Tuyển soạn: Tôn giả Tăng-già-tư-na. Hán dịch: Đời Tiêu Tề, Tam tạng Pháp sư Cầu na-tỳ-địa, người xứ Thiên trúc.
Tôi nghe như thế này:
Một thuở nọ Đức Phật đang trú trong thành Vương xá, tại vườn Thước phong trúc cùng với các đại Tỳ-kheo, Bồ-tát Ma-ha-tát và tám bộ chúng ba vạn sáu ngàn người.
Bấy giờ có năm trăm vị Phạm chí dị học ở trong chúng hội từ chỗ ngồi đồng đứng dậy bạch Phật:
– Bạch Ngài, tôi nghe đạo Phật sâu xa, không đạo nào có thể sánh bằng cho nên đến đây thưa hỏi, xin Ngài giảng cho tôi.
Đức Phật đáp:
– Rất hay!
Vị Phạm chí hỏi:
– Con người có hiện hữu hay không? Đức Phật đáp:
– Có hiện hữu mà cũng không có hiện hữu. Vị Phạm chí hỏi tiếp:
– Như hiện nay có sao lại nói là không? Nếu như nay không có sao lại nói là có?
Đức Phật trả lời:
– Có sinh nên gọi là có, có chết nên nói là không. Vì vậy Ta nói là có hiện hữu và cũng không có hiện hữu.
Lại hỏi:
– Con người từ đâu sinh? Đức Phật đáp:
– Người từ ngũ cốc sinh. Lại hỏi:
– Ngũ cốc từ đâu sinh? Đức Phật đáp:
Ngũ cốc từ bốn đại: Đất, nước, gió, lửa sinh ra.
Lại hỏi:
– Bốn đại: Đất, nước, gió, lửa từ đâu sinh? Đức Phật dạy:
Bốn đại: Đất, nước, gió, lửa từ không mà sinh.
Lại hỏi:
– Không từ đâu mà sinh?
Đức Phật đáp:
– Từ vô sở hữu sinh.
Lại hỏi:
– Vô sở hữu từ đâu sinh?
Đức Phật đáp:
– Từ tự nhiên sinh.
Lại hỏi:
– Tự nhiên từ đâu sinh?
Đức Phật đáp:
– Từ Nê-hoàn sinh.
Lại hỏi:
– Nê-hoàn từ đâu sinh?
Đức Phật đáp:
– Những điều ngươi hỏi hôm nay muốn tìm hiểu sâu đến mức nào nữa? Nê-hoàn là pháp không sinh không diệt.
Vị Phạm chí hỏi:
– Bạch Đức Phật, Ngài đã nhập Nê-hoàn chưa? Đức Phật đáp:
– Ta chưa nhập Nê-hoàn. Vị Phạm chí hỏi:
– Nếu chưa nhập Nê-hoàn, sao Ngài biết được Nê-hoàn là an lạc vĩnh viễn?
Đức Phật nói:
– Nay Ta hỏi ngươi: Chúng sinh trong thiên hạ là khổ hay vui?
Vị Phạm chí thưa:
– Chúng sinh rất khổ.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào gọi là khổ? Phạm chí thưa:
– Tôi thấy chúng sinh khi chết đau khổ khó lòng chịu nổi cho nên biết chết là khổ.
Đức Phật liền dạy:
– Nay ngươi chưa chết mà cũng biết chết là khổ. Ta thấy mười phương chư Phật không sinh, không chết cho nên biết Nê-hoàn là an lạc vĩnh viễn.
Khi đó, tâm ý năm trăm vị Phạm chí đều thông suốt, xin thọ năm giới, chứng quả Tu-đà-hoàn, trở lại chỗ ngồi như cũ.
Đức Phật dạy:
– Các ông lắng nghe cho kỹ. Nay ta sẽ vì các ông rộng nói các thí dụ.
6- CON CHẾT MUỐN AN TÁNG TRONG
8- CHÀNG NHÀ QUÊ VÀO KHO VUA ĂN TRỘM
14- GIẾT NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG ĐỂ TẾ TRỜI
Thuở xưa có một chàng ngốc đến nhà bạn chơi. Người chủ đãi tiệc. Anh ta ăn không vừa miệng, chê không ngon. Người chủ nghe thế bèn bỏ thêm muối vào. Người ngu ăn cơm thấy ngon nên tự nghĩ: “Ngon như vậy là do muối, ít muối mà còn ngon như vậy huống chi dùng nhiều.” Chàng ngốc kia liền lấy muối ăn không, tưởng rằng ăn vào rất ngon nhưng trái lại vì thế mà mang bệnh.
Ví như ngoại đạo nghe rằng: “Giảm bớt ăn uống có thể đạt đạo”, liền nhịn đói suốt bảy ngày hoặc mười lăm ngày, tự hành hạ mình mà không biết việc nhịn đói không lợi ích gì cho việc tu tập. Cũng giống như người ngu kia cho rằng muối ăn ngon nên lấy muối ăn không cho sướng miệng chẳng khác gì.
Thuở xưa có một người ngu sắp có bữa tiệc mời rất đông khách, nên muốn để dành sữa bò cho đủ để đãi khách, bèn nghĩ: “Nay nếu ta mỗi ngày vắt sữa bò cất giữ thì lâu ngày sữa sẽ không ngon hoặc có thể bị hư. Chi bằng ta cứ để sữa chứa đầy trong bụng bò, đợi đến ngày đãi tiệc sẽ vắt lấy ra một thể.” Nghĩ thế rồi, ông bắt bò mẹ đem nhốt riêng biệt. Một tháng sau, đến ngày đãi tiệc, ông mời khách an tọa rồi dắt bò ra để vắt sữa đãi khách, nhưng sữa của con bò kia đã khô cạn. Bấy giờ, quan khách mọi người vừa bực bội vừa tức cười.
Cũng như người muốn tu hạnh bố thí mà cho là: “Đợi đến lúc tôi có thật nhiều tài sản rồi mới bố thí.” Thế nhưng chưa kịp gom góp xong đã bị các nạn lũ lụt, hỏa hoạn, trộm cướp hoặc bị vua quan chiếm đoạt, hoặc bị vô thường lôi kéo chết đi không kịp bố thí. Giống như việc để dành sữa bò đãi khách của người ngu vậy.
Xưa kia có một chàng ngốc đầu không mọc tóc. Bấy giờ có một kẻ dùng gậy đánh lên đầu y hai, ba lần, lần nào cũng bị thương, nhưng chàng ngốc ta mặc nhiên chịu đòn không biết tránh đi. Người hàng xóm thấy thế hỏi:
– Sao anh không tránh đi mà đưa đầu ra hứng đến nỗi vỡ cả đầu như thế?
Chàng ngốc đáp:
– Hạng người như kẻ kia chỉ biết kiêu ngạo, ỷ mình có sức mạnh mà không có trí tuệ, thấy đầu ta không có tóc, ngỡ là hòn đá nên dùng gậy đánh vỡ đầu ta đấy chứ.
Người hàng xóm nói:
– Ông tự bản thân ngu si mà không biết lại cho người kia là ngu. Nếu ông không ngu thì tại sao lại để cho hắn đánh đến vỡ đầu mà không biết tránh.
Các vị Tỳ-kheo cũng vậy. Không biết vâng giữ đầy đủ giới đức, trao dồi trí tuệ, chỉ lo chăm sóc hình tướng, điệu bộ bên ngoài để thâu lợi dưỡng cũng như chàng ngốc kia bị người ta đánh lên đầu không biết tránh đến nổi phải bị thương tích mà còn nói rằng: “Hắn thật là ngu.” Những Tỳ-kheo này cũng thế.
Xưa kia có chàng ngu cưới được người vợ rất đẹp nên rất yêu thương nàng. Nhưng người vợ không chung tình. Sau một thời gian quan hệ vợ chồng chung sống, lòng tà dâm trỗi dậy, nàng muốn bỏ chồng trốn theo người tình. Cô ta bí mật bảo một bà lão:
– Sau khi tôi đi khỏi, bà hãy tìm một thi hài phụ nữ đem đặt trong nhà tôi, rồi bảo với chồng tôi là tôi đã chết.
Bà lão đợi khi người chồng ra khỏi nhà liền đem một xác chết phụ nữ vào nhà anh ta. Người chồng trở về, bà ta liền nói: “Vợ anh chết rồi!”. Người chồng xem qua thi hài liền tin ngay là vợ mình nên làm đám tang, khóc lóc thảm thiết, lấy củi dựng giàn hỏa táng thi hài, cất giữ tro xương bên mình đêm ngày thương nhớ.
Sau một thời gian, người vợ bị người tình nhàm chán, phụ bạc, liền quay về nhà thưa với chồng:
– Tôi chính là vợ chàng. Chàng ngốc liền trả lời:
– Vợ tôi chết đã lâu! Cô là ai mà đến đây nói dối là vợ tôi.
Người vợ nói đến hai ba lần, chàng ta cũng nhất quyết không tin.
Cũng như chàng ngốc kia, kẻ ngoại đạo nghe theo học thuyết sai lầm, tâm sinh mê hoặc, chấp thủ là chân lý, vĩnh viễn không thể sửa đổi được, dù được nghe giáo pháp chân chánh cũng không tin tưởng thọ trì.
Thuở xưa có một người ngu si, đần độn, đi đường rất khát nước, muốn tìm nước uống. Vào lúc trời nóng bức, chàng ta nhìn dợn nắng ngỡ là nước liền chạy tới, thời may gặp một con sông. Anh chàng cứ đứng tần ngần bên sông nhưng không uống. Có người thấy thế hỏi:
– Anh đã khát khô cổ muốn tìm nước uống, nay đã đến chỗ có nước sao không uống?
Chàng ngốc trả lời:
– Nếu anh có thể uống hết nước dưới sông, tôi mới có thể uống hết. Nước sông nhiều như thế không thể nào uống hết nên tôi không uống.
Cũng vậy, những kẻ ngoại đạo chấp chặt lý lẽ của mình, cho là không thể giữ trọn vẹn giới luật trong đạo Phật nên quyết không thọ giới. Do vậy, trong tương lai không được một chút đạo hạnh gì còn bị trôi lăn trong vòng sinh tử. So với chàng ngốc gặp nước không uống nên bị mọi người cười chê trên không khác.
NHÀ
Thuở xưa có một người ngu có bảy đứa con. Một hôm, bỗng có một đứa lăn ra chết. Thấy con chết, chàng ta muốn an táng thi hài con trong nhà còn mình thì bỏ nhà ra đi. Có người hàng xóm thấy vậy liền bảo:
– Hai đường sống chết vốn khác nhau. Anh mau đem thi hài đứa bé ra ngoài chôn cất đàng hoàng. Sao lại để thi hài bé trong nhà, bỏ nhà ra đi như thế?
Nghe người hàng xóm nói, lúc ấy, chàng ta nảy sinh một ý nghĩ ngốc nghếch: “Nếu không được an táng trong nhà, phải đem ra ngoài chôn, ta cần giết thêm một đứa trẻ nữa để gánh hai đầu cho cân.”
Thế rồi, chàng ta liền giết thêm một đứa trẻ nữa, gánh đến nơi xa, hoang vắng chôn. Mọi người nghe chuyện đó đều cười chê thậm tệ, cho là việc quái dị chưa từng có.
Thí như Tỳ-kheo phạm một giới không ăn năn, sám hối, sửa đổi, lại mặc nhiên che giấu tội lỗi còn tự nói mình thanh tịnh. Khi có bậc hiền trí khuyên bảo: “Người xuất gia giữ gìn cấm giới như gìn giữ viên ngọc sáng không để tỳ vết. Nay ông đã vi phạm giới đã thọ tại sao không phát lồ sám hối?”. Tỳ-kheo phạm giới lại nói: “Nếu phải phát lồ sám hối những tội đã phạm thì hãy để sau này phạm nhiều giới bất thiện, lúc ấy hãy sám hối luôn một thể.”
Cũng như người ngu trên đã bị chết một đứa con lại giết thêm một đứa nữa. Vị Tỳ-kheo ấy cũng giống như vậy.
Thuở xưa, có một chàng tướng mạo khôi ngôi, thông minh, tài giỏi, lại rất giàu. Người đời không ai không khen ngợi. Bấy giờ có một gã ngốc thấy người ấy như thế liền nhận là anh mình. Chỉ vì người kia giàu có, gã ta muốn lợi dụng nên nhận là anh. Thế nhưng, khi thấy người kia trở nên nghèo khó, túng bấn thì y lại tuyên bố không phải là anh mình. Có người biết chuyện bảo:
– Anh thật ngốc nghếch quá! Cớ sao vì danh tiếng giàu có nhận người dưng làm anh, rồi khi người ta nghèo khó lại phủ nhận không phải anh mình.
Gã ngốc trả lời ngay:
– Tôi chỉ vì mong muốn tiền bạc của anh ta nên mới nhận y là anh, chứ thật ra y không phải là anh tôi. Nếu như y đã lâm vào cảnh nghèo khó thì không phải là anh tôi nữa.
Mọi người nghe lời gã nói không ai không cười khinh gã.
Ngoại đạo cũng vậy. Nghe giáo pháp trọn lành của Đức Phật liền nỗi lòng tham nhận đó là của mình. Đến khi được bậc Thiện hữu khuyên nên tu hành thì chẳng chịu tu tập còn bảo: “Tôi vì lợi dưỡng cúng dường nên mới dùng lời dạy của Đức Phật dạy bảo chúng sinh, chứ chẳng phải thật tu thì cớ gì phải tu tập.” Như gã ngốc trên vì muốn tiền bạc nên tuyên bố người giàu có là anh, đến khi người kia túng thiếu lại nói ngược không phải anh mình, những kẻ ngoại đạo kia cũng như thế.
Thuở xưa, có một anh chàng nhà quê lẻn vào kho vua trộm đồ rồi cao bay xa chạy. Sau khi vụ trộm bị phát giác, nhà vua liền sai người tầm nã khắp nơi và bắt được gã đưa về cung. Vua tra hỏi nguồn gốc chiếc áo. Gã ta biện bạch:
Chiếc áo này chính là vật gia truyền của ông cha tôi.
Đức vua truyền lệnh cho y bận chiếc áo. Chiếc áo ấy vốn không phải là vật của y nên gã ta cứ loay hoay không biết cách mặc, thứ phải mang trên cánh tay lai đeo dưới chân, thứ phải thắt ngay lưng lại đội lên đầu. Vua thấy y như thế liền truyền gọi quan lại trong triều đến cùng xem xét, rồi phán:
– Chiếc áo này nếu là vật gia truyền của ông cha ngươi thì ngươi phải biết cách mặc. Tại sao ngươi lại mặc vào lộn xộn như thế, thứ ở trên lại đưa xuống dưới mặc, chứng tỏ ngươi không biết cách mặc. Do vậy thấy rõ chiếc áo kia chắc chắn là ngươi lấy trộm, chẳng phải là vật gia truyền của ngươi.
Trong chuyện này, nhà vua dụ cho Đức Phật, hoàng bào dụ cho giáo pháp, anh chàng nhà quê ngu muội dụ cho ngoại đạo trộm nghe Phật pháp, ăn cắp đưa vào trong giáo lý của mình rồi tự nhận là của họ. Thế nhưng, vì không giải thích được nên họ sắp xếp giáo lý của Phật một cách lung tung, lộn xộn; không thể biết được chân nghĩa của giáo pháp. Cũng như gã nhà quê trên được chiếc áo quý của nhà vua, không biết rõ thứ tự trước sau nên bận vào một cách lộn xộn, những kẻ ngoại đạo kia cũng như thế.
Thuở xưa có người thường ngợi khen cha mình trước mặt nhiều người:
– Cha tôi bản tánh rất nhân hậu, chưa từng làm hại hay trộm cắp của ai. Ông luôn nói chuyện một cách khẳng khái, trung thực và thường bố thí.
Khi ấy, có một chàng ngốc nghe được lời trên bèn lên tiếng:
– Đạo đức và việc làm của cha tôi còn tốt hơn cha anh nữa.
Mọi người liền hỏi:
Cha anh có đức hạnh gì? Mời anh nói thử xem.
Chàng ta trả lời:
– Từ nhỏ đến giờ, cha tôi tuyệt hẳn dâm dục, hoàn toàn không bị dục nhiễm.
Mọi người đều nói:
Cha anh nếu tuyệt hẳn dâm dục tại sao lại sinh ra anh!
Kẻ ngu ngốc thế chỉ bị người đời cười chê mà thôi.
Hạng người vô trí trên đời cũng vậy. Muốn tán dương chỗ tốt của người khác nhưng không hiểu rõ sự thật về người đó nên ngược lại trở thành lời mỉa mai, châm chọc giống như chàng ngốc trên có ý tán dương cha mình nhưng lời nói ra lại trở thành ngây ngô, sai lạc. Hạng người vô trí cũng như thế.
Thuở xưa có một người giàu có nhưng ngu độn. Một hôm, ông ta đến thăm một gia đình cự phú trong vùng. Thấy một tòa nhà ba tầng vô cùng mỹ lệ, cao rộng và sáng sủa, lòng ông ta rất thích, tự nghĩ: “Tiền bạc của ta cũng đâu có thua hắn, lẽ nào ta không xây được một cái nhà lầu như thế.” Về đến nhà, ông ta lập tức cho mời vị kỹ sư trưởng xây dựng đến hỏi:
Có phải ông đã làm tòa nhà lầu mỹ lệ kia không?
Vị kỹ sư trả lời:
– Vâng, chính là tôi làm.
Nghe vậy, ông phú hộ liền bảo:
– Nay ông hãy xây ngay cho tôi tòa nhà như của ông ta.
Vị kỹ sư trưởng liền cho thợ khởi công đào móng, đắp nền, xây tường làm nhà. Ông nhà giàu ngu ngốc nọ thấy thợ tiến hành làm móng, xây tường, phòng ốc ngổn ngang, ngạc nhiên liền hỏi vị kỹ sư trưởng:
– Các ông muốn xây cái gì vậy? Vị kỹ sư trả lời:
– Thì làm nhà lầu ba tầng. Ông phú hộ liền nói ngay:
– Tôi chưa cần hai tầng dưới. Ông hãy cho thợ xây ngay tầng trên cùng cho tôi.
Vị kỹ sư trưởng liền bảo:
– Việc ấy không thể nào được. Làm gì có việc không cất tầng trệt mà có thể xây tầng hai, không có tầng hai thì làm sao có thể xây tầng ba được.
Gã nhà giàu ngốc nghếch vẫn nằng nặc:
– Tôi nay không dùng hai tầng dưới. Ông chỉ xây tầng trên cùng cho tôi thôi.
Mọi người lúc bấy giờ biết chuyện đều chê cười ông ta:
– Không cất tầng một thì làm sao có thể xây tầng thượng cơ chứ!
Câu chuyện này dụ cho một số người trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật không chịu nỗ lực, tinh cần tu tập, quy kính Tam bảo, lười biếng giải đãi mà lại mong cầu Thánh quả, còn tuyên bố: “Tôi nay không cần trải qua ba thánh vị bậc dưới chỉ mong chứng đắc tứ quả A-la-hán mà thôi.” Những người như thế cũng sẽ bị mọi người cười chê giống như ông nhà giàu ngu ngốc trên không khác.
