SỐ 201
ĐẠI TRANG NGHIÊM KINH LUẬN

Tác giả: Bồ-tát Mã Minh. Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.

QUYỂN 1

Chương 1

Chương 2

Chương 3

QUYỂN 2

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7

Chương 8

Chương 9

Chương 10

QUYỂN 3

Chương 11

Chương 12

Chương 13

Chương 14

Chương 15

Chương 16

QUYỂN 4

Chương 17

Chương 18

Chương 19

Chương 20

Chương 21

Chương 22

QUYỂN 5

Chương 23

Chương 24

Chương 25

Chương 26

Chương 27

Chương 28

Chương 29

Chương 30

QUYỂN 6

Chương 31

Chương 32

Chương 33

Chương 34

Chương 35

Chương 36

Chương 37

Chương 38

Chương 39

Chương 40

QUYỂN 7

Chương 41

Chương 42

Chương 43

Chương 44

QUYỂN 8

Chương 45

Chương 46

Chương 47

Chương 48

Chương 49

Chương 50

QUYỂN 9

Chương 51

Chương 52

Chương 53

Chương 54

QUYỂN 10

Chương 55

Chương 56

Chương 57

Chương 58

Chương 59

Chương 60

QUYỂN 11

Chương 61

Chương 62

Chương 63

QUYỂN 12

Chương 64

Chương 65

QUYỂN 13

Chương 66

Chương 67

QUYỂN 14

Chương 68

Chương 69

Chương 70

QUYỂN 15

Chương 71

Chương 72

Chương 73

Chương 74

Chương 75

Chương 76

Chương 77

Chương 78

Chương 79

Chương 80

Chương 81

Chương 82

Chương 83

Chương 84

Chương 85

Chương 86

Chương 87

Chương 88

Chương 89

Chương 90


QUYỂN 1

Kính lễ Đấng Tối Thắng.
Dứt dục, vượt ba cõi
Và kính Nhất Thiết Trí
Pháp cam lộ mầu nhiệm
Cùng với tám bậc Thánh
Tăng thanh tịnh Vô cấu.
Tỳ-kheo Phú-na-hiếp
Các luận sư Di-chức…
Chúng Tát-bà, Thất-bà
Và chánh đạo ngưu vương,
Các vị luận sư này
Chúng con đều kính thuận.
Giờ con tuần tự nói
Bày rõ luận Trang Nghiêm
Người nghe được đầy đủ
Các thiện từ đó sinh
Đáng quy y hay không
Đáng cúng dường hay không
Điều thiện ác ở đây
Phải nên giải thích rõ.

Chương 1

Tôi từng nghe:

Vào thuở xưa, tại nước Càn-đà-la có một người đi buôn đến nước Ma-đột-la. Trong nước này có một ngôi tháp Phật. Trong đoàn người đi buôn có một Ưu-bà-tắc, hằng ngày đến cung kính lễ bái ngôi tháp. Trên đường đi đến tháp Phật có các Bà- la-môn thấy Ưu-bà-tắc lễ bái tháp Phật, họ đều cười cợt.

Một hôm, trời rất nóng bức, các Bà-la-môn này ăn cơm xong giải tán. Có người đứng trên đường, có người đứng cạnh cửa, có người tắm gội, có người xoa hương, có người đi, có người ngồi…

Khi Ưu-bà-tắc đi lễ tháp trở về, các Bà-la-môn thấy, liền gọi:

– Này ông Ưu-bà-tắc, hãy đến đây ngồi nói chuyện chơi. Nay ông không biết có trời Tỳ-nữu Ma-hê-thủ-la kia,… để kính lễ hay sao, mà lại đi lễ bái tháp Phật chẳng là phiền lắm sao?

Ưu-bà-tắc đáp:

Tôi chỉ biết một ít công đức của Đức Thế Tôn, cho nên tôi quy ngưỡng, cung kính đảnh lễ Ngài. Tôi chưa biết trời của các ông có đạo đức gì mà muốn tôi đến đảnh lễ họ?

Các Bà-la-môn nghe nói vậy, nổi giận trợn mắt mắng:

– Ông là người ngu si! Bộ ông không biết thần đức của trời chúng ta mà dám buông lời như vậy.

Các Bà-la-môn liền nói kệ:

Thành quách A-tu-la
Cao rộng quanh ba lớp
Lơ lửng giữa hư không
Đông đủ nam và nữ.
Trời ta giương cung tên
Xa trúng thành quách đó
Nhất niệm tiêu rụi sạch
Như lửa cháy cỏ khô.

Ưu-bà-tắc nghe kệ rồi, cười lớn nói:

– Những việc như vậy ta cho là quá tầm thường, chẳng đáng tôn kính!

Rồi vị Ưu-bà-tắc nói kệ đáp lại:

Mạng như sương trên lá
Có sinh ắt có diệt
Tại sao người có trí
Cung tên thêm tàn hại.

Lúc ấy các Bà-la-môn nghe nói kệ như vậy, tất cả cùng nhau mắng Ưu-bà-tắc:

– Ông là người ngu si. Đức A-tu-la kia có thế lực rộng lớn thích làm việc ác. Thần đức của trời ta sức có khả năng giết hại, tại sao ngươi bảo là chẳng phải người có trí?

Ưu-bà-tắc bị trách mắng, ngậm ngùi thở dài, nói kệ:

Quán sát kỹ xấu tốt
Người trí tu nghiệp lành
Thường được quả báo lớn
Về sau hưởng an vui
Vì sao tội lỗi xấu
Lại cho là công đức?
Tà kiến đã thêm lớn
Khen ác cho là thiện
Do vì nghiệp ác này
Sau bị khổ báo lớn.

Các Bà-la-môn nghe Ưu-bà-tắc nói, bèn trợn mắt, giơ tay dọa nạt, tức giận nói:

– Ngươi là kẻ rất ngu si không tốt. Các vị trời như thế mà không hết lòng cung kính thì cung kính ai?

Khi ấy Ưu-bà-tắc ý chí rất an nhiên, nói:

– Tuy ta đơn độc nhưng quý trọng đạo lý, không thích dùng sức mạnh của bè đảng để tranh cãi.

Rồi Ưu-bà-tắc lại nói kệ:

Kẻ các ông tôn thờ
Hung ác, thích giết hại
Nếu ông tôn thờ y
Cho rằng có công đức
Thì cũng phải cung kính
Sư tử và cọp sói.
Xúc não sinh giết hại
Loài quỉ ác, La-sát
Người ngu rất sợ hãi
Sinh tâm cung kính chúng
Các bậc có trí tuệ
Phải nên quán sát kỹ
Nếu không tâm giết hại.
Mới đáng được cung kính.
Những người có công đức
Không hề có tâm hại
Người tu hành các ác
Chẳng khỏi có tâm giết.
Nếu không khéo phân biệt
Công đức và tội ác
Công đức tưởng là ác
Ác tưởng là công đức
Tàn hại bức bách người
Được người ngu kính thuận;
Với người có công đức
Lại sinh lòng khinh chê
Thế gian đều điên đảo
Chẳng biết bậc đáng kính.
Người Càn-đà-la sinh
Phân biệt rõ thiện ác
Vì thế tin Như Lai
Không kính trời Tự tại.

Những người Bà-la-môn nghe xong lời kệ liền nói:

– Tên Càn-đà-la thuộc dòng dõi nào, có đạo đức gì mà gọi là Phật?

Ưu-bà-tắc đáp:

Ra đời cung họ Thích
Đầy đủ Nhất thiết trí
Các ác đã dứt trừ
Các thiện đều đầy đủ.
Đối với các chúng sinh
Làm lợi ích tất cả
Hiểu rõ các pháp tướng
Thấu suốt hết tất cả
Bậc Đại Tiên như vậy
Nên được gọi là Phật.

Các Bà-la-môn lại nói kệ:

Ngươi nói Phật Đại Tiên
Phải làm việc bức não
Trong cõi Diêm phù này
Chiêm-mặc-lam trì địa
Bà-tắc-bà tư-trá
Đề-thích-a cực-da
Các đại Tiên như vậy
Nổi tiếng khắp thế gian
Kiết được đại thần chú
Tàn diệt các cõi nước.
Phật Đại Tiên của ngươi
Cũng nên hành chú này.
Phật ngươi có đức lớn
Phải làm việc tàn hại
Nếu không làm độc hại
Sao gọi là Đại Tiên?

Ưu-bà-tắc không chịu nổi những lời phỉ báng ấy nên lấy tay bịt tai, nói:

Thôi, chớ nói lời ác
Phỉ báng Phật có chú
Khinh hủy Đấng Tối Thắng
Sau chịu khổ báo lớn.

Bà-la-môn lại nói kệ:

Nếu Phật không chú thuật
Không gọi là Đại lực
Nếu không não hại người
Sao gọi là Đại Tiên?
Ta chỉ nói lời thật
Vì sao gọi phỉ báng?
Rồi các Bà-la-môn
Vỗ tay cười lớn nói
Ông là người si mê
Phải rơi vào địa ngục.

Ưu-bà-tắc bảo các Bà-la-môn:

– Ông chớ có cười bừa. Ông bảo Như Lai không có công đức lớn, cũng không có sức mạnh, đó là nói dối. Thật ra Như Lai có công đức lớn, có sức mạnh dứt hẳn các loại chú thuật, không bao giờ còn làm những việc não hại chúng sinh. Bây giờ ông hãy lắng nghe, tôi sẽ nói cho ông biết.

Vị Ưu-bà-tắc liền nói kệ:

Vì có tham, sân, si
Nên tạo chú đại ác
Lúc đang kết ác chú
Ác quỉ ghi lời này
Đối chúng sinh tội lỗi
Mà làm việc não hại.
Phật dứt tham, sân, si
Từ bi lợi ích lớn
Bỏ hẳn các chú thuật
Chỉ làm những việc lành
Vì vậy Phật Thế Tôn
Hoàn toàn không não hại
Dùng công đức, sức mạnh
Cứu vớt vô lượng khổ
Nay sao ông lại nói
Phật không thế lực lớn?

Các Bà-la-môn nghe kệ xong, tâm không còn tức giận bèn nói với Ưu-bà-tắc:

– Nay tôi muốn hỏi chút việc, anh chớ có bực dọc. Này Ưu-bà-tắc nếu Phật không có thần chú ác thì tại sao được người cúng dường? Đã không làm tổn hại, cũng không làm lợi ích, vì sao mà được gọi là Đại Tiên?

Ưu-bà-tắc nói:

– Đức Như Lai đại Từ bi hoàn toàn không dùng thần chú ác độc làm tổn hại chúng sinh, cũng không vì việc lợi dưỡng mà chỉ vì lợi ích cho chúng sinh nên được người cúng dường.

Rồi vị ấy nói kệ:
Đại bi thương chúng sinh
Hằng mong cứu khổ họ
Thấy người khác chịu khổ
Còn hơn mình chịu khổ
Sao còn kết chú độc
Và làm việc não hại?
Thể tánh chúng sinh khổ
Sinh già bệnh chết ngặt
Như đắp tro lên ghẻ
Sao còn gây thêm ác
Thường dập tắt nóng bức
Bằng các pháp mát mẻ.

Các Bà-la-môn nghe nói, liền cúi đầu suy nghĩ những lời ấy:

– Đây là việc tốt đẹp, chúng ta muốn phát sinh lòng tin. Anh thuộc Kiện-đà-la khéo phân biệt nơi thù thắng, anh tin những điều này thật là ít có, cho nên rất đáng khen. Kiện-đà-la thật đúng như tên gọi. Gọi Kiện-đà, nghĩa là giữ, giữ điều thiện bỏ điều ác, cho nên được gọi là Kiện-đà.

Các Bà-la-môn liền nói kệ:

Nếu giữ được địa này
Đáng gọi Thiện trượng phu
Trên hết trong Trượng phu
Thật là Kiện-đà-la.

Khi đó, Ưu-bà-tắc suy nghĩ: “Các Bà-la-môn này trong tâm muốn tin hiểu, đều có thể thành pháp khí. Bây giờ ta sẽ phân biệt, nói rộng về công đức của Phật cho họ biết”. Lúc đó, vẻ mặt Ưu-bà-tắc rất vui vẻ, nói:

– Thấy các anh tin Phật, tôi rất vui mừng. Hôm nay các anh may mắn được nghe tôi nói chút ít về công đức và tội ác. Các anh nên quán sát rõ ràng.

Rồi vị ấy nói kệ:

Quán sát công đức Phật
Ai thấy đều đầy đủ
Giới, văn và định, tuệ
Không ai sánh bằng Phật.
Các núi, Tu-di cao
Các dòng, biển rộng nhất
Trời người ở thế gian
Không ai sánh bằng Phật.
Thường vì các chúng sinh
Chịu tất cả đau khổ
Giúp cho được giải thoát
Không lúc nào xa rời.
Ai có quy y Phật
Mà không được lợi ích?
Ai có quy y Phật
Mà không được giải thoát?
Ai thực hành lời Phật
Mà không dứt phiền não?
Phật dùng sức thần thông
Hàng phục các ngoại đạo
Tiếng tốt vang khắp nơi
Đầy khắp mười phương cõi.
Phật rống tiếng Sư tử
Nói các hành vô ngã
Chỗ thường hằng Phật nói
Không mắc kẹt hai bên,
Cõi trời và nhân gian
Đều nói lời như vậy
Nếu không phân biệt được
Các nghiệp báo kết sử.
Sau khi Phật Niết-bàn
Các nước xây tháp miếu
Trang nghiêm ở thế gian
Như các sao trên không
Vì thế cho nên biết
Phật là Đấng hơn hết.

Các Bà-la-môn nghe lời ấy, có người sinh lòng tin, có người xuất gia, có người đắc đạo.

Chương 2

Lại nữa, nên phân biệt về luận. Điều gọi là Luận tức là pháp vậy. Đối với pháp phải nên khéo suy nghĩ. Nếu suy nghĩ thì hiểu được nghĩa của pháp ấy.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa có người Bà-la-môn tên Kiều-thi-ca, giỏi về Tăng-khư luận, Vệ-thế-sư luận, hoặc Đề- toái-ma luận… các bộ luận như thế, đều phân biệt thấu suốt. Vị Bà-la-môn ấy ở trong thành Hoa Thị. Bên ngoài thành có một ngôi làng, người Bà-la- môn có chút việc tới ngôi làng đó để đến nhà một người bạn thân. Khi ấy người bạn thân Bà-la-môn vì có duyên sự nên đi vắng. Kiều-thi-ca nói với người trong nhà ấy:

– Trong nhà cô có kinh sách gì không? Tôi muốn đọc để đợi người ấy về.

Vợ của người bạn thân liền đi lấy sách, tình cờ lấy nhằm kinh Thập Nhị Duyên trao cho Kiều-thi- ca. Kiều-thi-ca được quyển kinh rồi, liền đi vào chỗ vắng vẻ trong rừng để đọc kinh ấy. Đọc đến chỗ: “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, bệnh, chết, ưu bi khổ não. Đó gọi là Tập đế. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì các khổ nhóm họp như già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não… liền diệt.”

Kiều-thi-ca mới đọc qua một lần chưa hiểu rõ lắm, đến lần thứ hai liền hiểu rõ vô ngã, pháp của ngoại đạo dính mắc nhị kiến: Ngã kiến và biên kiến. Đối với các pháp hiểu sâu rằng chúng đều sinh diệt, vô thường. Ông tự nghĩ: “Tất cả luận thuyết bên ngoài đều không có pháp ra khỏi sinh tử, chỉ có trong kinh này mới có pháp giải thoát ra khỏi sinh tử”. Tâm sinh vui mừng, Kiều-thi-ca liền giơ hai tay nói thế này:

– Hôm nay ta mới được thật luận, mới được thật luận!

Kiều-thi-ca ngồi ngay thẳng suy nghĩ, hiểu một cách sâu sắc về ý nghĩa mười hai nhân duyên. Với vẻ mặt hớn hở như hoa mới nở, Kiều-thi-ca nói thế này:

– Hôm nay ta mới biết pháp xuất thế giải thoát sự buộc ràng của sinh tử, mới biết các luận thuyết của ngoại đạo thật gian dối, không lìa sinh tử.

Ông bèn buồn than:

Pháp Phật chí chân chí thật, nói có nhân có quả, nhân diệt thì quả diệt. Còn trong pháp của ngoại đạo thật là luống dối, nói có quả mà không có nhân, không hiểu nhân quả, không biết giải thoát. Nhớ lại niềm tin trước kia của ta thật là buồn cười, làm sao ở trong pháp ngoại đạo mà muốn ra khỏi dòng sinh tử? Xưa kia ta là ngoại đạo mà muốn ra khỏi sinh tử, cũng ví như có người bị chìm đắm trong sóng lớn sông Hằng, sợ mất thân mạng nên vùng vẫy trong sóng nước nhưng vẫn không thoát khỏi tai nạn, bị chết chìm trong nước. Ta cũng như vậy, sống trong ngoại đạo kia mà muốn ra khỏi sinh tử. Nhưng trong pháp ngoại đạo không có pháp giải thoát ra khỏi thế gian, bị chìm đắm trong sinh tử, mất cả thân mạng, đọa vào ba đường ác. Nay gặp luận này phải thực hành theo mới được ra khỏi sinh tử. Kinh luận ngoại đạo như lời nói của kẻ ngu cuồng, chín mươi sáu thứ ngoại đạo đều là luống dối. Chỉ có Phật đạo là chân thực cùng cực, chánh đáng cùng cực. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo và những người trí khác đều tự xưng là Bậc Nhất Thiết Trí, đó đều là nói dối. Chỉ có Đức Phật, Thế Tôn mới là Đấng Nhất Thiết Trí, chân thật không luống dối.

Khi ấy Kiều-thi-ca nói kệ:

Những điều ngoại đạo làm
Luống dối, không chân thật
Như đứa bé chơi đùa
Gom đất làm thành quách
Bị voi say đạp lên
Sụp đổ chẳng còn gì
Phật phá luận ngoại đạo
Sự việc cũng thế thôi.

Bấy giờ Bà-la-môn Kiều-thi-ca hiểu sâu Phật pháp, sinh tâm kính tin, bỏ pháp ngoại đạo, dứt trừ tà kiến, ngày đêm thường đọc kinh Thập Nhị Duyên.

Lúc ấy người bạn của Kiều-thi-ca cùng các Bà- la-môn khác trở về nhà, hỏi vợ mình:

– Tôi nghe Kiều-thi-ca đến nhà mình, hiện giờ anh ấy ở đâu?

Người vợ trả lời:

– Vừa rồi, ông Bà-la-môn ấy mượn quyển sách, tôi lấy sách đưa cho ông ta mà không biết sách gì. Nhưng khi được sách rồi, ông ta mở ra xem và lật qua lật lại, búng ngón tay ca ngợi với điệu bộ vui vẻ khác thường.

Người chồng nghe vợ nói, liền đến gặp bạn mình, thấy Kiều-thi-ca ngồi ngay thẳng suy nghĩ, liền hỏi ông ta:

– Anh đang suy nghĩ điều gì thế? Kiều-thi-ca đáp bằng bài kệ:

Ngu si không trí tuệ
Xuống lên trong ba cõi
Như bánh xe thợ gốm
Quay vòng mãi không cùng
Tôi nghĩ cách giải thoát
Khỏi mười hai nhân duyên.

Lúc bấy giờ, người bạn nói:

– Chỉ có anh mới sinh tâm ít có đối với kinh này, chứ bên họ Thích của tôi mà có kinh này sẽ đem xóa chữ đi để dùng viết kinh của Tỳ-thế-sư.

Bà-la-môn Kiều-thi-ca nghe nói như vậy bèn quở trách bạn:

– Anh là người si mê, tại sao lại muốn dùng nước để xóa kinh này? Giáo pháp nhiệm mầu thế này thì phải dùng vàng ròng để ghi chép và đựng kinh này trong hộp báu, rồi cúng dường các thứ.

Kiều-thi-ca liền nói kệ:

Nếu ta có tiền của
Sẽ xây tháp bằng vàng
Xây nền bằng bảy báu
Rồi trải thảm lên trên
Rất trang nghiêm đẹp đẽ
Để dâng lên cúng dường
Dù làm được việc ấy
Vẫn chưa xứng ý ta.

Người bạn nghe nói rất tức giận, bảo:

– Trong kinh này đâu có điều gì sâu nhiệm, chưa từng có thì làm sao hơn kinh của Tỳ-thế-sư kia, mà ông muốn đem vàng ròng và các thứ trân bảo để cúng dường?

Khi ấy, Kiều-thi-ca vẻ mặt buồn bã nói:

Vì sao anh lại khinh thường kinh Phật đến thế? Luận Tỳ-thế-sư đó có rất nhiều điều sai lầm, thì làm sao mà anh lại đem so sánh với lời Phật dạy được? Như luận thuyết của Tỳ-thế-sư không biết rõ pháp tướng nên lẫn lộn nhân quả. Đối với pháp nhân quả cạn cợt, gần gũi nhất liên quan đến bình và mẻ sành mà còn không có tuệ giải để phân biệt, biết được, huống gì là hiểu rõ nghĩa của thân người, các căn trong thân, giác tuệ, nhân quả.

Lúc bấy giờ, người bạn nói với Kiều-thi-ca:

– Vì sao anh nói luận thuyết của Tỳ-thế-sư là không hiểu nhân quả? Trong luận ấy nói: mẻ sành là nhân của chiếc bình, tại sao anh nói không hiểu nhân quả?

Kiều-thi-ca nói:

– Luận thuyết Tỳ-thế-sư của anh đúng là có nói như vậy, nhưng không đúng lý. Bây giờ, anh hãy xem như nhân nơi sợi chỉ đặt làm sợi dọc sợi ngang, sau đó mới có vải. Chiếc bình sành cũng như vậy. Đầu Tiên nhân có chiếc bình, sau có mẻ sành. Nếu đầu tiên không có bình, làm sao mà có mẻ sành? Lại nữa, mẻ sành thì không dùng được, còn chiếc bình thì dùng được; vì thế mẻ sành không được coi là nhân. Anh hiện thấy người thợ gốm lấy bùn làm thành chiếc bình mà không dùng ngói bể. Lại thấy sau khi chiếc bình bị bể, thì mới có mẻ sành, nếu chiếc bình ấy chưa bể, làm sao có mẻ sành?

Người bạn nói:

Ý của anh cho rằng luận thuyết của Tỳ-thế- sư đều không đúng lý như vậy chẳng lẽ chúng tôi luống công và tự chuốc lấy đắng cay hay sao?

Lúc đó, các Bà-la-môn đồng tu của người bạn nghe nói như vậy, sinh tâm buồn bã nói:

– Nếu như lời anh nói thì giờ đây luận thuyết của Tỳ-thế-sư không thể tin được nữa ư?

Kiều-thi-ca đáp:

– Luận thuyết của Tỳ-thế-sư chẳng những bây giờ mới không đáng tin mà từ trước đến nay người khéo quán sát lâu ngày cũng không thể tin. Vì sao? Vì thuở xưa, khi Đức Phật có mười năng lực chưa ra đời, tất cả chúng sinh đều bị vô minh che lấp, đui mù không có mắt tuệ cho nên đối với luận thuyết của Tỳ-thế-sư cho là sáng suốt nhất. Khi mặt trời Phật đã mọc thì ánh sáng trí tuệ chiếu sáng, luận thuyết của Tỳ-thế-sư không có điều gì đáng hiểu biết nên phải bỏ đi. Thí như con chim cú mèo ban đêm bay đi kiếm ăn thì phát huy được khả năng của nó, còn ban ngày vì phải trốn trong hang nên không thể phát huy được khả năng của nó. Luận thuyết của Tỳ-thế-sư cũng như vậy, khi mặt trời Phật đã mọc thì luận thuyết kia vô dụng.

Người bạn lại nói:

– Nếu như anh bảo luận thuyết của Tỳ-thế-sư không bằng kinh Phật, nhưng kinh Phật đây có thể sánh được với luận Tăng-khư không?

Kiều-thi-ca đáp:

– Như kinh Tăng-khư nói, có năm phần bàn luận về nghĩa được rốt ráo: 1. Thệ; 2. Nhân; 3. Dụ; 4. Đẳng hướng; 5. Quyết định. Nhưng trong kinh Tăng-khư của ông không có ví dụ để có thể dễ hiểu rõ ràng giống như con bò lớn, huống gì là phân rõ pháp tướng để có thể hiểu được. Vì sao? Vì trong kinh Tăng-khư của anh nói Bát-la-đà-na không sinh, thường trùm khắp tất cả mọi nơi và đi khắp nơi. Như trong kinh Tăng-khư nói: Bát-la-đà-na không từ cái khác sinh mà thể tánh là thường hằng, có khả năng sinh ra tất cả biến, tất cả chỗ và đến khắp mọi nơi. Nói về việc ấy như vậy thì có nhiều lỗi lầm. Vì sao? Vì ở trong ba cõi không có một pháp nào chỉ sinh ra vật khác mà không do vật khác sinh ra, cho nên có lỗi. Lại nữa, trùm khắp tất cả mọi nơi và có khả năng đến khắp mọi nơi, điều này cũng có lỗi. Vì sao? Nếu trước đã trùm khắp thì đến là đến đâu? Nếu đã đi đến thì khắp sẽ không khắp? Hai luận lý này trái ngược nhau, ý nghĩa của chúng tự phá nhau. Nếu như vậy thì không đứng vững. Như lời anh nói, không từ vật khác anh ra mà lại sinh ra vật khác, ở khắp mọi nơi mà đi đến khắp nơi, lời nói ấy thật là phi lý.

Người bạn nói với Kiều-thi-ca:

Anh thân thiết với họ Thích nên nói như vậy. Nhưng trong kinh Phật cũng có lỗi lớn vì nói sinh tử không có đầu mối. Lại nói tất cả pháp đều vô ngã.

Kiều-thi-ca đáp:

– Tôi thấy pháp Phật dạy sinh tử không có đầu mối, tất cả đều vô ngã, nên giờ đây tôi dốc lòng kính tin. Nếu người chấp ngã, thì không bao giờ được đạo giải thoát. Người nào biết vô ngã thì không có tham dục, vì không có tham dục nên được giải thoát. Nếu có chấp ngã thì có tham ái, đã có tham ái nên bị luân hồi sinh tử, làm sao mà được đạo giải thoát? Lại nữa, nếu nói sinh tử có sự bắt đầu thì cái thân đầu tiên này là từ thiện ác mà có hay không từ thiện ác tự nhiên mà có? Nếu từ thiện ác mà có thân thì không được gọi là có thân đầu tiên, hoặc không từ thiện ác mà có thân này thì pháp thiện ác này làm thế nào mà có? Nếu như vậy thì pháp của ông, một nửa là từ nhân sinh và một nửa không từ nhân sinh. Nếu nói như vậy thì có sự sai lầm lớn. Pháp của Phật tôi, không có sự bắt đầu, cho nên không có lỗi.

Người bạn nói với Kiều-thi-ca:

– Có ràng buộc thì có giải thoát, anh nói vô ngã thì không có sự ràng buộc. Nếu không có sự ràng buộc thì ai được giải thoát?

Kiều-thi-ca đáp:

Tuy không có ngã nhưng vẫn có sự ràng buộc và giải thoát. Vì sao? Vì phiền não che lấp cho nên bị ràng buộc, nếu dứt được phiền não thì được giải thoát, cho nên tuy không có ngã mà vẫn có sự ràng buộc và giải thoát.

Các Bà-la-môn lại nói:

– Nếu không có ngã thì ai có đời sau? Kiều-thi-ca nói:

– Các anh hãy lắng nghe, do các nghiệp phiền não ở quá khứ mà có thân hiện tại và các căn. Từ đời hiện tại gây ra các nghiệp, do nhân duyên này mà có thân vị lai và các căn. Giờ đây tôi muốn nói thí dụ để nói lên ý nghĩa ấy. Thí như hạt giống, nhờ các duyên hòa hợp cho nên nảy mầm. Nhưng hạt giống này thật không có sinh mầm. Khi hạt giống tiêu đi thì mầm lớn lên, vì hạt giống tiêu đi cho nên không thường và mầm sinh cho nên không đoạn. Đức Phật dạy sự thọ thân cũng như vậy. Tuy là vô ngã nhưng nghiệp báo không mất.

Các Bà-la-môn nói:

– Tôi nghe anh nói pháp vô ngã, tâm nhơ bẩn của chúng tôi đã được gội rửa, nhưng còn một vài thắc mắc, bây giờ muốn hỏi anh: nếu vô ngã thì sao việc trước đây đã làm vẫn còn nhớ mà không quên?

Kiều-thi-ca đáp:

– Do có ghi nhớ cùng tương ưng với tâm cho nên có thể nhớ nghĩ việc trong ba đời mà không quên mất.

Lại hỏi:

Nếu vô ngã thì quá khứ đã mất, tâm hiện tại sinh ra, sinh diệt đã khác, vì sao mà nhớ được không quên?

Đáp:

– Tất cả thức thọ sinh làm hạt giống vào trong thai mẹ. Nước ái thấm nhuần làm cho thân cây được sống, như hạt Hồ đào tùy theo loại mà sinh. Thân năm ấm này gây ra nghiệp có công năng đưa đến thân sau, nhưng thân năm ấm trước không sinh ra thân năm ấm sau. Vì nhân duyên của nghiệp nên thọ thân năm ấm sau. Sinh diệt tuy khác nhưng nối tiếp không đứt đoạn. Như đứa bé bị bệnh, người mẹ cho uống thuốc, đứa bé nhờ thế nên hết bệnh. Người mẹ tuy chẳng phải là đứa con nhưng nhờ năng lực của thuốc truyền sang đứa con. Thân năm ấm cũng như vậy, vì có nghiệp lực cho nên thọ thân hậu ấm, nhớ nghĩ không quên.

Các Bà-la-môn lại nói:

Trong kinh mà anh đọc chỉ nói về pháp vô ngã, nay anh giải ngộ có sinh tâm vui mừng không? Khi ấy Kiều-thi-ca liền tụng cho các Bà-la-môn nghe Kinh Thập Nhị Duyên và nói rằng: Vô minh duyên hành, hành duyên thức… cho đến sinh duyên già, chết, ưu bi, khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt… cho đến già, chết diệt, cho nên ưu bi, khổ não diệt. Do các duyên không có chủ tể, cho nên đối với mười hai nhân duyên tôi giải ngộ pháp vô ngã. Chẳng phải trong kinh này chỉ nói về vô ngã thôi mà còn nói có thân cho nên có tâm. Do có thân tâm và các căn cho nên có sự hoạt động của thức, hiểu biết, phân biệt. Tôi ngộ lý này liền hiểu rõ pháp vô ngã.

Lại hỏi:

– Nếu như anh nói sinh tử thọ thân nối tiếp không đứt đoạn, giả sử có thân kiến thì có lỗi gì?

Đáp:

Vì thấy có thân kiến cho nên gây ra các nghiệp, ở trong năm đường thọ thân hình thiện ác. Khi thọ thân ác sẽ bị các khổ não. Nếu dứt trừ thân kiến sẽ không gây ra các nghiệp. Vì không gây ra các nghiệp cho nên không thọ thân, không thọ thân cho nên các khổ dứt hẳn, đạt đến Niết-bàn. Vì sao nói rằng thân kiến không có lỗi? Lại nữa, nếu thân kiến không có lỗi lầm nên không bị sinh tử, không ở trong ba cõi chịu khổ sinh tử. Thế cho nên có lỗi. Khi ấy vị Bà-la-môn quán sát thuận nghịch nghĩa mười hai duyên sinh, có niệm tín giải rất sâu, trong tâm vui mừng, khen ngợi pháp Phật bằng bài kệ sau đây:

Khi Như Lai tại thế
Nói pháp dẹp các luận
Phật nhật soi thế gian
Lấn át các tà thuyết.
Nay con gặp di pháp
Như ở trước Thế Tôn
Thù diệu trong họ Thích
Đạt sâu các pháp tướng,
Cái gọi là Như Lai
Chân thật không luống dối
Quán các pháp nghịch thuận
Tiếng khen khắp mười phương.
Hướng về Niết-bàn Phật
Chắp tay cung kính lễ
Ca ngợi Phật Thế Tôn
Thật có tâm đại bi
Hơn hết trong các tiên
Thế gian không ai sánh
Nay con quy y Phật
Giới, định, tuệ vô thượng.

Kiều-thi-ca nói:

– Sao bây giờ anh lại hiểu sâu xa công đức của Phật như vậy?

Người bạn đáp:

Tôi nghe được pháp này cho nên biết Phật có vô lượng công đức. Như hương trầm thủy màu đen có nhiều dầu, nhờ vậy khi đốt mùi hương ngào gạt, xa gần đều ngửi thấy. Như thế, tôi thấy thân định, tuệ của Như Lai liền biết Đức Thế Tôn có công đức lớn. Nay tôi tuy không gặp Đức Phật nhưng thấy Thánh tích của Ngài thì biết Ngài là Đấng trên hết. Cũng như có người thấy dấu chân voi ở bên ao hoa, nên biết voi rất lớn. Tôi xem luận Nhân Duyên, mặc dầu không được gặp Phật nhưng biết công đức Thánh tích của Phật rất lớn.

Kiều-thi-ca thấy bạn mình có niềm tin hiểu sâu xa, ca ngợi việc chưa từng có nên nói:

– Xưa nay anh đã từng đọc tụng kinh sách ngoại đạo quá nhiều mà bây giờ nghe kinh Phật, chỉ trong phút chốc mà ông đã hiểu rõ nghĩa thú của kinh và xả bỏ hết kinh sách của ngoại đạo, đó là rất ít có.

Kiều-thi-ca liền nói kệ:

Bỏ luận thuyết tà kiến
Tin hiểu pháp chánh chân
Người như vậy khó được
Nên ngợi khen ít có
Không chỉ khen mình anh
Còn khen cả luận ngoài
Vì nghĩ lý cạn thấp
Chúng ta đều xả bỏ.

Vì các luận kia có nhiều lỗi sai làm cho chúng ta sinh tâm nhàm chán, sinh tâm tin hiểu. Đức Phật thật là Bậc Đại Nhân không ai sánh bằng. Tiếng tăm Ngài vang khắp các nước trong mười phương. Tất cả các luận tà kiến của ngoại đạo đều có lỗi, cũng như lời nói quanh co không thể hiểu được. Vì các luận ấy đều có lỗi nên tôi xả bỏ và được đến với pháp Phật. Cũng như vào mùa xuân, mùa hạ, mọi người đều bị nóng nực nên muốn tránh mặt trời và đến mùa đông lạnh thì mọi người đều nhớ đến mặt trời. Các luận của ngoại đạo cũng lại như vậy. Mọi người rất muốn xả bỏ như mặt trời mùa hạ nóng bức. Nhưng cũng do các luận đó mà ta sinh được tín tâm, nên cũng nghĩ đến nó. Giống như khi lạnh vẫn nghĩ nhớ đến mặt trời mùa đông.

