người, được tự tại
Tam tụ tịnh giới là duyên tốt,
Cùng các thân vua trong bốn cõi
Tịnh giới là duyên được thắng quả.
Thế nên tu được nhân tự tại
Sẽ được làm vua hưởng tôn quý
Trước nên lễ kính mười phương Phật
Ngày đêm tu thêm giới thanh tịnh.
Chư Phật hộ niệm thường thọ trì
Giới như Kim cang không phá hoại
Chư Thiên thiện thần trong ba cõi
Hộ vệ thân vua và quyến thuộc.
Tất cả oán địch đều quy phục
Muôn dân vui mừng cảm ân vua
Thế nên thọ trì giới Bồ tát
Cảm quả vô vi thế, xuất thế.
Tam bảo thường trụ hóa độ đời
Ân đức rộng lớn bất tư nghị
Quá, hiện, vị lai vô số kiếp
Công đức lợi sinh không dừng nghỉ.
Ngàn ánh Phật quang thường soi tỏa
Lợi ích quần sinh độ có duyên
Không duyên khó thấy Từ quang Phật
Cũng như người mù không trông thấy.
Pháp thuần một vị không biến đổi
Phật trước, Phật sau nói đều đồng
Như mưa, một vị thấm khắp cả
Cỏ cây tươi tốt, lớn, nhỏ khác.
Chúng sinh tùy căn đều giải được
Cỏ cây nhuần thấm cũng sai khác.
Bồ-tát, Thanh văn độ chúng sinh
Như nước sông lớn chảy không cạn
Chúng sinh không tín, hóa không tới
Như chỗ tối tăm trời khó soi
Ánh trăng Như Lai rất trong lành
Hay trừ mọi tối cũng như thế.
Cũng như chậu úp trăng không chiếu
Chúng sinh mê hoặc cũng như thế.
Pháp bảo như cam lộ, thuốc hay
Trị được tất cả bệnh phiền não
Người tin uống thuốc, chứng Bồ đề
Không tin tùy duyên sa đường ác.
Bồ-tát, Thanh văn thường ở đời
Vô số phương tiện độ chúng sinh
Chúng sinh nếu có lòng tin thích
Nhập ngôi an lạc của Ba thừa.
Như Lai không xuất hiện ở đời
Tất cả chúng sinh vào tà đạo
Mãi lìa cam lộ, uống thuốc độc
Chìm đắm bể khổ không kỳ ra.
“Phật nhật” xuất hiện ba ngàn cõi
Tỏa ánh sáng lớn chiếu đêm dài
Chúng sinh như ngủ không hay biết
Nhờ sáng được vào nhà vô vi.
Như Lai chưa nói pháp Nhất thừa
Quốc độ mười phương đều không, hư
Phát tâm tu hành thành Chánh giác
Tất cả cõi Phật đều nghiêm tịnh.
Pháp bảo Nhất thừa: mẹ chư Phật
Như Lai ba đời từ đấy sinh
Bát-nhã phương tiện tu không mỏi
Thành đạo giải thoát lên diệu giác.
Nếu Phật, Bồ-tát chẳng thị hiện
Chúng sinh ở đời không đạo sư
Hiểm nạn sinh tử không ai dẫn
Như thế làm sao đến Bảo thành?
Dùng nguyện lực lớn làm bạn lành
Thường nói diệu pháp khiến tu hành
Dốc hướng Thập địa chứng Bồ đề
Khéo vào Niết-bàn chốn an lạc.
Bồ-tát Đại Bi hiện ở đời
Phương tiện dẫn dắt các chúng sinh
Trong ẩn hạnh chân thực Nhất thừa
Ngoài hiện tướng Thanh văn, Duyên giác.
Độn căn trí nhỏ nghe Nhất thừa
Sợ phải phát tâm qua nhiều kiếp
Không biết mình có tánh Như Lai
Chỉ vui tịch diệt, chán phiền não.
Chúng sinh vốn có giống Bồ đề
Đều ở trong tạng thức: Lại da
Nếu gặp bạn lành phát tâm lớn
Ba thứ rèn mài, tu diệu hạnh.
Dứt hẳn phiền não, sở tri chướng
Chứng được thân thường trụ Như Lai
Diệu quả Bồ-đề chẳng khó thành
Chân thiện tri thức thực khó gặp.
Tất cả Bồ-tát tu thắng đạo
Bốn pháp trọng yếu cần nên biết:
Thân cận bạn lành là thứ nhất,
Lắng nghe chánh pháp là thứ hai,
Như lý suy lường là thứ ba,
Như pháp tu chứng là thứ tư.
Tất cả đại Thánh chủ mười phương
Tu bốn pháp ấy chứng Bồ đề.
Này các ông: Trưởng giả, hội chúng
Và Thanh tín sĩ đời vị lai,
Bốn pháp nơi Bồ-tát như thế
Đó là bốn pháp hàng Bồ tát
Cần phải tu tập thành Phật đạo.
Các hàng Thiện nam nên lắng nghe
Như Lai nói ra bốn ân trên
Thì ân Phật bảo là tối thượng
Vì độ chúng sinh phát tâm lớn.
Ba tăng-kỳ kiếp trong đại kiếp
Tu đủ trăm ngàn các hạnh khổ
Công đức viên mãn khắp pháp giới
Thập địa rốt ráo chứng ba thân.
Pháp thân thể hiện khắp chúng sinh
Muôn đức cô đọng tánh thường trụ
Không sinh, không diệt, không đi, lại
Không một, không khác, không đoạn, thường
Đầy khắp pháp giới như hư không
Tất cả Như Lai cùng tu chứng.
Hữu vi, vô vi các công đức
Nương tựa Pháp thân thường thanh tịnh
Bản tánh Pháp thân như hư không
Xa lìa sáu trần không nhiễm trước.
Pháp thân vô hình lìa các tướng
Năng tướng, sở tướng thảy đều không
Như thế, diệu Pháp thân chư Phật
Hý luận, ngôn từ tướng vắng bặt.
Xa lìa tất cả các phân biệt
“Tâm hành xứ diệt” thể đều như
Vì muốn chứng được thân Như Lai
Bồ-tát khéo tu nơi muôn hạnh.
Thể “trí” vô vi chân pháp tánh
Sắc, tâm tất cả các Phật đồng
Ví như chim bay đến núi vàng
Làm cho thân chim đồng sắc ấy.
Tất cả Bồ-tát như chim bay
Thể Pháp thân Phật tựa núi vàng
Tự thọ dụng thân các tướng tốt
Mỗi một đầy khắp cõi mười phương.
Bốn trí viên minh hưởng pháp lạc
Phật trước, Phật sau thể đều đồng
Tuy khắp pháp giới không chướng ngại
Diệu cảnh như thế khó nghĩ bàn.
Thân ấy thường trụ báo Phật độ
Tự hưởng pháp lạc không gián đoạn
Tha thọ dụng thân các tướng tốt
Tùy cơ ứng hiện không thêm, bớt.
Vì độ Bồ-tát bậc Địa thượng
Một Phật hiện ra mười loại thân
Tùy chỗ ứng hiện đều bất đồng
Dần dần tăng tiến đến vô cực.
Phù hợp căn cơ nói pháp mầu
Khiến hưởng pháp lạc vào Nhất thừa
Vị được thần thông dần tăng trưởng
Pháp môn sở ngộ cũng như thế.
Hạ địa Bồ-tát khởi trí tuệ
Chẳng thể thấu đạt các Địa trên
Hóa độ năng, sở tùy thượng hạ
Mỗi mỗi tùy duyên làm sở thuộc.
Hoặc một Bồ-tát, nhiều Hóa Phật
Hoặc nhiều Bồ-tát, một Hóa Phật
Như thế, mười Phật thành Chánh giác
Đều ngồi dưới Bồ-đề bảy báu.
Phật trước nhập diệt, Phật sau thành
Hóa Phật chẳng đồng trải kiếp hiện
Mười Phật ngồi trên đài hoa sen
Quanh khắp đều có trăm ngàn cánh.
Mỗi một cánh sen một cõi Phật
Tức là cõi Tam thiên đại thiên
Trong mỗi một cõi có trăm ức
Mặt trời, trăng, sao bốn đại châu.
Sáu cõi trời Dục và bốn Thiền
Không xứ, Thức xứ đến Phi tưởng
Cùng châu Nam thiệm trong bốn châu
Mỗi mỗi đều có tòa Kim cang.
Cùng với Bồ-đề đại thọ vương
Các thân Phật hóa trong khi ấy
Nhất thời chứng được đạo Bồ đề
Quay xe diệu pháp trong Đại thiên.
Bồ-tát, Duyên giác và Thanh văn
Tùy chỗ hợp căn thành Thánh quả
Như thế, nói ra ba thân Phật
Trên hết, không gì sánh, là “Bảo”.
Ứng, Hóa hai thân nói ra pháp
Giáo, lý, hành, quả là Pháp bảo
Chư Phật lấy Pháp làm Đại sư
Tu tâm chứng được đạo Bồ đề.
Pháp bảo ba đời không biến đổi
Tất cả chư Phật đều y cứ
Ta nay đảnh lễ Nhất thiết trí
Nên nói Pháp bảo, Thầy chư Phật.
Hoặc vào lửa dữ không thể cháy
Ứng thời liền đạt chân giải thoát
Pháp bảo hủy phá ngục sinh tử
Giống như Kim cang phá muôn vật.
Pháp bảo soi vào tâm chúng sinh
Ví như mặt trời trên không giới.
Pháp bảo hay làm thuyền bền chắc
Vượt qua biển ái lên bờ giác.
Pháp bảo hay cho chúng sinh vui
Ví như trống trời hợp lòng trời.
Pháp bảo hay giúp chúng sinh nghèo
Như ngọc Ma-ni mưa mọi báu.
Pháp bảo hay làm thềm Tam bảo
Nhân tu nghe pháp sinh thượng giới.
Pháp bảo: Kim Luân đại Thánh vương
Dùng sức pháp lớn phá bốn ma.
Pháp bảo hay làm xe báu lớn
Chuyên chở chúng sinh ra nhà lửa.
Pháp bảo hay làm Đại Đạo sư
Dẫn dắt chúng sinh đến “Bảo sở”.
Pháp bảo hay thổi loa đại pháp
Giác ngộ chúng sinh thành Phật đạo.
Pháp bảo hay làm đèn đại pháp
Soi chỗ tối tăm trong sinh tử.
Pháp bảo hay làm “Kim cang tiễn”
Trấn giữ quốc giới dẹp mọi oán.
Những pháp của Phật ba đời nói
Làm lợi chúng sinh khỏi khổ buộc
Dẫn vào thành Niết-bàn an lạc
Thế là ân Pháp bảo khó trả.
Trưởng giả Trí Quang ông nghe kỹ,
Thế, xuất thế Tăng có ba hạng:
Bồ-tát, Thanh văn Thánh, phàm chúng
Là thửa ruộng phước, lợi chúng sinh.
Văn-thù-sư-lợi: Đại Thánh Tôn
Chư Phật ba đời cho là mẹ.
Như Lai mười phương lúc phát tâm
Đều do giáo hóa của Văn thù.
Tất cả thế gian, các hữu tình
Nghe tên, thấy thân và hào quang
Cùng thấy thân hóa hiện tùy loại
Đều thành Phật đạo khó nghĩ bàn,
Di-lặc Bồ-tát–Pháp vương tử
Từ mới phát tâm không ăn thịt Do nhân duyên ấy gọi là “Từ Thị”
Vì nhằm thành tựu các chúng sinh.
Ở cõi thứ tư trời Đâu-suất
Trong điện Như ý bốn chín trùng
Ngày đêm thường nói “hạnh Bất thoái”
Vô số phương tiện độ trời, người.
Nước tám công đức ao Diệu hoa
Chúng sinh có duyên đồng sinh đến.
Đệ tử Ta nay giao Di-lặc
Trong hội Long hoa được giải thoát.
Các thiện nam tử, đời mạt pháp
Một nắm cơm ăn cho chúng sinh
Nhờ căn lành ấy thấy Di-lặc
Sẽ được đạo Bồ-đề cứu cánh.
Ông Xá-lợi phất… Đại Thanh văn
Trí tuệ thần thông hóa mọi loài
Nếu thành tựu được giới giải thoát
Thực là người tu hành chánh kiến
Vì người thuyết pháp truyền Đại thừa
Ruộng phước như thế là thứ nhất.
Hoặc có một hạng phàm phu Tăng
Giới phẩm không trọn, sinh chánh kiến
Ca ngợi Nhất thừa pháp nhiệm mầu,
Tuy phạm, dốc hối, chướng tiêu trừ.
Vì các chúng sinh gieo nhân Phật
Phàm phu như thế là Tăng bảo
Như hoa Uất kim tuy héo úa
Vẫn hơn tất cả các hoa đẹp.
Tỳ-kheo chánh kiến cũng như thế
Bốn hạng Luân vương chẳng so kịp.
Như thế bốn hạng Thánh, Phàm Tăng
Lợi lạc hữu tình không dừng nghỉ
Là ruộng phước tốt của thế gian
Thế là Tăng bảo ân đức lớn.
Như Ta đã nói bốn ân nghĩa
Là ân tạo ra ruộng phước đời
Tất cả muôn vật từ đấy sinh
Nếu rời bốn ân không thể được.
Ví như các sắc trần thế gian
Sinh được do nơi bốn Đại tạo
Hữu tình thế gian cũng như thế
Do bốn ân kia được an lập.
Khi ấy, Trưởng giả Trí Quang cùng con ông và quyến thuộc… nghe Phật nói về bốn ân lớn ấy, cho rằng được nghe sự chưa từng có bao giờ, hoan hỷ chắp tay bạch Phật:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại Từ Thế Tôn! Ngài đã vì những chúng sinh tà kiến không tin nhân quả, không hiếu cha mẹ trong đời xấu ác ô trược, nói chân diệu pháp đem lại lợi lạc cho thế gian, nay kính xin Đức Thế Tôn nói thêm cho về nghĩa báo ân. Chúng con đã ngộ được ý rất sâu của bốn ân nhưng, nay chúng con chưa biết tu nghiệp thiện gì để báo được ân ấy.
Đức Phật bảo ông Trưởng giả:
– Các Thiện nam, trước kia Ta đã vì năm trăm vị Trưởng giả nói rộng về nghĩa ấy rồi, nay Ta sẽ vì các ông nói qua ít phần mà thôi! Các hàng thiện nam, thiện nữ nào muốn được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nên tinh siêng tu hành mười pháp Ba-la-mật. Song, nếu còn sở đắc thì vẫn chưa được gọi là Báo ân. Nếu người nào chỉ trong giây lát làm được một tâm thiện Vô sở đắc, mới được gọi là Báo ân. Sở dĩ thế là sao? Vì tất cả Như Lai chứng đạt nẻo Vô sở đắc mới thành Phật đạo, hóa độ chúng sinh. Nếu có các Thiện nam tịnh tín nào được nghe kinh này, tin, hiểu, thọ trì, giảng nói, viết chép, đem Vô sở đắc, tam luân thể không riêng vì một người mà giảng nói pháp, dù chỉ bốn câu, khiến họ trừ được tâm tà kiến, dốc hướng về đạo Bồ-đề, thế tức là báo bốn ân. Sao vậy? Vì người ấy sẽ được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, lần lượt giáo hóa cho vô lượng chúng sinh, khiến họ nhập Phật đạo, làm cho hạt giống Tam bảo mãi mãi không hề bị đoạn tuyệt.
Khi ông Trưởng giả Trí Quang nghe bài kệ ấy rồi liền đạt được tam-muội Nhẫn nhục, chán lìa các khổ ở thế gian, được Bất thoái chuyển. Cùng lúc đó, tám ngàn người con và quyến thuộc cũng đạt được pháp Tam-muội ấy và đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; bốn vạn tám ngàn người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa mọi thứ bụi bặm phiền não, được pháp nhãn thanh tịnh.
❑
Bấy giờ, Trưởng giả Trí Quang nhờ uy thần của Phật, liền từ tòa đứng dậy đảnh lễ chân Phật, cung kính chắp tay bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con nay theo Phật, nghe được diệu pháp Báo ân rất sâu ấy, trong lòng hớn hở, cho rằng được sự chưa từng có bao giờ, như người đang đói khát gặp được món ăn cam lộ. Con nay mong muốn đền trả bốn ân, cúng dường Phật, Pháp, Tăng, xuất gia tu đạo, thường siêng tinh tấn mong chứng Bồ-đề!
Phật đại từ bi, trong một thời tại thành Tỳ-xá- ly vì ông Vô Cấu Xưng nói pháp rất sâu rằng:
“Ông Vô Cấu Xưng, lấy tâm thanh tịnh làm gốc thiện nghiệp, lấy tâm bất thiện làm gốc ác nghiệp; tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh, tâm tạp uế, thế giới tạp uế; trong Phật pháp của Ta lấy tâm làm chủ. Tất cả các pháp đều do tâm. Nay ông là người tại gia có phước đức lớn, mọi thứ châu báu chuỗi ngọc không gì là không đầy đủ; họ hàng trai, gái yên ổn an lạc, lại thành tựu chánh kiến, không hủy báng Tam bảo, biết đem tâm hiếu dưỡng cung kính tôn thân, khởi tâm đại từ bi cấp cho kẻ cô độc và cho đến các loại sâu, kiến… cũng không làm hại. Ông lấy nhẫn nhục làm áo mặc, từ bi làm nhà ở, tôn kính bậc có đức, tâm không kiêu mạn; thương xót tất cả chúng sinh như con đỏ; không tham tài lợi, thường tu thiện xả, cúng dường Tam bảo, tâm không biết đủ, vì pháp bỏ mình vẫn không lẫn tiếc. Người tại gia như thế tuy không xuất gia nhưng đã đầy đủ vô lượng, vô biên công đức. Đời sau ông sẽ đầy đủ muôn hạnh, vượt trên ba cõi chứng Đại Bồ- đề. Sự tu tập của ông đúng là chân Sa-môn, cũng là Bà-la-môn, là chân Tỳ-kheo, là chân xuất gia. Người như thế nên gọi là tại gia-xuất gia.”
Hoặc có một thời, Đức Thế Tôn ở nơi tinh xá trong vườn Trúc Ca-lan-đà, vì đám lục quần Tỳ- kheo tánh tình xấu ác, nói pháp nhằm khuyên dạy họ:
“Các ông Tỳ-kheo, các ông hãy nghe cho kỹ! Nghe cho kỹ! Vào bể Phật pháp “Tín” là căn bản, qua sông sinh tử “Giới” là thuyền bè. Nếu người xuất gia không giữ giới cấm, tham đắm mọi thứ dục lạc ở đời, hủy hoại giới quý báu của Phật, hoặc mất chánh kiến lạc vào rừng tà kiến, dẫn theo vô lượng người rơi xuống hố sâu lớn. Tỳ-kheo như thế không gọi là người xuất gia, chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Bà-la-môn, hình tướng giống Sa-môn, nhưng tâm thường tại gia, Sa-môn như thế không có hạnh viễn ly. Hạnh viễn ly có hai thứ: Một là thân viễn ly. Hai là tâm viễn ly. Thân viễn ly, như người xuất gia thân ở nơi thanh vắng, không bị nhiễm cảnh dục là “thân viễn ly”. Nếu như người xuất gia tu tâm thanh tịnh không bị nhiễm cảnh dục gọi là “tâm viễn ly”. Thân tuy xa lìa thế tục, nhưng tâm vẫn còn tham cảnh dục, người như thế không gọi là viễn ly. Như các tịnh tín nam và tịnh tín nữ, thân tuy ở nơi làng xóm mà phát tâm vô thượng, dùng tâm đại từ bi đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, tu hành như thế là chân viễn ly”.
Lúc đó, lục quần Tỳ-kheo tánh khí xấu ác nghe pháp âm ấy liền đạt được pháp nhẫn Nhu thuận. Nay chúng con tuy tin lời Phật nói, nhưng đều còn có tâm hoài nghi, ý chưa quyết định. Lành thay Thế Tôn! Ngài hay cắt đứt mọi sự nghi ngờ của thế gian! Ngài là bậc ở nơi tất cả các pháp luôn được tự tại! Ngài là bậc có lời nói chân thực, lời nói duy nhất không hai! Ngài là bậc biết đạo, là bậc mở đạo! Vậy, kính xin Như Lai vì chúng con cùng tất cả chúng sinh đời mai sau, bỏ phương tiện, giảng nói pháp chân thực, làm cho chúng con dứt hẳn được sự ngờ vực, nghi hoặc, vào được Phật đạo.
Nay trong hội này có hai hàng Bồ-tát: một là Bồ-tát xuất gia; hai là Bồ-tát tại gia. Hai hàng Bồ- tát ấy đều khéo đem lại sự lợi lạc cho tất cả chúng sinh, không hề dừng nghỉ. Như con suy nghĩ: Bồ- tát xuất gia không bằng người tại gia tu hạnh Bồ- tát. Vì sao thế? Xưa có Kim luân Thánh vương phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chán ngán sự vô thường, khổ, không của thế gian, bỏ ngôi Luân vương như nhổ bỏ nước mũi, nước bọt, dốc theo nẻo xuất gia thanh tịnh đi vào trong đạo Phật. Khi ấy, tám vạn bốn ngàn phu nhân, thể nữ nơi hậu cung thấy vua xuất gia đều mang lòng luyến mộ tâm ý xốn xang sầu não quá thể, khởi ra sự đau khổ trong tình ái biệt ly, như bị nỗi khổ nơi địa ngục. Kim luân Thánh vương từ lúc bắt đầu nhận ngôi vua đã cảm mến được các bảo nữ cùng ngàn vương tử và các đại thần quyến thuộc, nay nhà vua bỏ ngôi báu đi xuất gia, họ cùng đau lòng giữa tình ly biệt, tiếng gào khóc của họ vang dậy bốn thiên hạ. Những người quyến thuộc ấy đều nói: “Vua chúng tôi phước trí vô lượng vô biên, làm sao mà nỡ bỏ chúng tôi đi xuất gia! Thương thay! Khổ thay! Thế giới rỗng không! Từ nay trở đi chúng tôi không còn nơi nương cậy!”
Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào với lòng tin thanh tịnh, quy y Phật, Pháp, Tăng, phát tâm Bồ- đề, lìa bỏ cha mẹ xuất gia nhập đạo, thì cha mẹ thương xót, ân niệm tình thâm, sự buồn khổ trong ly biệt thật cảm động cả trời đất. Như cá ở chỗ vũng nước cạn phải lăn lóc trên mặt đất, thời nỗi khổ về ái biệt ly cũng thế và như tâm nơi đám họ hàng Kim luân vương kia không khác. Bồ-tát xuất gia đem đến lợi ích cho chúng sinh, sao lại làm nhiễu hại cha mẹ, vợ con khiến nhiều người chịu khổ não quá như vậy? Do nhân duyên ấy, Bồ-tát xuất gia không có từ bi, không đem lại lợi ích cho chúng sinh, thế nên không bằng Bồ-tát tại gia đủ tâm đại từ bi, thương xót chúng sinh làm lợi ích tất cả!
Lúc đó, Đức Phật bảo Trưởng giả Trí Quang:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông có tâm đại từ bi khuyến thỉnh Như Lai nói về sự hơn kém của hai hàng Bồ-tát xuất gia và tại gia. Nay ông hỏi và cho rằng Bồ-tát xuất gia không bằng tại gia, nghĩa ấy không phải. Sở dĩ thế là sao? Bồ-tát xuất gia hơn tại gia vô lượng vô biên không thể lấy gì sánh ví được. Sao vậy? Vì Bồ-tát xuất gia dùng năng lực trí tuệ chân chánh quán sát hàng tại gia một cách tỉ mỉ vẫn thấy có nhiều lỗi lầm; đó là tất cả nhà cửa ở thế gian, trong đó tích góp nhiều vật báu mà vẫn chưa biết là đầy đủ, cũng như biển cả dung nhận tất cả nước các con sông lớn, nhỏ nhưng cũng chưa từng cho là đầy đủ. Này thiện nam, phía Nam Hương sơn, phía Bắc Tuyết sơn có ao A-nậu, bốn Đại Long vương đều ở trong ấy và mỗi vị ở một góc: Long vương ở góc Đông nam là Bạch Tượng Đầu, Long vương ở góc Tây nam là Thủy Ngưu Đầu, Long vương ở góc Tây bắc là Sư Tử Đầu, Long vương ở góc Đông bắc là Đại Mã Đầu. Nước từ bốn góc ấy chảy ra bốn sông lớn:
Sông Căng-già, nước sông này chảy đến chỗ nào thì loài voi trắng theo đó sinh sản.
Sông Tín-độ, nước sông này chảy đến chỗ nào thì loài trâu theo đó sinh sôi.
Sông Bạc-sô, nước sông này chảy đến chỗ nào thì loài sư tử theo đó xuất hiện.
Sông Tư-đà, nước sông này chảy đến chỗ nào thì loài ngựa lớn theo đó mà sinh ra.
Những con sông lớn ấy, trong mỗi con sông lại có năm trăm dòng sông vừa vừa, trong mỗi con sông vừa vừa lại có vô lượng sông nhỏ. Tất cả nước trong các con sông lớn, vừa vừa và nhỏ ấy đều chảy vào biển cả, song, biển cả kia vẫn chưa từng cho là đầy đủ. Chúng sinh trong thế gian với mọi thứ hiện có về nơi ở, nhà cửa cũng như thế. Họ gom góp được các thứ ngọc báu ở bốn phương đem lại đều để vào trong nhà ấy, song họ chưa từng cho là đầy đủ. Cầu nhiều, tích góp nhiều thì tạo ra nhiều tội lỗi; vô thường vụt đến, phải vứt bỏ nhà cũ ra đi, khi ấy chủ nhà tùy nghiệp mà chịu báo, trải qua vô lượng kiếp hoàn toàn không có chỗ nào để quay về cả!
Này thiện nam, đây nói về “nhà” tức là nói về cái thân năm Uẩn, mà chủ căn nhà ấy là Bản thức của ông. Người có trí tuệ ai lại ưa căn nhà “hữu vi” ấy; mà chỉ thích cung điện báu Bồ-đề an lạc xa lìa hẳn mọi thứ lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não thôi! Nếu những Thiện nam… có căn khí linh lợi, lòng tin thanh tịnh sâu dày, muốn độ cha mẹ, vợ con, họ hàng để họ vào được ngôi nhà “Vô vi cam lộ” thì nên quy Tam bảo, xuất gia học đạo!
Bấy giờ, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ sau đây:
Bồ-tát xuất gia hơn tại gia
Tính toán, thí dụ không sánh kịp.
Tại gia bức bách như lao ngục
Muốn cầu giải thoát rất là khó,
Xuất gia thư thái như hư không
Tự tại, vô vi khỏi ràng buộc.
Xét kỹ tại gia nhiều lỗi lầm
Tạo tác tội lỗi không bờ bến
Mưu sống, cầu nhiều thường chẳng đủ
Cũng như biển cả khó đầy được.
Long vương ở trong ao A-nậu
Bốn góc chảy ra bốn bể lớn
Bao nhiêu nước sông lớn, vừa, nhỏ
Ngày đêm tuôn chảy không hề ngừng
Song, biển cả kia chưa từng đủ
Tham cầu nhà cửa cũng như thế!
Tại gia khởi nhiều các nghiệp ác
Chưa từng sám, tẩy cho trừ diệt.
Không biết ái niệm nguy ngập thân
Không rõ mạng căn như sương sớm.
Sứ giả Diễm-ma cùng giục thúc
Vợ con, nhà cửa sao theo được
U minh tăm tối trong đêm dài
Riêng đến cửa chết tùy nghiệp chịu.
Chư Phật xuất hiện khởi lòng thương
Muốn cho chúng sinh nhàm trần tục.
Ông nay đã nhận thân khó được
Nên siêng tinh tấn chớ phóng dật!
Nhà cửa tại gia rất đáng chán
Nhà báu “Không tịch” khó nghĩ bàn
Rời hẳn bệnh khổ và ưu não
Những bậc có trí quán sát kỹ!
Thiện nam, tín nữ ở đời sau
Muốn độ cha mẹ và quyến thuộc
Để vào thành “Cam lộ vô vi”
Mong cầu xuất gia tu diệu đạo
Tu hành dần dần thành Chánh giác
Sẽ chuyển Vô thượng đại Pháp luân.
Lại nữa thiện nam tử, Bồ-tát xuất gia xem nhà cửa nơi thế gian cũng như đá lửa càng sinh lo, chán. Sao vậy? Ví như chút lửa có thể đốt cháy tất cả cỏ cây…, nhà cửa nơi thế gian cũng như thế. Tâm tham muốn tìm cầu, giong ruổi khắp bốn phương, nếu có được những gì thì sự thọ dụng vẫn không đủ; trong tất cả thời gian theo đuổi tìm kiếm đều không hề biết chán và nếu không được gì thì tâm sinh sầu não, ngày đêm càng truy cầu thêm. Thế nên tất cả nhà cửa nơi thế gian hay sinh ra vô lượng lửa phiền não, vì khởi tâm tham, thường không biết đủ. Của báu ở thế gian cũng như cỏ cây, còn tâm tham dục thì như nhà cửa thế gian. Do nhân duyên ấy, tất cả chư Phật thường nói: “Ba cõi là nhà lửa”. Thiện nam tử, Bồ-tát xuất gia nên luôn quán tưởng như thế, chán lìa thế gian mới là “xuất gia chân chánh”.