Xưa kia có một vị Bà-la-môn tự xưng là học rộng hiểu nhiều, luôn tự phụ là làu thông thiên văn, địa lý, thuật chú, tất cả các môn không môn nào không biết. Muốn phô trương tài năng bản lãnh của mình, ông ta bèn sang nước khác, ôm con mà khóc. Có người hỏi ông:
– Vì sao ông khóc lóc như thế? Vị Bà-la-môn trả lời:
– Đứa con nhỏ của tôi trong bảy ngày nữa sẽ chết. Tôi đang lo lắng con chết yểu nên đau xót mà khóc đấy thôi.
Mọi người đều khuyên:
– Mạng sống con người khó mà tính toán kiết hung, tốt xấu được. Biết đâu bảy ngày nữa con ông có thể không chết, ông vì sao lại khóc lóc thảm thiết như vậy,
Ông ta liền nói:
– Mặt trời, mặt trăng có thể mờ, sao trời có thể rơi chứ lời tiên đoán của tôi không thể nào sai lầm đâu.
Rồi vì danh tiếng của mình, đến ngày thứ bảy, anh ta tự tay giết chết con mình để chứng minh lời tiên tri của mình. Sau bảy ngày, mọi người nghe con ông ta chết đều ca tụng:
– Quả là bậc đại trí, lời ông nói không sai chút nào.
Lòng họ rất khâm phục, tin tưởng, nên cùng nhau kéo đến tôn kính.
Câu chuyện này dụ cho một số người trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật vì tiếng tăm quyền lợi nên tự xưng là đắc đạo, ngu si đoạn mất tâm Bồ- đề, giả tướng từ bi đức độ. Do nhân ấy nên ở trong tương lai lãnh chịu quả khổ vô cùng giống như vị Bà-la-môn muốn chứng tỏ lời tiên tri của mình nên tự giết con, lừa dối mọi người vậy.
Thuở xưa có một chàng ngốc làm nghề nấu đường. Một hôm, có ông phú hộ đến nhà thăm. Khi ấy, chàng ta tự nghĩ: “Ta đang nấu nước đường. Nên đem một ít nước đường đang nấu mời ông ta ăn thử.”
Nghĩ vậy, anh ta thêm ít nước vào nồi mật đang đun trên lửa. Muốn nước đường mau nguội, anh ta ra sức quạt nước đường trong nồi đang đặt trên bếp lửa.
Người bạn thấy thế bảo:
– Anh không tắt lửa dưới lò mà cứ quạt mãi nước đường trong nồi thì làm sao mà nguội được.
Mọi người có mặt khi đó đều cười nói lớn chế giễu anh ta.
Chuyện này dụ cho ngoại đạo không nỗ lực diệt trừ lửa tham, sân, si đang bốc cháy trong tâm, chỉ biết hành xác khổ hạnh, nằm giường gai, thiêu đốt thân mình trong nắng gắt mà vọng cầu đạt đạo quả thanh lương, tịch tĩnh thì cuối cùng không có kết quả mà còn bị bậc Trí cười chê. Hiện tại chịu khổ, tương lai nhất định trôi lăn trong luân hồi sinh tử.
Thuở xưa có một người cùng bạn bè ngồi trong nhà bình luận phẩm hạnh của người khác. Anh ta nói:
– Nhân cách, đạo đức của anh ta thì rất tốt, chỉ có hai tật xấu: một là tánh hay nóng nảy, hai là chạm việc hay lỗ mãng.
Ngay lúc đó, anh chàng kia đi ngang qua nghe được lời ấy lập tức nổi giận đùng đùng, nhảy bổ vào nhà mắng chửi người vừa nói, rồi đấm đá anh ta một trận.
Mọi người trong nhóm lên tiếng:
– Tại sao anh lại đánh người ta như thế hả? Anh chàng trả lời:
– Trước nay, tôi chưa từng bao giờ nổi giận hay lỗ mãng vậy mà hắn lại nói tôi hay nóng nảy, chạm việc hay lỗ mãng cho nên tôi đánh hắn.
Người kia liền bảo:
– Hiện giờ chính bộ dạng sân hận và lỗ mãng của anh đã chứng minh rồi đấy! Sao lại cho là nói xấu anh.
Mọi người đều bực tức, trách mắng tánh hung bạo của anh ta. Thật đáng bị người đời khinh chê là ngu muội.
Những kẻ đam mê rượu chè cũng vậy, chìm đắm trong men say, làm nhiều điều xằng bậy. Nghe mọi người chê trách lại sinh lòng oán trách. Thế nhưng nỗi khổ do hậu quả của rượu tạo ra đã chứng minh cho việc đó. Bọn họ cũng giống anh chàng ngu ngốc trên không muốn nghe lỗi của mình, khi nghe người khác phê bình lại muốn sinh sự, đánh lộn vậy.
Thuở xưa, có một chàng thương gia dự định vượt biển buôn bán. Chuyến hải trình cần có một người dẫn đường mới có thể đi được. Do vậy, tất cả cùng nhau bàn tính để mời một người dẫn đường.
Sau khi mời được một người dẫn đường, đoàn thương gia bèn khởi hành. Chẳng bao lâu, tàu ghé vào một vùng đất rộng. Tại đó có một đền thờ chư Thiên. Họ phải giết một người để hiến tế rồi mới có thể đi tiếp. Khi đó các nhà buôn cùng họp bàn:
– Tất cả chúng ta đều là bè bạn, thân thích. Đã vậy thì làm sao có thể chọn một người để tế trời được. Trong đoàn, chỉ còn anh chàng dẫn đường kia. Chi bằng giết anh ta để hiến tế.
Bàn tính xong, họ bèn giết người dẫn đường đem hiến tế chư Thiên. Cúng tế xong, muốn khởi hành thì mọi người trong đoàn đều lẫn lộn, quên mất phương hướng, chẳng biết đi về hướng nào. Cuối cùng, tất cả đều chết trong cảnh cùng khốn.
Người đời cũng thế: Muốn vào biển Phật pháp để tìm châu báu cần phải lấy việc tu tập pháp hạnh lành làm Bậc Đạo Sư. Phá hủy hạnh lành thì mãi mãi không thoát khỏi con đường sinh tử mênh mông, trải thân trong ba đường khổ, chịu khổ não triền miên cũng như đoàn thương gia vào bể cả bao la lại giết người dẫn đường nên quên mất bến về. Cuối cùng đành tán thân trong cảnh khổ.
CHO
CÔNG CHÚA CON VUA
Thuở xưa có ông vua sinh được một nàng công chúa. Ngày kia, nhà vua truyền gọi một vị lương y đến bảo:
– Khanh hãy bốc một loại thuốc để công chúa uống vào lớn ngay tức khắc cho trẫm.
Vị lương y thưa:
– Thần có một phương thuốc rất hay uống vào có thể lớn ngay tức khắc nhưng phải đến phương xa mới có. Thần chỉ xin bệ hạ một điều là từ nay đến khi thần mang thuốc về, bệ hạ không được đến thăm công chúa. Đợi khi nào thần đem thuốc về cho công chúa uống xong, sẽ đưa công chúa diện kiến bệ hạ.
Vị lương y lập tức lên đường đến phương xa tìm thuốc. Trải qua mười hai năm vị ấy mới đem thuốc về cho công chúa uống rồi đưa công chúa đến diện kiến đức vua. Nhà vua thấy công chúa đã trưởng thành, vui mừng kêu to:
– Thật là Thánh dược! Con ta uống xong đã lớn ngay lập tức.
Nhà vua truyền lệnh cho cận thần đem ngọc ngà, châu báu ban thưởng cho vị lương y. Người đương thời đều cười chê vua ngốc nghếch, không biết tính tuổi con mình nên khi thấy con đã lớn lại ngỡ do hiệu quả của thuốc.
Người đời cũng thế, mong trở thành con người hiền thiện nên phát nguyện: “Tôi nay mong cầu đạo giải thoát, kính nguyện được gặp bậc Lương sư chỉ dạy để tôi thành ngay bậc Hiền nhân.” Vị Đạo sư dùng phương tiện dạy anh ta tọa thiền, tu quán giáo lý mười hai nhân duyên, dần dần nuôi dưỡng các đức hạnh lành cho đến khi đắc quả A- la-hán. Khi chứng quả A-la-hán, người ấy vô cùng hân hoan thốt lên: “Thật là nhanh chóng! Chính nhờ bậc Đạo sư nên chúng ta mới có thể sớm đạt được Diệu pháp tối thượng.”
Thuở xưa có hai người cùng nhau trồng mía. Cả hai người đồng ý lập ra một quy ước: Ai trồng mía lên tốt thì được thưởng, ai trồng lên xấu thì phải bị phạt.
Bấy giờ, trong hai người, có một người suy nghĩ: “Mía thì ngọt, nếu là ép mía lấy nước rồi đem tưới cho cây mía thì chắc mía sẽ rất tốt, chắc chắn thắng hắn ta.” Nghĩ thế, muốn cho mía ngọt hơn, người ấy đem rất nhiều mía ra ép lấy nước tưới cho khoảng mía mới trồng. Thế nhưng kết quả lại trái ngược: tất cả mía mới trồng của anh ta đều hư hoại hết!
Người đời cũng thế, mong cầu phước lành như giàu sang, phú quý mà lại chuyên ỷ mình giàu có, cậy quyền thế ức hiếp người lương thiện để chiếm đoạt tài sản. Rồi dùng tiền đó làm việc phước thiện mong được quả lành. Họ không biết rằng ngược lại trong tương lai sẽ gặp nhiều hoạn nạn cũng như việc dùng nước mía tưới mía nên tất cả mía đều mất trắng vậy.
Thuở xưa có một thương gia cho bạn hàng vay năm tiền, mãi lâu không thấy trả, liền đến nhà đòi nợ. Trước nhà người kia có một con sông lớn. Ông phải mất hai đồng tiền đò để sang sông. Đến nơi không gặp người vay nợ nên ông đành quay về, sang sông lại tốn thêm hai đồng nữa. Thế là, vì đòi nợ năm đồng mà phải tốn đến bốn đồng. Chỉ vì ngại đi bộ mệt nhọc nên tiền nợ thì ít mà tiền trả tổn thất lại quá nhiều! Kết quả là bị mọi người chê. Người đời cũng thế, vì chút ít lợi danh, hủy hoại hạnh thanh cao, vì tư lợi không màng lễ nghĩa, hiện tại phải mang tiếng xấu, tương lai phải chịu quả báo khổ đau.
Thuở xưa có một người nghèo làm việc cho nhà vua rất cực khổ. Trải qua một thời gian dài, thân thể y càng suy yếu. Nhà vua thấy thế thương hại ban cho xác một con lạc đà. Anh chàng toan lột da xác lạc đà vua ban nhưng dao đã cùn nên vội đi tìm một viên đá để mài dao. Kiếm được đá mài trên lầu, chàng ta liền mài bén dao rồi xuống lầu bắt đầu công việc. Thế rồi, chàng ta cứ lên lầu xuống lầu nhiều lần để mài dao. Cuối cùng, quá mệt vì phải lên lầu xuống lầu mãi, chàng ta khiêng luôn xác con lạc đà lên lầu để tiện việc vừa mài dao vừa lột da. Hành động của anh chàng bị mọi người cười chê thậm tệ.
Câu chuyện này dụ cho hạng người ngu phá hủy giới cấm, tích trữ tiền của rồi dùng đó để bố thí, cúng dường, tu phước cầu được sinh Thiên giới. Hạng người ấy chẳng khác gì chàng ngốc khiêng xác lạc đà lên lầu để tiện việc mài dao kia, bỏ công sức ra quá nhiều mà kết quả thu được lại rất ít.
Xưa kia có một người lái thuyền vượt biển. Giữa đường, anh ta lỡ tay làm rơi một cái chén bằng bạc xuống nước. Anh ta liền khởi lên một ý nghĩ ngu ngốc: “Nay mình phải đánh dấu để nhớ vùng nước này, rồi cứ để đó mà đi. Sau này sẽ lặn xuống lấy.”
Đi được hai tháng, đến nước Sư tử, chàng ta gặp một con sông liền lặn xuống nước để tìm cái chén bạc đã mất. Có người hỏi:
– Anh muốn tìm gì vậy? Anh ta trả lời:
– Trước đây, tôi đã đánh rơi một cái chén bạc.
Nay muốn tìm lại.
Người ấy liền hỏi:
– Anh làm rơi ở chỗ nào? Chàng ta trả lời:
– Tôi đánh rơi khi mới ra biển. Người kia hỏi tiếp:
– Mất độ bao lâu rồi? Anh chàng đáp:
– Đã mất trước đây hai tháng. Người ấy lại hỏi:
– Mất hai tháng trước đây mà sao lại tìm ở đây? Chàng ta liền đáp:
– Khi đánh rơi cái chén, tôi đã vạch nước làm dấu để nhớ. Chỗ nước mà tôi đánh dấu và chỗ nước ở đây đâu có khác nhau, cho nên tìm ở đây.
Người ấy cười hỏi:
– Nước tuy không khác nhau nhưng anh đánh rơi đồ ở chỗ khác, nay lại tìm ở đây thì làm sao có thể tìm được.
Lúc bấy giờ, mọi người đều phá lên cười giễu. Ngoại đạo cũng như thế: Không tu tập theo hạnh chân chính, cho rằng các hạnh lành đều như nhau nên chọn ngay lối tu khổ hạnh để cầu mong giải thoát. Bọn họ cũng như chàng ngốc trên mất chén bạc ở một nơi mà lại tìm ở một nơi khác vậy.
Thuở xưa có một người kể tội vị vua đương thời, phê phán rằng:
– Nhà vua hiện nay tánh tình bạo ngược, trị nước bất công.
Lời ấy truyền đến tai vua, vua liền nổi giận lôi đình nhưng vẫn không tra xét được ai đã nói ra lời ấy. Sau đó, vua nghe lời nịnh thần, ra lệnh bắt một vị hiền thần, xử hình phạt tùng xẻo, lóc nơi xương sống lấy một trăm lạng thịt. Có người chứng minh được vị hiền thần kia không nói lời đó. Lòng vua rất hối hận, nên lệnh đem một ngàn lạng thịt đắp trả lại nơi xương sống của vị quan kia.
Suốt đêm vị hiền thần đau đớn rên rỉ, khổ não vô cùng. Vua nghe tiếng rên la liền hỏi:
– Sao ngươi còn rên la khổ não như vậy? Ta đã trả lại gấp mười lần số thịt đã lấy cho ngươi. Hẳn là ngươi cho là chưa đủ chăng? Cớ sao lại đau khổ như thế?
Có vị quan thân tín tâu:
– Tâu đại vương, nếu như chặt một cái đầu thì dù có lại được một ngàn cái đầu cũng không tránh được cái chết. Dù được gấp mười lần số thịt đã mất, ông ta cũng không khỏi đau đớn, khổ não được.
Người ngu cũng thế, không sợ quả đời sau, tham hưởng thú vui hiện tại, gây tạo khổ não cho chúng sinh rồi lại đem nhiều tiền của đền bù, phân phát cho mọi người, tưởng rằng tội chướng kia được tiêu trừ, hưởng phúc báo vô tận. Hạng vị ấy cũng giống như vị vua kia nạo xương sống róc thịt người rồi đem thịt đắp vào đền trả, ngỡ rằng người kia không đau đớn, bình yên vô sự.
Thuở xưa, có một nàng thiếu phụ đã có một con nhưng lòng vẫn mong ước có thêm một đứa nữa. Nàng ta liền đi hỏi các phụ nữ trong vùng:
– Trong các chị, có ai biết cách xin hướng dẫn cho tôi sinh được một đứa con nữa.
Có một bà lão lên tiếng bảo cô ta:
Tôi có cách để cô có thể sinh con nhưng trước tiên cô phải cúng chư Thiên đã.
Nàng thiếu phụ bèn hỏi bà lão:
– Thế lễ cúng cần những gì?
Bà lão nói:
– Giết đứa con kia của cô, lấy máu cúng chư Thiên thì chắc chắn sẽ sinh được nhiều con.
Vừa nghe xong, nàng ta theo lời bà lão toan giết con mình. Một người bạn sáng suốt biết chuyện liền chê cười quở trách:
– Sao cô lại ngu ngốc hồ đồ đến như thế! Đứa con chưa sinh không biết có sinh được không mà nay lại toan giết đứa còn sống.
Người ngu cũng như nàng thiếu nữ kia. Vì mong cầu sinh lên các cõi trời nên tự hành hạ xác thân. Niềm vui ở cõi trời chưa thấy mà hiện tại xác thân phải chịu thiêu đốt trong vô vàn điều đau khổ, bức bách.
❑
23- KẺ TRỘM DÙNG GẤM BỌC ÁO VẢI
29- NGƯỜI NGHÈO ĐỐT ÁO VẢI THÔ
Thuở xưa có một vị trưởng giả ra biển tìm trầm. Trải qua nhiều năm gom góp được hơn một xe trầm, ông ta liền trở về nhà, đem ra chợ bán. Nhưng giá trầm rất cao nên chẳng ai chịu mua. Nhiều ngày ròng rã không bán được đồng nào, lòng ông sinh ra mệt mỏi, buồn phiền vô cùng. Thấy người bán than bên cạnh bán rất đắt, ông liền nảy ra ý định: “Nếu đã không bán được, chi bằng ta đem trầm đốt thành than. Chắc có thể bán được rất nhanh.”
Nghĩ xong, ông đem hết trầm đốt thành than rồi đưa ra chợ bán mà không biết rằng giá trị một xe than không bằng một nửa giá trị của xe trầm.
Những kẻ mê muội trên đời này cũng vậy. Nỗ lực tinh tấn tu tập vô lượng hạnh lành chỉ mong cầu Phật quả. Nhưng chỉ vì ngại khó nên sinh tâm thoái thất nghĩ rằng: “Nếu Phật vị khó thành như thế chi bằng phát tâm tu tập cầu quả vị Thanh văn, có thể mau dứt đường sinh tử, chứng quả A-la-hán.”
THÔ
Thuở xưa có một kẻ trộm lẻn vào nhà một gia đình giàu có trộm được một mớ vải gấm và một số đồ vật khác. Để tiện mang đi, y lại dùng vải gấm bọc bên ngoài mớ quần áo cũ và các thứ đồ trộm khác. Tới khi mang ra ngoài liền bị mọi người cười đùa, nhạo báng.
Những người mê muội trên đời cũng thế. Từ lòng tin phát tâm tu tập các pháp lành, vun bồi công đức, nhưng chỉ vì tham đắm danh lợi, phá hủy tịnh giới, tiêu hoại mọi công đức đã tạo nên bị người đời cười khinh giống như tên trộm kia vậy.
Xưa kia, có một chàng ngốc ăn mè sống thấy không ngon, liền đem rang lên ăn thử cảm thấy ngon. Anh ta tự nghĩ: “Nếu ta rang chín mè giống rồi mới đem gieo chắc hẳn mè sẽ ngon lắm.” Thế rồi chàng ta đem tất cả mè giống ra rang hết, rồi đem gieo. Kết quả chẳng mọc được cây nào cả.
Người đời cũng thế. Nghe kinh dạy: “Chư Bồ- tát trải qua vô số kiếp cần khổ tu hành, làm những việc khó làm”, họ cho là quá khó tu, nghĩ rằng: “Nếu không thể tu tập Bồ-tát hạnh, nay tu theo A- la-hán quả mau chóng đoạn sinh tử thì dễ hơn rất nhiều.” Trong tương lai muốn cầu Phật quả thì trọn không thể được. Ví như mè giống đã rang đem trồng không thể mọc được, những kẻ mê muội trên đời cũng như thế.