Người bạn hỏi Kiều-thi-ca:

– Bây giờ chúng ta nên làm gì? Kiều-thi-ca nói:

– Bây giờ chúng ta nên xả bỏ tất cả các luận thuyết tà kiến, xuất gia học đạo trong pháp Phật. Vì sao? Vì như trong đêm tối đốt ngọn đuốc lớn, tất cả chim bồ câu đều bị rơi xuống đất. Ngọn đèn trí tuệ Phật đã xuất hiện ở đời, tất cả ngoại đạo đều phải nghiêng ngả. Thế nên hôm nay chúng ta muốn xuất gia học đạo.

Lúc ấy, Kiều-thi-ca từ nhà người bạn thân liền đến Tăng phòng xin xuất gia. Xuất gia rồi, về sau chứng quả A-la-hán.

Vì nhân duyên gì mà nói lên việc này? Vì các ngoại đạo thường bị các luận thuyết tà kiến, mê hoặc cho nên phải nói Thập Nhị Nhân Duyên Kinh Luận để đả phá những tư tưởng đó.

Chương 3

Phàm gieo trồng ruộng phước nên lựa chọn đức, không lựa chọn theo trẻ, mạnh, già, yếu.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có người đàn-việt nhờ một đạo nhân quen biết đến chùa thỉnh chư Tăng, nhưng ông ta yêu cầu chỉ thỉnh những vị Tăng lớn tuổi, chứ đừng thỉnh những vị Tăng trẻ tuổi.

Sau đó, vị đạo nhân quen biết đi thỉnh chư Tăng, theo thứ lớp đến Sa-di, nhưng người đàn-việt ấy không chịu. Một vị Sa-di nói:

– Tại sao không chịu thỉnh các Sa-di chúng tôi?

Đạo nhân đáp:

– Vì người đàn-việt ấy không chịu thỉnh Sa-di chứ không phải do tôi.

Vị đạo nhân khuyến hóa liền nói kệ:

Tuổi già tích đức nhiều
Tóc bạc và mặt nhăn
Chân mày dài, răng rụng
Lưng còng, tứ chi yếu
Đàn-việt thích như vậy
Không ưa người trẻ tuổi.

Khi ấy trong chùa có các vị Sa-di đều chứng quả A-la-hán. Ví như có người chọc tức sư tử, đụng vào hông nó, làm nó nổi giận, nên các vị Sa-di đều nói:

– Người đàn-việt kia si mê, không có trí tuệ, không mến người có đức mà chỉ ham người già cả.

Các Sa-di liền nói kệ:

Các danh từ Trưởng lão
Không hẳn tóc phải bạc
Mặt nhăn nheo, răng rụng
Si mê không trí tuệ.
Đáng quý chỗ tu phước
Dứt bỏ các điều ác
Và tịnh tu phạm hạnh
Gọi đó là Trưởng lão.
Chúng tôi đối khen, chê
Không sinh tâm vui, buồn
Chỉ sợ đàn-việt kia
Bị mắc nhiều tội lỗi
Đối với ruộng phước tăng
Phỉ báng sinh hơn thua.
Ta nên đến đó ngay
Để cho đàn-việt kia
Không đọa vào nẻo ác.
Sau đó các Sa-di
Dùng năng lực thần thông
Hóa thành những người già
Tóc bạc, da mặt nhăn
Chân mày dài, răng rụng
Lưng còng phải chống gậy
Đến nhà đàn-việt kia.
Đàn-việt thấy như vậy
Trong tâm rất mừng vui
Đốt hương, rải hoa quý
Vội thỉnh các vị ngồi
Vừa ngồi trong chốc lát
Trở lại hình Sa-di.
Đàn-việt sinh kinh ngạc
Sao biến hóa như thế
Vì uống cam lộ trời
Dung mạo bỗng hóa trẻ.

Lúc bấy giờ, các Sa-di bèn nói:

– Chúng tôi đâu phải là Dạ-xoa hay La-sát. Vì thấy đàn-việt lựa chọn người già cả, đối với ruộng phước tăng mà sinh ý tưởng cao thấp, làm hư mất căn lành của đàn-việt, cho nên chúng tôi biến hóa như thế để cho ông ăn năn sửa đổi.

Sa-di liền nói kệ:

Ví như con muỗi nhỏ
Muốn uống cạn biển lớn
Người thế gian không thể
Lường công đức chúng Tăng
Tất cả đều không thể
Đo lường công đức Tăng
Huống một mình đàn-việt
Mà muốn lường đức ấy!

Vị Sa-di lại nói:

– Đàn-việt không nên so sánh hình tướng già trẻ của chúng Tăng. Hễ là người cầu pháp thì không nên xem xét hình tướng, chỉ chú trọng trí tuệ. Các Sa-di tuy còn trẻ tuổi nhưng nếu đã dứt sạch các kết sử lậu hoặc, đạt được Thánh đạo.

Người tuy già cả mà buông lung cũng gọi là trẻ con. Việc làm của đàn-việt không đúng, nếu dùng ngón tay để đụng tới đáy biển thì không bao giờ được. Cũng như vậy, đàn-việt muốn dùng trí của mình đo lường ruộng phước, để biết cao thấp, cũng không bao giờ được. Đàn-việt há không nghe kinh Tứ Bất Khinh do Như Lai nói ư? Bốn thứ không được xem thường đó là:

1. Thái tử còn nhỏ.

2. Rắn con.

3. Đốm lửa nhỏ.

4. Sa-di nhỏ tuổi.

Tất cả đều không được xem thường. Đức Thế Tôn có nói thí dụ về quả xoài: bên trong còn sống mà bên ngoài đã chín, bên ngoài còn sống mà bên trong đã chín, đừng đánh giá sai lầm đối với người khác, vì trong một niệm cũng có thể đắc đạo. Hôm nay đàn-việt có lỗi rất lớn, nếu đàn-việt có thắc mắc điều chi thì ngay bây giờ hãy hỏi. Từ nay về sau, đừng sinh tâm phân biệt đối với ruộng phước Tăng như thế nữa.

Vị Sa-di nói kệ:

Biển công đức chúng Tăng
Không thể đo lường được
Phật còn sinh tôn kính
Dùng trăm bài kệ khen
Huống chi là mọi người
Mà lại không khen ngợi.
Ruộng phước lành rộng lớn
Trồng ít thu lợi nhiều
Chúng hòa hợp họ Thích
Gọi là báu thứ ba
Đối với các đại chúng.
Chớ xem tướng đoán người
Không dựa vào dòng giống
Oai nghi, nói năng khéo
Chưa biết đức bên trong
Thấy tướng đã tôn kính
Trông tướng tuy còn nhỏ
Nhưng thông minh, đức cao.
Không biết rõ tâm hành
Mà có ý khinh thường.
Ví như rừng cây lớn
Cúc thơm lẫn hoa hôi
Các cây tuy khác nhau
Nhưng gọi chung là rừng
Tăng tuy có trẻ già
Nhưng không nên phân biệt.
Ca-diếp muốn xuất gia
Bỏ y đẹp trên người
Chỉ giữ y xấu nhất
Nhưng giá đáng ngàn vàng
Ruộng phước của chúng Tăng
Việc ấy cũng như vậy.
Cúng dường người thấp nhất
Được quả báo mười lực
Ví như nước biển cả
Không dung chứa thây chết
Biển Tăng đoàn cũng vậy
Không chứa người phá giới.
Đối với Tăng phàm phu
Thấp nhất, giữ ít giới
Cung kính và cúng dường
Sẽ được quả báo lớn
Vì thế đối chúng Tăng
Trưởng lão hay thiếu niên
Tâm bình đẳng cúng dường
Không nên sinh phân biệt.

Lúc đó người đàn-việt nghe lời ấy rồi, khắp mình nổi ốc, gieo năm vóc sát đất, cầu xin sám hối:

– Con là kẻ phàm phu ngu muội có nhiều lầm lỗi, nguyện xin sám hối. Con có những điều thắc mắc, mong ngài giải thích cho.

Vị đàn-việt liền nói kệ:

Ngài có trí tuệ lớn
Đã xé toang lưới nghi
Nếu con không thưa hỏi
Thì chẳng phải người trí.

Vị Sa-di bảo đàn-việt:

– Tùy ý đàn-việt hỏi, tôi sẽ giải thích cho. Vị đàn-việt hỏi:

Bạch Đại đức, kính tin Phật và Tăng thì kính tin Phật hơn hay kính tin Tăng hơn?

Sa-di đáp:

– Đàn-việt không biết có ba ngôi báu ư? Vị đàn-việt nói:

– Con tuy đã biết có ba ngôi báu, nhưng trong ba ngôi báu lẽ nào lại không có một báu nào là hơn hết hay sao?

Sa-di đáp:

– Tôi đối với Phật và Tăng không thấy có sự hơn kém.

Vị Sa-di liền nói kệ:

Bà-la-môn cao quý
Tên là Đột-la-xà
Khen chê, Phật không động
Bèn cúng Phật thức ăn
Nhưng Đức Phật không nhận
Ba cõi không thể tiêu
Nên đổ hết xuống sông
Khói lửa cùng bốc lên.
Cù-đàm-di dâng y
Phật dạy cúng dường Tăng
Do vì nhân duyên này
Nên ba ngôi bình đẳng.

Đàn-việt nói:

– Nếu như Phật và Tăng bình đẳng không khác thì tại sao Đức Phật đổ thức ăn xuống sông mà không cho chúng Tăng?

Sa-di đáp:

– Đức Như Lai đối với thức ăn không có tâm bỏn xẻn, chỉ vì muốn hiển bày công đức, năng lực của chúng Tăng cho nên Ngài làm như vậy. Vì sao? Vì Đức Phật quán thấy thức ăn này không ai trong ba cõi ăn có thể tiêu được, nên Ngài đổ thức ăn xuống sông, lửa liền bốc lên. Nhưng Cù-đàm-di dâng y lên Đức Phật, Đức Phật chuyển y ấy lại cho chúng Tăng. Chúng Tăng thọ y ấy rồi không có sự khác nhau. Vì thế nên biết, chúng Tăng có đức lớn, được đại danh xưng, Phật và Tăng không khác nhau.

Lúc ấy người đàn-việt liền nói:

– Bạch Đại đức, từ nay về sau, đối với chúng Tăng hoặc già hoặc trẻ, con đều cung kính với tâm bình đẳng, không có sự phân biệt.

Vị Sa-di nói:

– Nếu đàn-việt làm được như vậy thì chẳng bao lâu sẽ được đạo kiến đế.

Vị Sa-di liền nói kệ:

Đa văn cùng Trì giới
Thiền định và Trí tuệ
Người hướng đến ba Thừa
Đắc quả và các hướng.
Thí như sông Tân-đầu
Chảy ra nơi biển lớn
Các bậc Hiền thánh này
Đều vào biển chúng Tăng.
Thí như trong núi Tuyết
Có đủ các thuốc hay
Cũng như mảnh ruộng tốt
Giúp hạt giống thêm lớn
Bậc Hiền thiện trí tuệ
Đều từ Tăng mà ra.

Sa-di đọc kệ xong, nói:

– Chẳng lẽ đàn-việt không nghe trong kinh nói: Có ba vị thuộc dòng họ cao quý là A-ni-lự-đầu, Nan-đề và Kiềm-tỳ-la. Vị đại tướng quỉ thần tên Già-phu đã bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả thế giới, hoặc trời, hoặc người, hoặc Thiên ma, hoặc Phạm vương, nếu tâm nghĩ đến ba vị thuộc dòng họ cao quý này thì họ sẽ làm cho người đó được an vui, lợi ích.” Chỉ niệm ba vị trong Tăng còn có lợi ích an vui, huống chi là cả đại chúng.

Sa-di liền nói kệ:

Ba vị không thành Tăng
Nghĩ nhớ được lợi ích
Như tướng quỉ kia nói
Chưa gọi là niệm Tăng
Còn có lợi ích lớn
Huống gì là niệm Tăng.
Vì vậy ông nên biết
Các việc thiện công đức
Đều từ Tăng mà ra.
Thí như trời mưa lớn
Chỉ biển đủ sức chứa
Chúng Tăng cũng như vậy
Thọ được mưa pháp lớn
Vì thế đàn-việt nên
Chuyên tâm nghĩ nhớ Tăng.
Chúng Tăng mà như thế
Là tập hợp các thiện
Đại chúng đã giải thoát
Tăng như đoàn quân mạnh
Phá được giặc ma oán,
Chúng Tăng được như thế
Là rừng cây thắng trí
Tất cả các hạnh lành
Chứa nhóm ở trong Tăng
Hướng ba Thừa giải thoát
Là đoàn thể lớn mạnh.

Lúc vị Sa-di nói kệ khen ngợi như vậy, thì người đàn-việt và quyến thuộc rất vui mừng, đều chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.

QUYỂN 2

Chương 4

Người nghe pháp được lợi ích lớn và trí tuệ thêm sâu rộng, có công năng làm cho tâm ý đều được điều hòa.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, tại các nước ở vùng Sư tử, lúc bấy giờ có người được viên ngọc Ma-ni to bằng đầu gối người. Viên ngọc này tốt đẹp nhiệm mầu, rất ít có trên thế gian. Người đó dâng viên ngọc lên vua. Nhà vua được viên ngọc ngắm ngía thật kỹ lưỡng và nói kê:

Ngày xưa các vua chúa
Chứa báu cầu tiếng khen
Tập hợp nhiều khách khứa
Khoe của, tự hợm mình
Khi chết bỏ ngôi báu
Bỏ của, đi một mình
Chỉ có nghiệp thiện ác
Theo thân không lìa bỏ.
Ví như ong làm mật
Kẻ khác được, mình không
Tài sản cũng như vậy
Theo người, chẳng theo ta.
Ngày xưa, các vua chúa
Bị của báu lừa dối
Tích chứa để cho người
Chẳng một vật theo mình.
Ta nay phải làm gì
Để của báu theo ta?
Chỉ có ruộng phước Phật
Làm ra các công đức
Theo ta đến đời sau
Quả thiện không mất đi.
Khi sắp sửa qua đời
Tất cả đều lìa bỏ
Cả cung điện thân yêu
Các quan và tướng mạnh
Thương xót tiễn người đi
Đến mộ thì trở về,
Voi, ngựa, các xe báu
Vàng ngọc và kho tàng
Nhân dân cùng thành quách
Vườn hoa, chốn vui chơi
Âm thầm vào cõi chết
Chẳng mang theo được gì.

Nhà vua nói kệ xong liền đến chỗ tháp Phật, đặt viên ngọc quý lên đỉnh tháp. Viên ngọc chiếu sáng lấp lánh như một ngôi sao thật lớn, như khi mặt trời mọc chiếu sáng cả cung điện vua, lấp lánh rực rỡ gấp bội ánh sáng thường. Ánh sáng viên ngọc lúc nào cũng chiếu sáng như thế.

Một hôm, ánh sáng ấy bỗng biến mất. Nhà vua lấy làm lạ mới cho người đến xem thử. Người sứ đến nơi không thấy viên ngọc, chỉ thấy dưới chân tháp máu chảy đầy mặt đất. Ông đi theo vết máu, lần về phía rừng Ca-đà-la, chưa đến nơi đã thấy một người trộm ngọc nấp giữa bụi cây. Khi kẻ trộm lấy viên ngọc, hắn bị rơi từ trên bệ tháp xuống cho nên có vết máu. Sứ giả bắt ngay tên trộm dẫn đến cho vua. Khi nhà vua vừa thấy tên trộm, trong lòng tức giận vô cùng, nhưng thấy hắn bị thương thì lại sinh tâm thương xót, nói:

– Này gã kia, ngươi rất ngu si mới trộm viên ngọc của Phật như vậy. Đời sau chắc chắn ngươi sẽ đọa vào đường ác.

Vua liền nói kệ:

Lạ thay rất ngu si
Vô trí gây ác lớn
Như người sợ gậy gộc
Ngược lại bị chém giết.
Sợ cái khổ nghèo cùng
Nên sinh tâm cuồng ngu
Không chấp nhận phận nghèo
Mãi chịu khổ vô cùng.

Lúc ấy có một vị quan nghe bài kệ này, bèn tâu với nhà vua:

– Những điều ngài nói chân thật, không hư dối. Vị ấy liền nói kệ:

Tháp là báu của người
Kẻ ngu si trộm lấy
Người này vô lượng kiếp
Không được gặp Tam bảo.
Như xưa, có một người
Có tín tâm vui mừng
Hoa Tu-mạn trên tai
Đem dâng cúng tháp Phật
Ức kiếp sinh trời, người
Thọ rất nhiều vui sướng.
Tháp Thế Tôn mười lực
Trộm ngọc báu kiếm sống
Do nghiệp duyên như thế
Chìm đắm trong địa ngục.

Lại có một vị quan khác tức giận nói:

– Kẻ ngu này tội lỗi đã rõ ràng, cần gì phải trách mắng! Nên đem hắn đi giết.

Vua bảo vị quan:

– Ngài chớ nói như thế. Người đó cũng như người chết rồi cần gì phải giết nữa. Như người bị ngã xuống đất, ta nên đỡ họ lên.

Vua liền nói kệ:

Người này đã hủy hạnh
Hãy mau cứu giúp hắn
Ta phải ban tài sản
Khiến sám hối tu phước
Cho họ được xa lìa
Khổ nạn lớn đời sau.
Ta sẽ cho tiền của
Dạy họ cúng dường Phật
Nếu họ không hướng Phật
Tội không bao giờ tiêu.
Như người ngã xuống đất
Ta nên đỡ họ dậy
Gây tội vì tháp Phật
Cũng nhờ Phật, hết tội.

Nhà vua liền ban cho tên trộm tất nhiều tiền của và dạy cho ông ta đến tháp Phật làm các công đức. Lúc đó tên trộm suy nghĩ: “Vị vua này là người thấm nhuần giáo pháp Phật-đà. Tội lỗi của ta rất đáng bị xử tử mà nhà vua lại tha thứ. Ngài thật là bậc đại nhân xá tội nặng cho ta. Đức Như Lai Thích-ca vô cùng kỳ diệu mới điều phục, giáo hóa vị vua tà kiến làm những việc như vậy”.

Nghĩ rồi, tên trộm liền đến chỗ tháp, bò về phía chùa, chắp tay quy mạng, nói:

– Đức Thế Tôn đại bi cứu giúp thế gian, tuy đã nhập Niết-bàn mà vẫn còn có thể ban mạng sống cho con. Cả thế gian đều gọi Ngài là đấng Chân Tế, tiếng tăm Ngài vang khắp các thế giới và hôm nay Ngài đã cứu mạng sống cho con, cho nên Ngài được gọi là Đấng Chân Tế, thật không hư dối vậy.

Tên trộm nói kệ:

Thế gian gọi Chân Tế
Tên gọi thật không hư
Nay con được cứu giúp
Thật biết nghĩa Chân tế.
Thế gian đều dậy lửa
Rất nhiều sự đốt thiêu
Trăng từ bi mát mẻ
Chiếu tan khổ nóng bức.
Khi Như Lai tại thế
Tại nơi quỉ đồng trống
Cứu vớt Thủ trưởng giả
Việc này có khó chi,
Nay Phật đã Niết-bàn
Di pháp giúp nguy ách
Giúp con thoát khổ đau
Đây mới là rất khó.
Vì sao người họa sĩ
Khéo léo hợp Thánh tâm
Vẽ ảnh đưa tay phải
Nói lên sự an ủi
Người sợ hãi thấy Ngài
Còn được hết sợ hãi
Huống chi Phật tại thế
Sự cứu giúp rộng lớn
Nay con gặp khổ nạn
Tượng Ngài cứu giúp con.

Chương 5

Người ít muốn tuy có của cải, tài sản nhưng tâm không mê đắm vẫn được gọi là ít muốn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-tắc này có một người bạn thân tin pháp Bà-la-môn. Người bạn thân này tin pháp Bà-la-môn mặc áo xấu, hành khổ hạnh, nướng thân bằng năm nguồn nhiệt, thường ăn thức ăn dở, nằm trên phẩn dơ. Người bạn liền gọi vị Ưu-bà-tắc nói:

– Bạn hãy đến đây xem người Bà-la-môn. Có bao giờ bạn trông thấy người nào có hạnh cao cả, tự làm khổ thân cho trong sạch, ít muốn biết đủ như người này chăng?

Ưu-bà-tắc đáp:

Thứ hạnh cao cả ấy chỉ có thể đánh lừa bạn mà thôi!

Hai người cùng đến hỏi người Bà-la-môn:

– Nay ông khổ hạnh để mong cầu điều gì? Vị Bà-la-môn đáp:

Nay tôi thực hành khổ hạnh vì muốn được làm vua.

Ưu-bà-tắc nói với bạn:

Bây giờ người này đang cầu kho tàng châu báu ở thế gian, tha hồ giết chóc, ăn uống cao lương mỹ vị, nào cung nhân, kẻ hầu người hạ, khoái lạc cùng nữ sắc và các loại âm nhạc để tự vui chơi. Tuy làm quan lớn, trưởng giả có nhiều của cải báu nhưng không vừa ý, mới mong cầu tất cả châu báu của nhân dân trên khắp mặt đất. Người như thế mà gọi là ít muốn ư? Bạn chỉ thấy thân họ hành khổ hạnh, rồi cho là ít muốn mà không biết rằng ông có sự mong cầu không biết nhàm chán. Sao cho là ít muốn được?

Ưu-bà-tắc liền nói kệ:

Điều gọi là ít muốn
Chẳng phải cơm, áo xấu
Không có vật thường dùng
Mà cho là ít muốn.
Người này hiện tại đây
Tâm tham cầu không chán
Như sông biển bao la
Sao gọi là ít muốn?
Nay tu khổ hạnh này
Vì khát khao năm dục
Người này thật luống dối
Giả hiện tướng ít muốn
Vì tham nên tự khổ
Thật chẳng phải ít muốn.

Nói kệ xong, Ưu-bà-tắc lại nói:

– Nay người này có đủ các thứ tham dục, tức giận và si mê, không có được một phần nhỏ những công hạnh mà bậc Tiên thánh đã thực hành. Thế nên biết rằng, người ít muốn không phải là ở chỗ không có nhiều của cải vật chất. Vì sao mà biết? Vì như vua Tần-bà-sa-la giàu sang, có nhiều đất đai, voi ngựa và bảy báu, vẫn gọi là ít muốn. Vì sao? Vì tuy nhà vua có nhiều tài sản quý giá, nhưng tâm không tham đắm, chỉ ưa thích đạo Thánh. Do đó, tuy vua giàu sang, có bảy báu đầy ngập, nhưng tâm không mong cầu, nên gọi là ít muốn. Người tuy không có tài sản quý giá mà vẫn mong cầu không chán thì không được gọi là ít muốn biết đủ. Vị Ưu-bà-tắc liền nói kệ:

Nếu người không cơm áo
Lõa hình như Ni-càn
Làm những việc khổ nhọc
Cho đó là khổ hạnh
Thì ngạ quỉ súc sinh
Người nghèo các suy não
Những gian nan như thế
Lẽ ra gọi khổ hạnh.
Người này cũng như vậy
Luống tự mình khổ nhọc
Thân tuy làm hạnh khổ
Nhưng tâm lại tham đắm
Mong cầu không nhàm đủ
Không gọi là ít muốn.
Tuy có nhiều của cải
Nhưng tâm không đắm nhiễm
Tu hành vui Thánh đạo
Đó mới gọi ít muốn.
Thí như các nông phu
Gieo hạt giống xuống ruộng
Tham gặt được nhiều lúa
Không gọi là ít muốn.
Nếu thân bị ghẻ lở
Sẽ cần đồ chữa trị
Ý mong cầu Thánh đạo
Đó gọi là ít muốn.
Vì trị ghẻ lở ấy
Cần nhận ít thuốc men
Tâm không tham đời sau
Đó thật là ít muốn.
Tâm ý không dua nịnh
Cũng không cầu danh lợi
Tuy có tài sản nhiều
Có tiếng tăm, đức thật
Đủ những việc như thế
Đó mới thật ít muốn.

Chương 6

Tuy là người giữ giới, nhưng tâm mong cầu sinh lên cõi trời, cõi người để thọ hưởng sự vui sướng thì vẫn gọi là phá giới.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị Sa-môn và một vị Bà-la- môn kết hạ an cư trong khu rừng vắng. Lúc ấy vị Sa-môn thường qua lại chỗ Bà-la-môn, làm việc chung với nhau, ở chung trong trú xứ ấy nhưng không quá gần gũi hay xa cách. Vì sao? Vì nếu gần gũi quá sợ sẽ sinh ra kiêu mạn, còn nếu xa cách quá sẽ bị oán ghét.

Vị Sa-môn nói kệ:

Cắm chiếc gậy giữa trưa
Đứng, nằm đều không bóng
Cầm gậy nghiêng một bên
Bóng ấy sẽ ngã dài,
Người kia cũng như vậy
Nên không thân, không sơ
Khiến dần dần thông hiểu
Sau đó mới nói pháp.

“Vị Bà-la-môn này không có trí tuệ, chẳng biết kẻ ngu người hiền, nên cung phụng ông ta rất khổ. Vì thế, ta nay không nên gần gũi quá, cũng không nên xa cách quá. Vì sao? Vì phụng sự người ngu si đã khổ, mà không biết phải cung phụng cách nào cũng gọi là khổ.” Bằng những phương tiện gần gũi với nhau, dần dần qua lại và chuyện trò với nhau, lúc ấy vị Sa-môn hỏi Bà-la-môn:

Vì sao ông đưa tay về phía mặt trời, nằm lõa hình trên tro bụi và ăn cỏ? Ngày đêm không nằm mà chỉ đứng có một chân? Ông hành khổ hạnh để mong cầu điều chi?

Người Bà-la-môn đáp:

– Tôi mong được làm vua.

Ít lâu sau người Bà-la-môn bị bệnh. Ông ta đến hỏi thầy thuốc cách chữa trị. Thấy thuốc bảo:

– Ông cần phải ăn thịt.

Lúc đó người Bà-la-môn nói với thầy Tỳ-kheo:

– Thầy có thể đến nhà đàn-việt xin cho tôi một ít thịt để tôi trị bệnh được không?

Thầy Tỳ-kheo nghĩ: “Bây giờ đã đúng lúc ta phải giáo hóa người này”. Thầy Tỳ-kheo liền hóa ra một con dê, đem cột bên cạnh người Bà-la-môn. Ông ta hỏi thầy Tỳ-kheo:

– Thầy tìm thịt cho tôi giờ để ở đâu? Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Con dê chính là thịt.

Người Bà-la-môn vô cùng tức giận nói:

– Chẳng lẽ tôi phải giết con dê để ăn thịt sao? Thầy Tỳ-kheo đáp bằng bài kệ:

Nay anh thương con dê
Vẫn còn chưa muốn giết
Nếu sau này làm vua
Bò dê và heo chó
Vịt gà cùng muôn thú
Giết hại nhiều vô lượng.
Anh ngự trên tòa cao
Đầu bếp dâng thức ăn
Nếu khi anh nổi giận
Sẽ sai người chém đầu
Hoặc sai chặt chân tay
Có khi sai móc mắt.
Nay anh thương con dê
Mà muốn giết hại nhiều
Nếu thật có Từ tâm
Nên bỏ ý làm vua.
Như người sắp bị giết
Sợ khổ, uống nhiều rượu,
Rừng hoa nở đẹp tươi
Lửa mạnh sẽ đốt cháy,
Lai như mang gông vàng
Tuy đẹp nhưng buộc ràng,
Ngôi vua cũng như vậy
Thường có tâm sợ hãi
Ra oai người theo hầu
Trang sức bằng châu báu
Không thấy họa về sau.
Phàm phu tham mong muốn
Đã gây các điều ác
Đọa lạc ba đường khổ
Như thiêu thân tham lửa
Lao vào tự đốt thân.
Tuy có vui năm dục
Tiếng tăm vang khắp nơi
Nhưng tâm thường sợ hãi
Rất lo và rất khổ
Giống như bắt rắn độc
Cầm đuốc ngược chiều gió
Không buông, họa sẽ đến
Cũng như khổ sắp chết.
Lúc nhà vua đi dạo
Đầu đội mũ chư Thiên
Châu báu như chuỗi ngọc
Phục sức thật trang nghiêm
Các xe quý, ngựa tài
Vua ngồi dạo khắp nơi
Người hầu cả trăm ngàn
Oai thế rất hùng mạnh,
Hoặc lúc có quân địch
Khoác áo giáp đẹp đẽ
Thắng thì giết hại nhiều
Thua thì mất thân mạng.
Xoa hương thơm vào mình
Còn quần áo ướp hương
Ăn các thức ăn ngon
Trăm vị rất tuyệt vời
Cần chi đều tùy ý
Không trái nghịch bao giờ
Đi, đứng hoặc ngồi, nằm
Cử động đều nghi sợ
Bạn thân cũng không tin
Dù có là bạn thân
Nhưng tâm thường sợ sệt
Thì sao gọi là vui!
Như cá nuốt mồi câu
Như liếm mật dao bén
Cũng như lưới giăng ra
Thú, cá tham mùi vị
Không thấy khổ sau đó,
Giàu sang cũng như vậy
Rồi chịu khổ địa ngục.
Vách tường của địa ngục
Mặt đất đều lửa cháy
Người tội ở trong đó
Lửa tuôn tự đốt thân
Chịu khổ đau vô cùng.
Anh phải tự suy nghĩ
Được hưởng vui thì ít
Chịu các khổ thì nhiều
Vì thế nên nhớ khổ
Chớ mong cầu giàu sang.
Anh hãy bỏ tâm muốn
Chỉ mong cầu giải thoát
Cái khổ đều dứt hết.

Người Bà-la-môn nghe xong, lặng im không đáp, sau đó chắp tay thưa:

– Bạch Tôn giả, ngài đã khéo dùng tài hùng biện làm cho tâm tôi được mở tỏ. Dù được làm vua cõi trời Tam thập tam thiên, tôi cũng không ham thích nữa.

Ông liền nói kệ:

Ý lành phương tiện khéo
Và trí sáng quan sát
Xóa nguyện tà của tôi
Chỉ bày đường chân chánh
Bạn lành phải như vậy
Được thế gian ngợi khen.
Thường nên gần bạn này
Không có họa tranh loạn
Khéo dẫn tâm ý tôi
Bỏ tà, về nẻo chánh
Chỉ tôi việc thiện ác
Giúp đạt được giải thoát.

Chương 7

Lại nữa, người theo con đường tà sẽ bị các thứ khổ, còn người tu theo đường chánh thì tín tâm sẽ thêm lớn và được ngợi khen. Người có trí nên quán sát sự tà chánh.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một người tu một khổ hạnh nhỏ ở bên cạnh đường đi, nếu khi nào có người thì ông ta nằm trên gai nhọn, còn lúc không có ai, thì ông ta nằm ở chỗ khác. Có người thấy vậy bèn hỏi:

– Ông có thể nằm nhẹ nhàng trên gai nhọn, cần gì phải lăn lộn để cho thân thể bị thương nặng như vậy?

Người đó nghe xong vô cùng tức giận, nhảy bổ trên đống gai nhọn, lăn lóc dữ dội hơn trước. Khi đó, có một vị Ưu-bà-tắc đứng bên cạnh, người khổ hạnh trông thấy lại càng lăn lộn trên đống gai dữ dội hơn. Ưu-bà-tắc nói với ông ta:

– Trước đây ông chỉ bị gai nhỏ đâm, nay lại dùng gai tức giận để tự đâm mình. Vết gai trước đây chỉ gây xây xát, còn vết gai tham tức mới bị đâm sâu. Người nằm trên gai nhọn chỉ khổ một đời, còn khổ vì gai tham tức thì khổ đến vô lượng đời. Bị gai đâm chân, vết thương này dễ lành, còn vết gai tham tức trải qua vô lượng kiếp vẫn không lành. Thế nên hãy nhổ bỏ cái gai sân độc.

Vị Ưu-bà-tắc liền nói kệ:

Bây giờ ông nên nhổ
Gai sâu độc trong tâm
Hãy dùng dao trí bén
Chặt đứt gai tham tức.
Người nặng về tham tức
Đời đời không bỏ được
Người ngu nhiều tà kiến
Không biết đạo Chánh chân
Khổ thân nằm trên gai
Làm khổ muốn hết khổ
Người thấy nằm trên gai
Ai cũng muốn tránh xa.
Chỉ ông đối khổ này
Ôm giữ không buông bỏ
Ta thấy việc như vậy
Mới biết có tà chánh.
Vì thế xin quay về
Đấng Thế Tôn mười lực
Đại bi cứu các khổ
Mở bày con đường chánh
Vượt qua các nẻo tà
Dẫn đến tám đường chánh
Bọn ngoại đạo tà kiến
Bị khổ sở phỉnh lừa
Rất tin vào các khổ
Trôi lăn đến vô cùng
Những người có trí tuệ
Thấy thế tăng lòng tin.
Ngoại đạo rất ngu si
Khổ hết được giải thoát.
Đấng Xuất Thế đã dạy
Các vật đều đầy đủ
Được tu tám đường chánh
Nhờ tu nên giải thoát
Vì thế nên phải biết
An lạc được giải thoát
Chẳng phải như ngoại đạo
Chịu khổ được Niết-bàn.
Nương tâm mà gây ra
Các nghiệp thiện và ác
Ông phải hàng phục tâm
Sao lại làm khổ thân?
Thân là các kết sử
Tu sai các thứ khổ
Là người tu đạo khổ
Đường địa ngục sẵn chờ.
Trong chốn địa ngục ấy
Chém, chặt cùng phẩn dơ
Hừng hực thiêu đốt họ
Chịu đủ bao đau đớn
Tuy họ chịu các khổ
Vẫn không gọi khổ hạnh.
Người trí dứt ba nghiệp
Cấu uế đều xả bỏ
Phật Thích-ca chỉ dạy
Dạy tất cả mọi người
Nên cầu cam lộ trời
Lại giảng nói chỉ quán
Lại trang sức trí tuệ
Đó gọi chân khổ hạnh,
Cần gì luống nhọc thân
Gây các khổ vô ích
Khổ này rất dài lâu
Rộng sâu không bờ mé.
Như có đứa con ác
Không được nó nuôi nấng
Chỉ gây ra tội ác
Do đó chịu các khổ.
Lúc ấy ngoại đạo kia
Bèn nói như thế này:
Các Tiên tu khổ hạnh
Cũng được sinh cõi trời.
Ưu-bà-tắc nói kệ
Trả lời ngoại đạo kia:
Các Tiên sinh cõi trời
Chẳng phải nhờ nằm gai
Do thí, giới, nói thật
Mà được sinh cõi trời.
Ông tuy sống khổ hạnh
Chẳng được lợi ích gì
Cũng như người nông phu
Mùa xuân không gieo giống
Đến thu chẳng có hạt
Để mà được thu hoạch.
Các ông cũng như vậy
Không gieo hạt giống lành
Chỉ tu các hạnh khổ
Cuối cùng chẳng được gì.
Hễ người muốn tu đạo
Phải nuôi dưỡng thân này
Dùng thức ăn uống ngon
Nuôi thân mạng đầy đủ
Khí lực có sung mãn
Mới tu Giới, Định, Tuệ.
Nhịn ăn chịu đói khát
Thân tâm đều lo buồn
Tâm không thể chuyên chú
Làm sao đạt Thánh quả?
Tuy ăn thức ăn ngon
Tâm chẳng đắm vị ngon
Chỉ giữ giới, nói thật
Bố thí, Nhẫn nhục, Định
Đó là những hạt giống
Sẽ được quả báo lành.
Thân tuy chịu đói khát
Mà tâm mong vị ngon
Nhân lành còn không có
Huống gì gặt quả ngon.
Nếu có tâm tàn hại
Khiến người khác sợ hãi
Nếu dứt tâm tàn hại
Cho người sự không sợ
Đó gọi là hành pháp.
Nếu còn tâm tàn hại
Gọi là không đúng pháp.
Các món ngon đầy đủ
Không có ý hại người
Vì không ý hại người
Nên không tổn hại họ.
Nếu khởi tâm Đại từ
Sẽ được quả lành lớn
Ông tuy tự nhịn ăn
Đói khát phải mê mệt
Cũng chẳng ích lợi gì.
Ngoại đạo nói thế này:
Nếu anh khởi từ tâm
Chưa hẳn đã lợi ích
Và được quả báo lớn
Nhịn đói mà ngủ nghỉ
Việc ấy cũng như vậy
Tuy không ích cho kia
Cũng được quả báo lành.
Ưu-bà-tắc đáp rằng:
Từ tâm trừ sân hại
Nhờ dứt trừ sân hại
Nên được quả báo lành.
Ông hành pháp khổ hạnh
Sự tức giận thêm lớn
Liền sinh thân miệng ác
Làm sao được quả lành?
Tâm từ không như thế
Nếu khi khởi tâm Từ
Thì dứt được sân hại
Vì không có sân hại
Nên sinh thân, miệng lành.
Vô ích hành khổ hạnh
Làm sao giống từ, thiện?
Thí như sư tử rống
Các thú chẳng dám gần
Như Lai vô ngại biện
Việc ấy cũng như vậy,
Tất cả các ngoại đạo
Không dám chống đối lại
Nói pháp dẹp ngoại đạo
Lặng im không đối đáp.