Khi ấy, Đức Như Lai lại nói nghĩa trên bằng lời kệ sau đây:
Bồ-tát xuất gia xem nhà đời
Cũng như chút lửa của thế gian
Tất cả cỏ cây dần cháy hết
Nhà đời, nên biết cũng như thế.
Chúng sinh có nhiều những của báu
Lại còn tìm cầu, thường không đủ
Cầu không được khổ thường tại tâm
Lửa lão, bệnh, tử không lúc dứt.
Do nhân duyên ấy các Thế Tôn
Nói rằng “Ba cõi là nhà lửa”
Nếu muốn vượt qua khổ ba cõi,
Nên tu Phạm hạnh làm Sa-môn
Tam-muội thần thông được hiện tiền
Tự lợi lợi tha đều viên mãn.
Lại nữa thiện nam, ưa muốn xuất gia thì nên quán nhà cửa, như trong hang đá núi sâu có kho báu lớn. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một con, nhà ông rất giàu, của báu vô lượng, tôi trai tớ gái, người hầu, voi, ngựa vô số. Trong thời sau này người cha chợt bị bệnh nặng, thầy hay thuốc tốt không sao cứu chữa được, ông Trưởng giả tự biết mình không bao lâu nữa sẽ chết, liền gọi con lại bảo:
– Phàm tất cả của báu hiện có của ta, ta giao phó hết cho con, con cố gắng giữ gìn đừng để mất mát!
Người cha dặn dò trao gởi rồi liền mất. Sau đó, con ông Trưởng giả không thuận mạng cha, tha hồ phóng túng, đua đòi, gia nghiệp hao tốn, của cải tan mất, tôi tớ lại lẫn trốn không còn nương tựa nữa. Khi ấy, tâm bà mẹ già mang sự lo buồn, sầu não bị bệnh nặng rồi mất. Người con ấy bị nghèo cùng, không còn có chỗ nhờ cậy, liền vào nơi hang núi nhặt củi, hái quả bán đi mua cháo cơm tự sống qua ngày. Một ngày kia, gặp mưa tuyết, người con ấy tạm thời vào trong hang đá nghỉ ngơi. Trong hang ấy là chỗ Quốc vương xưa cất giấu đồ thất bảo, không ai biết cả, nay đã trải qua hàng trăm ngàn năm, nơi đây vắng bặt bóng người lui tới.
Bấy giờ, người nghèo kia do nhân duyên đưa đẩy, tình cờ vào trong hang thấy rất nhiều vàng, tâm vui mừng quá cho rằng được sự chưa từng có bao giờ. Nhân đó, người ấy mới chia ra: Ngần này phần vàng để dựng cất nhà cửa, ngần này phần vàng là để cưới vợ, phần này thuê tôi tớ, phần này mua voi, ngựa, tùy tâm muốn gì đều được như ý. Đang khi trù tính như thế, có bọn giặc vì chạy đuổi con hươu đến trước hang, thấy người nghèo ấy đem vàng phân phối ra từng phần, liền bỏ không đuổi hươu nữa, mà giết người lấy vàng. Phàm ngu si cũng giống như thế, quá ham sự vui sướng ở đời không thích lìa bỏ. Hang đá núi sâu như nhà cửa của đời, vàng ngọc chôn giấu cũng như thiện căn, sứ giả của Diễm-ma vương tức là bọn giặc. Theo nghiệp chịu báo bị đọa trong ba đường ác, không nghe thấy tên hiệu của cha mẹ, Tam bảo, lại làm mất cả căn lành. Do nhân duyên ấy, người đời cần nên chán rời, phát tâm Vô thượng Đại Bồ-đề, xuất gia tu đạo mong thành tựu bậc Diệu giác.
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại nghĩa trên bằng lời kệ:
Ưa thích tại gia, các Bồ-tát
Xem xét nhà cửa như kho quý.
Ví như Trưởng giả có một con
Nhà ông rất giàu nhiều của báu
Tôi tớ người hầu cùng xe ngựa
Tất cả cần dùng đều sung túc.
Về sau Trưởng giả thân bị bệnh
Thầy giỏi khắp đời đều bó tay
Sắp mất, kêu gọi người thân tộc
Giao phó gia tài cho người con
Dạy răn con giữ tâm hiếu dưỡng
Siêng việc hưởng tự đừng đoạn tuyệt.
Khi ấy người con trái mạng cha
Thả lỏng ngu si, phóng dật nhiều
Mẹ già lo buồn thân đau yếu
Lại nhân con hư liền chết mất.
Quyến thuộc xa lìa không chỗ nương
Nhặt củi đổi cháo làm thường dụng
Đến núi sâu kia gặp gió tuyết
Vào trong hang đá tạm nghỉ ngơi.
Trong hang xưa giấu của quý báu
Đã trải lâu xa không người biết
Kẻ ấy gặp được kho vàng thực
Sinh lòng hớn hở chưa từng có.
Tức thời phân phối số vàng kia
Tùy ý muốn gì đều dùng nó:
Hoặc để dựng nhà, hoặc cưới vợ
Tôi tớ, voi, ngựa và xe cộ.
So tính mai sau không bỏ được
Bọn giặc đuổi hươu chạy đến trước
Là oán gia kia khi hội ngộ
Liền giết người nghèo lấy vàng đi.
Chúng sinh ngu si cũng như thế
Hang đá cũng như nhà cửa đời
Chôn giấu vàng thật ví thiện căn
Quỷ sứ Diễm-ma như giặc cướp.
Do nhân duyên ấy, các Phật tử
Sớm nên xuất gia tu thiện phẩm
Quán xem thân mạng như bọt nổi
Siêng tu Giới, Nhẫn Ba-la-mật.
Sẽ tới cây Bồ-đề thất bảo
Trên tòa Kim cang chứng Như như
Thường trụ bất diệt khó nghĩ bàn
Chuyển xe chánh pháp độ quần sinh.
Lại nữa thiện nam, tất cả nhà cửa hiện có của thế gian, cũng như món ăn uống ngon ngọt mà bị lẫn lộn thuốc độc. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, căn khí linh lợi, thông minh, trí tuệ, thấu suốt được Quán môn bí mật Ca-lâu-la, biết dùng phương tiện khéo léo để phân biệt những thứ thuốc độc, vì thế cha mẹ thương yêu, nhớ mến không gì sánh ví được. Bấy giờ, con ông Trưởng giả vì có việc cần nên đi ra ngoài chợ chưa kịp trở về, ở nhà cha mẹ cùng thân tộc có việc vui mừng, bày đặt yến tiệc, sắm sửa đầy đủ các món ăn uống ngon quý. Nhưng, lúc đó có kẻ thù oán nào ngấm ngầm đem thuốc độc bỏ vào trong thức ăn uống, không một ai hay biết. Khi ấy cha mẹ cũng không biết là trong món ăn có thuốc độc lẫn lộn, vậy là cả nhà lớn, bé đều ăn phải món ăn lẫn thuốc độc đó. Sau người con về tới, cha mẹ vui mừng đưa cho con những món ăn uống còn để phần. Con ông Trưởng giả khi chưa dùng đến các món ăn uống ấy, liền niệm Quán môn Ca-lâu-la bí mật, biết ngay là trong món ăn có lẫn thuốc độc. Người con tuy biết sự việc, nhưng không dám nói rõ là cha mẹ đã ăn lầm phải thuốc độc. Sở dĩ thế là sao? Vì nếu cha mẹ biết mình đã ăn phải thuốc độc thì càng thêm phiền muộn, não loạn, độc khí chóng phát, càng làm cho người ta chóng chết. Người con mới đặt ra phương tiện thưa cha mẹ:
– Con sở dĩ chưa dùng món ăn uống này vì con phải đi ra chợ một chút, khi về con sẽ ăn. Sao vậy? Vừa rồi con có mua được một viên ngọc báu vô giá, con bỏ trong két quên chưa khóa.
Cha mẹ nghe con nói đến thứ ngọc báu thì sinh tâm hoan hỷ, mặc cho con đi. Người con bèn chạy vội đến nhà thầy thuốc giỏi, cầu thuốc hay là thuốc A-già-đà giải độc. Được thuốc ấy rồi, người con chạy vội về nhà, lấy sữa, tô và đường phèn, ba vị sắc chung rồi hòa với thuốc A-già-đà. Làm thuốc xong, người con mới thưa cha mẹ:
– Kính xin cha, mẹ uống nước cam lộ này, đây là thuốc A-già-đà ở núi Tuyết. Sở dĩ thế là sao? Lúc nảy cha mẹ ăn lầm phải thuốc độc trộn trong thức ăn, con tạm ra ngoài một chút, bản ý của con chỉ vì cha mẹ cùng mọi người dốc tìm được thuốc hay bất tử này mà thôi.
Khi ấy tâm cha mẹ và mọi người rất vui mừng, cho như là được sự chưa từng có, liền uống ngay thuốc ấy, nên hết các độc khí, không bị chết và thân mạng được sống lâu.
Bồ-tát xuất gia cũng thế, cha mẹ quá khứ bị chìm đắm trong sinh tử, cha mẹ hiện tại không thoát ly được, thì nẻo sinh tử trong mai sau khó dứt hết và phiền não hiện tại cũng khó dẹp trừ. Do nhân duyên ấy, vì muốn độ cha mẹ và các chúng sinh nên đã mạnh mẽ phát tâm đồng thể đại từ bi cầu Đại Bồ-đề xuất gia nhập đạo. Này thiện nam, thế gọi là nhà cửa nơi thế gian như thuốc độc lẫn trộn trong món ăn ngon tốt.
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Nhà cửa sở hữu của thế gian
Nói là thuốc độc lẫn mỹ thực.
Ví như Trưởng giả có một con
Thông minh, lợi trí lại nhiều tài
Giỏi môn bí mật Ca-lâu-la
Có phương tiện khéo biết thuốc độc.
Con có sự duyên ra ngoài chợ
Tạm thời buôn bán chưa về nhà
Cha mẹ yên vui hợp thân thuộc
Cỗ quý trăm mùi đều đầy đủ.
Có một kẻ ác mang thuốc độc
Ngầm đến, bỏ vào món ăn uống
Người con khi ấy không ở nhà
Cha mẹ vì con lưu một phần.
Cả nhà ăn lầm thuốc tạp độc
Con niệm quán môn biết có độc
Liền chạy vội đến chỗ thầy thuốc
Cầu được thuốc Già-đà bất tử.
Ba vị hòa sắc, thuốc thành rồi
Liền thưa thân thuộc uống nhanh nhanh
Uống thuốc như thế như cam lộ
Khỏi mọi tạp độc đều an lạc.
Tất cả Thiện nam có lòng tin
Xuất gia tu đạo cũng như thế
Vì cứu cha mẹ và chúng sinh
Uống phải thuốc độc của phiền não
Tâm cuồng điên đảo tạo các tội
Chìm mãi trong bể khổ sinh tử.
Cắt ái, từ thân vào đạo Phật
Được gần Điều Ngự Đại Y vương
Tu về vô lậu A-già-đà
Sinh lại nhà cha mẹ ba cõi
Khiến uống thuốc pháp dứt ba chướng
Sẽ chứng quả Vô thượng Bồ-đề!
Mãi đời vị lai thường chẳng diệt
Làm chỗ quy y độ chúng sinh
Rốt ráo ở nơi Đại Niết-bàn
Và, Phật Bồ-đề trí tròn sáng.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia thường quán tất cả nhà cửa của thế gian cũng như gió lớn không hề dừng. Sao vậy? Thiện nam, tâm ý của hàng tại gia thường khởi vọng tưởng chấp trước ngoại cảnh, không thể thông tỏ được sự thực, mãi say đắm trong nẻo vô minh tối tăm, mọi sự tiếp xúc với cảnh luôn bị điên đảo không hề an trụ được. Ác giác dễ khởi, thiện tâm khó sinh. Do vọng tưởng duyên khởi ra các phiền não; nhân các phiền não tạo ra nghiệp thiện, ác; và y vào các nghiệp thiện, ác ấy mà thọ nhận lấy quả báo trong năm đường, cứ như thế, như thế, sinh tử không dứt. Chỉ có đạt được chánh kiến, tâm không điên đảo, tạo mọi nghiệp thiện, làm nhân cho ba thiện căn và lấy “tín”… tăng trưởng cho hạt giống vô lậu của các pháp ấy, phát khởi thần thông Vô lậu tam-muội, thần thông như thế, như thế là chứng Thánh quả tương tục. Nếu dẹp được vọng tưởng, tu tập chánh quán thời tất cả phiền não sẽ được dứt sạch hẳn.
Bấy giờ, Trưởng giả Trí Quang bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, tu tập chánh quán có vô lượng môn, vậy tu tập những quán môn nào mới dẹp được vọng tưởng?
Đức Thế Tôn bảo ông Trưởng giả:
– Này thiện nam, cần nên tu tập chánh quán Vô tướng. Quán Vô tướng là dẹp trừ được vọng tưởng. Song, chỉ quán thực tánh chứ không cần nhận thực về mười hiện tướng, vì thể của tất cả các pháp môn vốn không tịch, vượt mọi sự nhận thức lãnh hội thông thường thế gọi là Chánh quán. Nếu có Phật tử nào an trụ nơi chánh niệm, quán sát như thế, tu tập vô tướng Vô vi trong thời gian dài, gió dữ của vọng tưởng vắng bặt, không còn dấy động nữa, thì Thánh trí xuất hiện ngay chứng đắc diệu lý, thành tựu viên mãn. Thiện nam, đó là Hiền thánh, đó là Bồ-tát, đó là Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên ấy, tất cả Bồ-tát vì muốn dẹp trừ vọng tưởng mãi mãi không dấy khởi lên nữa, vì muốn trả bốn ân, thành tựu được bốn đức, xuất gia tu học, ngừng tâm vọng tưởng, trải vô lượng kiếp thành tựu Phật đạo.
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Bồ-tát xuất gia quán tại gia
Cũng như gió dữ không hề dừng
Cũng như vọng chấp trăng trong nước
So tính phân biệt lấy làm thực.
Trong nước bản lai không bóng trăng
Nước tịnh là duyên thấy trăng thực.
Các pháp duyên sinh đều là giả
Phàm ngu vọng chấp cho là “ta”
Cái ấy theo “duyên”, “pháp” không thực
Vọng tưởng phân biệt chấp là có.
Nếu hay dứt trừ được hai chấp
Sẽ chứng Vô thượng Đại Bồ-đề.
Vọng tưởng tình phàm như hắc phong
Thổi rừng sinh tử niệm niệm khởi
Bốn quỷ điên đảo thường theo đuổi
Khiến tạo năm thứ nhân Vô gián.
Ba căn bất thiện hiện ràng buộc
Sinh tử luân hồi luôn nối nhau
Nếu người nghe kinh, tin, hiểu sâu
Chánh kiến hay trừ tâm điên đảo
Hạt giống Bồ-đề niệm niệm sinh
Đại trí thần thông Tam-muội khởi.
Nếu tu tập được quán thâm diệu
Hoặc, nghiệp, quả khổ đâu khởi được?
Chỉ quán thực tướng chân tánh như
Năng, sở đều mất, bỏ mọi kiến.
Tánh tướng nam, nữ bản lai không
Vọng chấp theo duyên sinh hai hướng.
Như Lai dứt hẳn nhân vọng tưởng
Chân tánh vốn không tướng nam, nữ.
Diệu quả Bồ-đề chứng đều đồng
Phàm phu vọng chấp sinh tướng khác.
Ba mươi hai tướng vốn phi tướng
Liễu tướng, phi tướng là thực tướng.
Nếu người xuất gia tu Phạm hạnh
Nhiếp tâm tịch tĩnh chốn không nhàn
Đó là Bồ-tát tâm chân tịnh
Không lâu sẽ chứng Bồ-đề quả.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ngày đêm thường quán nhà cửa của thế gian tất cả là chỗ sinh ra phiền não. Sao vậy? Như có một người xây dựng được tám ngôi nhà, đem các vật báu mà tự trang nghiêm cho những căn nhà ấy. Dựng nhà xong, người ấy nghĩ rằng: “Nay nhà cửa là vật sở hữu của ta, không lệ thuộc vào người khác, chỉ có nhà cửa của ta là tốt đẹp hơn hết, nhà cửa của người khác không thể sánh kịp”. Do chấp trước như thế, nên sinh ra phiền não; do phiền não từ chấp ngã, ngã sở làm căn bản, mà tám vạn bốn ngàn cửa trần lao cùng nhau đua khởi, chật cả trong nhà. Sở dĩ thế là sao? Phàm phu tại gia tham đắm sâu nặng về năm dục, vợ con, họ hàng, tôi trai, tớ gái, người hầu thảy đều gồm đủ; vì nhân duyên ấy, nên dấy ra bao sự khổ về sinh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, sầu, não, oán ghét hợp hội, ân ái, biệt ly, nghèo cùng và mọi sự suy vi, cầu không được… Các khổ như thế như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, đời đời nối tiếp nhau luôn không thể đoạn tuyệt. Các khổ như thế đều có nguyên nhân mà các thứ phiền não lớn, nhỏ là căn bản. Tất cả những của báu đều do sự tìm cầu mà được, nếu không có nhân trước thời không thể tìm kiếm và giả sử có tìm kiếm đi chăng nữa thì cũng không đạt được.
Này thiện nam, do vì nghĩa ấy, nên tất cả phiền não, tâm theo đuổi tìm kiếm là gốc, nếu diệt được tâm giong ruổi ấy đi thời vô lượng phiền não kia đều dứt hết. Song, nay thân này là chỗ nương tựa cho các khổ, những người có trí nên sinh tâm chán bỏ! Do đó, Đức Phật Ca-diếp đời quá khứ, vì các loài cầm thú mà nói bài kệ:
Thân này là gốc khổ
Khổ khác là cành, lá
Nếu đoạn được gốc khổ
Các khổ đều trừ diệt.
Nghiệp xưa của các ngươi
Tạo tội, tâm chẳng hối
Thọ thân tướng xấu xí
Chịu khổ não đủ loại.
Nếu khởi tâm ân trọng
Một niệm cầu sám hối
Như lửa đốt núi đầm
Các tội đều tiêu diệt.
Thân này khổ, bất tịnh
Vô ngã và vô thường
Các ngươi đều phải nên
Thực tâm sinh chán, bỏ!
Lúc đó, vô lượng cầm thú nghe bài kệ ấy rồi, trong nhất niệm, tâm chí thành sám hối, liền bỏ được nẻo xấu ác sinh lên cõi trời thứ tư trong Dục giới phụng sự vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, nghe pháp bất thoái cứu cánh Niết-bàn.
Này thiện nam, do nhân duyên ấy, nay thân khổ này cũng như nhà cửa, tất cả phiền não tức là chủ nhà. Thế nên, các Thiện nam có lòng tin thanh tịnh, phát tâm Bồ-đề, xuất gia nhập đạo, quyết được giải thoát tất cả mọi thứ khổ và đều sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Bồ-tát xuất gia thường quán sát
Nhà cửa nơi sinh các phiền não.
Như có một người dựng nhà cửa
Trang hoàng bằng mọi thứ ngọc báu
Tự nghĩ tráng lệ không đâu bằng
Không thuộc người khác, chỉ riêng ta,
Thợ khéo sửa sang đẹp lạ lùng
Nhà cửa trên đời không đâu sánh
Phân biệt như thế sinh chấp trước
Lấy “ngã, ngã sở” làm căn bản
Tám vạn bốn ngàn các phiền não
Đầy khắp nhà cửa sinh tai họa,
Tất cả nam, nữ ở trên đời
Sáu thân quyến thuộc đều đầy đủ
Do nhân duyên ấy sinh mọi khổ
Tức là: sinh, lão và bệnh, tử.
Lo buồn, khổ não, thường theo đuổi
Như bóng theo hình không hề rời
Tạo nhân các khổ, tham dục sinh
Nếu dứt tham cầu, diệt hết khổ.
Thân này thường là gốc mọi khổ
Siêng tu yếm xả, hướng Bồ-đề
Thân tâm ba cõi như nhà cửa
Chủ nhà: phiền não ở tại trong
Các ông nên phát tâm Bồ-đề
Lìa bỏ phàm phu ra ba cõi.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia thường quán sát hàng tại gia cũng như trong một nước lớn, có ông Trưởng giả gia sản giàu sang, của báu vô lượng, trong nhiều kiếp, nhân duyên cha con nối tiếp nhau không dứt và chuyên tu các hạnh lành, nên được tiếng khen đồn xa. Những của báu hiện có của ông Trưởng giả ấy được chia làm bốn phần: một phần của báu thường sinh lợi tức để làm tăng trưởng gia nghiệp, một phần của báu để cung cấp vào sự cần dùng đầy đủ hàng ngày, một phần của báu nhằm giúp đỡ những người cô độc để tu nhân tích đức, một phần của báu để cứu giúp thân thuộc và khách lui tới. Bốn phần như thế chưa từng có lúc nào ngừng dứt, cha con cứ nối tiếp nhau phát huy gia nghiệp ở đời. Nhưng về sau có một người con ngu si, tệ ác, quá tham mê năm thứ dục lạc, làm những việc phóng túng bừa bãi, trái lời dạy của cha mẹ và không y theo bốn sự nghiệp trên, mà nào dựng lên các nhà cửa, lầu quán bảy tầng hơn hẳn lối xây cất thông thường, trang hoàng bằng mọi thứ châu báu, đất lát lưu ly, cửa sổ bằng ngọc báu, ánh sáng lồng nhau; nào đầu rồng, hình cá thảy đều đủ cả, ngày đêm tiếng nhạc dập dìu liên miên không dứt thụ hưởng năm dục lạc như cõi trời Đao-lợi nên bị quỷ thần hiềm ghét, người, trời tránh xa.
Một hôm, bỗng dưng nhà hàng xóm bốc lửa, lửa dữ bừng bừng, theo gió lan tràn, đốt cháy hết cả kho tàng và các lâu đài. Lúc đó, con ông Trưởng giả trông thấy lửa dữ như thế, khởi tâm giận bực, vội bắt vợ con, tôi trai, tớ gái và họ hàng vào cả trong ngôi nhà hai tầng, đóng kín cửa lầu gác lại; không ngờ do sự ngu si ấy, khiến bao người kia nhất thời đều chết cả.
Phàm phu tại gia cũng như thế. Người ngu ở đời ví như con ông Trưởng giả, còn chư Phật, Như Lai ví như ông Trưởng giả; không thuận theo lời Phật dạy, tạo các nghiệp ác, phải đọa vào ba đường dữ, chịu nhiều khổ não. Do nhân duyên ấy, Bồ-tát xuất gia thường xem hàng tại gia như con ông Trưởng giả không vâng lời cha mẹ, bị lửa đốt cháy, vợ con đều chết. Này các thiện nam, nên sinh tâm chán, bỏ những sự an vui nơi thế gian, trời, người, dốc tu hạnh thanh tịnh sẽ chứng Bồ-đề.
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Bồ-tát xuất gia quán tại gia
Ví như Trưởng giả sinh con ngu
Nhà ông giàu có nhiều của báu
Nối tiếp lâu đời không thiếu chi.
Gia nghiệp đời trước truyền con cháu
Tất cả của cải chia bốn phần
Thường tu thắng hạnh không lỗi ác
Tiếng khen lan khắp các quốc độ.
Vàng, bạc, ngọc báu số vô biên
Lợi tức xuất nhập khắp nước ngoài
Từ, Bi, Hỷ Xả tâm không chán
Cứu giúp cô bần thường chẳng dứt.
Rốt sau Trưởng giả sinh một con
Ngu si, bất hiếu, không trí tuệ
Tuổi tác đã già, gân sức suy
Gia tài trong, ngoài đều giao con.
Con trái mạng cha làm bừa bãi
Không nối bốn nghiệp nhà sa sút
Cất lầu bảy tầng bằng châu báu
Dùng lưu ly biếc làm cửa sổ,
Đàn địch hát xướng luôn không dứt
Thường lấy bất thiện làm thầy tâm
Hưởng năm dục lạc như Thiên cung
Tất cả Long thần đều xa tránh.
Nhà bên bỗng dưng hỏa tai dấy
Lửa dữ theo gió khó cấm được
Kho tàng, của báu và vợ con
Nhà cửa, tầng lầu đều cháy hết.
Tích ác, tai ương đến diệt thân
Vợ con, quyến thuộc đồng chết cả.
Tam thế chư Phật như Trưởng giả
Tất cả phàm phu là ngu tử
Không tu chánh đạo dấy tâm tà
Mạng chung đọa nơi các nẻo ác
Nhiều kiếp riêng chịu khổ đốt cháy
Lần lựa như thế không kỳ hết.
Phật tử tại gia, ông nên biết!
Không tham vui đời, siêng tu chứng
Chán đời, xuất gia tu Phạm hạnh
Núi rừng vắng lặng bỏ mọi duyên.
Vì trả bốn ân tu thắng đức
Làm ngôi Pháp vương trong ba cõi
Độ sinh đến hết thuở vị lai
Làm bạn không mời, thường thuyết pháp.
Ngăn hẳn dòng “ái” đến bờ kia
Trụ nơi thành Niết-bàn thanh tịnh.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia quán tất cả nhà cửa của thế gian cũng như mộng lớn. Ví như ông Trưởng giả có một đồng nữ mới mười lăm tuổi, dung nhan đoan chánh, xinh đẹp lạ lùng. Một hôm, cha mẹ ở trên lầu ba tầng, đem con gái yêu của mình lên, cùng hưởng xem những sự vui thích. Đêm, mẹ con cùng ngủ chung trên một giường quý và đang yên giấc. Trong khi ngủ, đồng nữ chiêm bao thấy cha mẹ cho về nhà chồng; vợ chồng lấy nhau trải qua nhiều năm, sinh được một người con dung mạo tươi sáng, xinh xắn vô cùng lại có tướng thông minh trí tuệ. Hàng ngày nhờ ân nuôi nấng, dần dần đứa con ấy biết đi. Một hôm, trên lầu cao, không may nó trượt chân từ trên cao rơi xuống, rơi chưa đến đất, bỗng dưng có một con hổ đói đứng đỡ lấy ăn thịt. Đồng nữ thấy thế, kinh sợ quá, cất tiếng gào khóc, liền tỉnh mộng. Bấy giờ, cha mẹ hỏi con:
– Do nhân duyên gì, bỗng dưng con kinh sợ vậy?
Người con gái thẹn không chịu nói. Người mẹ ân cần hỏi gạn mãi, người con gái mới nói thầm với mẹ về việc chiêm bao như trên.
Này thiện nam, thế gian là nhà cửa sinh tử hữu vi, nên phải ở mãi trong luân hồi, nghĩa là chưa được ở vào phận vị chân giác mà thường phải ở trong nhà chiêm bao, sinh, lão, bệnh, tử nơi ba cõi, như đồng nữ kia trong chiêm bao, hư vọng phân biệt cũng thế. Quỷ sứ nơi Diễm-ma bỗng dưng đến, như hổ đói trong hư không đỡ đứa bé kia mà ăn. Tất cả chúng sinh trong từng niệm, niệm luôn bị các nỗi khổ về vô thường, lão, bệnh, tử cũng như thế. Ai là người có trí tuệ lại yêu thích thân này! Vì nhân duyên ấy, quán sát trong sinh tử như giấc mộng đêm dài, mà phát tâm Bồ-đề, chán bỏ thế gian, dốc sức tu tập sẽ đạt được diệu quả thường trụ của Như Lai.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ:
Phật tử dốc cầu đạo Vô thượng
Nên quán nhà cửa như trong mộng
Ví như đại trưởng giả giàu sang
Có một đồng nữ đoan nghiêm lạ.
Cô theo cha mẹ lên lầu cao
Đi theo xem coi rất vui vẻ.
Cô ngủ trong lầu, cô chiêm bao:
Rõ ràng mơ thấy đi lấy chồng.
Sau ở nhà chồng sinh một con
Tâm mẹ thương xót nhớ mến con
Con trên lầu đài ham vui chơi
Từ cao rơi xuống ngay miệng hổ.
Cô khóc thất thanh liền tỉnh mộng
Mới biết mộng tưởng vốn không thực.
Vô minh ám chướng như đêm dài
Chưa thành Chánh giác như trong mộng
Sinh tử thế gian thường chẳng thực
Vọng tưởng phân biệt cũng như thế.
Chỉ có “Bốn trí lớn tròn sáng”
Phá tối tăm là “Chân diệu giác”.
Vô thường niệm niệm như hổ đói
Hữu vi vô giả khó dừng lâu
Chim ngủ sớm mai đều bay tản
Mạng hết biệt ly cũng thế thôi
Theo nghiệp thọ sinh chịu các báo
Ân tình cha mẹ không biết nhau.
Thương thay, thân sinh tử phàm phu
Luân chuyển ba đường chịu khổ mãi!
Nếu biết thiện, ác theo nghiệp cảm
Cần nên sám hối cho tiêu diệt.
Tất cả quả vui của trời, người
Thẹn khổ, chánh kiến chính là nhân
Nên phát tâm Bồ-đề kiên cố
Mặc áo tinh tấn siêng tu học!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia quán sát nhà cửa như cửa biển Tẫn mã tuôn ra lửa dữ, thu hút, lan tỏa cả bốn ngòi ở bốn bên, cho đến trăm sông và mọi dòng đều bị lửa cháy hết.
Ví như xưa kia trong nước La-đà có một vị Bồ- tát tên là Diệu Đắc Bỉ Ngạn. Bồ-tát ấy có tâm Từ bi, thường dốc sức đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên có những lái buôn khi vào biển tìm của báu luôn mời Bồ-tát ấy đồng đi trên thuyền buồm và đều đi được tới bến có châu báu, vượt qua mọi hiểm nạn, không có sự gì trở ngại, đến được bờ an vui.