Thuở xưa có một người có việc cần dùng lửa và nước lạnh. Anh ta đổ đầy nước vào nồi để lát nữa tắm và để giữ lửa khỏi tắt anh ta lại đặt nồi nước lên trên bếp lửa. Một lát sau, khi anh ta muốn dùng lửa thì lửa đã tắt ngấm, muốn dùng nước lạnh thì nước lại nóng. Cả lửa và nước đều không dùng được.
Người đời cũng thế. Phát tâm xuất gia và đạo để cầu giải thoát, nhưng khi đã xuất gia thì lại tưởng nhớ đến vợ con, họ hàng thân thuộc, say đắm thú vui năm dục của thế gian. Do vậy, tự thân làm mất hết lửa công đức và nước trì giới. Hạng người say mê dục lạc cũng lại như thế.
Xưa kia có một anh chàng muốn lấy lòng vua bèn dò hỏi mọi người:
– Tôi phải làm sao để vua ưng ý? Có người lên tiếng:
– Nếu anh muốn được lòng vua, phải bắt chước theo điệu bộ, cử chỉ của ngài.
Người ấy nghe xong liền đến chỗ vua. Thấy nhà vua nháy mắt, anh ta cũng bắt chước nhấp nháy đôi mắt. Nhà vua thấy thế liền hỏi:
– Ngươi bị bệnh hay bị gió thổi bụi vào mắt mà sao lại nháy như thế?
Gã ta liền trả lời:
– Mắt thần không có bệnh gì cả, cũng không bị bụi rơi. Chỉ vì thần muốn được lòng bệ hạ nên thấy bệ hạ nháy mắt thần cũng nháy mắt theo mà thôi.
Đức vua nghe lời ấy liền nổi giận lôi đình, lệnh cho quân đánh đòn một trận rồi đuổi ra khỏi nước. Người đời cũng thế. Muốn được gần gũi Phật pháp để tu học, mong được tăng trưởng căn lành. Thế nhưng, khi đã được gần gũi Phật pháp lại không hiểu rằng Đức Phật Như Lai, Đấng Pháp Vương vì chúng sinh nên hiển bày nhiều phương tiện, thuyết giáo lý vừa tầm hiểu biết của chúng sinh. Người ấy nghe giáo lý ấy, dựa vào câu chữ, ngôn từ không hay nên sinh lòng cười chê, phỉ báng hoặc rập khuôn theo ngôn từ một cách máy móc mà không hiểu rõ. Do vậy, ở trong Phật pháp mất hẳn lợi ích, sau này bị rơi vào ba đường dữ, cũng giống như chàng ngốc bắt chước vua ở trên vậy.
Thuở xưa có một người bị vua phạt đánh đòn, bị thương rất nặng. Muốn mau lành, người ấy lấy phân ngựa xoa vào vết thương. Một chàng ngốc thấy thế, lòng rất vui mừng thốt lên:
– Hay quá! Ta vừa biết một phương thuốc trị thương.
Y lập tức về nhà kêu con ra bảo:
– Con hãy đưa lưng cho cha đánh. Cha vừa học được phương thuốc trị thương rất hay. Nay muốn dùng thử.
Nói xong, y quất vào lưng con mình cho bị thương, rồi lấy phân ngựa xoa vào để trị thương. Làm xong, y tự cho mình là rất thông minh, khéo léo.
Người đời cũng thế. Nghe dạy: “Tu quán bất tịnh là phương thuốc để trừ bỏ thân năm ấm”, liền nói: “Tôi muốn quán bất tịnh đối với nữ sắc và năm dục nhưng chưa gặp thì không thể quan bất tịnh được.” Thế nhưng, trái lại bị nữ sắc làm điên đảo, trôi lăn trong vòng sinh tử, rồi rơi vào địa ngục. Những kẻ mê mờ trên đời cũng lại như thế.
Thuở xưa, có một người có cô vợ rất xinh nhưng chỉ có cái mũi thì hơi khó coi.
Chàng ta ra đường gặp một cô gái có khuôn mặt khả ái, mũi nàng ta cũng rất xinh, liền tự nhủ: “Sao mình không xẻo lấy cái mũi xinh đẹp kia đem về gắn lên cho vợ mình, có phải nàng cũng xinh đẹp như vậy không?” Nghĩ xong, y liền xẻo ngay mũi của cô gái đẹp kia đem về nhà gọi vợ:
– Em ra đây mau lên! Anh sẽ cho em một cái mũi rất xinh.
Người vợ chạy ra. Y bèn cắt cái mũi của vợ rồi lấy cái mũi của người con gái kia ráp lên mặt vợ. Nhưng mũi đã không ráp được mà vợ y còn mất đi cái mũi của mình. Hành động điên rồ ấy làm cho vợ y càng đau đớn, khổ não hơn.
Người mê trên đời cũng thế. Nghe các bậc Sa- môn, Bà-la-môn, Trưởng lão nhiều đức độ được người đời cung kính cúng dường liền tự nghĩ: “Nay ta với những vị kia có khác gì nhau.” Rồi, lừa dối tự xưng mình có đức. Làm thế đã không được ai cúng dường mà còn làm tổn thương phạm hạnh của mình giống như hành động xẻo mũi người, tự làm thương tổn vợ mình ở trên. Người ngu trên đời cũng lại như thế.
Thuở xưa có một người nghèo túng, khốn khổ làm thuê cho người được cho một tấm áo vải thô. Anh ta mặc chiếc áo ấy ra đường, có người thấy thế hỏi:
– Anh vốn con nhà giàu sang, tử tế sao lại mặc chiếc áo vải thô như thế. Bấy giờ, nếu anh làm theo lời tôi, anh sẽ có bộ quần áo tốt nhất. Nhưng anh phải nghe theo tôi, tôi tuyệt đối không bao giờ gạt anh.
Gã ta vui mừng theo lời. Người kia bèn đốt một đống lửa bên đường, rồi bảo y:
– Nay anh hãy cởi chiếc áo vải thô đang mặc kia bỏ vào lửa đốt. Sau khi áo cháy xong, anh sẽ được một bộ quần áo thượng hạng.
Người nghèo kia lập tức cởi áo bỏ vào lửa đốt. Đốt xong, anh ta đợi mãi vẫn không thấy áo quần đẹp nào hiện ra cả.
Người đời cũng thế. Từ quá khứ tu tập các pháp lành nên có được thân người, cần phải bảo trọng thân này để tấn tu đạo đức. Nay chỉ vì nghe lời dối gạt của bọn ngoại đạo tà ác: “Ngươi phải tin lời bọn ta, nên tu khổ hạnh, hủy hoại thân này, nhảy vào hầm lửa thì có thể sinh lên cõi trời Đại phạm sống lâu muôn tuổi, hưởng rất nhiều khoái lạc.” Có người tin theo tự hủy thân mạng. Sau khi chết phải rơi vào địa ngục, chịu vô vàn đau khổ. Đã không biết bảo trọng lại còn hủy hoại thân này, những kẻ như thế chẳng khác gì gã nhà quê kia vậy.
Thuở xưa có một người nuôi dê rất khéo nên đàn dê của anh ta càng lúc càng nhiều đến hàng ngàn, hàng vạn con. Nhưng anh ta vô cùng tham lam keo kiệt không bao giờ để cho người ngoài đụng đến đàn dê của mình.
Bấy giờ có một người rất xảo trá tìm cách tới lui kết thân với chàng nuôi dê nọ. Một ngày kia, hắn nói với chàng nuôi dê:
– Nay tôi và anh tình thân như thủ túc, tuy hai mà một. Tôi quen biết một gia đình có nàng ái nữ rất xinh đẹp. Tôi xin vì anh đến cầu hôn để làm người nâng khăn sửa túi cho anh.
Anh chàng nuôi dê nghe thế lòng mừng khấp khởi liền giao cho gã ta rất nhiều dê và các lễ vật, tiền bạc để cầu hôn.
Một thời gian sau, gã kia trở lại báo cho anh ta:
– Vợ anh hôm nay vừa sinh được một đứa con.
Chàng nuôi dê tuy chưa từng gặp mặt vị hôn thê nhưng vừa nghe sinh con thì lòng vui mừng không xiết nên tiếp tục trao cho y nhiều dê tiền bạc và đồ vật.
Sau một thời gian, gã nọ trở lại báo cho anh ta:
– Hỡi ôi! Con anh nay đã chết rồi.
Người nuôi dê nọ nghe gã nói xong liền kêu khóc thảm thiết, buồn khổ không nguôi.
Người đời cũng thế. Sau một thời gian tu học có được kiến văn quảng bác nhưng vì danh lợi bản thân bảo thủ sở học không chịu giảng dạy, giáo hóa cho người; lại chìu theo dục vọng mê lầm của thân này, say đắm dục lạc thế gian như nghĩ tưởng đến việc vợ con, nên bị chúng dối lừa đánh mất mọi công đức lành. Sau khi tán thân mất mạng, tài sản tiêu tan mới khóc lóc bi thương, buồn khổ vô cùng như anh chàng nuôi dê kia vậy.
Thuở xưa, có một vị Bà-la-môn muốn tổ chức đại hội nên truyền dạy các đệ tử:
– Thầy cần một số chén bát để dùng trong đại hội. Các con hãy đến mời một người thợ cả đúc đồ sứ cho thầy.
Các đệ tử của thầy Bà-la-môn vội tìm đến nhà của người thợ đúc sứ trong thành. Khi ấy, có một người dắt một con lừa lưng chất đầy các loại đồ sứ đem vào chợ bán. Bỗng con lừa sẩy chân té quị xuống. Bao nhiêu đồ sứ trên lưng lừa rơi xuống đất bể tan tành. Người ấy trở về nhà buồn rầu, khóc lóc mãi.
Một vị đệ tử thấy vậy liền hỏi:
– Sao ông khóc than thảm não như vậy? Người kia đáp:
– Suốt một năm ròng, tôi khổ công khó nhọc làm được một số đồ sứ đem ra chợ bán. Chỉ tại con lừa tệ hại này sẩy chân quị ngã khiến bao nhiêu đồ sứ bị vỡ cả nên tôi rất buồn phiền.
Khi ấy vị đệ tử nghe xong mừng rỡ nói ngay:
– Con lừa này là con vật rất quý. Chỉ trong khoảnh khắc có khả năng phá hết những gì ông tạo ra trong một thời gian dài. Nay tôi sẽ mua con lừa này.
Người thợ đồ sứ vui mừng bán ngay con lừa cho y. Khi y dắt con lừa trở về, vị thầy liền hỏi:
– Tại sao con không mời một người thợ đồ sứ mà lại mua lừa đem về.
Vị đệ tử trả lời:
– Con lừa này còn giỏi hơn người thợ đúc đồ sứ nữa. Bao nhiêu đồ sứ người thợ làm trong vòng một năm, nó có thể phá vỡ hết chỉ trong giây phút.
Vị thầy Bà-la-môn nghe xong liền mắng:
– Con thật ngu ngốc quá, không có một chút trí tuệ nào! Con lừa này trong khoảnh khắc có thể phá nát bao nhiêu đồ sứ nhưng trải qua cả một trăm năm cũng không làm ra được một cái nào.
Người đời cũng vậy. Trong trăm ngàn năm thọ nhận sự cúng dường của người mà không chút báo đền, còn luôn làm tổn thương họ. Hạng người ấy trọn đời không còn được chút lợi ích gì. Những kẻ vong ân lại cũng như thế.
Xưa kia, có hai nhà buôn cùng buôn bán ở một chỗ, người thứ nhất buôn vàng, người thứ hai bán bông vải. Bữa nọ, có người đến mua vàng. Người buôn vàng bèn đốt vàng để thử. Anh chàng buôn vải liền lén trộm một cục vàng đang thử giấu vào trong đống bông vải. Vàng đang cháy đỏ nên bao nhiêu bông vải đều cháy sạch. Việc trộm bị bại lộ mà bao nhiêu vải đều cháy hết, cả hai việc đều bị thất bại.
Ngoại đạo cũng thế. Trộm lấy giáo lý của đạo Phật đưa vào trong giáo lý của họ, rồi nói dối là của mình không phải của đạo Phật. Do vậy tất cả kinh điển của họ đều chứa đầy mâu thuẫn không thuyết phục được ai cả. Cũng giống như hành động trộm vàng của người buôn bông vải kia cuối cùng phải bại lộ.
Thuở xưa có một vị vua trồng được một loại cây rất quý, cao to xanh tốt đang ra quả ngọt lạ thường.
Lúc ấy, có người đến viếng. Nhà vua bảo người ấy:
Trên cây này có đầy quả ngon ngọt, ngươi có muốn được ăn thử không?
Vị khách đáp:
– Thần cũng muốn ăn thử một quả nhưng cây này cao to thế làm sao hái được.
Vua liền hạ lệnh đốn cây ngã xuống để hái trái nhưng không tìm được trái nào làm cho quân lính khổ nhọc. Sau đó, vua muốn dựng cây trồng lại thì cây đã chết khô không thể nào ra trái nữa.
Người đời cũng thế. Đức Thích Tôn từng dạy chúng đệ tử công đức trì giới giống như cây đại thọ có thể sinh các quả thù thắng. Theo lời Phật dạy, một số Phật tử lòng sinh hoan hỷ muốn được quả lành nên nỗ lực trì giới, tu tập các công đức lành nhưng lại không thấu hiểu tường tận phương pháp: Khai, giá, trì, phạm nên trở lại hủy phạm cấm giới giống như vị vua ra lệnh đốn cây rồi lại muốn cây sống lại nhưng tất cả nỗ lực đều không hiệu quả. Người phá giới cũng lại như thế.
Thuở xưa cách kinh thành năm do-tuần có một ngôi làng. Trong thôn có một giếng nước rất trong, nước trong giếng ngon ngọt lạ thường. Nhà vua ra lệnh cho dân làng mỗi ngày phải chở nước về kinh thành. Dân trong thôn rất mệt mỏi nên muốn bỏ trốn đến phương xa. Khi ấy, vị trưởng làng nghe được liền bảo mọi người:
– Các vị chớ đi đâu hết. Tôi sẽ vì dân trong làng tâu lên Hoàng thượng đổi năm do-tuần thành ba do-tuần để quý vị đi lại gần hơn, đỡ lao nhọc hơn. Vị tôn trưởng liền vào cung tâu lên vua sự việc.
Nhà vua liền chấp thuận lời thỉnh cầu, hạ lệnh đổi năm do-tuần thành ba do-tuần. Người trong làng nghe được tin ấy đều vui mừng khôn xiết. Có người nói:
– Tuy là như vậy nhưng so với năm do-tuần trước đây, con đường đâu có khác gì.
Dù nghe người ấy nói, dân làng vẫn tin vào lệnh vua nên không ai chịu rời làng nữa.
Người đời cũng thế. Đã phát tâm tu học chánh pháp, vượt khỏi năm đường hướng đến Niết-bàn. Nhưng nửa chừng tâm sinh mỏi mệt, thoái thất muốn rời bỏ dừng lại trong vòng sinh tử không muốn tu tập nữa. Đức Thích Tôn có đủ phương tiện, phân biệt pháp Nhất thừa thành Tam thừa. Những người có tuệ căn thấp kém nghe thế lòng rất vui mừng nghĩ là Phật pháp dễ tu nên tiếp tục nỗ lực tiến tu các công đức lành để vượt khỏi sinh tử. Sau đó, nghe dạy: “Thật ra không có ba thừa chỉ duy nhất một thừa”, bọn họ lại bảo thủ lời Phật dạy nên rốt cục không chịu xả bỏ quả vị Tiểu thừa. Những người ấy cũng như người trong làng kia vậy.
Thuở xưa có một người nghèo hèn khốn khổ, mắc nợ quá nhiều. Người ấy không có phương cách gì để trả nợ nên tìm đường trốn chạy. Đến một vùng đất rộng mênh mông bát ngát, y chợt bắt gặp một cái rương nhỏ, bên trong chứa đầy ngọc ngà, châu báu. Phủ lên trên châu báu là một tấm gương soi làm nắp đậy. Người nghèo kia thấy vậy rất mừng vui thò tay vào toan lấy của báu nhưng bắt gặp một người trong tấm gương, lòng hoảng sợ rụt tay lại nói với người trong gương:
– Tôi ngỡ rương này không có chủ, không biết có anh ở trong rương. Mong anh đừng giận.
Người đời cũng thế. Bị vô lượng điều phiền não làm cho khốn khổ, lại còn bị sự áp bức, ràng buộc của “ma vương trái chủ” trong vòng sống chết. Họ chỉ mong vượt thoát khỏi vòng sinh tử nên vào trong Phật pháp, tu tập các pháp lành làm mọi việc công đức ví như người nghèo kia gặp được rương châu báu. Nhưng chỉ vì tấm gương “thân kiến” làm nhiễu loạn nên vọng cho thân này có “ngã”, rồi lầm chấp vào đó. Cũng như người nghèo kia cho là châu báu đã mất hết, những kẻ trên do “chấp ngã” nên đối với các công đức pháp lành vô lậu như thiền định, các phẩm trợ đạo đều mất hết. Giống như kẻ ngu kia bỏ rương châu báu, người chấp “ngã kiến” cũng lại như thế.
Thuở xưa có một người vào núi học đạo. Sau một thời gian tu tập, vị ấy trở thành một vị tiên có năm loại thần thông. Mắt vị ấy rất vi diệu, có khả năng thấy được mọi loại châu báu quý giá ẩn tàng trong lòng đất. Quốc vương nước ấy nghe được tin này, lòng rất vui mừng, bàn với các quan trong triều:
– Làm thế nào để có thể giữ vị ấy luôn ở trong vương quốc, không đi nơi khác để tìm trân báu trong nước cho trẫm?
Lúc đó, có một vị quan ngốc nghếch, lãnh sứ mạng đi tìm vị Tiên ẩn sĩ. Sau khi tìm được, y liền móc cặp mắt của vị Tiên đem về, tâu vua:
– Thần đã móc cặp mắt của vị Tiên kia. Ông ta giờ đây không thể đi đâu được, mãi mãi phải ở trong nước.
Nhà vua nghe xong liền quát:
– Ta muốn giữ vị Tiên ở lại chỉ vì cặp mắt của người có thể khám phá báu vật trong lòng đất. Nay ngươi hủy hoại đôi mắt thì sử dụng sao được nữa. Người đời cũng vậy. Có người thấy bậc Đại đức ở nơi chốn núi rừng heo hút, trú dưới gốc cây hành khổ hạnh, tu quán bốn pháp niệm xứ và quán bất tịnh, liền thỉnh về nhà cúng dường cung phụng mọi vật, nhưng vô tình đã hủy hoại đạo đức thanh bạch của bậc Phạm tăng khiến vị ấy không thể thành tựu đạo quả, đánh mất đạo nhãn giải thoát. Việc làm ấy đã không đem lại lợi ích gì còn khiến đạo nhãn của vị Đại đức kia không thể phục hồi, cũng như vị quan ngốc nghếch hủy đi cặp mắt của vị Tiên vậy.