Chương 8

Nghiệp thân, miệng không được tự tại chính là do nơi ý.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị Tỳ-kheo-ni đến nước Xa- già-la. Trong nước đó có một vị Bà-la-môn nướng thân trên lửa, mồ hôi từ trán, từ ngực, từ nách chảy xuống ròng ròng, cổ họng khô khốc, miệng lưỡi đều sưng dộp, không còn một giọt nước dãi. Bốn phía ông ta đều đốt lửa giống như nấu vàng, cũng như tóc vàng, cháy lên đỏ rực. Mặt trời mùa hạ rất nóng chiếu thẳng vào thân ông ta, lăn qua trở lại cũng không có chỗ tránh. Thân thể ông ta cháy đỏ như chiếc bánh trên chảo. Người Bà-la-môn này thường mặc áo vải thô, nướng thân bằng năm nguồn nhiệt. Do đó mà người đương thời gọi ông là “Lũ hạt chích” (người mặc áo vải thô, nướng thân trên lửa).

Vị Tỳ-kheo-ni thấy việc ấy bèn bảo vị Bà-la- môn:

– Cái nên đốt thì ông không đốt. Còn cái không nên đốt thì ông lại đốt.

Người Bà-la-môn nghe nói vô cùng tức giận đáp:

– Này cô nàng trọc đầu xấu xí kia, cái gì nên đốt?

Vị Tỳ-kheo-ni nói:

– Ông muốn biết cái gì nên đốt phải không? Đó là ông chỉ cần đốt tâm tức giận của ông. Nếu đốt được tâm ấy thì đó gọi là đốt đúng đắn. Như chiếc xe trâu kéo, nếu xe không đi thì cần phải thúc trâu chứ không cần đánh xe. Thân này cũng như chiếc xe và tâm cũng giống như trâu kia. Do nghĩa này cho nên ông chỉ cần đốt tâm mà thôi, sao lại đốt thân? Lại nữa, thân như rừng cây, như tường vách, nó vô tri, dù có đốt thiêu nó cũng chẳng ích lợi gì.

Vị Tỳ-kheo-ni liền nói kệ:

Tâm như chủ thành
Chủ thành tức giận
Mới muốn tìm thành
Chẳng ích lợi gì!
Ví như sư tử
Có người kia dùng
Cung tên, ngói đá
Đánh, bắn sư tử
Thì sư tử kia
Rượt cắn người đó,
Không như chó ngu
Có người ném đá
Chó rượt ngói đá
Chứ không cắn người.
Nói về sư tử
Dụ cho người trí
Biết tìm cái gốc
Mà dứt phiền não,
Còn chó ngu si
Dụ cho ngoại đạo
Năm nguồn đốt thân
Không biết gốc tâm.
Bà-la môn hỏi:
Sao gọi đốt tâm?
Tỳ-kheo-ni đáp:
Trí tuệ Tứ đế
Như bốn đống lửa
Tu đạo như trời
Phàm người trí tuệ
Với lửa Tứ đế
Mặt trời tu đạo
Dùng năm pháp này
Để đốt tâm kia.
Vì cái thân này
Không được tự do
Sao làm khổ thân?
Nếu muốn làm khổ
Hãy làm khổ tâm
Vì tâm là gốc
Làm khổ thân kia.
Đi đứng ngồi nằm
Chẳng phải thân làm
Chỉ vì tâm khiến
Chẳng phải do thân,
Lỗi tại nơi tâm
Sao làm khổ thân?
Nếu tâm lìa thân
Thân như gỗ, đá
Thế nên người trí
Nên trách tâm mình
Không làm khổ thân.
Ông đốt thân này
Bằng năm nguồn nhiệt
Cho là khổ hạnh
Nhờ đó đắc đạo
Thì người địa ngục
Chịu khổ vô lượng
Các thứ đau đớn
Cũng đắc đạo sao?
Bà-la-môn nói:
Việc khổ hạnh này
Là phát tâm làm
Được gọi tu đạo.
Chúng sinh địa ngục
Bị ép chịu khổ
Cho nên không được
Nói là tu đạo.
Tỳ-kheo ni nói:
Nếu tự phát tâm
Mà được phước thì
Đứa bé chụp lửa
Cũng được phước sao?
Nhưng thật không được
Từ đó suy ra
Việc làm của ông
Năm nguồn đốt thân
Cũng không có phước.
Bà-la-môn nói:
Bé con, trẻ nít
Chưa hiểu biết gì
Cho nên không phước,
Còn tôi có trí
Tu khổ hạnh này
Năm nguồn đốt thân
Cho nên có phước.
Tỳ-kheo ni nói:
Nếu cho có trí
Tu các khổ hạnh
Mà có phước thì
Người tìm chân châu
Gai đâm chảy máu
Mới lấy được châu
Cũng có phước sao?
Bà-la-môn nói:
Vì có tâm tham
Tuy bị chảy máu
Cũng không có phước.
Tỳ-kheo ni nói:
Ông tu khổ hạnh
Tham vui cõi trời
Cũng không có phước
Nếu vì tham cầu
Thì không quả báo
Như người đi săn
Không được quả báo.
Như người bắt cá
Không được phước quả,
Nay ông thực hành
Hạnh khổ hạnh này
Cũng sẽ chẳng được
Cái vui cõi trời.
Nay vì sao ông
Thân tâm lăn lộn
Muốn hành khổ hạnh
Để hưởng vui trời?
Trong pháp Phật ta
Không có loại pháp
Năm nguồn đốt thân
Hành pháp khổ hạnh
Để được vui trời,
Muốn được vui trời
Phải tu nói thật
Các công đức lành
Tuy tâm tham, sợ
Được sinh trời vui.
Ví như uống thuốc
Dù tham hay sợ
Đã uống thuốc rồi
Đều có công hiệu,
Nếu nói lời thật
Các công đức lành
Dù tham hay sợ
Ắt được vui trời.
Thời Bà-la môn
Cạn lời hết ý
Không thể trả lời
Nên đứng im lặng.
Người đứng xung quanh
Đối với pháp Phật
Sinh tin, thanh tịnh
Rất mến chánh pháp
Nói với nhau rằng:
Lành thay! Pháp Phật
Có trí lực lớn
Sâu xa khó lường
Trí của ngoại đạo
Thật rất cạn cợt.
Ví như lửa hừng
Nếu táp vào người
Thì ai cũng sợ,
Ngọn lửa Phật pháp
Cũng lại như vậy
Chạm Bà-la môn
Khiến y sợ hãi.
Hôm nay chúng ta
Được nghe pháp Phật
Luận nghĩa tối thắng
Đều nên quy ngưỡng
Cõi Niết-bàn Phật
Cung kính lễ bái
Nam mô Thế Tôn.
Âm thanh êm dịu
Giảng nói chánh pháp
Người nữ trí cạn
Uống cam lộ Phật
Ở trước đại chúng
Nói pháp không sợ.
Đối với lời Phật
Ai không cung kính
Như Tỳ-kheo ni
Trí tuệ nông cạn
Vẫn diệt kết sử.
Lời Đấng Mâu ni
Nhất định khiến cho
Bà-la-môn này
Không thể đáp lại
Phải đứng lặng im.

Chương 9

Dục như miếng thịt, bầy chim tranh nhau xâu xé. Người có trí biết rõ mối họa về tiền tài, của cải nên không tham đắm.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, tại nước Tu-bà-đa có một thầy Tỳ- kheo thấy chỗ bức tường đã đổ nát có kho tàng, trong đó có một cái chum đồng lớn, trong chum có nhiều tiền vàng. Thầy Tỳ-kheo dẫn một Ưu-bà-tắc nghèo đến chỉ chỗ vàng ấy và bảo:

– Ông hãy giữ lấy số tài sản quý báu này để làm của sinh sống.

Vị Ưu-bà-tắc hỏi thầy Tỳ-kheo:

– Thầy thấy kho báu này lúc nào? Vị Tỳ-kheo đáp:

– Tôi mới thấy hôm nay. Vị Ưu-bà-tắc nói:

– Chẳng phải hôm nay con mới thấy kho báu mà con đã thấy từ lâu lắm rồi, nhưng con không dùng. Xin thầy hãy nghe, con sẽ nói rõ sự thật về tai họa của những đồ quý báu này. Nếu ai giữ nó, nhà vua nghe được, người đó có thể sẽ bị xử tử, lưu đày hay giam cầm… những nỗi khổ như thế không thể kể hết.

Ông liền nói kệ:

Tôi thấy của báu này
Đã nhiều năm trôi qua
Của báu này độc hại
Còn hơn cả rắn độc
Vì thế đối với nó
Tôi không có tâm tham
Xem nó như rắn độc
Không tưởng là của quý.
Bị giam cầm lưu đày
Hoặc có khi phải chết
Tất cả các tai hại
Đều từ báu này ra
Gây ra các thứ khổ
Bị hại, rất đáng sợ
Thế nên đối kho báu
Tôi không dám tham gần.
Chúng sinh đắm vật báu
Cho đó là quý giá
Báu là vật nguy hại
Lầm tưởng là an vui
Có những lỗi như thế
Sao cho là quý báu?
Thân dơ bẩn như thế
Thích giữ gìn thân mạng
Rồi đây sẽ hoại diệt
Dùng trân bảo làm gì
Như bỏ củi vào lửa
Không khi nào nhàm đủ.
Tâm người cũng như vậy
Mong cầu không nhàm đủ
Nếu thầy thương xót con
Dạy con pháp ít muốn
Vì sao lại chỉ chỗ
Kho báu cho con thấy?
Hễ ít muốn biết đủ
Thì sinh lợi lạc lớn
Nếu người nhiều tham dục
Các căn thường tán loạn
Tham cầu không nhàm đủ
Hy vọng thêm khổ não,
Nhưng người đa dục này
Thường sinh tư tưởng dục
Tham lợi không cùng cực
Như miệng cá Ma-kiệt.
Chính người ít muốn kia
Không có khổ tham cầu
Tâm thường hoan hỷ luôn
Vui vẻ như ngày hội.

Khi Ưu-bà-tắc ca ngợi pháp ít muốn biết đủ, Tỳ-kheo kia sinh tâm ít có, khen ngợi:

– Lành thay! Lành thay! Đúng là bậc Trượng phu. Tuy thân không mặc pháp phục mà tâm đã xuất gia, thuận theo lời Phật, biết pháp ít muốn, ít muốn là pháp mà chư Phật đều khen ngợi.

Thầy Tỳ-kheo nói:

Những lời ông đã nói, tóm lại, là những lời quở trách rất sâu sắc, làm cho tôi vô cùng hối lỗi. Ông hiện đang sống tại gia cùng vợ con, quyến thuộc và tôi tớ, đúng ra phải tham cầu để phát triển tài sản, vậy mà ông lại nghe lời Phật dạy, khen ngợi hạnh ít muốn. Dù cho người có lưỡi bằng sắt cũng không thể chê bai hạnh ít muốn biết đủ. Giờ đây, tôi tuy xuất gia, thân mặc pháp phục, tướng đồng với Sa-môn, nhưng thật không biết pháp Sa-môn mới xúi giục ông những việc đa dục, không biết khen ngợi pháp ít muốn mà Đấng Pháp Vương khen ngợi, trong khi pháp ít muốn là nguồn gốc của các điều thiện, như trong kinh Phật cũng dạy ít muốn là gốc của Sa-môn. Xưa kia, Đức Như Lai đi khất thực, nếu có thức ăn dư, Ngài ban cho các thầy Tỳ-kheo, hoặc bỏ xuống sông cho các loài vật ăn. Bấy giờ, có hai thầy Tỳ-kheo đi khất thực bị thiếu thức ăn nên trông có vẻ đói lắm. Họ từ bên ngoài đi vào, Đức Phật trông thấy, Ngài bèn hỏi: “Hiện Ta còn thức ăn, các thầy có dùng không?”

Một thầy nói: “Đức Như Lai Thế Tôn nói hạnh ít muốn có công đức lớn. Nay tại sao ta lại vì tham thức ăn này mà ăn ư?”. Thầy Tỳ-kheo thứ hai lại nói: “Rất khó được gặp thức ăn dư của Đức Như Lai Thế Tôn. Các Phạm thiên, Đế Thích, Thiên vương đều cung kính đội trên đầu thức ăn dư ấy. Bấy giờ, nếu ta ăn sẽ được lợi ích, sức khỏe an vui, nói năng lưu loát. Bởi vì thức ăn này rất khó được gặp, sao ta lại không ăn?”

Khi ấy Đức Thế Tôn ngợi khen thầy Tỳ-kheo không ăn: “Lành thay! Vị Tỳ-kheo tu theo lời Phật dạy, thực hành pháp ít muốn. Còn thầy Tỳ-kheo thứ hai này tuy nghe theo lời Phật mời, ăn thức ăn dư của Phật nhưng không được khen ngợi. Vì thế nên biết rằng pháp ít muốn là điều căn bản mà Đức Phật đã ấn khả và răn dạy.”

Ngài liền nói kệ:

Người muốn được pháp lợi
Phải thực hành pháp ít muốn

Pháp ít muốn như thế
Chính là chuỗi anh lạc
Trang nghiêm của bậc Thánh.
Đời này buông gánh nặng
Không lo, được vui sướng
Chính là cửa đầu tiên
Để vào nhà Niết bàn.
Ngăn chận các ma quân
Phòng hộ, chắn các nẻo
Thoát ra cảnh giới ma
Được quyền lực vô thượng
Giữ giới như biển lớn
Ít muốn như sóng biển
Thường vì các công đức
Làm cái dù che kín
Kẻ mệt vì tham cầu
Được an nghỉ trong ấy.
Gần gũi người ít muốn
Cũng giống như sữa bò
Lạc, tô và đề hồ
Được lấy ra từ đấy,
Ít muốn cũng như vậy
Sinh ra các công đức
Người dang tay bố thí
Tay ấy là đẹp hơn
Người nhận rụt tay lại
Đẹp hơn lại hơn kia.
Nếu người nói bố thí
Giá lời ấy khó lường
Người nhận nói: tôi đủ
Khó lường lại hơn kia.
Nếu muốn được pháp này
Nên gần người ít muốn.
Thế Tôn nói ít muốn
Tức là pháp Thánh chủng
Ít muốn không tài vật
Giới, văn, tuệ thêm lớn.
Pháp ít muốn như thế
Pháp thực của xuất gia
Tuy rằng có khát ái
Nhưng không thể làm não
Vừa an vui kiếp sau
Hiện tại cũng an ổn.

Chương 10

Người biết đủ tuy nghèo mà giàu, người không biết đủ tuy giàu mà nghèo. Nếu Thánh trí đầy đủ thì đó là rất giàu.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị Ưu-bà-tắc bị người chê trách là nghèo mạt rệp. Nhưng vị Ưu-bà-tắc này ưa thích pháp biết đủ mà Phật khen ngợi, liền thuận theo pháp tướng mà nói kệ:

Không bệnh, được lợi nhất
Biết đủ giàu bậc nhất
Bạn lành thân thích nhất
Niết-bàn an vui nhất.

Ưu-bà-tắc nói kệ xong bèn bảo người kia:

– Như Đức Phật dạy biết đủ thì giàu, tại sao ông nói tôi là người nghèo nàn?

Ông ta lại nói kệ:

Tuy có các của báu
Vật thường dùng dồi dào
Mà không tin Tam bảo
Cũng gọi rất nghèo nàn.
Tuy chẳng có của báu
Và các vật thường dùng
Nhưng kính tin Tam bảo
Cũng gọi là giàu nhất.
Nay ta kính Tam bảo
Đức tin là của báu
Người vì duyên cớ gì
Bảo ta là kẻ nghèo?
Đế Thích, Tỳ-sa-môn
Tuy nhiều các vật báu
Nhưng khi họ bố thí
Không thể xả tất cả.
Tâm ta thích biết đủ
Đối các vật quý báu
Không có tâm tham đắm
Tất cả đều xả được.
Kho tàng người giàu sang
Có nhiều các châu báu
Nước, lửa và trộm cướp
Đều có thể xâm đoạt,
Khi người đó mất của
Thì rất là khổ não
Thầy thuốc và thuốc hay
Không thể trị khổ kia.
Ta lấy tín làm báu
Không ai chiếm đoạt được
Tâm ý thường an vui
Không lo buồn khổ não.

Nói kệ xong, Ưu-bà-tắc lại nói:

– Thế nên biết rằng: tuy có kho tàng, voi ngựa, bảy báu, các vật dùng mà không biết đủ thì cũng gọi là nghèo. Cho nên Phật dạy: Người biết đủ giàu có nhất.

Mọi người nghe xong đều khen ngợi:

– Lành thay! Đúng là những lời dạy chân chánh, có đại trí tuệ, là đấng đại trượng phu.

Mọi người nói với nhau:

– Từ nay về sau ai tuy không có tài sản, vật báu nhưng có tín tâm, chúng ta gọi đó là người giàu có. Khổ nhọc để thu góp tiền của, đều cho là vui, vì muốn cung cấp cho gia đình, quyến thuộc, giúp họ không thiếu thốn. Những niềm vui như thế chính là thân vui trong hiện tại. Của báu tín tâm sẽ kéo dài trong nhiều đời là tài sản quý báu tha hồ dùng ở cõi trời, cõi người. Thế nên biết rằng lòng tin là tài sản vật báu bậc nhất. Với tài sản tín tâm này sẽ được thọ hưởng sự vui sướng trong khi còn sinh tử, không có các khổ não. Vàng bạc, châu báu có thể sinh ra tai họa, ngày đêm lo sợ người khác cướp lấy và có tám điều nguy hại. Vì tham đắm cho nên chịu khổ nhiều đời. Nhờ có tín tâm cho nên đạt được giới tài, thí tài, định tài, tuệ tài. Còn nếu không có tín tâm làm sao có được những tài sản như vậy. Vì thế nên tài sản tín tâm là bậc nhất. Ta có thứ tài sản này cho nên đối với mọi người, ta tự cho là rất giàu có. Thuở xưa, ta đã tích lũy nhiều nghiệp lành, do đó những điều mà ngày nay ta đạt được là nhờ vào tín tâm, biết đủ.

Họ liền nói kệ:

Nhờ có được tín tâm
Nên không gây điều ác
Tất cả các công đức
Do lòng tin làm ra
Tín như sông, mũi tên
Vút cuộn đi rất nhanh
Thường làm cho tâm ý
Mau thực hành pháp lành
Ai có nhiều của báu
Mà hơn người giàu tín
Tuy có nhiều của báu
Mất đi sẽ nghèo nàn
Khi người đó chết đi
Bỏ của đi một mình
Không theo đến đời sau,
Tài sản tín không mất
Luôn như bóng theo hình
Nhiều kiếp hưởng vui sướng.
Người đời chứa của báu
Hay sinh tâm tham dục
Tài sản tín không vậy
Ai thấy cũng vui mừng.
Đối với các của báu
Của báu tín trên hết
Trình bày rõ nghĩa này
Đấng Mâu-ni đã nói.
Thế nên ta chẳng nghèo
Của báu tin là hơn
Chỉ tín là của báu
Ngoài ra không gọi tài.
Bố thí với tín tâm
Tài vật được thêm nhiều
Bố thí không tín tâm
Quả báo chẳng là bao.

QUYỂN 3

Chương 11

Nếu có vị đệ tử nào giữ vững Giới luật, được người tôn kính thì tất cả người đời đều tôn kính người ấy như bậc Thầy.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có các thầy Tỳ-kheo đi trong con đường hoang vắng, bị bọn cướp trấn lột hết y phục. Bọn cướp muốn giết sạch các Tỳ-kheo vì sợ các Tỳ-kheo sẽ vào xóm tố cáo. Trong bọn cướp có một tên trước đây từng xuất gia nên hắn nói với đồng bọn:

– Đâu cần giết họ làm gì? Theo pháp Tỳ-kheo thì không được làm tổn thương cây cỏ, bây giờ các ông hãy lấy cỏ trói họ lại. Vì sợ tổn thương cây cỏ nên họ sẽ không dám bứt đứt mà đi.

Bọn cướp liền lấy cỏ trói các Tỳ-kheo lại, rồi kéo nhau bỏ đi. Các thầy Tỳ-kheo bị trói bằng cỏ, sợ phạm giới cấm không dám bứt đứt. Thân không mặc y áo nên bị mặt trời thiêu đốt, lại thêm muỗi mòng, ruồi bọ bu cắn. Các thầy bị trói từ sáng đến trưa, rồi cho đến khi mặt trời lặn, bóng tối bao phủ dày đặc, các thầy nghe tiếng chân đuổi chạy của loài cầm thú, tiếng tru của những loài chồn rừng, cùng tiếng rúc của chim cú mèo, âm thanh ghê rợn vang rền thật là đáng sợ. Có một thầy Tỳ-kheo già bảo các Tỳ-kheo:

– Các thầy hãy lắng nghe, mạng người thật ngắn ngủi như dòng sông chảy xiết. Nếu chúng ta có ở trên cõi trời cũng chẳng tồn tại dài lâu, huống gì mạng người ở chốn nhân gian, đâu thể giữ gìn được? Mạng sống đã mong manh thì sao lại vì thân mạng này mà phá hủy giới cấm? Các thầy nên biết rằng, thân người khó được, Phật pháp khó gặp, các căn khó đủ, tín tâm khó sinh. Mỗi thứ ấy đều khó gặp được. Ví như con rùa mù gặp được bọng cây nổi, Chánh đạo của Phật không giống như chín mươi lăm thứ tà kiến điên đảo kia, không có quả báo gì. Người tu hành Phật đạo chắc chắn đạt được chánh quả, sao lại tiếc nuối cái thân vô thường bất định mà phá hủy Thánh giáo của Phật. Nếu ai vâng giữ lời Phật dạy, thì đời này được tiếng khen và công đức đầy đủ, đời sau được vui sướng, như bài kệ do Phật nói:

Nếu người có trí tuệ
Giữ vững được giới cấm
Cầu trời, người, Niết-bàn
Đạt được điều như ý
Tiếng tốt vang khắp nơi
Mọi người đều cúng dường
Ắt được vui trời, người
Cũng được quả giải thoát.
Rồng chúa Y-la-bát
Vì phá hủy giới cấm
Giẫm đạp lên lá cây
Khi chết đọa làm rồng
Chư Phật chưa xác định
Khi nào bỏ thân rồng.
Nếu giữ vững giới cấm
Việc này rất là khó.
Hình thức giới rất nhiều
Khó phân biệt hiểu rõ
Như đống gai, rừng kiếm
Vào đó nhiều tổn thương
Người yếu kém không kham
Giữ gìn giới như thế.

Các thầy Tỳ-kheo bị khổ sở bức bách, không thể co, duỗi, cho đến chuyển động thân thể, vì sợ cỏ bị đứt sẽ trái phạm giới cấm. Nên các thầy bảo nhau:

– Chúng ta tu hành cũng như cái cân kia giữ mức quân bình không cho tăng giảm. Giờ đây bị lâm vào hoàn cảnh khốn đốn sợ hãi, phải quyết chí một lòng không lay chuyển mới phân biệt được sự mềm yếu hay mạnh mẽ. Lấy cái thân hèn mọn để đổi lấy pháp quý giá an vui chốn trời, người và sự an vui Niết-bàn, thì giờ đây chúng ta không có con đường nào khác, chỉ nên giữ gìn giới cấm, dù chết cũng không trái phạm.

Vị Tỳ-kheo giả liền nói kệ:

Chúng ta từ xưa nay
Gây ra các nghiệp ác
Hoặc được sinh cõi người
Trộm cắp, dâm vợ người
Bị hình phạt của vua
Nhiều không thể tính kể,
Lại chịu khổ địa ngục
Cũng vậy, khó kể hết
Hoặc làm loài súc sinh
Bò, dê và gà, chó
Hươu nai, cầm thú thảy
Bị kẻ khác giết hại
Mất thân nhiều không xiết
Không hề có chút lợi.
Chúng ta hôm nay đây
Vì giữ gìn Thánh giới
Xả bỏ thân nhỏ này
Ắt được lợi ích lớn.
Nay ta gặp nguy ách
Chắc chắn bỏ thân mạng
Nếu sau khi qua đời
Sinh Thiên hưởng vui sướng
Nếu hủy phạm giới cấm
Hiện đời mang tiếng xấu
Bị người đời khinh thường
Chết đi đọa đường ác,
Nay cùng nhau lập thệ
Ở đây đến khi chết
Dù cho nắng mặt trời
Chiếu khô thân mạng tôi
Chúng con giữ giới Phật
Không bao giờ hủy phạm.
Giả sử các thú dữ
Cắn xé tay chân con
Cũng không hề hủy phạm
Giới cấm Thích Sư Tử
Con thà, giữ giới chết
Không sống mà trái phạm.

Các thầy Tỳ-kheo nghe vị Tỳ-kheo già nói kệ này rồi, mỗi vị đều ngồi ngay thẳng, không hề dao động, ví như cây lớn lúc không có gió thổi, cành lá không lung lay. Bấy giờ có vị vua nọ tình cờ đi săn bắn, nhà vua dần dần đi về phía các thầy Tỳ-kheo bị trói. Trông thấy các thầy từ xa, nhà vua sinh tâm nghi ngờ bèn nghĩ: “Không biết những người lõa hình kia là Ni-kiền hay Sa-môn?”. Nghĩ xong, nhà vua liền sai người đến xem thử. Các thầy Tỳ-kheo vô cùng thẹn, che thân mình lại. Người sứ xét biết là Sa-môn đệ tử Phật. Vì sao mà biết? Vì bên vai phải của họ bị đen. Người sứ vội quay trở lại tâu vua:

– Các vị ấy là Sa-môn chứ chẳng phải Ni-kiền.

Ông liền nói kệ:

Xin đại vương biết cho
Họ bị giặc trấn lột
Xấu hổ bị cỏ trói
Như móc sắt buộc voi.

Nhà vua nghe rồi rất lấy làm lạ, im lặng suy nghĩ: “Bây giờ ta hãy đến chỗ các thầy Tỳ-kheo”. Nghĩ xong, nhà vua nói kệ:

Bị cỏ xanh trói tay
Giống như cánh anh vũ
Lại như dê tế trời
Nằm yên không nhúc nhích
Tuy biết đang gặp nguy
Ngồi yên không hại cỏ
Như cây bị lửa đốt
Trâu mao chết vì đuôi.

Nói kệ xong, nhà vua đến chỗ các Tỳ-kheo, hỏi:

Thân thể rất khỏe mạnh
Có sức, không bệnh tật
Vậy vì lý do gì
Cỏ trói, lại ngồi yên?
Các thầy há không biết
Chính mình có sức ư?
Bị chú thuật mê hoặc
Hay là vì khổ hạnh
Hay nhàm chán thân mình?
Xin mau nói cho biết.

Thầy Tỳ-kheo đáp:

Cỏ này rất non yếu
Bứt đứt cũng không khó
Chỉ vì bị buộc bởi
Giới Kim cang của Phật
Giữ gìn các giới cấm
Nên không dám bứt đứt.
Phật nói: các cỏ cây
Là nơi quỉ thần ở
Chúng tôi không dám trái
Cho nên không dám bứt.
Giống như đàn chú thuật
Vẽ phạm vi quanh rắn
Nhờ năng lực thần chú
Rắn độc không qua được,
Thế Tôn vẽ phạm vi
Chúng tôi không dám vượt.
Chúng tôi tuy giữ thân
Cuối cùng cũng phải chết
Nhưng thà giữ giới chết
Hơn phá giới mà sống.
Có đức và không đức
Rốt cuộc rồi cũng chết
Có đức tuệ mạng còn
Và lại có tiếng khen
Không đức tuệ mạng mất
Cũng mất cả tiếng tăm.
Các Sa-môn chúng tôi
Giữ giới là sức mạnh
Giữ giới là ruộng tốt
Sinh ra các công đức
Thềm thang sinh cõi trời
Hạt giống của tiếng khen
Bến cầu lên bờ Thánh
Đầu, mắt của các lợi
Ai người có trí tuệ
Muốn phá bình giới đức?

Lúc ấy nhà vua rất vui mừng, liền mở cỏ trói cho các thầy Tỳ-kheo và nói kệ:

Lành thay! Giữ vững được
Những điều Thế Tôn dạy
Thà bỏ thân mạng mình
Giữ pháp không hủy phạm.
Nay tôi cũng quy mạng
Như thế bày pháp lớn
Quy y lìa nóng bức
Đấng Giải Thoát Mâu-ni
Người giữ giới vững chắc
Nay tôi cũng quy mạng.

Chương 12

Nếu người trong tâm hiền thiện thì thường an ổn, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Thế nên người trí phải tu tâm, khiến cho tâm ấy luôn hiền thiện.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có các Tỳ-kheo cùng những người đi buôn ra biển tìm vật báu. Khi mọi người ra giữa biển thì thuyền bị vỡ. Lúc ấy có một Tỳ-kheo trẻ tuổi vớ được tấm ván, còn Thượng tọa Tỳ-kheo không được miếng ván nên sắp bị chìm. Vị Thượng tọa vô cùng hoảng sợ, sợ bị chết trôi, nên nói với thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi:

– Chẳng lẽ thầy không nhớ giới do Phật dạy là phải tôn kính bậc thượng tọa sao? Thầy hãy đưa tấm ván của thầy cho tôi.

Thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi suy nghĩ: “Đúng thật, Đức Thế Tôn có dạy điều này, nếu có các thứ lợi lạc thì trước nên nhường cho bậc Thượng tọa”. Thầy lại nghĩ rằng: “Nếu ta đưa miếng ván cho Thượng tọa, thì chắc chắn sẽ bị chìm trong dòng nước, tai nạn của biển cả thật là vô biên, mạng sống của ta sẽ không được toàn vẹn. Tuổi ta còn nhỏ, lại mới xuất gia, chưa đắc đạo quả, ta lấy làm buồn vì điều này, nên bây giờ chính là lúc ta nên bỏ thân để cứu mạng Thượng tọa”. Nghĩ rồi, thầy Tỳ-kheo bèn nói kệ:

Ta vì giúp hoàn toàn
Nên thuận theo lời Phật
Vô lượng công đức nhóm
Tiếng khen khắp mười phương
Thân mạng rất thấp hèn
Vì sao trái lời Phật!
Nay ta thọ giới Phật
Phải giữ vững đến chết
Vì thuận theo lời Phật
Nhường ván bỏ thân mạng.
Nếu không gặp việc khó
Không hề được quả khó.
Nếu ta giữ tấm ván
Ắt vượt nạn biển lớn
Nếu không thuận lời Phật
Sẽ chìm biển sinh tử.
Nay ta chìm xuống nước
Tuy chết, vẫn là hơn
Nếu bỏ lời Phật dạy
Mất lợi sinh trời, người
Cho đến đại Niết-bàn
Vui bậc nhất, vô lượng.

Nói kệ xong, thầy Tỳ-kheo trao miếng ván cho Thượng tọa. Vị Thượng tọa nhận lấy. Lúc đó thần biển xúc động trước sự chân thành của thầy Tỳ- kheo, liền tiếp lấy thầy Tỳ-kheo trẻ tuổi đưa lên bờ và chắp tay bạch:

– Giờ đây, tôi xin quy y bậc giữ vững giới pháp. Thầy đã gặp tai nạn nguy khốn như vậy mà vẫn giữ giới Phật.

Thần biển bèn nói kệ ca ngợi thầy Tỳ-kheo:

Thầy thật là Tỳ-kheo
Đúng là người khổ hạnh
Được gọi là Sa-môn
Thầy đáng danh như thế.
Cũng nhờ các công đức
Và năng lực của thầy
Các bạn và của báu
Thoát khỏi tai nạn lớn
Tất cả đều an ổn.
Lời thệ thầy vững chắc
Kính thuận lời Phật dạy
Thầy là người hơn cả
Xua tan các hoạn nạn
Giờ đây tôi làm sao
Không ủng hộ cho được.
Thấy chân lý, giữ giới
Việc này chưa phải khó
Phàm phu không phá giới
Đó mới thật ít có.
Tỳ-kheo sống an ổn
Thanh tịnh tự dè dặt
Không hề hủy giới cấm
Đó cũng chưa phải khó,
Chưa đạt được dấu đạo
Còn sống trong sợ hãi
Bỏ thân thể đáng yêu
Giữ gìn giới Phật dạy
Khó làm mà làm được
Đó rất là ít có!

Chương 13

Nếu chưa thấy dấu đạo thì tuy học rộng nghe nhiều vẫn không thể dứt được khổ sinh tử. Thế nên người hiểu biết phải mong cầu thấy được chân lý.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có hai anh em cùng đi xuất gia. Người anh chứng quả A-la-hán, còn người em thì thông suốt ba tạng giáo điển. Khi đó người anh nói với người em:

– Thầy nên ngồi thiền. Người em hẹn:

– Em sẽ ngồi thiền.