Về sau, khi Bồ-tát đã trăm tuổi, dần dần già yếu, đứng, ngồi phải có người nâng dắt, sức lực không thể đi biển được như trước nữa. Khi ấy, có một thương chủ tới nơi Bồ-tát lễ bái cúng dường và thưa với Bồ-tát:
– Tôi muốn vào biển tìm các ngọc báu mong được đại phú quý, để thoát khỏi bần cùng mãi mãi. Nay thỉnh Bồ-tát cùng đi với tôi!
Bồ-tát bảo thương chủ:
– Nay tôi già cả suy kém, gân cốt, sức lực yếu ớt, không thể vào biển được.
Thương chủ lại nói:
– Kính xin Đại sĩ đừng bỏ tâm Từ bi, thương xót và nhận lời thỉnh của tôi. Đại sĩ chỉ an tọa trong thuyền buồm của tôi, không phải làm gì cả, đó là sở nguyện của tôi.
Bồ-tát bèn nhận lời thỉnh của người lái buôn. Bồ-tát ở trong thuyền lớn chạy vào biển cả, hướng về phía Đông nam để tới nơi có ngọc báu. Trong khi đi, thuyền gặp phải gió Bắc trôi giạt vào biển phía Nam. Gió dữ thổi ngày đêm vun vút không ngừng, thuyền trôi suốt trong bảy ngày, tới một nơi trông thấy nước biển cả biến thành màu sắc vàng như là vàng nung chảy. Những người lái buôn thấy thế bạch Bồ-tát:
– Bạch Bồ-tát, do nhân duyên gì mà ở đây có dáng nước biến ra sắc vàng như thế?
Bồ-tát bảo:
Các ông nên biết, chúng ta đã vào biển hoàng kim lớn, vì có vô lượng, vô biên những thứ vàng ròng tía sẫm đầy dẫy nơi biển cả, ánh sáng của vàng báu ấy giao hòa lẫn nhau nên mới có dáng như thế. Các ông đã vượt quá đường thẳng mà giạt vào trong biển này, thời đều phải tự mình dốc cầu, tạo mọi phương tiện để trở về phương Bắc!
Qua vài ngày, thấy nước biển cả biến thành sắc trắng như ngọc tuyết, Bồ-tát bảo:
– Các ông nên biết, chúng ta nay đã vào biển châu báu lớn, có bạch ngọc trân châu đầy dẫy trong biển, ánh sáng của thứ báu ấy chiếu vào sắc nước, nên có dáng như thế. Các ông nên dốc sức tạo ra mọi phương tiện để trở về phương Bắc!
Qua vài ngày, nước trong biển cả biến thành sắc xanh như nước lưu ly xanh. Bồ-tát bảo:
– Tôi và các ông đã vào trong biển pha lê xanh, vì có vô lượng vô biên ngọc báu pha lê xanh đầy dẫy nơi biển cả, sắc pha lê giao hòa với ánh sáng nên thấy toàn màu xanh như thế!
Qua vài ngày, nước biển cả lại biến thành sắc hồng như máu hiện ra. Bồ-tát bảo:
– Tôi và các ông đã vào biển pha lê hồng, vì có vô lượng vô biên các thứ ngọc báu pha lê hồng đầy dẫy nơi biển cả, sắc ngọc báu đỏ hồng, giao hòa với ánh sáng nên mới có hiện tượng như vậy!
Qua vài ngày nữa, nước biển liền biến thành sắc đen như nước mực và xa nghe tiếng lửa dữ bùng cháy, nổ ran, như lửa lớn đốt cháy rừng trúc khô; lửa cháy bừng bừng rất đáng sợ hãi, dáng dấp như thế, chưa từng trông thấy, nghe thấy bao giờ. Lại thấy lửa lớn bốc cháy ở phương Nam, như chòm núi cao hơn trăm trượng, thế lửa bay bốc lên không, lúc hợp, lúc tan, ánh sáng như chớp giật, những hình dáng như thế chưa hề gặp phải thật hết sức lạ lùng. Mọi người thấy vậy đều bảo nhau:
– Thân mạng chúng ta thực khó đảm bảo được. Lúc đó Bồ-tát bảo mọi người:
– Các ông hôm nay rất đáng sợ hãi! Sao vậy? Chúng ta đã vào nơi cửa biển Tẫn mã, bốn vùng biển rộng cùng với các dòng sông lớn nhỏ trong bốn cõi thiên hạ chảy vào cửa bên phía Bắc, thảy đều bị chết cháy hết. Sở dĩ thế là sao? Vì sức mạnh nơi nghiệp tăng thượng của các chúng sinh, nên tự nhiên lửa trời đốt cháy nước biển. Nếu lửa trời này không đốt cháy nước biển, thì trong một ngày một đêm tất cả lục địa đều biến thành biển cả, mọi loài chúng sinh hiện có thảy đều trôi hết. Song, nay chúng ta gặp phải gió dữ lớn, trôi dạt vào cửa biển Tẫn mã này thì thân mạng mọi người ở đây không còn kéo dài bao lâu nữa!
Khi ấy, có hơn ngàn người ở trong thuyền buồm, đồng thời cất tiếng thảm thương gào khóc, hoặc tự nhổ tóc, hoặc tự vật mình nói lên lời này:
Nay chúng ta vì cầu ngọc báu, vào biển cả gặp phải hiểm nạn này. Thương thay! Khổ thay!
Biết dùng phương tiện gì để thoát khỏi được nạn này!
Lúc đó, cả ngàn người đều chí thành quy mạng: hoặc kêu mẹ hiền, hoặc gọi cha từ, hoặc kêu Phạm thiên, hoặc gọi Ma-hê-thủ-la Thiên vương, hoặc cầu Đại lực Na-la-diên thiên. Hoặc có người quy mạng Bồ-tát Đắc Ngạn, kính lễ Bồ-tát mà bạch:
– Kính xin Bồ-tát cứu vớt bọn chúng tôi!
Bấy giờ, Bồ-tát vì muốn mọi người khỏi sự sợ hãi, liền nói bài kệ:
Đại trượng phu tối thượng trên đời
Tuy vào cửa chết không sinh sợ
Người nếu lo buồn mất trí tuệ
Cần nên nhất tâm bày phương tiện.
Nếu được cửa phương tiện khéo léo
Thoát khỏi tám nạn lên bờ kia
Thế nên yên tâm đừng lo sợ
Cần nên khẩn niệm Đại Từ Tôn.
Bồ-tát nói xong bài kệ ấy, liền đốt các hương tốt lễ bái, cúng dường chư Phật mười phương, rồi phát nguyện rằng:
– Nam-mô Thập phương chư Phật! Nam-mô Thập phương chư Phật! Chư Đại Bồ-tát Ma-ha-tát chúng! Tất cả Hiền thánh Tứ quả, Tứ hướng. Bậc có Thiên nhãn, bậc có Thiên nhĩ, Trí tha tâm, bậc Chúng tự tại! Tôi vì chúng sinh vận dụng tâm đại bi, giũ bỏ thân mạng, cứu giúp các khổ nạn. Nay tôi có chút thiện căn, là thọ trì giới không nói dối của Như Lai trong vô lượng kiếp, tôi chưa từng thiếu phạm bao giờ. Nếu trong một kiếp nào tôi có nói dối, thời nay gió dữ này chuyển mạnh hơn lên; mà nếu giới đức nơi tôi như thế, thực sự chẳng phải hư vọng, thời nguyện đem nghiệp lành ấy, hồi hướng ban bố cho tất cả, tôi cùng chúng sinh sẽ thành Phật đạo và nếu thực không hư, nguyện cho gió dữ, xấu này tức thời ngừng bặt, luồng gió như ý tùy niệm thổi tới. Thân các chúng sinh tức là thân tôi, chúng sinh cùng tôi bình đẳng không sai khác!
Khi Đại Bồ-tát ấy phát nguyện “Đồng thể đại bi vô ngại” rồi, chừng khoảng một niệm, gió dữ liền ngừng, tức thì gặp được gió thuận, giải thoát mọi nạn và đến được nơi chốn có vật báu, thu được nhiều ngọc báu.
Bấy giờ, Bồ-tát bảo với các người lái buôn ấy:
– Ngọc báu như thế rất là khó gặp được, đời trước các ông đã làm nhiều sự bố thí nên nay mới gặp được các ngọc báu quý như thế. Nhưng trước kia khi tu về bố thí, tâm các ông còn có sự tiếc lẫn, vì nhân duyên ấy, nên nay các ông gặp phải gió dữ. Thương thân các ông tìm được ngọc báu, các ông nên biết hạn lượng, không nên lấy nhiều, vì nếu tâm tham, buông thả thì sau bị nạn lớn. Các ông nên biết: Trong mọi thứ châu báu thì tánh mạng là hơn hết; nếu mạng mình còn thì đó là vật báu vô giá!
Các lái buôn nhờ được Bồ-tát dạy bảo nên sinh tâm biết đủ, không dám lấy nhiều. Mọi người thoát khỏi tai nạn, được nhiều ngọc báu, xa lìa sự nghèo cùng và đến được bờ kia.
Các Thiện nam, Bồ-tát xuất gia cũng lại như thế, thân cận chư Phật, bạn lành là hàng thiện tri thức, như những người lái buôn kia được gặp Bồ- tát; khỏi hẳn sinh tử đến được bờ giác, cũng như thương chủ đạt được phú quý lớn lao. Nhà cửa hữu vi hiện có của thế gian cũng như cửa biển Tẫn mã đốt cháy mọi dòng sông. Bồ-tát xuất gia cũng thế, quán sát kỹ lưỡng những lỗi lầm sai trái của hàng tại gia. Thiện nam các ông, không nhiễm năm thứ dục lạc thế gian, chán bỏ sinh tử khổ nạn trong ba cõi, tất được vào thành lớn, gồm đủ mọi an vui mát mẻ!
Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Bồ-tát xuất gia quán nhà cửa
Như biển Tẫn mã đốt mọi dòng.
Ví như xưa kia nước La-đà
Có một Bồ-tát tên Đắc Ngạn
Đủ trí, phước lớn, phương tiện khéo
Từ bi dứt duyên, nhiếp hữu tình.
Xin Bồ-tát ấy đi trên thuyền
Lái buôn được ngọc lên bờ kia.
Song, Bồ-tát tuổi già sức yếu
Không ưa lợi tha, ham thiền tịch.
Có một thương chủ thỉnh Bồ-tát
Muốn vào biển cả tìm châu báu
Kính xin Bồ-tát nhận lời thỉnh
Cho mình giàu có không thiếu thốn.
Khi ấy Bồ-tát vận đại bi
Liền nhận lời thỉnh đi trên thuyền.
Khi trương buồm lớn gặp gió thuận
Thẳng hướng Đông nam tới chốn báu
Bỗng gặp gió dữ thổi thuyền buồm
Giạt vào Nam hải lầm chỗ đến.
Trải qua bảy ngày nước biển cả
Thảy đều biến sắc thành vàng ròng
Vàng ròng tía bóng đầy trong biển
Ánh ngọc báu hiện sắc chân kim.
Lại qua vài ngày nước biển cả
Biến thành sắc trắng như ngọc tuyết
Trân châu trân bảo đầy khắp bể
Cho nên nước biển thành sắc trắng.
Lại qua vài ngày nước biển cả
Biến thành xanh biếc như lưu ly
Ngọc pha lê xanh đầy biển cả
Cho nên nước thành sắc xanh biếc.
Lại qua vài ngày nước biển cả
Thảy đều biến thành sắc đỏ hồng
Ngọc pha lê đỏ đầy trong bể
Nên biến sắc nước đồng như nó.
Lại qua vài ngày nước biển cả
Biến thành sắc đen như nước mực
Như thế lửa trời đốt cháy hết
Nước biển tất cả như sắc mực.
Biển ấy gọi là cửa Tẫn mã
Thu hút bốn biển và mọi dòng
Tất cả thuyền buồm nếu đi qua
Những người đến đấy, phần nhiều chết.
Lửa trời bừng bừng như núi chất
Tiếng nổ rền vang như sấm động
Mọi người xa thấy tâm kinh sợ
Kêu gào, đấm ngực bạch Đại sư.
Khi ấy Bồ-tát khởi từ bi
Không tiếc thân mạng, rủ cứu hộ.
Gió dữ liền ngừng, gió thuận khởi
Qua nơi hiểm nạn đến chốn báu
Đều được ngọc quý tới bờ yên
Khỏi hẳn bần cùng hưởng an lạc.
Bồ-tát xuất gia cũng như thế
Thân cận chư Phật như thương chủ
Thoát hẳn nhà lửa lên Chân giác
Cũng như thương nhân về bản xứ.
Nhà cửa sở hữu của thế gian
Như cửa biển lớn: Tẫn mã kia.
Xuất gia thường chán về tại gia
Không nhiễm thế gian rời năm dục
Ưa chốn không nhàn, tâm bất động
Khéo suốt lý chân diệu rộng sâu.
Hoặc ở trong làng xóm nhân gian
Như ong hái hoa không chút tổn
Trong bốn uy nghi thường lợi vật
Không tham vui đời và tiếng khen.
Miệng thường thốt giọng, lời dịu dàng
Ác ngôn thô bỉ không hề khởi
Biết ân, trả ân tu nghiệp thiện
Mình, người đều được nhập “chân thường”.
Bấy giờ, Trưởng giả Trí Quang và các Trưởng giả khác tất cả một vạn người, tuy khác miệng nhưng cùng một giọng bạch Phật:
– Lành thay, Đức Thế Tôn! Hiếm có thay, Đấng Thiện Thệ! Đúng như thế! Đúng như thế! Thế Tôn nói ra Chánh pháp vi diệu đệ nhất, phương tiện khéo léo, làm lợi ích cho chúng sinh. Như Phật nói, chúng con hôm nay đều biết: nhà cửa thế gian cũng như lao ngục, tất cả pháp xấu, ác đã từ nhà cửa ấy sinh ra; người xuất gia thực có vô lượng vô biên lợi lạc thù thắng vì thế chúng con rất thích xuất gia, cho đời hiện tại và vị lai luôn được hưởng những pháp lạc.
Đức Thế Tôn bảo các Trưởng giả:
Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông phát tâm muốn xuất gia! Nếu những thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, xuất gia tu đạo một ngày một đêm, thì hai trăm vạn kiếp không phải đọa vào nẻo ác, thường được sinh ở nơi chốn lành, được hưởng sự an vui thắng diệu, gặp được các bậc thiện tri thức, vĩnh viễn tâm không thoái chuyển, được gặp chư Phật, được thọ ký quả Bồ-đề, ngồi trên tòa Kim cang, thành đạo Chánh giác. Song, người xuất gia trì giới rất khó, người trì giới chính là bậc xuất gia chân chánh đúng nghĩa.
Lúc đó, các Trưởng giả bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin giữ giới, tu các hạnh thanh tịnh, nguyện cho chúng con chóng ra khỏi bể khổ sinh tử, nguyện cho chúng con chóng vào được cung báu thường lạc, nguyện cho chúng con rộng độ tất cả chúng sinh, chóng chứng đắc Trí vô sinh!
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc và Văn- thù-sư-lợi:
– Các ông Trưởng giả này Ta phó chúc cho các ông, các ông nên khuyến khích họ xuất gia và thọ trì tịnh giới!
Liền đó, chín ngàn người đối trước Bồ-tát Di- lặc xin xuất gia tu đạo, thọ trì giới luật của Phật; bảy ngàn người đối trước Bồ-tát Văn-thù xuất gia tu đạo, thọ giới cấm của Phật. Những người ấy được xuất gia rồi, thành tựu được pháp nhẫn, hội nhập vào cảnh giới bí mật của Như Lai, không còn bị thoái chuyển. Vô lượng vạn người phát tâm Bồ- đề đến ngôi bất thoái chuyển. Vô số người, trời xa lìa mọi bụi bặm cấu uế, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
❑
Bấy giờ, Trưởng giả Trí Quang cùng các Trưởng giả khác đã xuất gia, pháp phục tề chỉnh năm vóc sát đất, lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con theo Phật, nghe được những điều chưa được nghe về các lỗi lầm vốn có của tại gia; chúng con phát tâm Bồ-đề, chán lìa thế gian, cạo bỏ râu tóc làm Tỳ-kheo. Chúng con kính xin Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác vì tất cả chúng con và các chúng sinh diễn nói về công đức thù thắng của sự xuất gia, khiến người được nghe, phát tâm thanh tịnh, thích hạnh xa lìa, làm cho hạt giống Phật không hề bị dứt. Thế Tôn là bậc có ân lớn, Ngài vận dụng Vô duyên từ bi thương xót chúng sinh như đối với La-hầu-la, nay kính Đức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con biết: Bồ- tát xuất gia nên an trụ như thế nào? Nên tu tập nghiệp vô cấu như thế nào? Và phải làm sao để điều phục tâm hữu lậu?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán Trí Quang cùng các Tỳ-kheo:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông thực là Phật tử chân chánh! Các ông vì tất cả chúng sinh đời mai sau nên đã nêu hỏi Như Lai về những việc như vậy. Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời các ông nói, Như Lai Thế Tôn thương xót chúng sinh, bình đẳng không hai cũng như con một. Nay các ông hãy lắng nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, Ta nay sẽ vì các ông mà phân biệt diễn nói về Bồ-tát xuất gia nên an trụ như thế, tu tập các nghiệp vô cấu như thế, điều phục tâm hữu lậu như thế này.
Các Tỳ-kheo bạch:
– Dạ! Bạch Thế Tôn, chúng con nguyện muốn nghe được lời Đức Thế Tôn dạy!
Đức Phật bảo Tỳ-kheo Trí Quang:
– Bồ-tát xuất gia an trụ tâm như vậy, thời thường quán như thế này: Ta được thân người, các căn đầy đủ, vậy ta từ nơi nào mà mất đi, mà sinh lại thế gian này? Ta ở trong ba cõi, rồi sẽ sinh vào cõi nào? Trong bốn đại châu, ta sẽ sinh vào châu nào? Trong sáu đường, ta sẽ thọ sinh vào nẻo nào? Do nhân duyên gì ta bỏ được cha mẹ, vợ con, họ hàng, xuất gia tu đạo, thân khỏi vướng vào tám nạn? Trong kiếp Trang nghiêm thuở quá khứ, ngàn Đức Phật đều nhập Niết-bàn rồi, trong kiếp Tinh tú thuở vị lai, ngàn Phật chưa ra đời, trong Hiền kiếp hiện tại với ngàn Đức Phật, bao nhiêu Phật Như Lai đã xuất hiện ở đời, hóa duyên sắp hết và sắp nhập Bát-niết-bàn? Bao nhiêu Phật Thế Tôn chưa ra đời phải chăng là do căn duyên của các chúng sinh chưa chín, chưa được nghe chánh pháp? Lại, thời nào trong tương lai, Ngài Di-lặc từ cõi trời Đâu-suất sinh xuống nhân gian và hiện thành Phật đạo? Trong thân ta có nghiệp thiện gì? Học Giới, Định, Tuệ sẽ có đức gì? Chư Phật quá khứ đều đã chẳng gặp, Thế Tôn tương lai liệu được thấy chăng? Ta nay hiện ở trong các cõi phàm phu, vậy ba nghiệp phiền não gì là nặng hơn? Một đời trở lại ta đã tạo tội nghiệp gì? Ta từng trồng căn lành ở nơi Đức Phật nào? Thân mạng ta đây còn sống được bao lâu? Ngày nay đã qua, mạng theo đấy mà giảm bớt, cũng như người dắt dê đến lò mổ thịt, dần dần đến chỗ chết, không còn nơi trốn tránh, vậy khi thân hoại, mạng chung sẽ sinh vào nơi nào? Khổ trong ba đường ác làm sao thoát khỏi được? Thân ta đây luôn yêu thích và nuôi nấng cho nó hơn lên, nhưng từng niệm từng niệm nó suy yếu, già đi, không có lúc nào tạm dừng, vậy ai là người có trí tuệ lại yêu thích thân này? Trí Quang nên biết: Bồ-tát xuất gia ngày đêm thường quán sát như thế, đừng tham hưởng năm dục lạc của thế gian, dốc siêng năng tinh chuyên tu tập không chút ngừng nghỉ, coi như là cần phải bỏ đá nặng nơi đỉnh đầu, cứu lửa cháy trên đầu. Tâm thường sám hối những tội từ trước của quá khứ, an trụ vào bốn Vô cấu tánh, một lòng tu tập mười hai hạnh Đầu- đà, điều phục tâm mình như hạng Chiên-đà-la. Phật tử như thế gọi là xuất gia.
Này Tỳ-kheo Trí Quang, vì nghĩa gì mà gọi người chân thực tu hạnh Sa-môn như hạng Chiên- đà-la? Vì khi mỗi người Chiên-đà-la đi ra ngoài, tay đều cầm cây gậy cứng, không dám đi giữa đường, nếu có người đi gần sát tới mình thời rung gậy tích cho người ta nghe thấy tránh đi. Ở trong đám đông, tâm họ thực hành sự nhúng nhường, không dám khinh mạn, khi bị người quở trách, tâm không oán hận và chưa từng dám báo thù, ngay đến trường hợp bị mạ nhục, đánh đập cũng im lặng chịu đựng. Sao vậy? Vì họ tự biết mình thuộc dòng họ thấp hèn, không dự vào bậc gì trong xã hội, do nhân duyên ấy nên không biết giận dữ, không hề báo thù.
Trí Quang nên biết, Bồ-tát xuất gia cũng như thế! Cạo bỏ râu tóc, hình dáng cũng như đứa trẻ thơ, tay cầm giữ đồ ứng khí, nương tựa vào người để nuôi sống thân mạng, thân mặc áo ca-sa như mặc áo giáp mũ trụ, cầm gậy tích đi như cầm giáo mác, cầm gươm trí tuệ, phá giặc phiền não, tu hạnh như anh nhi, dốc làm lợi ích cho tất cả. Thế nên, tất cả mũi tên nhọn của tham, sân, si không thể găm vào thân bậc Sa-môn chân thực được. Bồ-tát xuất gia dùng ba phép quán, tu hạnh Nhẫn nhục gọi là chân xuất gia: quán các chúng sinh là Hóa thân của Phật, quán nơi thân mình đúng là hàng ngu tối; quán các hữu tình khởi ra tưởng là bậc tôn quý, quán nơi thân mình khởi ra tưởng là hàng tôi tớ; lại quán chúng sinh khởi ra tưởng coi chúng sinh như cha mẹ, quán nơi thân mình khởi ra tưởng coi mình như con trai, con gái. Bồ-tát xuất gia thường thực hành những quán ấy, hoặc bị người đánh mắng, hoàn toàn không báo thù lại, mà chỉ tìm phương tiện khéo léo để điều phục tâm mình.
Tỳ-kheo Trí Quang, các ông nghe kỹ! Thế nào là bốn Vô cấu tánh? Đó là: Quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men. Bốn sự như thế tùy theo chỗ có được, hoặc xấu hoặc tốt cũng vừa lòng, xa lìa hẳn tâm tham cầu, đó là Vô cấu tánh. Các Tỳ-kheo, do nhân duyên gì, bốn hạnh như thế gọi là Vô cấu tánh? Trí Quang nên biết, ba mươi bảy phẩm Bồ- đề phần pháp của Phật Như Lai đều từ đấy phát sinh và Phật, Pháp, Tăng bảo cũng do đó mà thường không bị đoạn tuyệt, nên được gọi là Vô cấu tánh.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Tỳ-kheo Trí Quang ông nghe kỹ!
Bồ-tát xuất gia cần nên làm:
“Vô duyên đại từ” nhiếp chúng sinh
Cũng như con một đều bình đẳng.
Phát tâm Bồ-đề cầu Chánh giác
Nên làm ba việc thành Phật pháp:
Tâm thường trụ bốn Vô cấu tánh
Nên tu mười hai hạnh Đầu-đà,
Hạ mình như hạng Chiên-đà-la.
Trong bốn uy nghi nghĩ thế này:
Mười phương vô lượng các Bồ-tát
Sát-na, sát-na hướng Thánh đạo
Các vị tu chứng ta cũng thế!
Vì sao lưu chuyển trong ba cõi!
Luân hồi sinh tử khổ vô lượng?
Nay thân ta đang ở cõi nào?
Sáu nẻo luân hồi ở đường nào?
Thai, noãn, thấp, hóa sinh loài chi?
Thân, khẩu, ý nghiệp tu cái gì?
Trong chỗ tạo tội, tội nào nặng?
Tâm trong ba tánh, tâm nào nhiều?
Quán sát kỹ càng như thế rồi
Đại Từ, đại Bi thường tiếp nối
Đại Hỷ, đại Xả, tâm ấy trước
Vì người có duyên nói pháp diệu.
Ngày đêm tu tâm không hề ngừng
Như bỏ đá đầu, cứu đầu cháy.
Niệm ba môn quán thường chẳng rời
Quán các chúng sinh là thân Phật
Chỉ ta riêng ở trong loại phàm
Tất cả chúng sinh đều tôn quý.
Ta làm tôi tớ ở thấp hèn
Chúng sinh trên đời như cha mẹ
Ta như trai, gái lành hiếu dưỡng
Bị người đánh mắng chẳng giận hiềm
Siêng tu nhẫn nhục không ghen, oán
Bốn sự cúng dường tâm không ham
Như thế gọi là Vô cấu tánh.
Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề phần
Cùng được quả báo thân Như Lai
Pháp vô lậu thù thắng như thế
Bốn Vô cấu tánh là căn bản.
Không hạnh buông lung, thường tu tập
Thế là xuất gia: Chân Phật tử!
Mầm trí Bồ-đề niệm niệm tăng
Thánh đạo Vô lậu đều thành tựu
Chóng vượt qua được vô lượng kiếp
Ngồi trên Hoa vương trong pháp giới.
Phước trí trang nghiêm đều viên mãn
Trong vô biên kiếp lợi quần sinh
Do Vô cấu tánh đều thành tựu
Chứng quả thường trụ của Như Lai.
Lại nữa Tỳ-kheo Trí Quang, Bồ-tát xuất gia đối với vấn đề y phục, không nên tham đắm, dù tốt dù xấu tùy chỗ mình được thế nào thì nên vậy, đối với thí chủ cần phải vì họ mà tạo ra ruộng phước, chớ hiềm chuyện y phục thô xấu, cũng không được vì vấn đề ấy mà nói rộng pháp yếu, nhằm khởi ra mọi phương tiện để thích ứng với tâm tham của mình.
Phàm phu trong thế gian vì vấn đề y phục mà tham cầu phi pháp, tạo nghiệp bất thiện, phải bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp không được gặp chư Phật, không được nghe Chánh pháp. Chịu khổ trong các đường ác xong rồi được sinh trở lại nhân gian, thì bị nghèo cùng khốn khổ, khổ vì mong cầu không đạt được, ngày đêm bức bách, áo không đủ che hình, ăn không đủ giữ mạng. Mọi nỗi khổ như thế đều do đời trước vì việc y phục, giết hại nhiều sinh mạng, tạo ra vô số tội lỗi.
Bồ-tát xuất gia thì không như thế, tùy chỗ mình được thế nào cũng nên vậy, không hiềm thô xấu, chỉ luôn mang lòng hổ thẹn để cho pháp y được sung mãn, đạt được mười lợi lạc thù thắng:
1. Che thân mình, xa lìa được sự xấu hổ, đầy đủ đức biết hổ thẹn để tu hành pháp thiện.
2. Xa lìa mọi sự lạnh, nóng, cùng bao thứ ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an ổn tu đạo.
3. Làm hiện rõ tướng mạo Sa-môn xuất gia, người ta trông thấy liền sinh tâm vui vẻ, xa lìa được tâm tà vậy.
4. Ca-sa tức là hình tướng của lá cờ báu trời, người, chúng sinh dốc tôn trọng kính lễ thì được sinh cõi Phạm thiên.
5. Khi mặc ca-sa sẽ sinh ý tưởng về ngôi tháp báu, có khả năng diệt được mọi tội, sinh mọi phước đức.
6. Gốc tạo ra ca-sa nhuộm thành hoại sắc là nhằm để xa lìa mọi tưởng về năm dục, không sinh tâm tham ái.
7. Ca-sa là áo thanh tịnh của Phật, dứt hẳn được mọi thứ phiền não, tạo ra ruộng phước tốt lành.
8. Thân mặc ca-sa thì mọi sự tạo tác về tội lỗi được tiêu trừ, mười nẻo thiện nghiệp, niệm niệm tăng trưởng.
9. Ca-sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng trưởng Bồ-tát đạo.
10. Ca-sa cũng như áo giáp, mũ trụ, các thứ tên độc phiền não không thể hại được.
Trí Quang nên biết, do nhân duyên ấy chư Phật trong ba đời cùng các bậc Duyên giác, Thanh văn xuất gia thanh tịnh, thân đều mặc ca-sa và ba bậc Thánh ấy đồng ngồi nơi tòa báu giải thoát, cầm gươm trí tuệ, phá ma phiền não, cùng vào nơi cõi Niết-bàn nhất vị.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Tỳ-kheo Trí Quang nên nghe khéo!
Áo đại phước điền mười thắng lợi
Y phục thế gian thêm nhiễm dục
Áo pháp Như Lai không như thế.
Áo pháp ngăn đời sự thẹn hổ
Thẹn hổ viên mãn sinh ruộng phước.