Thuở xưa có một người có đàn trâu hai trăm năm mươi con. Anh ta thường lùa trâu đi ăn cỏ, uống nước. Một hôm, trong khi đang xua trâu đi ăn cỏ, bỗng một con hổ nhảy ra vồ ăn mất một con. Lúc bấy giờ, chàng chủ trâu tự nhủ: “Đã mất một con, số trâu cũng không còn đủ nữa, ta còn dùng bầy trâu này làm gì?”. Nghĩ thế rồi, anh ta lùa bầy trâu đến vùng núi cao, vực thẳm, xua tất cả xuống vực sâu giết hết.
Kẻ phàm phu si mê cũng thế. Đã vâng giữ đại giới (giới Tỳ-kheo) khi lỡ phạm một giới không sinh lòng hổ thẹn, thanh tịnh thân tâm sám hối, lại nghĩ rằng: “Nay ta đã phá một giới, giới thể không tròn vẹn nữa thì còn vâng giữ làm gì?”. Do suy nghĩ thế nên sống buông lung, hủy phạm tất cả giới, không chừa giới nào. Cũng như chàng chủ trâu ngốc nghếch giết hết đàn trâu không chừa con nào vậy.
Thuở xưa có một người đi bộ đã lâu nên rất khát. Bỗng chàng ta gặp một cái khe, một dòng nước trong lành từ đó chảy ra liền chạy lại uống. Sau khi uống no nê, chàng ta khoát tay bảo dòng nước:
– Ta đã uống xong rồi. Ngươi đừng chảy nữa. Dù chàng ta nói thế nào, nước vẫn chảy như cũ.
Thấy vậy, chàng ta nổi giận đùng đùng quát:
– Ta đã uống xong bảo ngươi đừng chảy nữa.
Tại sao lại cứ chảy như thế?
Có người qua đường thấy thế bảo:
– Anh thật là dại dột, ngốc nghếch quá! Sao không chịu bỏ đi, cứ dùng dằng bảo nước đừng chảy nữa. Hãy đi chỗ khác đi!
Người đời cũng thế. Bị đắm chìm trong dòng sinh tử khát ái nên uống vào năm thứ nước dục nhiễm nên bị năm món dục làm cho mệt mỏi, dã dượi, tựa như người kia uống nước no nê. Sau đó lại bảo: “Này sắc, thanh, hương, vị các ngươi chớ có đến gần ta nữa.” Thế nhưng, năm món dục ấy vẫn cứ liên tiếp nhau hiển hiện trước mắt. Người ấy thấy thế nổi giận bảo: “Ta muốn mau chóng tận trừ tham ái, phiền não không để chúng phát triển. Vì sao cứ mãi đến gần để ta phải thấy chứ?”.
Lúc ấy, có một người sáng suốt thấy thế liền bảo: “Anh muốn được trở thành bậc ly tham thì cần phải thu nhiếp lục tình, phòng hộ tâm ý bản thân. Vọng tưởng không sinh thì được giải thoát. Cớ gì phải không thấy năm dục mới không sinh tham ái?”.
Vị ấy cũng như kẻ ngốc uống nước kia không khác gì nhau.
Thuở xưa có một người đến nhà bạn chơi, tường vách nhà bạn mới sửa, mặt tường bóng láng, sạch sẽ rất đẹp liền hỏi:
– Anh dùng vật liệu gì để sơn mà vách tường đẹp thế?
Người chủ trả lời:
– Tôi dùng cám trộn với bùn và nước nên được như thế.
Chàng ngốc nghe xong liền tự nghĩ: “Dùng thuần là cám mà còn tốt như vậy. Nếu dùng nguyên lúa trộn với nước và bùn mà quét thì vách tường chắc còn tốt hơn thế nữa.” Thế rồi, anh ta lấy lúa trộn với bùn để quét tường nhà mình, tưởng rằng sẽ bóng láng nhưng trái lại mặt tường bị chỗ lồi chỗ lõm, sứt mẻ đủ chỗ. Đã tốn lúa mà không được lợi ích gì không bằng đem bố thí mà còn có thể được công đức.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Nghe Đức Phật dạy nỗ lực tu hành các thiện pháp, sau khi xả bỏ thân này có thể sinh lên các cõi trời được giải thoát, liền tự sát, hủy bỏ thân mạng mong được giải thoát sinh Thiên. Thế nhưng, đã tự làm hại bản thân mà đối với sự nghiệp tu tập không được chút lợi ích cũng như người ngu vậy.
Thuở xưa có một người bị bệnh hói đầu, đầu không có một sợi tóc. Mùa đông thì lạnh vô cùng, mùa hạ lại nóng bức không thể tả, lại muỗi mòng bu cắn, suốt ngày đêm bực bội. Thật là thống khổ.
Lúc bấy giờ, có một vị lương y đa tài, rất giỏi trị hết nhiều căn bệnh. Anh chàng hói đầu liền đến nhà vị lương y kia thưa thỉnh:
– Mong ngài trị bệnh hói đầu cho tôi.
Vị lương y kia vốn cũng bị bệnh hói đầu nên sau khi nghe xong liền lấy nón ra, đưa đầu hói cho anh ta xem và nói:
– Ta cũng đang khốn khổ vì căn bệnh này, đau khổ vô cùng. Nếu ta có thể trị được bệnh hói đầu thì trước đã trị cho bản thân khỏi khổ não rồi.
Người đời cũng thế, bị sinh, già, bệnh, chết chi phối, làm não loạn, chỉ mong cầu được trường sinh bất tử. Nghe nói nhóm tu sĩ ngoại đạo Bà-la-môn có thần phương diệu dược, trị được mọi khổ não trong đời liền đến thưa thỉnh: “Cúi mong các ngài trị dứt nỗi thống khổ vô thường sinh tử để tôi được sống lâu an lạc đời đời.” Nhóm tu sĩ Bà-la-môn liền trả lời: “Chúng ta cũng đang khổ não vì vô thường sinh, già, bệnh, chết, chỉ mong cầu tìm ra đạo giải thoát nhưng không thể được. Nay chúng ta nếu có khả năng trị cho ngươi thì trước tiên phải tự trị cho bản thân rồi sau mới hướng dẫn cho ngươi.” Bọn họ cũng như người hói đầu kia đang bị trói buộc khổ não trong sinh tử không có khả năng tự giải thoát mà thôi.
Thuở xưa có hai con quỉ Tỳ-xá-xà lượm được một cái rương, một cây gậy và một đôi guốc gỗ. Con nào cũng muốn dành về phần mình, tranh chấp suốt ngày mà vẫn không thể giải quyết cho công bằng được.
Lúc ấy, có một người đi ngang thấy việc trên liền hỏi chúng:
– Rương, gậy, đôi guốc kia có gì lạ thường mà sao các ngươi lại nóng giận giành giật nhau như vậy?
Hai con quỉ đều đáp:
– Rương này của chúng tôi có thể cho tất cả mọi thứ quần áo, đồ ăn uống, ngủ nghỉ như giường, nệm, đồ nằm… các tài sản khác. Tất cả đều từ trong rương hiện ra. Cầm cây gậy này trong tay thì tất cả kẻ thù địch đều quy phục anh không dám chống đối. Mang đôi guốc này anh có thể đi đến phương xa trong nháy mắt.
Người kia nghe xong liền nói với bọn quỉ:
– Các ngươi hãy đi nơi khác một chút. Khi trở lại, ta sẽ phân xử công bằng cho.
Hai con nghe xong tin lời người kia lập tức rời khỏi nơi ấy. Người kia liền ôm rương, cầm gậy, mang guốc bay đi. Hai con quỉ hoảng hốt nhìn theo nhưng không thể làm gì được nữa. Người kia nói với bọn quỷ:
– Những vật mà hai ngươi tranh giành ta đã lấy đi rồi. Các ngươi bây giờ không phải giành giật gì nữa.
Quỷ Tỳ-xá-xà dụ cho ma vương và ngoại đạo. Bố thí cũng như rương báu, tất cả mọi tư tài hưởng dụng của trời người, năm đường đều từ bố thí mà có. Thiền định ví như gậy báu có năng lực hàng phục, tiêu trừ oán tặc, phiền não. Trì giới ví như đôi guốc báu, người giữ giới thanh tịnh chắc chắn được sinh Thiên. Hai con quỉ tranh giành các vật báu cũng như lũ ma, ngoại đạo trong vòng hữu lậu cố công cầu giải thoát, tuyệt nhiên không thể nào được. Người tu hành nếu nỗ lực tu tập các hạnh lành như Bố thí, Trì giới, Thiền định mới có thể viễn ly mọi khổ não, được giải thoát.
42- CON LẠC ĐÀ CỦA NHÀ BUÔN BỊ CHẾT
47- NGƯỜI NGHÈO GIẢ TIẾNG CHIM UYÊN ƯƠNG
49- HAI ĐỨA BÉ TRANH NHAU SỢI LÔNG
50- THẦY THUỐC TRỊ TẬT GÙ LƯNG
51- NĂM NGƯỜI MUA NỮ TỲ CÙNG SAI VIỆC
53- THẦY NHỨC MỎI ĐÔI CHÂN GIAO
54- ĐẦU VÀ ĐUÔI RẮN TRANH NHAU ĐI TRƯỚC
58- HAI NGƯỜI CON PHÂN CHIA TÀI SẢN
63- DIỄN VIÊN MẶC ĐỒ DIỄN QUỈ LA-SÁT
64- MỌI NGƯỜI ĐỒN CÓ ÁC QUỶ TRONG NGÔI NHÀ CỔ
Có một khách thương đi buôn ở phương xa. Giữa đường, lạc đà bỗng lăn ra chết. Trên lưng lạc đà có rất nhiều hàng hóa từ loại hàng trân phẩm quý giá, cho đến các loại hàng nhẹ như tơ lụa và các vật lỉnh kỉnh khác. Sau khi lạc đà chết, vị khách thương lột da để lại rồi sửa soạn đi trước. Ông dặn hai người học trò:
– Các con hãy chăm nom bộ da lạc đà, chớ để bị ẩm ướt.
Sau đó, trời đổ mưa. Hai người đệ tử ngu ngốc đem hết hàng tơ lụa quý phủ lên tấm da lạc đà. Các hàng hóa trân phẩm thương hạng đều bị hư mục.
Giá trị của tấm da lạc đà và hàng hóa quý giá quá chênh lệch nhưng vì ngu ngốc nên họ mới đem đồ tơ lụa che cho tấm da.
Người đời cũng thế. Giới luật cũng như hàng tơ lụa, trân phẩm, tấm da lạc đà dụ cho tiền tài vật chất, trời mưa ẩm ướt ví như sự buông lung, giải đãi phá hoại các hạnh lành. Nghiêm trì giới luật là chánh nhân tối thượng của Phật pháp. Nhưng một số người không chịu nghiêm trì cấm giới chỉ biết đem tiền bạc xây dựng chùa, tháp, cúng dường chư Tăng, bỏ gốc theo ngọn không mong cầu giải thoát nên phải trôi dạt bồng bềnh trong năm đường không tự thân giải thoát được. Do vậy, người tu hành cần phải nỗ lực tinh cần nghiêm trì giới luật.
Có một người đem hết công sức chuyên tâm mài một viên đá lớn. Ngày tháng dần trôi, người ấy đã mài thành một con trâu đá nhỏ để chơi. Anh ta đã dùng quá nhiều công sức cho một mục đích quá đỗi tầm thường.
Người đời cũng thế. Người mài đá ví như sự tinh cần khổ học; làm thành con trâu đá nhỏ dụ cho chốn danh lợi phồn hoa, thị phi phải trái. Đã là người học đạo, suy tư nghiên cứu kinh điển, bác học đa văn lẽ ra phải lấy mục đích cầu đạo quả cao siêu, cớ sao chỉ mong cầu danh lợi, cống cao ngã mạn chỉ làm tăng thêm tội lỗi mà thôi.
Có người đói bụng nên mua bảy cái bánh rán để ăn. Ăn được sáu cái rưỡi thì quá no, anh ta sinh ra hối hận, bực bội, dùng tay tự đánh mình, thốt lên:
– Ta nay ăn nửa cái bánh này thì no, sáu cái bánh nãy giờ chắc đã tiêu hết. Biết vậy phải chi ta chỉ ăn nửa cái bánh này cũng đủ no, cần gì ăn sáu cái bánh trước nữa chứ.
Người đời cũng thế. Từ xưa đến nay, luôn trú trong cảnh bất lạc nhưng lại si mê tưởng là sống trong cảnh an vui. Cũng như chàng ngốc trên cứ ngỡ rằng no là vì ăn nửa cái bánh. Thế gian ngu muội quan niệm giàu sang là vui. Thế nhưng những kẻ giàu có trên đường lập nghiệp đã rất cực khổ, thành tựu rồi phải nhọc lòng giữ gìn, bảo quản cũng rất khổ, đến khi tài sản tiêu tán sinh nhiều ưu sầu cũng khổ. Trong cả ba giai đoạn đều không có gì là an lạc. Cũng thế, người đời xem việc ăn mặc là sung sướng, sống trong khổ đau, cay đắng, cứ ngỡ là vui sướng. Do vậy, chư Phật dạy: Ba cõi không yên đều chứa đầy nỗi khổ ngút ngàn. Phàm phu mê lầm, loạn tưởng là hỷ lạc.
Có người dự định đi xa, gọi người đầy tớ đến bảo:
– Ngươi phải cẩn thận xem chừng cửa nẻo và xem lại dây buộc con lừa có chắc không.
Sau khi người chủ rời khỏi nhà, nhà láng giềng có tiếng đàn ca xướng hát, người đầy tớ muốn sang nghe nhưng không yên tâm nên y lấy dây buộc cánh cửa đặt trên lưng lừa rồi dắt lừa đến đó nghe nhạc.
Người đầy tớ vừa đi khỏi, bao nhiêu tài sản trong nhà đều bị kẻ trộm khiêng đi hết. Chủ nhà trở về thấy thế hỏi gã:
– Tiền bạc, tài sản trong nhà đâu mất cả rồi? Gã ta liền đáp:
– Hồi nãy, ông chủ bảo con phải giữ cánh cửa, con lừa và dây buộc lừa. Ngoài ba món đó ra, những thứ còn lại con đâu có biết.
Người chủ mắng:
– Ta bảo ngươi canh giữ cửa nẻo chính là vì tiền bạc, tài sản. Nay tiền bạc, đồ vật đã mất cả thì các cánh cửa kia còn dùng vào việc gì nữa.
Những kẻ dại khờ đang chìm đắm trong vòng sinh tử cũng giống như gã đầy tớ tham ái. Đức Phật từng dạy các đệ tử phải luôn nghiêm trì tịnh giới như canh giữ cửa chính, không vướng mắc sáu trần, phòng hộ con lừa vô minh, xem chừng dây tham ái. Thế nhưng, các Tỳ-kheo không phụng trì lời Phật dạy, tham cầu lợi dưỡng, giả hình tướng nghiêm trang, thanh tịnh; an tọa nơi tịch tĩnh mà mọi suy tư thả trôi theo tham đắm năm dục; bị sắc, thanh, hương, vị làm não loạn; bị lưới vô minh, dây tham ái ràng buộc mọi suy tư chánh niệm tỉnh giác khiến bao nhiêu thánh tài đều mất hết.
Có một nhóm người cùng làng trộm một con trâu để ăn thịt. Người chủ mất trâu tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng đến ngôi làng ấy. Anh ta mời bọn người kia đến để cật vấn, dò tìm tung tích. Anh ta hỏi bọn chúng:
– Các ngươi ở tại làng này phải không? Anh chàng trộm trâu trả lời:
– Chúng tôi quả thật không phải ở tại làng này. Người chủ trâu lại hỏi:
– Trong làng của người có một cái ao. Có phải các ngươi giết trâu ăn thịt bên cạnh bờ ao đó phải không?
Tên trộm đáp:
– Làng tôi chẳng có cái ao nào cả. Anh chàng mất trâu hỏi tiếp:
– Bên cạnh ao có một cái cây?
Gã ta chống chế:
– Đâu có cái cây nào. Người tìm trâu gặng hỏi:
– Có phải khi trộm trâu ngươi đang ở phía Đông của làng này không?
Y liền cãi:
– Làm gì có phía Đông. Người chủ mất trâu hỏi tiếp:
Thế có phải các ngươi ăn trộm trâu lúc chính ngọ không?
Tên trộm liền đáp:
– Làm gì có chính ngọ.
Người chủ trâu căn vặn ngay:
– Nãy giờ các ngươi bảo không ở trong làng cho đến không có cây thì cũng tạm được nhưng cũng chẳng lẽ trong trời đất này lại không có phương Đông, không có thời gian sao? Do vậy mà biết bọn ngươi nói dối, không thể nào tin được. Chính các ngươi đã trộm trâu của ta để ăn thịt phải không?
Bọn trộm đều thú nhận:
– Vâng, chính chúng tôi đã trộm trâu ăn thịt.
Người phá giới cũng như thế. Che giấu tội lỗi không chịu phát lộ sám hối, sau khi chết phải đọa địa ngục. Đến khi chư Thiên và chư vị Thiên thần dùng Thiên nhãn xem xét thì dẫu muốn che giấu thì không thể được ví như bọn trộm trâu kia không thể chối cãi được.
Thuở xưa tại một nước ngoài, đến ngày khánh tiết, tất cả phụ nữ đều trang điểm bằng loại hoa Ưu- bát-la. Trong nước đó, có một người rất nghèo. Đến ngày ấy, người vợ nói với chồng:
– Anh quá nghèo không thể mua hoa Ưu-bát- la. Nay anh phải tìm cách kiếm về cho tôi thì tôi mới còn làm vợ anh. Nếu không tôi sẽ xin ly dị.
Từ thuở nhỏ, người chồng có tài khéo giả tiếng chim uyên ương nên anh ta liền lẻn vào ao vua giả tiếng chim uyên ương để thừa cơ trộm bông Ưu- bát-la. Lúc đó, người giữ ao phát hiện được, quát lớn:
– Ai ở trong ao đó?
Người nghèo kia buột miệng trả lời:
– Tôi là chim uyên ương.
Người giữ ao liền bắt anh ta giải đến chỗ vua. Trên đường đi, anh ta cứ giả tiếng chim uyên ương kêu mãi. Người giữ ao nghe thế nói:
– Hồi nãy ngươi không giả kêu, nay lại giả kêu mãi. Sao vô ích thế?
Người ngu trên đời cũng thế. Trọn đời làm mọi điều tàn bạo, gây tạo nghiệp ác, không hướng tâm tu tập thiện hạnh. Đến khi sắp mạng chung lại nói: “Tôi nay muốn tu tập các điều thiện” thì quỉ tốt đã dắt đi trình diện Diêm-la vương. Dẫu muốn tu thiện cũng không thể được nữa cũng giống như người ngu kia trên đường áp giải đến chỗ vua lại cứ giả tiếng chim uyên ương vậy.
Có một con chó rừng nằm dưới gốc cây. Gió thổi qua khiến một nhánh cây gãy rơi xuống đập lên lưng nó. Chú chó liền bỏ chỗ đó chạy đến khoảnh đất trống nằm tiếp, mắt nhắm nghiền không muốn nhìn lại gốc cây kia. Đến chiều chú ta vẫn không chịu rời nơi ấy. Một lúc sau, mở mắt ra thấy gió thổi làm các nhánh trên tàng cây to rung động lên xuống liên hồi liền tự nhủ: “Cây gọi ta trở về chỗ cũ.”