Thầy Tỳ-kheo La-hán lại nói:

– Chẳng lẽ thầy không nghe Đức Phật dạy: Người hành đạo như chữa lửa cháy đầu đó sao?

Vị ấy nói kệ:

Việc hôm nay làm được
Đừng đợi đến ngày mai
Thân người không giữ được
Hãy mau tu việc lành!
Khi thần chết đã đến
Thì không thể van xin
Nếu khi người qua đời
Không biết đi đường nào
Mê muội theo nghiệp duyên
Nào biết đường xa gần.
Mạng như đèn trước gió
Không biết tắt lúc nào
Thầy nói rồi sẽ hành
Lời này rất luống dối!
Sự chết dữ như cọp
Không dung túng một ai
Một khi cọp chết đến
Không đợi đến ngày mai.
Vua chết rất tàn hại
Thầy nên sinh lo sợ
Phải biết thân mong manh
Mạng này khó giữ được
Nên siêng quán nội thân
Bỏ đi việc học rộng.
Mong giải thoát thế gian
Vượt hẳn gốc sinh tử
Khi cái chết vụt đến
Hối hận làm sao kịp?
Nếu nay thấy dấu đạo
Khỏi ăn năn ngày sau
Vững bền trong Phật pháp
Gọi đó là dấu đạo.
Việc học rộng luống dối
Nên bỏ chớ yêu tiếc
Tuy nghe nhiều hiểu rộng
Không đạt được dấu đạo
Như người mù cầm đèn
Soi người, mình không thấy.
Nếu muốn cầu tự lợi
Cần phải thấy dấu đạo.
Vang danh giữa mọi người
Lời lẽ khéo léo hay
Giảng nói các pháp tướng
Giải thích các nghi ngờ
Làm cho chúng nghe pháp
Đều sinh tâm vui mừng
Lại khiến cho mọi người
Thảy đều được điều hòa,
Tuy làm được như vậy,
Nhưng khi chết tâm loạn
Cũng đọa vào đường ác
Bị người trí cười chê.
Các pháp do thầy giảng
Đủ lời lẽ, câu văn
Thứ lớp nói nhân quả
Lời hay vui tâm ý
Vị ngọt như mía lau
Tuy làm được như vậy
Mà không tự điều hòa
Thì chưa dứt ba đường
Mình chưa được giải thoát
Thì chẳng dùng việc ấy
Phàm phu không đáng tin
Nên cầu thấy chân lý.
Thầy được nhiều lời khen
Cho là nói pháp giỏi
Tuy có tiếng khen suông
Ích lợi chi cho thầy!
Nên quán sát trong thân
An nhiên tu thiền định.
Xưa nay người học rộng
Trên đời có rất nhiều
Vô thường làm tàn lụn
Chẳng còn được là bao
Gian khổ tìm tiếng khen
Tuy được lại mất đi.
Phật nói pháp hữu vi
Tất cả đều vô thường
Hằng sa Phật quá khứ
Thành tựu ba Đạt trí
Dứt trừ hết ba chướng
Một niệm quán ba đời
Các Đức Thế Tôn này
Nổi tiếng khắp mười phương
Nay đều nhập Niết-bàn
Tên tuổi cũng mất theo.
Thế nên thầy hôm nay
Nên siêng tu tinh tấn
Dứt bỏ những tiếng khen
Chỉ cầu được giải thoát.

Thầy Tỳ-kheo thông suốt ba Tạng đáp:

– Đúng phải làm như vậy.

Không bao lâu, thầy Tỳ-kheo thông suốt ba Tạng bị bệnh nặng, sợ sẽ qua đời nên trong lòng vô cùng ăn năn, bèn nói kệ:

Lạ thay! Ta hôm nay
Trong Thánh pháp của Phật
Giới văn tuy đầy đủ
Nhưng không thấy chân lý
Nếu bây giờ ta chết
Thì đâu khác loài chó
Trôi lăn trong sinh tử
Như bánh xe thợ gốm.
Nay ta rất xót xa
Chưa chứng được dấu đạo
Thầy tổ rủ lòng thương
Khuyên ta tu thiền định
Ta không vâng lời dạy
Chưa tu tập phần nào
Vì thế nên hôm nay
Không thấy được Chân đế.
Ta cầm trọn đèn pháp
Sáng rực của Đức Phật
Nhưng ta quá vô minh
Không thể tự soi mình
Vì không thể tự soi
Nên mãi khổ sinh tử.

Các Tỳ-kheo đồng học nghe tin thầy Tỳ-kheo ấy bị bệnh nặng đều đến thăm hỏi, thấy thầy bị khủng hoảng tinh thần, mọi người đều kinh ngạc và nói:

– Chẳng lẽ thầy không nghe Đức Phật có dạy rằng: Người học rộng có năng lực trí tuệ, biết được vô thường. Thế nên nay thầy chớ lo sợ.

Thầy Tỳ-kheo bị bệnh liền nói kệ đáp lời các Tỳ-kheo đồng học:

Trước tôi được chỉ dạy
Phải tu pháp ngồi thiền
Lần lựa ngày lại ngày
Biếng lười tự dối gian
Làm cho một đời này
Luống qua chẳng được gì.
Thân này như chùm bọt
Tôi chẳng quán sát sâu
Nghĩ bừa là chắc thật
Bất chợt cái chết đến
Chuyên ròng pháp học rộng
Lúc sống nghĩ là hơn
Bỗng thần chết hớp hồn
Ăn năn làm sao kịp?
Như lời kinh đã dạy
Phải tu tập ngồi thiền
Tinh tấn chớ biếng nhác
Trừ hết các kết sử
Phật có dạy như vậy
Tôi chẳng thực hành theo
Lửa ăn năn thiêu đốt
Làm tâm tôi phiền não.
Giờ tôi rất yếu ớt
Như đứa trẻ ngu ngơ
Trong sáu đường ác kia
Không biết chọn đường nào!
Chẳng biết đời tương lai
Sẽ được nghe lời Phật?
Hay luân hồi ba cõi?
Sẽ gặp được những ai?
Cũng không biết vị lai
Làm nên sự nghiệp gì?
Hoặc đánh mất bản tâm
Sinh khởi ba thứ độc
Không tu các việc lành
Chỉ gây nhiều nghiệp ác.
Than ôi! Thật khổ thay
Vì ta tự lừa dối
Đã xa lìa các nạn
Phải đạt đạo xuất thế
Sao lại vì ngu si
Mà mặc tình buông thả?

Các thầy Tỳ-kheo đồng học nghe Tỳ-kheo bệnh nói kệ xong, họ lại an ủi:

– Thầy đã học rộng nghe nhiều, lại giữ giới vững chắc, hãy bình tĩnh, tại sao phải lo sợ đến như vậy?

Thầy Tỳ-kheo bệnh nói:

– Giờ đây tôi bị bệnh tật nguy khốn, nếu các vị không quan tâm chắc là tôi phải chết.

Rồi nước mắt ràn rụa, thầy thưa với người anh:

– Xin huynh hãy xích lại gần tôi một chút. Vì tôi ngu si không nghe lời huynh chỉ dạy, nay tôi bệnh nặng, chắc phải luân hồi. Xin huynh rủ lòng thương, mà cứu giúp khiến cho tôi được khỏi khổ.

Thầy nói kệ:

Cùng ở trong pháp Phật
Huynh đáng gọi Sa-môn
Thường hay dạy bảo tôi
Tôi ngu si không vâng
Vì việc này nên tôi
Càng sinh lòng hối hận
Giữa hè hơi nóng bức
Lửa hừng hực đốt thiêu
Tôi phụ ân huynh dạy
Lửa ăn năn hơn kia.
Nay tôi không chỗ dựa
Chỉ biết quy y huynh
Lúc thọ thân đời sau
Quán sát chớ quên tôi
Khiến sau gặp Phật pháp
Trở lại được xuất gia
Không luống mặc pháp phục.
Tâm nguyện đạt đạo quả
Các việc học vấn khác
Bỏ hết không đeo đuổi
Tinh tấn cầu giải thoát
Ngoài ra chẳng mong gì.
Giả sử đời tương lai
Cầu thấy được Chân đế
Da thịt và gân cốt
Tủy não có khô cạn
Thân mạng vẫn thong dong
Không hề bỏ giải thoát
Lại nguyện thân vị lai
Thường xuyên tu pháp lành
Sáu thời trong ngày đêm
Tinh tấn không bỏ phế.

Thầy Tỳ-kheo bệnh nói kệ xong trong lòng rất hoảng sợ. Thầy Tỳ-kheo anh thấy vậy vô cùng lo lắng xót thương nói:

– Lành thay! Lành thay! Nay thầy rất ăn năn và phát thệ nguyện. Trước đây tôi đã dạy thầy nhưng thầy không chịu nghe lời, bây giờ ăn năn làm sao kịp?

Vị ấy bèn nói kệ:

Bệnh tật đã nguy khốn
Cái chết chẳng còn xa
Tay chân đều rã rời
Gió đao cắt thân kia
Thuốc thang không trị được
Thầy thuốc cũng bó tay
Người chung quanh đều nói:
Lạ thay nhất định chết.
Bà con, các phụ nữ
Thấy vậy buồn than khóc
Sắp chết rất sợ hãi
Khổ kinh sợ, khó tả.
Nếu như khi mạnh khỏe
Biết chết có khổ này
Ai không phát tâm đạo
Quyết đạt quả giải thoát.
Khi trẻ tuổi không bệnh
Lười biếng chẳng tinh tấn
Chỉ toan tính các việc
Không tu thí, giới, thiền
Về sau bị bệnh nặng
Các căn như lửa đốt
Sắp bị thần chết bắt
Mới ăn năn tu thiện.

Thầy Tỳ-kheo bệnh qua đời, được sinh trở lại làm người. Khi ấy, thầy Tỳ-kheo A-la-hán dùng Thiên nhãn quan sát biết chỗ của thầy Tỳ-kheo kia sinh về nên đến nhà ấy mấy lần. Đứa bé dần dần khôn lớn nhờ bà vú bồng ẵm. Bà ta bồng đứa bé đến Tăng phường, tới chỗ vị La-hán, vì bế không chặt, lỡ tay làm rơi đứa bé xuống đất, đầu đập trên tảng đá. Đứa bé rất tức giận, chết đi, đọa vào địa ngục. Vị Tỳ-kheo A-la-hán lại dùng Thiên nhãn quán sát đứa bé, thấy nó sinh vào chỗ rất khổ sở trong địa ngục.

Vị ấy liền nói kệ:

Than ôi, tàn tệ thay!
Sinh chỗ khó cứu được
Năng lực Phật khó cứu
Huống ta sao cứu được!
Chú tâm, tuệ vô lậu
Chẳng phải khổ tu được
Trong địa ngục khổ não
Không hề có chút vui
Tâm tạm vui không có
Làm sao có chú tâm?
Do vì không chú tâm
Nên không Tuệ vô lậu
Chỗ gian nan như vậy
Làm sao cứu khổ được?
Chịu khổ lớn địa ngục
Không thể dụ hết được.
Nếu lại cố phát thệ
Cái khổ chết cõi người
Ít có thể dụ được
Khổ địa ngục còn hơn.
Như lửa đốt củi khô
Không lúc tạm mát mẻ
Khổ địa ngục cũng vậy
Chẳng có tạm dừng nghỉ.
Ấm thân trong địa ngục
Như đống sắt nóng chảy
Khổ nhiệt não đốt thiêu
Không thể nào kể hết.
Thế nên đừng biếng trễ
Ngày đêm không ngừng nghỉ
Siêng năng tu Chánh đạo
Khiến các khổ không còn.
Vì thế, trước tu đạo
Hẹn được quả giải thoát
Sau đó mới học rộng
Để làm anh lạc đẹp.

Chương 14

Nếu ai thấy việc này hãy nên thức tỉnh. Sự giàu sang vinh hiển ở đời không tồn tại lâu dài.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, vua Chiên-đàn-kế-ni-tra định đến thành Kế-ni-tra. Giữa đường nhà vua thấy năm trăm người ăn xin đồng thanh nói:

– Xin bố thí cho tôi!

Nhà vua nghe nói liền sinh tâm tỉnh ngộ. Ngài nghĩ rằng: “Đám ăn mày kia đã thức tỉnh ta. Thuở xưa, ta đã từng là người nghèo khổ, nếu ngày nay ta không bố thí thì sau này ta cũng như họ vậy”. Nhà vua liền nói kệ:

Những người này đời trước
Nhiều bạc tiền, của cải
Nói rằng không bố thí
Nay bị nghèo hèn đây.
Nếu nay ta nói không
Sau cũng giống như vậy.

Lúc đó có quan phụ tướng tên Thiên Pháp xuống ngựa, chắp tay tâu vua:

– Những kẻ ăn xin đều nói “Xin bố thí cho tôi”. Vua đáp lời vị quan rằng:

– Ta có nghe lời ấy, nhưng sự hiểu của ta và khanh không giống nhau. Ngươi hiểu rằng: “Đám ăn mày này chỉ có một vấn đề là xin tiền bạc của cải.” Còn ta hiểu thì thế nào, giờ đây sẽ nói cho khanh biết. Khanh nên lắng nghe.

Vua liền nói kệ:

Những đứa bé ăn xin
Đến đây thức tỉnh ta
Với thân tướng nghèo hèn
Họ cho ta được thấy
Tự nói chịu thân này
Do bỏn xẻn không thí
Bị buông lung dối gạt
Chịu thân khổ não này.
Kẻ ăn xin ngu hèn
Dạy ta nghĩa thế này:
Chúng cũng từng làm vua
Như trăng giữa các sao
Lọng báu che trên đầu
Kỹ nữ luôn túc trực
Kẻ hầu đều trang nghiêm
Nghe vua đến tránh đường,
Tuy có đủ những thứ
Kỳ diệu ở trên đời
Nhưng vì không bố thí
Nên nay bị nghèo hèn.
Phước lạc mê tâm khanh
Không biết khổ đời sau
Vua loài người nên biết
Nay ta rất đau khổ
Hãy nên tu bố thí
Chớ để sau như ta.

Quan phụ tướng Thiên Pháp nghe kệ xong, trong tâm rất vui mừng, chắp tay tâu vua:

– Như lời Phật dạy, thấy người khác chịu khổ phải tự quán sát mình. Hôm nay đại vương thật hợp với ý Phật, vừa thấy những người ăn xin kia đã thức tỉnh ngay. Lành thay đại vương! Ngài có ý tưởng thật tinh tế mới như vậy, đại vương thức tỉnh được việc này và khéo hiểu rõ ý nghĩa Đức Phật đã dạy. Đại vương thật xứng đáng là bậc có khả năng cai trị cả thế gian, đúng thật là chủ tể của thế gian, không hề luống dối. Vì sao? Vì ngài có khả năng hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của pháp Phật. Ngài là người thông minh nên thấu đạt, vì thế mà mọi người ca tụng ngài là “Người đứng đầu thế gian”.

Ông nói kệ:

Người đứng đầu phải vậy
Ý này là vô thượng
Ý này khó thường hằng
Tự lợi được cũng khó
Thân người rất khó được
Tín tâm cũng khó sinh
Của báu lại khó đủ
Ruộng phước khó được gặp
Mỗi một việc trên đây
Thật khó mà gặp gỡ.
Thí như ngoài biển lớn
Rùa mù gặp bọng cây
Các việc khó như vậy
Đại vương đều có đủ.
Thế cho nên hôm nay
Không buông lung tâm ý
Thân người như ánh chớp
Chợt lóe chẳng dừng lâu
Tuy là được thân người
Mong manh khó gìn giữ
Khi chết đôi mắt nhắm
Tay chân đều xụi lơ
Tuy có bốn oai nghi
Tới lui không tự do
Đôi mắt đã đứng tròng
Sắp đi vào cõi chết,
Thân thuộc ở hai bên
Thấy vậy đều thương khóc
Đưa tay sờ vào thân
An ủi bảo đừng sợ
Nghe lời thân quyến khuyên
Càng tăng thêm thương cảm
Chắc chắn biết sẽ đi
Vào con đường vĩnh biệt
Tuy có nhiều của báu
Nhưng không thể mang theo.
Khi các mạch ngưng đập
Nhan sắc đều đổi thay
Mạng đến hồi cấp bách
Như dầu hết đèn tắt
Đến lúc như thế đó
Ai tu Bố thí được.
Giữ giới và Nhẫn nhục
Tinh tấn và Thiền, Trí
Giờ hấp hối chưa đến
Nên chuyên cần tu tâm.

Chương 15

Người nào khi sắp chết muốn đem tài sản, vật báu đến đời sau, điều này không thể có, ngoại trừ đem các công đức bố thí. Nếu sợ đời sau bị nghèo nàn hãy nên tu bố thí.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị vua tên Nan-đà. Vị vua này chất chứa vàng bạc châu báu để mang đến đời sau, ông ta thầm nghĩ: “Bây giờ ta phải gom hết vàng bạc châu báu trong nước lại một chỗ không để cho lọt ra ngoài”. Vì tham gom tài sản cho nên nhà vua đem cô con gái của mình để ở trên lầu các dâm nữ, rồi sai người hầu cận bảo:

– Nếu có người đem của báu đến đây cầu con gái ta, thì hãy đưa người ấy và cả của cải đến chỗ ta.

Như thế nhà vua gom hết tiền bạc của báu cả nước về kho của ngài.

Bấy giờ, có người quả phụ có một đứa con duy nhất nên bà yêu thương vô cùng. Người con trai này thấy cô con gái nhà vua cử chỉ cao sang xinh đẹp không ai bằng, nên lòng yêu say đắm. Nhưng vì nhà nghèo quá, không biết lấy gì để làm lễ ra mắt với công chúa nên buồn bã phát bệnh, hơi thở mong manh, thân thể tiều tụy. Người mẹ hỏi con:

– Nguyên nhân vì sao con đau ốm như thế?

Người con thưa cho mẹ nghe sự thật, rồi nói thêm:

– Nếu con không được đến chỗ con gái nhà vua kia chắc chắn con sẽ chết.

Người mẹ nói:

– Tất cả tiền bạc, vật báu trong nước đều hết sạch, biết tìm của báu ở đâu bây giờ.

Bà mẹ suy nghĩ rồi nói với con:

– Cha con khi chết trong miệng có ngậm một đồng tiền vàng. Nếu con đào mộ lên có thể lấy được đồng tiền ấy để đến gặp cô con gái kia.

Theo lời mẹ nói, chàng liền đi đào mộ cha, cạy miệng lấy đồng tiền vàng. Sau đó y đến thanh lâu để gặp con gái vua, con gái vua sai người đưa anh ta và đồng tiền vàng trình diện vua cha. Nhà vua thấy đồng tiền vàng bèn hỏi:

– Tiền bạc, châu báu trong nước, tất cả đã thuộc về kho của ta hết. Ngươi kiếm đâu ra đồng tiền vàng này đem đến đây? Chắc là ngươi tìm được của chôn giấu phải không?

Nhà vua tìm đủ cách tra khảo để biết rõ chỗ chàng trai được đồng tiền vàng. Chàng trai tâu vua:

– Thật sự tôi không đào được của báu trong đất, mà là được mẹ tôi nói cho biết: Khi cha tôi chết, trong miệng có ngậm một đồng tiền vàng. Tôi đào mộ mới lấy được đồng tiền vàng này.

Vua sai người đến nơi kiểm chứng xem hư thực. Sứ giả đến nơi quả thật có thấy chỗ để đồng tiền vàng trong miệng người cha khi chết. Sau đó nhà vua mới tin. Vua nghe xong việc này bèn suy nghĩ: “Trước đây ta đã gom góp tất cả của cải, châu báu mong giữ những tài sản này đến đời sau. Cha của người kia có một đồng tiền vàng còn không thể giữ được để đem đi, huống chi ta có quá nhiều”.

Rồi vua nói kệ:

Trước ta chuyên gom góp
Tất cả các châu báu
Mong mang các tiền, vật
Theo ta đến đời sau
Nay thấy người đào mộ
Lại đoạt lấy tiền vàng
Một đồng còn không theo
Huống chi nhiều châu báu.
Vua lại suy nghĩ rằng:
Phải tìm phương cách nào
Khiến cho các châu báu
Theo ta đến đời sau?
Ngày xưa, vua Đảnh Sinh
Đem theo các quân lính
Và voi, ngựa, bảy báu
Đều mang đến cõi trời,
La-ma làm cầu cỏ
Đến được thành Lăng-già,
Nay ta muốn lên trời
Mà không có cầu thang
Muốn đến thành Lăng-già
Lại không có bến cầu
Nay ta không phương kế
Đem báu đến đời sau.

Lúc ấy, có vị quan phụ tướng là người thông minh, biết cơ trời. Ông ta biết ý vua nên nói:

– Điều đại vương nói thật là chí lý. Nếu thọ thân đời sau thì phải cần tài vật, của báu, nhưng nay châu báu và voi ngựa không thể đem đến đời sau được. Vì sao? Vì khi chết đi, chính cái thân này của nhà vua còn không thể đem đến đời sau, huống gì là tài vật, của báu, voi ngựa ư? Nếu muốn đem châu báu này đến đời sau chỉ có cách bố thí châu báu ấy cho Sa-môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ xin ăn, phước báo giúp người sẽ đến tận đời sau.

Ông liền nói kệ:

Người mặt mày đẹp xinh
Đến nước soi thấy đẹp
Đẹp, xấu tùy mặt hình
Ảnh hiện rõ trong nước.
Mặt đẹp thì ảnh đẹp
Mặt xấu thì ảnh xấu
Thân này mặt như thế
Thân sau mặt đẹp hơn.
Giới, tuệ trang nghiêm thân
Sau được quả đáng ưa
Nếu người làm việc ác
Sau chịu báo rất khổ.
Tín tâm đem tài vật
Cúng dường mẹ, cha, thầy
Sa-môn, Bà-la-môn
Người nghèo nàn khốn khổ
Chính là nước đời sau
Thấy mặt mày trong đó
Ảnh nghiệp thí, giới, tuệ
Cũng lại hiện trong đó.
Vua có nhiều người hầu
Cung nhân và thể nữ
Quan quân và thứ dân
Xướng kỹ âm nhạc thảy
Tới ngày vua qua đời
Tiếc thương đưa ra mộ
Xong rồi trở về nhà
Không một ai theo vua
Hậu cung, người hầu thảy
Kho tàng, các châu báu
Ngựa, voi, các xe báu
Tất cả đồ vui chơi
Làng nước, các nhân dân
Vườn tược, chỗ vui chơi
Bỏ hết, đi một mình
Chẳng một ai đi theo
Chỉ có nghiệp thiện ác
Theo mãi chẳng rời xa.

Con người khi sắp chết phát ra hơi thở khò khè nặng nhọc, họng lưỡi khô khốc, không đổ được nước, nói năng chẳng rõ ràng, mắt mờ không thấy gì, gân mạch ngưng hoạt động, gió lạnh như cắt da thịt, tay chân rời rã. Các cơ quan trong người đều ngừng nghỉ, không còn hoạt động, toàn thân đau nhức như bị kim đâm. Khi tắt hơi rồi, người chết thấy tất cả đều mù tịt tối đen như là rơi xuống hầm sâu, đi một mình chốn đồng rộng không bè bạn. Chỉ có hạnh tu phước lành là người bạn thân giúp đỡ người đó mà thôi. Ai lo đời sau hãy mau tu phước.

Ông liền nói kệ:

Khi người sắp qua đời
Cô đơn không bè bạn
Nhất định sẽ lìa bỏ
Tất cả người thân yêu.
Một mình chốn tối tăm
Nơi đáng ghê, đáng sợ
Người thân đều lìa xa
Cô độc không ai cả
Vì thế nên sắm sửa
Lương khô bằng pháp lành.

Vì hiểu rõ nghĩa này nên Ba-la-lưu-chi dùng lục kệ ca ngợi nhà vua:

Tuy có nhiều châu báu
Chứa nhóm như núi Tuyết
Voi, ngựa, các xe báu
Mưu thần và chú thuật
Chuyên nghĩ lúc chết đến
Không thể cứu giúp được
Nên tu các pháp lành
Chính mình được lợi lạc.
Bậc mắt như sen xanh
Nên siêng hành giới, thí
Chết là nỗi sợ lớn
Ai nghe đều sợ hãi.
Mọi loài trong thế gian
Không một ai khỏi chết
Thế cho nên đại vương
Nên quán chết là khổ.
Bậc mắt như sen xanh
Hãy nên tu nghiệp lành
Chính mình được lợi lạc
Nên siêng hành giới, thí.
Khi người đã qua đời
Của cải không theo được
Sức mạnh và tuổi trẻ
Không thể đến hai lần.
Bậc mắt như sen xanh
Phải nên tu nghiệp lành
Chính mình được lợi lạc
Nên siêng hành giới thí.
Di-lực-na-hầu-sa
Da-da-đế đại vương
Và Truân-đậu-ma-la
Bà-ca-phu-lợi-phủ
Kiều-ly-xà-thế-phu
Dũ-việt-tân-thế-ba
Những vị trên mọi người
Các vị vua cao quý
Binh lính và các quan
Thảy đều vào cõi chết
Vui buồn nối bước nhau
Ý niệm lần lượt khởi.
Bậc mắt như sen xanh
Hãy nên tu nghiệp lành
Giúp mình được vui sướng
Nên siêng hành giới thí.
Của báu và vinh hoa
Đồ này khó tìm được,
Phước lộc chẳng thường có
Sức lực có tăng giảm,
Tất cả tướng không định
Vua chúa cũng vô thường
Những việc rất khó này
Nay đều được đầy đủ.
Bậc mắt như sen xanh
Nên tu các pháp lành
Giúp mình được vui sướng
Hãy siêng tu giới, thí.
Người có nhiều sức mạnh
Vượt qua khỏi biển lớn
Bậc trượng phu chuyên nghĩ
Vượt qua được các núi
Ví làm được việc đó
Vẫn chưa gọi là khó
Ích lợi cho đời sau
Việc này mới là khó

Chương 16

Thân này không bền chắc. Thế nên người hiểu biết phải biết cúng dường bậc Tôn trưởng. Đây gọi là lấy pháp không bền chắc để đổi lấy pháp bền chắc.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, trong dòng họ Mâu-ni có vị vua tên A-dục, là người kính tin Tam bảo. Nếu ở chỗ yên tĩnh mà gặp đệ tử Phật, không luận là lớn hay nhỏ, nhà vua đều xuống ngựa cung kính đảnh lễ dưới chân. Bấy giờ nhà vua có một vị quan lớn tên Da- xa, là người tà kiến không có đức tin, thấy nhà vua lễ kính các thầy Tỳ-kheo như vậy, sinh tâm hủy báng thậm tệ và tâu vua:

– Các Sa-môn này thuộc đủ tầng lớp giai cấp đi xuất gia chẳng phải chỉ có dòng Sát-đế-lợi và Bà- la-môn, mà xen tạp cả dòng Tỳ-xá và Thủ-đà-la. Những người này làm nghề thuộc da hay dệt vải và làm ngói, gạch, làm thợ hớt tóc, cũng có người thuộc dòng thấp kém Chiên-đà-la… Vì sao đại vương lại đảnh lễ họ.

Nhà vua nghe nói, lặng im không đáp. Một hôm, nhà vua nhóm họp các quan lớn và bảo họ:

– Hôm nay ta cần các loại đầu nhưng không được giết hại, cho phép các khanh được tìm đâu ở những con vật tự chết.

Vua bảo các quan:

– Hôm nay khanh phải tìm được cái đầu con vật mỗ giáp.

Lại bảo vị quan khác:

– Khanh phải tìm được đầu con vật kia.

Cứ như vậy, vua lần lượt ban sắc lệnh cho các quan phải tìm các đầu các loài vật khác nhau, không được giống nhau.

Riêng Da-xa nhà vua bảo:

– Khanh phải lấy được cái đầu người tự chết.

Tất cả các loại đầu đó đều đem ra chợ bán. Các loại đầu như thế đều bán được, chỉ có đầu người là ai thấy cũng tránh xa, không chịu mua. Mọi người thấy cái đầu đều mắng Da-xá:

Ngươi chẳng phải Chiên-đà-la, Dạ-xoa, La- sát, sao lại mang đầu người chết đi bán!

Bị mắng chửi, Da-xa tâu vua:

– Tôi bán đầu người không ai chịu mua, ngược lại còn bị họ mắng chửi nữa.

Nhà vua nói:

– Nếu bán không được thì đem cho không vậy.

Da-xa tuân lệnh vua, vào trong chợ rao:

– Ai cần đầu người, sẽ được cho không.

Người trong chợ thấy vậy không ai chịu lấy, lại mắng chửi nữa. Da-xa xấu hổ trở về đến chỗ vua, chắp tay nói kệ:

Đầu trâu, lừa, voi, ngựa
Heo, dê, các loài thú
Tất cả được định giá
Người tranh nhau đến mua.
Các đầu đều được dùng
Chỉ đầu người hôi dơ
Không một ai dùng nó
Cho không cũng không lấy
Lại còn bị mắng chửi
Huống lại có người mua.

Vua hỏi Da-xa:

Khanh bán đầu người, tại sao không có ai mua?

Dạ-xa thưa:

– Thưa, vì đầu người xấu xa ghê gớm nên không ai chịu mua cả.

Vua lại hỏi:

– Chỉ có một cái đầu này ai cũng ghét bỏ, hay tất cả đầu người đều đáng ghét bỏ?

Dạ-xa đáp:

– Thưa, tất cả đầu người đều ghê gớm, chứ chẳng phải một cái đầu này thôi đâu!

Vua bảo Da-xa:

– Thế thì cái đầu của ta cũng bị mọi người ghê tởm như thế sao?

Da-xa nghe vua nói run sợ đứng im không dám trả lời. Vua lại nói:

Ta cho phép khanh, cứ thành thật mà nói, đừng có sợ. Cái đầu này của ta cũng rất đáng kinh tởm phải không?

Da-xa thưa:

– Thưa, đầu vua cũng vậy. Vua hỏi:

– Ngươi có chắc là như vậy không?

Da-xa trả lời:

– Thưa đại vương, chắc chắn là như vậy. Vua bảo Da-xa:

– Nếu những cái đầu này sang, hèn… đều đáng ghê tởm như nhau, tại sao khanh lại tự cậy là thuộc dòng dõi giàu sang, xinh đẹp, trí tuệ để kiêu ngạo mà muốn ngăn cản ta kính lễ các vị Sa-môn Thích tử?

Vua liền nói kệ:

Chỉ có đầu người này
Ai thấy cũng chê trách
Đem bán không giá trị
Cho không, gớm tránh xa
Xa thấy đều tức giận
Cho là vật gớm ghê.
Đầu này đầy máu mủ
Bẩn thỉu thật đáng gớm
Đem đầu thấp hèn đây
Đổi lấy đầu công đức
Tuy khiêm cung cúi đầu
Không mảy may thua thiệt.
Vua bảo Da-xa rằng:
Tuy ngươi thấy Tỳ-kheo
Tạp chủng và thấp hèn
Vì không thấy bên trong
Có đạo đức chân thật.
Khanh ngu si tà kiến
Tâm u mê rối loạn
Cho mình Bà-la-môn
Riêng được phần giải thoát
Ngoài ra các dòng khác
Chẳng được giải thoát gì.
Nếu muốn cưới gả thì
Phải tìm dòng họ quý
Còn nếu cầu pháp lành
Cần dòng họ làm chi?
Nếu người muốn cầu pháp
Không nên xét dòng họ
Tuy sinh dòng họ quý
Gây ra việc cực ác
Mọi người đều chê trách
Thì coi như thấp kém.
Dòng họ tuy thấp hèn
Bên trong thật đạo hạnh
Đáng được người tôn kính
Mới đáng gọi tôn quý.
Đức hạnh đã đầy đủ
Vì sao không kính lễ.
Tâm ác làm thân hèn
Ý lành làm thân sang
Sa-môn tu hạnh lành
Đủ tín, giới, thí, văn
Thế nên hãy tôn trọng
Và phải rất cung kính.
Người gây ra nghiệp ác
Chẳng lẽ khanh không nghe
Họ Thích tâm Đại bi
Đấng Ngưu vương chánh đạo
Pháp do Ngài nói ra
Đem ba pháp mong manh
Đổi ba pháp vững chắc
Phật không nói hai lời
Nên ta không dám trái
Nếu trái lời Thế Tôn
Không được gọi thân thiện.
Thí như ép mía đường
Lấy nước và bỏ xác
Thân người cũng như vậy
Bị sự chết ép ngặt
Thi hài chôn xuống đất
Không còn tới lui nữa.
Cung kính tu điều lành
Thế nên phải biết rằng
Đem thân bại hoại này
Đổi lấy pháp bền chắc,
Giống như lửa cháy nhà
Người trí xuất tài vật
Như nước chìm kho tàng
Cũng nên mau xuất bảo.
Thân này rồi bại hoại
Nên đổi pháp bền chắc
Người ngu không phân biệt
Pháp bền hay không bền
Khi thần chết chợt đến
Vào miệng cá Ma-kiệt
Vào đúng thời gian ấy
Rất kinh khiếp sợ hãi.
Như để lạc thành tô
Rồi lại thành đề hồ
Lấy lạc xong bỏ bình
Không sinh khổ não nhiều,
Thân này cũng như vậy
Giữ gìn pháp chắc thật
Về sau, khi chết đi
Không hề sinh hối hận.
Không tu các hạnh lành
Kiêu mạn và buông lung
Thần chết bỗng chợt đến
Phá vỡ chiếc bình thân.
Tâm kia rất nóng bức
Vẫn bị lửa đốt thiêu
Phiền lo dụ như lửa
Bình sữa dụ như thân.
Ngươi không nên ngăn ta
Tu thiện giữ pháp bền
Người ngu si tăm tối
Tự nói mình tôn quý
Ta cầm ngọn đuốc pháp
Của chư Phật Thế Tôn
Soi chiếu trong thân ta
Sang hèn không khác nhau
Thịt, da, gân cốt thảy
Gồm ba mươi sáu thứ
Sang hèn đều như nhau
Có tướng gì sai khác

Đẹp, y phục tốt

Các vật có khác nhau.
Người trí nên siêng năng
Hành cung kính lễ bái
Giả sử làm việc lành
Gọi là giữ pháp bền.
Vì sao nói điều này?
Thân như ánh điện chớp
Chùm bọt và đống cát
Cây chuối không chắc thật
Như thân mong manh này
Tu thiện trong trăm kiếp
Vững như núi Tu-di
Và bền như mặt đất
Người trí nên như thế
Đổi lấy pháp chắc thật.