Xa lìa rét, nắng và trùng độc
Tâm đạo vững bền được cứu cánh.
Thị hiện xuất gia lìa tham dục
Dứt năm tà kiến, chánh tu trì.
Chiêm lễ ca-sa, tưởng cờ báu
Cung kính sinh ra phước Phạm vương.
Phật tử mặc áo tưởng như tháp
Tội diệt, phước sinh cảm trời, người.
Dáng nghiêm chí kính: chân Sa-môn
Chỗ làm không nhiễm theo trần tục
Chư Phật khen ngợi là ruộng tốt
Lợi lạc mọi loài đây hơn cả.
Thần lực ca-sa không nghĩ bàn
Hay khiến trồng, tu hạnh Bồ-đề.
Mầm đạo lớn thêm như lúa Xuân
Diệu quả Bồ-đề như trái Thu
Kim cang bền vững thực giáp trụ
Tên độc phiền não không hại được.
Ta nay khen qua mười thắng lợi
Nhiều kiếp nói rộng không hết được
Nếu có thân Rồng đeo một sợi
Thoát khỏi miệng Kim sí điểu vương.
Nếu người qua biển mang áo này
Không sợ các nạn quỷ, cá, rồng.
Sấm chớp ầm ầm như trời giận
Mặc áo ca-sa không sợ hãi.
Tại gia nếu hay thân kính giữ
Tất cả quỷ dữ không dám gần.
Nếu hay phát tâm cầu xuất gia
Chán bỏ thế gian, tu đạo Phật
Ma cung mười phương đều chấn động
Người ấy chóng chứng thân Pháp vương.
Lại nữa Bồ-tát Trí Quang, Phật tử xuất gia thường làm hạnh khất thực, dù rằng phải xả thân mạng, chứ không bao giờ dứt tâm ấy. Vì sao thế? Vì tất cả chúng sinh đều nhờ vào việc ăn uống mà tồn tại, bởi thế nên lợi ích của việc khất thực là vô cùng. Các ông nên biết, Bồ-tát xuất gia thường đi khất thực, vì nó có mười lợi lạc thù thắng. Những gì là mười?
1. Thường đi khất thực để nuôi sống thân mạng mình, nhưng được ra vào tự do không bị lệ thuộc vào người khác.
2. Khi đi khất thực, trước tiên nói diệu pháp cho người ta nghe, khiến họ khởi tâm thiện, sau mới xin thức ăn cho mình.
3. Vì những người không biết bố thí, phát tâm đại từ bi, vì họ nói chánh pháp, khiến họ khởi tâm xả thí, mà sinh được phước đức hơn hết.
4. Làm theo lời Phật dạy để tăng trưởng giới phẩm, phước đức được viên mãn, trí tuệ vô cùng.
5. Từng đi khất thực, đối với bảy mạn, chín mạn tự nhiên tiêu diệt, mọi người cung kính xem đấy là ruộng phước tốt đẹp.
6. Khi khất thực sẽ đạt được tướng Vô kiến đỉnh của Như Lai, nhận sự cúng dường rộng lớn của thế gian.
7. Phật tử các ông theo học pháp này, khiến Tam bảo luôn được duy trì phát triển đem lại lợi ích cho chúng sinh.
8. Khi khất thực không được vì muốn có được thức ăn uống mà dấy khởi tâm mong cầu, khen ngợi tất cả hàng nam, nữ.
9. Khi đi khất thực nên theo lần lượt, không nên phân biệt nhà nghèo, nhà giàu.
10. Thường đi khất thực, chư Phật luôn hoan hỷ, dốc tu tập đạt được Nhất thiết trí, thì là duyên lành hơn hết.
Bồ-tát Trí Quang, Như Lai vì các ông mà nói qua mười sự lợi ích như vậy, nếu phân biệt rộng ra thời vô lượng vô biên. Tỳ-kheo các ông, cùng những người đời sau cầu Phật đạo nên học như thế!
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Bồ-tát Trí Quang ông nghe kỹ!
Đại sĩ xuất gia nên bỏ tham
Phát tâm tu hành đạo xuất thế
Khất thực Đầu-đà là căn bản.
Phàm phu nương món ăn hữu lậu
Bậc Thánh chuộng món ăn vô lậu
Hữu lậu, vô lậu các phàm, Thánh
Tất cả đều dựa món ăn, sống.
Ta vì các ông là Phật tử
Khai diễn hai lợi hạnh xuất thế
Như Lai ba đời đều khen ngợi
Công đức khất thực có mười lợi:
Riêng gọi hạnh này là tối thắng
Ra vào tự tại không ràng buộc.
Trước khiến thí chủ phát sơ tâm
Dốc hướng Bồ-đề, sau mới ăn.
Vì trừ xan tham nói pháp mầu
Nên khởi đại xả tâm vô lượng.
Theo Đại sư dạy đi khất thực
Tăng trưởng vô lượng các phạm hạnh.
Bảy mạn, chín mạn tự trừ diệt
Được các trời, người, thường cung kính.
Đảnh tướng Như Lai không thể thấy
Chuyển xe pháp diệu độ mười phương.
Tận đời vị lai truyền pháp này
Khiến không dứt tuyệt giống Tam bảo.
Nếu vì ăn uống khởi tâm tham
Không nên khen ngợi các nam, nữ.
Khởi ý bình đẳng đại từ bi
Không sinh phân biệt giàu, nghèo khó.
Thanh tịnh khất thực Phật khen ngợi
Nhất thiết chủng trí từ đấy sinh.
Như Lai ba đời hiện ra đời
Vì chúng sinh nói bốn món ăn:
Đoạn, xúc, tư, thức là bốn món
Là món ăn hữu lậu của đời.
Chỉ có Pháp hỷ, Thiền duyệt thực
Mới là món ăn của Hiền thánh
Các ông chán bỏ mùi vị đời
Nên cầu món vô lậu xuất thế!
Lại nữa Bồ-tát Trí Quang, Phật tử xuất gia đối với thuốc men không nên tham đắm. Nếu khi có bệnh, thứ thuốc người ta sắc rồi bỏ đi, như các vị Ha-lê-tỳ-lê và A-ma-lặc thời nên lấy những thuốc ấy mà uống; cho đến một đời chỉ uống những thuốc bỏ đi ấy mà thôi. Và, đối với những thứ thuốc ấy vẫn thường sinh niệm biết đủ, như thế gọi là Chân thực Sa-môn.
Phật tử xuất gia thường nên uống thứ thuốc bỏ đi, người ấy đạt được mười lợi lạc thù thắng. Những gì là mười?
1. Vì cầu thuốc thang, nhưng không phải gần gũi với người khác, thời dứt hẳn được tâm tham cầu và an trụ trong chánh niệm.
2. Bất tịnh quán môn được thành tựu dễ dàng, tâm xuất thế được vững vàng.
3. Đối với các vị ngon quý, thường không sinh tâm tham đắm, chóng chứng được chánh trí, thọ thực Thiền duyệt.
4. Đối với tất cả tài vật thế gian, thường biết “tri túc”, chóng được giải thoát.
5. Không phải gần hàng phàm phu thế gian mà thường thân cận với những bạn lành thanh tịnh xuất thế gian.
6. Vì không hiềm ghét các thứ thuốc bỏ đi, nên đối với các thức ăn uống không tốt cũng được giải thoát.
7. Đối với những thuốc quý, quyết không mong cầu, được tất cả thế gian tôn trọng.
8. Chóng điều phục được các bệnh phiền não, chứng được Pháp thân thường trụ của Như Lai.
9. Dứt hẳn tất cả phiền não trong ba cõi, chữa khỏi những bệnh nặng về thân tâm của chúng sinh.
10. Thuận lời Phật dạy tu hạnh Bồ-tát, phước trí viên mãn, được Đại Bồ-đề.
Trí Quang nên biết, Như Lai vì các ông nói qua mười lợi lạc thù thắng của sự uống thuốc bỏ đi, diệu hạnh như thế, Bồ-tát xuất gia trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều cùng tu học. Các ông cần nên vì các chúng sinh mà diễn thuyết, truyền bá phương pháp này đừng để đoạn tuyệt, tức là vì Như Lai nêu bày rộng rãi sự cúng dường; dù thế gian có của đem cung kính cúng dường cũng không bằng được. Và, đối với hạnh Bồ-tát lại không bị thoái chuyển, chóng chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ- đề.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Tỳ-kheo Trí Quang ông khéo nghe!
Người xuất gia uống thuốc vô cấu
Diệu hạnh Bồ-tát, đó là trước,
Chúng sinh có bệnh như mình bệnh.
Lấy ân đại Bi cứu mọi khổ
Lại dùng Từ tâm cho an lạc
Thuốc hay tối thượng cho người ta
Người trước bỏ đi, mình lấy uống.
Bồ-tát không kén thuốc tốt, xấu
Chỉ chữa các bệnh cho an ổn
Lấy thứ thuốc thừa người ta bỏ
Uống thuốc lấy đủ trị khỏi bệnh.
Lấy thuốc người bỏ có mười lợi
Như Lai ba đời cùng khen ngợi:
Tuy cầu thuốc men không gần người
Dứt hẳn cầu cạnh, nương chánh niệm.
Quán môn “bất tịnh” dễ thành tựu
Gây nhân Bồ-đề đời xa sau.
Không ham cam vị bỏ mọi tham
Nên cầu Pháp hỷ, Thiền duyệt thực.
Của báu ở đời tri túc được
Thu được thất Thánh tài vô lậu
Bỏ kẻ phàm ngu, không ở chung
Thân cận Thánh hiền làm bạn tốt.
Vì thế không hiềm các thuốc bỏ
Với đồ ăn uống, dứt tham cầu
Cỗ quý, thuốc hay không mong chờ
Thế gian bởi thế đều tôn trọng.
Hay chữa thân tâm bệnh phiền não
Ngộ được Chân như pháp tánh thân
Dứt hẳn tập khí trong ba cõi
Chứng được Vô thượng chân giải thoát.
Thuận lời Phật dạy hướng Bồ-đề
Phước trí viên thành thân quả báo
Phật tử các ông đều tu học
Sẽ ngồi nơi Kim cang đạo tràng.
Lại nữa Trí Quang, Bồ-tát xuất gia xa lìa chỗ huyên náo, ở nơi A-lan-nhã, tu nhiếp tâm mình trong vô lượng ngàn năm để cầu Phật đạo. Như Lai trong ba đời luôn bỏ những nơi ồn ào náo nhiệt, ở những nơi thanh tịnh vắng lặng, dốc tu muôn hạnh, chứng quả Bồ-đề, bậc Duyên giác, bậc Thanh văn tất cả Hiền thánh chứng được Thánh quả cũng đều ở các nơi tịch tĩnh như thế. Nơi A-lan-nhã có mười thắng đức, làm cho người tu, chứng được ba quả Bồ-đề. Những gì là mười thắng đức?
1. Vì được tự tại ở nơi A-lan-nhã, trong bốn uy nghi không bị lệ thuộc vào người khác.
2. Bỏ ngã, ngã sở nên gọi là A-lan-nhã, vì vậy khi ở dưới gốc cây không còn sự chấp trước.
3. Đối với những đồ ngồi, nằm không hề ham đắm, do đó nên được nằm trên giường Tứ vô úy.
4. Nơi A-lan-nhã, ba độc ít ỏi, nên bỏ được cảnh sở duyên của tham, sân, si.
5. Thích ở nơi A-lan-nhã tu hạnh viễn ly, không cầu năm thứ dục lạc của trời, người.
6. Bỏ chốn huyên náo ở nơi tịch tĩnh thanh vắng, tu tập Phật đạo không tiếc thân mạng.
7. Ưa thích nơi tịch tĩnh, lìa mọi ngôn từ thế tục, trừ bỏ bao thứ phàm ngu nên không hề bị tán loạn.
8. Tất cả sự nghiệp của thế gian hay xuất thế gian đều được thành tựu dễ dàng, không bị chướng ngại.
9. Nơi A-lan-nhã là ngôi nhà Tam-muội nên có thể chứng được trăm ngàn pháp Tam- muội lớn lao.
10. Lấy chốn Thanh tịnh như hư không làm nhà cửa, tâm không còn chướng ngại, đạt được đại trí tuệ.
Trí Quang nên biết, nơi A-lan-nhã có vô lượng công đức như thế! Do nhân duyên ấy, Phật tử xuất gia thề bỏ thân mạng, không bỏ rừng núi; nếu vì việc nghe pháp hay cúng dường cho người đau, Sư Tăng, cha mẹ mà phải ra ngoài nơi A-lan-nhã vào trong làng xóm thời nên chóng trở về nơi cũ. Nếu có nhân duyên chưa về được, thì nên tưởng: “Nay ở nơi làng xóm này cũng như chốn núi rừng, mọi tài vật có được đều hư giả như chiêm bao và nếu mình có được, thì không nên tham đắm!”. Phật tử như thế là Ma-ha-tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ:
Trí Quang các ông nghe cho kỹ!
Nơi ở của người không phiền não:
Xa chốn huyên náo, ở chốn tĩnh
Đó là những nơi thần tiên ở.
Bồ tát ba đời cầu Bồ đề
Ở trong Lan-nhã thành Chánh giác,
Duyên giác, Thanh văn các Thánh chúng
Cũng ở nơi này chứng Bồ đề.
Ở A-lan-nhã được mười lợi
Hay khiến chứng được quả Ba thừa:
Du hành tự tại như sư tử
Trong bốn uy nghi không ràng buộc.
Dưới cây rừng núi bậc Thánh chuộng
Không “ngã, ngã sở” là Lan nhã.
Áo mặc, đồ nằm không buộc ràng
Ngồi tòa sư tử “Tứ vô úy”.
Bỏ các phiền não là Lan nhã
Tất cả tham ái không ham đắm.
Ở ngoài sự vật chán trần lao
Không ham năm dục lạc trên đời.
Người xa huyên náo, ưa tịch tĩnh
Bỏ thân, xả mạng cầu Phật đạo.
Ở nơi tịch tĩnh không tiếng người
Tán loạn trong tâm không phát khởi.
Nghiệp thiện thế gian, xuất thế gian
Tâm không chướng ngại đều thành tựu.
Bởi thế, A-lan-nhã, căn bản
Hay sinh trăm ngàn pháp Tam muội.
Lấy “Đại không tịch” làm hư không
Thân tâm người tu không chướng ngại.
Đầy đủ được mười thắng lợi ấy
Thế nên các Thánh thường ở đó.
Trí Quang các ông, các Phật tử
Nếu muốn chóng thành Nhất thiết trí
Cho đến trong mộng không bỏ rời
Nơi A-lan-nhã: Bồ-đề đạo.
Sau Ta diệt độ, người phát tâm
Thường hay ở nơi A-lan nhã
Không lâu ngồi trên Bảo hoa vương
Chứng được pháp thân thường lạc quả.
Khi Đức Thế Tôn giảng nói pháp ấy, vô lượng trăm ngàn các vị mới phát tâm đối với đạo Vô thượng đạt được Bất thoái chuyển. Nhóm ông Trí Quang, các chúng Bồ-tát đạt được pháp Đà-la-ni, đầy đủ đại thần thông. Trăm vạn trời, người phát tâm Bồ-đề, ngộ ba pháp môn giải thoát.
Lúc đó, Như Lai bảo đại chúng:
– Nếu có tịnh tín thiện nam, thiện nữ nào được nghe pháp môn sâu xa về bốn Vô cấu tánh như thế, thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép thì những người ấy ở nơi họ sinh sống sẽ gặp được bậc thiện tri thức, tu hạnh Bồ-tát mãi mãi không bị thoái chuyển, không bị tất cả các nghiệp phiền não nhiễu loạn; trong đời hiện tại được phước trí lớn, nối tiếp giữ vững Tam bảo, được sức tự tại, làm cho hạt giống Phật không bị đoạn tuyệt. Và khi mạng chung quyết được sinh lên cung trời Tri túc, yết kiến Ngài Di-lặc, chứng ngôi Bất thoái; trong hội đầu Long hoa được nghe chánh pháp, được thọ ký quả Bồ-đề, chóng thành Phật đạo; nếu nguyện muốn sinh sang cõi nước chư Phật trong mười phương, thời tùy sở nguyện mình mà được vãng sinh, được thấy Phật, nghe pháp, cứu cánh bất thoái quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, trong pháp hội có một vị Đại Bồ-tát tên là Thường Tinh Tấn, nhờ uy thần của Phật, liền từ tòa ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói nơi A-lan- nhã là Bồ-đề đạo tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ-đề, không nên lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Trong nơi A-lan-nhã ấy có nhiều chúng sinh như: hổ, báo, sài lang, trùng độc, thú dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến Như Lai, không nghe Chánh pháp, lại không kính Tăng, các chúng sinh ấy lại không tu thiện căn, xa lìa sự giải thoát, thế mà, vì sao Như Lai lại khiến người tu học ở nơi A-lan- nhã ấy để chóng được thành Phật? Kính xin Thế Tôn vì các chúng sinh phân biệt, giảng dạy, giải quyết cho sự ngờ vực ấy, làm cho họ được vui vẻ phát tâm Bồ-đề, khiến không bị thoái chuyển!
Đức Phật bảo Bồ-tát Thường Tinh Tấn:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam, ông đem lòng đại từ hỏi Như Lai về sự thanh tịnh giải thoát, rất có lợi ích cho những người tu hành mai sau, công đức ấy thật vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và khéo nhớ nghĩ! Nay Ta vì ông phân biệt diễn nói về vô số các công đức của nơi A-lan-nhã!
Bồ-tát Thường Tinh Tấn bạch:
– Dạ, bạch Thế Tôn, con nguyện muốn được nghe!
Đức Phật bảo Bồ-tát Thường Tinh Tấn:
– Như ông nói ở nơi A-lan-nhã được thành các bậc Thánh, nhưng trong rừng núi có nhiều chúng sinh, do nhân duyên gì không được thành Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở dĩ thế là sao? Các chúng sinh kia không biết đến Tam bảo, không biết chán đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng núi tuy có nhiều châu báu của thế gian, mà họ vẫn không biết được nơi tiềm ẩn của chúng. Đại Bồ-tát thì không như thế. Thiện nam, Bồ-tát biết Phật, Pháp, Tăng bảo là của báu xuất thế gian, bảy thứ ngọc báu ẩn tàng là của báu thế gian; các vị đều phân biệt được mọi sắc tướng của chúng, biết chúng ở đâu nhưng không tham cầu, cũng không thích thấy, huống là nhặt lấy?
Bồ-tát xuất gia phát tâm kiên cố không tiếc thân mạng, lìa bỏ cha mẹ, thân quyến họ hàng, thích ở nơi chốn rừng núi, thường nghĩ: “Giả sử khi hết kiếp, cõi tam thiên đại thiên này bảy mặt trời mọc ra, hỏa tai bừng cháy, thiêu đốt muôn vật, mặt trời, trăng, sao, núi Tu-di và bảy núi Kim sơn, núi Thiết vi…, vào lúc ấy thảy đều bị tiêu tan; ngay đến cõi cao nhất trong ba cõi là cõi trời Phi phi tưởng, khi hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cõi đất; Chuyển luân thánh vương có ngàn con vây quanh, bảy báu, quyến thuộc và bốn châu đều phục, mà khi quả báo của thọ mạng hết thì cũng không dừng được trong chốc lát. Nay ta cũng thế, giả sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đều đầy đủ, hưởng thọ mọi sự an lạc, nhưng sứ giả Diễm-ma đến thì không khỏi được vô thường.” Thấy thế nên suy nghĩ: “Nay ta không gì bằng việc thay thế cha mẹ ta cùng các chúng sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim cang bất hoại, rồi trở lại trong ba cõi độ cho cha mẹ”. Phát nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhã vì các chúng sinh phát ra những thệ nguyện rộng lớn. Bồ-tát thượng căn phát nguyện:
– Nguyện, con khi chưa thành Phật cho đến lúc chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, thường ở nơi đất trống, luôn luôn ngồi không nằm.
Bồ-tát trung căn phát nguyện:
– Nguyện, con khi chưa thành Phật, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp, không nằm.
Bồ-tát hạ căn phát nguyện:
– Nguyện, con khi chưa thành Phật, thường ngồi trong nhà đá, không nằm.
Ba căn trong hàng Bồ-tát xuất gia như thế ngồi nơi ba loại tòa, vừa nói, đều nghĩ: “Bồ-tát thuở quá khứ ngồi trên tòa này, chứng được pháp môn Đà- la-ni công đức tự tại; các Bồ-tát trong đời quá khứ, hiện nay và mai sau, đều ở trên tòa này được Đà- la-ni tu chứng tự tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ thành tựu Đà-la-ni, được tự tại. Nếu chưa thành tựu và đạt được tự tại, ta quyết không lìa bỏ A-lan-nhã”.
Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được bốn Tâm vô lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả) quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được năm sức thần thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan- nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được phương tiện thiện xảo, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa điều phục được tất cả hữu tình, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được bốn Nhiếp pháp, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu tập được pháp sáu niệm, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành tựu được “trí tuệ, đa văn”, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành tựu được sức tin bền vững, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt trừ sáu mươi hai thứ kiến chấp, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu tập được tám Chánh đạo, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt hẳn được tập khí của phiền não chướng, sở tri chướng, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được trí tuệ vi diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được tâm Đại Bồ-đề, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được hằng sa pháp Tam-muội, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành tựu được vô lượng thần thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát dùng sức thần thông nơi đại định (định thông lực) thấy mười tám “không” mà tâm không hoảng sợ, đại sự như thế nếu chưa thành tựu, quyết không lìa bỏ nơi A-lan- nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được Nhất thiết trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ- tát chưa viên mãn được Nhất thiết chủng trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu tập được ba mươi bảy Bồ-đề phần pháp, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được muôn hạnh trong Thập địa, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ở trong trăm kiếp chưa tu hành được về nghiệp quả của tướng tốt, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được bốn Trí của Như Lai, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên mãn được sự chứng đại Niết-bàn, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ngồi tòa Kim cang mà chưa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Đó là Bồ-tát thực hành hạnh A-lan-nhã. Này thiện nam, Bồ-tát xuất gia phát tâm Bồ-đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba loại tòa trên, tu luyện thân tâm, trải qua ba đại kiếp, tu tập muôn hạnh, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:
Thuở xưa chư Phật ở nhân gian
Nơi A-lan-nhã, lìa trần tục
Đoạn, dẹp phiền não, sở tri chướng
Vượt qua ba cõi chứng Bồ-đề.
Bồ-tát quá khứ tu hạnh nguyện
Lấy A-lan-nhã làm nhà cửa
Trong vô số kiếp tu phước trí
Cứu cánh Thập địa chứng Ba thân.
Bồ-tát vị lai cầu quả Phật
Vào trong núi sâu Tu-diệu hạnh
Dứt trừ hai chướng, nhân sinh tử
Sẽ chứng Tam không chân giải thoát.
Mười phương hiện tại các Bồ-tát
Tu trì muôn hạnh ở “không nhàn”
Không tiếc thân mạng cầu Bồ-đề
Niệm niệm chứng được Vô sinh trí.
Nếu muốn chóng chứng Tam-muội sâu
Nhân Tu-diệu định siêu thần thông
Nơi A-lan-nhã tâm không rộn
Biến được đại địa thành bảy báu.
Nếu muốn du hóa khắp mười phương
Đi lại tự tại vận thần thông
Cúng dường chư Phật lợi quần sinh
Ở nơi Lan-nhã không sợ hãi.
Muốn chứng trí như huyễn hữu, vô
Hiểu thấu các pháp bản lai không
Ở A-lan-nhã, Bồ-đề tràng
Khiến chúng cũng vào chân giải thoát.
Nếu muốn chóng được trí Như như
Chứng hội các pháp Như như tánh
Trọn vô số kiếp lợi quần sinh
Thường ở Lan-nhã chốn không tịch.
Nếu người muốn được trí nan tư
Tu-di thu vào trong hạt cải
Tu-di, hạt cải tướng bất hoại
Vào nhà thần thông trong Lan-nhã.
Nếu người muốn được trí Vô ngại
Một tiếng diệu âm dùng thuyết pháp
Tùy loại chúng sinh đều được thoát
Nên ở Lan-nhã tu-diệu quán.
Nếu muốn không sinh và không diệt
Ứng hiện quốc độ khắp mười phương
Phóng quang thuyết pháp lợi quần sinh
Chớ lìa Lan-nhã nhà không tịch.
Nếu lấy ngón chân ấn đại địa
Khiến cõi mười phương đều chấn động
Thấy tướng, phát tâm trừ tà kiến
Nên ở Lan-nhã quán tự tâm.
Nếu muốn trong khi Phật xuất hiện
Tối sơ kính dâng cúng vi diệu
Thí Ba-la-mật đều viên mãn
Ở A-lan-nhã tu-diệu hạnh.
Nếu người, khi Phật nhập Niết-bàn
Tối hậu cúng dường thành nghĩa “Thí”
Dứt hẳn nghèo cùng và tám nạn
Thệ nguyện ở trong A-lan-nhã.
Nếu muốn phước trí đều viên mãn
Chư Phật mai sau sắp Niết-bàn
Nhận nguyện rộng lớn, Phật giao phó
Ở A-lan-nhã tu sáu niệm.
Sau khi chư Phật nhập Niết-bàn
Kết tập Chánh pháp độ chúng sinh
Trợ tán chân thừa của chư Phật
Ở nhà “không tịch” trong Lan-nhã.
Đại sư trời, người: Đấng Thế Tôn
Khó thấy, khó gặp hơn Ưu-đàm
Nếu muốn yết kiến, tu cúng dường
Nên ở Lan-nhã, bi nguyện rộng.
Mọi báu tuy quý, Pháp quý hơn
Thành Phật, hóa độ lợi do đây
Như người muốn thường được nghe pháp
Ở A-lan-nhã tu phạm hạnh.
Khởi từ thân này đến thân Phật
Thường nguyện phát tâm hoằng chánh giáo
Cho đến khi chưa được Bồ-đề
Niệm niệm không bỏ A-lan-nhã.
Nếu người muốn báo ân cha mẹ
Thay thế cha mẹ phát thệ nguyện
Vào Bồ-đề tràng trong Lan-nhã
Ngày đêm thường tu về diệu đạo.
Nếu muốn đời nay thêm phước trí
Mai sau không đọa trong tám nạn
Như thế, chúng sinh phát tâm thiện
Ở A-lan-nhã tu bi nguyện.
Bồ-tát ba đời cầu chân giác
Được đạo Niết-bàn trong Lan-nhã
Thế nên gọi là Đại đạo tràng
Thánh chúng Ba thừa đồng ở đó.
Bồ-tát chán khổ vào rừng núi
Vì độ quần sinh cầu Thánh đạo
Tự chưa thành Phật, độ người trước
Sáu đạo, bốn loài đều thương xót.
Bồ-tát thượng căn ngồi đất trống
Bồ-tát trung căn dưới bóng cây
Bồ-tát hạ căn trong thạch thất
Chưa thành Phật đạo thường không nằm.
Bồ-tát ba đời ở Lan-nhã
Được sức tự tại Đà-la-ni
Nay ta cùng phát tâm Bồ-đề
Chưa được Tổng trì, ở đây mãi.
Được Đại Bồ-đề tại Lan-nhã
Vào Đại viên tịch do chốn đây
Bồ-tát khởi phát trí Kim cang
Đoạn hoặc, chứng chân thành Diệu giác
Rộng độ chúng sinh khắp xóm làng
Vì cầu tịch diệt, ưa rừng núi
Muôn hạnh: nhân đầy, quả cũng trọn
Tận đời vị lai độ quần sinh.
Khi Đức Thế Tôn nói về hạnh A-lan-nhã của Bồ-tát xuất gia như thế, có vô lượng Bồ-tát chứng địa Cực hỷ; hằng hà sa vô số Bồ-tát lìa hẳn tướng dụng của phiền não vi tế, chứng địa Bất động, vô số Đại Bồ-tát số lượng chẳng thể nêu bày được đã dứt tất cả hoặc chướng vào địa Diệu giác; vô biên chúng hữu tình phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; chín vạn bảy ngàn chúng sinh xa lìa mọi thứ bụi bặm cấu uế, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
❑
Bấy giờ, trong pháp hội có một vị Đại Bồ-tát tên là Nhạo Viễn Ly Hạnh, nhờ uy lực của Phật, từ tòa ngồi đứng dậy, ở trong đại chúng vì các Bồ-tát nêu bày về hạnh A-lan-nhã, nói với tất cả các vị Bồ-tát:
– Bồ-tát xuất gia ở A-lan-nhã nên nghĩ: Do nhân duyên gì mà ta xa lìa thế tục, Tu-diệu hạnh thanh tịnh ở A-lan-nhã? Các Phật tử nhất tâm nghe kỹ! Tôi nay nương uy lực Phật vì các vị phân biệt diễn thuyết về hạnh A-lan-nhã!
Các Bồ-tát nói:
– Quý hóa thay! Đại sĩ đã vì chúng tôi, cùng các vị cầu Bồ-tát đạo ở đời mai sau, kính xin Đại sĩ cứ nói cho, chúng tôi muốn nghe!
Khi ấy, Bồ-tát Nhạo Viễn Ly Hạnh bảo đại chúng:
Tất cả chúng sinh ở thế gian có nhiều sự sợ hãi, Bồ-tát xuất gia vì chán những sự sợ hãi nơi thế gian ấy nên rời bỏ cha mẹ cùng các quyến thuộc đến ở nơi A-lan-nhã, tu hạnh viễn ly.