Một số đệ tử dại khờ của Đức Phật cũng như thế. Đã xuất gia được gần gũi bậc Tôn sư trưởng thượng, bị thầy rầy la đôi chút lại rời bỏ ra đi. Về sau gần gũi với bạn bè ngu ác, phiền não nỗi lên làm loạn động tâm trí lại muốn trở về với thầy. Đi đi lại lại như thế thật là ngu muội.
Thuở xưa có hai đứa bé đến bờ sông chơi, vớt được một sợi lông trên mặt nước. Đứa bé thứ nhất nói là sợi râu của Tiên, đứa thứ hai lại bảo là lông gấu. Lúc bấy giờ, có một vị Tiên đang ở cạnh bờ sông. Hai đứa trẻ vẫn tranh luận không ngớt nên cuối cùng phải nhờ vị Tiên phân xử. Vị Tiên thò tay lấy ra một nắm gạo và hột gừng, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến một hồi rồi nhả ra trên bàn tay, bảo chúng:
– Vật trong tay ta thật giống như phân chim Khổng tước.
Rồi vị Tiên không giải đáp gì nữa đối với câu hỏi của hai đứa trẻ. Mọi người đều biết chuyện trên.
Những kẻ ngu si trên đời cũng như thế. Có người khi giảng giáo lý cứ ưa lý luận suông, viễn vông, mơ hồ, còn ý chính lại không chịu giảng rõ cũng như vị Tiên kia không trả lời đúng nghi vấn của hai đứa trẻ nên bị mọi người cười chê. Thuyết giảng một cách mơ hồ, không căn cứ cũng lại như thế.
Có một người bẩm sinh bị tật gù lưng. Anh ta liền mời một thầy thuốc đến trị tật gù. Người thầy thuốc lấy sữa bò thoa trên lưng, đặt thân mình anh ta vào giữa hai tấm ván rồi cứ ra sức ép chặt lại mà không biết đôi mắt của người bệnh đã lòi cả ra ngoài.
Người ngu trên đời cũng thế. Có người vì muốn tu phước bố thí nên cố công kiếm tiền bằng cách mua rẻ bán đắt, tranh đoạt, giành giật; làm mọi điều phi pháp. Tuy nhiên lợi bất cập hại, trong tương lai phải đọa địa ngục cũng như đôi mắt của người gù trên bị lòi cả ra ngoài vậy.
Có năm người hùn tiền mua một cô tớ gái.
Người thứ nhất trong bọn sai cô tớ gái:
– Con giặt cho ta bộ quần áo.
Ngay khi đó, có một người nữa cũng sai cô bé giặt áo cho anh ta. Cô tớ gái liền thưa:
– Chút nữa con sẽ giặt. Bây giờ con phải giặt bộ quần áo này cho ông chủ kia.
Người kia nổi giận nói:
– Ta cùng hắn bỏ tiền ra mua ngươi. Tại sao ngươi chỉ giặt riêng cho hắn.
Nói xong, y liền đánh cô bé mười roi. Cả bốn người kia cũng thế. Rốt cục cả năm người, mỗi người đều đánh cô ta mười roi.
Năm ấm cũng thế. Thân này vốn do các nhân duyên phiền não hội hợp thành. Vì thế chúng sinh mang thân năm ấm này phải mãi mãi chịu sinh, già, bệnh, chết và vô số bệnh đau áp bức, hành hạ.
Có một người kỹ nữ ra sức múa hát cho vua thưởng thức. Nhà vua hứa thưởng một ngàn đồng. Sau khi vua xem xong, cô ta theo vua xin tiền thưởng nhưng nhà vua đã không cho còn bảo cô ta:
– Ngươi múa hát cho trẫm thưởng thức chẳng qua là một trò vui tiêu khiển cho trẫm. Trẫm hứa thưởng tiền cũng chỉ là một trò vui cho ngươi vậy thôi.
Quả báo trong đời cũng thế. Được tái sinh làm người hay ở thiên giới, hưởng đôi chút vui vẻ, khoái lạc đều là không thật. Khi vô thường kéo đến thì mọi thứ đều tiêu hoại, không bao giờ bền lâu mãi mãi cũng như trò vui hư vọng kia vậy.
CHO
HỌC TRÒ CHĂM SÓC
Một vị thầy có hai người đệ tử. Hai chân vị thầy nhức mỏi nên giao cho hai người đệ tử mỗi người một chân để xoa bóp. Hai người đệ tử này ngày thường rất ghét nhau. Một hôm, người đệ tử kia đi vắng, người đệ tử còn lại liền lấy đá đập gãy cái chân mà người đệ tử kia chăm sóc. Người kia trở về thấy thế nổi giận tóm ngay cái chân mà người đệ tử này thường xoa bóp đập gãy đi.
Người học Phật pháp cũng như thế. Người học theo giáo lý Phương đẳng (Đại thừa) bài bác những người học theo giáo lý Tiểu thừa. Người học theo giáo lý Tiểu thừa cũng khinh chê người học theo giáo lý Phương đẳng. Chính vì thế, kinh điển Thánh pháp tối thượng của cả hai tôn đều bị tổn hại.
Có con rắn, đuôi và đầu tranh nhau. Đuôi rắn bảo đầu rắn:
– Phải để ta đi trước.
Đầu rắn bảo với đuôi rắn:
– Từ trước đến nay ta luôn đi trước. Sao hôm nay ngươi đòi đi ngược vậy?
Nói xong, đầu rắn liền chuyển mình bò đi trước. Đuôi rắn liền quấn ngay lấy thân cây, đầu rắn không cách nào tiến lên được nên phải nhường cho đuôi rắn đi trước. Nhưng ngay lập tức toàn thân rắn rơi xuống hầm lửa, bị thiêu cháy mà chết. Đạo thầy trò cũng như thế. Có một số đệ tử chê thầy đã già cả suy yếu mà mãi giữ vai trò lãnh đạo. Ta nay tuổi trẻ thanh xuân, lý ra phải giữ vai trò lãnh đạo ấy. Tuy nhiên vì tuổi còn trẻ, không nghiêm trì giới luật phạm nhiều lầm lỗi. Do vậy, tương lai phải rơi vào địa ngục.
Thuở xưa có một vị vua có một người hầu cận trung tín. Trong khi ra trận, vị ấy đã xả thân cứu mạng đức vua. Nhà vua rất vui muốn thưởng anh ta liền hỏi:
– Ngươi muốn cầu xin điều gì, trẫm sẽ ban cho. Người hầu cận ấy liền tâu:
Hạ thần chỉ mong bệ hạ cho phép được cạo râu cho bệ hạ mỗi khi ngài cạo râu.
Vua nói:
Nếu đó là tâm ý của khanh, trẫm sẽ chuẩn tấu cho khanh.
Mọi người biết được chuyện ấy đều chê cười người ngu ấy. Xin làm đại thần cai trị nửa vương quốc còn có thể được hoặc chí ít phải xin tài sản sự nghiệp.
Người ngu cũng thế. Chư Phật trong vô lượng kiếp tu tập các hạnh khó làm, khổ hạnh mới được thành Phật. Nếu đã được gần gũi Phật pháp phải biết thân người khó được ví như rùa mù gặp được bộng cây nổi. Cả hai việc khó được nay đã được rồi nhưng tâm ý hạ liệt chỉ vâng giữ một vài giới lại cho là đã đủ, không có ý cầu giáo pháp vi diệu giải thoát, Niết-bàn an lạc, không có chí cầu tiến, tự làm các việc sai quấy mà cho là đã đủ.
Thuở xưa có hai người cùng đi trên đường bỗng gặp một người cố sức đẩy một chiếc xe chở vừng sống đang nằm giữa đường núi gập ghềnh, không thể tiến lên được. Khi đó, chủ xe bảo hai người kia:
– Xin hai anh giúp tôi đẩy chiếc xe ra khỏi đường núi gập ghềnh này.
Hai người kia nói:
– Anh sẽ trả ân chúng tôi cái gì đây? Người chủ xe trả lời:
– Không có vật gì để đền ân cho hai anh cả.
Hai người kia liền giúp đẩy chiếc xe đến chỗ bằng phẳng, rồi bảo với người chủ xe:
– Hãy trao cho chúng tôi vật đó. Người chủ xe liền nói:
ấy.
– Không có vật gì cả.
Hai người kia cứ cố kèo nài:
– Thì anh cứ cho chúng tôi cái vật “không có”
Một trong hai người mỉm cười bảo:
Anh ta không chịu cho. Phải chăng vì không có đủ nên có vẻ ngượng ngập, âu sầu như thế.
Người thứ hai bảo:
Anh ta nói cho chúng ta cái “không có” tức là anh ta không có vật gì để cho chúng ta cả.
Người thứ nhất bỗng hiểu ra liền nói:
– À! Hai chữ “không có” hợp lại chỉ là tên gọi giả mà thôi.
Kẻ phàm phu tục tử vướng mắc vào khái niệm “không” nên sa lạc vào cảnh giới “vô sở hữu”. Người thứ hai nói: không có vật gì tức là thể nhập ý: Vô tướng, Vô tác, Vô nguyện.
Thuở xưa có vị trưởng giả rất giàu có. Bọn người hầu thân cận muốn đẹp lòng ông nên hết sức cung kính. Khi vị trưởng giả khạc nhổ, bọn người hầu tranh nhau lấy chân giẫm lên. Có một gã ngốc đến trễ, không giẫm được nên tự nhũ:
– Nếu ông ta khạc đàm dưới đất, mọi người sẽ tranh nhau giẫm. Vậy khi ông muốn khạc nhổ, ta phải giẫm trước mới được.
Đúng lúc đó vị trưởng giả kia muốn khạc đàm. Chàng ngốc nọ liền đưa chân đạp thẳng vào miệng vị trưởng giả khiến ông ta môi bị rách, răng bị gãy.
Vị trưởng giả quát lên:
– Tại sao ngươi lại đạp vào miệng ta? Chàng ngốc trả lời:
– Nếu để ngài khạc đàm xuống đất thì bọn hầu cận tranh nhau đạp mất. Khi đó, con muốn giẫm nhưng thường đến trễ, không kịp giẫm. Do thế, khi ngài sắp nhổ ra con tranh thủ giẫm trước chỉ mong muốn làm đẹp ý ngài mà thôi.
Phàm làm việc gì cần phải xem xét thời thế. Khi chưa đến thời dù có trù mưu đặt kế, gắng công hết sức cũng không thể được. Trái lại còn chuốc khổ não vào thân. Do vậy, người đời qua câu chuyện này khi làm việc gì cần phải biết xem xét khi nào phải lúc, khi nào chưa phải lúc.
Thuở xưa, tại nước Ma-la có một người thuộc dòng Sát-đế-lợi mắc bệnh ngặt nghèo. Ông ta biết mình sắp chết nên cho gọi hai người con lại nghiêm huấn:
– Sau khi cha chết, hai con phải khéo phân chia tài sản trong nhà.
Sau khi cha chết, hai người con tuân theo lời dạy của cha chia tài sản thành hai phần. Nhưng người anh lại bảo người em phân chia không công bằng. Lúc ấy có một ông lão ngờ nghệch nghe chuyện liền bảo:
– Để lão dạy hai người cách phân chia tài sản cho đồng đều. Các vật trong nhà đều phải cắt làm đôi. Cắt làm đôi là thế nào? Tất cả quần áo đều phải cắt làm hai mảnh, bàn ghế cũng phải cưa đôi ra, chén bát trong nhà cũng đập ra làm đôi. Tiền cũng cắt thành hai phần.
Hai anh em nghe theo lời, tất cả tài sản, vật dụng trong nhà cắt làm đôi chia nhau. Mọi người nghe hai anh em phân chia tài sản như thế đều cười chê.
Những kẻ ngoại đạo tu tập, say đắm việc luận lý, phân biệt cũng thế. Phàm nói về luận lý có bốn loại. Có loại luận lý khẳng định, cũng như nói: “Tất cả con người đều phải chết”, đó là loại luận lý khẳng định. Khi nói: “Con người chết có chết ắt phải có sống”, là loại luận lý phân biệt. Khi nói: “Tham ái tận trừ không còn tái sinh, còn tham ái thì phải tái sinh”, cũng là loại luận lý phân biệt.
Có người đến hỏi: “Phải chăng con người là tối thắng?”. Nếu không trả lời được, phải dùng loại luận lý phản vấn đề để đáp: “Câu ông hỏi là đối với ba đường ác hay đối với các cõi trời. Với câu hỏi trên thì trong ba đường ác, con người thắng vượt hơn tất cả. Nhưng nếu câu hỏi của ông đối với hàng chư Thiên thì con người không phải là tối thắng.” Luận lý như thế gọi là luận lý phản vấn.
Nếu có người hỏi về mười bốn nạn hay hỏi về vấn đề thế giới và chúng sinh có giới hạn hay không có giới hạn, có khởi đầu kết thúc hay không có khởi đầu và kết thúc. Cách luận vấn này gọi là luận lý đặt vấn đề.
Một số ngoại đạo si mê, tự phụ là bậc Trí, khinh chê bốn loại luận lý trên, tự tạo ra một loại luận lý phân biệt riêng cũng như hai anh em ngu ngốc trên muốn phân tài sản lại đem tiền cắt đôi làm hai vậy.
Có hai người cùng đi họp hội nghị. Đi giữa đường, thấy một người thợ làm đồ gốm chân đạp bánh xe quay, tay nắn các bình sứ, cả hai chàng cùng dừng chân đứng lại xem. Sau một lúc, một người rời đó đi đến hội nghị nên được thưởng thức một bữa tiệc rất ngon lại còn được tặng các vật phẩm quý giá. Người kia vẫn ở lại xem người thợ làm đồ gốm. Anh ta nghĩ: “Ta cứ đợi để xem người thợ làm xong một cái bình đã.” Nhưng dần dà cả ngày mà anh ta vẫn không xem được người thợ làm xong một cái bình nào. Không những thế mà anh ta còn mất luôn bữa tiệc và tặng phẩm ở hội nghị. Người ngu cũng như thế. Bị việc đời ràng buộc, không thức tỉnh trước cơn vô thường đưa đẩy.
Ngày nay toan tính việc Mai kia tạo nghiệp duyên Chư Phật, Đấng Long Tượng Lôi âm rền thế gian Mưa pháp tuôn vô ngại Duyên nghiệp trần, xao lãng Chẳng tường sinh tử đến Mất lần giống Phật tâm Chẳng được pháp trân bảo Thường trú trong ác đạo Phóng dật bỏ chánh pháp Như người xem làm gốm Rốt cục cũng thành không Vì thế mất pháp lợi Mãi mãi không giải thoát.
Thuở xưa có một chàng ngốc đi dạo đến một con sông lớn. Anh chợt thấy lấp loáng ánh gì trong nước tựa như vàng. Anh ta hét lên: “Có vàng!” rồi nhảy tùm xuống nước, khuấy bùn lên để tìm. Kiếm một hồi mệt nhoài nhưng chẳng được gì, anh ta leo lên bờ ngồi nghỉ mệt. Đợi đến lúc bùn lắng, nước trong chàng ta lại thấy sắc vàng hiện lên nên lại lặn xuống khuấy bùn để tìm nhưng cũng không tìm được gì. Lúc đó, người cha đi tìm con. Đến bờ sông, gặp anh ta ông liền hỏi:
– Con làm gì mà sao có vẻ mệt nhọc thế? Anh ta thưa cha:
– Trong nước có vàng nên nãy giờ con lặn xuống khuấy bùn để tìm. Tìm kiếm đã mệt nhoài nhưng vẫn không được gì.
Người cha nhìn bóng vàng trong nước, đoán biết có vàng ở trên cây nên bóng của nó mới hiện xuống dòng nước. Ông liền bảo:
– Chắc hẳn có con chim nào ngậm vàng rồi để lại trên tàng cây kia.
Người con theo lời cha leo lên cây tìm quả nhiên nhặt được vàng.
Kẻ phàm phu ám muội Vô trí cũng như trên Thân ấm là vô ngã Lầm tưởng là ngã thân Như người trông vàng ánh Lao khổ vì vàng cân Phí sức chẳng thành công.
NGƯỜI
Giáo đồ của đạo Bà-la-môn thường tuyên truyền rằng: Đại Phạm thiên vương là cha của toàn thế gian, có năng lực sáng tạo ra muôn loài, vạn vật.
Đấng Phạm thiên có một người đệ tử luôn nói với mọi người: “Tôi cũng có năng lực tạo ra muôn loài, vạn vật.” Thật là kẻ ngu si mà tự đề cao là có trí. Một hôm, y đến thưa với Phạm thiên:
– Con muốn sáng tạo ra muôn vật. Phạm thiên vương liền ngăn cản:
– Chớ có ý tưởng ấy! Ngươi không có năng lực để làm việc đó đâu.
Không màng đến lời dạy của Phạm thiên, y vẫn giữ nguyên ý muốn sáng tạo ra muôn vật. Đến khi Phạm thiên vừa trông qua vật mà tên đệ tử tạo ra liền nói:
– Ngươi tạo ra sinh vật gì mà đầu thì to, cổ quá nhỏ, bàn tay quá lớn mà cánh tay lại cực bé, bàn chân nhỏ tí mà gót chân lại cực kỳ đồ sộ. Vật ngươi tạo ra thật giống như quỉ Tỳ-xá-xà vậy.
Việc Phạm thiên tạo ra muôn vật trong truyện trên cần phải hiểu là mỗi sinh vật trong thế gian đều do nghiệp báo tạo ra chẳng phải do Phạm thiên sáng tạo.
Chư Phật thuyết pháp không bao giờ vướng mắc vào nhị biên, không chủ trương “đoạn diệt” cũng chẳng chủ trương “thường trú”. Ví như Đức Thế Tôn thuyết Bát chánh đạo, bọn ngoại đạo nghe xong hoặc chấp đoạn diệt, hoặc chấp thường trụ, rồi lừa dối thế gian kêu gọi tô Phật tượng cúng dường. Những điều như thế thật không phải là chánh pháp.
Thuở xưa có một người lâm trọng bệnh, lương y đến xem mạch xong nói:
– Ông phải thường ăn một con gà con thì bệnh có thể sẽ thuyên giảm.
Người bệnh kia theo lời sai người ra chợ mua một con gà con về ăn thịt, nhưng y chỉ ăn một con rồi không ăn nữa.
Sau đó, vị lương y đến xem mạch hỏi y:
Bệnh tình của ông có thuyên giảm chút nào không?
Người bệnh kia trả lời:
– Bữa trước thầy dạy tôi phải thường ăn thịt gà con vì vậy nay tôi đã ăn hết một con rồi không dám ăn nữa.
Vị lương y nói:
– Nếu ông đã ăn hết một con rồi tại sao không ăn nữa. Ông tưởng rằng chỉ ăn có một con gà thì bệnh có thể lành sao?