QUYỂN 4

Chương 17

Nếu người nào cạnh tranh, nghe nói pháp Đoạn kết sử thì việc cạnh tranh được cởi mở. Nếu người nào muốn được cúng dường cung kính thì nên dứt hẳn các kết sử.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có bà lão vào trong rừng hái lá cây Ba-la đem bán để kiếm sống. Trên đường đi gặp quan thu thuế, đòi lấy thuế bà lão. Bấy giờ, bà lão không muốn nạp thuế nên nói:

– Nếu ông dẫn tôi đến chỗ nhà vua, tôi sẽ nạp thuế. Nếu không thì tôi không bao giờ nộp thuế cho ông.

Quan thu thuế cũng phân vân, bèn dẫn bà lão đến chỗ vua. Nhà vua hỏi bà lão:

– Tại sao bà không chịu nộp thuế?

Bà lão tâu:

– Tâu đại vương, ngài có biết thầy Tỳ-kheo kia là ai không?

Vua nói:

– Ta biết. Đó là một vị đại A-la-hán. Bà lão tâu:

– Tâu đại vương, thầy Tỳ-kheo thứ hai kia, ngài có biết là ai không?

Vua đáp:

– Ta biết. Đó cũng là vị A-la-hán. Bào lão lại tâu:

– Tâu đại vương, thầy Tỳ-kheo thứ ba kia, ngài có biết là ai không?

Vị vua trả lời:

– Ta biết. Đó cũng là vị A-la-hán. Lão mẫu cất tiếng nói lớn:

– Tâu đại vương, ba vị A-la-hán này đều là con của tôi. Những đứa con này đã nhận sự cúng dường của đại vương, khiến cho đại vương được vô lượng phước đức. Đó tức là đã nộp thuế cho nhà vua rồi, tại sao lại muốn thu thuế tôi nữa?

Vua nghe nói khen ngợi là việc chưa từng có:

– Lành thay! Bà lão có khả năng sinh ra bậc Thánh, ta thật không biết, không biết những vị A- la-hán đó là con của bà để cung kính cúng dường thêm cho bà.

Bà lão nói kệ:

Tôi sinh được ba con Mạnh mẽ vượt ba cõi

Đều chứng A-la-hán

Làm ruộng phước cho đời. Nếu khi vua cúng dường Được phước coi như thuế Thế sao ngài lại muốn

Thu tiền thuế tôi nữa?

Nhà vua nghe nói như vậy nổi ốc khắp mình, sinh tâm kính tin đối với Tam bảo, rơi nước mắt, nói:

– Như bà lão này phải nên cúng dường, huống gì là thu thuế bà!

Vua nói kệ:

Từ nay trở về sau
Người như bà lão này
Sinh con vượt ba cõi
Xứng đáng được cúng dường
Chẳng những không thu thuế
Mà còn phải cung kính.
Nếu có các bạn hữu
Lạc đà, lừa, xe cộ
Chở nhiều các châu báu
Giùm cho bà lão này
Cũng không nên thu thuế,
Huống chỉ một bà lão
Một mình bán lá cây
Tiền của nào dư dả
Mà phải thu thuế bà.
Dù cho là hang núi
Chỗ kinh hành tu đạo
Hành giả sống trong đó
Dứt các lậu buộc ràng
Còn phải kính chỗ ấy
Tôn trọng và cúng dường
Huống gì bà lão này
Sinh được con là Thánh
Mà không tôn kính sao?

Chương 18

Trình bày quả báo của việc buông lung, vì muốn làm cho chúng sinh không buông lung.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có con của một người đi buôn rất giàu có, tên là Ức Nhĩ, ra biển tìm châu báu. Khi đã kiếm được châu báu rồi, Ức Nhĩ quay vào bờ đậu thuyền khác chỗ với các thuyền bạn. Bị lạc mất thuyền bạn, Ức Nhĩ rất hoảng sợ, lại thêm cơn đói khát dày vò. Từ xa trông thấy có thành quách, Ức Nhĩ nghĩ rằng nơi đó có nước, nên đến thành ấy để tìm nước uống. Không ngờ thành này là thành ngạ quỉ, Ức Nhĩ vào bên trong thành, nơi các ngả đường, chỗ mà mọi người tụ tập nhưng vắng hoe không có ai cả. Bị cơn đói ép ngặt Ức Nhĩ kêu lớn:

– Nước, nước!

Bọn ngạ quỉ nghe nói “nước” đều tụ đến và nói:

– Ai từ bi muốn cho ta nước như thế?

Các ngạ quỉ này mình mẩy như thân cây bị cháy, tóc quấn đầy thân và cùng đến chắp tay nói:

– Xin cho tôi nước! Ức Nhĩ đáp:

– Ta bị khát nước nên mới đến đây xin nước.

Bọn ngạ quỉ nghe Ức Nhĩ nói vì bị khát nước nên đến đây tìm nước thì cả bọn đều thất vọng, tất cả đều thở dài nói:

– Chẳng lẽ ngài không biết đây là thành ngạ quỉ hay sao mà đến đây xin nước?

Chúng liền nói kệ:

Chúng tôi ở thành này
Trải trăm ngàn năm rồi
Còn không nghe nói nước
Huống gì là được uống.
Thí như rừng Đa-la
Bị lửa cháy tiêu rụi
Chúng tôi cũng như vậy
Khắp mình đều bốc cháy.
Đầu tóc lại rối bù
Thân hình đều rách nát
Ngày đêm nghĩ ăn uống
Hoảng hốt chạy khắp nơi
Bị đói khát ép ngặt
Há miệng chạy tìm kiếm.
Có người cầm gậy rượt
Đuổi theo đánh tới tấp
Tai thường nghe tiếng ác
Lời thiện không hề nghe
Huống chi một giọt nước
Làm mát cổ họng tôi.
Nếu ở trong hang núi
Trời, rồng tuôn mưa xuống
Đều biến thành lửa hừng
Và rót trên thân tôi.
Nếu thấy dòng sông lớn
Đều biến thành dòng lửa
Ao hồ và sông suối
Đều thấy chúng cạn khô
Hoặc biến thành máu mủ
Hôi thối rất gớm ghê.
Nếu muốn chạy đến đó
Dạ-xoa cầm chày sắt
Đánh đập không cho đến
Chúng tôi chịu khổ này
Làm sao có được nước
Để bố thí cho ông?
Chúng tôi ở đời trước
Rất bỏn xẻn, tham ganh
Chưa từng thí một ai
Đem nước và thức ăn
Tự dùng chẳng cho ai
Ngăn người khác bố thí
Bởi do nghiệp nặng ấy
Nay chịu khổ não này
Thí được quả báo lớn
Xuân trồng, thu được quả
Chúng tôi không gieo trồng
Ngày nay chịu khổ này;
Buông lung và tham tiếc
Chịu các khổ vô cùng
Tất cả hạt giống khổ
Không gì hơn tham ganh
Phải phương tiện siêng năng
Dứt bỏ tai họa ấy.
Thí là hạt giống lành
Sinh ra các lợi lạc
Thế nên hãy tu thí
Chớ như tôi chịu khổ.
Chúng ta trong loài người
Thân hình không khác nhau
Gây nghiệp không giống nhau
Quả báo cũng lại khác
Giàu sang nhiều của báu
Có kẻ nghèo ăn xin.
Chư Thiên đồ đựng giống
Nhưng màu cơm khác nhau.
Nếu đọa vào súc sinh
Nghiệp báo cũng khác nhau
Có người hưởng phước lạc
Có người bị khổ não.
Do vì tham độc ấy
Trời, người và súc sinh
Vì bỏn xẻn ganh ghét
Ở đâu cũng tổn giảm.
Ngạ quỉ khổ lẫy lừng
Khắp mình đều bốc cháy
Giống như cây hoa đỏ
Voi say dùng vòi nhổ
Ném cao trên không trung
Hoa rơi thân voi đỏ.
Thánh hiền nói thế này:
Tham ganh bản chất khổ
Nhìn thấy người ăn xin
Tâm họ bị não phiền
Trong sát-na não phiền
Thường hay làm việc xấu
Ngu si tiếc không thí
Gieo trồng gốc nghèo nàn
Chứa để với tâm tham
Thì đọa vào đường ác.
Như người tham tiếc này
Cội gốc các khổ não
Thế nên người hiểu biết
Nên dứt bỏ tham tiếc.
Có ai muốn được vui
Tiếng khen, cung kính thảy
Mà lìa bỏ chánh đạo
Đi theo con đường ác.
Nay thân bị khổ não
Đời sau cũng như vậy
Nghiệp ràng buộc thế giới
Ngăn che quả tịnh thí.
Cái gọi là tham tiếc
Nặng nhất trong các oán
Thân này bị phù trướng
Cơm áo và thuốc men
Tất cả các nhạc cụ
Bị tham ganh ngăn mất.
Tham ganh rất vi tế
Len vào khó ngăn chận
Hãy dùng cửa thí vững
Giữ nhà tâm cẩn mật
Không cho tham ganh kia
Được vào bên trong nhà,
Nếu tham ganh vào tâm
Thì sông to biển lớn
Bị ngăn không uống được.
Ức Nhĩ thấy buông lung
Có lỗi ác như vậy
Liền chán ghét sinh tử
Trở về xin xuất gia
Đã được xuất gia rồi
Siêng năng tu định tuệ
Đến chứng quả La-hán.

Chương 19

Nếu người không có lỗi mới được quở trách người khác. Nếu chính mình có lỗi mà quở trách người, thì trở lại bị người ấy cười chê.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có những vị Bà-la-môn lõa hình và các Sa-môn cùng đi trên đường. Có một thầy Tỳ- kheo trẻ tuổi chê cười đám lõa hình kia là không biết xấu hổ. Khi ấy, trong những vị lõa hình có một Bà-la-môn hiểu chút ít pháp Phật, nói với thầy Tỳ- kheo:

– Thầy không được dùng hình tướng xuất gia mà khinh khi, cười chê kẻ khác. Đừng cho rằng với thân tướng người xuất gia là đã dứt bỏ được phiền não. Nếu thầy chưa cắt đứt được dòng trôi của sinh tử, vẫn chưa ra khỏi được, thì đời sau chưa thoát khỏi lõa hình. Vì sao thầy lại cười? Hôm nay thầy còn ở trong sinh tử như hoa cây Đâu-la, vẫn còn bị cuốn theo chiều gió, chưa yên chỗ được. Vậy thầy nên chê cười mình chớ không nên chê cười kẻ khác. Thầy có biết sau này mình sẽ đi vào nẻo nào chưa? Như tro phủ lửa, kết sử trong tâm chưa bảo đảm là mình đã dứt được, vậy thầy chớ tự cho rằng mình đã biết xấu hổ. Tôi thấy việc làm của thầy chưa thoát được lưới tà kiến. Hễ người biết hổ thẹn thì nhất định không rơi vào lưới tà kiến nếu không khởi giác ác thì đó là hổ thẹn. Thầy còn chưa vào trong số quyết định thì sao lại cười người?

Lúc đó các thầy Tỳ-kheo nghe Bà-la-môn lõa hình nói những lời đúng pháp nên im lặng không nói gì. Có Tỳ-kheo khác nghe rồi khen ngợi những lời như vậy rất đúng. Người dứt được kết sử thì gọi là hổ thẹn. Nếu người mang danh Tỳ-kheo mà không dứt trừ kết sử, tuy đầu cạo trọc đáng lý là Tỳ-kheo, nhưng những người đó, dù đầu có cạo trọc, vẫn không được gọi là Tỳ-kheo. Phải biết rằng: người thấy được bốn pháp Chân chánh chắc thật mới gọi là Sa-môn chân thật. Vì sao? Như trong kinh dạy: Không nhận chân pháp Tứ đế thì tà chánh bất định, tà chánh bất định thì sự thấy biết bị sai lầm. Thế nên biết rằng: cần phải siêng tu Tứ đế. Nếu người thấy được Chân đế, cái thấy mới chân chánh, lìa hẳn đường tà.

Chương 20

Người khéo quán sát, thấy sắc đẹp không có ý ham muốn, thường sinh tâm chán ghét; khi thấy sắc đẹp, không khởi tâm tham ái giận tức.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một ngôi chùa, trong đó có nhiều thầy Tỳ-kheo, trong số đó có một vị Pháp sư. Vị Pháp sư này đã chứng được ba Minh, sáu Thông, lời lẽ nói năng khéo léo tuyệt vời, đầy đủ tài hùng biện, biết rõ luận thuyết của mình và người, giỏi về vấn đáp, tùy căn cơ nói pháp, làm vui lòng mọi người, có khả năng thắp lên ngọn đèn chánh pháp, soi chiếu phá tan bóng tối u mê, khiến cho nhân dân ở trong và ngoài thành mỗi ngày đều đến nghe pháp, đã nghe pháp rồi liền thọ trì, cho đến các thiếu niên cũng không buông lung.

Khi ấy trong thành có các dâm nữ lớn tuổi đều than thở, nói:

– Hôm nay chúng ta không có khách lui tới mới bị khổ thế này. Không biết cái khổ này còn bao lâu nữa đây.

Cô dâm nữ lớn tuổi có người con gái trẻ tuổi xinh đẹp, thông minh xuất chúng, thông thạo sách vở thế gian, thông suốt tất cả sáu mươi bốn kỹ thuật của phụ nữ. Thấy mẹ u sầu, bèn hỏi mẹ:

– Vì sao hôm nay mẹ buồn khổ như vậy? Người mẹ đáp:

– Trong thành này, tất cả mọi người đều thích nghe pháp nên không lui tới chỗ chúng ta. Của cải, tài sản từ đây không còn có nữa. Vì việc này cho nên mẹ buồn rầu.

Cô gái nghe mẹ nói như vậy, tự ỷ mình xinh đẹp nên thưa:

– Bây giờ, con sẽ sửa soạn thật đẹp để đến trong hội kia, làm cho tất cả mọi người trong đó đều theo con về đây.

Nói xong, cô gái liền đi tắm gội và xoa các loại hương vào thân, đeo chuỗi anh lạc, y phục lộng lẫy, đầu đội vòng hoa, chân mang giày, trang sức bằng các ngọc báu. Tay phải cầm gậy, cô ta bước đi bằng dáng vẻ yểu điệu thướt tha của người con gái. Tất cả toát ra vẻ đẹp xinh xắn, yêu kiều như là cây hoa đi và cũng như chư Thiên. Nàng dẫn theo những cô hầu cũng cài hoa và trang điểm chuỗi anh lạc trên thân với y phục lộng lẫy. Những cô hầu này, có cô cầm bình vàng, có cô cầm quạt phẩy, có cô cầm hoa thơm đi theo hầu cô gái kia. Họ bao quanh cô gái, nói nói, cười cười, hoặc vung vẩy tay chân chỉ đường qua lại. Lại có những người trẻ tuổi trên tai gắn các chùm hoa màu đen, vàng, đỏ, tía, bôi màu rằn ri trên thân người họ giỡn cợt, cười, nói, chơi đùa, đưa tay chỉ phía trước, phía sau. Trên đường họ đi, mùi hương thơm khắp nẻo cùng với trống, nhạc, đàn, ca. Họ đến chùa và ở trong một gian nhà trống, chờ lúc mọi người tập hợp. Đến giờ nói pháp, có mấy ngàn người nhóm họp đông đảo. Bấy giờ, vị Pháp sư đầu cạo nhẵn bóng, mày đẹp che mắt, các căn khéo điều phục và tâm không sợ hãi, như sư tử đầu đàn lên tòa nói kệ:

Ta quán người trí cạn
Chẳng do lên tòa này
Hèn yếu như dã can
Sợ sệt không tự an.
Nay ta lên tòa này
Trước chúng không sợ hãi
Như đầu đàn muôn thú
Rống gầm dẹp luận tà.

Pháp sư theo thứ lớp nói pháp cho đại chúng nghe. Khi ấy, dâm nữ vì muốn khuấy động tâm tư mọi người cho nên liền xuất hiện ở giữa cửa, còn những người đi theo cô ta thì xen lẫn vào giữa mọi người. Bọn chúng đều chỉ dâm nữ và nói với mọi người:

– Cô gái này xinh đẹp, dung mạo đáng yêu, các vị hãy ngắm xem, nghe pháp làm gì?

Mọi người nghe nói thế liền ngắm nhìn, tâm ý không yên. Khi ấy vị Pháp sư chưa hiểu ý các cô gái, lấy làm lạ liền hỏi mọi người:

– Vì sao các vị ngắm nhìn một cách khác thường và tâm ý rối loạn như vậy? Các vị không biết rằng cái chết đến nhanh chóng cũng như ngựa phi. Thế nên phải siêng năng tu tập các hạnh lành.

Rồi Pháp sư liền nói kệ:

Đuốc pháp lớn của Phật
Chiếu khắp cả thế giới
Ánh sáng tuệ chưa mất
Hãy mau tu pháp lành.
Vững tâm tu hạnh lành
Ngày đêm chớ biếng nhác
Ngọn đèn Nhất thiết trí
Chẳng lâu sẽ tắt mất.
Nếu nó tắt mất rồi
Chúng sinh đều tối tăm
Tuy có ánh trời chiếu
Cũng gọi là mờ mịt.

Lúc ấy, người trong hội chúng nghe kệ xong cung kính vâng lời dạy, chú tâm nghe pháp. Dâm nữ kia thấy mọi người nhất tâm chánh niệm, cô ta lại làm điệu bộ uốn éo khêu gợi, khiến hội chúng trông thấy, tâm lại tán loạn. Vị Pháp sư lại nói kệ:

Cô gái kia khêu gợi
Khiến mọi người yêu thích
Bị dục tình kéo lôi
Cướp mất tâm chuyên chú
Nếu vâng lời ta dạy
Nhiếp tâm khiến loạn dừng.
Vì sao yêu nữ kia
Hoặc loạn mắt mọi người?
Thí như tơ sen xanh
Lênh đênh theo sóng động
Tâm mọi người cũng vậy
Lăng xăng chẳng tạm dừng.

Lúc đó, mọi người bị mê hoặc, nhìn thấy sắc đẹp lộng lẫy của cô gái thì tâm không còn biết hổ thẹn, bèn chỉ trỏ với nhau mà nói:

Cô gái xinh đẹp này
Đến đây là điềm lành
Như vầng trăng mới mọc
Lại rơi đến chốn này.
Sắc đẹp thật siêu tuyệt
Mắt trong đẹp vô vàn
Có lẽ Lam-bà nữ
Được Đế Thích sai đến
Hoặc là trời công đức
Nhưng tay không cầm hoa.

Lại có một người khác nói kệ:

Lạ thay! Cô gái này
Nghi dung quá xinh đẹp
Mắt như hoa sen xanh
Mũi thẳng, mày như vẽ
Hai má đều bằng khít
Môi đỏ, răng đều đặn
Da mướt, rất mịn màng
Rực rỡ rất khác thường
Tướng uy, vui lòng người
Chói sáng như núi vàng.

Bấy giờ, các vị Ưu-bà-tắc yêu thích dung nhan của cô gái kia nên tâm ý rối loạn. Những người theo hầu dâm nữ thấy như vậy vô cùng mừng rỡ, khoái trá kêu lên:

– Hôm nay, việc làm của chúng ta rất khéo mới khiến cho hội chúng chú ý như vậy.

Khi ấy, vị Pháp sư lấy làm lạ vì sự xôn xao khác thường của bốn chúng, mới đưa tay vén hai hàng mi để nhìn cho rõ chúng hội. Ngài trông thấy dâm nữ dung nghi xinh đẹp cùng với các cô hầu đều rất lộng lẫy. Vị trí dâm nữ đứng làm nổi bật sắc đẹp của cô ta, như ngôi sao rực rỡ xâm chiếm tâm người ngu si, làm mất đi chánh niệm.

Pháp sư quán sát thử xem tâm người nữ này đến đây với mục đích gì? Ngài liền lặng im nhập định thì biết cô gái này đến đây với tâm tà hoặc chứ không phải đến để nghe pháp. Mặc dầu Pháp sư tuy đã dứt hẳn tâm tức giận, nhưng ngài thể hiện sắc giận bên ngoài, lớn tiếng nói với dâm nữ:

– Ngươi như ổ kiến mà lại dám tranh cao thấp với núi Tu-di cao nhất thế gian sao? Chẳng lẽ ngươi không nghe thuở xưa khi Phật còn tại thế, vị vua tầng trời thứ sáu không tự lượng sức mình mới dám đến chỗ Phật làm các việc khuấy nhiễu. Đức Thế Tôn mới dùng thần lực cột thây chết vào cổ vị trời ấy, khiến ông ta vô cùng xấu hổ chẳng còn mặt mũi nào, bị trời, người cười chê. Ý ngươi cho rằng giáo pháp của Phật đã bị hoại diệt rồi sao? Không còn những bậc Thanh văn chuyên tinh tu học nữa à? Các bậc Trượng phu hơn người đã chết hết rồi sao? Nếu ngươi nghĩ như vậy thì nên giữ vững lập trường nhé!

Vị Pháp sư này liền dùng thần thông làm cho người dâm nữ, da thịt bị rơi rã, chỉ còn bộ xương trắng, ngũ tạng bên trong thân đều lộ ra trước mặt mọi người. Pháp sư gọi người dâm nữ này nói:

Vừa rồi nhà ngươi phát sinh tâm ác, dám cạnh tranh với pháp Phật.

Khi ấy, người dâm nữ đứng trước mặt mọi người với bộ xương trắng, Pháp sư bèn nói kệ:

Vừa rồi ngươi xinh đẹp
Vượt trội ai cũng nhìn
Giờ da thịt biến mất
Chỉ còn bộ xương thôi.
Trước, ngươi vui sắc diện
Giờ mới thấy tướng thật
Xương đầu như ngọc trắng
Hình sắc như ngó sen
Dung nhan bị vùi lấp
Hai má như rãnh sâu
Da thịt đều rơi rớt
Gân mạch dính chùm nhau
Các tạng phủ bên trong
Hiện ra treo lơ lửng.
Những người theo ngươi đó
Tự thấy còn nhàm chán
Huống gì mọi người khác
Vui gì mà nhìn ngươi!

Khi dâm nữ bị Pháp sư biến hình thành bộ xương rồi thân tâm đều khốn khổ, không nói được gì cả. Bộ xương cô gái liền chắp tay hướng về vị Pháp sư. Vị Pháp sư bảo bộ xương:

Thân ngươi trang điểm bằng chuỗi anh lạc, chưng diện bằng mọi cách chỉ làm mê hoặc được kẻ phàm phu, khiến cho họ bị đắm chìm trong ao ba cõi. Nếu bây giờ ngươi bỏ đi dáng điệu lẳng lơ, bỏ đi những đồ trang sức tốt đẹp, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy cái thân vắng lặng nhiệm mầu, khiến cho ngươi hiểu được cảnh chợ đời bất tịnh mà cái thân này chỉ là lớp thịt mong manh phủ lên khối xương dơ bẩn. Bên ngoài được giả che bởi lớp phấn sáp để làm mê hoặc mắt người ngu, kẻ phàm phu bị sắc dục đam mê không nhìn thấy cho nên sinh đắm nhiễm. Có người trí nào quán sát tướng thật mà ưa thích nó đâu!

Khi ấy, mọi người trong hội chúng thấy việc này đều sinh nhàm chán, nói với nhau:

– Những lời dạy của Đức Phật chân thật không luống dối. Tất cả các pháp như huyễn thuật, như biến hóa, như chùm bọt nước, như tiền vàng giả, chỉ dối gạt, mê hoặc con người. Vừa rồi, cô gái này có dáng vẻ đẹp lộng lẫy đáng ngắm mà bây giờ bỗng nhiên chỉ còn là bộ xương. Dáng dấp xinh tươi, với thái độ lẳng lơ như muốn mê hoặc lòng người… Những việc như thế nay còn đâu!

Có một vị Ưu-bà-tắc lấy ngón tay khều má cô gái và quán sát kỹ cô ta mà nói kệ:

Phật nói rằng chúng sinh
Bị ái dục che mắt
Đui mù không mắt tuệ
Không đến được Niết-bàn,
Thí như lá Nhâm-bà
Mật đọng bị ong hút
Vì tham dục mê hoặc
Đến chết vẫn không rời.
Những người không buông lung
Quán đúng thật thân tướng
Mà không khởi dục giác
Dụ như hạc đầu đàn
Thường sống ở ao trong
Không thích nơi gò mả.

Lại có vị Ưu-bà-tắc khác nói thế này:

– Thấy nhan sắc xinh đẹp này, tôi liền sinh dục tưởng. Quán sát bộ xương trắng kia, tôi liền muốn dứt bỏ.

Ông nói kệ:

Quán sát đống xương này
Khiến người sinh sợ hãi
Giống như Tỳ-đà-la
Bộ máy của chú thuật
Người ngu cho là thật
Liền sinh tâm mê đắm.
Như đường hầm hố sâu
Được phủ cỏ lên trên
Thân này cũng như vậy
Phải quán sát như thế
Biết đúng thật vậy rồi
Ai còn khởi dục tưởng?

Bấy giờ những người vô trí ngu si, mê hoặc đắm trước nghe bài kệ này, bèn cúi đầu tránh né không thích nghe. Dâm nữ kia tự thấy thân mình là điều tai họa cho người, nên gieo năm vóc sát đất và nói kệ:

Trước con ngu không biết
Không tự lượng sức mình
Định kéo người nghe pháp
Tất cả về nhà mình,
Giờ mới biết Thích tử
Thế lực rất kỳ lạ
Biến sắc đẹp của con
Ai thấy cũng chán chê.
Con như trẻ ngu khờ
Việc làm thật nông nổi
Dám đem nước chân trâu
Muốn sánh cùng biển lớn
Cúi xin ngài đoái thương
Cho con được sám hối.

Lúc bấy giờ, đại chúng thấy cô gái đang đứng các khúc xương gá vào nhau giống như căn nhà bằng sậy nên vô cùng kinh ngạc. Bộ xương kia tại sao lại có thể nói được những lời như vậy? Lại thấy ngũ tạng của cô gái ấy lộ ra, ví như cái giá hàng thịt treo ngũ tạng heo bò nhúc nhích ngọ nguậy giống như thịt chó. Các tạng hôi thối, nhơ nhớp còn hơn nhà xí. Vì sao chúng ta lại phải thấy việc này!

Họ liền nói kệ:

Giờ quán thân cô gái
Chỉ gân dính xương khô
Chỉ thấy toàn là xương
Hòa hợp phát ra lời
Trong cô có xương ư?
Hay trong xương có cô?
Ví như trong đầm vắng
Cánh rừng nhiều lau sậy
Khi gió cùng thổi đến
Phát ra âm thanh lớn
Vì pháp giả như vậy
Không thấy tự thể cô
Nếu không có tự thể
Tướng nữ ở chỗ nào?
Suy ra khắp các pháp
Xưa nay chưa từng có.
Ta quán kỹ thân tướng
Đến, đi và qua lại
Cúi xuống và ngẩng lên
Nhìn ngó và nói năng
Các phần gá vào nhau
Gân xương rất yếu ớt
Gân quấn làm bộ máy
Nương gá nhau chuyển động
Như thế trong mọi phần
Đều không có chủ tể.
Nhưng nay đối pháp này
Là hữu hay là vô?
Con vì cuồng si hoặc
Bị bóng che loạn mắt
Vì sao giả như vậy
Lầm nghĩ có tướng nữ
Buộc sậy làm bộ máy
Bó nhiều sợi chỉ lại
Ví như vàng ròng chảy
Đổ nước phát tiếng “xèo”.

Khi ấy, Pháp sư biết bốn chúng đã sinh tâm chán ghét, bèn hỏi dâm nữ:

– Bây giờ ngươi muốn làm gì? Cô gái thưa:

– Bạch Pháp sư, con xin ngài hủy bỏ hình phạt. Cô ta liền nói kệ:

Đại Đầu tiên trách phạt
Biến Thiên nữ Lam-bà
Thành một con ngựa cỏ
Trong suốt mười hai năm
Nay bị ngài trách phạt
Biến con thành nhà mộ
Thế gian chưa từng thấy
Hình phạt như thế này
Đại đức khéo tự tại
Thương con xin hủy bỏ.

Bấy giờ Pháp sư liền mỉm cười nói kệ:

Thiện nữ hãy đứng lên
Ta không tâm tức giận
Cạo tóc, mặc ca-sa
Không dùng pháp trách phạt.
Có ái dục đắm say
Hại người sinh khổ não
Người làm xấu, làm tốt
Hay sinh tâm tức giận
Giận dữ dùng hình phạt
Ta dứt tâm giận tức
Dứt bỏ hết vô minh
Thể tánh không kết sử
Ta muốn cứu chúng sinh
Sao lại dùng hình phạt?
Các sinh, già, bệnh, chết
Làm khổ các chúng sinh
Vì sao người hiểu hết
Mà lại dùng hình phạt?
Giống như mụt ghẻ độc
Lại thêm tro nóng bức
Da mỏng bao cơ quan
Phàm phu sinh yêu đắm
Ta dùng sức thần thông
Mở tráp dơ của ngươi.

Nói kệ xong, Pháp sư thâu lại thần thông, cô gái trở lại thân hình như trước. Khi ấy, Pháp sư bảo hội chúng:

– Các vị nên siêng năng tu thiện. Và liền nói kệ:

Tướng dục điên đảo hành
Dụ như gió thổi bụi
Chánh quán xa lìa dục
Gột rửa cát bụi dục.
Có dục và lìa dục
Nơi chốn không nhất định
Khéo quán được giải thoát
Tham hoặc thì dục tăng
Cho nên phải thường tu
Chuyên tinh lìa dục tưởng
Lìa dục, hành các thiện
Ngay đó được vui thiền.
Bấy giờ, người nghe pháp
Hoặc được quán bất tịnh,
Người chứng Tu-đà-hoàn
Tu hành tưởng lìa dục,
Người chứng A-na-hàm
Lại có người xuất gia
Siêng tu không biếng lười
Đều chứng A-la-hán.

Chương 21

Không có tâm tham đắm và bố thí tất cả những gì mình có thì đời hiện tại được phước báo và được nhiều tiếng khen. Vì thế không nên bỏn xẻn mà hãy bố thí.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, tại nước Phất-yết-la-vệ có một họa sĩ tên Yết-na. Ông có việc phải đến nước Thạch thất. Khi đến nơi ông đi viếng thăm các chùa tháp, vẽ hình một ngôi tinh xá được ba mươi lạng vàng. Khi trở về nước, họa sĩ gặp những người lập hội Vô già. Sinh tâm kính tin, họa sĩ hỏi thầy Tỳ-kheo tri sự:

– Ngày mai ai làm thức uống ăn? Đáp:

– Không có người làm. Lại hỏi:

– Trong ngày ấy quý thầy dùng hết bao nhiêu tiền thức ăn?

Thầy tri sự đáp:

– Ba mươi lạng vàng.

Họa sĩ liền cúng ba mươi lạng vàng cho thầy tri sự rồi trở về nhà. Vợ ông ta hỏi:

Hôm nay, ông đi làm thuê kiếm được bao nhiêu?

Người chồng trả lời vợ:

– Tôi kiếm được ba mươi lạng vàng, nhưng đã cúng dường làm phước hết rồi.

Bà vợ nghe nói xong rất giận dữ. Bà rêu rao lỗi của chồng cho những người bà con nghe:

Chồng tôi làm được bao nhiêu vàng đều cúng dường cho hội Vô già, chẳng để lại một đồng nào để lo việc nhà!

Khi đó, những người bà con dẫn người chồng của bà ta đến nhờ quan xử đoán, họ trình tâu:

– Tiền tài không dễ được, làm việc cực nhọc mới có ông ta không lo cho gia đình và bà con mà lại đem cúng dường cho hội để làm phước.

Vị quan xử đoán nghe việc trên bèn hỏi người họa sĩ:

– Có đúng như vậy không? Người ấy thưa:

– Thưa, đúng thật như vậy.

Vị phán quan nghe xong, liền sinh tư tưởng ít có, khen ngợi rằng:

– Hay thay! Bậc Trượng phu!

Rồi ông cởi y phục và ngọc ngà châu báu trên thân cho đến ngựa xe, ban hết cho họa sĩ và nói kệ:

Bị nghèo khổ lâu ngày
Làm thuê kiếm được tiền
Không dùng để mưu sinh
Mà bố thí mới khó.
Tuy người rất giàu có
Của cải nhiều dẫy đầy
Nếu không khéo quán sát
Không thể mau bố thí.
Quán sát rộng đời sau
Biết thí có quả báo
Mạnh mẽ bỏ tiền tài
Lìa bụi cát bỏn xẻn
Người làm được như thế
Bố thí không mất đi.

Họa sĩ nghe kệ, trong lòng vui mừng hớn hở, bèn mặc áo, cỡi ngựa trở về nhà. Lúc đó, người vợ ở trong nhà trông thấy họa sĩ mặc áo đẹp, cỡi ngựa về đến cửa, cho rằng đây là người giàu sang, trong lòng lo sợ nên đóng cửa chạy trốn. Họa sĩ nói:

– Tôi chứ không phải ai khác. Tôi là chồng của nàng đây!

Người vợ nói:

– Ông là một người nghèo. Vì sao mà được ngựa, xe và y phục như thế?

Người chồng đáp bằng bài kệ:

Giờ nàng hãy lắng nghe
Ta sẽ nói sự thật
Tuy xả vàng cúng Tăng
Dọn bày còn chưa ăn
Thí như chưa gieo giống
Mầm chồi đã nảy sinh
Ruộng phước rất tươi tốt
Kết quả mới theo sau.
Ruộng phước Tăng tịnh này
Ai mà không muốn trồng
Ý vừa định gieo hạt
Thì đã thấy sinh mầm.

Người vợ nghe xong sinh tâm kính tin thanh tịnh, liền nói kệ:

Như lời Phật đã dạy
Cúng Tăng được quả lớn
Như việc cúng dường này
Thật là đúng chỗ vậy.
Tâm kính thí chút nước
Quả báo nhiều hơn biển
Trong tất cả các chúng
Phật, Tăng là bậc nhất
Vừa sinh tâm muốn thí
Hoa báo đã hiện tiền.

Chương 22

Đối với việc bố thí chỉ quan trọng là tín tâm. Bố thí hai đồng tiền, quả báo thật khó lường.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một cô gái đến núi Trú ám, thấy mọi người ở trong núi lập hội Vô già. Cô gái đến đó xin ăn, trông thấy chư Tăng trong tâm vô cùng vui mừng, bèn khen ngợi:

– Lành thay, bậc Thánh tăng! Ví như kho châu báu ẩn tàng trong biển lớn, mọi người đều đến cúng dường. Riêng con quá nghèo nàn, không có vật chi để dâng cúng.

Nói xong, cô gái tìm khắp trong người mà chẳng có vật gì. Cô lại nghĩ: “Trước đây trong đống phân, ta có nhặt được hai đồng tiền đồng”. Cô liền dâng cúng tiền này cho chư Tăng. Vị Tăng Thượng tọa đã đắc quả A-la-hán, biết trước tâm người, vị Thượng tọa này thường tự trân trọng, cho nên khi thấy cô gái có tâm kính tin sâu xa, ngài muốn làm cho công đức cô gái thêm lớn nên không đợi thầy Duy na mà ngài đích thân ân cần đứng lên chú nguyện cho cô gái. Thượng tọa đưa cánh tay phải ra và lớn tiếng xướng:

– Xin Đại đức Tăng hãy lắng nghe. Và liền nói kệ:

Tất cả các vật báu
Trên mặt đất, ngoài biển
Ý của cô gái này
Đều cúng dường chư Tăng.
Chú tâm khéo quán sát
Hành đạo nhằm tu phước
Để được đạo giải thoát
Nhổ được gai nghèo khổ.