Thế nào là những sự sợ hãi?
Hoặc có Bồ-tát nghĩ: “Ngã” là sợ hãi, vì tất cả phiền não từ “ngã” sinh ra. Hoặc có Bồ-tát nói “ngã sở” là sợ hãi, vì tất cả phiền não từ “ngã sở” sinh ra. Hoặc có Bồ-tát nói “bảy thứ mạn” là sợ hãi, vì các thứ mạn ấy đều không biết kính người thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy “ba độc” kia làm sự sợ hãi, vì do nó tạo ra vô lượng tội, phải sa đọa vào các đường ác. Hoặc có Bồ-tát lấy “năm dục” kia làm sự sợ hãi, vì đam trước sự vui thế gian, sẽ phải sa vào tám nạn. Ví như ở đời có con rắn gọi là “Thất bộ xà”, nếu khi nó hại người, nọc độc của nó rất mạnh, người ta đi ra khỏi bảy bước bị trúng độc thân mạng liền chết ngay. Sức một con rắn độc còn làm tổn hại người như thế, huống chi là năm con rắn cùng làm sự tổn hại, thời sức độc càng mạnh thêm, thân mạng khó toàn được! Năm dục của đời cũng thế, mỗi một thứ dục lạc đều có thể dẫn khởi ra tám vạn bốn ngàn thứ phiền não cấu uế hết sức vi tế, mê hoặc kẻ ngu si, làm cho họ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, cùng các tai nạn khác, chịu nhiều khổ não, huống là tham đắm đầy đủ các món “trần” khác? Vô số chư Phật như số cát sông Hằng ra đời, thuyết pháp giáo hóa, thời gian vun vút như ánh sáng luồn qua chỗ hở nhanh chóng, mà kẻ ngu si hoàn toàn không được trông thấy, vì thường ở trong các đường ác như ở nhà mình, ở nơi không được ngắm nhìn thong thả mà như dạo xem trong vườn vui chơi. Thời quá khứ có Đức Phật muốn khiến cho chúng sinh chán bỏ năm dục nên nói bài kệ rằng:
Như con thiêu thân thấy ánh lửa
Lấy đó làm thích nên đua vào
Nhưng không biết tánh lửa rất nóng
Phải đành bỏ mạng cho lửa đốt.
Phàm phu trên đời cũng như thế
Ham thích sắc đẹp đi tìm tòi
Không biết sắc đẹp nhiễm vào người
Lại bị lửa đốt, mọi khổ tới.
Ví như đàn hươu trong rừng rú
Ăn nơi cỏ ngon nuôi sống mình
Thợ săn giả làm tiếng hươu mẹ
Đàn hươu trúng tên đều chết cả.
Phàm phu trên đời cũng như thế
Tham đắm mọi tiếng nghe vừa ý
Không biết tiếng kia nhiễm vào người
Khổ báo ba đường trở lại chịu.
Ví như ong mật bay đi xa
Dạo tới rừng xuân hút nhụy hoa
Vì thích mùi thơm nơi má voi
Tai voi nhân đó trập lại chết.
Phàm phu trên đời cũng như thế
Ham thích mọi mùi hương thọ dụng
Không biết hương kia nhiễm vào tâm
Sinh tử luân hồi nhiều kiếp khổ.
Ví như cá lớn ở trong nước
Bơi, lội, lặn, nổi tự vui vẻ
Vì tham mùi thơm bèn cắn câu
Ham mùi, quên mạng đều bị chết.
Phàm phu trên đời cũng như thế
Lưỡi ham mùi ngon giúp thân thể
Giết người, sống mình tâm thiên lệch
Cảm báo ba đường dữ, khổ cực.
Ví như voi trắng ở núi rừng
Tự tại cũng như sư tử chúa
Lòng dục loạn say thành mờ tối
Tìm đến voi cái sinh tham nhiễm.
Tất cả phàm phu cũng như thế
Tới chỗ ái ân như voi cuồng
Ân ái ràng buộc không ngừng dứt
Chết vào địa ngục khổ khôn lường.
Trai, gái trên đời tham cầu nhau
Đều bởi ham đắm các sắc dục
Trời, người bởi thế nên ràng buộc
Đọa lạc ba đường trong tăm tối.
Nếu lìa bỏ được tâm tham dục
Ở A-lan-nhã tu phạm hạnh
Quyết vượt qua được khổ sinh tử
Chóng vào cung “Vô vi, thường lạc”.
Hoặc có Bồ-tát lấy việc tham nhiều của cải làm sự sợ hãi. Của báu nơi mình thường tìm kiếm tích góp lại, không dám thọ dụng, huống chi là đem bố thí cho chúng sinh nghèo thiếu? Đối với của báu của mình sinh tâm tham đắm, còn đối với của báu nơi khác thì lại muốn cho tổn giảm. Bởi nhân duyên ấy, sau khi mạng chung phải đọa vào đại địa ngục chịu vô lượng khổ. Khổ báo như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ nhất. Từ địa ngục ra phải chịu thân súc sinh, thân thường khổ nhọc, nước cỏ không đủ và phải qua trong nhiều thời đền trả sự tổn hại của người trước. Mọi khổ như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ hai. Chịu tội ấy xong, sinh vào trong ngạ quỉ, khốn khổ đói khát vô lượng, hàng ngàn kiếp không hề nghe thấy tên thức ăn, nước uống; cổ nhỏ như thân kim, bụng to như núi, ví dù được thức ăn uống, theo nghiệp liền biến thành lửa. Thân khổ như thế gọi là quả báo chánh cảm thứ ba. Hết tội ấy rồi, lại sinh về nhân gian, vào hạng nghèo cùng hèn hạ, bị người sai khiến; đối với các thứ của báu cầu rất khó được và đối với tất cả mọi thời đều không tự tại. Dư báo như thế gọi là “Tương tự quả”. Tất cả Bồ-tát thấy biết về nhân quả rõ ràng như thế, nên thường sinh tâm sợ hãi muốn cầu giải thoát. Do chỗ sợ hãi ấy, nên xa lìa quyến thuộc và ở nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát lấy tâm khát ái làm sự sợ hãi, vì đối với những khi chưa được tất cả của báu, ngày đêm tìm tòi, sinh tâm khao khát. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngã, ngã sở kiến” làm sự sợ hãi, vì nó chỗ nương tựa của các phiền não. Hoặc có Bồ-tát lấy các “pháp kiến” làm sự sợ hãi, vì nó là chỗ nương tựa cho sở tri chướng. Hoặc có Bồ-tát lấy sáu mươi hai kiến làm sự sợ hãi, vì vào rừng tà kiến thì khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát lấy “nghi” làm sự sợ hãi, vì đối với pháp chân chánh sinh tâm nghi hoặc. Hoặc có Bồ-tát lấy “đoạn kiến” kia làm sự sợ hãi, vì chấp không có đời sau, gạt đi, cho là không có nhân quả, sinh tà kiến nặng nề phải bị đọa vào địa ngục. Hoặc có Bồ-tát lấy “thường kiến” kia làm sự sợ hãi, vì chấp thân của chúng sinh trong năm cõi thường hằng như thế, theo nghiệp thiện, ác vẫn không biến đổi. Hoặc có Bồ-tát lấy “tật đố” kia làm sự sợ hãi, vì không chịu sự vẻ vang của người, mang tâm niệm ác. Hoặc có Bồ-tát thường lấy “trạo cử” làm sự sợ hãi, vì tâm không tịch tĩnh, sinh ra tán loạn. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “bất tín” làm sự sợ hãi, ví như người tay không, tuy đến núi báu, nhưng hoàn toàn không thể lấy được gì; người không có bàn tay tin tưởng, tuy gặp Tam bảo nhưng không thu đạt được gì. Hoặc có Bồ-tát lấy “vô tàm” kia làm sự sợ hãi, vì bên trong không biết hổ thẹn, nên thường tạo các nghiệp ác, nghiệp chướng vô minh khó thấy được Phật. Hoặc có Bồ- tát lấy tâm “vô quý” làm sự sợ hãi, vì bên ngoài không biết xấu hổ, bỏ ân bội đức, phải sinh tử luân hồi và đọa vào ba đường dữ. Hoặc có Bồ-tát lấy “phẫn hận” làm sự sợ hãi, vì nó hay làm tổn hại mình và người thành ra sự oán kết lẫn nhau, trong nhiều kiếp, làm chướng ngại đối với đạo Phật. Hoặc có Bồ-tát lấy sự “vong thất” lãng quên không nhớ kia làm sự sợ hãi, vì đối với sự nghe pháp không ghi nhớ được, quên mất văn nghĩa, thêm sự ngu si.
Hoặc có Bồ-tát cho tất cả những nghiệp đen tối bất thiện là sợ hãi. Sao vậy? Vì tất cả nghiệp bất thiện là nhân của sinh tử, xoay chuyển trong ba cõi không thoát khỏi được, đối với vô lượng vô biên sự sợ hãi ấy đều làm chướng ngại cho thắng pháp xuất thế. Hoặc có Bồ-tát lấy “năm thứ che lấp” làm sự sợ hãi, vì năm thứ phiền não ấy che lấp tâm Bồ- đề của Bồ-tát. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm ghen ghét làm sự sợ hãi, đối với các chúng sinh không có tâm thương xót, nên tu hạnh Bồ-đề hay bị thoái chuyển. Hoặc có Bồ-tát lấy sự cấu uế do “phá giới” làm sự sợ hãi, vì điều ấy làm nhơ nhớp Thánh pháp, khó được quả báo chân chánh. Hoặc có Bồ-tát lấy “ưu não” làm sợ hãi, vì các vọng tưởng mạnh luôn làm mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “ác tác” làm sợ hãi, vì đối với chỗ tu thiện sinh tâm hối tiếc. Hoặc có Bồ-tát nói sự “cuồng túy” là điều sợ hãi, vì nó không biết thiện, ác, không có tôn ti. Hoặc có Bồ-tát lấy sự chết không đúng thời làm điều sợ hãi, vì không an trụ nơi chánh niệm, hướng về vô thường. Hoặc có Bồ-tát lấy nghiệp vọng ngữ làm điều sợ hãi, vì kiếp kiếp đời đời có nói năng gì tất cả chúng sinh đều không tin nhận. Hoặc có Bồ-tát lấy bốn thứ điên đảo làm sợ hãi, vì do bốn món điên đảo ấy nên phải bị luân hồi sinh tử, khởi nghiệp phiền não không cầu Phật. Hoặc có Bồ-tát nói “bạn ác” là điều sợ hãi, vì theo bạn bất thiện ấy mà tạo ra nghiệp ác. Hoặc có Bồ-tát lấy “ngũ uẩn ma” làm điều sợ hãi, vì thân năm uẩn này từ phiền não sinh ra, sinh rồi liền dấy lên vô lượng phiền não; nhân các phiền não mà tạo nghiệp bất thiện, do các hoặc nghiệp nên bị sa xuống hầm sâu lớn, bởi nhân duyên ấy sinh ra sợ hãi. Hoặc có Bồ-tát lấy “phiền não ma” làm điều sợ hãi, vì các thứ đại, tiểu phiền não nối tiếp sinh tử, làm thoái tâm Bồ- đề, bị đọa vào đường ác. Hoặc có Bồ-tát chán ngán và lo lắng về “tử ma” làm điều sợ hãi, vì phát tâm Bồ-đề chưa được tới chỗ bất thoái, thân nát, mạng mất, sinh tâm thoái chuyển. Hoặc có Bồ-tát cho các Thiên ma là điều sợ hãi, vì họ hàng Thiên ma đầy dẫy trong cõi Dục, làm chướng ngại người tu đạo, thoái tâm Bồ-đề. Hoặc có Bồ-tát lấy tâm “vô ký” làm điều sợ hãi, vì đối với pháp thiện không tiến tu được, luống qua thời gian dài, lui mất nghiệp thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy tám nạn kia làm điều sợ hãi, vì nếu bị đọa vào trong tám nạn ấy thời như từ chỗ tối lại vào chỗ tối; đêm dài sinh tử khó gặp được ánh sáng. Hoặc có Bồ-tát quán địa ngục kia làm điều sợ hãi, vì một khi sa vào địa ngục, thời trải qua vô lượng kiếp chịu khổ não lớn khó được giải thoát. Hoặc có Bồ-tát cho sự đọa vào hàng súc sinh là điều sợ hãi, vì trong giới bàng sinh phải chịu quả báo ngu si, trải vô lượng kiếp khó thoát khỏi được. Hoặc có Bồ-tát thấy nẻo ngạ quỉ là điều sợ hãi, vì trong hằng sa kiếp phải chịu khổ đói khát, khó gặp được Phật, Pháp, Tăng. Hoặc có Bồ-tát tưởng sự sinh trong cõi Dục làm điều sợ hãi, vì phiền não tạp khởi, tạo các nghiệp ác, bị đọa vào ba đường dữ. Hoặc có Bồ-tát cho cõi Sắc kia là điều sợ hãi, vì các “hữu phú phiền não” hay làm chướng ngại tu Định. Hoặc có Bồ-tát cho cõi Vô sắc là điều sợ hãi, vì trong ba cõi ấy tịch tĩnh quá, cũng như Niết- bàn, nên chúng sinh vọng chấp làm cứu cánh, đến khi kiếp hết mạng mất, phải đọa vào địa ngục. Hoặc có Bồ-tát cho sự nối tiếp liên tục của sinh tử làm điều sợ hãi, vì sinh vào nhà tà kiến, khó ra khỏi được. Hoặc có Bồ-tát cho sự chán bỏ sinh tử làm điều sợ hãi, vì chết đây, sinh kia, thường chịu khổ não, như thế làm chướng ngại hạnh Bồ-tát cầu Niết-bàn. Hoặc có Bồ-tát cho giọng tiếng thế gian là điều sợ hãi, vì nó làm cho tâm thường bị tán loạn, phương hại tới nghiệp thiện. Hoặc có Bồ-tát lấy “tâm, ý, thức” làm điều sợ hãi, vì những hành tướng sở duyên của nó là không thể biết được.
Nếu ở nhà thế tục, do những sự sợ hãi ấy, ngày đêm nối tiếp nhau nhiễu loạn tâm thiện, không thể chứng được pháp “không sợ hãi”. Bồ-tát thời quá khứ ở nơi A-lan-nhã đều chứng được pháp không sợ hãi, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bồ-tát đời vị lai ở nơi A-lan-nhã đều sẽ được pháp không sợ hãi, tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các Đại Bồ-tát trong mười phương hiện tại, ở nơi A-lan-nhã dứt bỏ tất cả chướng ngại, được pháp không sợ hãi tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các vị nên biết, tùy theo căn khí, nên tu học về nhiếp niệm thân tâm ở nơi A-lan-nhã của các Bồ- tát trong ba đời, để điều phục vọng tưởng, vĩnh viễn không sợ hãi, đạt tới cứu cánh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan-nhã nên làm nghiệp gì? Nên tạo những niệm gì? Ngày đêm thường suy nghĩ như thế này: “Tất cả mọi sự sợ hãi hiện có của thế gian đều từ “ngã” sinh: vì tất cả mọi sợ hãi đều do chấp trước vào “ngã” mà sinh ra; tất cả sợ hãi đều do ngã làm căn bản; tất cả sợ hãi đều do “ngã ái” sinh ra; tất cả sợ hãi đều do “ngã tưởng” sinh ra; tất cả sợ hãi đều từ “ngã kiến” sinh ra; tất cả sợ hãi đều lấy “ngã” làm trụ xứ; tất cả sợ hãi đều từ nhân là “ngã” mà sinh; tất cả sợ hãi là do phân biệt sinh ra; tất cả sợ hãi là từ phiền não sinh ra; tất cả phiền não đều từ “ngã ái” sinh ra. Nếu ta ở nơi A-lan-nhã mà không lìa bỏ được chấp trước về “ngã, ngã sở”, thì không nên ở trong A- lan-nhã ấy và không bằng trở về nhà ở tại gia còn hơn. Sao vậy? Nếu người có “ngã tưởng”, thì không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có “nhân tướng” (Bổ-đặc-già-la tướng) thì không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu có người đủ cả hai chấp: “ngã, ngã sở” thì không nên ở nơi A-lan-nhã. Nếu người có “pháp kiến” thì không nên ở nơi A-lan-nhã Nếu người có đủ bốn thứ điên đảo chấp ấy, thì không nên ở nơi A-lan-nhã.”
Các vị nghe kỹ, nếu có người tu hành tạo ra tướng Niết-bàn thì cũng không nên ở nơi A-lan- nhã, huống chi là còn khởi ra các tướng phiền não. Các vị nghe kỹ, nếu có người không chấp trước vào tất cả hình tướng của các pháp thì nên an trụ nơi A-lan-nhã, như thế gọi là đang ngồi trong “Vô trước đạo tràng” đối với tất cả các pháp đều “bất khả đắc”. Nếu người tâm điều phục, nhu hòa được, không có tranh luận, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã. Đối với mọi nhân duyên ở đời đều không chấp trước, thì nên an trụ ở nơi A-lan-nhã. Đối với các pháp như sắc, thanh, hương, vị, xúc, không còn nương tựa vào chúng, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã. Đối với tất cả các pháp đều có sự thấy biết bình đẳng, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã. Đối với bốn uy nghi có thể điều phục được tâm mình, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã. Bỏ được tất cả các điều sợ hãi, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã.
Các Phật tử, nói một cách tổng quát, những người đối với các phiền não đã giải thoát được, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người thành tựu được nhân Niết-bàn, thì nên an trụ nơi A-lan-nhã.
Người khéo tu hành bốn Vô cấu tánh, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người có tư tưởng ít muốn, biết đủ, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Người có trí tuệ, đầy đủ đa văn, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Nếu người tu hành được ba môn giải thoát, nên an trụ nơi A-lan- nhã. Người dứt hẳn được các thứ phiền não ràng buộc, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Người quán sát kỹ lưỡng được mười hai nhân duyên, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Người mà chỗ tạo tác đã biện giải xong, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Người đã bỏ được gánh nặng, nên an trụ nơi A-lan-nhã. Người chứng ngộ diệu lý sâu xa của chân như, nên an trụ nơi A-lan- nhã.
Các vị nên biết, nơi A-lan-nhã, các loại cây thuốc, các thứ gỗ lớn, nhỏ sinh ra ở nơi ấy, từng không sợ hãi, cũng không phân biệt. Đại Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã cũng thế, quán sát thân tâm mình như cây khô, như tường vách, ngói sỏi… không khác, đối với tất cả pháp, không có phân biệt. Ta quán sát thân tâm ta cũng như huyễn mộng, không thực, từng niệm, từng niệm già suy, hơi thở của ta ra rồi không vào được nữa; khi đó, do nhân thiện, ác, theo nghiệp mà chịu báo. Thân này vô thường, chóng khởi, chóng diệt, thân này hư giả, quyết không tồn tại lâu được. Như thế, trong thân không có “ngã, ngã sở” không có hữu tình, không có mạng, không có “dưỡng dục”, không có “sĩ phu”, không có “Bổ-đặc-già-la”, không có “tác nghiệp”, không có “hữu kiến”, mọi tướng như thế là bản lai không tịch, cũng như hư không, cũng như bọt nước. Niệm niệm thường nên thực hành quán pháp như thế thời tất cả sợ hãi đều được giải thoát, như cây gỗ kia không có sự sợ hãi. Khi ấy, các Bồ-tát được ở nơi an lạc lớn lao không còn có sự sợ hãi sinh ra, thế gọi là Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan-nhã, suốt ngày đêm nên quán như thế này: “A-lan-nhã này là nơi an vui tu tập thuần bốn Vô cấu tánh. A-lan-nhã này là nơi tu tập thuần hạnh Tri túc. A-lan-nhã này là nơi giải thoát các phiền não. A-lan-nhã này là nơi đầy đủ trí tuệ, đa văn. A-lan-nhã này là nơi điều phục và đoạn diệt các thứ phiền não chướng, sở tri chướng. A-lan-nhã này là nơi chứng nhập ba môn giải thoát. A-lan-nhã này là nơi chứng trọn tám pháp giải thoát. A-lan-nhã này là nơi quán sát đầy đủ mười hai nhân duyên. A-lan-nhã này là nơi dứt trừ được các nghiệp chướng. A-lan-nhã này là nơi chứng Sơ quả Dự lưu. A-lan-nhã này là nơi chứng quả thứ hai Nhất lai. A-lan-nhã này là nơi chứng quả thứ ba Bất hoàn. A-lan-nhã này là nơi chứng quả thứ tư A-la-hán. A-lan-nhã này là nơi chứng quả Bích-chi-phật. A-lan-nhã này là nơi đã biện giải xong được chỗ tạo tác, được tự tại. A-lan-nhã này là nơi bỏ được các gánh nặng, đạt được mọi sự nhẹ nhàng an vui. A-lan-nhã này là nơi được “Nhị không chân như”. A-lan-nhã này là nơi tu vô lượng tâm Đại từ. A-lan-nhã này là nơi tu chứng vô lượng tâm Đại bi. A-lan-nhã này là nơi tu tập thành tựu “Hỷ vô lượng”. A-lan-nhã này là nơi tu tập thành tựu “Xả vô lượng”. A-lan-nhã này là nơi phát tâm Bồ-đề. A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu trì đến Thập tín. A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu tiến tuần tự đến Thập trụ. A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu thêm dần dà đến Thập hạnh. A-lan-nhã này là nơi Bồ-tát tu hạnh dần dà đến Thập hồi hướng. A-lan-nhã này là nơi tu tập thuần bốn Thiện căn. A-lan-nhã này là nơi tu hành sáu pháp Ba-la-mật. A-lan-nhã này là nơi tu hành từ Sơ địa đến Thập địa. A-lan-nhã này là nơi chứng được sáu căn thanh tịnh. A-lan-nhã này là nơi chứng được Thiên nhãn thông. A-lan- nhã này là nơi chứng được Thiên nhĩ thông và Túc trụ trí, Sinh tử trí minh, Thần cảnh, Tha tâm thông.
A-lan-nhã này là nơi có sự tàm quý. A-lan-nhã là nơi không phóng dật. A-lan-nhã này là nơi tu tập năm căn. A-lan-nhã này là nơi chứng được vô lượng, vô biên Tam-muội. A-lan-nhã này là nơi đạt được hằng sa Đà-la-ni môn, chứng tự tại. A-lan- nhã này là nơi chứng ngộ Nhẫn vô sinh. A-lan-nhã này là nơi dứt sinh tử, ra hẳn ba cõi. A-lan-nhã này là nơi đạt được Bất thoái chuyển. A-lan-nhã này là nơi hàng phục tất cả mọi ma oán địch, tiêu trừ nghiệp chướng, thấy Phật, nghe Pháp. A-lan-nhã này là nơi được pháp môn Bất cộng tối thượng của Phật. A-lan-nhã này là nơi tu tập Giới uẩn thanh tịnh. A-lan-nhã này là nơi xuất sinh Tam-ma-địa vô lậu. A-lan-nhã này là nơi sinh Bát-nhã, chứng giải thoát. A-lan-nhã này là nơi sinh Giải thoát tri kiến. A-lan-nhã này là nơi được ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề. A-lan-nhã này là nơi khéo tu nhiếp mười hai hạnh Đầu-đà. A-lan-nhã này là nơi trụ của trí tuệ phân biệt rõ ràng nghĩa lý. A-lan-nhã này là nơi vĩnh viễn đoạn trừ mầm mống năm uẩn hữu lậu. A-lan-nhã này là nơi được giải thoát khỏi mười hai nhập. A-lan-nhã này là nơi lìa hẳn mười tám giới hữu lậu. A-lan-nhã này là nơi quán sát mười tám không vi diệu. A-lan-nhã này là nơi dung thọ tất cả các pháp không. A-lan-nhã này là nơi sinh và làm tăng trưởng mười thiện pháp. A-lan- nhã này là nơi làm tăng trưởng tâm Bồ-đề kiên cố. A-lan-nhã này là nơi chư Phật ba đời luôn khen ngợi. A-lan-nhã này là nơi tất cả Bồ-tát đều cung kính, tán thán.
A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Tỳ-bà-thi thành đạo ở dưới gốc cây Ni-câu-đà. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Thi-khí thành đạo dưới gốc cây Thi-ly- sa. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Tỳ-xá-phù thành đạo dưới gốc cây A-thi-bà-đa. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Câu-lưu-tôn thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Vô ưu. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Ưu-đàm. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Ca-diếp thành Bậc Đẳng Chánh Giác ở dưới gốc cây Bà-đà. A-lan-nhã này là nơi Đức Phật Thích-ca thành đạo dưới gốc cây Tất-bát-la. Các ông nên biết! A-lan-nhã có vô lượng công đức thắng lợi như thế!
Lúc đó, Bồ-tát Nhạo Viễn Ly Hạnh vì đại chúng nói bài kệ:
Bồ-tát xuất gia ở Lan-nhã
Cần nên nghĩ gì, làm nghiệp gì?
Mọi sự sợ hãi thế gian có
Đều từ “ngã kiến, ngã sở” sinh.
Nếu đoạn trừ được “ngã, ngã sở”
Tất cả sợ hãi không nơi dựa.
Nếu còn có tâm chấp “ngã kiến”
Rốt ráo không thành đạo Bồ-đề.
Niết-bàn thường trụ đều vô tướng
Huống chi phiền não phi pháp tướng?
Không chấp các pháp và chúng sinh
Tâm không tranh luận, tu chánh niệm
Trong bốn uy nghi điều phục tâm
Nên ở Lan-nhã thường tịch tĩnh.
Dứt được phiền não, tâm biết đủ
Ở trong Lan-nhã nhà “Không tịch”
Vào ba môn giải thoát Vô tướng
Ở nơi Lan-nhã lìa trần cấu.
Hay quán mười hai pháp nhân duyên
Tứ đế, nhị không: chân diệu lý
Tám pháp thế gian không lay động
Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.
Hay quán thân mình như gỗ khô
Cũng như bọt nước, như huyễn mộng
Không chấp hai bên, tướng bình đẳng
Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.
Tội, nghiệp ràng buộc thân vô thường
Bản lai hư giả vốn không thực
Chấp pháp, chấp ngã, chấp tội tướng
Ở trong ba đời “bất khả đắc”,
Thân mình, thân người không có hai
Tất cả các pháp cũng như thế
Xem kỹ: pháp tánh không đi, lại
Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.
Chiên-đàn thoa mình và tán thán
Lấy dao cắt xẻo và mạ nhục
Với hai người ấy không yêu, ghét
Bồ-tát như thế ở Lan-nhã.
Xuất gia thích ở A-lan-nhã
Ngày đêm nên quán sát như vầy:
Nơi A-lan-nhã, chân đạo tràng
Tất cả Như Lai thành Chánh giác,
Nơi A-lan-nhã, diệu pháp không
Chánh pháp xuất thế từ đấy sinh,
Nơi A-lan-nhã, Thánh tôn kính
Sinh ra ba thừa Thánh đạo vậy,
Nơi A-lan-nhã, nhà các Thánh
Tất cả Thánh hiền thường ở đó,
Nơi A-lan-nhã, cung Như Lai
Là chỗ mười phương Phật nương dựa
Nơi A-lan-nhã, tòa Kim cang
Chư Phật ba đời đắc đạo vậy,
Nơi A-lan-nhã, điện Niết-bàn
Như Lai ba đời viên tịch đây
Nơi A-lan-nhã, nhà “Đại từ”
Bồ-tát ở đó tu tâm Từ,
Nơi A-lan-nhã là “ruộng Bi”
Chư Phật ba đời tu tâm “Bi”,
Nơi A-lan-nhã, nhà “Lục thông”
Bồ-tát ở đó du hóa khắp,
Nơi A-lan-nhã, đại Vô úy
Dứt trừ tất cả sự sợ hãi,
Nơi A-lan-nhã, Tam-ma-địa
Những người cầu đạo được Định ấy,
Nơi Lan-nhã được Đà-la-ni
Những người trì chú được thần lực,
Nơi A-lan-nhã, nhà thiện pháp
Tăng trưởng tất cả các pháp lành,
Nơi A-lan-nhã, nhà Bồ-đề
Bồ-tát tu đạo được pháp nhẫn,
Nếu muốn vượt hẳn khổ ba cõi
Bồ-đề Niết-bàn nên tu chứng,
Quang khắp pháp giới lợi quần sinh
Nên ở nhà Bồ-đề Lan-nhã,
Tu về Sáu độ, Bốn nhiếp pháp
Hồi thí ba cõi và bốn ân
Mình, người đều vào thành cam lộ
Đồng chứng “Nhất như chân pháp giới”.
Khi Bồ-tát Ma-ha-tát Nhạo Viễn Ly Hạnh vì đại chúng nói pháp ấy rồi, Đức Phật bảo:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam, ông đã vì đại chúng và người cầu Phật đạo ở đời sau mà phân biệt diễn nói về công đức thù thắng nơi A-lan-nhã, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh trong hiện tại và vị lai hướng đến nẻo giác ngộ Bồ-đề chánh chân, ông sẽ thành tựu vô lượng công đức, mà ngàn Đức Phật cùng nói cũng không cùng tận được.
Lúc ấy, trong pháp hội Bồ-tát Trí Quang, vô lượng a-tăng-kỳ đại chúng Bồ-tát, nghe công đức tối thắng nơi A-lan-nhã, liền được “Văn trì Đà-la- ni môn”. Vô lượng chúng sinh phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được Bất thoái chuyển. Ngàn ức chúng sinh xa lìa mọi bụi bặm cấu uế có được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc liền từ tòa đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chúng tôi đã ngộ được việc Đại Bồ-tát xuất gia, chán bỏ thế gian, ở nơi A- lan-nhã, điều phục tâm mình, tu hạnh Vô cấu. Song, Bồ-tát ấy ở nơi tịch tĩnh, tự thân mình nên thực hành pháp quán gì?
Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam, ông vì chúng sinh khởi tâm đại bi, thỉnh vấn Như Lai về “Nhập Thánh trí quán diệu hạnh pháp môn”. Ông nên khéo nghe, nay Ta vì ông giảng nói về vấn đề ấy!
Bồ-tát Di-lặc bạch:
– Dạ, bạch Thế Tôn, chúng con nguyện muốn được nghe!
– Thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan-nhã, khi cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời trong lúc đi, đứng, ngồi, nằm nên quán sát tỉ mỉ: “Thân hữu lậu này có ba mươi bảy thứ bất tịnh uế tạp, là thứ không đáng yêu và là thứ không bền chắc”.
Nên quán thân này cũng như đồ gốm, bên ngoài dùng màu sắc sặc sỡ như vàng bạc bảy báu tô điểm khéo đẹp, nhưng bên trong đầy phẩn uế, mọi thứ bất tịnh, rồi hai vai gánh đi, ai trông thấy cũng đều sinh lòng ưa thích, mà không biết trong đồ ấy đựng đầy thứ bất tịnh. Có sáu con rắn đen ở bên trong đồ ấy, một con cựa quậy thì đồ liền vỡ nát, sự độc hại, hôi nhơ tóe ra, không ai chịu nổi được. Người thế gian trang sức tô điểm thân mình, như đồ gốm sặc sỡ đựng những thứ bất tịnh kia. Ba món: tham, sân, si là tâm bệnh, ba bệnh; bệnh phong hàn, hoàng nhiệt, đàm ấm là thân bệnh. Trong ngoài sáu bệnh hay làm hại thân tâm, như sáu con rắn ở trong đồ nhơ; mỗi một con rắn cựa quậy, đồ liền vỡ nát, thời mỗi một bệnh phát ra, thân liền vô thường, Thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở chốn thanh vắng quán sát thân này gọi là Quán tướng Bất tịnh thứ nhất.
Trọn ngày đêm, Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình nhơ nhớp chẳng sạch, cũng như thân loài chó chết. Sao vậy? Vì thân kia cũng từ thứ bất tịnh nơi cha mẹ làm duyên sinh ra.
Bồ-tát xuất gia lại quán sát thân mình như tổ kiến là nơi yên ở của nhiều kiến trong đó, một hôm có một con voi trắng đi đến bên tổ, lấy mình cọ vào tổ, tổ kiến liền vỡ ra. Thiện nam, tổ ấy là thân ngũ uẩn, voi trắng là sứ giả của Diễm-ma-la, thân hướng về đời sau như voi trắng phá tổ kiến.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình mà nghĩ rằng: “Nay thân này của ta, từ đầu đến chân, da, thịt xương, tủy cùng hòa hợp nhau làm thành thân mình cũng như cây chuối ở trong không có thực.” Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình không có sức mạnh, da thịt mỏng che phủ, như vữa tô trát tường, ức vạn lông tóc như cỏ mọc trên đất, chút gió nhẹ ra vào lỗ chân lông. Như thế, ai là người có trí tuệ lại ưa thích thân này? Vì từng sát-na, sát-na, sự suy bại luôn luôn nối tiếp chuyển biến!
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như nuôi rắn độc mà chuốc lấy hại. Nay ta tuy đem thức ăn uống quần áo giúp đỡ nuôi lớn thân này mà nó không biết ân, cuối cùng lại làm cho mình phải đọa vào đường ác.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình ví như kẻ thù oán giả làm bạn thân, rình lúc thuận tiện, đem thuốc độc làm cho mạng căn kia chết. Thân ta như thế, vốn không phải chân thực, quyết đi đến chỗ vô thường, nên bậc Thánh không hề yêu quý.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như bọt nước, tuy coi đẹp đẽ như sắc ngọc lưu ly, nhưng trong sát-na, nhân duyên khởi, diệt không thường, vì nó là hữu vi, nên từng niệm niệm không ở lâu được.
Bồ-tát xuất gia quán thân mình như thành Càn- thát-bà, tuy rằng hiện ra tướng trạng mà không thực có. Nay thân ta cũng như thế.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình cũng như ảnh tượng. Thân ta cũng thế, tuy có nhưng chẳng phải thực.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình ví như giặc oán cường thịnh của nước ngoài. Nay thân ta cũng như thế, giặc oán phiền não xâm lược thiện căn của ta.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như ngôi nhà hư dột, tuy cố gắng sửa sang lại, nhưng quyết sẽ hỏng nát. Thân ta cũng như thế, tuy cố gắng yêu mến nó, nhớ nghĩ đến nó, nhưng nó quyết sẽ vô thường.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như ở gần nước oán địch, nhân dân thành ấp thường mang lòng sợ hãi. Nay thân ta cũng như thế, trong lòng từng niệm niệm sợ giặc oán vô thường.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như rất nhiều củi bị lửa đốt cháy, mà lửa dữ ấy chưa từng biết đủ. Thân ta cũng thế, lấy lửa tham ái, đốt củi năm dục, tâm tham cầu càng tăng trưởng thêm cũng như thế.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như con mới đẻ, mẹ hiền thương xót luôn luôn gắng công săn sóc, gìn giữ. Thân ta cũng thế, nếu không gìn giữ, thân tâm bị bệnh, tức không thể tu chứng được.
Bồ-tát xuất gia lại quán “bản tánh tự thân bất tịnh”. Ví như có người chán ngán và lo sợ màu than, mới đặt mọi phương tiện, lấy nước gột tẩy, qua nhiều thời gian màu đen vẫn như cũ và cho đến khi màu than hết, hoàn toàn cũng không được ích gì. Thân ta cũng thế, là thân hữu lậu bất tịnh, giả sử lấy nước biển cho đến hết đời vị lai mà tẩy cũng vô ích và cũng lại như thế thôi.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình như dầu tưới củi, lấy lửa đốt cháy, lại gặp gió lớn, thế mạnh không thể dập tắt được. Thân này cũng thế, là đống củi năm uẩn tưới dầu tham ái, phóng lửa giận dữ, sức gió ngu si không thể ngừng được.
Bồ-tát xuất gia lại quán thân mình cũng như ác tật, vì nó là chỗ ở của bốn trăm lẻ bốn bệnh, cũng như ruột già, là chỗ ở của tám vạn bốn ngàn con trùng; là chốn vô thường, vì hơi thở ra không trở vào được, tức là vô thường; cũng như “Phi tình thần thức” dễ thoát vì đồng như ngói đá; cũng như nước sông, trước sau mỗi sát-na, không tạm ngừng nghỉ; cũng như ép dầu, đối với tất cả mọi sự, đều phải chịu đựng khổ nhọc. Thân này như không có chỗ nương tựa, cũng như con trẻ mất cha mẹ. Thân này như không có người cứu hộ, cũng như con ễnh ương bị rắn nuốt. Thân này như huyệt không đáy, vì tâm, tâm sở pháp không thể biết được. Thân này thường không biết đủ, vì đối với năm món dục lạc, tâm không biết chán. Thân này thường không được tự tại, vì bị đoạn kiến, thường kiến ràng buộc. Thân này không biết sinh sự thẹn hổ, vì tuy nhờ họ hàng nuôi nấng, nhưng vẫn vứt bỏ sự sống của mình. Thân này như thây chết, vì đối với ngày đêm tiếp nối đi gần đến chỗ diệt hoại. Thân này chỉ để chịu mọi khổ, vì đối với tất cả mọi chỗ không có gì là sự vui chân thực. Thân này là chỗ nương tựa của khổ, vì tất cả mọi khổ đều dựa vào thân mà có. Thân này như xóm làng trống vắng, vì trong thân này không có chủ tể. Thân này rốt ráo là vắng lặng tịch tĩnh, vì do tánh “Biến kế sở chấp” tạo dựng, vẽ càn ra. Thân này như tiếng vang trong hang, đều là hư vọng hiển hiện. Thân này cũng như thuyền buồm, nếu không có Thuyền sư liền bị trôi giạt. Và thân này cũng như xe lớn vận tải của báu. Sao vậy? Vì nhờ ngồi trên xe Đại thừa mà đến được cõi Bồ- đề vậy.
Thiện nam, Bồ-tát xuất gia ngày đêm quán sát, cần mến tiếc thân này, vì còn muốn làm cho chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, đến bờ Niết-bàn.
Khi Đức Thế Tôn nói pháp ấy rồi, Ngài bảo Đại Bồ-tát Di Lặc:
– Thiện nam, tu hạnh như thế, là chỗ quán pháp chủ yếu của người Phật tử xuất gia. Nếu có Phật tử nào phát tâm Bồ-đề vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở nơi A-lan-nhã, tu tập ba mươi bảy phép quán như thế, lại dạy người ta cùng tu tập pháp quan trọng ấy, cùng giảng giải, viết chép, thọ trì, đọc tụng, xa lìa tất cả sự chấp ngã, ngã sở, dứt hẳn sự tham đắm năm dục lạc ở đời, thì sẽ chóng thành tựu đầy đủ được tín tâm bất hoại, cầu Đại Bồ-đề, không tiếc thân mạng, huống chi là đối với các ngọc báu hiện có của thế gian. Như thế thì thân hiện tại quyết thành tựu rốt ráo tất cả Trí ấn Kim cang của Như Lai, đối với đạo Vô thượng quyết không thoái chuyển; sáu lục, muôn hạnh chóng được viên mãn, chóng thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc đó, trong pháp hội, tám vạn bốn ngàn Bồ- tát mới phát tâm, quá chán thế gian, đạt được sức nhẫn lớn lao, đối với đạo Vô thượng không còn thoái chuyển. Trăm ngàn Bà-la-môn phát tâm Bồ- đề, thành tựu đầy đủ tín căn, được bất thoái chuyển. Ba vạn sáu ngàn thiện nam, thiện nữ xa lìa trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
❑
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Đức Thế Tôn ân cần khen ngợi sự tu hành của Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, lại không khen ngợi sự tu hành của Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời Đức Thế Tôn ở núi Linh thứu vì các Bồ-tát nói rộng pháp mầu, mà nói lời này: “Bồ-tát, hoặc có khi ở nhà dâm nữ, hoặc thân cận với người đồ tể để chỉ dạy sự lợi ích vui vẻ cho họ, dùng vô số phương tiện đem lại lợi cho chúng sinh, vì họ nói diệu pháp, khiến họ nhập Phật đạo”. Ngày nay Đức Thế Tôn vì các vị mới phát tâm mà nói diệu pháp, Ngài lại không nói như thế. Song, chúng con luôn luôn thân dự trước Phật, được nghe pháp sâu xa, không có gì ngờ vực, nhưng kính xin Đức Như Lai vì những người cầu Phật đạo mai sau, mà diễn nói cho những chân lý sâu xa mầu nhiệm, khiến hạnh Bồ-tát của họ không bị thoái chuyển.
Khi ấy, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:
– Thiện nam, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cầu đạo Bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: Một là tại gia. Hai là xuất gia. Bồ-tát tại gia vì nhằm giáo hóa dẫn dắt, nên các nơi chốn như phòng dâm, hàng thịt đều được thân cận. Bồ-tát xuất gia thì không như thế.
Tuy nhiên, Bồ-tát ấy đều có chín bậc: Ba bậc thượng căn đều ở nơi A-lan-nhã, không gián đoạn sự tinh tấn làm lợi ích cho chúng sinh. Các Bồ-tát trung căn và hạ căn tùy chỗ nào hợp thì ở, nơi chốn không nhất định, hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở nơi làng xóm, tùy duyên tạo lợi ích, an ổn cho chúng sinh. Nẻo hành hóa như thế, ông nên quán sát!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia tu tập Phật đạo, đã được pháp vô lậu chân thực, thời tùy duyên dốc làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Nếu có Phật tử chưa được chân trí, ở nơi Lan-nhã, cần nên thân cận chư Phật, Bồ-tát và nếu gặp được bậc chân thiện tri thức, thời đối với hạnh Bồ-tát quyết không thoái chuyển. Do nhân duyên ấy các Phật tử cần nên dốc lòng cầu gặp một Đức Phật và một vị Bồ- tát.
Thiện nam, như thế gọi là pháp xuất thế cốt yếu, các ông đều nên nhất tâm tu học!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia chán bỏ thế gian, ở nơi A-lan-nhã biết dùng công lực thành tựu viên mãn tám vạn bốn ngàn hạnh Ba-la-mật và chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì người bỏ danh lợi vào ở trong rừng núi, đối với thân mạng mình cũng như của cải không còn tham tiếc gì nữa, vĩnh viễn không lệ thuộc vào nó, thời tự nhiên đầy đủ dễ dàng ba thứ Ba-la-mật-đa.
Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất gia không chứa cất của báu, vậy nhờ nhân duyên gì mà Bồ-tát ấy làm viên mãn được Bố thí ba-la-mật?
Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:
– Thiện nam, ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất gia vào trong xóm làng khất thực, những món ăn xin được, trước tiên nên đem phần nhỏ cho chúng sinh, sau nữa lại đem phần còn thừa cho những chúng sinh nào muốn, tức được gọi là Bố thí ba-la-mật. Đem thân mạng mình cúng dường Tam bảo, đem đầu, mắt, tủy, óc bố thí cho người lại xin, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Vì người cầu đạo nói pháp xuất thế, khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ- đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Bố thí ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, tu mười hai hạnh Đầu-đà, nếu khi đi bộ nên nhìn kỹ xuống đất cách chừng hai khuỷu tay, để không làm tổn hại chúng sinh, tức được gọi là Trì giới ba-la-mật. Kiên trì giới cấm, không tiếc thân mạng, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Vì người cầu đạo xuất thế, thuyết pháp giáo hóa, khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ- tát xuất gia thành tựu được Trì giới ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, diệt sự giận dữ, đạt được Từ tâm tam-muội và cũng không hủy nhục tất cả chúng sinh, tức được tên gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật. Nếu vì một người nói một câu pháp, khiến họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Nhẫn nhục ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia vì muốn khiến chúng sinh được thành Phật nên tu hạnh Tinh tấn: Chưa được thành Phật, phước đức, trí tuệ kém cỏi, nhưng không tham yên vui, không tạo mọi tội, đối với những hạnh khổ hạnh của chư Bồ-tát xưa, sinh tâm rất mừng, cung kính, tôn ngưỡng, luôn luôn không lúc nào thôi, do nhân duyên ấy, nên gọi là Tinh tấn ba-la-mật. Bỏ thân mạng như nhổ nước bọt, trong tất cả thời chưa từng biếng nhác, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Gặp người có duyên, nói đạo tối thượng, khiến họ hướng tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Do tâm tinh tấn, mười hạnh như thế, đời quá khứ không bị thoái chuyển, đời hiện tại được bền vững, đời vị lai chóng được viên mãn. Này thiện nam, thế gọi là Đại Bồ-tát xuất gia thành tựu được Tinh tấn ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, tu tập Chánh định, vì giữ cho pháp lành không tan mất, thể nhập các môn giải thoát, dứt hẳn biên kiến, hiển hiện thần thông, hóa độ chúng sinh, khiến họ được Chánh trí, dứt được gốc phiền não, chứng nhập chân pháp giới, ngộ đạo như thực và sẽ tới Bồ-đề; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Thiền định ba-la-mật. Muốn làm cho chúng sinh như mình không khác, nghĩa là đều được đầy đủ phép điều trị chúng sinh, không bỏ Chánh định, không tiếc thân mạng, tu chánh định ấy tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Vì các chúng sinh nói pháp sâu xa, khiến họ hướng tới đạo Vô thượng Bồ-đề, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu Thiền định ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi thanh vắng tịch tĩnh, thân cận cúng dường chư Phật, Bồ- tát, những bậc đạt Nhất thiết trí, thường thích nghe những pháp sâu xa vi diệu, tâm sinh ngưỡng mộ tôn kính luôn luôn, không hề biết chán, chưa từng biết đủ; lại hay phân biệt rành chân lý Nhị đế dứt trừ hai chướng, thông suốt năm minh, nói pháp cốt yếu, giải trừ mối nghi; do nhân duyên ấy nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Vì cầu nửa bài kệ mà hủy bỏ thân mạng, không sợ mọi khổ, quyết chí cầu đạo Bồ-đề, tức thành tựu được Thân cận ba-la-mật. Ở trong đại hội vì người nói pháp, đối với những nghĩa sâu xa nhiệm mầu không hề tiếc giấu, khiến người phát khởi tâm Đại Bồ-đề, đối với hạnh Bồ- tát đạt được Bất thoái chuyển, thường hay quán sát thân ta, Lan-nhã, tâm Bồ-đề, Pháp thân chân thực: bốn thứ ấy không có sai khác; vì quán diệu lý như thế, như thế tức gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, đó gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Bát- nhã ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi thanh vắng tịch tĩnh, thường hay tu tập Phương tiện thắng trí ba-la-mật-đa. Dùng Tha tâm trí hiểu rõ ý muốn, phiền não, tâm hành sai biệt của chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc đều làm cho họ lành mạnh, được thần thông Tam-muội diệu dụng tự tại, phát bi nguyện lớn, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh, các pháp của chư Phật đều thông suốt cả vì nhân duyên ấy, tức được tên gọi là Phương tiện thiện xảo ba- la-mật-đa. Vì nhằm đem lại lợi ích cho các chúng sinh, đối với thân mạng và của cải đều không hề tham tiếc, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật-đa. Vì các chúng sinh oán, thân đều bình đẳng, nói pháp vi diệu, làm cho họ chứng nhập được Phật trí, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật-đa. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Phương tiện thiện xảo ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia vào trong rừng núi, vì các chúng sinh nên thường tu tập Nguyện ba-la-mật. Tâm các vị ấy luôn luôn quán sát chân tánh của các pháp, chẳng phải “có”, chẳng phải “không” mà là diệu lý Trung đạo; đối với việc thế tục đều phân biện rõ ràng và cũng vì nhằm hóa độ chúng sinh nên luôn luôn tu về từ bi; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Nguyện ba-la-mật. Đem bốn lời thệ nguyện rộng lớn nhiếp thọ chúng sinh, cho đến dù bỏ thân mạng vẫn không làm hoại mất bi nguyện ấy, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Nói pháp vi diệu, biện tài vô ngại, nếu có người nào lắng nghe diệu pháp ấy thì rốt ráo không bị thoái chuyển, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, đó gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Nguyện ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở A-lan-nhã dùng năng lực của Chánh trí, hiểu rõ về tâm hạnh thiện, ác, thanh tịnh, không thanh tịnh của chúng sinh, vì chúng sinh nói pháp tương ứng, khiến họ chứng nhập nghĩa sâu xa mầu nhiệm của Đại thừa, an trụ nơi cứu cánh Niết-bàn; do nhân duyên ấy nên gọi là Lực ba-la-mật. Dùng mắt Chánh trí soi thấy năm uẩn vắng lặng tịch tĩnh, có thể bỏ thân mạng nhằm làm lợi ích cho chúng sinh, tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Dùng năng lực của diệu trí hóa độ người tà kiến, khiến họ dứt bỏ nghiệp ác sinh tử luân hồi, hướng về nẻo Niết-bàn cứu cánh thường lạc, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Lực ba-la-mật-đa.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở A-lan-nhã, đối với tất cả các pháp biết rõ thiện hay ác, xa lìa tà kiến, nhiếp thọ chánh pháp, không chán sinh tử, không thích Niết-bàn, tức được gọi là Trí ba-la- mật. Không yêu thân mình, luôn luôn thương xót chúng sinh; đối với thân mạng và của cải thường tu hạnh đại xả tức được gọi là Thân cận ba-la-mật. Dùng trí tuệ vi diệu vì các chúng sinh nói pháp Nhất thừa, khiến họ chứng nhập đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; do nhân duyên ấy, tức được gọi là Chân thực ba-la-mật. Thiện nam, thế gọi là Bồ-tát xuất gia thành tựu được Trí ba-la-mật- đa.
Này thiện nam, những Ba-la-mật-đa ấy, do nghĩa gì mà Ta lại nói nó phát sinh ra tám vạn bốn ngàn sự sai khác? Các ông nên biết, vì những người nhiều tham mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa; vì những người nhiều sân mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật- đa; vì những người nhiều si mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa; vì những người đẳng phần mà phân biệt, diễn nói ra hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa. Thiện nam, đối với những số hai ngàn một trăm Ba-la-mật-đa ấy làm căn bản, rồi chuyển gấp hơn lên, thành tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật-đa. Những pháp như thế, đều là hạnh lợi tha.
Thiện nam, nếu có chúng sinh, căn tánh khó nhiếp phục, nghe pháp ấy rồi mà tâm chưa điều phục được, liền vì họ tuyên thuyết tám vạn bốn ngàn Tam-muội môn. Diệu pháp như thế đều là hạnh tự lợi! Nếu có chúng sinh tánh khí khó nhiếp phục, nghe pháp ấy rồi, mà tâm chưa điều phục được, liền vì họ tuyên thuyết tám vạn bốn ngàn Đà- la-ni môn. Diệu pháp như thế đều là hạnh lợi tha. Thiện nam, Ta vì dốc điều phục tất cả chúng sinh nên nói ra pháp như thế và đem vô số phương tiện thiện xảo, thị hiện mọi tướng, giáo hóa chúng sinh. Thiện nam, vì nghĩa ấy nên tất cả trời, người đều gọi Như Lai là Đạo Sư.
Thiện nam, chư Phật Thế Tôn trong hiện tại và vị lai đều tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật môn, tám vạn bốn ngàn Tam-muội môn, tám vạn bốn ngàn Đà-la-ni môn, dứt hẳn tám vạn bốn ngàn phiền não chướng vi tế, tám vạn bốn ngàn sở tri chướng vi tế và đều tới gốc cây Bồ-đề nơi Lan-nhã, ngồi tòa Kim cang, nhập định Kim cang, hàng phục tất cả thiên ma oán thù, chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ý nghĩa ấy Ngài nói lời kệ:
Đại Pháp vương vượt qua ba cõi
Hiện ra đời hóa độ chúng sinh
Các Bồ-tát số nhiều vô lượng
Vào Phật môn trí tuệ cam lộ.
Di-lặc đắc đạo trong nhiều kiếp
Dùng tâm Đại bi mà thưa hỏi.
Lành thay, Pháp vương tử Vô Cấu!
Trí tuệ dốc hỏi Chân Phật thừa.
Ta đem biện tài vô úy nói
Giảng pháp Đại thừa, hướng giác ngộ.
Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ!
Chuyển đến đời sau điều nên trao.
Mười phương thế giới có thể không
Những đạo xuất thế không thể dứt!
Muốn cầu đạo xuất thế giải thoát
Không ngoài ba căn, chín phẩm loại.
Ba phẩm Thượng căn tại Lan-nhã
Trung, Hạ tùy duyên ở thế gian.
Chỗ cầu đạo quả không sai khác
Đồng nói về Phật tánh chân như.
Bậc Đại sĩ chứng đắc Vô lậu
Tùy nghi ứng hiện cứu quần sinh.
Mở bày pháp môn có, không bất nhị
Lợi người, lợi mình chẳng lúc dừng.
Người Phật tử chưa chứng vô lậu
Nên tinh cần tu học ba môn
Đem căn lành dâng cho tất cả
Chỉ một lòng hằng niệm Hồng danh.
Nguyện con thường thấy Phật, Bồ tát
Thân tướng công đức rất trang nghiêm
Nếu thường được nghe tiếng mưa pháp
Tất cả thấm nhuần tâm chẳng thoái.
Dù thân thường ở chốn địa ngục
Cũng vẫn thân cận Đại Từ Tôn,
Dù thân thường ở chốn luân hồi
Cũng vẫn được nghe pháp vi diệu.
Do nhân duyên ấy, các Phật tử
Buộc tâm thường niệm “Thiên Nhân Sư”.
Nếu có Phật tử tu Thánh đạo
Phát khởi tâm Vô thượng Bồ-đề
Chán đời ở tại A-lan-nhã
Cũng được gọi là tu ba “Độ”.
Bố thí trước khi ăn mỗi ngày
Và đem Pháp bảo cho chúng sinh
“Tam luân” thanh tịnh là “Bố thí”
Vì nhân tu ấy, đức viên mãn
Nên biết chứng được Ba-la-mật
Chỉ do tâm tịnh, không do vật.
Nếu dùng tâm nhiễm cho ngọc quý
Không bằng tâm tịnh thí chút phần.
Cho của tức được “Bố thí độ”
Ba-la-mật ấy chẳng hai, ba.
Hay cho thân mạng và vợ con
Như thế gọi là “Thân cận độ”.
Thiện nam, tín nữ đến cầu pháp
Vì đó nói hết kinh Đại thừa
Khiến cho phát khởi tâm Vô thượng
Mới gọi “Chân thực ba-la-mật”.
Từ bi, tịnh tín đủ thẹn hổ
Nhiếp thọ chúng sinh lìa tham chấp
Nguyện thành Như Lai Vô Thượng Trí
Cho của, cho pháp là Sơ độ.
Giữ bền Tam tụ giới Bồ-tát
Khai phát Bồ-đề, lìa sinh tử
Ủng hộ Phật pháp ở thế gian
Hối sự lầm phạm “Chân trì giới”.
Dẹp tâm sân giận, quán từ bi
Nên nghĩ nhân xưa trừ oán hại
Không tiếc thân mạng cứu chúng sinh
Đó là “Nhẫn nhục ba-la-mật”.
Làm hạnh khó làm không tạm bỏ
Ba tăng-kỳ kiếp thường tăng tiến
Không cùng nhơ nhiễm, thường luyện tâm
Vì độ chúng sinh cầu giải thoát.
Vào ra chánh định được tự tại
Biến hóa thần thông dạo mười phương
Dứt nhân phiền não cho chúng sinh
Tu Tam-ma-địa cầu giải thoát.
Nếu muốn thành tựu chân trí tuệ
Thân cận Bồ-tát và Như Lai
Thích nghe diệu lý môn xuất thế
Tu đạt ba minh, dứt hai chướng.
Biết tâm chúng sinh thường sai biệt
Tùy bệnh cho thuốc khiến họ uống
Từ bi thiện xảo hợp căn cơ
Phương tiện lợi sinh độ hữu tình.
Quán chân cú nghĩa tất cả pháp
Không chấp giữa, bên, lìa “có, không”
Tịnh trí không ngừng ngộ chân như
Lợi mình, lợi người khắp pháp giới.
Trí lực hiểu rõ tánh chúng sinh
Vì đó nói các pháp tương ứng,
Trí lực thể nhập tâm chúng sinh
Khiến dứt gốc luân hồi sinh tử,
Trí lực phân biệt pháp trắng đen
Tùy nên lấy, bỏ đều hiểu thấu.
Sinh tử, Niết-bàn vốn bình đẳng
Thành tựu chúng sinh lìa phân biệt.
Mười hạnh thù thắng trên như thế
Nhiếp vào số tám vạn bốn ngàn
Tùy theo phẩm loại thắng pháp môn
Mới là Bồ-tát Ba-la-mật.
Tám vạn bốn ngàn Tam-ma-địa
Diệt tâm tán loạn cho chúng sinh.
Tám vạn bốn ngàn môn Tổng trì
Trừ diệt hoặc chướng, tan ma chúng.
Năng lực phương tiện Đấng Pháp Vương,
Ba thứ thắng pháp độ chúng sinh
Lưới “giáo” bủa giăng biển sinh tử
Đặt trời, người lên chốn an lạc.
Khi Đức Thế Tôn nói pháp ấy, tám vạn bốn ngàn Thiên tử cõi trời Đao-lợi, dứt được các chướng trong ba cõi, chứng Hoan hỷ địa. Vô số trăm ngàn Thiên tử trong sáu cõi trời Dục ngộ Vô sinh nhẫn, được Đà-la-ni. Mười sáu đại Quốc vương lãnh hội được pháp Đà-la-ni, vô lượng tứ chúng lãnh hội hạnh Bồ-tát hoặc đạt được địa Bất thoái, hoặc được Tam-muội môn, hoặc được Đà- la-ni, hoặc được đại thần thông, hoặc có Bồ-tát chứng được hai, ba địa cho đến mười địa, vui mừng hớn hở. Vô lượng trăm ngàn các trời, người… phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không bị thoái chuyển. Tám ngàn trời, người xa lìa trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói ở nơi A-lan- nhã, công đức thành tựu sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công đức gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin Đức Thế Tôn vì chúng con mà giải thuyết cho.