Tất cả ngoại đạo đều như thế. Nghe chư Phật, Bồ-tát, các bậc Y vương vô thượng dạy: “Phải tập làm chủ, thấu triệt tâm thức”, chúng ngoại đạo liền chấp thủ thường kiến, chủ trương: “Trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ có thức là thường trú không biến đổi.” Bọn họ cũng như người bệnh kia chỉ ăn có một con gà nên không thể trị lành căn bệnh phiền não, mê hoặc. Chư Phật, bậc Đại trí dạy họ phương pháp đoạn trừ bệnh chấp thường: “Tất cả các pháp sinh diệt trong từng niệm tưởng, tại sao chỉ có thức là mãi mãi tồn tại, không biến đổi.” Cũng như vị lương y dạy người bệnh kia ăn thịt gà con để lành bệnh, Đức Phật cũng thế, dạy chúng sinh hiểu rõ các pháp vốn biến hoại không thường trú nhưng các pháp cũng vốn tương tục sinh khởi chẳng phải đoạn diệt hoàn toàn để trừ căn bệnh “chấp thường”, “chấp đoạn” của họ.
KHIẾN
MỌI NGƯỜI KINH HÃI
Thuở xưa tại nước Càn-đà-vệ có một đoàn ca kịch gặp lúc đói kém nên phải tha phương cầu thực trình diễn kiếm sống. Trên đường họ đi ngang qua núi Bà-la-tân. Nơi đây nghe đồn có nhiều ác quỉ
La-sát chuyên ăn thịt người. Lúc đó, đoàn phải trú qua đêm trong núi. Gió núi thổi lốc từng cơn lạnh lẽo nên họ phải đốt lửa để ngủ. Trong đoàn có một người sợ lạnh nên lấy bộ đồ diễn kịch vai quỷ La- sát bận vào rồi đến ngồi bên đống lửa. Vào nửa đêm, một người trong đoàn thức dậy chợt thấy bên đống lửa có một con quỷ La-sát. Anh ta không chịu xem kỹ đã co chân bỏ chạy, làm kinh động đến tất cả bạn diễn trong đoàn khiến mọi người đều bỏ chạy tứ tán. Thấy bọn người kia bỏ chạy, anh chàng trong lớp áo diễn La-sát cũng chạy đuổi theo. Các người bạn trong đoàn thấy anh ta đuổi theo sau, la lên: “Ôi! Nó muốn ăn thịt bọn ta kìa!”. Nỗi kinh hoàng tăng lên gấp bội, họ càng ra sức chạy như điên, vượt núi, băng sông, chẳng kể lạch ngòi, đá sỏi. Thân thể cả bọn đều bị thương tích, tinh thần tán loạn. Đến khi trời sáng, họ mới vỡ lẽ không phải quỷ.
Người đời cũng thế. Ở trong phiền não, thiếu pháp chân thiện nên muốn đi xa để mong cầu pháp thực tối thượng thường, lạc, ngã, tịnh nhưng lại chấp năm ấm là ngã. Vì ngã kiến nên họ bị trôi lăn, rong ruỗi trong đường sinh tử, phiền não theo đuổi, không được tự tại rơi vào đường chông gai sỏi đá tam đồ ác thú. Đến khi trời sáng ví như đêm đen sinh tử bị ánh sáng trí tuệ quét sạch mới tỏ rõ năm ấm không phải là chân ngã.
Thuở xưa có một ngôi nhà cổ. Thiên hạ đồn rằng có một con quỉ hung tợn đang trú ngụ trong đó. Mọi người đều sợ hãi, không ai dám vào trong nghỉ qua đêm. Bấy giờ, có một anh chàng vỗ ngực tự cho là rất can đảm, tuyên bố:
– Tôi sẽ nghỉ qua đêm trong ngôi nhà đó.
Đêm đến, anh vào ngủ trong ấy. Khi đó, có một người cũng tự xưng là can đảm, dũng khí hơn cả người kia. Nghe bạn nói có một con quỉ dữ ở trong ngôi nhà đó, anh chàng này liền xung phong vào trong. Khi anh ta đẩy cửa bước vào, người đến trước tưởng là quỷ liền ra sức xô mạnh, chèn cửa không cho vào. Anh chàng đến sau cũng tưởng là có quỷ trong nhà nên dùng hết sức đẩy bật cửa xông vào. Hai người đánh nhau dữ dội. Đến khi trời sáng tỏ nhìn ra mới biết đều không phải là quỷ.
Tất cả người đời cũng thế. Mọi vật trên đời đều do nhân duyên giả hợp, không có chủ thể. Khi phân tích rã rời thì có gì là ngã đâu. Thế mà chúng sinh cứ mãi tính toán phải trái, thiệt hơn rồi sinh ra đấu tranh kiện tụng cũng như hai người kia không khác.
Thuở xưa có người đàn bà tánh tình trắc nết, hư hỏng. Lòng dục bộc phát nên thị nảy ra ý tưởng độc ác giết chồng. Lúc nào chị ta cũng suy nghĩ mưu kế để giết cho được người chồng. Mọi kế hoạch mưu toan đều không tiện lợi. Đúng lúc đó, người chồng được lệnh ra nước ngoài. Chị ta liền lập mưu, bí mật làm các viên thuốc độc để giết chồng. Nàng ta nói gạt người chồng:
– Nay anh đi xa, em rất lo anh đường xa mệt nhọc nên đã làm năm trăm viên thuốc bổ này để anh dùng làm tư lương mang theo bên mình. Anh ra nước ngoài, đến nước người khi nào mệt đói thì có thể dùng.
Nhớ lời vợ, đến nước ngoài anh ta vẫn chưa dùng viên nào. Màn đêm dần buông, anh ta dừng chân nghỉ đêm trong rừng nhưng sợ ác thú nên anh leo lên cây để ngủ, gói thuốc bổ để quên dưới gốc cây. Ngay trong đêm đó, năm trăm tên cướp vừa đánh cướp đúng năm trăm con ngựa và rất nhiều báu vật của quốc vương nước đó cũng dừng chân nghỉ dưới gốc cây kia. Do phải ra sức trốn chạy nên tên nào cũng đói khát mệt nhừ. Thấy dưới gốc cây có gói thuốc bổ lũ cướp liền chợp lấy rồi chia cho mỗi tên một viên. Thuốc độc rất mạnh nên năm trăm tên cướp đều chết ngay tức khắc. Người kia ngủ trên cây đến sáng. Sau khi thức dậy thấy lũ cướp đã chết cả dưới gốc cây. Anh ta bèn lượm một thanh đao chém trên thi thể mỗi tên cướp vài đao rồi mới thâu nhặt tất cả các yên ngựa và của cải châu báu, lùa bầy ngựa đưa về kinh đô nước bạn.
Lúc đó quốc vương nước kia cùng đông đảo quan quân đang trên đường truy tìm bọn cướp cũng vừa tới, gặp anh ta giữa đường. Quan quân bắt giải anh ta đến chỗ vua. Nhà vua hỏi:
– Ngươi là ai? Lấy được ngựa của trẫm ở đâu? Anh ta thưa:
– Thần là dân của quốc gia bên cạnh. Trên đường sang quý quốc, thần gặp phải bọn cường đạo nên đã đánh nhau với chúng. Hiện giờ, bọn cướp năm trăm tên đều chết cả dưới gốc cây đằng kia. Do vậy, thần mới lấy được bầy ngựa và của cải vật báu này đưa về dâng trả cho vương quốc. Nếu bệ hạ không tin thì có thể di gót đến nơi ấy xem qua các vết tử thương do thần chém bọn cướp.
Vị vua liền sai vị quan thân tín đến xem, trở về tâu lại quả đúng lời anh ta nói. Nhà vua rất vui mừng, ngợi khen là việc vô cùng hy hữu, lệnh đưa anh ta về kinh ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu, còn phong anh ta cai quản một tụ lạc.
Một vị cận thần trong triều sinh lòng đố kỵ, tâu lên vua:
– Người ấy là người phương xa đến. Bệ hạ chớ nên quá tin tưởng. Sao bệ hạ lại trọng thưởng và ưu đãi y quá hậu như thế, còn phong tước cho y hơn cả các quan cận thần nữa.
Người ngoại quốc kia nghe được lời ấy liền lớn tiếng thách thức:
– Ai có đủ sức mạnh, dũng khí có thể bước ra cùng tôi thi đấu. Xin mời đến khoảng đất trống kia để thử tài.
Các quan cận thần đều kinh hãi không dám lên tiếng. Lúc bấy giờ, trong nước tại một khu rừng lớn có một con sư tử rất hung tợn hay rình bên đường vồ người ăn thịt. Mọi người không ai dám héo lánh đến con đường kia. Vị cận thần nọ biết việc đó liền tâu lên đức vua:
– Kẻ ngoại bang kia tự xưng là có dũng khí oai hùng, vô địch thiên hạ. Nay nếu y có thể giết con sư tử kia, trừ hại cho nước ta thì mới thật xứng đáng bậc kỳ tài.
Nhà vua nghe lời tâu, ban cho anh ta đao và côn để tìm giết sư tử. Lúc đó, người ngoại quốc kia vâng lệnh vua, can đảm đi đến chỗ mãnh sư.
Con mãnh sư thấy y lập tức rống lên một tiếng kinh hồn, nhảy bổ đến trước mặt. Anh chàng kinh hãi vội vã trèo lên cây. Sư tử há lớn miệng, cất đầu ngó lên cây. Anh ta run bắn lên, sẩy tay rớt thanh đao xuống lại rơi ngay vào họng sư tử. Con mãnh sư chết ngay lập tức. Khi đó, anh ta nhảy nhót vui mừng không thể tả. Khi trở về cung tâu lên, đức vua thưởng cho anh ta còn nhiều gấp bội hơn lúc trước. Tất cả nhân dân trong nước đều kính phục, ngợi khen anh ta vô cùng.
Thuốc bổ của người vợ là sự bố thí không thanh tịnh. Quốc vương phái anh ta đi sứ dụ cho chư vị thiện tri thức. Đến nước khác dụ cho các cõi trời. Giết năm trăm tên cướp dụ cho người tu hành đoạn tận năm dục và các phiền não chứng được quả Tu- đà-hoàn. Gặp vua nước láng giềng dụ cho gặp được các bậc Hiền thánh. Các vị cựu thần sinh tâm đố kỵ của nước láng giềng dụ cho ngoại đạo thấy người trí có thể đoạn trừ phiền não và năm dục liền phỉ báng, cho rằng không có việc ấy. Người ngoại quốc thị oai, lên tiếng thách thức nhưng không một ai trong đám cựu thần kia dám đấu với anh ta ví như ngoại đạo không dám chống cự. Giết sư tử dụ cho người tu tập đoạn các điều ác, trừ phiền não, điều phục được ác niệm liền chứng quả lậu tận. Người kia mỗi khi gặp việc luôn run rẩy dụ cho người tu tập có thể dụng nhược thắng cường, lấy chỗ yếu để thắng cái mạnh.
Chuyện này có ý nghĩa là ban đầu người tu tập tuy không phải tịnh tâm bố thí nhưng được bậc thiện tri thức hỗ trợ, hộ trì thì có thể đạt kết quả thù thắng. Bất tịnh bố thí mà còn như thế, huống chi đem lòng hoan hỷ bố thí để tích góp ruộng phước.
66- MỒM LẨM BẨM CÁCH LÁI THUYỀN, TAY KHÔNG BIẾT LÁI
67- VỢ CHỒNG ĐÁNH CUỘC ĂN BÁNH
69- NOI GƯƠNG TỔ TIÊN ĂN NHANH
74- PHÀM PHU XUẤT GIA MONG CẦU LỢI DƯỠNG
76- NÔNG PHU MƠ TƯỞNG CÔNG CHÚA
86- CHA GIỮ KHUYÊN TAI CHO CON
94- NGỌC MA-NI HAY Lỗ THOÁT NƯỚC
Thuở xưa có một vị đại trưởng giả cùng đoàn thương gia ra biển tìm của báu. Ông ta đọc qua rất nhiều sách dạy phương pháp điều khiển tàu thuyền trên biển nên khoe với mọi người:
– Trên biển, nếu thuyền đi vào vùng nước xoáy hay gặp vùng có đá ngầm thì phải giữ tay lái cho chắc, xem kỹ phương hướng và phải hết sức bình tĩnh.
Ông ta còn thao thao rằng:
– Phương pháp đi biển tôi đều tường tận cả. Mọi người nghe xong rất tin tưởng lời ông nói.
Chẳng bao lâu, khi thuyền đang ở giữa biển, vị thuyền trưởng đột nhiên bạo bệnh qua đời. Vị trưởng giả kia liền thay thế thuyền trưởng điều khiển thuyền. Khi thuyền đi vào vùng nước xoáy, chảy giật dữ dội, ông ta cứ lẩm bẩm trong miệng:
– Phải giữ tay lái cho chắc, xem kỹ phương hướng.
Nhưng thuyền cứ xoay vòng tại chỗ, không cách nào tiến lên để đến cùng nước an toàn. Cuối cùng cả thuyền lẫn đoàn thương gia đều chìm xuống nước táng mạng.
Kẻ phàm phu cũng như thế. Có một số người học qua đôi chút phương pháp thiền quán sổ tức và quán bất tịnh. Tuy rành rõ văn chữ nhưng không hiểu nghĩa lý một cách tường tận. Thật ra họ không hiểu gì mà cứ tự khoe là tường tận mọi phương pháp thiền quán, rồi dối gạt dạy người tu thiền khiến cho tâm họ càng loạn động, mê muội, đánh mất bản tâm, sai lạc ý chỉ. Đến cuối đời, dẫu tuổi cao vẫn không được chút lợi ích gì giống như gã trưởng giả xuẩn ngốc dìm chết mọi người xuống biển vậy.
Thuở xưa có một đôi vợ chồng làm ba cái bánh, chia nhau mỗi người một cái, còn thừa một cái. Cả hai cùng đánh cuộc: Nếu ai lên tiếng trước sẽ bị thua, không được ăn nốt cái bánh kia. Đã đánh cuộc nên vì một cái bánh hai vợ chồng đều im lặng, không ai chịu mở miệng nói một câu nào. Đêm đến, một tên trộm lẻn vào nhà vơ vét tiền của. Tất cả đồ đạc trong nhà đều bị y hốt sạch. Vì lời đánh cuộc nên cả hai người dù tận mắt thấy sự việc nhưng chẳng ai lên tiếng. Tên trộm thấy vậy càng dạn dĩ muốn xâm phạm tiết hạnh của người vợ ngay trước mặt người chồng. Anh chồng cứ giương mắt ngó chứ không chịu mở miệng nói một lời nào. Cô vợ hoảng hốt la ó ầm ỉ:
– Anh thật ngu quá! Cớ sao chỉ vì một cái bánh mà thấy trộm vẫn không kêu tiếng nào cả vậy?
Người chồng liền vỗ tay cười lớn:
– Ha ha! Em đã thua rồi. Cái bánh vậy là thuộc về phần anh nhé!
Mọi người nghe được chuyện đó không ai không chê cười.
Người đời cũng như thế. Vì chút danh lợi nên giả hình tướng trầm mặc, thanh tịnh nhưng nội tâm lại luôn bị phiền não và vô số điều ác chi phối hành hạ, đánh mất thiện niệm, đọa lạc vào tam đồ. Tuy thế, họ vẫn không chút nào kinh sợ, mong cầu xuất ly trái lại cứ mê đắm năm dục. Dù ở trong cảnh đại khổ não mà lòng không chút e ngại cũng như cặp vợ chồng ngu dại kia không khác.
Thuở xưa có một người ôm lòng oán hận với một người kia, tâm trạng sầu khổ, u uất không vui. Có người thấy thế hỏi:
– Dạo này sao anh có vẻ sầu khổ, tiều tụy như thế?
Anh ta trả lời:
– Có một gã cứ nói xấu, mỉa mai tôi thậm tệ. Sức tôi không thể báo thù nỗi. Nay tôi không biết làm cách nào để trả thù hắn để vơi cơn sầu muộn này đây.
Người kia liền nói:
– Chỉ có bài chú Tỳ-đà-la mới có thể hại hắn mà thôi. Tuy nhiên tụng bài chú này có một điều nguy hiểm là chưa hại được gã ta thì ngược lại đã làm hại chính bản thân anh rồi.
Anh chàng nghe xong rất vui mừng nói:
– Rất mong anh dạy cho tôi. Dù phải tự hại bản thân cũng không sao miễn là tôi phải báo được thù, làm cho hắn bị thương tích mới được.
Người đời cũng như thế. Vì nóng giận nên mong ước có chú Tỳ-đà-la để dùng hãm hại, trả thù người. Cuối cùng chưa hại được người mà đã bị lửa sân hận thiêu đốt, làm hại bản tâm, đọa lạc vào tam đồ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh giống như gã ngốc trên không khác.
Thuở xưa có một người từ miền Bắc Ấn đến Nam Ấn cư trú. Ở đó một thời gian dài anh ta cưới được một cô gái, kết nghĩa trăm năm. Một hôm, người vợ vừa dọn cơm lên, anh ta không quản cơm canh nóng hổi, há miệng nuốt lia lịa. Người vợ thấy việc kỳ quái nên hỏi chồng:
– Ở đây chẳng ai giành ăn với anh. Có việc gì gấp lắm sao mà anh ăn uống hấp tấp như thế. Sao không thong thả, từ từ mà ăn?
Người chồng liền đáp:
– Có điều này bí mật lắm! Không thể nói cho em được.
Người vợ nghe thế, cho là nhất định có điều gì đặc biệt lắm nên cứ ân cần theo anh ta hỏi mãi.
Một hồi lâu, anh chàng mới trả lời:
– Tổ tiên nhiều đời của anh đều luôn ăn nhanh như thế. Nay anh phải noi gương tổ tiên nên mới có cái tật ăn nhanh ấy.
Kẻ phàm phu trong đời cũng như thế. Không tường tận nghĩa lý, chẳng phân biệt thiện ác, làm các việc sai quấy mà không biết hổ thẹn lại còn tuyên bố: Cha ông tôi trước nay đều làm theo cách như vậy. Những kẻ như vậy đến tận cuối đời vẫn không thay đổi được cũng như chàng ngốc kia tập ăn nhanh mà còn tự cho là một truyền thống tốt đẹp.
Thuở xưa có một vị trưởng giả muốn ăn trái Tần-bà-la nên sai người hầu mang tiền sang nước khác mua. Ông dặn gã người hầu phải lựa loại trái ngon ngọt, tươi tốt mới mua về. Anh người hầu liền đem tiền đến tận vườn để mua. Người chủ vườn rao rằng:
– Tất cả trái Tần-ba-la trên cây này của tôi đều rất ngon ngọt, không có trái nào hư cả. Anh có thể nếm thử một trái thì đủ biết.
Anh ta nói ngay:
– Nay tôi phải nếm hết tất cả trái Tần-ba-la ở đây rồi mới mua. Nếu chỉ nếm một trái thì làm sao biết được.
Anh ta bèn tự tay hái. Mỗi trái hái xong anh ta đều nếm thử qua trước khi đem về nhà. Vị trưởng giả thấy đống quả Tần-ba-la nham nhở như thế hết còn muốn ăn nữa, sai đem đổ tất cả.
Người đời cũng như thế. Một số người nghe dạy: “Bố thí, giữ giới sẽ được đại phú quý, bình an. Thân luôn được yên ổn, không bị chướng ngại, bệnh tật, tai nạn.” Lại không tin mà nói rằng: “Bố thí thì được giàu sang. Chừng nào tôi được giàu sang thì tôi mới tin.” Nên biết rằng mọi sự giàu sang, nghèo hèn trên đời đều là kết quả của những gì mình đã gây tạo từ trước. Họ không biết rằng muốn khảo xét việc gì phải dựa vào lý nhân quả. Đã không tin còn hủy báng, cố chấp rằng phải tự mình thân chứng. Đến ngày từ giã cõi đời, tài sản tiêu tán hết cũng như gã hầu kia nếm thử trái Tần- bà-la nên cuối cùng phải đổ đi tất cả vậy.