Lúc đó, đồng nữ phát tâm rộng lớn:

– Như lời thầy dạy, con đã làm được việc khó làm, như xả bỏ tất cả tài sản châu báu không khác. Buồn vui lẫn lộn, cô gái gieo năm vóc sát đất quy mạng chư Tăng rồi đặt hai đồng tiền trước mặt

Thượng tọa, buồn bã rơi lệ, nói kệ:

Nguyện con trong sinh tử
Lìa hẳn sự khổ nghèo
Thường được nhiều vui vẻ
Bà con chẳng xa lìa.
Quả báo cúng Tăng này
Chỉ Phật mới biết được
Do nhờ công đức này
Chóng thành điều mong ước
Gieo trồng chút tâm lành
Nguyện chóng thoát thân căn.

Cô gái ra khỏi núi, đến ngồi dưới một gốc cây, bóng râm không di động và trên ngọn cây có lọng mây che. Lúc đó có vị vua, phu nhân vừa qua đời, đi dạo ngoài thành, thấy chiếc lọng mây kia nên tìm đến gốc cây, thấy cô gái, vua sinh tâm say đắm, đem về nội cung, phong nàng làm vị Đại phu nhân bậc nhất.

Cô gái liền nghĩ: “Trước đây ta phát nguyện, nay đã được vừa ý”. Nàng tâu vua:

– Hãy đem cho thiếp thật nhiều châu báu làm vật cúng dường để đến núi Trú ám cúng dường chư Tăng.

Nàng dâng các thứ ngọc ngà châu báu nhưng vị Thượng tọa không chú nguyện. Bấy giờ, đại chúng lấy làm lạ, thắc mắc không hiểu tại sao, bèn hỏi:

– Trước đây, khi cô gái này nghèo chỉ cúng có hai đồng tiền mà Thượng tọa lại chú nguyện ngay. Còn bây giờ đã là phu nhân của vua, dâng cúng vàng bạc châu báu thì ngài lại không chú nguyện?

Xin giải thích cho chúng con được biết.

Thượng tọa nói với chư Tăng:

– Trước đây ta chú nguyện cho cô gái ấy không phải vì tài vật mà chính vì sợ tâm ý cô gái rối loạn cho nên chú nguyện.

Thượng tọa liền nói kệ:

Không vì nhiều tiền của
Mà được quả báo lớn
Chỉ có tâm lành hơn
Mới được quả báo lớn.
Trước đây cô gái cúng
Là xả thí tất cả
Trí Phật mới biết được
Ta không thể biết được.
Nay tuy nhiều châu báu
Tâm không như trước kia
Chỉ một phần mười sáu
Tâm thí bị vẩn đục.
Ví như người đi buôn
Có chút ít tài vật
Tâm mong quả báo lớn
Vật cúng dường tuy ít
Tâm rộng lớn thù thắng
Do đó đời vị lai
Phước báo cũng vô lượng.
Như vua A-du-ca
Tịnh tâm cúng dường đất,
Lại như thành Xá-vệ
Cô gái rất nghèo hèn
Cúng dường cơm Ca-diếp,
Cúng đất được đất đai
Cúng cơm sinh cõi trời
Cúng ít nhưng tâm tịnh
Quả báo lại rất nhiều.
Như chiếc áo trắng sạch
Đổ dầu lên trên áo
Cáu nhờn tăng thêm nhiều
Như đổ dầu vào nước
Tuy chỉ chút ít dầu
Lan khắp trên mặt nước
Do đó nên biết rằng:
Thắng tâm phước báo lớn.

QUYỂN 5

Chương 23

Nếu người gần gũi bạn lành có trí tuệ sẽ giúp cho thân tâm người ấy đều thanh tịnh. Đó gọi là bậc Trượng phu chân thật, hiền thiện.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có thầy Tỳ-kheo theo thứ lớp khất thực, đến nhà một vị đại Bà-la-môn. Lúc gặp thầy Tỳ-kheo kia rồi, thì trong nhà của đại Bà-la-môn bao nhiêu nhà cửa, cột kèo đều bị gãy đổ, vại nước nứt bể, trâu bò đứt dây chạy tứ tung.

Vị Bà-la-môn nói:

– Chẳng biết đây là điều không lành gì! Chỉ có người không tốt vào nhà ta mới có hiện tượng kỳ quái như thế.

Thầy Tỳ-kheo nghe vậy liền đáp:

– Ông có thấy trong nhà ông những đứa trẻ gầy còm bị bụng trướng, mặt mày phù thủng chăng?

Vị Bà-la-môn nói:

– Tôi đã thấy từ trước rồi.

Vị Tỳ-kheo liền nói:

– Trong nhà ông có con quỉ Dạ-xoa nương náu để nuốt tinh khí người. Vì thế làm cho các đứa trẻ trong nhà này có những chứng bệnh như vậy. Nay, quỉ Dạ-xoa vì sợ ta nên chạy trốn, làm cho cột kèo gãy đổ, vại nước trong nhà ông bị nứt bể và trâu bò bị đứt dây sút chuồng.

Vị Bà-la-môn hỏi:

– Ông có oai lực gì? Tỳ-kheo đáp:

– Ta nhờ gần gũi giáo pháp Đức Như Lai mới có oai lực này và làm cho quỉ Dạ-xoa khiếp sợ như vậy.

Người Bà-la-môn lại hỏi:

– Thế nào là giáo pháp của Như Lai ?

Bấy giờ vị Tỳ-kheo lần lượt nói về những lời dạy răn trong Phật pháp khiến cho vợ chồng vị Bà- la-môn nghe xong, tâm ý giải ngộ, chứng quả Tu- đà-hoàn. Vị Bà-la-môn liền nói kệ:

Lành thay! Bậc đức cao
Khéo nói pháp chân thật
Lời Phật lọt vào tai
Đi vào nhà tâm con
Khiến nhà con an ổn.
Xin che chở cho con
Hôm nay con cúi xin
Nghe ít điều con nói:
Phá nhà tâm của con
Bẻ gãy xà ngu si
Khéo vì con xua đuổi
Dạ-xoa nuốt công đức
Trừ La-sát tà kiến.
Vại mê lầm, trộm cướp
Nước thân kiến đầy tràn
Nay đã bị phá vỡ,
Nghé khờ chạy tứ tung
Kéo dứt dây vô minh
Các việc vừa thấy qua
Đều gom đủ trong con.
Các sắc giống như gương
Hình bóng hiện trong đó
Sinh tử từ vô thỉ
Chưa từng có việc này!
Nay con nhờ ân thầy
Mới biết bốn Thánh đế
Được gặp thiện tri thức
Đủ duyên gặp gỡ nhau
Dứt tham trong tâm con
Trừ quỉ trong nhà con.
Đã truyền lâu ở đời
Bốn Vi-đà nói rằng:
Nên cúng tế thật lớn
Các thứ vật trang nghiêm
Đầy đủ ở trên đàn,
Các sông lớn hằng hà
Tắm gội trừ tội lỗi
Mau được sinh cõi trời
Con tu hành xưa nay
Chưa từng được quả báo
Nhưng con không thể biết
Chắc chắn được hay không!
Cúng tế và tắm gội
Không bằng gần bạn lành
Nay con gần bạn lành
Mới được quả chứng này
Không sinh và không chết
Giải thoát đến Niết-bàn
Lìa hẳn nơi sợ hãi.
Chẳng phải cầu của báu
Nương oai thế của vua
Nhảy vực, thân nướng lửa,
Trời mùa đông lạnh buốt
Áo mỏng giá rét thân,
Khi mùa hạ nóng bức
Nướng thân năm nguồn nhiệt,
Lửa nóng và gai góc
Nằm ngủ ở trên đó,
Vượt núi, qua biển rộng
Tế lửa và đọc chú
Những khổ hạnh như vậy
Không thể được Niết-bàn.
Chỉ có tu thiền trí
Giới, văn và tinh chuyên
Những pháp sự như vậy
Từ đâu mà đạt được
Ắt nhờ thiện tri thức
Sau mới được đầy đủ.

Chương 24

Nếu người làm điều ác đáng lý phải đọa vào địa ngục, nhưng gặp Thiện tri thức, họ có thể tiêu trừ tội lỗi, được sinh lên cõi trời, cõi người.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có người tên Ba-ca-lợi, đến vùng trung thổ nước Thiên trúc. Bấy giờ vua nước Thiên trúc liền cho người đó làm trưởng làng. Lúc ấy, trong làng nhiều vị Bà-la-môn có người gần gũi, họ nói cho trưởng làng nghe về sách La-ma-diên. Lại sách Bà-la-tha cho rằng: Người chết nơi chiến trường sẽ được sinh lên cõi trời. Người nhảy vào lửa chết cũng được sinh lên trời. Lại kể nhiều thứ khoái lạc trên cõi trời. Văn chương những thứ sách này rất hay và bóng bẩy, khiến cho ông trưởng làng nghe xong, tâm ý rung động nghĩ rằng: “Chắc chắn là có việc ấy”. Ông đào một cái hố lửa chất đầy củi thơm và cho mời các Bà-la-môn đến. Mọi người nhóm họp đến chỗ hội. Lúc ông trưởng làng sắp nhảy vào lửa, ông ta có quen một thầy Tỳ-kheo họ Thích. Thầy Tỳ-kheo đến nhà trưởng làng, thấy trong nhà ông trang hoàng, sửa soạn nhiều thứ. Thầy Tỳ-kheo hỏi:

– Ông muốn làm gì? Vị trưởng làng đáp:

– Tôi muốn sinh lên cõi trời. Vị Tỳ-kheo hỏi:

– Làm sao ông đi được?

– Tôi nhảy xuống hố lửa sẽ được sinh lên cõi trời ngay.

Thầy Tỳ-kheo lại hỏi:

– Ông có biết đường lên trời chăng? Ông ta trả lời:

– Tôi không biết. Vị Tỳ-kheo nói:

– Nếu ông không biết thì làm sao đi được? Khi ông đi từ một ngôi làng này đến một ngôi làng khác còn cần có người chỉ dẫn mới biết đường, huống gì con đường lên trời xa xăm diệu vợi, phải mất ba trăm ba mươi sáu vạn dặm mới lên đến tầng trời Đao-lợi. Nếu không có người dẫn đường, làm sao có thể đến được cõi trời kia? Nếu trên cõi trời là vui thì sao vị Thượng tọa Bà-la-môn kia tuổi đã già lại nghèo thiếu tài vật, vợ ông cũng già và mặt mũi xấu xí, có gì để mà ưa thích, lại không dẫn vợ cùng lên cõi trời?

Bấy giờ vị trưởng làng nghe thầy Tỳ-kheo nói, bèn nghĩ: “Nếu nhảy vào hầm lửa được sinh lên cõi trời thì tại sao người Bà-la-môn kia không cùng đi với ta? Vì sao? Vì Bà-la-môn kia đang sống trong cảnh nghèo nàn khốn khổ, đâu có gì đáng ưa tiếc. Đáng lẽ ông ta nên bỏ cảnh khổ này để đến cõi trời an vui kia. Nếu ông ta không đi tức là muốn lừa dối và muốn giết hại ta”.

Nghĩ xong, vị trưởng làng liền tiến đến nắm tay vị Thượng tọa Bà-la-môn định cùng nhảy vào lửa để được sinh lên cõi trời, nhưng người Bà-la-môn ghì lại không chịu đi. Vì sao? Vì những người Bà- la-môn này chỉ vì tiền của mà đến chỗ hội này. Ông trưởng làng thấy người Bà-la-môn này không muốn nhảy vào lửa, bèn nói kệ:

Nghe nói trên cõi trời
Thú vui không kể hết
Thấy của sinh tham đắm
Nhìn Đông mà quên Tây.
Đem tất cả những vật
Có được ở trong nhà
Sánh với vật cõi trời
Cũng như đem hạt cải
Sánh với ngọn núi Thái.
Nếu người sống ít muốn
Tâm không hề tham đắm.
Nay tôi xét thấy ông
Lửa tham đắm hẫy hừng
Nếu không dùng phụ nữ
Trông giữ vợ xấu già
Mà đến nơi hội này
Vì tham cầu tiền của
Để cung cấp gia đình,
Hoặc yêu mến con cái
Không muốn sinh cõi trời.
Tính sức sinh Thiên kia
Giúp con ông quá đủ
Không biết đường lên trời
Vì sao khiến tôi đi?
Nếu biết đường lên trời
Sao khựng lại không đi
Sao lại thích dạy người
Muốn cho ta vào lửa?
Hoặc tham tài sản ta
Muốn được chia lấy dùng.
Vì sao không thương xót
Quá khổ mới như vậy
Hoặc do oán đời trước
Hẳn là nhiều dối gian.
Làm bạn với thần chết
Khuyên ta sinh cõi trời
Đưa ta về cõi chết
Ép buộc ta vào lửa,
Dạy người xa gia đình
Tu hành pháp khổ hạnh
Nhảy xuống vực, vào lửa
Nhịn đói chẳng uống ăn
Xét ý chỉ lời dạy
Muốn gia môn chấm dứt.
Các Bà-la-môn này
Ưa làm việc sát hại
Thế nên ta lìa bỏ
Trở về nương pháp Phật.
Pháp Phật đại Từ bi
Không tổn hại chúng sinh
Lửa lớn đốt rừng núi
Hươu nai đều trốn chạy
Do vì yêu tánh mạng
Tìm kiếm nơi mát mẻ
Nay ta cũng như vậy
Chân thành mong cứu giúp.

Bấy giờ thầy Tỳ-kheo thấy tâm của Ba-ca-lợi đã chán bỏ các Bà-la-môn và rất kính tin Tam bảo, bèn khen ngợi:

– Lành thay! Lành thay! Ông là người lấy trí tuệ làm sinh mạng. Hôm nay ông mới đúng là đang đi trên con đường về cõi trời.

Thầy nói kệ:

Lời Phật đến cõi trời
Và đến đường giải thoát
Lời này chắc chắn đến
Giữa chừng chẳng sai lầm.
Nhất Thiết Trí dạy đạo
Tướng rộng lược khác nhau
Lời chân thật vô hại
Thí hàng phục các căn.
Đạo này và Thiên đạo
Chẳng hành các khổ hạnh
Nhảy vực, vào lửa thảy
Điều này chính thật là
Duyên đưa đến sự chết
Chẳng phải nhân giải thoát.
Thuở xưa người sống lâu
Chư Tiên cũng sống lâu
Vì nhàm chán thân này
Không muốn ở đời lâu
Sớm tu các thiền định
Dứt buộc ràng cõi Dục,
Tự biết bỏ thân này
Ắt sinh lên cõi Phạm
Không do đó mất mạng
Nhảy xuống vực, vào lửa
Do đó bị mất mạng.
Được sinh lên cõi Phạm
Thiền định dứt lậu kết
Được sinh lên cõi Phạm
Không do nhảy vực, lửa
Được sinh lên cõi trời
Kia có Tiên đồng bạn
Dùng mắt trời quán sát
Chết vậy sinh về đâu?
Thấy sinh cõi trời Phạm
Trước thấy nhảy vực chết.
Cho rằng sinh cõi trời
Kẻ ngu khác không thấy
Tưởng rằng nhảy vực lửa
Được sinh lên cõi Phạm
Nên sinh tà kiến lầm.
Các Bà-la-môn khác
Ngu si không trí tuệ
Chẳng quán, tu thiền định
Dứt bỏ các kết sử
Chỉ thấy nhảy vực, lửa
Cho rằng được sinh Thiên.
Do hoặc điên đảo này
Soạn ra các kinh luận
Kẻ ngu đều tin nhận
Nhảy xuống vực, vào lửa.
Người trí khéo quán sát
Bỏ việc đó không làm
Tu hành các pháp lành
Lấy làm Nhân, Thiên đạo.
Nhảy vực vào lửa thảy
Chẳng phải tu hạnh lành
Mà được thoát sự chết
Chẳng phải nhân sinh Thiên.
Thân tâm nương pháp Phật
Đó là đạo Niết-bàn
Theo ngoại đạo làm gì
Luống khổ, không kết quả
Khuấy nước mong đề-hồ
Nhọc nhằn nhưng không được!

Chương 25

Người tu hạnh bố thí tránh khỏi được tám thứ tai ách. Nếu ai cất chứa của cải, vật báu thì gặp nhiều tai ách. Người hiểu biết tu hạnh bố thí thật là bền chắc.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị vua trách phạt một người thương buôn:

– Hãy viết tờ trình cho ta về tất cả tài sản của ngươi có.

Người thương buôn trở về nhà suy nghĩ: “Ta hãy đem những vật đã bố thí từ trước đến nay từ việc bố thí cho những kẻ ăn xin một bữa ăn, cho đến tất cả những thực phẩm rau đậu, mà ta đã bố thí cho chim chóc và muôn thú ghi vào tờ trình dâng vua”.

Nhà vua xem xong liền hỏi:

Những chuyện như thế ngươi ghi chép lại làm gì?

Người đi buôn đáp:

– Trước đây đại vương có ra lệnh: Tôi phải làm tờ trình tất cả của cải, tài sản của tôi có cho ngài xem, mà tài sản của tôi là những thứ ghi trong tờ trình này đây.

Ông nói kệ:

Tài sản của năm nhà
Nay đều ở trong nhà
Những gì ghi trong điệp
Không ai chiếm đoạt được,
Các vật ghi trong điệp
Giặc, vua và nước, lửa
Đều không xâm phạm được.
Dù bảy mặt trời mọc
Tu-di và biển lớn
Tất cả đều tan chảy
Những vật bố thí ấy
Không bị đốt chút nào.
Tiền tài gởi cha mẹ
Anh em và chị em
Tất cả các bạn thân
Thảy đều sẽ mất đi
Chỉ có vật bố thí
Không bao giờ hao mất.
Thí là bỏ vào kho
Đời đời mãi theo ta
Thí là bạn rất thân
Chẳng ai phá hoại được.
Biển lớn nghèo nàn kia
Thật là đáng sợ hãi
Thí là thuyền vững chắc
Chỉ có người bố thí
Được qua đến bờ kia
Ta biết quả báu thí
Cho nên nói không sợ.
Điệp này là tài sản
Của báu có trong nhà
Là thuộc về năm nhà
Thế nên không dám trình
Nói là thuộc của tôi.

Nhà vua nghe kệ sinh tâm vui mừng, khen ngợi:

– Lành thay! Ngươi xứng đáng là người cao đẹp. Nay, ta không dùng của cải nhà ngươi. Như lời ngươi nói, bố thí chính là tài sản của ngươi, còn những tài sản khác đều là của chung.

Khi đó vua liền nói kệ:

Nếu người hành bố thí
Tự tay mình trao cho
Nên phát tâm vui mừng
Chớ sinh ý ăn năn
Thế nên đời vị lai
Sinh trời, người hưởng vui.
Tất cả các tài vật
Mắt thấy là của mình
Phân tán thuộc năm nhà
Nếu không vội cho ngay
Thì không ai xâm đoạt.
Nếu keo kiệt không thí
Cuối cùng bị người đoạt
Hiện tại bị tiếng xấu
Đời sau thường nghèo thiếu
Đó là ngu si nhất.
Thấy nhà cửa của người
Cùng tài sản của họ
Chết đi, người khác hưởng
Một chút chẳng mang theo
Mắt thấy việc như vậy
Không thể sinh chán ghét.
Hãy mau bỏ của cải
Vì nó không thuộc ai
Chỉ có tu bố thí
Lúc chết buông tất cả
Chẳng có gì theo ta
Nhất định phải lìa bỏ
Nhưng không mong báo thí
Vì thấy việc như vậy
Người trí nên bố thí.
Hai việc đều gọi thí
Phải nên tự thí cho
Đàn-việt như voi lớn
Bến bờ dòng thơm chảy
Đàn-việt hiểu biết ấy
Lợi ích công đức đầy
Được người đời khen ngợi.
Kẻ nhiều của bỏn xẻn
Bị người đời chê cười
Hoặc người có tiền tài
Thấy kẻ xin ngoảnh mặt
Tuy có nhiều của báu
Vẫn gọi đó nghèo nàn.
Người thí tuy khổ nghèo
Vẫn được gọi giàu có
San tham tuy nhiều của
Không thoát khỏi họa nghèo.
Đàn-việt bố thí nước
Rửa bụi tham trong tâm
Bỏn xẻn không quả lành
Dẫn đến đường sinh tử
Ắt đọa hố hiểm sâu,
Bao nhiêu các báu vật
Voi, ngựa lẫn trâu, dê
Khi thức đi, khí dứt
Tất cả đều bỏ đi
Sắp chết sinh khổ não
Vì vậy, tâm quyến luyến
Sợ hãi, rất khổ não.
Người tu thí khi chết
Vui vẻ không ăn năn.
Tham ganh, người trí chê
Người thí, dù nghèo, giàu
Thường được sự vui sướng
Bỏn xẻn như gò mả
Người đều muốn lánh xa
Người tham tuy còn sống
Cũng đồng như ngạ quỉ.
Bố thí được ngợi khen
Tất cả đều tôn kính
Người hiểu biết mến thương
Qua đời sinh cõi trời
Mọi người đều thương mình
Vì sao không bố thí?
Bố thí, là bạn lành
Tư lương tốt đẹp nhất
Không dùng xe ngựa chở
Tất cả những người hầu,
Thí, kho báu biết đi
Cầu nối bến đời sau
Bố thí dứt các nạn
Năm nhà không xâm đoạt
Có người nào yêu mình
Mà không tu bố thí!
Nếu thí trăm ngàn muôn
Đời sau được chút ít
Còn phải tu bố thí
Huống hồ bố thí ít
Lại được phước báo nhiều
Thế nên người hiểu biết
Hãy nên tu bố thí.

Chương 26

Nếu được nghe chánh pháp thì có thể cởi mở sự trói buộc.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, tại nước Đức-xoa-thi-la, có người tội kia bị nhốt trong Tăng phường. Vào ban đêm, khi chúng Tăng nói pháp, người đó vào trong Tăng, theo thứ tự ngồi nghe pháp. Có một vị Tỳ- kheo giảng kinh Sinh Tử Thuận Nghịch. Kinh ghi: “Phật bảo các Tỳ-kheo: Người phàm ngu không nghe chánh pháp, không biết sắc, không biết sắc tập, không biết sắc vị, không biết tai hại của sắc, không biết thoát khỏi sắc, không biết nhàm chán sắc. Tất cả chúng sinh như thật không biết tai hại lỗi lầm như thế. Nếu bị sắc trói buộc, mới đúng thật là bị trói buộc. Sao gọi là sắc trói buộc? Đó là nhìn ngắm sự xinh đẹp gọi là sắc trói buộc. Người bị sắc trói buộc tức là trong tâm đều bị trói buộc. Sắc này ở trong sinh tử không biết cội gốc, dòng sông sinh tử mênh mông chẳng biết nơi nào là bờ bến. Không biết thoát khỏi sinh tử, sống trong sinh tử bị những sự buộc ràng trói buộc thân đời này cho đến cả đời sau.”

Khi ấy, người tội bị nhốt nghe thầy Tỳ-kheo nói pháp này, suy nghĩ nghĩa lý, ghi nhớ không quên và đọc tụng thông suốt. Một hôm, nhà vua sai người mở trói cho ông ta. Tất cả bà con bạn bè nghe tin đều đến thăm viếng, hỏi han, chúc mừng ông được thoát khỏi sự giam cầm. Ông bèn nói kệ:

Người thấy tôi thoát tội
Thăm hỏi sinh vui mừng
Kẻ phàm phu ngu si
Buộc ràng mãi chưa cởi,
Sắc trói buộc phàm phu
Buộc ràng cả năm ấm
Sống ràng buộc vật chất
Chết cũng còn buộc ràng
Đời này đến đời sau
Chưa bao giờ thoát khỏi
Trong luân hồi trói buộc
Mãi mãi chịu tử sinh.
Tôi từ chỗ thầy kia
Nghe dạy lời như vậy.
Tôi nghe lời này từ
Bậc Nhất Thiết Chủng Trí
Tất cả các kết sử
Chúng ràng buộc tâm tôi.
Như trâu bị ách buộc
Tôi cũng bị như vậy
Trong đó chưa giải thoát,
Làm sao các vị lại
Nói ta được thoát khỏi?
Mọi người đối với tôi
Nếu thật lòng thương nghĩ
Hãy đến gặp đức vua
Xin cho tôi xuất gia,
Dấu vết chánh kiến hiện
Bờ kia sự vắng lặng
Nếu làm được như thế
Mới đáng gọi giải thoát.
Nếu tôi được xuất gia
Không còn sự ràng buộc
Chân thật được giải thoát.

Bấy giờ, bà con của người tội nghe nói như vậy liền đến tâu nhà vua, xin cho ông ta xuất gia. Sau khi xuất gia, ông siêng năng tu hành, chứng quả A- la-hán.

Một người bị nhốt nơi Tăng phường, nhờ nghe được giáo pháp mà còn được giải thoát, huống chi là người bình thường nghe pháp. Cho nên người tu hành ở nơi nào có chùa tháp, hãy đến nghe pháp.

Chương 27

Con người đến lúc bệnh khổ nguy kịch thì lời nói không còn giá trị, mà còn bị nhiều sự chống báng. Thế nên việc gì làm được hãy nên làm ngay.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, pháp vương A-dục bị bệnh nặng, có các vật quý đều dâng cúng hết cho chư Tăng. Nhà vua lại đòi các quan phải dâng những vật quý giá, các quan không chịu tuân lệnh, chỉ được nửa quả Am-ma-lặc muốn đem dâng chư Tăng, nhà vua nhóm họp các quan văn võ lại và bảo:

Ngay ngày hôm nay ai làm vua? Ngôn giáo của ai lưu hành?

Các quan đáp:

– Chỉ có đại vương mới đủ oai đức thống lãnh khắp cõi Diêm-phù-đề, chỉ lời nói của người mới được thi hành.

Vua nói kệ:

Khanh gọi ta là vua
Lệnh ta được thực hành
Khanh thuận theo ý ta
Nên mới nói như vậy.
Các khanh nói lời này
Đều là lời không thật
Lời ta hết hiệu lực
Tất cả không tự do,
Chỉ có nửa quả này
Là thuộc quyền của ta
Giàu sang thật bỉ ổi
Than ôi! Hãy tự trách.
Ví như nước thác ghềnh
Tuôn mau, không tạm dừng
Ta tuy là làm vua
Bỗng nhiên bị nghèo nàn
Đời sợ sự bần cùng
Ta lại nghèo mau quá.

Nói kệ xong, nhà vua khen ngợi lời Thế Tôn dạy là chân thật không luống dối. Nhà vua lại nói kệ:

Giàu sang tuy rực rỡ
Nhưng rồi sẽ suy diệt
Người sang giàu ít vui
Đời suy diệt thêm ác
Lời này không luống dối
Do Đức Cù-đàm dạy.
Như những ngày trước đây
Ta có nói điều gì
Tâm nghĩ rồi mới nói
Lời ắt không đọa lạc
Quỉ thần đều vâng lệnh
Khắp trong bốn biển lớn
Người nghe đều lãnh thọ
Không người nào trái nghịch,
Như sông bao núi lớn
Nước vọt vòng trở lại
Suy bại như núi lớn
Ngăn không cho ta đi.
Xưa ta dạy điều gì
Không ai dám trái lời
Chưa từng có gian ác
Kẻ giặc không chống cự
Uy tràn ngập khắp cõi
Không thể trái nghịch ta
Trai gái và lớn nhỏ
Ai ai cũng kính vâng.
Nếu có kẻ trái lời
Ta đều hàng phục họ,
Người nào gặp nạn khổ
Ta an ủi cứu giúp,
Bệnh tật và đói nghèo
Ta đều chữa trị hết.
Giờ phước đức đã hết
Nghèo nàn bỗng nhiên đến
Khốn khổ như thế này
Ta là vua A-dục
Sao gặp khổ như thế!
Như cây A-du-ca
Bị chặt rễ cho chết
Hoa, quả và nhánh, lá
Tất cả đều héo khô
Giờ ta cũng như vậy.

Giàu sang như huyễn hóa chẳng tồn tại dài lâu.

Nhà vua nhìn sang vị thầy thuốc nói:

– Than ôi! Giàu sang là tên cướp độc ác giống như sấm chớp, như đốm lửa chóng tàn, như tai voi phe phẩy không ngừng, như lưỡi rắn le ra thụt vào không dứt, cũng như sương mai tan biến khi ánh mặt trời lên. Ta có nghe người khác nói kệ rằng:

Lợi giàu sang khó dừng
Xôn xao chẳng tạm ngưng
Người trí nên khéo biết
Không kiêu mạn, buông lung.
Đời này và đời sau
Hãy nên cầu tự lợi
Nếu như được giàu sang
Tuy bo bo cố giữ
Trăm cách cũng tiêu tan.
Đang trên đường giàu sang
Như rắn bò quanh co
Nếu người khéo quán sát
Khi mình còn khỏe mạnh
Nên mau làm phước đức
Nếu lại bị bệnh khổ
Tâm nên tu việc phước.
Đừng quan trọng hình hài
Kẻ thân thuộc trong nhà
Biết rằng mình phải chết
Tuy mình có tài vật
Không được thí tự tại
Thì tiền tài ích gì!
Được gặp nơi ruộng phước
Hãy mau bố thí cho
Nếu khi thân mạnh khỏe
Và lúc đã bệnh khổ
Nên thường tu bố thí
Như nhau có khác gì!
Nhưng các tài vật này
Chỉ tai họa mà thôi
Nếu khi mạng sắp chết
Vợ con và thân thích
Tuy tài sản của ta
Muốn đem ra ban bố
Lại giữ chẳng chịu cho
Nguy ách trong phút chốc
Ý nguyện không đạt được.

Bấy giờ, vua A-dục tóc tai rối tung, khoác chiếc áo cáu bẩn, lôi thôi lếch thếch, thân thể gầy gò, run rẩy hơi thở khò khè. Ông hướng về chỗ Đức Như Lai nhập Niết-bàn cố gắng chắp tay nhớ nghĩ công đức Phật, nước mắt tuôn rơi và nói kệ:

Giờ chắp tay hướng Phật
Những ngày cuối của con
Phật dạy: Ba không bền
Đổi thành ba pháp bền
Giờ con xin chắp tay
Để đổi pháp bền chắc,
Cũng như núi đá chảy
Mong lấy được vàng ròng
Đối tài vật không bền
Ngày đêm lấy pháp bền.
Giờ con có phước lợi gì

Xin dâng Đấng Tối Thượng
Phước nghiệp này của con
Không mong ngôi Đế Thích
Và quả báo cõi Phạm
Huống làm vua Diêm phù,
Đem quả bố thí này
Cùng với tâm kính tin
Nguyện được tâm tự tại
Không ai cắt đứt được
Đắc thanh tịnh vô cấu
Dứt hẳn các khổ đau.

Vua A-du-ca muốn dâng cúng nửa quả Am- ma-lặc lên cho chư Tăng, liền gọi một người đứng gần đó bảo:

– Ngươi có nhớ công nuôi dưỡng của ta khi trước chăng? Bấy giờ ngươi hãy nhớ lấy lời dạy cuối cùng của ta, hãy dâng cúng nửa quả Am-ma- lặc này lên chư Tăng chùa Kê-đầu-mạt và nói tên ta là vua A-du-ca, giờ phút cuối cùng xin đảnh lễ dưới chân Tỳ-kheo Tăng và thưa lời ta rằng: Kẻ nơi cõi Diêm-phù-đề được tự tại, nay quả báo suy tàn không còn năng lực tự tại, chỉ còn làm chủ nửa quả xoài này mà thôi. Cúi xin chư Tăng thương xót nhận ta cúng dường nửa quả xoài cuối cùng, khiến ta đời sau được quả báo rộng lớn. Mong rằng những người khác đừng như ta giờ phút sắp lâm chung mà không được tự tại.

Sứ giả vâng lệnh vua, đem nửa quả Am-ma-lặc đến Tăng phường, thỉnh tất cả chư Tăng nhóm họp và đảnh lễ dưới chân các thầy rồi cung kính chắp tay bạch:

Vua A-du-ca xin đảnh lễ dưới chân chư Tăng. Thưa xong, ông ta nước mắt đầm đìa, nghẹn ngào không nói nên lời, dâng nửa quả xoài lên chư Tăng và nói kệ:

Một lọng che trời đất
Lệnh ban mọi nơi theo
Ví mặt trời giữa trưa
Ánh nắng nung nơi nơi
Phước nghiệp đã tiêu tan
Suy sụp bỗng đến nơi
Bị nghiệp báo dối gạt
Suy tàn mất vinh hoa,
Như mặt trời sắp lặn
Tín tâm cung kính lễ
Lại dâng nửa quả này
Lên cúng dường chư Tăng
Nói lên sự vô thường
Giàu sang đều biến đổi.

Bấy giờ, các Thượng tọa nghe kệ xong, động lòng thương xót, xúc cảm, nhận nửa quả xoài và đem trình với đại chúng, nói:

– Giờ đây, chúng ta hãy sinh tâm nhàm chán lìa bỏ. Trong kinh, Đức Phật, Đấng Bà-già-bà có dạy như vầy: Thấy người khác suy yếu, họa hoạn, hãy nên sinh nhàm chán, xa lìa. Những người có sự nhận thức, khi thấy, ai mà không thương xót và sinh tâm nhàm chán.

Thượng tọa liền nói kệ:

Người hăng hái bố thí
Hơn hết trong các vua
Voi lớn trong mọi loài
Tên là A-du-ca
Giàu nhất cõi Diêm-phù
Tất cả đều như ý
Hôm nay bị các quan
Cản ngăn, không tự tại
Tất cả đều cấm đoán
Chỉ còn nửa quả xoài
Được có quyền làm chủ
Cúng dường lên đại chúng.
Rất giàu có rộng lớn
Tất cả được tự tại
Sinh ra tâm tự cao
Hôm nay đâu còn nữa
Kẻ ngu nên xem đây
Hãy mau sửa tâm mình
Giàu sang không tồn tại
Chỉ có nửa quả xoài
Khiến các thầy Tỳ-kheo
Đều sinh tâm nhàm chán.

Vị Thượng tọa bảo bỏ nửa quả Am-ma-lặc này vào món canh của chư Tăng rồi nói:

– Đây là sự cúng dường cuối cùng của Đại đàn- việt vua A-dục. Vì sao nói tất cả tài sản giàu có này đều không bền chắc? Đây là lý do Đức Phật, Đấng Bà-già-bà đã dạy: “Tài vật không bền chắc đổi tài vật bền chắc. Thân không bền chắc đổi lại thân bền chắc. Mạng sống không bền chắc đổi lại mạng sống bền chắc.” Này đàn-việt, hãy sinh tâm vui mừng, đem tài sản không bền chắc làm tư lương cho mình đến đời sau. Hãy thường tu hạnh bố thí, chớ để cho dứt mất.