Lúc đó, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Di Lặc:
Này thiện nam, cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở nơi A-lan-nhã, cầu Vô thượng đạo được. Một đức ấy là gì? Là “quán tất cả căn nguyên phiền não, tức là tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tâm người ấy bị nhiễm đắm, là người ấy không biết căn bản phiền não, không biết nguyên nhân của năm cảnh từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể an trụ ổn định nơi A-lan-nhã được. Do nhân duyên ấy, tất cả Đại Bồ-tát thích ở nơi tịch tĩnh, cầu đạo Vô thượng. Nếu khi cảnh của năm dục hiện ra trước mắt, nên quán sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời vô thỉ đến ngày nay, luân hồi trong sáu cõi, không có kỳ nào ra được là nơi vọng tâm sinh ra mê hoặc, điên đảo, đối với cảnh của năm dục, tham ái nhiễm đắm”. Bồ-tát như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã. Nếu có người hỏi: “Chúng sinh nào ở đời mai sau sẽ được thành Phật?”. Nên chỉ người ấy trong đời sau, thoát khỏi khổ trong ba cõi, phá bốn ma quân chóng thành Bồ-đề, chứng nhập trí tuệ Phật, tất cả thế gian: Thiên, Long tám bộ… đều nên cúng dường! Nếu các thiện nam và thiện nữ nào lấy tâm thanh tịnh cúng dường Phật tử ở nơi A-lan-nhã như thế, sẽ được vô lượng vô biên phước đức. Như có người đem mọi thứ châu báu cúng dường mẹ hiền được công đức thế nào, thời công đức kia cũng như thế không khác. Sao vậy? Người ấy sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển xe Chánh pháp, độ chúng trời, người, nối dòng Tam bảo khiến không đoạn tuyệt và sẽ là chỗ quy y cho chúng sinh.
Lại nữa thiện nam, có hai pháp ràng buộc người tu hành, làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan- nhã được: Một là yêu thích tà pháp chấp đoạn. Hai là yêu thích của báu, đồ vui.
Lại nữa thiện nam, có hai hạng người không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là hạng người đầy dẫy sự kiêu mạn. Hai là hạng người ghét giáo pháp Đại thừa.
Lại nữa thiện nam, có hai loại người không nên ở nơi A-lan-nhã: Một là hạng người tà kiến, không tin lời Phật. Hai là hạng người tự thân phá giới, coi thường việc giữ giới. Những người như thế không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo Vô thượng.
Lại nữa thiện nam, người đủ bốn đức cần nên an trụ nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là đa văn: tóm giữ những điều nghe được không quên. Hai là phân minh: hiểu biết rành rẽ nghĩa vi diệu. Ba là chánh niệm: luôn luôn không phóng dật. Bốn là tùy thuận: như giáo lý mà thực hành. Thiện nam tử, nếu có Phật tử thành tựu được bốn thắng đức như thế, cần nên an trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ- tát, cầu đạo Vô thượng.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia lại có bốn đức, trang nghiêm tự thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn? Một là đại Từ. Hai là đại Bi. Ba là đại Hỷ. Bốn là đại Xả. Thiện nam, bốn pháp như thế, sinh ra tất cả phước đức, trí tuệ, đem lại lợi ích an vui cho vô lượng chúng sinh, chóng chứng pháp Đại Bồ-đề Vô thượng.
Lại nữa, Bồ-tát xuất gia lại có bốn đức, giữ giới thanh tịnh, đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là thường trụ trong bốn Vô cấu tánh. Hai là thường tu tập mười hai hạnh Đầu-đà. Ba là xa lìa tại gia, xuất gia. Bốn là bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Thiện nam, tất cả Bồ-tát y vào bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh tử, được Đại Bồ-đề.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia lại có bốn pháp tóm thâu tất cả điều thiện. Những gì là bốn? Một là giữ giới cấm thanh tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là nhập các pháp chánh định, đầy đủ các trí tuệ. Ba là được sáu phép thần thông, tu cả chủng trí. Bốn là phương tiện thiện xảo, lại không phóng dật. Thiện nam, bốn pháp như thế, Bồ-tát trong ba đời cùng tu học, Phật tử các ông cũng nên tu tập, sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô thượng.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia đủ bốn pháp, đối với hạnh Bồ-tát được bất thoái chuyển. Những gì là bốn? Một là bố thí. Hai là ái ngữ. Ba là lợi hành. Bốn là đồng sự. Thiện nam, bốn hạnh như thế, là con đường đi tới Bồ-đề, là căn bản lợi sinh, tất cả Bồ-tát đều nên tu học.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia lại đủ bốn đức ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những gì là bốn? Một là quán sát tự thân không có bản tánh, để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý Vô ngã. Hai là quán sát tha thân cũng không có bản tánh, để đối với kẻ oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là thân tâm an lạc, để tâm và tâm sở pháp không còn phân biệt. Bốn là được bình đẳng trí, để sinh tử và Niết-bàn không có sự sai khác. Thiện nam, bốn pháp như thế, tất cả Bồ-tát nên tu tập, Phật tử các ông cũng nên tu tập, sẽ đi tới đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ- đề.
Lại nữa thiện nam, tất cả Bồ-tát lại có bốn nguyện làm cho chúng sinh được thành tựu đầy đủ và giữ gìn ngôi Tam bảo trải qua nhiều kiếp quyết không thoái chuyển. Những gì là bốn? Một là thề độ tất cả chúng sinh. Hai là thề đoạn tất cả phiền não. Ba là thề học tất cả pháp môn. Bốn là thề chứng tất cả Phật quả. Thiện nam, bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập, vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia lại có bốn pháp ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh tịnh. Những gì là bốn? Một là yêu thích “không tánh”, vì “không lý” hiển lộ. Hai là được sự không sợ hãi, vì chứng được chánh định. Ba là đối với các chúng sinh khởi ra bi nguyện lớn. Bốn là đối với hai thứ vô ngã, không có tâm chán ngán. Thiện nam, bốn pháp như thế là điều thiết yếu của tất cả Bồ-tát chứng nhập Thánh quả, vì nương vào bốn pháp ấy dứt bỏ được hai chướng!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia lại có bốn pháp, ở nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang nghiêm tự thân. Những gì là bốn? Một là bỏ hẳn ngã kiến. Hai là bỏ ngã sở kiến. Ba là lìa đoạn kiến, thường kiến. Bốn là hiểu biết sâu rộng về mười hai nhân duyên. Thiện nam, bốn pháp như thế, trừ được sự hủy phạm giới cấm, giữ gìn tịnh giới, trang nghiêm tự thân.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, lại quán bốn pháp, giữ được giới cấm tu thêm diệu hạnh, cầu đạt Phật trí. Những gì là bốn? Một là quán sát năm uẩn sinh diệt. Hai là quán sát mười hai nhân duyên như làng xóm trống vắng. Ba là quán sát mười tám giới tánh đồng pháp giới. Bốn là đối với pháp Tục đế không bỏ, không tham. Thiện nam, bốn pháp như thế, tất cả Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật tử ở nơi A-lan-nhã nên một lòng tu tập, cầu đạo Vô thượng!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, đầy đủ bốn pháp trì giới thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những gì là bốn? Một là thành tựu quán Bất kiến thân. Hai là thành tựu quán Bất kiến ngữ. Ba là thành tựu quán Bất kiến ý. Bốn là xa lìa sáu mươi hai kiến, thành tựu quán Nhất thiết trí. Thiện nam tử, nếu có Phật tử thành tựu bốn pháp thanh tịnh như thế, hiện thân chứng được Chánh tánh ly sinh, cho đến chóng được Vô thượng Bồ- đề. Do nhân duyên ấy, Phật tử các ông quán bốn pháp môn như thế, dứt bốn nẻo ác, chứng bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị lai, độ các chúng sinh, khiến chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã đầy đủ tám pháp Tam-muội thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những gì là tám?
1. Ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
2. Xa lìa lời nói thêu dệt, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
3. Xa lìa năm dục, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
4. Điều phục thân tâm, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
5. Ăn uống biết đủ, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
6. Xa lìa sự mong cầu, điều xấu ác, thực hiện Tam-muội thanh tịnh.
7. Xa lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham ái, thực hành Tam-muội thanh tịnh.
8. Vì chúng nói pháp không cầu lợi dưỡng, thực hành Tam-muội thanh tịnh.
Thiện nam, tám pháp thanh tịnh Tam-muội này có thể sinh ra trăm ngàn các Tam-muội khác, Phật tử các ông cần nên tu tập sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, lại có tám thứ Trí tuệ thanh tịnh. Những gì là tám?
1. Năm uẩn thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.
2. Mười hai xứ thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.
3. Mười tám giới thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.
4. Hai mươi hai căn phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.
5. Ba giải thoát môn phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.
6. Hay diệt tất cả phiền não phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.
7. Hay diệt tùy phiền não phương tiện thiện xảo, được trí tuệ thanh tịnh.
8. Hay diệt sáu mươi hai kiến phương tiện thiện xảo, đạt trí tuệ thanh tịnh.
Thiện nam, tám thứ trí tuệ thanh tịnh như thế,
Bồ-tát các ông nên cần tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, lại có tám thứ thần thông thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những gì là tám?
1. Đối với mọi sắc pháp không bị chướng ngại, được Thiên nhãn phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
2. Đối với cảnh thanh trần, không bị chướng ngại, được Thiên nhĩ phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
3. Đối với các tâm, tâm sở pháp của chúng sinh không bị chướng ngại, được Tha tâm trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
4. Ghi nhớ nơi sinh, nơi chết trong quá khứ không bị chướng ngại, được Túc trụ trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
5. Đi khắp vô số cõi Phật trong mười phương không bị chướng ngại, được Thần cảnh trí, phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
6. Biết được lậu nghiệp của chúng sinh hết hay chưa hết không bị chướng ngại, được Lậu tận trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
7. Diệt được tất cả phiền não không bị chướng ngại được Vô lậu trí phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
8. Hiện thấy tất cả thiện căn nơi tự thân hồi hướng chúng sinh phương tiện thiện xảo, thần thông thanh tịnh.
Thiện nam tử, tám thứ thần thông thanh tịnh như thế, các Bồ-tát trong mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia ở nơi A-lan- nhã, hiện thân được tám thứ thanh tịnh. Những gì là tám?
1. Thân nghiệp thanh tịnh.
2. Ngữ nghiệp thanh tịnh.
3. Ý nghiệp thanh tịnh.
4. Chánh tánh thanh tịnh.
5. Chánh niệm thanh tịnh.
6. Đầu-đà thanh tịnh.
7. Lìa siểm nịnh thanh tịnh.
8. Một niệm không quên tâm Bồ-đề thanh tịnh.
Thiện nam, nếu có Phật tử ở nơi A-lan-nhã, đầy đủ tám thứ thanh tịnh như thế, hiện thân thành tựu vô biên thiện căn, không bị thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác!
Lại nữa thiện nam, Bồ-tát xuất gia có tám thứ đa văn thanh tịnh, trang nghiêm tự thân. Những gì là tám?
1. Tôn kính Hòa thượng, A-xà-lê, được đa văn thanh tịnh.
2. Xa lìa kiêu mạn, sinh tâm nhúng nhường, được đa văn thanh tịnh.
3. Tinh tấn dũng mãnh, được đa văn thanh tịnh.
4. An trụ chánh niệm, được đa văn thanh tịnh.
5. Vì người cầu pháp, nói ý nghĩa sâu rộng, đạt đa văn thanh tịnh.
6. Không ưa bảo hộ mình, chê người đạt đa văn thanh tịnh.
7. Thường hay quán sát tất cả thiện pháp, đạt đa văn thanh tịnh.
8. Lắng nghe Chánh pháp, y như chỗ nói mà tu hành, đạt đa văn thanh tịnh.
Thiện nam, tám thứ đa văn thanh tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều nên tu tập, sẽ chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề!
Khi Đức Thế Tôn nói những hạnh của Bồ-tát như thế rồi, Ngài bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:
– Thiện nam, sau khi Ta nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm, lúc Chánh pháp sắp diệt, vô lượng chúng sinh chán, bỏ thế gian, dốc ngưỡng mộ Như Lai, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vào nơi A-lan-nhã, vì đạo Vô thượng, tu tập những hạnh nguyện Bồ-tát như thế, đối với đạo Đại Bồ- đề được bất thoái chuyển. Vô lượng chúng sinh phát tâm như thế, khi mạng chung được sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông, Di-lặc Bồ- tát vô lượng phước trí trang nghiêm, siêu việt sinh tử, chứng Bất thoái chuyển. Và, ở đời sau, nơi dưới cây Bồ-đề của pháp hội Đại bảo Long hoa đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Trong lúc Đức Thế Tôn nói pháp ấy, có hai vạn năm ngàn vị Bồ-tát mới phát tâm, đối với hạnh Bồ- đề sắp bị thoái chuyển, nghe được pháp như thế, liền phát tâm kiên cố, vượt qua ngôi Thập tín đến ngôi thứ sáu trong Thập trụ. Ba vạn tám ngàn Bà- la-môn tịnh hạnh dứt hẳn tà kiến, được đại pháp nhẫn và Đà-la-ni. Bảy vạn sáu ngàn người đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
❑
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi liền từ tòa đứng dậy sửa lại y phục, trịch áo vai phải, gối phải sát đất, cung kính chắp tay bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật đã nói cho nhóm ông Trưởng giả Diệu Đức năm trăm người rằng: “Ta vì các ông diễn bày pháp môn tâm địa vi diệu”. Nay vô lượng vô biên đại chúng trời, người trong đạo tràng này đều sinh tâm khao khát mong muốn được lãnh hội, con vì tất cả những người ấy thưa hỏi Như Lai: Thế nào là “Tâm”? Thế nào là “Địa”? Kính xin Đức Thế Tôn đem tâm đại từ dứt mọi duyên chấp, tâm đại bi không còn chướng ngại, vì các chúng sinh phân biệt diễn nói cho những người chưa khỏi khổ được khỏi khổ, những người chưa an vui được an vui, những người chưa phát tâm được phát tâm, những người chưa chứng quả được chứng quả, đồng nơi Nhất đạo mà được Niết-bàn.
Khi ấy, Đức Thế Tôn đem Đại diệu trí ấn thanh tịnh quyết định thắng nghĩa mà Ngài đạt được trong sự tu các phước đức, trí tuệ ở vô lượng kiếp, ấn chứng cho Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và nói:
– Quý hóa thay! Quý hóa thay! Nay ông thực là Phật mẫu trong ba đời! Tất cả Như Lai ở nơi tu hành, ông từng dẫn đạo các Ngài khi mới phát tín tâm; bởi nhân duyên ấy, các bậc thành Chánh giác trong mười phương quốc độ, đều lấy Văn-thù-sư- lợi làm mẹ. Song, nay thân ông, vì nguyện lực xưa mà hiện ra hình tướng Bồ-tát, thỉnh vấn Như Lai về pháp cao siêu không thể nghĩ bàn được. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Ta vì khắp tất cả mà phân biệt, giảng nói về vấn đề ấy.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch:
– Dạ, bạch Thế Tôn, chúng con thích được nghe.
Lúc đó, Đức Thế Tôn thành tựu tốt đẹp “Tối thắng trụ trì bình đẳng tánh trí” của tất cả Như Lai cùng mọi thứ công đức vi diệu hiếm có; Ngài đã khéo thu đạt được “Quyết định thắng pháp Đại thừa trí ấn” của tất cả chư Phật; đã khéo viên chứng được “Kim cang bí mật thù thắng diệu trí” của tất cả Như Lai; đã khéo an trụ nơi Vô ngại đại bi, tự nhiên cứu độ nhiếp phục chúng sinh trong mười phương; đã khéo làm viên mãn “Diệu quán sát trí”, không quán mà như quán, không nói mà như nói.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi, bậc Đại Thánh vô cấu mẹ của chư Phật:
– Đại thiện nam, pháp ấy là “Tối thắng bí mật tâm địa pháp môn” của Như Lai trong mười phương. Pháp ấy là pháp môn “Đốn ngộ” của tất cả phàm phu vào cảnh giới Như Lai. Pháp ấy là “Đường chánh chân thực” của tất cả Bồ-tát đi tới cõi Đại Bồ-đề. Pháp ấy là “Cung báu vi diệu” của chư Phật trong ba đời, tự an hưởng pháp lạc. Pháp ấy là “Kho báu vô tận” trong tất cả lợi ích cho chúng sinh. Pháp ấy hay dẫn dắt các chúng Bồ-tát đến nơi Trí tuệ “Sắc cứu cánh tự tại”. Pháp ấy là bậc Đạo sư chân thực, hay dẫn dắt hậu thân Bồ-tát đi tới cội Bồ-đề. Pháp ấy như ngọc Ma-ni, hóa những của cải của thế gian, xuất thế gian làm cho chúng sinh luôn mãn nguyện. Pháp ấy sinh ra nguồn gốc công đức của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời. Pháp ấy hay làm tiêu tan các nghiệp quả ác của tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm cho tất cả chúng sinh sự ấn chứng về việc nguyện cầu. Pháp ấy hay độ cho tất cả chúng sinh bị sinh tử hiểm nạn. Pháp ấy hay làm ngừng sóng cồn biển khổ cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay cứu vớt cấp thiết mọi hoạn nạn cho chúng sinh khổ não. Pháp ấy làm khô kiệt biển lão, bệnh, tử cho tất cả chúng sinh. Pháp ấy hay làm phát sinh chủng tử nhân duyên của chư Phật. Pháp ấy là đuốc trí tuệ lớn soi sáng cho chúng sinh trong đêm dài sinh tử. Pháp ấy là áo giáp, mũ trụ để phá tan binh chúng của bốn thứ ma. Pháp ấy tức là cờ xí chiến thắng của đạo quân dũng mãnh. Pháp ấy tức là xe pháp vô thượng của tất cả chư Phật. Pháp ấy tức là cờ pháp tối thắng. Pháp ấy tức là gióng trống đại pháp. Pháp ấy tức là thổi loa pháp lớn. Pháp ấy tức là đại Sư tử vương. Pháp ấy tức là tiếng gầm của đại Sư tử. Pháp ấy cũng như bậc Đại Thánh vương trong nước khéo làm việc cai trị chân chánh, nếu thuận theo sự giáo hóa ấy thời được an lạc lớn, còn nếu trái lại thì liền bị tru diệt.
Thiện nam, trong ba cõi lấy “tâm” làm chủ. Người quán được tâm, thì được giải thoát rốt ráo; người không quán được tâm, thì ở mãi trong nẻo trói buộc chìm đắm. Tâm của chúng sinh cũng như đại địa. Mọi thứ thóc lúa hoa quả đều từ đại địa sinh ra. Như vậy tâm pháp sinh ra thiện ác thế gian và xuất thế gian năm cõi, các bậc Hữu học, bậc Vô học, bậc Độc giác, bậc Bồ-tát, cũng như đối với chư Như Lai. Do nhân duyên ấy, nên ba cõi do tâm, “tâm” được gọi là “địa”. Tất cả phàm phu thân cận bạn lành, nghe pháp tâm địa, như lý quán sát, theo như lời nói tu hành, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người làm, khen ngợi khuyên gắng, đón mừng, an ủi, những người như thế, sẽ dứt được ba chướng, mau trọn muôn hạnh và chóng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, như Phật nói: Chỉ đem tâm pháp làm chủ ba cõi, tâm pháp vốn là Không, không nhiễm bụi nhơ, tại sao tâm pháp lại nhiễm tham, sân, si? Đối với pháp trong ba đời, cái gì cho là tâm? Tâm quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không an trụ, nội tánh của các pháp tìm không thể được, ngoại tướng của các pháp tìm không thể được, trung gian của các pháp cũng đều tìm không thể được; bản lai tâm pháp không có hình tướng, bản lai tâm pháp không có trụ xứ, tất cả Như Lai hãy còn không thấy tâm, huống là người khác được thấy tâm pháp? Tất cả các pháp từ vọng tưởng sinh, vậy do nhân duyên gì, hôm nay Thế Tôn vì đại chúng nói “Tam giới duy tâm”? Xin Phật thương xót, như thực giảng giải cho!
Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
– Đúng như thế, đúng như thế! Thiện nam, như ông hỏi Ta “Bản tánh của tâm, tâm sở pháp” là vắng lặng tịch tĩnh, nay Ta sẽ nêu các thí dụ để chứng minh nghĩa ấy.
Thiện nam, tâm như huyễn pháp, do biến kế chấp sinh, các món tâm tưởng, thọ nhận, vui, khổ. Tâm như dòng nước chảy, niệm niệm sinh diệt, đối với đời trước, sau không hề dừng. Tâm như gió lớn, trong khoảng sát-na đi qua mọi hướng. Tâm như đèn lửa, mọi duyên hòa hợp sinh ra. Tâm như chớp sáng, chỉ khoảng chốc lát, chứ không dừng lâu. Tâm như hư không, như bị khách trần phiền não ngăn che. Tâm như con hầu, con vượn, nhảy nhót trên cây năm dục không lúc nào dừng. Tâm như họa sĩ, vẽ ra mọi hình sắc thế gian. Tâm như kẻ tôi tớ, bị các phiền não sai khiến. Tâm như kẻ độc hành, không có người thứ hai. Tâm như quốc vương, khởi ra mọi sự, đạt được tự tại. Tâm như oán gia, khiến cho tự thân chịu bao khổ não. Tâm như bụi trần, bám nhơ tự thân, sinh ra nhớp nhúa. Tâm như ảnh tượng, đối với pháp vô thường chấp là thường. Tâm như huyễn mộng, đối với pháp vô ngã, thì chấp làm ngã. Tâm như Dạ-xoa, ăn mất mọi pháp công đức. Tâm như con nhặng xanh, ham đồ dơ xấu. Tâm như kẻ sát nhân, hay hại thân mạng. Tâm như kẻ đối địch, thường rình mò lầm lỗi. Tâm như giặc trộm, trộm mất các công đức. Tâm như trống lớn, thúc giục sự chiến đấu. Tâm như con thiêu thân, ưa thích màu sắc đèn sáng. Tâm như con hươu đồng, chạy theo tiếng gọi giả. Tâm như đàn lợn, thích đồ tạp uế. Tâm như đàn ong, gom góp mùi mật ngọt. Tâm như voi say mê theo voi cái.
Này thiện nam, như thế nói về tâm, tâm sở pháp không trong, không ngoài, cũng không trung gian; đối với mọi pháp tìm không thể được, quá khứ, vị lai, hiện tại cũng không thể tìm được, siêu việt ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng sinh thường ôm ấp sự nhiễm đắm, nhiễm đắm từ vọng duyên khởi mà duyên không có tự tánh, nên tánh của tâm là Không. Như thế tánh Không là không sinh, không diệt, không đến, không đi, không một, không khác, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, vốn không có nơi sinh, cũng không có nơi diệt, cũng chẳng phải xa lìa và chẳng phải xa lìa.
Những tâm như thế không khác với vô vi và thể của vô vi không khác với những tâm ấy. Thể của tâm pháp vốn không thể nói được, thời cái chẳng phải tâm pháp cũng không thể nói được. Sao vậy? Nếu vô vi là tâm, tức là đoạn kiến; nếu lìa tâm pháp tức là thường kiến. Lìa hẳn hai tướng, không chấp trước hai bên, ngộ được như thế gọi là “Chân đế” và người ngộ được Chân đế ấy là Hiền thánh. Tất cả Hiền thánh tánh vốn vắng lặng tịch tĩnh, trong pháp vô vi, giới không có trì, phạm, cũng không có lớn, nhỏ, không có tâm vương, tâm sở pháp và không có khổ, không có vui. Như thế, tự tánh của pháp giới là vô cấu, không có tướng sai biệt thượng, trung, hạ. Sao vậy? Vì tánh của pháp vô vi ấy là bình đẳng, như nước mọi dòng sông chảy vào trong biển đều đồng một vị, không có tướng sai biệt. Tánh vô cấu ấy là không gì sánh bằng, xa lìa mọi nẻo ngã và ngã sở. Tánh vô cấu ấy chẳng phải thực, chẳng phải hư. Tánh vô cấu ấy là Đệ nhất nghĩa, vì nó không có tướng hết và diệt, thể nó vốn không sinh. Tánh vô cấu ấy, thường trụ bất biến, vì là tối thắng Niết-bàn gồm đủ ngã, lạc, thanh tịnh. Tánh vô cấu ấy, xa lìa tất cả sự bình đẳng và bất bình đẳng, vì thể của nó là không khác.
Nếu có các vị thiện nam, thiện nữ nào muốn cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cần nên một lòng tu tập quán pháp Tâm địa như thế!
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ý nghĩa ấy, Ngài nói bài kệ:
Mẹ Phật ba đời-Diệu Cát Tường
Xin hỏi Như Lai: “Tâm địa pháp”
Ta nay trong đại hội chúng này
Nêu bày quán hạnh môn thành Phật.
Pháp này khó gặp hơn Ưu-đàm
Tất cả thế gian nên ngưỡng vọng.
Chư Phật mười phương chứng Đại giác
Đều từ pháp này mà tu hành.
Ta là Vô Thượng, Điều Ngự Sư,
Chuyển xe Chánh pháp khắp thế giới
Hóa độ vô lượng các chúng sinh
Nên biết, do ngộ Tâm địa quán.
Tất cả chúng sinh nghe pháp này,
Mừng tới Bồ-đề được thọ ký
Những người hữu duyên được thọ ký
Tu quán môn này sẽ thành Phật.
Chư Phật tự hưởng pháp lạc lớn
Ở cung báu diệu Tâm địa quán
Nhận chức Bồ-tát, ngộ Vô sinh
Quán Tâm địa môn khắp pháp giới.
Hậu thân Bồ-tát ngồi cội “giác”
Nhập quán hạnh này chứng Bồ-đề.
Pháp ấy hay mưa “bảy Thánh tài”
Như Ma-ni, mãn nguyện chúng sinh.
Pháp ấy gọi là Phật mẫu xưa
Xuất sinh ba thân Phật ba đời.
Pháp ấy gọi là giáp Kim cang
Chống với bốn chúng các ma quân.
Pháp ấy hay làm thuyền bè lớn
Khiến qua giữa dòng đến chốn báu.
Pháp ấy là trống pháp tối thắng.
Pháp ấy là cờ pháp nêu cao.
Pháp ấy là loa pháp Kim cang,
Pháp ấy là đuốc pháp soi đàng.
Pháp ấy cũng như đại Thánh chủ
Thưởng công, phạt tội, thuận nhân tâm.
Pháp ấy cũng như nước ngấm ruộng
Sinh thành, nuôi lớn theo thời tiết.
Ta dùng ví dụ tỏ nghĩa “không”
Thế biết ba cõi chỉ một tâm.
Tâm có đại lực sinh thế giới
Tự tại hay làm chủ biến hóa.
Tưởng ác, tâm thiện lại tạo tập
Quá, hiện, vị lai, nhân sinh tử
Nương tựa vọng nghiệp tạo thế gian
Ái, phi ái quả thường tương tục.
Tâm như nước chảy chẳng chút dừng
Tâm như gió bay qua các nước.
Cũng như hầu, vượn bám cành đùa
Cũng như sự giả, nương giả thành,
Như không, chim bay không chướng ngại
Như làng xóm vắng người qua lại.
Tâm pháp như thế vốn chẳng có
Phàm phu mê chấp cho là có
Nếu hay quán “Tâm thể tánh không”
Hoặc chướng không sinh, liền giải thoát.
Khi ấy, Đức Như Lai đối với các chúng sinh khởi tâm đại bi, cũng như cha mẹ nhớ đến con một, vì muốn diệt trừ sức mạnh nơi tà kiến của thế gian, đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, nên Ngài tuyên thuyết thần chú quán tâm rằng: “Úm, thất tha, ba la để, phệ đạn, ca lư nhị”.
Đức Như Lai nói chân ngôn ấy rồi, bảo Đại Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi:
– Thần chú ấy gồm đủ uy lực lớn, nếu có thiện nam, thiện nữ nào khi trì chú ấy, giơ tay trong sạch lên, mười ngón tay trái và phải bắt tréo lại với nhau, rồi lấy tay phải áp lên tay trái, nắm chặt lấy nhau như dây buộc, gọi là Kim cang phược ấn. Thành ấn ấy rồi, đọc tụng chân ngôn trước trọn đủ một lượt, thì hơn cả đọc tụng mười hai bộ kinh và có được công đức không thể hạn lượng, cho đến quả vị Bồ-đề không bị thoái chuyển.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã đạt được Quán đỉnh bảo quan của tất cả Như Lai, vượt qua ba cõi đã viên mãn được Đà-la-ni tự tại, đã chứng đắc viên mãn được Tam-ma-địa tự tại, thành tựu được tốt đẹp trí Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí và hay làm mọi sự sai biệt đối với hữu tình.
Khi Đức Thế Tôn vì các chúng sinh tuyên thuyết về pháp môn Quán tâm thâm diệu rồi, Ngài bảo Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
– Đại thiện nam, Ta đã vì chúng sinh nói về tâm địa rồi, nay Ta lại sẽ nói về Phát Bồ-đề tâm đại Đà- la-ni, để cho các chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mau viên mãn được diệu quả.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Như Lai nói “Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không trụ, tất cả tâm pháp có trong ba đời, bản tánh của nó đều không”, vậy tâm Bồ-đề kia, nói vào cái gì mà gọi là phát? Lành thay, Thế Tôn! Xin Ngài vì tất cả mà thuyết giảng, để cho tất cả dứt bỏ được các màn lưới ngờ vực, đạt tới nơi chốn Bồ-đề!
Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
Thiện nam, từ trong các tâm pháp khởi ra mọi tà kiến; vì muốn dứt trừ sáu mươi hai kiến, cùng mọi thứ tà kiến khác, nên Ta nói tâm, tâm sở pháp là không; như thế là các kiến chấp kia không còn chỗ nương tựa nữa, ví như rừng rú xanh tốt, um tùm, sư tử, voi trắng, hùm, beo, thú dữ… lẫn vào trong ấy nhả độc hại người, làm cho vắng bặt dấu vết người đi. Lúc đó, có bậc trí giả đem lửa đốt rừng; vì rừng trống, các thứ dữ không còn sót lại. Tâm không, kiến diệt, cũng như thế!