Thuở xưa có người cưới hai người vợ. Mỗi khi gần gũi với người vợ này thì bị vợ kia giận hờn, anh ta rất lúng túng không biết bỏ người nào, lấy người nào. Đêm đến đi ngủ, anh ta cứ nằm giữa hai người vợ, ngửa mặt lên. Đúng lúc đó, trời đổ một cơn mưa lớn. Mái nhà bị dột, nước mưa cuốn bụi đất trên mái chảy xuống vào ngay đôi mắt của anh ta. Anh chành vẫn kiên quyết giữ quyết định của mình không chịu quay đầu tránh. Nước bụi cứ chảy mãi khiến cả hai mắt anh ta đều bị hư.
Kẻ phàm phu trên đời cũng thế. Gần gũi bạn ác, tập các thói hư tật xấu, dần dần tạo nghiệp theo ba đường ác nên mãi mãi trú trong vòng sinh tử, mất hẳn con mắt tuệ cũng như người chồng ngốc nghếch kia chỉ vì hai người vợ nên hai mắt đều bị hư cả.
Thuở xưa có một người cùng vợ trở về nhà thăm cha vợ. Thấy người nhà vợ giã gạo, anh ta bèn lén bốc một nắm cho vào miệng. Thình lình người vợ đi ra muốn tìm chồng bàn chuyện nhưng miệng anh ta đầy cả gạo nên không cách nào nói chuyện được. Anh ta lại ngại vợ mình biết việc nên nhất định không chịu nhổ gạo ra. Thế là anh ta cứ ngậm cứng miệng không nói một câu. Người vợ lấy làm quái lạ: Tại sao chồng mình không nói, bèn lấy tay rờ thử thì thấy miệng anh ta phồng sưng lên liền thưa với cha:
– Chồng con vừa về đến nhà đột nhiên miệng bị sưng phồng lên, không thể nói được.
Cha vợ liền cho mời thầy thuốc đến trị bệnh cho anh ta. Sau khi xem qua, vị thầy thuốc bảo:
– Bệnh này rất nặng phải dùng dao mổ mới có thể trị được.
Nói xong, ông lấy dao mổ rạch lên má anh ta.
Gạo ngậm trong miệng đổ cả ra ngoài. Sự việc lộ ra, mọi người đều biết cả.
Người đời cũng thế. Làm các điều ác, phạm tịnh giới lại cố ý che giấu tội lỗi không chịu phát lộ sám hối, cuối cùng phải rơi vào cảnh địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh cũng như người ngu kia vì một chút sĩ diện, không chịu nhả gạo ra để khi dao mổ miệng thì việc xấu phải lộ ra cả.
Thuở xưa, có một người cỡi một con hắc mã lâm trận đánh giặc. Quá kinh sợ không thể chiến đấu, anh liền lấy máu bôi lên mặt mũi, nằm lẫn vào giữa thi hài các chiến binh tử trận giả như đã chết. Con ngựa của anh cỡi bị người khác đoạt mất. Khi quân lính hai bên rút đi hết, anh ta muốn đào ngũ về nhà nên cắt đuôi một con ngựa trắng của người khác đem về.
Về đến nhà có người hỏi:
– Con ngựa anh cỡi lúc trước đâu. Sau không cỡi nói về!
Anh ta trả lời:
– Ngựa của tôi đã chết. Tôi đã đem cái đuôi của nó về đây.
Người kia liền bảo:
– Con ngựa trước kia của anh lông đen. Nay tại sao đuôi lại thành lông trắng thế này?
Anh chàng lúng túng ngậm câm không trả lời được nên bị mọi người cười chê.
Người đời cũng thế. Miệng luôn nói về việc tu hành, hiền thiện, vì từ bi không ăn thịt uống rượu nhưng cứ giết hại chúng sinh, tăng thêm tội chướng. Dối gạt tự xưng hiền thiện mà không việc ác nào không làm cũng như người ngu kia nói dối ngựa mình đã chết vậy.
Thuở xưa có một vị quốc vương ban hành một luật lệ đối với các Bà-la-môn trong nước của mình là phải tắm rửa sạch sẽ thân thể. Ai không tuân theo sẽ bị đầy đi lao dịch.
Có một Bà-la-môn luôn mang theo bình đựng nước tắm, nói dối rằng:
– Người tắm rửa sạch sẽ là người phải luôn mang theo bình đựng nước tắm bên mình.
Khi có nước lại sai đem đổ đi tất cả còn tuyên bố rằng:
– Tôi chẳng tắm rửa đâu. Vua muốn vậy thì cứ tự tắm một mình đi. Vì theo lệnh vua tôi phải dùng cái bình đựng nước này để tránh hình phạt lao dịch thôi.
Nối dối đã tắm rửa sạch sẽ thật ra chẳng bao giờ tắm cả. Một số kẻ phàm phu xuất gia cũng thế. Mang hình thức đầu tròn, áo vuông nhưng bên trong lại hủy phạm giới cấm, giả hiện nghiêm trì giới luật để mong cầu lợi dưỡng và để trốn tránh trách nhiệm xã hội. Hình thức bên ngoài tương tự Sa-môn nhưng bản chất chẳng phải Sa- môn cũng như gã Bà-la-môn mang bình nước không cho có hình thức vậy.
Thuở xưa có một người nuôi một con lạc đà. Anh ta thường để thức ăn trong ghè cho lạc đà ăn. Một hôm, lạc đà rúc đầu vào ghè để ăn nhưng không thể nào rúc đầu ra được. Anh ta tìm đủ mọi cách nhưng cũng không làm sao kéo đầu nó ra được, nên rất lo lắng, buồn phiền. Có một ông lão đến bảo anh ta:
– Anh đừng buồn bã nữa. Lão sẽ dạy cho anh cách để kéo đầu lạc đà ra khỏi ghè. Anh làm đúng theo lời lão thì chắc chắn sẽ kéo ra rất nhanh. Anh chỉ cần chặt đầu con lạc đà thì tự nhiên đầu sẽ rời khỏi ghè.
Anh ta theo lời ông lão lấy dao chặt phăng đầu con lạc đà. Đã giết chết con lạc đà còn phá bể luôn cái ghè. Người ngu ngốc như thế chỉ khiến người đời cười chê mà thôi.
Những kẻ phàm phu ám độn cũng như thế. Ban đầu phát tâm Bồ-đề, chí cầu đạo quả tam thừa nên nỗ lực nghiêm trì tịnh giới, phòng hộ các điều ác. Nhưng vì năm dục nên phá hủy tịnh giới, xa lìa đạo quả tam thừa, buông lung tâm ý, không điều ác nào không làm. Đạo quả tam thừa lẫn tịnh giới đều bị mất cũng như chàng ngốc trên mất cả lạc đà lẫn cái ghè vậy.
Thuở xưa có một nông phu lên kinh thành chơi. Tình cờ anh ta thấy được nhan sắc tuyệt trần của nàng công chúa con vua. Anh ta trở về ngày đêm tưởng nhớ không nguôi nghĩ mãi không biết cách nào để gặp được giai nhân. Mặt mũi chàng ta dần dần trở nên vàng vọt, bơ phờ rồi lâm trọng bệnh.
Người thân trong nhà thấy thế hỏi anh ta:
– Vì sao bệnh lại ngặt nghèo như thế?
Anh ta thổ lộ nguồn cơn với người thân:
– Con tình cờ thấy được dung nhan kiều diễm của công chúa nghĩ mãi không tìm ra cách nào để gặp được nàng nên vì vậy sinh bệnh. Nếu không gặp được nàng chắc con chết mất.
Cha mẹ anh ta liền bảo:
– Cha mẹ sẽ tìm hộ con phương cách tốt nhất để con được toại nguyện. Con chớ nên sầu não nữa.
Vài ngày sau, gia đình và bạn bè đến thăm bảo anh ta:
– Cha mẹ và bạn bè đã tìm cách gặp được công chúa cho em rồi nhưng chỉ vì công chúa không ưng ý mà thôi.
Chàng nông phu nghe xong vui mừng tươi cười nói lớn:
– Chắc chắn được mà!
Những kẻ ngốc trên đời cũng như thế. Không phân biệt rõ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của thời tiết. Vào mùa đông giá rét lại đem giống ra gieo hy vọng gặt được lúa. Đã tốn công mà không cách nào chăm sóc được nên cả mầm, thân, nhánh, lá đều hư thối cả. Có người tu tập hưởng được chút ít phước báo liền tự cho là đã đủ, tuyên bố có thể đạt thành đạo quả Bồ-đề cũng như anh nông phu kia hy vọng công chúa sẽ ưng thuận vậy.
Thuở xưa có người ở vùng biên ải chưa hề biết con lừa ra sao cả. Nghe người ta đồn sữa lừa rất ngon nhưng họ cũng chưa biết sữa lừa như thế nào. Sau đó, cả bọn bắt được một con lừa đực. Thế là, vì muốn uống sữa lừa nên họ tranh nhau tóm. Có người bóp đầu lừa tìm sữa, có người cắn lỗ tai, có người vặn đuôi, có người tìm ở chân, lại có người nắm lấy sinh thực khí của chú lừa để tìm. Mỗi người đều muốn tìm ra trước để uống. Đúng lúc, con lừa bỗng tiểu tiện. Người đang nắm sinh thực khí la lớn: “Ôi! Sữa lừa đây này.” Cả bọn xúm lại hứng nước tiểu mà cứ ngỡ là sữa lừa. Rốt cục cả bọn mệt nhoài mà chẳng ai tìm được sữa. Tự mình làm khổ bản thân mà không được chút lợi ích gì nên bị mọi người chê cười.
Những kẻ ngoại đạo phàm phu cũng như thế. Nghe nói tu hành, học đạo không phụ thuộc vào pháp môn tu tập nên vọng tưởng sinh ra các loại tà kiến hoặc lõa thể, hoặc nhịn đói, hoặc trú trong rừng núi, hoặc nhảy vào lửa. Các loại tà kiến như thế đều rơi vào ác đạo cũng như những người ngu vọng cầu sữa lừa trên vậy.
Thuở xưa có một người tối đó dặn con:
– Sáng mai con phải dậy sớm cùng cha đến ngôi làng kia có việc cần.
Đứa con nghe nói mình được đi nên sáng sớm không hỏi ý cha đi một mình đến đó. Đến nơi đó rồi, thân thể mệt mỏi vô cùng nhưng không biết phải làm gì, lại chưa ăn uống gì nên đói khát tưởng chừng sắp chết, nên anh ta vội quay về nhà. Về tới nhà gặp cha, người cha thấy con trở về la mắng thậm tệ:
– Ngươi thật là xuẩn ngốc, không có chút trí tuệ gì cả. Tại sao không đợi cha mà tự đi một mình để đến nỗi cực khổ như thế.
Mọi người biết chuyện đều chê cười anh ta.
Kẻ phàm phu trong đời cũng thế. Một số người có duyên được thế phát xuất gia, vận ba y nhưng không cầu bậc Minh sư để nương tựa học hỏi giáo pháp. Do vậy đánh mất cơ hội tu tập các công đức, thiền định các pháp môn khác. Tất cả bốn quả Sa- môn thù thắng đều mất cả như người con ngốc nghếch kia tự mình ra đi rồi lại tự mình trở về một cách vô ích, chỉ tự làm khổ bản thân. Hình thức tương tự Sa-môn nhưng thật ra không có phẩm hạnh Sa-môn.
Thuở xưa có một vị quân vương muốn đến vườn Vô ưu để thưởng ngoạn. Nhà vua truyền cho một vị quan:
– Khanh hãy tìm một cái ghế mang đến vườn Vô ưu để trẫm ngồi nghỉ.
Lúc đó, vị quan kia xấu hổ không muốn đi tìm nên tâu vua:
– Thần không tìm được như thần có thể vác được.
Vua nghe thế ra lệnh đem ba mươi sáu cái ghế chất cả trên lưng ông ta, lệnh vác vào trong vườn. Người ngu như thế chỉ bị thiên hạ cười chê.
Người đời cũng thế. Có người mỗi khi thấy một sợi tóc nữ nhân rơi trên đất, tự nói: “Ta giữ giới thanh tịnh nên không dám đụng đến nó.” Sau đó, bị phiền não mê hoặc nên đối với ba mươi sáu thứ bất tịnh như tóc, lông, móng, răng, phân, nước tiểu… đều không cho là dơ bẩn. Cùng một lúc xúc chạm với cả ba mươi sáu thứ không xấu hổ, đến khi chết vẫn không bỏ cũng như vị quan ngu ngốc cam tâm vác ghế kia vậy.
Thuở xưa có một người bị mắc bệnh ở vùng hạ bộ. Thầy thuốc bảo:
– Bệnh của anh ta phải rửa ruột thì mới có thể lành được.
Vị lương y lấy thuốc rửa và các dụng cụ dùng rửa ruột cho anh ta ra. Ông ta có việc ra ngoài chưa trở lại, anh chàng bệnh nhân liền chộp lấy chai thuốc rửa uống hết. Vừa uống xong, bụng anh đầy trướng lên đau đớn tưởng chừng như sắp chết, không cách nào kiềm chế cơn đau được. Vị lương y trở lại thấy việc kỳ lạ nên hỏi:
– Sao anh lại bị như thế? Anh ta trả lời:
– Hồi nãy tôi đã uống chai thuốc rửa nên bây giờ đau đớn sắp chết được.
Vị lương y nghe xong liền mắng anh ta thậm tệ:
Anh quả thật là ngu quá đổi. Đã không biết sử dụng lại cứ uống càn thuốc. Nay anh phải ói ra mới có thể hết đau được.
Người ngu ngốc như thế chỉ làm trò cười cho thiên hạ.
Kẻ phàm phu cũng thế. Muốn tu học các phương pháp quán tưởng của thiền định nhưng thầy dạy phải quán pháp bất tịnh lại quán niệm hơi thở, dạy quán niệm hơi thở lại quán tưởng sinh giới. Đảo lộn thứ tự trước sau không có căn bản. Kết quả làm hại đến tuệ mạng, lâm vào cảnh bế tắc. Không chịu tham vấn học hỏi các bậc Minh sư nên tu tập sai lầm đảo lộn phương pháp cũng như người ngu uống thuốc rửa ruột bất tịnh trên vậy.
Thuở xưa có hai cha con cùng bạn bè đồng hành đi ngang một khu rừng. Người con thả bước vào rừng bất ngờ bị một con gấu xông ra quào cấu. Móng của nó gây thương tích khắp thân thể anh ta.
Trong cơn nguy khốn, người con vội chạy ra khỏi rừng trở lại chỗ người cha và các bạn. Người cha thấy thân thể con mình thương tích khắp nơi lấy làm lạ hỏi đứa con:
– Vì sao con lại bị thương tích đầy mình như vậy?
Đứa con thưa với cha:
– Có một loài thú gì thân thể phủ đầy lông dài thườn thượt đuổi theo tấn công con.
Người cha cầm ngay cung tên đi vào rừng. Đến giữa rừng, ông ta thấy một Tiên nhân râu tóc rất dài liền giương cung muốn bắn. Người bạn đi theo ngăn lại:
– Vì sao anh lại bắn vị kia. Người ấy không làm hại ai cả. Nếu anh bắn vị ấy sẽ có tội đấy.
Người ngu trên đời cũng lại như thế. Đã là người xuất gia, tuy bận pháp phục nhưng không có chút đạo hạnh nào nên bị khinh rẻ. Đã vậy lại còn rắp tâm làm hại những người đạo đức, hiền lương tỉ như người cha kia vì thương tích do gấu cào của con mình nên vu oan cho cả bậc Thần tiên.
Thuở xưa có một anh nông dân ra thăm ruộng. Thấy lúa mạ phát triển tươi tốt, anh ta bèn hỏi thăm vị chủ ruộng:
– Ông làm thế nào mà ruộng lúa này xanh tươi quá vậy?
Vị chủ ruộng trả lời:
– Cày đất cho kỹ, bang cho bằng rồi bón phân, tháo nước vào nên mới được như thế.
Anh ta làm đúng theo phương pháp đó. Cày, bang đất, bón phân, dẫn nước vào đất ruộng của mình. Khi chuẩn bị gieo giống, anh ta lại ngại bước chân của mình giẫm xuống ruộng sẽ làm đất thô cứng, lúa không mọc được. Anh tự nhủ: “Ta phải ngồi trên giường rồi sai người khiêng đi. Ta ngồi trên giường gieo xuống, như thế là tốt nhất.” Nghĩ xong, anh ta sai bốn người, mỗi người một góc khiêng giường xuống ruộng để anh ngồi trên vãi giống. Mặt ruộng bị dày xéo trở nên thô cứng vô cùng. Mọi người chê cười: Sợ hai chân mình bước xuống ruộng làm đất thô cứng nay lại tăng thành tám cái chân giẫm đạp trên ruộng!”.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Vâng giữ ruộng giới mầm thiện sẽ sinh. Phải học tập và thực hành theo lời thầy giáo giới để hạt giống chánh pháp nảy mầm. Thế nhưng có một số người trái lời thầy dạy, vi phạm giới luật, làm các điều ác khiến hạt giống giới không thể phát triển được. Tỉ như anh chàng sợ hai chân mình bước làm hư mặt ruộng nhưng lại để tám cái chân người hầu giẫm nát đất ruộng.
Thuở xưa có một con khỉ bị một người cao to lực lưỡng đánh đập. Chú khỉ không thể làm gì để trả thù nên trút ngược cơn oán giận lên một đứa bé. Những kẻ phàm phu ngu ngốc cũng như thế.
Có những người cứ chồng chất nỗi căm hờn tiền kiếp không để nó lặng tắt trong quá khứ mà vẫn kéo dài đến tận đời sau, cứ xem đó như việc diễn ra trước mắt cho nên lòng sân hận, ý niệm tà ác hại người càng sâu nặng cũng như con khỉ kia bị người lớn đánh lại oán hận đứa trẻ vậy.
Thuở xưa vua cõi A-tu-la ngày ngày đều thấy ánh sáng trăng quá chói nên lấy tay che kín mặt trăng. Những kẻ vô trí trong đời lại tin tưởng rằng chính loài chó vô tội đã nuốt mất mặt trăng nên gán tiếng ác cho chúng.
Kẻ phàm phu cũng thế. Vướng mắc vào niệm tham, sân, si ngang trái sẽ chuốc khổ vào thân tựa như nằm trên giường gai, bị lửa đốt thân cũng như những kẻ thấy nguyệt thực lại lấy cây đánh chó vậy.
Thuở xưa có một cô gái bị mắt bệnh rất nặng.
Một cô gái có học vấn thấy thế hỏi:
– Chị bị đau mắt phải không? Người con gái đau mắt đáp:
– Vâng, mắt tôi bị bệnh.
Nàng kia nghe thế liền tự nhủ:
– Có mắt thì phải có bệnh. Tuy hiện nay mình chưa bị đau mắt nhưng rồi cũng sẽ như chị ấy. Muốn ngăn ngừa chỉ có cách móc mắt đi để khỏi sợ bệnh về sau.