Chương 28

Nếu kẻ phàm ngu khinh chê người hiền đức, người hiền ấy không bao giờ sinh tâm giận tức. Bị người khác hủy báng, mắng nhiếc, người hiền vẫn nói lời tùy thuận.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một người bày tiệc đãi khách tại nhà mình. Người này làm rất nhiều vòng hoa để tặng cho khách mời. Mọi người được tặng vòng hoa đều đội lên đầu. Có một hiền giả rất nghèo khổ tiều tụy, đi vào giữa tiệc. Khi được đặt vòng hoa ông không đội lên đầu mà đặt bên cạnh mình. Mọi người đều nói:

– Người này nghèo khổ, định bán vòng hoa này cho nên không đội lên đầu.

Vị Ưu-bà-tắc nghe họ nói như vậy liền đáp:

– Vâng! Nếu khi tôi đem bán được giá rất cao, thì sau đó sẽ đem cúng dường.

Ông liền nói kệ:

Như Tu-man ngày xưa
Vốn chỉ bán một hoa
Trong chín mươi mốt kiếp
Hưởng vui sướng cõi trời
Thân cuối cùng hôm nay
Được an vui Niết-bàn,
Như cô gái chăn bò
Đem hoa cỏ xấu hèn
Mọi người không ưa thích
Cô gái bán hoa này
Được sinh trời Đao-lợi,
Như cô gái kia bán
Nay tôi hướng về Phật
Cũng muốn bán hoa này.
Phát được tâm như vậy
Ít có rất khó gặp
Như người bán hoa này
Ba cõi không ai bằng.

Bấy giờ, mọi người hỏi Ưu-bà-tắc:

– Ai bố thí ít mà được phước báo lớn? Ưu-bà-tắc đáp:

– Bây giờ, tôi sẽ nói cho quý vị nghe về pháp lành tốt, bền chắc: khi vòng hoa héo khô sẽ bị vất bỏ. Đức Phật xả bỏ ngôi vua như người ta bỏ vòng hoa héo khô.

Ông nói kệ:

Phật bỏ ngôi Chuyển luân
Như bỏ vòng hoa héo
Bảy hoa giác đẹp tâm
Thanh tịnh không nhơ bẩn
Trang điểm đã đầy đủ
Đâu cần dùng hoa này.
Nhưng tôi chuyên nhất tâm
Cúng tháp Phật vòng hoa
Nay tôi bán dâng Phật
Thế gian không ai bằng.
Người buôn pháp như thế
Không bao giờ nghèo cùng
Việc bán này cao tột
Gọi là có công đức
Nay tôi đem hoa này
Muốn để cúng dường tháp.

Chương 29

Thí như nhà ảo thuật dùng lấy thân này làm đủ các trò chơi, có công năng làm cho người trí trông thấy liền được giải ngộ.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một nhà ảo thuật có tâm kính tin, ưa mến Phật pháp, vào núi Trú ám thiết trai cúng dường chư Tăng. Cúng dường xong, ông lấy gỗ Thi-đà-la làm thành một cô gái xinh đẹp lạ thường. Trước mặt đại chúng, nhà ảo thuật ôm chặt cô gái này mà hôn hít và hành dâm với cô ta. Lúc đó các thầy Tỳ-kheo thấy việc này đều giận dữ, chê trách:

– Người này không biết xấu hổ, việc ông ta làm thật là bỉ ổi, nếu biết như thế, chúng ta không nhận bữa cúng dường của ông ta!

Nhà ảo thuật hành dâm xong, nghe các thầy Tỳ- kheo chê bai quở trách, liền dùng dao chặt cô gái thành từng đoạn. Ông ta móc mắt, xẻo mũi, dùng nhiều cách tàn độc để giết cô gái. Các thầy Tỳ-kheo thấy việc này lại sinh tâm giận dữ, chê trách nặng hơn lúc nãy.

– Nếu chúng ta biết như thế, thà là uống thuốc độc còn hơn thọ nhận sự cúng dường của ông ấy.

Lúc bấy giờ, nhà ảo thuật bèn nói:

– Lúc quý thầy thấy con hành dâm liền tỏ ra giận dữ, thấy con dứt dục và giết cô gái, quý thầy lại chê trách. Con phải làm thế nào để thờ phụng chúng Tăng đây?

Các thầy Tỳ-kheo nghe ông nói như vậy bối rối, áy náy không yên và chẳng biết nói sao cho hợp.

Bấy giờ, nhà ảo thuật mang khúc cây Thi-đà-la đưa cho quý thầy thấy và chắp tay thưa:

Người mà con hành động vừa rồi chính là khúc cây này. Đối với khúc cây này làm sao có chuyện dâm dục và giết hại? Vì con muốn chư Tăng được an thân cho nên thiết trai cúng dường. Và vì muốn làm cho chư Tăng an tâm cho nên làm ra trò ảo thuật này. Xin quý thầy cho phép con nói: Chẳng lẽ quý thầy không nghe trong kinh Đức Phật dạy: “Tất cả pháp đều như huyễn hóa”. Nay con vì muốn thể hiện lời Đức Phật dạy, nên làm ra trò ảo thuật này.

Như cái thân huyễn này không có tuổi thọ, không có mạng sống, nên biết rằng do nhà ảo thuật vận chuyển cái máy khiến cho tượng gỗ biết nhìn ngó, cúi, ngước, liếc ngó, bước đi hay dừng lại, hoặc nói, hoặc cười… nhờ việc ấy mà chúng ta biết một cách sâu sắc rằng: “Thân này thật sự là vô ngã.”

Ông liền nói kệ:

Trước thấy hình ảnh kia
Tưởng tượng sinh vọng hoặc
Nghĩ đó là cô gái
Chìm vào lưới ái dục
Quán sát sâu thật hơn
Biết thân đều vô ngã.
Như nhà ảo thuật kia
Dùng gỗ làm cô gái
Ý hành nơi điên đảo
Kẻ ngu cho chúng sinh
Đối trò ảo thuật này
Vọng tưởng là trai gái.
Người trí khéo quán sát
Ấm giới và các nhập
Giả hợp thành chúng sinh
Mỗi mỗi đều khác nhau
Hòa hợp các phần lại
Tạo tác ra các nghiệp.
Các hành không nam, nữ
Cũng chẳng có thọ mạng
Sắc dục và mịn láng
Cử chỉ và nơi chốn
Bốn thứ dục như thế
Xoay chuyển tâm ngu dại.
Nhất Thiết Trí cũng nói
Huyễn ảo dối thế gian
Như trong lưới huyễn kia
Hóa thành các sắc tượng
Lưới sinh tử cũng vậy
Hiện năm đường khác nhau
Buồn vui và giận dữ
Sầu não và đấu tranh
Các nhiễu loạn như thế
Giống như quỉ khắp thân.
Tâm tạo tác các nghiệp
Giống quỉ kia khác gì
Từ tâm sinh ra gió
Nhân gió gây ra nghiệp
Chúng sinh thấy gây nghiệp
Và các thứ sắc tượng
Đối với hành nghiệp này
Sinh cử chỉ, hình sắc
Không biết chỗ phải dừng
Liền vọng tưởng chấp ngã.
Thân này là bộ máy
Gân, tủy, tóc, da, thịt
Tất cả băm sáu vật
Hòa hợp lại thành thân,
Người ngu chấp chúng sinh
Thật ra không chủ tể
Nhưng nhờ có sức gió
Mà cúi, ngước, co, duỗi
Nhờ nương tựa vào tâm
Mà sinh khởi năm thức
Nhưng mà tâm thức này
Niệm niệm đều biến diệt.
Kẻ ngu khởi si giác
Chấp thân này có ta
Khẩu nghiệp bao nhiêu loại
Thân nghiệp cũng bấy nhiêu.
Nói cười và cử chỉ
Thảy đều là như huyễn
Trong đó không có ngã
Vì không có chủ tể.
Pháp luống dối như thế
Không thọ, không tri kiến
Vọng sinh khởi tưởng tượng
Vùi lấp các phàm phu.

Như việc mà nhà ảo thuật kia đã nói, hoàn toàn chân thật không khác. Khi ấy, các thầy Tỳ-kheo nghe xong đều được Kiến đế. Thế mới biết rằng, các pháp đều như huyễn. Người nào biết được điều đó thì dứt bỏ được cội gốc các hành.

Chương 30

Về bố thí, giữ giới và bàn luận sự cạn thấp của vấn đề này, người có căn lành thuần thục sẽ ưa thích pháp sâu xa.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, khi vua A-dục mới phát tín tâm, thường thỉnh chư Tăng vào cung cúng dường, hằng ngày nghe pháp. Nhà vua ra lệnh giăng màn, trướng để che chắn các phụ nữ khi họ nghe pháp. Các thầy Tỳ-kheo nói pháp cho là phụ nữ phần nhiều đắm mê khoái lạc trên đời, nên chỉ khen ngợi pháp bố thí, trì giới cho họ nghe mà thôi. Có một kỹ nữ căn lành đời trước đã thuần thục, nàng không sợ vua sẽ bắt tội, liền vén màn, đến chỗ thầy Tỳ- kheo bạch:

– Những điều Đức Phật dạy chỉ có pháp bố thí và trì giới, không còn pháp nào khác sao?

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Này cô, vì ý tôi không cho rằng có những người lợi căn như vậy cho nên mới nói như thế. Nếu cô muốn nghe pháp, tôi sẽ nói cho cô nghe giáo pháp sâu xa hơn.

Thầy Tỳ-kheo bảo cô gái:

– Đức Phật dạy giáo pháp mà cả thế gian chưa từng nghe, đó là pháp Tứ đế.

Thầy Tỳ-kheo liền giải thích cho cô gái nghe.

Nghe xong, cô gái liền chứng quả Tu-đà-hoàn.

Bấy giờ cô gái nói:

– Tuy trái phép vua nhưng ta được lợi ích lớn. Cô liền nói kệ:

Nghe giảng bốn Chân đế
Pháp nhãn tịnh vô cấu
Đem mạng mong manh này
Đổi mạng bền pháp Phật.
Dù bị vua cõi người
Giờ đến giết chết ta
Ta đã được Tuệ mạng
Tâm không hề ăn năn.

Khi ấy, các cung nhân thấy người kỹ nữ này trái phạm pháp vua, trong lòng rất sợ bị kết tội đồng lõa. Người kỹ nữ thấy việc ấy, tự tay cầm dao đến trước vua, gieo năm vóc sát đất, thú tội xin được chết. Cô gái nói:

Lệnh vua rất nghiêm ngặt
Không ai dám trái phạm
Tôi vì nghe pháp mầu
Trái phạm xin chịu chết.
Tôi vì khát khao pháp
Đường đột đến chỗ Tăng
Như trâu khát nắng xuân
Tìm nước chẳng sợ roi
Đột nhập dòng nước trong
Uống đã mới quay về.
Xin đại vương biết cho
Pháp Phật khó được nghe
Thí như hoa Ưu-đàm
Khó có thể được gặp
Các pháp mầu do Phật
Thầy ba cõi đã nói
Tôi được nghe pháp này
Sao lại chẳng vui mừng!
Pháp do Phật chỉ dạy
Mới thật ngọn đuốc sáng
Tiếng trống lớn diệt kiết
Cầu bến của trời người
Nghe tiếng linh giải thoát
Tiếng hoan hỷ an vui.
Ngày xưa Đức Bồ-tát
Khổ hạnh siêng cầu pháp
Nhảy vực sâu, cắt thịt
Để cầu đạo Vô thượng
Đã được người chỉ giáo
Rất khó có thể gặp
Tôi được gặp pháp này
Vì sao không nghe nhận!
Thân này như chùm bọt
Cây chuối và đốm lửa
Rắn tứ đại quấn nhiễu
Nay hội thí pháp này
Khó được nghe và gặp
Tiếc gì thân dơ xấu
Mà không nghe pháp mầu.
Thân mong manh huyễn ảo
Tuy hoạt động tới lui
Các cử chỉ ngó nhìn
Nằm, ngồi và đến đi
Xem xét cùng nói năng
Nhưng thật chẳng chúng sinh
Mà tưởng là chúng sinh.
Mọi hành động cử chỉ
Tất cả đều như huyễn
Không lâu sẽ tan hoại
Vất bỏ ngoài gò mả
Thi hài đồng gỗ đá
Diều, quạ đến giành ăn
Mưa gió làm thối rã
Vữa nát cũng như bùn.

Lúc ấy, nhà vua nghe kệ xong nói:

– Ngươi có thành ý nghe pháp như vậy, giờ đây ngươi đã chứng đắc được quả gì?

Kỹ nữ liền nói kệ:

Bây giờ không che giấu
Tôi phải nói sự thật
Đã chứng Tu-đà-hoàn.
Nên phát tâm vui mừng
Dốc lòng khéo lắng nghe
Nay tôi tự thấy pháp
Không còn tin người khác,
Tâm không có lưới nghi
Đã đóng ba nẻo ác
Sinh tử là ven bờ.
Tôi đã lìa ngục hữu
Đối sáu hai tà kiến
Đã mở hết buộc ràng
Chẳng lâu sẽ xa lìa
Tiến về thành cam lộ.
Nơi Đức Phật dẫn dắt
Ấm giới và các nhập
Tôi đều thấy như thật
Quán thân như giỏ rắn
Ấm như giặc rút đao
Dục như oán giả thân
Các căn như mây nhóm
Sáu trần giặc phá xóm
Dòng sông ái lấp vùi
Đã ngộ việc như thế
Mong chỗ an ổn kia.

Nhà vua nghe những lời này sinh lòng kính tin pháp Phật gấp bội. Ông nói:

Hay thay pháp Phật! Con đường nhàm chán sinh tử của Đấng Đại Lực Thế Tôn. Hay thay pháp Phật. Người có lòng tin hướng đến đều được giải thoát. Vì sao mà biết như vậy? Người nữ trí nông cạn còn có khả năng giác ngộ, hơn cả sáu vị giáo chủ ngoại đạo! Nay con phát tâm quy y hướng về Đấng Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu. Con xin kính lễ Đấng Đại Bi cứu giúp tất cả chúng sinh, khai mở pháp cam lộ cho nam nữ, trẻ già… cùng nhau tu hành.

Vua nói kệ:

Nếu cho rằng người nữ
Trừ hiểu biết nông cạn
Những người trí sâu khác
Phải kính mới ngộ được.
Nghĩa sâu xa như thế
Được người trí tôn kính
Chính là Đấng Mâu-ni
Tối thắng đạo chánh nói,
Pháp mầu do Ngài nói
Người nghe rất vui mừng
Chuyên niệm và nhất tâm
Khiến cho chẳng buông lung.
Ngài không dạy luận bàn
Cũng không vì bài xích
Các ngôn luận ngoại đạo
Tất cả tự phá hoại.
Chưa hề tự khen ngợi
Vang danh khắp thế gian
Tuy nói công đức thật
Không phải tự khen ngợi,
Tuy oai đức rỡ ràng
Đầy sáng trong vắng lặng
Đầy đủ trí Nhất thiết
Không cậy mình, tự cao,
Việc làm tuy mạnh mẽ
Nhưng lại khéo điều hòa
Dứt bỏ các cống cao
Nhưng lại không thấp hèn.
Pháp truyền bá lâu dài
Không ai chê trách được
Lời Đấng Vô Hại nói
Rất nhiều loại khác nhau
Nhưng tất cả mọi người
Không thể nói lỗi Ngài.
Lời nói tuy dồi dào
Không có ai chán nhàm
Pháp nói tuy giống tục
Nhưng lý xuất thế gian.
Lời Thiện Thệ đã dạy
Văn tự truyền thế gian
Nhưng thường chưa từng có
Hóa độ thường đổi mới
Lời nhiệm mầu như thế
Ai cũng chắp tay lễ
Đều ngợi khen Thế Tôn
Đại Sư Tử khéo dạy.
Thí như mùa xuân, hạ
Râm, nắng đều lợi vật
Lời Phật cũng như vậy
Nhiều lợi ích chúng sinh
Dứt tâm nghi mọi người
Đối trị khéo giải thích
Giúp thoát ra ba cõi
Chỉ rõ chốn an ổn,
Cũng làm cho chúng sinh
Hoặc vui, hoặc sợ hãi
Cũng làm cho ưa thích
Cũng khiến cho buồn thương
Cũng làm được lợi ích.

Pháp diệt kiết đã nói
Chân thật là thần biến
Điều nên nói sẽ nói
Ý không tiếc tình người
Dạy lời tuy cứng cỏi
Nhưng không trái pháp tướng.
Đấng Tối Thắng trí tuệ
Tợ như nước biển lớn
Đầu, giữa và bờ mé
Cùng một vị như nhau
Pháp Phật cũng như thế
Đầu, giữa, cuối đều lành
Người nghe đều thanh tịnh.
Người trí nghe lời Phật
Ý mạnh mẽ đầy đủ
Lắng nghe lời Phật rồi
Chẳng ham sách ngoại đạo,
Ngôn từ đều đầy đủ
Biện tài rất văn hoa
Cũng không tự cống cao
Lời nói không yếu hèn
Hơn hết trong tất cả
Nghĩa hiển bày đầy đủ
Thật là Nhất thiết trí.
Thể nghĩa ngoại đạo ít
Trang nghiêm từ bằng trí
Ngôn từ rất bóng bẩy
Nhưng không có nghĩa vị
Nói dua nịnh, tà vại,
Thế gian thật ngu tối
Cầm đuốc pháp của người
Đi vào nơi Chân đế
Như vào nhà của mình.
Đệ tử Đấng Thiện Thệ
Sẽ được ta ủng hộ
Các vị đại đệ tử
Khéo điều phục các căn
Điều Phật dạy đệ tử
Nay ta tin sâu xa.
Ở trước các đại chúng
Ta tuyên nói lời này
Từ hôm nay trở đi
Cho phép các Thích tử
Thường được vào cung ta.
Nay thể nhận kính tin
Hàng Sa-môn Thích tử
Tự tiện được vào cung
Thỏa mãn tâm người nữ
Bằng giáo pháp cam lộ.
Tâm nữ đã vắng lặng
Hướng về nơi giải thoát
Thế nên thường phải nghe
Nghĩa bốn Đế sâu xa.

QUYỂN 6

Chương 31

Nếu người có công đức thật sự mới xứng đáng thọ nhận sự cúng dường. Nếu thật không có công đức thì không xứng đáng thọ nhận sự cúng dường với tín tâm của người.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, trong dòng họ Câu-sa có vị vua tên Chân-đàn-ca-nị-tra, đánh dẹp phía Đông xứ Thiên trúc. Sau khi bình định đất nước này, nhà vua trở về nước trong vinh quang lẫy lừng và phước lực tràn trề. Giữa đường, đi ngang qua xứ Bình bác, đoàn quân dừng chân tạm nghỉ. Lúc đó, điều mà tâm nhà vua ưa thích chỉ có pháp Phật; pháp Phật chính là chuỗi anh lạc trang sức quý báu. Ở chỗ nghỉ chân, nhà vua trông thấy xa xa có một ngôi tháp, vua cho là tháp Phật, bèn cùng một ngàn người hầu đến chỗ ngôi tháp. Khi còn cách ngôi tháp không xa, nhà vua cùng mọi người xuống ngựa, đi bộ đến. Ngài đội mũ báu cõi trời để trang sức trên đầu, đến chỗ tháp quy mạng đảnh lễ, nói kệ:

Đấng lìa dục chướng kết
Đầy đủ trí Nhất thiết
Ở trong các Tiên thánh
Tối thượng chẳng ai bằng
Hay vì các chúng sinh
Làm người bạn không mời
Tiếng khen khắp thế gian
Được ba cõi tôn trọng.
Dứt bỏ hẳn ba cõi
Pháp do Như Lai nói
Trên hết trong các luận
Phá dẹp các luận tà
Nay con quy mạng lễ
A-la-hán chân thật.

Lúc ấy vị vua kia cúi đầu kính lễ, vì nghĩ nhớ công đức của Như Lai, khi đang đảnh lễ, thì ngôi tháp bỗng sụp đổ giống như bị ngọn cuồng phong thổi sập vỡ vụn. Nhà vua trông thấy việc ấy rất đỗi sợ hãi, thắc mắc, bèn nói:

– Ngôi tháp này không có ai đến gần đụng chạm, tại sao tự nhiên lại ngã xuống tan nát như vậy? Sự biến đổi khác thường như thế này chắc chắn là có nguyên nhân.

Vua liền nói kệ:

Trời Đế Thích sống lâu
Cũng tôn trọng như thế
Chắp tay lễ tháp Phật
Đều không có tướng khác.
Thế Tôn đại oai đức
Đấng tôn trọng tối cao
Phạm thiên đến kính lễ
Phật cũng không tướng khác.
Thân con kém hơn kia
Không vì con mà hoại
Là sức chú thuật này
Làm ra vì chán đạo.

Vua nói kệ xong, vì thấy tháp sụp đổ nên tâm vẫn còn kinh sợ, bèn nói:

– Xin sự biến đổi khác thường này đừng đem đến tai họa, mà hãy đem đến điều tốt lành, làm cho các chúng sinh được an ổn. Từ trước đến nay tôi đã năm vóc sát đất lễ kính trăm ngàn ngôi tháp, nhưng chưa bao giờ thấy việc hư hoại, dầu chỉ là một hạt bụi rơi. Không biết hôm nay sao có sự biến đổi khác thường như vậy. Hiện tượng như thế này tôi chưa từng thấy!

Vua liền nói kệ:

Các trời, A-tu-la
Cùng chiến đấu với nhau
Muốn phá hoại nước này,
Mạng sống tôi không trọn
E rằng có giặc thù
Muốn hủy hoại nước tôi?
Không đao binh, mất mùa
Cũng không có tật dịch
Chẳng phải cả thế gian
Sắp có tai họa chăng?
Đây là điềm xấu ác
Phải chăng pháp sắp diệt?

Bấy giờ, người dân sống trong ngôi làng gần tháp thấy vua lấy làm lạ thắc mắc lạ, liền tâu vua:

– Xin đại vương biết cho, đây không phải là ngôi tháp Phật.

Rồi họ nói kệ:

Ni-kiền rất ngu si
Tà kiến thiêu đốt tâm
Đây là tháp của họ.
Vua với tâm lễ Phật
Đức tháp này mỏng manh
Lại không có xá-lợi
Không kham nhận vua lễ
Cho nên mới vỡ vụn.

Vua Ca-nị-tra sinh tâm kính tin gấp bội đối với tháp Phật, toàn thân nổi ốc, buồn vui lẫn lộn, nước mắt tuôn trào, nói:

Việc này thật phải thế
Tôi tưởng tháp Phật, lễ
Nên pháp phải hư hoại
Vật nặng voi khỏe chở
Lừa làm sao chở nổi.
Phật dạy: ba hạng người
Nên xây tháp thờ họ
Ni-kiền mất tà đạo
Không nên xây tháp thờ.
Ni-kiền tử bất tịnh
Không nên nhận ta lễ.
Khi tháp này đổ nát
Phát ra tiếng động lớn
Dụ như tháp Đa tử.
Phật đến chỗ Ca-diếp
Ca-diếp lễ chân Ngài
Là Đạo Sư của con
Phật Thế Tôn của con
Phật bảo Ca-diếp rằng:
Nếu không phải La-hán
Mà nhận lễ của thầy
Đầu vỡ làm bảy mảnh
Nay tôi nhân tháp này
Nghiệm lời Phật rất đúng.

Như loại gỗ đá này không có tâm thức mà còn làm minh chứng cho Ni-kiền, nghiệm biết mình chẳng phải Bậc Nhất Thiết Trí.

Nhà vua thấy việc này rồi, ở trước mọi người vui mừng hớn hở, sinh lòng kính tin gấp bội, dung nhan vui tươi, nói thế này:

– Nam-mô Bà-già-bà, Bậc Thầy giải thoát, tất cả chúng ta đều tôn kính. Phật Thích-ca Mâu-ni phát ra tiếng rống Sư tử, dạy rằng: “Ngoài pháp này ra, không có Sa-môn và Bà-la-môn”. Lời Phật chân thật không có nhầm lẫn. Có các chúng sinh một chân, hai chân, không chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng cho đến phi tưởng, phi phi tưởng… trong các loài chúng sinh này chỉ có Như Lai là Bậc tôn quý hơn hết. Tóm lại, những điều Phật đã dạy hôm nay đều thể hiện rõ ràng. Tất cả ngoại đạo đều như cây cỏ, huống gì là giáo chủ Ni-kiền Phú-lan-na Ca-diếp.

Vua nói kệ:

Ta là vua cõi người
Không nhận nổi ta lễ
Huống gì vua Chuyển luân
Vua A-tu-la thảy.
Hôm nay ngôi tháp này
Như bị voi đầu đàn
Dùng oai lực đôi chân
Giẫm đạp làm vỡ vụn.
Thân có bốn thứ kiết
Nên gọi Ni-kiền-đà
Như người xua được nóng
Khi trời rất nóng bức,
Tên gọi Ni-đà-già
Như Lai Phật Thế Tôn
Đoạn được tất cả kiết
Thật là Ni-đà-già
Do đó nên hôm nay
Các đệ tử Ni-kiền
Và các trời, người khác
Đều nên cúng dường Phật.
Phật thuộc dòng trí tuệ
Tiếng khen vang rộng khắp
Cho nên tháp miếu Ngài
Trời, Người, A-tu-la
Một khi đến kính lễ
Không có sự, nghiêng động,
Như dùng cánh con muỗi
Mà quạt núi Tu-di
Tuy dốc hết sức lực
Núi không hề dao động.

Thế nên, nếu người muốn được phước đức lớn, hãy nên lễ bái tháp miếu Phật.

Chương 32

Nếu người có học vấn, tuy đã hủy giới hạnh, nhưng nhờ năng lực học vấn nên có thể đắc đạo. Vì ý nghĩa này cho nên hãy siêng năng học vấn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một thầy Tỳ-kheo học rộng ở chỗ vắng vẻ. Lúc đó, có một quả phụ thường hay lui tới chỗ thầy Tỳ-kheo để nghe nói pháp. Dần dà thầy Tỳ-kheo học rộng sinh tâm đắm nhiễm bà quả phụ. Vì có tâm đắm nhiễm cho nên các pháp lành dần dần yếu kém, vì bị các kết sử của tâm phàm phu sai khiến nên thầy Tỳ-kheo thề hẹn với người phụ nữ. Bà ta nói:

– Nếu bây giờ thầy bỏ đạo, hoàn tục, tôi sẽ làm vợ thầy.

Lúc bấy giờ, thầy Tỳ-kheo hoàn tục, sau khi hoàn tục, không chịu được sự khổ não của thế gian nên thân thể gầy ốm không biết làm nghề gì để sinh sống. Thầy chưa biết phải tìm cách nào làm ít mà được nhiều tiền, bèn suy nghĩ: “Bấy giờ ta phải tìm cách nào để sinh sống đây? Chỉ có cách là mổ dê mướn là ít tốn công mà được nhiều lợi”. Nghĩ như vậy, chàng ta bèn đi tìm lò mổ dê. Vì tâm phàm phu dễ hư hỏng, nên gây ra nghiệp này, chàng ta liền kết bạn với người hàng thịt. Trong lúc ông đang bán thịt, có một đạo sĩ khất thực vốn quen biết với ông thầy tu xuất này, nên đang đi trên đường, đạo sĩ tình cờ gặp ông ta đầu tóc bù xù, mặc áo xanh, trên mình dính đầy máu giống như Diêm- la, La-sát, tay cầm cái cân thịt cũng đều dính máu. Ông ta đang cân thịt để bán cho người. Đạo sĩ thấy như vậy, thở dài: “Đức Phật dạy thật đúng! Tâm phàm phu lao chao không ngừng, rất dễ đổi thay. Người này trước đây siêng tu học vấn, giữ gìn giới cấm, không hiểu tại sao hôm nay bỗng nhiên lại làm việc này?!”

Nghĩ xong, vị đạo sĩ liền nói kệ:

Nếu không điều ngựa ý
Buông lung gây điều ác
Tại sao không hổ thẹn
Lìa bỏ pháp điều phục.
Oai nghi và cử chỉ
Làm người thích ngắm nhìn
Chim muông và cầm thú
Nhìn thấy không kinh sợ,
Bước đi sợ giẫm kiến
Tâm từ thương chúng sinh
Tâm Từ bi như thế
Bấy giờ bỏ đâu rồi?

Tâm phàm phu bất định, chính tính cách đó cũng là của Sa-môn hay Bà-la-môn. Thế nên Đức Như Lai không y cứ vào hình tướng, hễ người nào chân thật được đế lý thì gọi là Sa-môn và Bà-la- môn.

Đạo sĩ lại nói kệ rằng:

Vỗ ngực mà tự xưng
Cho mình thật Sa-môn
Do họ chẳng điều tâm
Nên làm điều ác này.

Vị đạo sĩ suy nghĩ: “Bây giờ, ta phải làm cách nào để cho anh ta được giác ngộ? Như lời Đức Phật dạy, nếu khi chỉ dạy người, trước hết phải làm cho người ấy phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với bốn pháp không thể hư hoại. Bốn pháp không thể hư hoại này có công năng làm cho chúng sinh thấy được Tứ đế. Ta sẽ nói cho anh ta nghe về căn bản của sự tạo nghiệp”. Nghĩ xong, đạo sĩ liền nói:

– Ông cân rất giỏi.

Người bán thịt suy nghĩ: “Thầy Tỳ-kheo này đã không mua thịt, tại sao lại bảo ta cân rất giỏi?”.

Nghĩ rồi, anh ta liền nói kệ:

Thầy chắc vì thương ta
Đến gặp cứu giúp ta
Thầy Tỳ-kheo như vậy
Lìa chợ lâu, theo pháp
Thấy ta làm việc ác
Nên đến muốn cứu độ
Thật là bậc Hiền thánh
Làm lợi ích cho ta.

Nói kệ xong, người bán thịt nhớ lại ngày xưa, lúc còn làm Tỳ-kheo đã gây ra các nghiệp, anh ta nhớ lại đoạn kinh đã tụng ngày trước: “Khổ nhóm do lỗi của dục, vị của dục”. Suy nghĩ xong, ông ta liền ném cây cân ra xa rơi xuống đất, sinh tâm nhàm chán đối với sinh tử, nói với thầy Tỳ-kheo kia bằng lời kệ:

Vị dục và lỗi dục
Thứ nào là nhiều nhất
Tôi dùng dây tàm quý
Nắm giữ cân trí tuệ
Cân nhắc việc như vậy
Tâm đã được thông suốt
Không thấy nó có lợi
Chỉ thấy dục có hại,
Thế nên hôm nay tôi
Phải nên dứt bỏ dục
Đi đến nơi Tăng phường
Xin xuất gia trở lại.
Tôi vì làm theo dục
Thân hèn hạ khổ đau
Tuy thân đang còn sống
Mà như đọa đường ác.
Xưa kia tôi xuất gia
Lọc nước rồi mới uống
Thương giữ mạng chúng sinh
Chẳng có tâm giết hại
Ngày nay như quỉ dữ
Ăn tinh huyết của người
Nay tôi thích sát hại
Thói quen không thể bỏ.
Lành thay! Lời Phật dạy,
Gần gũi với người dục
Việc ác nào cũng làm
Nay tôi bị dục sai
Suy tàn đến nỗi này.
Đấng Nhất Thiết Trí dạy
Tôi chưa thấy Tứ đế
Từ ngày nay trở đi
Không bao giờ buông lung,
Lời Đức Thế Tôn dạy
Trước là người buông lung
Giờ đây xin chấm dứt
Như trăng ra khỏi mây
Chiếu sáng cả thế gian
Vì vậy nay tôi sẽ
Chuyên tâm giữ giới cấm.
Giả sử lửa cháy đầu
Cháy luôn cả y phục
Tôi vẫn mãi tinh tấn
Tu hành pháp điều phục
Đoạn kết sử khó trừ
Chắc chắn được vắng lặng.
Giả sử cắt gân mạch
Hình hài bị héo khô
Chưa thấy lý Tứ đế
Thì không hề ngưng nghỉ
Trước diệt oán kết sử
Được quả báo, thi ân.

Lúc đó, thầy Tỳ-kheo biết rõ tâm niệm của ông thầy tu xuất, ngọn lửa trí tuệ đã bắt đầu nhen nhúm, bèn nói kệ:

Giờ nếu ông xuất gia
Ắt sẽ được giải thoát
Ca-lê và Tăng-kiềm
Cho đến Chất-đa-la
Các thầy Tỳ-kheo này
Đều bảy lần thôi tu
Sau xuất gia trở lại
Chứng được quả La-hán.
Giới của Phật Thế Tôn
Ông cũng không hủy phạm
Ông không khởi tà kiến
Lại có trí học rộng
Khéo sinh tâm chán lìa
Tu tập vui vắng lặng,
Ông có đèn học rộng
Gió kết sử đã tắt
Tu học rộng trở lại
Ắt đến nơi vô úy.
Bị nước kết cuốn trôi
Nên nương tu định lực
Tu định được sức mạnh
Thấy kết sử rõ ràng.
Do ông thường tu tập
Nên thích pháp xuất gia
Tâm gần công đức lành
Bị kết sử hủy hoại
Tu tập theo chánh đạo
Dùng ý loại kết sử
Như voi đứt dây nài
Muốn đi đâu tùy ý.

Ngay khi đó, người bán thịt liền dứt bỏ nghiệp xấu, xuất gia trở lại nỗ lực siêng tu, chứng quả A- la-hán.

Chương 33

Nếu muốn trang nghiêm nghiệp lành không lỗi thì phải siêng tu các việc lành.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một người làm ruộng thông minh sáng dạ, ông cùng các bạn dẫn nhau vào thành, thấy có một người dung mạo khôi ngô tuấn tú, y phục chỉnh tề, trang sức bằng ngọc ngà châu báu xinh đẹp, có nhiều người theo hầu, tất cả đều trang sức vòng vàng lộng lẫy. Người làm ruộng thông minh nói với các bạn:

– Không tốt! Không tốt!

Các bạn nói:

– Người có oai đức khôi ngô như vậy rất đáng được kính yêu. Có gì đâu mà bạn cho là không tốt? Người làm ruộng nói:

– Tôi tự cho mình là không tốt chứ không phải cho rằng người kia là không tốt. Vì đời trước tôi không làm công đức, khiến cho ngày nay phải chịu thân nghèo hèn này, không có oai đức, chẳng được ai tôn kính. Nếu trước tôi có tu phước thì làm gì mà không sánh kịp với người này! Thế nên bây giờ tôi phải gắng sức làm điều lành, chắc chắn đời tương lai tôi sẽ vượt hơn người này.