Lại nữa thiện nam, do nhân duyên gì mà lập ra nghĩa “không” ấy? Vì muốn diệt phiền não từ vọng tâm sinh ra mà nói là “không”. Thiện nam, nếu chấp “lý không” là cứu cánh, thời ngay “không tánh” cũng không; chấp “không” thành bệnh, cũng nên trừ bỏ. Sao vậy? Nếu chấp nghĩa “không” là cứu cánh, các pháp đều không, không nhân, không quả, thời có khác gì với ngoại đạo Lộ-già-da-đà? Thiện nam, như thuốc A-già-đà chữa khỏi các bệnh, nếu người có bệnh uống thuốc ấy thì quyết khỏi; bệnh đã khỏi rồi, thuốc cũng theo bệnh mà bỏ và nếu không có bệnh mà uống thuốc, thuốc trở lại thành bệnh. Thiện nam, trước đặt ra thuốc “không” là để trừ bệnh “hữu”; chấp “hữu” thành bệnh, thời chấp “không” cũng thế. Ai là bậc trí giả lại uống thuốc để mang bệnh? Thiện nam, nếu khởi ra hữu kiến, còn hơn khởi ra “không kiến”; có thuốc “không” trị bệnh “hữu”, chứ không có thuốc nào trị bệnh “không” cả.
Thiện nam, do nhân duyên ấy, thuốc “không” trừ tà kiến rồi, tâm tự giác ngộ, phát ra Bồ-đề, tâm giác ngộ ấy tức là tâm Bồ-đề, chứ không có hai tướng. Thiện nam, tâm tự giác ngộ có bốn nghĩa.
Những gì là bốn? Các phàm phu có hai tâm, chư Phật, Bồ-tát có hai tâm.
Thiện nam, hành tướng hai tâm của phàm phu thế nào? Một là từ nhãn thức cho đến ý thức, cùng duyên tự cảnh gọi là Tự ngộ tâm. Hai là lìa tâm, tâm sở pháp của năm căn hòa hợp duyên cảnh gọi là Tự ngộ tâm. Thiện nam, hai tâm như thế hay phát Bồ-đề!
Thiện nam, hành tướng hai tâm của Thánh hiền thế nào? Một là quán Chân thực lý trí. Hai là quán Nhất thiết cảnh trí. Thiện nam, bốn nghĩa như thế là Tự ngộ tâm.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, tâm không có hình tướng cũng không có chỗ trụ, người phàm phu tu hành khi mới bắt đầu phát tâm phải y vào những chỗ nào và quán những tướng gì?
Đức Phật bảo:
Thiện nam, chỗ quán về tâm tướng Bồ-đề của phàm phu, phải quán như là vành trăng tròn đầy, trong sạch sáng ngời đứng yên trên ngực. Nếu muốn mau được Bất thoái chuyển, thì ở nơi A-lan- nhã và nhà vắng lặng cần phải giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, kết Kim cang phược ấn của Như Lai như trước, nhắm mắt quán sát mặt trăng sáng giữa ngực và suy nghĩ rằng: “Vành trăng tròn đầy này to lớn năm mươi do-tuần, sáng tươi thanh tịnh, trong ngoài lắng suốt, không chút bụi nhơ và vô cùng trong mát”. Mặt trăng tức là tâm, tâm tức là mặt trăng, vết trần không nhiễm thời vọng tưởng không sinh, khiến cho chúng sinh thân tâm thanh tịnh, tâm Đại Bồ-đề bền vững không thoái. Kết tay ấn ấy và quán sát trì niệm chương cú vi diệu Đại Bồ-đề tâm là Thanh tịnh chân ngôn của tất cả Bồ- tát khi mới bắt đầu phát tâm: “Úm, bồ địa, thất đa, mưu chí ba, đà tà, nhị.”
Đà-la-ni này có đủ uy đức lớn khiến cho người tu hành không bị thoái chuyển. Tất cả Bồ-tát trong quá khứ, vị lai, hiện tại khi tại Nhân địa mới phát tâm, đều chuyên trì niệm chân ngôn này, mà vào được cảnh giới Bất thoái và mau viên thành Chánh giác.
Thiện nam, khi người tu hành kia giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, đều không dao động gì cả, chỉ để tâm vào vành trăng, quán sát thành thục, thế gọi là Bồ-tát quán Bồ-đề tâm thành Phật Tam-muội. Nếu có phàm phu tu pháp quán ấy, trước kia gây ra năm tội nghịch, bốn tội trọng, mười điều ác và bất tín, thì các tội đó đều tiêu diệt hết và liền được năm thứ pháp môn Tam-ma-địa. Những gì là năm? Một là Sát-na tam-muội. Hai là Vi trần tam-muội. Ba là Bạch lũ tam-muội. Bốn là Khởi phục tam- muội. Năm là An trụ tam-muội.
Thế nào gọi là Sát-na tam-muội? Nghĩa là chỉ tạm thời an trụ tưởng niệm vào mặt trăng tròn đầy, ví như con khỉ, thân bị buộc, xa không đi được, gần không dừng được, nhưng chỉ khi đói khát quá, nó mới dừng nghỉ được chốc lát mà thôi. Phàm phu quán tâm cũng như thế mới được Tam-muội trong tạm thời chốc lát, nên gọi là Sát-na.
Thế nào gọi là Vi trần tam-muội? Nghĩa là đối với Tam-muội đã tương ứng được ít phần, ví như có người tự mình thường ăn đồ đắng, chưa từng ăn đồ ngọt bao giờ, trong một thời kia được nếm một chút mật vào lưỡi, người ấy vui mừng quá, càng sinh hăng hái mong cầu được nhiều mật. Người tu hành ấy, qua nhiều kiếp ăn những vị đắng mà nay được cho vị Tam-muội ngon ngọt, tương ứng được ít phần nên gọi Vi trần.
Thế nào gọi là Bạch lũ tam-muội? Nghĩa là, người phàm phu từ thời vô thỉ cho đến hết thuở vị lai, nay được định này, ví như nhuộm vải đen, trong màu quá đen thấy được một sợi chỉ trắng. Người tu hành ấy trong nhiều đêm sinh tử tăm tối, nay mới được Tam-muội trắng sạch, nên gọi đấy là Bạch lũ (chỉ trắng).
Thế nào gọi là Khởi phục tam-muội? Nghĩa là, người tu hành quán tâm chưa thành thục, hoặc khéo thành lập hay chưa khéo thành lập, Tam-muội như thế còn là cao, thấp nên gọi là Khởi phục.
Thế nào gọi là An trụ tam-muội? Nghĩa là tu bốn định trước, tâm được an trụ và khéo giữ gìn được, không nhiễm vào các trần, như người trong mùa hè đi qua cõi sa mạc xa xăm, chịu đủ mọi nóng bức độc hại, tâm khát thiếu quá, hầu như không chịu nổi được nữa, bỗng gặp được dòng nước ngọt của núi Tuyết, như vị Tô-đà cõi trời, mau khỏi được nhiệt não, thân tâm được thư thái, nên định ấy gọi là An trụ. Nhập định ấy rồi, xa lìa hoặc chướng, nảy mầm Vô thượng Bồ-đề, chóng lên công đức Thập địa của Bồ-tát.
Bấy giờ, trong pháp hội, vô lượng trời, người được lãnh hội đại Đà-la-ni sâu rộng không thể nghĩ bàn này, là mẹ đẻ của Bồ-tát, có chín vạn tám ngàn Bồ-tát chứng được bậc Hoan hỷ, vô lượng chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn an trụ trong pháp giới thanh tịnh, ba đời bình đẳng, không trước không sau, bất động ngưng lặng, miên mật xuyên suốt; ánh sáng đại trí soi khắp thế giới; phương tiện thiện xảo biến hiện thần thông, hóa độ mười phương quốc độ, đâu cũng cùng khắp.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Văn-thù- sư-lợi:
– Người tu hành Du-già quán vành trăng rồi, nên quán ba pháp đại bí mật. Những gì là ba? Một là Tâm bí mật. Hai là Ngữ bí mạt. Ba là Thân bí mật.
Thế nào gọi là pháp Tâm bí mật? Người tu hành Du-già, quán trong mặt trăng tròn đầy sinh ra cái chầy Ngũ cổ Kim cang sắc vàng, ánh sáng rực rỡ như vàng chảy, phóng ra vô số ánh sáng trắng lớn; lấy sự ấy mà quán sát gọi là Tâm bí mật.
Thế nào gọi là Ngôn ngữ bí mật? “Úm, địa thất đa, bà nhĩ la”. Đà-la-ni ấy đủ uy lực lớn, là chân ngôn của tất cả Bồ-tát thành Phật, thế nên gọi là Ngữ ngôn bí mật.
Thế nào gọi là pháp Thân bí mật? Ở trong đạo tràng, giữ thân ngay ngắn, chánh niệm, tay kết ấn Dẫn đạo Vô thượng Bồ-đề tối đệ nhất, đặt giữa tâm nguyệt luân nơi ngực.
Thiện nam, Ta sẽ vì ông nói về tướng dáng của ấn ấy: Trước tiên lấy hai ngón tay cái của hai bàn tay đều đặt vào trong mỗi lòng bàn tay và lấy ngón trỏ, ngón giữa cùng ngón áp út của hai bàn tay nắm chặt lấy ngón tay cái, làm thành nắm tay, tức là Kiên lao Kim cang quyền ấn. Sau đó, không đổi nắm tay, chỉ duỗi một ngón trỏ của bàn tay trái, thẳng lên hư không, rồi đem nắm tay trái ấy đặt lên trái tim; ngón út của nắm tay phải nắm chặt lấy một đốt ngón trỏ của nắm tay trái, sau lại lấy đầu ngón trỏ của nắm tay phải, chỉ vào một đốt ngón tay cái của nắm tay phải và cũng để trước trái tim, thế gọi là Dẫn đạo Vô thượng Bồ-đề đệ nhất trí ấn, cũng gọi là Năng diệt vô minh hắc ám đại quang minh ấn. Do kết ấn ấy, có sức gia trì nên được chư Phật mười phương xoa đầu hành giả và trao cho Đại Bồ- đề thắng quyết định ký, là Đại Tỳ-lô-giá-na Như Lai vô thượng phước tụ đại diệu trí ấn.
Khi hành giả kết ấn ấy rồi liền thực hiện quán này: “Tất cả chúng sinh cùng kết ấn này, trì niệm chân ngôn, mười phương thế giới không bị quả khổ trong ba đường ác và tám nạn, mà cùng được hưởng pháp lạc thanh tịnh thứ nhất. Nay trên đầu ta có mũ Đại bảo, trong mũ Thiên quan ấy năm Đức Phật Như Lai ngồi kết già phu, ta là Tỳ-lô-giá- na Như Lai, đầy đủ viên mãn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp phóng ra hào quang sáng lớn soi khắp mười phương đem lại lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh”. Quán sát như thế gọi là Nhập Tỳ-lô-giá-na Như Lai tối thắng tam-muội.
Ví như có người ngộ được quán môn Ca-lư-la vi diệu, tự thực hành quán này: “Thân ta tức là thân chim Kim sí đầu đàn, tâm, ý, ngữ ngôn cũng lại như thế”. Dùng sức quán ấy làm tiêu tan thuốc độc, tất cả ác độc không làm hại được. Người phàm phu tu hành cũng như thế, ngồi kiểu ngồi hàng phục, thân không dao động, tay kết trí ấn, mật niệm chân ngôn, nhập vào quán này, diệt được ba độc, tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước trí và nguyện ở thế gian hay xuất thế gian mau được viên mãn; tám vạn bốn ngàn các phiền não chướng không hiện khởi được, hằng hà sa sở tri chướng cực trọng dần dần tiêu diệt, Vô lậu đại trí Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật viên mãn hiện tiền, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
– Đức Thế Tôn hiếm có! Đấng Thiện Thệ hiếm có! Đức Như Lai ra đời còn hiếm có hơn như hoa Ưu-đàm và giả sử Ngài ra đời và nói ra pháp này cũng khó. Ba pháp bí mật Vô thượng pháp luân của Tâm địa như thế thực là lợi lạc cho tất cả chúng sinh, là đường chánh chân thực để vào Như Lai địa và Bồ-tát địa. Nếu có chúng sinh nào không tiếc thân mạng mà tu hành pháp ấy sẽ chóng chứng được Bồ-đề.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
– Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào muốn tu tập được ba diệu môn bí mật thành Phật, sớm được Thân công đức của Như Lai, được mặc ba mươi hai thứ áo giáp Đại kim cang của Bồ-tát mà Tu diệu quán ấy, thời quyết chứng được Pháp thân thanh tịnh của Như Lai.
Những gì là ba mươi hai thứ áo giáp?
1. Áo đại giáp Thọ khổ: Ở trong vô lượng kiếp vì chúng sinh chịu khổ mà không chán sinh tử.
2. Áo đại giáp Bất xả: Thề độ vô lượng hữu tình cho đến con sâu, con kiến cũng không bỏ.
3. Áo đại giáp Bí mật: Giác ngộ chúng sinh trong giấc mộng dài sinh tử, đặt để họ vào ba pháp bí mật.
4. Áo đại giáp Hộ pháp: Ủng hộ Phật pháp trong tất cả thời cũng như âm vang ứng hợp với tiếng.
5. Áo đại giáp Kim cang: Diệt hẳn sự khởi lên hai kiến “hữu, vô” và tất cả phiền não.
6. Áo đại giáp Năng xả: Dù là đầu, mắt, tủy, óc, vợ, con, ngọc báu… nếu có người lại xin đều xả cả.
7. Áo đại giáp Năng thí: Tất cả vật dụng đem lại an vui mà trong nhà hưởng thọ, quyết không tham đắm, đều đem cho tất cả.
8. Áo đại giáp Năng trì: Hay giữ Tam tụ tịnh giới của Bồ-tát trọn không rời bỏ hạnh Đầu- đà.
9. Áo đại giáp Nhẫn nhục: Mạc áo nhẫn nhục gặp các duyên trái ngược như bị hủy nhục, mạ lỵ, đánh đập… vẫn không báo thù lại.
10. Áo đại giáp Hồi tâm: Giáo hóa những bậc Duyên giác, Thanh văn, khiến họ hướng tâm về Nhất thừa.
11. Áo đại giáp Tinh tấn: Luôn Tinh tấn độ các hữu tình, ví như gió lớn ngày đêm không ngừng.
12. Áo đại giáp Tu hành giải thoát tam-muội: Thân tâm tịch tĩnh, miệng không phạm lỗi.
13. Áo đại giáp Bình đẳng: Làm điều lợi ích cho chúng sinh, coi sinh tử và Niết-bàn không có hai thiên kiến.
14. Áo đại giáp Dữ lạc: Đem tâm đại từ không còn vướng mắc, làm lợi ích an vui cho mọi loài, luôn luôn không chán bỏ.
15. Áo đại giáp Bạt khổ: Đem tâm đại bi vô ngại cứu độ thu nhiếp tất cả làm cho dứt sạch khổ, không có hạn lượng.
16. Áo đại giáp Đại hỷ: Đối với các chúng sinh không hề kết oán, luôn luôn làm việc lợi ích.
17. Áo đại giáp Đại xả: Tuy thực hiện hạnh khổ nhưng không sợ nhọc mệt, luôn luôn không hề thoái chuyển.
18. Áo đại giáp Bất yếm: Chúng sinh có sự đau khổ tìm đến nơi Bồ-tát, Bồ-tát chịu thay khổ cho chúng sinh kia mà không chút chán ngán.
19. Áo đại giáp Giải thoát năng kiến: Sự xem xét, nhận thức rõ ràng như xem quả A-ma- lặc trong bàn tay, như thế là giải thoát được sự thấy.
20. Áo đại giáp Vô trước: Thấy rõ thân năm uẩn như hạng Chiên-đà-la, làm tổn hại việc thiện.
21. Áo đại giáp Yếm xả: Thấy rõ mười hai nhập như xóm làng trống vắng, thường mang lòng sợ hãi.
22. Áo đại giáp Đại trí: Thấy mười tám giới cũng như cảnh huyễn hóa, không có chân thực.
23. Áo đại giáp Chứng chân: Thấy rõ tất cả pháp, đồng trong pháp giới, không còn thấy có mọi tướng sai khác.
24. Áo đại giáp Xuất thế: Che điều xấu ác của người, không giấu lỗi xấu ác của mình, chán bỏ ba cõi.
25. Áo đại giáp Hóa độ: Như bậc Đại y vương, hợp bệnh cho thuốc, Bồ-tát tùy nghi mà diễn hóa.
26. Áo đại giáp Quy nhất: Thấy chân thể của Ba thừa kia vốn không khác, cứu cánh đồng tâm quay về nơi một.
27. Áo đại giáp Độ người: Nối dòng Tam bảo, khiến không đoạn tuyệt, chuyển xe diệu pháp độ người.
28. Áo đại giáp Tu đạo: Phật đối với chúng sinh có ân đức lớn, vì muốn báo ân Phật, nên dốc tu tập Phật đạo.
29. Áo đại giáp Vô cấu: Quán bản tánh của tất cả các pháp là không tịch tĩnh, vắng lặng, không sinh, không diệt, không nhơ.
30. Áo đại giáp Vô ngại: Ngộ pháp nhẫn Vô sinh, được Đà-la-ni, khéo thuyết giảng với biện tài vô ngại.
31. Áo đại giáp Nhất vị: Hóa độ hữu tình rộng khắp khiến họ cũng được ngồi dưới cây Bồ- đề, chứng đắc Phật quả.
32. Áo đại giáp Vô dư: Trong một sát-na tâm tương ứng với Bát-nhã, chứng ngộ đại pháp Vô dư trong ba đời.
Đó gọi là ba mươi hai thứ Kim cang đại giáp của Bồ-tát.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, nếu có các thiện nam, thiện nữ nào thân mặc giáp trụ Kim cang như thế, nên dốc tu tập ba pháp bí mật, trong đời hiện tại đủ phước trí lớn, mau chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Khi ấy, Đại Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát Ma- ha-tát cùng đại chúng nghe Đức Phật nói về ba môn bí mật của tâm địa diệu pháp và ba mươi hai thứ Kim cang giáp trụ, thì tất cả Bồ-tát bậc Hữu học, mỗi vị đều cởi những chuỗi ngọc, áo báu vô giá, cúng dường lên Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng các Thế Tôn trong mười phương mà tán thán Đức Phật:
– Lành thay! Lành thay! Phật Thế Tôn diễn nói về vô biên hạnh nguyện của Bồ-tát, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, bỏ thân phàm phu, chứng nhập Phật địa. Nay chúng con trong hải hội đại chúng này, vì nhằm báo ân Phật, không tiếc thân mạng và vì các chúng sinh nên xin vào khắp các quốc độ, phân biệt diễn nói pháp vi diệu này cùng thọ trì, đọc tụng, chép viết, truyền bá, khiến cho diệu pháp này không bị đoạn tuyệt. Kính xin Đức Như Lai tối tôn rủ lòng hộ niệm!
Bấy giờ, đại hội nghe diệu pháp ấy thảy đều đạt được lợi ích lớn, vô số Bồ-tát không thể kể xiết đều chứng ngộ được ngôi Bất thoái và tất cả trời, người đều được lợi lạc thù thắng; cho đến tất cả hữu tình trong năm cõi cũng dứt bỏ được các trọng chướng, có được vô lượng sự an vui và đều sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và vô số đại chúng trong hải hội:
– Ta ở trong vô lượng ức trăm ngàn đại kiếp, không tiếc thân mạng, đầu mắt, tay chân, máu thịt, xương tủy, cả đến vợ con, đất nước thành quách, tất cả ngọc báu, có ai lại xin, Ta đều đem bố thí, đồng thời tu tập trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chứng được pháp môn Tâm địa quán của Đại thừa này. Nay, Ta đem pháp này phó chúc cho các ông, các ông nên biết kinh rất sâu rộng này, các bậc đạt được Thập lực vô thượng trong mười phương ba đời đều tuyên thuyết. Kinh báu nhiệm mầu tối cực như thế, làm cho hữu tình được mọi sự lợi lạc. Trong tam thiên đại thiên thế giới, quốc độ chư Phật trong mười phương này, có vô biên các loại hữu tình, chúng sinh trong bàng sinh, ngạ quỉ, địa ngục, do nhờ sức uy thần, công đức thù thắng của kinh Đại thừa Tâm Địa Quán này, mà khiến cho họ thoát khỏi các khổ não, được hưởng sự an vui. Diệu lực của kinh và phước đức khó nghĩ bàn như thế, làm cho đất nước sở tại được mọi sự vui thịnh, không có oán địch. Ví như có người được ngọc Như ý để trong nhà, thì có thể sinh ra tất cả vật dụng đem lại an vui kỳ diệu; kinh báu nhiệm mầu này cũng như thế, hay làm cho quốc giới được an lạc vô tận. Cũng như cái trống Mạc-ni trên cõi trời Tam thập tam thiên, hay phát ra trăm ngàn âm thanh, làm cho Thiên chúng ở đấy luôn thọ hưởng sự vui thích lợi lạc; trống pháp của kinh này cũng như thế, hay làm cho quốc giới được an vui tối thắng. Do nhân duyên ấy, đại chúng các ông nên an trụ trong sức nhẫn lớn lao mà lưu thông kinh này!
Khi ấy, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai hiếm có! Đấng Thiện Thệ hiếm có! Nên Ngài mới nói ra kinh Đại thừa Tâm Địa Quán nhiệm mầu sâu rộng này, đem lại lợi ích rộng lớn cho người tu hành Đại thừa. Dạ, bạch Thế Tôn, kinh này thật là sâu nhiệm! Vậy, nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này, cho đến chỉ một bài bốn câu kệ, thời những người như thế được bao nhiêu phước?
Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:
Nếu có thiện nam, thiện nữ nào trong hằng hà sa Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy bảy báu mà họ dùng đem cúng dường chư Phật ở mười phương; họ vì mỗi một Đức Phật tạo lập một tinh xá bằng bảy báu trang nghiêm, đặt để đồ cúng dường Phật và Bồ-tát đủ hằng sa kiếp; các Như Lai kia còn có vô lượng đệ tử Thanh văn, họ cũng đem cúng dường các vị ấy tất cả những đồ cần dùng, như cúng Phật không khác. Các Đức Phật và các vị Thanh văn như thế sau khi nhập Niết-bàn, họ lại xây bảo tháp lớn, cúng dường xá-lợi. Lại có thiện nam, thiện nữ nào tạm nghe và tin, hiểu một bài kệ bốn câu trong kinh Tâm-địa này, phát tâm Bồ-đề, thọ trì, đọc, niệm, giảng giải, viết chép, cho đến hết sức ít là vì một người mà nói cho họ nghe, đem những công đức cúng dường trên kia, so sánh với công đức thu được về việc thuyết kinh này, thời trong mười sáu phần kia cũng không bằng một phần này và cho đến toán số, thí dụ cũng không thể sánh kịp được, huống là người thọ trì, đọc tụng tu tập đầy đủ và rộng rãi vì người mà giảng nói, thời chỗ phước lợi đạt được không thể hạn lượng được. Nếu có nữ nhân phát tâm Bồ-đề, thọ trì, học tập, viết chép, giảng nói kinh Tâm Địa này, thì nữ nhân ấy chỉ phải làm thân nữ lần cuối cùng này thôi, sau đấy không phải chịu thân nữ nữa và không phải đọa vào nẻo ác cùng tám nạn. Và thân trong đời này cảm được mười phước thắng lợi:
1. Thọ mạng tăng thêm.
2. Trừ mọi bệnh não.
3. Diệt trừ nghiệp chướng.
4. Phước đức trí tuệ tăng bội.
5. Không thiếu tiền của.
6. Da dẻ tươi đẹp.
7. Được người yêu kính.
8. Được con hiếu dưỡng.
9. Quyến thuộc hòa mục.
10. Tâm thiện bền vững.
Này Văn-thù-sư-lợi, ở nơi này, nơi khác, nếu ai hoặc đọc tập, hoặc phúng tụng, hoặc giảng nói, hoặc viết chép kinh này thời chỗ để quyển kinh này tức là tháp Phật, tất cả Thiên, Nhân, Phi nhân… nên đem những đồ châu báu quý nhất trong nhân gian, thiên thượng mà cúng dường nơi ấy. Vì sao? Vì nơi để kinh sách này tức là có Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn ở đó. Sao vậy? Vì tất cả Như Lai do tu hành kinh này, bỏ thân phàm phu, chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả Hiền thánh cũng đều từ kinh này mà được giải thoát.
Này Văn-thù-sư-lợi, sau khi Ta nhập Niết-bàn năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, nếu có Pháp sư nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh Tâm Địa này, là kinh đứng đầu trong mọi kinh, thời Pháp sư ấy cùng với Ta không khác. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, tôn trọng vị Pháp sư ấy, tức là cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương ba đời và phước đức được hưởng đều bình đẳng không khác. Thế gọi là “Chân pháp cúng dường Như Lai” và như thế gọi là “hạnh cúng dường” chánh đáng nhất. Vì sao thế? Vì vị Pháp sư ấy ở trong thời không có Phật, vì chúng sinh trong đời ác trược bị tà kiến vây bủa mà diễn nói Tâm Địa Kinh Vương rất sâu rộng này, khiến cho chúng sinh lìa bỏ ác kiến, đi về đạo Bồ- đề cùng truyền bá rộng rãi, làm cho giáo pháp này an trụ lâu bền tại thế gian. Như thế gọi là “Vô tướng hảo Phật”, tất cả hàng trời, người đều nên cúng dường. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào chắp tay cung kính vị Pháp sư ấy, thì Ta thọ ký cho quả vị Vô thượng Đại Bồ-đề và người ấy sẽ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nếu người được nghe kinh Tâm Địa này, vì báo bốn ân, phát tâm Bồ-đề, hoặc tự mình viết, hay mượn người viết, hoặc đọc niệm thông suốt, thì chỗ được phước đức của những người như thế, đem sức trí tuệ của Phật mà lường tính là nhiều hay ít cũng không thể biết được đến đâu là biên giới! Những người ấy là con người thực của chư Phật. Tất cả chư Thiên, Phạm vương, Đế Thích, Tứ đại Thiên vương, năm trăm quyến thuộc Ha-lỵ-để- mẫu, Nễ-la-bạt-đa đại quỷ thần vương, Long thần tám bộ, tất cả các quỷ thần nghe pháp ngày đêm, không rời và sẽ thường ủng hộ. Phật tử như thế luôn tăng trưởng Chánh niệm, cùng Biện tài vô ngại và thường thường giáo hóa chúng sinh, khiến họ vun trồng nhân Phật.
Này Văn-thù-sư-lợi, thiện nam, thiện nữ như thế khi sắp mất, hiện tiền được thấy chư Phật mười phương, ba nghiệp không loạn, bắt đầu có được mười thứ nghiệp thân thanh tịnh. Những gì là mười?
1. Thân không thọ khổ.
2. Con ngươi nơi mắt không lộ.
3. Tay không lay động.
4. Chân không co, duỗi.
5. Tiểu tiện không rỉ ra.
6. Thân thể không toát mồ hôi.
7. Dáng bên ngoài đều bình yên.
8. Nắm tay xoè mở.
9. Nét mặt không đổi.
10. Quay nghiêng dễ dàng.
Do năng lực của kinh mà có những tướng như thế!
Thứ nữa được mười thứ nghiệp ngữ thanh tịnh.
Những gì là mười?
1. Nói ra lời nói nhiệm mầu.
2. Nói ra lời nói dịu dàng.
3. Nói ra lời nói tốt đẹp.
4. Nói ra lời nói thích nghe.
5. Nói ra lời nói tùy thuận.
6. Nói ra lời nói lợi ích.
7. Nói ra lời nói có uy đức.
8. Nói ra lời nói không trái với họ hàng.
9. Nói ra lời nói trời, người đều yêu kính.
10. Nói ra lời khen ngợi lời Phật dạy.
Lời nói thiện như thế, đều do nơi kinh này mà được!
Sau nữa, được mười thứ nghiệp ý thanh tịnh. Những gì là mười?
1. Không sinh giận bực.
2. Không mang lòng kết hận.
3. Không sinh tâm tham lam keo kiệt.
4. Không sinh tâm ghen ghét.
5. Không nói lời lỗi ác.
6. Không sinh tâm oán hận.
7. Không sinh tâm điên đảo.
8. Không tham mọi vật.
9. Lìa bảy thứ khinh mạn.
10. Mong muốn chứng được tất cả Phật pháp, viên mãn các pháp Tam-muội.
Này Văn-thù-sư-lợi, những công đức như thế, đều do từ diệu lực khó nghĩ bàn trong sự thọ trì, đọc tụng, thông suốt, giảng nói, biên chép kinh sách nhiệm mầu này. Kinh Tâm Địa này, trong vô lượng chốn, trong vô lượng thời, có những chúng sinh không thể được nghe, huống chi là được thấy và tu tập đầy đủ! Đại hội các ông nên nhất tâm phụng trì, sẽ chóng bỏ được thân phàm phu, thành tựu Phật đạo.
Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, vô lượng Đại Bồ-tát, Bồ-tát Trí Quang, nhiều vị Bồ- tát mới phát tâm; A-nhã Kiều-trần-như cùng nhiều vị Đại Thanh văn, Thiên, Long tám bộ, chúng Nhân, Phi nhân, tất cả cùng nhất tâm thọ trì lời Phật dạy và đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
❑
[Mục lục kinh Bản Sinh Tâm Địa Quán][1][2.1][2.2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]