Người bạn biết chuyện ngăn cản:
– Nếu giữ cặp mắt thì mắt có thể bị bệnh nhưng cũng có thể không bệnh. Nếu cặp mắt không còn thì trọn đời cô phải mù lòa.
Người ngu cũng thế. Nghe dạy: “Giàu sang là nguồn gốc của tai họa” liền hiểu sai, sợ sệt không dám bố thí; lo lắng sau này bị quả báo tài sản càng sung mãn, tiền bạc càng nhiều thì phải chịu nhiều khổ đau, phiền não. Có người khuyên: “Nếu anh bố thí thì có thể gặp khổ nhưng cũng có thể hưởng được an lạc. Nếu anh không bố thí thì sẽ mang quả báo khổ đau, cùng cực.” Những người trên cũng như nàng con gái kia sợ không kham nỗi gánh nặng bệnh tật nên muốn hủy cặp mắt, không biết sẽ bị đui mù vĩnh viễn.
Thuở xưa có cha con hai người nọ có việc cùng đi với nhau. Trên đường đi, bỗng một toán cướp xuất hiện muốn đuổi theo cướp bóc. Trên tai đứa con có đôi khuyên bằng vàng rất giá trị. Người cha thấy bọn cướp hoảng hốt sợ mất đôi khuyên tai nên vội vàng giơ tay giật đôi khuyên nhưng vì khuyên tai xâu vào tai rất chắc không thể lấy ra được. Lúc đó, ông ta nhất định lấy cho được đôi khuyên nên chặt luôn đầu con mình. Một hồi sau, bọn cướp bỏ đi hết. Ông ta xách thủ cấp ráp vào cổ thi hài con mình nhưng không thể nào liền lại như cũ. Người ngu như thế chỉ bị thiên hạ chê cười mà thôi.
Kẻ phàm phu cũng như thế. Mưu cầu danh lợi nên lập ra các luận thuyết hư vọng, chủ trương:
Có đời này đời sau cũng không có đời này đời sau.
– Có thân trung ấm cũng không có thân trung ấm.
– Có pháp quán sổ tức cũng không có pháp quán sổ tức.
Tất cả các luận thuyết của họ đều là vọng tưởng, không đưa đến chân lý nên bị người khác đem luận lý đệ nhất nghĩa phá các lý luận của họ, tuyên bố: “Tất cả luận của ta đều không phải là học thuyết.”
Những kẻ ngu như trên chỉ vì chút bả lợi danh nên rơi vào tội vọng ngữ, mất hẳn đạo quả Sa-môn. Khi mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như người cha ngu si kia vì cái lợi nhỏ mà chặt đầu con mình vậy.
Thuở xưa có một bọn cướp cùng thực hiện một vụ cướp. Số tài sản cướp được rất nhiều và theo lệ cũ được chia đồng đều cho cả bọn. Chỉ có tên cướp Khâm-bà-la ngờ nghệch, hình dung cổ quái nên được chia phần dư thừa, phần ít nhất trong cả bọn. Khâm-bà-la rất căm giận la lên:
– Thật là công toi! Phần của ta sao ít thế.
Sau đó, y cũng đành mang phần dư thừa ấy vào thành bán. Không ngờ rất nhiều vị trưởng giả giàu sang tranh nhau mua. Sau cùng có một người mua được với giá rất cao. Số tiền y bán được gấp bội so với số tiền các tên khác trong bọn cướp được chia. Lúc ấy, Khâm-bà-la mới nhảy nhót, vui mừng vô cùng.
Câu chuyện này dụ cho người đời không rõ bố thí có quả báo hay không. Đến khi bố thí một ít tiền bạc được quả báo tái sinh lên các cõi trời, thọ hưởng rất nhiều thú vui mới hối hận rằng đã không bố thí nhiều hơn. Cũng như tên cướp Khâm-bà-la sau khi bán được phần của mình với giá rất cao mới sinh lòng vui mừng. Bố thí cũng như thế. Bố thí chút ít mà được quả báo rất nhiều. Đến khi đó lòng vừa vui mừng vừa hối hận đã không làm nhiều việc lành hơn.
Thuở xưa có một chú khỉ cầm một nắm đậu, vô ý đánh rơi mất một hột. Nó liền buông hết nắm đậu trong tay, chạy đi tìm hột đậu đã rớt. Chú khỉ chưa tìm được hột đậu kia thì cả nắm đậu đều bị chim ăn hết cả.
Một số kẻ phàm phu xuất gia cũng như thế. Ban đầu chỉ lỡ phạm một giới không biết ăn năm sám hối. Đã không phát lồ sám hối, sau đó lại cố ý buông lung hơn nữa nên tất cả giới lậu đều buông bỏ hết cũng như chú khỉ kia mất một hột đậu nên mất cả nắm đậu vậy.
Thuở xưa có một người đi trên đường. Giữa đường anh ta nhặt được một con chuột bằng vàng, lòng mừng khấp khởi liền cất ngay vào bụng áo rồi tiếp tục lên đường. Đến một con sông, anh ta muốn bơi qua sông nên cởi y phục bỏ xuống đất. Ngay lúc đó, con chuột vàng bỗng biến thành một con rắn độc. Chàng ta suy nghĩ một hồi lâu rồi quyết định: thà bị con rắn độc này bị cắn chết, ta nhất định phải ôm nó bơi qua sông. Lòng chàng không chút sợ hãi, đột nhiên con rắn biến trở lại thành vàng.
Một chàng ngốc đi cùng thấy rắn độc biến thành vật báu cho rằng là việc bình thường nên cũng bắt rắn độc ôm vào lòng, tức thì bị rắn độc mổ chết ngay.
Những kẻ ngu trên đời cũng như thế. Thấy các bậc Hiền thiện được lợi ích hiện tiền, trong lòng chẳng có niệm chân thật tín ngưỡng Phật pháp nhưng vì lợi dưỡng nên đi theo Phật pháp. Những người đó sau khi mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như gã ngốc ôm rắn độc nên bị nó cắn chết vậy.
Thuở xưa có người nghèo đi trên đường. Giữa đường anh ta tình cờ nhặt được một túi tiền vàng. Lòng mừng vui không xiết, chàng ta liền mở túi ra đếm tiền. Đếm chưa xong thì người chủ túi tiền đột nhiên trở lại lấy hết tiền. Lúc ấy, y hối hận đã không mau mang túi tiền cao bay xa chạy, lòng buồn bã ân hận, khổ não vô cùng.
Người hội ngộ Phật pháp cũng lại như thế. Tuy được gặp gỡ, thân cận ruộng phước Tam bảo lại không nỗ lực tinh tấn khéo tu tập các hạnh lành. Đến khi đột nhiên qua đời phải rơi vào ba đường ác cũng như người ngu trên bị người chủ trở lại đoạt tiền đi mất vậy. Cho nên có bài kệ:
Nay dự tính việc này
Mai sẽ làm việc kia
Hưởng lạc không màng khổ
Nào hay tử thần đến
Mãi lo trong mọi sự
Có ai tránh được đâu
Như gã đếm tiền kia
Việc đời như thế cả.
Thuở xưa có một người nghèo trong nhà có một ít tài sản. Nhìn các gia đình đại phú trong làng, lòng anh mong ước được giàu sang như họ. Nhưng suy đi nghĩ lại anh ta thấy không thể nào sánh được với những nhà đại phú kia. Vì thế lòng buồn bã muốn đem vứt số tài sản nhỏ nhoi của mình xuống sông.
Có người bạn thấy thế ngăn cản.
– Số tài sản nay tuy ít ỏi nhưng có thể nuôi sống anh một vài ngày. Vì sao anh lại đem vứt cả xuống sông như thế.
Những kẻ ngốc trên đời cũng lại như thế. Một số người tuy có duyên được xuất gia, ít được cúng dường; lòng họ luôn hy vọng việc đó nhưng thường bị thiếu thốn không được như các bậc Đại đức Cao tăng được hàng tín chủ hộ trì. Thấy các bậc Cao tăng thạc đức, bác học đa văn được nhiều người cúng dường, lòng họ cũng mong được như thế nhưng không thể nào được nên ôm mối sầu khổ muốn bỏ đạo. Cũng như người ngu kia muốn được như các nhà giàu sang nhưng không được nên muốn vứt bỏ tài sản của mình vậy.
Thuở xưa có một bà vú bồng đứa bé dạo chơi. Đi một hồi, bà ta cảm thấy mệt mỏi nên dừng chân ngồi nghỉ mệt rồi ngủ thiếp đi. Bấy giờ có một người đi đến lấy mấy viên kẹo cho đứa trẻ. Bé thấy viên kẹo màu sắc sặc sỡ, vị rất ngọt nên tham ăn không nghĩ gì đến thân mình. Người kia lập tức cởi hết kiềng vàng, vòng vàng, chuỗi ngọc, y phục và tất cả trang sức quý báu lấy đi hết.
Tỳ kheo cũng như thế. Đam mê thú vui nơi chốn phồn hoa đô hội, vì một chút lợi dưỡng nên bị giặc phiền não cướp mất tất cả công đức tu trì, giữ giới thanh cao. Cũng như đứa bé kia vì tham đắm một chút vị ngon nên tất cả đồ vật đều bị cướp đi hết.
Thuở xưa có một bão đang nằm nghỉ dưới gốc cây. Từ xa, một con hổ tiến lại muốn vồ ăn thịt. Bà lão vội chạy vòng thân cây để trốn. Con hổ đuổi theo sau, một chân bấu vào thân cây, chân kia toan vồ bà lão. Bà lão trong lúc nguy cấp liền chụp vội hai chân con hổ xiết chặt vào thân cây. Con hổ không sao vồ được. Ngay lúc đó, có một người khách bộ hành đi tới. Bà lão lên tiếng kêu:
– Anh mau đến đây cùng lão giết con cọp này.
Sau đó chúng ta sẽ cùng chia thịt.
Người kia tin lời bà lão liền chạy đến phụ bà giữ chặt hai chân hổ. Khi người kia đã giữ chặt chân hổ, bà lão lập tức rút tay ra bỏ chạy. Gã kia sau đó bị khốn đốn với con hổ. Người ngu đến như thế nên bị thiên hạ diễu cợt.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Biên soạn các bộ luận lạ thường, tư tưởng đã lệch lạc, văn từ lại rắc rối khó hiểu, cuối cùng vẫn không sao hoàn thành nên được nên đành bỏ dở dang. Hậu học muốn tìm hiểu, xin được giải thích thì không thể phân tích, biện biệt được ý tứ trong đó, trở nên lúng túng, ngại ngùng cũng như người ngu kia thay bà lão giữ con hổ trái lại tự mình bị hại.
Thuở xưa có một anh chàng tư thông với vợ người. Một hôm, hai người đang gian díu thì người chồng đi xa trở về. Anh chồng biết được việc ấy nên đứng ngoài cửa dự tính khi tên gian phu chạy ra sẽ xuống tay sát hại. Người vợ đoán biết nên bảo với tình nhân:
– Chồng em đã phát hiện rồi, nay anh không thể ra ngoài được. Chỉ còn có ma-ni[2] mới thể ra ngoài được.
Ý cô ta là muốn người tình men theo lỗ thoát nước để thoát ra. Chàng ta lại hiểu lầm là ngọc ma- ni nên cứ loanh quanh trong phòng tìm kiếm. Kiếm mãi không biết ngọc ma-ni bảo châu ở chỗ nào, gã liền nói:
Kiếm không được ngọc ma-ni, ta quyết không ra ngoài.
Thế rồi y cứ loay hoay ở mãi trong phòng nên cuối cùng bị giết chết.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Nghe có người nói: “Trong cảnh sinh tử vô thường, khổ, không, vô ngã, cần rời xa hai cực đoan chấp thường hay chấp đoạn mà trú trong trung đạo. Trụ trong lý trung đạo mới có thể được giải thoát”, họ lại giải nghĩa một cách sai lạc nên suy tư, tìm hiểu vấn đề thế giới có giới hạn hay không có giới hạn cho đến chúng sinh có chủ thể hay không có chủ thể. Cuối cùng không thể lãnh hội được chân nghĩa của trung đạo. Đột nhiên bị vô thường lôi kéo thân hoại mạng chung sẽ phải rơi vào ba đường ác cũng như anh chàng ngốc kia mãi tìm kiếm ngọc ma-ni nên bị người giết.
Thuở xưa có một cặp chim bồ câu trống mái cùng ngụ trong một cái tổ. Mùa thu khi quả chín, chúng tha quả về chứa đầy trong tổ. Sau đó một thời gian, quả bị khô giảm đi chỉ còn nửa tổ. Chim trống tức giận mắng chim mái:
– Chúng ta khó nhọc cực khổ lắm tha quả về tổ, thế mà cô lại lén ăn một mình để nay quả chỉ còn lại nửa tổ.
Chim mái liền đáp:
– Tôi nào lén ăn một mình. Tự quả giảm đi đấy chứ!
Chim trống không tin, phẫn nộ nói:
– Không phải cô lén ăn một mình thì nguyên do gì quả bị mất đi chứ?
Nói dứt lời nó liền lấy mỏ mổ chết chim mái. Chưa được vài ngày, trời mưa tầm tả, quả trong tổ gặp ẩm ướt trở lại như cũ. Bồ câu trống thấy thế mới hối hận: “Quả thật cô ta không ăn, ta đã giết oan cô ta rồi!”, rồi sầu não cất tiếng kêu thảm thiết gọi chim mái:
– Em ơi! Em đã bay tận phương nào?
Kẻ phàm phu cũng như thế. Khởi tâm điên đảo, mê đắm thú vui nhục dục, chẳng biết quán niệm vô thường, phạm vào trọng giới. Sau đó hối hận thì không còn kịp nữa. Cuối cùng chỉ còn khóc than sầu lụy như con bồ câu ngu ngốc kia.
Thuở xưa có một người thợ mộc làm việc cho nhà vua không chịu đựng nổi cực khổ, nói dối là mắt mù nên thoát khỏi được lao khổ. Có người thợ khác nghe được chuyện ấy liền muốn hủy hoại đôi mắt của mình để lấy cớ trốn khỏi nỗi khổ lao dịch. Có người biết chuyện liền ngăn cản:
– Tại sao anh lại muốn tự hủy đôi mắt để phải chịu nỗi khổ mù lòa như thế?
Hạng người ngu như thế đều bị thiên hạ cười khinh.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Vì đôi chút tiếng tăm và lợi lộc nên cố ý nói dối, hủy hoại tịnh giới. Đến khi thân hoại mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như người ngu kia vì cái lợi trước mắt mà tự muốn hủy đôi mắt của mình vậy.
Thuở xưa có hai người bạn đồng hành, đi đến một cánh đồng rộng khoáng đãng. Một người đang mặc áo lông bị bọn cướp bắt được lục soát bên đường. Người kia nhanh chân trốn vào trong đám cỏ. Anh chàng bị cướp áo lông lúc ra đi đã giấu trên cổ áo lông một đồng tiền vàng, lúc này lên tiếng van nài bọn cướp:
– Chiếc áo đó giá trị vừa đúng một đồng tiền vàng. Nay tôi xin được lấy một đồng tiền vàng để chuộc lại chiếc áo.
Bọn cướp liền tra hỏi:
– Tiền vàng nay ở đâu?
Anh ta rạch cổ áo lấy đồng tiền ra, nói với bọn cướp:
– Đây là vàng thật đấy. Nếu không tin lời tôi, nay trong bụi cỏ đằng kia có một người thợ kim hoàn rất giỏi, các ông có thể hỏi y thì rõ.
Bọn cướp phát hiện ra người thứ hai lại lấy luôn y phục của anh ta.
Người ngu như thế nên mất hết tất cả, cả áo lông lẫn tiền vàng. Tự mình mất của còn khiến cho người khác mất theo.
Kẻ phàm phu cũng thế. Tu tập các phẩm trợ đạo, tạo được một số công đức nhưng bị giặc phiền não cướp mất thiện pháp nên tiêu hoại hết mọi công đức. Không những tự đánh mất lợi lạc của bản thân còn khiến cho bạn đồng tu tổn hại đạo nghiệp. Sau khi chết phải rơi vào ba đường ác cũng như gã ngốc trên làm bản thân và bạn mình mất sạch của cải vậy.
Thuở xưa có một đứa trẻ đi chơi trên đường bắt được một con rùa to. Ý nó muốn giết con rùa nhưng không biết cách nào để thực hiện. Nó liền đi hỏi người khác:
– Làm thế nào để giết con rùa này? Có người lên tiếng:
– Cháu hãy quẳng con rùa vào trong nước thì giết nó được ngay.
Bấy giờ, đứa trẻ tin ngay lời đó nên quẳng con rùa xuống nước. Con rùa gặp nước lập tức bơi đi.
Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Muốn phòng hộ sáu căn, tu tập các công đức nhưng không biết phương pháp tu tập nên tham vấn ý kiến mọi người: “Phải tạo nhân duyên gì mới được giải thoát?”. Bọn ngoại đạo tà kiến, thiên ma Ba-tuần và lũ bạn ác liền nói: “Ngươi chỉ cần để hết tâm ý vào sáu trần, buông thả tình cảm theo năm dục. Nếu ngươi theo lời của ta thì ắt hẳn sẽ được giải thoát.” Nếu người ngu ấy không suy tư thẩm xét làm theo lời ấy thì khi thân hoại mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như đứa trẻ kia ném rùa xuống nước vậy.
Luận trên tôi tuyển soạn
Hòa trong thể truyện vui
Phần nhiều làm ảnh hưởng
Giáo thuyết thể trang nghiêm
Nên thẩm tường văn nghĩa
Điều nên, điều chẳng nên.
Thuốc trị độc vị đắng
Hợp cùng vị đường ngon
Thuốc để tiêu trừ bệnh
Luận này cũng như trên.
Tiếu văn hòa chánh pháp
Như thuốc trị mê cuồng
Khiến chánh pháp tịch tĩnh
Chiếu sáng cõi trần gian
Như uống thuốc thổ hạ[3]
Dùng sữa để nhuận thân
Tôi nay theo lý đó
Rộng truyền nghĩa vô vi.
Như Thánh dược bất tử[4]
Phải lấy lá bọc ngoài
Dùng thuốc trong trừ bệnh
Là bọc cần thải hồi.
Tiếu văn như bao lá
Nghĩa thật tàng ẩn trong
Người trí tuyển thật nghĩa
Tiếu văn cần xả ly.
Tôn giả Tăng-già-tư-na tuyển soạn xong kinh Bách Dụ.
[1] Bài kinh này trong bản Hán ngữ được xếp vào cuối hai mươi mốt bài kinh thí dụ của Quyển I. Theo chú thích cuối trang 209 (bản Hán), chúng tôi đưa lên đầu quyển thứ nhất như phần Duyên Khởi của bộ kinh.
[2] Ma-ni cũng là từ dùng để gọi theo lỗ để thoát nước (ống cống)
[3] Thuốc thổ hạ: thuốc mửa.
[4] A-già-đà (Pālī: agada): tên một thứ thuốc ngừa trị mọi loại bệnh. Hán dịch là Phổ khứ, Vô giá hay Bất tử dược …
[Đầu trang][PHẦN DUYÊN KHỞI][QUYỂN 1][QUYỂN 2][QUYỂN 3][QUYỂN 4]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]