Ông liền nói kệ:

Người kia không buông lung
Làm lành được phước lợi
Còn tôi do buông lung
Không tu các công đức
Thế nên nay nghèo hèn
Thấp kém không oai thế.
Tôi tự trách, tự thẹn
Nên nói mình không tốt.
Tôi tự quán sát mình
Nghèo cùng rất đáng thương
Bị kết sử dối lừa
Bị buông lung làm hại
Từ nay trở về sau
Siêng tu thí, giới, định
Ắt khiến đời tương lai
Dòng họ, quyến thuộc tốt
Đẹp đẽ, có oai đức
Giàu sang, nhiều kẻ hầu
Các việc không thể chê
Người đời đều tôn kính.
Đừng như thân hiện tại
Tự ăn năn không kịp
Tâm ác làm hại tôi
Khi dối đến nghèo hèn.
Tâm tự hối tự trách
Tu thiện được vui sướng
Nếu khi gây nghiệp ác
Các thiện đều không sinh
Nếu giữ tâm tu thiện
Đầy đủ mọi điều vui.
Lời thế gian không ngoa
Báo thiện, ác khác nhau
Phật dạy: tám Chánh đạo
Đưa người đến Niết-bàn
Nếu tâm tham tài lợi
Giàu sang và vinh hoa
Mong cầu cho đời sau
Không khỏi nạn già suy.
Tôi sẽ gắng tinh chuyên
Hướng về nơi vô úy
Ví như họa sĩ say
Vẽ đủ các hình tượng
Tỉnh rồi biết là xấu
Hủy bỏ, vẽ bức khác,
Vì đời trước ngu si
Tạo ra thân xấu này
Nay xin diệt nghiệp ác
Mong báo tốt tương lai
Thấy quả báo xấu rồi
Người hiểu biết tự trách.

Chương 34

Nếu nghe nói về điều thiện, hãy nên suy gẫm, chắc chắn được lợi ích. Cho nên người hiểu biết thường nên lắng nghe và lãnh thọ pháp lành nhiệm mầu.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, trong nước Xá-vệ, Đức Phật cùng Tôn giả A-nan đi trên cách đồng rộng, ở bên bờ ruộng thấy có kho báu được chôn giấu, Đức Phật bảo A-nan:

– Đây là rắn độc.

A-nan bạch Phật:

– Vâng, đây là rắn rất độc.

Bấy giờ, có một người nông dân đang cày ruộng, nghe Phật bảo A-nan là có rắn độc, ông ta suy nghĩ: “Ta sẽ đến xem vì sao mà Sa-môn cho là rắn độc”. Người nông dân đi thẳng đến bên bờ ruộng, thấy có khối vàng ròng, ông ta nói một mình:

– Cái mà Sa-môn bảo là rắn độc chính là vàng ròng!

Ông ta liền gom hết số vàng này đem về để trong nhà. Người nông dân này trước đây rất nghèo khổ, cơm ăn, áo mặc hoàn toàn thiếu hụt, nhờ được số vàng này mà trở nên giàu có, cơm áo dư dật.

Nhà vua tra xét nghi ngờ chuyện ông ta bỗng nhiên giàu to, bắt trói nhốt vào ngục. Số vàng nhặt được trước đây, người nông dân nạp hết cho vua mà vẫn không thoát khỏi tội, sẽ bị tử hình. Ông ta than lớn:

– Rắn độc A-nan! Rắn rất độc Thế Tôn!

Người chung quanh nghe được, đem tâu vua.

Nhà vua cho gọi người ấy đến hỏi:

– Vì sao ngươi nói rắn độc A-nan, rắn rất độc Thế Tôn?

Người nông dân đáp:

– Hôm đó, tôi đang cày ruộng, nghe Đức Phật bảo A-nan: “Đây là rắn độc”. A-nan đáp: “Vâng! Đây rắn rất độc”. Bây giờ tôi mới hiểu rõ rằng đúng thật là rắn độc.

Người nông dân liền nói kệ:

Lời Phật dạy: không hai
Bảo rằng là rắn độc
A-nan bạch Thế Tôn
Thật là rắn rất độc.
Sức mạnh của rắn độc
Nay tôi mới chứng biết
Đối với Phật Thế Tôn
Càng kính tin hơn nữa.
Nay tôi gặp nguy khốn
Cho nên nhắc lời Phật.
Nọc độc của rắn độc
Chỉ chích vào một người
Họ hàng và vợ con
Tôi trai và tớ gái
Tất cả không khổ não
Chỉ một người gánh chịu
Còn nọc độc tiền của
Lan khắp cả quyến thuộc.
Nay đối với tiền tài
Cùng họ hàng thân thích
Tôi coi như rắn độc
Đang nổi cơn giận dữ.
Người trí hãy mau lìa
Như tránh con rắn độc
Hãy mau cầu xuất gia
Đi vào nơi rừng núi.
Ai người có trí tuệ
Thấy nghe việc thế này
Mà còn đắm tiền của
Mê loạn hoặc tâm người
Như tôi tưởng lợi lớn
Dè đâu bị khổ đau.

Nhà vua nghe kệ xong, biết rõ tâm niệm người nông dân đã tin hiểu sâu xa lời Đức Phật dạy. Vua bèn nói kệ:

Nay ngươi đã kính tin
Đấng Đại Tiên thương xót
Lời Ngài nói chân thật
Chưa từng có hai lời.
Của chôn giấu trước đây
Ta trả hết lại ngươi
Ta lại đem của cải
Cấp dưỡng thêm cho ngươi.
Kính tin Đức Điều Ngự
Vì Thiện Thệ nói thật
Được Đại Phạm kính tin
Bạt-lê, A-tu-la,…
Thiên vương và Đế Thích
Ta đây và các vua
Hào tộc, Bà-la-môn,
Sát-lợi ở trong thành
Ai cũng đều kính tin
Bậc tri kiến tôn thắng.
Vì cùng nhau kính tin
Hiện tại được hoa báo
Tin điều đáng tin nhất
Nên được quả bậc nhất.

Chương 35

Những người mong cầu lợi lộc có lúc được, có lúc không. Người có tâm lành chân thật thì không mong cầu mà tự được lợi ích chân thật. Còn người không có tâm lành chân thật vì mong được lợi thì phải khởi tâm lành chân thật.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa có một vị vua. Khi ấy, con của quan phụ tướng sớm mất cha, vì còn thơ dại nên chưa được nhận quyền thừa kế. Tiền tài đã hết, lại không có người hướng dẫn yết kiến nhà vua, đứa bé sống thật nghèo khổ. Người con dần dần khôn lớn, có tài phụ tướng, trị dân, xử đoán, tất cả đều giỏi. Tuổi vừa trưởng thành, đang tuổi tráng niên, thân hình cao lớn, sức lực mạnh mẽ, tài nghệ đầy đủ, anh ta suy nghĩ: “Hiện giờ ta quá nghèo khổ, biết phải làm gì đây? Ta lại không thể làm những nghề thấp hèn được. Ta thật vô phước, có đủ tài nghệ mà không được thi thố, lại không sinh trong nhà thấp hèn!”. Anh ta nói kệ:

Nghiệp đến biến đổi ta
Mới nghèo khốn như vậy
Nghề nghiệp của mẹ cha
Nay không chỗ sử dụng
Còn nghề nghiệp thấp hèn
Chẳng phải việc ta làm.
Nếu ta không phước đức
Nên sinh nhà thấp hèn
Tuy sinh nhà giàu sang
Nhưng khốn khổ như thế.
Nghề hèn rất dễ học
Nhưng ta không thể làm
Nên làm nghề ăn trộm
Khiến người không hay biết?
Hay làm nghề ăn cướp
Che giấu người không biết
Hông buộc hai ống tên
Và cầm kiếm thật bén
Bó chân, tay nắm cung
Các thứ đều đầy đủ
Giống như con sư tử
Chẳng biết sợ là gì.

Nói kệ xong, người con của quan phụ tướng suy nghĩ: “Nếu như ta cướp của ở những nơi khác sẽ làm cho những người đó nghèo thiếu, chi bằng ta đến cướp của vua”. Nghĩ rồi, anh ta lẻn vào cung, đến chỗ vua nằm. Nhà vua biết có kẻ cướp nhưng sợ không dám lên tiếng. Kẻ cướp lấy y phục của nhà vua và lấy các chuỗi ngọc gom lại một chỗ. Lúc đó, cạnh đầu vua có một cái bình nước kế bên, lại có tro. Bị cơn đói khát ép ngặt, tên cướp cho rằng tro là đường mật nên bỏ vào nước khuấy để uống. Uống no nê xong mới biết đó là tro. Anh ta nghĩ: “Tro còn có thể ăn được, huống là những vật khác. Ta thà ăn cỏ chứ sao lại cướp? Tổ tiên ta từ xưa đến nay đâu có làm nghề này!”. Tên cướp liền bỏ lại hết các vật rồi quay về nhà.

Nhà vua thấy tên cướp đi ra mà không mang theo vật gì bèn khen rằng: “Lành thay!”, liền gọi người ấy lại hỏi:

– Vì sao ngươi đã lấy các vật này rồi bỏ lại mà đi tay không ra như thế?

Chàng trai tâu:

– Tâu đại vương, cho phép tôi được nói. Chàng liền nói kệ:

Vì sao làm phi lý
Chỉ vì đói khát thôi
Nhờ nước tro no lòng
Thế nên dứt tâm cướp.
Nay biết đói khát này
Dễ tìm cách ngăn dứt
Tôi uống nước tro rồi
Ném bình xuống dưới đất
Sinh hổ thẹn, ăn năn
Không còn gây điều ác.
Xin đại vương biết cho
Tôi chẳng phải thường dân
Là con quan phụ tướng
Do cảnh nhà cùng khốn
Nên lẻn vào cung vua
Mà làm việc phi pháp.
Từ nay trở về sau
Thường muốn uống nước tro
Ăn cỏ để nuôi sống
Không làm việc trộm cắp.
Tổ tiên, gia đình tôi
Vốn thuộc nhà lễ giáo
Thà hủy bỏ thân này
Không quên lời dạy xưa.

Vua thấy việc này, khen ngợi là điều chưa từng có. Khen ngợi con dòng cháu giống chân thật không luống dối. Tuy có lỗi nhưng kịp thời sửa đổi ngay.

Vua bèn nói kệ:

Nghèo nàn làm nhụt chí
Bỏ mất tâm hổ thẹn
Người thấp hèn xấu xa
Nhanh chóng gây nghiệp ác
Dùng móc pháp nhà mình
Chế ngự voi làm càn
Ngươi đã tự nén lòng
Không trái phép gia giáo
Làm theo hạnh người hiền
Noi theo gương cha ngươi.
Nay ngươi bỏ tâm si
Làm được việc khó làm
Ta rất là vui mừng
Phong ngươi làm phụ tướng.
Không cần xem xét lại
Ta đã thấy hạnh ngươi
Tâm vững, chí mạnh mẽ
Có trí tuệ, năng lực
Nay ta biết rất rõ
Việc này thật khó có
Tài năng hơn cha ngươi
Nhờ tâm lành chân thật.

Thế nên người hiểu biết hãy làm điều chân thật, không nên luống dối.

Chương 36

Hiện tại, kết sử tuy không còn sinh khởi, nhưng nếu chưa dứt hết kết sử thì kết sử cũng có lúc sẽ xuất hiện trở lại. Như đổ nước lạnh vào nước sôi.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một vị thầy và một người đệ tử. Vào một ngày mùa đông trong căn thất ấm áp, hai thầy trò thấy có một đống lửa mà không thấy ngọn lửa và khói. Thầy bảo đệ tử:

– Con có thấy lửa này không có ngọn lửa và khói chăng?

Người đệ tử thưa:

– Thưa con có thấy. Vị thầy bảo:

– Con bỏ củi khô vào thì khói sẽ bốc lên ngay. Lại nói:

– Dùng miệng thổi thì ngọn lửa sẽ bốc lên. Vị thầy vì đệ tử nói kệ:

Lửa không ngọn lửa, khói
Tâm từ quán bất tịnh
Hiện tại kiết không sinh
Như lửa không ngọn, khói
Nếu lửa gặp củi khô
Ngọn, khói đồng thời sinh,
Lửa tâm gặp nhân duyên
Khi gặp ác tri thức
Khói giận tức liền sinh
Nếu khi thấy sắc đẹp
Lửa tham dục bốc cao,
Thế nên hãy dứt bỏ
Đầy đủ ba thứ minh
Để dứt tham, sân, si
Nên riêng tu tinh tấn.
Minh hạnh túc dứt tâm
Có kết sử không mọc
Dụ như đường thường đi
Các loại cỏ không mọc,
Tham dục và giận tức
Chưa gặp duyên không khởi
Gốc rễ chưa nhổ bỏ
Gặp duyên lại phát khởi,
Dụ như bệnh sốt rét
Bốn ngày mới tới cử
Có lúc hai, ba ngày
Gặp duyên lại tái phát,
Giống như định thế tục
Tạm nén kiết không khởi
Hoàn toàn không tướng bệnh.
Dụ như rễ cây độc
Không nhổ, tược lại sinh
Như người thẹn tóc bạc
Cạo luôn cả tóc đen
Cạo tóc chẳng bao lâu
Tóc bạc mọc trở lại
Không dứt hẳn kết sử
Việc ấy cũng như vậy.
Dục kiết và giận tức
Cửa Giới hạnh ngăn cấm
Đối trị ẩn không khởi
Không gây nghiệp thân, miệng,
Nạn vọng tưởng sinh dần
Sau, kết sử lại khởi
Hủy phạm các giới hạnh
Tham đắm năm thứ dục
Như rắn trốn vào hang
Bò ra liền cắn người.

Chương 37

Bố thí vì giải thoát chứ không vì vật chất của cải. Nếu vì vật chất, của cải thì không gọi là bố thí. Nếu vì giải thoát thì chứng được vô sinh và được vui Niết-bàn. Thế nên người hiểu biết vì mong cầu giải thoát mà thực hành bố thí.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có người đàn-việt đến Tăng phường mở hội. Vị đạo nhân quen biết với đàn-việt thưa với vị Thượng tọa:

– Hôm nay đàn-việt cúng dường một bữa ăn ngon, mong thầy hãy vui lòng nói pháp cho đàn- việt nghe.

Vị Thượng tọa đã chứng được ba Minh, sáu Thông và tám pháp Giải thoát, biết rõ tâm người khác, nên quán sát sâu xa lý do vì sao mà thiết hội này, bèn biết chỉ vì muốn có lợi lộc về vật chất mà người đàn-việt mở hội này.

Bấy giờ, Thượng tọa dạy người đàn-việt này về nỗi khổ trong ba đường ác. Ngài nói:

– Lành thay! Lành thay! Đàn-việt hôm nay ông đã thiết trai cúng dường rất đúng thời. Sắc, hương, mỹ vị… tất cả đều đầy đủ, rất là thanh tịnh, trong ba đường ác ông không thiếu đường nào.

Bấy giờ, vị đạo nhân quen biết thưa với Thượng tọa:

– Vì sao Thượng tọa lại chú nguyện cho ông ta, trong ba đường ác đều không thiếu đường nào?

Thượng tọa nói với vị đạo nhân:

– Tuy ta già cả, nói pháp nhầm lẫn, nhưng đàn- việt này không giữ giới, bị kết sử sai khiến. Ta quán sát tâm đàn-việt nên mới nói lời ấy. Vị đàn- việt này cúng dường là mong được cái vui dục và của báu, súc sinh.

Thượng tọa nói kệ:

Người thí sinh chỗ nào
Của cải rất là nhiều
Vì ỷ nhiều tiền của
Làm sinh khởi kiêu mạn.
Kiêu mạn vượt pháp độ
Kẻ phàm phu mù tối
Vì vượt quá pháp độ
Nên đọa ba đường ác,
Ở trong ba đường ác
Giống như nhà cửa mình
Nếu sinh lên trời, người
Giống như nhà ở tạm.
Nên giữ giới, bố thí
Đều hưởng vui Niết-bàn
Giữ giới được sinh Thiên
Thí sẽ đủ các vật.
Bố thí vì giải thoát
Ắt sẽ hết khổ đau
Thí như trồng ngó sen
Hoa lá thảy đều được
Rễ sen cũng ăn được.
Tu bố thí, giữ giới
Gần gũi rừng giải thoát
Vui sướng dụ hoa, lá
Rễ sen dụ giải thoát
Thế nên tu giới, thí
Ắt phải vì giải thoát
Không vì lợi thế gian.

Chương 38

Được làm thân người là khó, lìa khỏi các nạn cũng là khó. Nếu đã xa lìa các nạn, thường phải nỗ lực tinh tấn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa có một chú bé nghe trong kinh dạy:

“Như con rùa mù gặp bọng cây nổi, việc này rất khó.” Một hôm, chú bé đục một miếng ván làm thành cái lỗ có thể đút đầu vào, rồi vất miếng ván xuống ao. Chú bé lội trong ao, cúi đầu, ngẩng đầu những mong chui vào lỗ miếng ván. Do nước đẩy, miếng ván trôi lình bình cho nên không thể chui vào lỗ được. Chú bé liền nghĩ: “Thật là chán ghét! Khó thay được làm thân người. Đức Phật dùng biển rộng mênh mông làm ví dụ. Bọng cây nổi nhỏ quá mà con rùa lại bị mù không thấy đường, lại trăm năm mới trồi lên một lần, rất khó gặp gỡ. Ta đang ở trong cái ao nhỏ mà cái lỗ ván lại lớn, mình còn có hai mắt đầy đủ vậy mà hằng ngày nhô đầu cả trăm lần mà còn không gặp được lỗ ván, huống gì con rùa kia mù làm sao gặp được lỗ ván.”

Chú bé nói kệ:

Biển cả rất rộng lớn
Bọng cây nổi lại nhỏ
Rùa trăm năm mới nổi
Rất là khó gặp được.
Nay ta trong ao nhỏ
Lỗ ván nổi lại to
Đầu luôn trồi lên nước
Còn không gặp lỗ ván
Rùa mù gặp cây nổi
Chui được rất khó thay!
Từ đường ác làm người
Khó được cũng như vậy
Nay ta được thân người
Phải nên đừng buông lung.
Hằng sa số Đức Phật
Chưa từng gặp bao giờ
Hôm nay được nghe nhận
Lời của Phật Thế Tôn
Pháp mầu do Phật nói
Con nhất định tu hành,
Nếu khéo léo tu tập
Sự cứu giúp rất rộng
Chẳng người làm, mình được
Thế nên tự tinh tấn.
Nếu rơi vào tám nạn
Làm sao thoát khỏi ra?
Nghiệp thế gian đeo đuổi
Bị rơi vào đường ác
Nay ta nay nên xa lánh
Được thoát ngục ba cõi.
Nếu không thoát ngục này
Làm sao được giải thoát?
Bao nhiêu đường súc sinh
Vô lượng kiếp lâu dài
Địa ngục và ngạ quỉ
Tăm tối, khổ não đầy
Nếu ta không gắng tu
Làm sao ra khỏi được
Các đường ác hiểm nạn?
Ngày nay được thân người
Không ra khỏi mé khổ
Chẳng lìa ngục ba cõi
Phải siêng tu phương tiện
Ắt lìa ngục ba cõi
Nay con xin xuất gia
Ắt sẽ được giải thoát.

Chương 39

Tiền tài khó xả bỏ. Nếu người hiểu biết tu tập bố thí chút ít, chớ có ý khinh thường họ.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, ở nước Tu-hòa-đa có vị vua tên Tát- đa-phù. Một hôm, vua đi săn tình cờ gặp một ngôi tháp, liền cúng dường ngôi tháp ấy năm đồng tiền. Có một người Chiên-đà-la từ xa trông thấy khen rằng:

– Lành thay!

Vua liền sai người đến bắt người này đem đến chỗ vua. Nhà vua hỏi:

– Có phải ngươi thấy ta cúng dường ít cho nên chê cười phải không?

Người Chiên-đà-la tâu:

Xin đừng làm tôi sợ, rồi tôi sẽ nói: Trước đây tôi là tên cướp ở những đoạn đường nguy hiểm. Tôi bắt được một người, hắn ta vội vàng nắm bàn tay lại. Tôi suy nghĩ: “Người này nắm chặt tay, chắc là có tiền vàng”. Tôi bảo mở tay ra, nhưng người ấy không chịu. Tôi cầm cung tên để dọa hắn ta và bảo mở tay ra, nhưng hắn cũng dứt khoát không chịu. Tôi liền giương cung về phía hắn. Chỉ vì tham của cho nên hắn bị bắn chết. Giết người này xong, tôi lấy được một đồng tiền đồng. Hắn thà tiếc một đồng tiền chứ không tiếc thân mạng. Nay đại vương không bị ai ép buộc mà cúng dường năm đồng tiền vào tháp Phật, cho nên tôi khen ngợi: “Lành thay!”

Người Chiên-đà-la liền nói kệ:

Giương chiếc cung thật cong
Định hại mạng hắn ta
Hắn thà mất thân mạng
Không chịu mất một tiền.
Tôi thấy như người này
Bỏ mạng, không bỏ tiền
Cho nên bây giờ tôi
Thấy có người bỏ tiền
Sinh ý tưởng ít có
Ngợi khen việc khó làm.
Không thấy có đao cung
Ép buộc đại vương đây
Cũng không có sợ hãi
Tự ý bỏ khó bỏ.
Khổ tìm mới có tiền
Cho nên hôm nay tôi
Thấy có người xả của
Sinh tâm chưa từng có.
Tôi tự thấy việc ấy
Khổ mấy cũng không bỏ
Xin đại vương biết cho
Tâm sinh tham khó xả.

Chương 40

Khéo quán sát việc mình làm thì ngay lúc ấy có lỗi lầm nhưng sau chắc chắn được nhiều lợi ích.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một thầy Tỳ-kheo thường bị trộm cắp. Một hôm, thầy Tỳ-kheo ở trong nhà đóng chặt các cửa lại. Tên trộm lại đến gõ cửa gọi. Thầy Tỳ- kheo đáp:

– Mỗi khi thấy ngươi, ta rất kinh sợ. Ngươi hãy đưa tay vào phía trong, ta sẽ cho ngươi đồ đạc.

Tên trộm liền đưa tay vào bên trong cửa, thầy Tỳ-kheo liền dùng dây trói chặt tay hắn ta vào cây cột, rồi mở cửa cầm gậy đánh cho hắn một trận. Xong trận đòn đầu tiên, thầy Tỳ-kheo nói:

– Quy y Phật.

Tên trộm vì sợ quá, nói theo:

– Quy y Phật.

Thầy Tỳ-kheo đánh gậy thứ hai, nói:

– Quy y Pháp.

Tên trộm sợ chết nên lại nói:

– Quy y Pháp.

Thầy Tỳ-kheo đánh lần thứ ba, lại nói:

– Quy y Tăng.

Tên trộm sợ quá, cho nên nói:

– Quy y Tăng.

Hắn suy nghĩ: “Đạo nhân này chỉ quy y có mấy lần chứ nếu nhiều nữa thì chắc chắn ta sẽ chết, không còn nhìn thấy cõi đời này nữa”.

Thầy Tỳ-kheo mở trói cho tên trộm, tên trộm vì bị đánh cho nên thân thể đau nhức. Lâu lắm hắn mới đứng dậy được và xin được xuất gia. Có người hỏi:

– Trước đây anh làm ăn cướp đã gây ra biết bao nhiêu việc ác, vì lý do gì mà nay lại xuất gia tu đạo như thế?

Tên trộm đáp:

Tôi cũng đã suy xét sự lợi ích của pháp Phật, rồi mới xuất gia. Hôm nay tôi được gặp Thiện tri thức lấy gậy đập cho ba trận, chỉ còn một chút nữa là mạng sống không còn. Đức Như Lai Thế Tôn đúng là Bậc Nhất Thiết Trí. Nếu ngài dạy cho các đệ tử bốn lần quy y thì mạng tôi coi như chấm dứt. Đức Phật có lẽ từ xa thấy rõ sự việc này nên Ngài dạy các thầy Tỳ-kheo xuất gia chỉ đánh kẻ trộm ba lần, cho tôi khỏi chết. Thế nên, Đức Thế Tôn chỉ dạy có ba quy y chứ không dạy bốn quy y. Đức Phật xót thương tôi cho nên dạy ba quy mà không dạy bốn quy.

Tên trộm liền nói kệ:

Hẳn Bậc Nhất Thiết Trí
Vì lòng thương xót tôi
Nên nói ba quy y
Không dạy bốn quy y
Vì ở trong ba cõi
Nên Phật dạy: Ba quy
Nếu Ngài dạy đến bốn
Tôi còn đâu quy y.
Nay, tôi thật đáng thương
Thân mạng dứt liền đó
Tôi thấy Phật Thế Tôn
Nhìn xa sự việc này.
Sinh tâm chưa từng có
Liền bỏ hẳn tâm cướp
Có người giải việc thô
Có kẻ ngộ việc tế.
Người thô ngộ việc thô
Kẻ tế ngộ việc tế
Do vì tâm tôi thô
Nên giải ngộ việc thô
Tôi thấu rõ việc này
Vì thế xin xuất gia.

QUYỂN 7

Chương 41

Lợi dưỡng làm rối loạn việc hành đạo. Nếu không màng đến lợi dưỡng thì sẽ khéo quán sát được tâm giận tức.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa có một thầy Tỳ-kheo sống trong khu vườn kia, người dân trong các thành phố, ấp, xóm làng… đều đến cúng dường. Có người đồng xuất gia sinh lòng ganh ghét, chê bai. Đệ tử của thầy Tỳ-kheo nghe những lời chê bai này, bèn đến bạch với thầy:

Thầy Tỳ-kheo nọ chê bai Hòa thượng đấy. Hòa thượng nghe như vậy, liền gọi thầy Tỳ- kheo ấy đến, dùng lời êm dịu an ủi và biếu y cho thầy ấy. Các đệ tử bạch thầy:

– Ông thầy chê bai kia là kẻ đáng ghét của chúng ta, tại sao Hòa thượng lại an ủi và đem y cho ông ấy?

Hòa thượng đáp:

– Vị Tỳ-kheo phỉ báng kia có ân đối với ta nên ta phải cúng dường.

Hòa thượng liền nói kệ:

Mưa đá hại lúa má
Có người ngăn chận được
Chủ ruộng rất vui mừng
Đem của cải đền ân,
Phỉ báng là bạn thân
Không gọi kẻ oán ghét
Ngăn mưa lợi dưỡng ta
Ta nên đền ân này.
Mưa đá hại một đời
Lợi dưỡng hại nhiều kiếp
Mưa đá hại vật chất
Lợi dưỡng hại tu đạo,
Ruộng bị mưa đá hại
Ắt còn lại ít nhiều
Người bị lợi dưỡng hại
Công đức đều mất hết.
Như Đề-bà-đạt-đa
Bị mưa lợi dưỡng hại
Bởi ông ta tham đắm
Không mảy may pháp lành.
Việc ác rất lẫy lừng
Khi chết đọa đường ác
Lửa lợi dưỡng bốc cao
Còn hơn tâm độc ác
Sư tử và cọp sói
Người trí quán sát rồi
Thà bị chúng làm hại
Không để lợi dưỡng hại.
Người ngu tham lợi dưỡng
Không thấy tội ác kia
Lợi dưỡng xa đạo Thánh
Hạnh lành mất không sinh.
Phật đã dứt kết sử
Mở hết kiết ba cõi
Công đức đã đầy đủ
Còn phải tránh lợi dưỡng.
Đấng Sư Tử trong chúng
Đã nói ra lời này:

Lợi dưỡng chớ gần ta
Ta cũng xa lánh nó.
Người tâm trí sáng suốt
Đâu ai tham lợi dưỡng
Lợi dưỡng rối loạn tâm
Làm hại hơn kẻ thù.
Như dùng dây thô giết
Cắt da, nát thịt xương
Phá tủy mới chịu thôi
Lợi dưỡng hơn dây thô
Cắt đứt da giữ giới
Phá hoại thịt thiền định
Làm gãy xương trí tuệ
Làm nát tủy tâm lành.
Cũng thí như đứa trẻ
Bốc lửa nóng định ăn,
Như cá nuốt mồi câu
Như chim bị sa lưới,
Các thú rơi hố sâu
Đều do bởi tham mồi
Tỳ-kheo tham lợi dưỡng
Cũng như kia khác gì.
Miếng mồi quá bé nhỏ
Gặp họa lại quá lớn
Dối gạt và nịnh hót
Ẩn náu trong lợi dưỡng.
Gần gũi sự mê loạn
Mầm mống của tai họa
Giống như gãi mụt ghẻ
Càng gãi thì càng ngứa
Kiêu căng, dục, buông lung
Đều do lợi dưỡng sinh.
Người này vì chúng ta
Ngăn chặn giặc lợi dưỡng
Ta vì ý nghĩa đó
Nên tận tâm cúng dường
Thiện tri thức như thế
Sao gọi đáng ghét được?
Bởi vì tham lợi dưỡng
Không ưa nơi vắng lặng
Tâm chạy theo lợi dưỡng
Ngày đêm không ngừng nghỉ:
Nơi ấy có cơm áo
Người đó bạn thân ta
Ắt đến mời thỉnh ta.
Tâm thường chạy theo cảnh
Làm tâm không vắng lặng
Không thích chỗ thanh vắng
Thường ưa chốn đông người
Lợi dưỡng làm hủy hoại
Chẳng quý pháp thanh vắng
Vì bỏ pháp vắng lặng
Không gọi là Tỳ-kheo
Cũng chẳng gọi Cư sĩ.

Chương 42

Muốn đạt đến lậu tận thì vấn đề dạy dỗ và tu học phải tùy theo căn cơ khác nhau.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, Tôn giả Mục-liên dạy hai người đệ tử chuyên ròng tu thiền nhưng không đạt kết quả. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi ngài Mục-liên:

– Hai vị đệ tử của thầy chứng được thắng pháp chưa?

Ngài Mục-liên đáp:

– Chưa được.

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi:

– Thầy dạy họ pháp môn gì?

Ngài Mục-liên đáp:

– Tôi dạy một người quán bất tịnh và một người đếm hơi thở. Nhưng tâm ý của họ quá trì trệ nên không giác ngộ.

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi ngài Mục-liên:

Hai vị đệ tử đó từ dòng họ nào mà đi xuất gia?

Ngài Mục-liên nói:

– Một người là thợ giặt và một người nữa là thợ luyện vàng.

Ngài Xá-lợi-phất bèn bảo ngài Mục-liên:

– Đối với người thợ luyện vàng, thầy nên dạy họ pháp đếm hơi thở, còn người thợ giặt thầy nên dạy họ quán bất tịnh.

Tôn giả Mục-liên bèn dạy đệ tử theo pháp như thế, họ liền siêng năng tu tập và chứng quả A-la- hán. Sau khi chứng quả, họ rất vui mừng, hớn hở nói kệ ca ngợi Tôn giả Xá-lợi-phất:

Bậc chuyển pháp thứ hai
Đại tướng của pháp Phật
Đạt trí tuệ trên hết
Trong các vị Thanh văn
Có năng lực trí tuệ,
Và giác ngộ hơn hết.
Hay thay Xá-lợi-phất!
Chỉ bày đường giải thoát
Tùy thuận theo thói quen
Dắt dìu khai ngộ con
Cả hai chóng giải thoát
Thực hành cảnh giới mình
Đạt được điều nên đạt
Thực hành cảnh giới khác
Như cá nằm trên đất.
Con thường quen giặt áo
Màu trắng bên bờ sông
Tâm trụ trong xương trắng
Giống nhau dễ khai ngộ
Không cần dùng công lắm
Cũng mau vào tâm con,
Thợ vàng thường thổi bệ
Hơi ra vào là gió
Đếm thở dễ thích hợp.
Thói quen của chúng sinh
Ai cũng có chỗ mạnh
Nay Ngài Xá-lợi-phất
Giềng mối trong pháp Phật.
Phật nói Xá-lợi-phất
Bậc chuyển pháp thứ hai
Thích ứng đúng như thật
Tâm đã được tự tại
Khiến cho hai chúng con
Khéo biết nẻo đường thiền.
Con như voi chưa thuần
Đại tướng trong pháp Phật
Dạy bảo điều phục con
Giúp đến nơi an ổn
Nên con rất vui mừng.

Chương 43

Người căn lành thuần thục, dù có lẩn tránh nơi nào thì Đức Như Lai đại bi vẫn không bao giờ lìa bỏ họ.

Tôi từng nghe:

Xưa kia Đức Như Lai là ruộng phước tốt đẹp vô thượng, mọi việc Ngài làm đều đem đến phước đức, lợi ích cho chúng sinh, chẳng phải như ruộng của thế gian. Muốn nói lên việc thực hành ruộng phước khác với ruộng thế gian thì người thực hành ruộng phước (là Đức Như Lai) đến nhà các đàn- việt thuộc giai cấp thấp hèn, vào thành Xá-vệ khất thực. Cho đến khi làm Bồ-tát, vào thành Vương xá khất thực. Trong thành, tất cả những người già trẻ, nam nữ, lớn nhỏ, trông thấy dung nghi Ngài đều sinh tâm yêu kính. Ngoài ra, như trong kinh Phật Bản Hạnh có ghi:

Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, chúng sinh nhàm chán việc ác, hạt giống căn lành rất dễ nảy mầm. Vì muốn cứu độ mọi người cho nên Đức Phật đã ứng hóa vào thành khất thực. Ngài nói kệ:

Nếu với tâm tin sâu
Kính lễ dưới chân Phật
Người này đối sinh tử
Chẳng còn vướng lâu nữa,
Làm được ruộng phước lành
Cúng dường tạo nhân duyên
Ắt được quả báo lớn
Với tâm kính tin dù
Cúng đất vào bát Phật
Cũng được có quả báo.

Khi Đức Như Lai vào thành thị hiện thần thông tất cả nhân dân cùng reo vui:

– Đức Phật vào thành!

Ngoài ra, như trong các kinh khác ghi:

Lúc Đức Phật vào thành, tất cả các thứ đều trang nghiêm đầy đủ. Mọi người nam nữ, già trẻ nghe tin Phật vào thành, tất cả đều xôn xao, giống như biển lớn gió làm nổi sóng phát ra âm thanh lớn, cõi Diêm-phù chưa có hiện tượng như vậy.

Bấy giờ, trong thành có người dọn phân dơ tên là Ni-đề, mình mẩy dơ bẩn, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới, bẩn thỉu. Nếu trên đường đi gặp những mảnh vải xấu, anh ta liền nhặt đem về vá áo, điều này nói lên nghiệp bất thiện đời trước. Ni-đề vác vò phân nặng trên lưng định đến đổ ở chỗ thật xa, giữa đường bỗng gặp Đức Phật, anh ta chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài như thấy biển rộng bao la. Vầng ánh sáng tròn bao quanh Phật một tầm, trang nghiêm thân Đức Phật, giống như khối vàng ròng tinh khiết, không có vết nhơ. Ca-sa Ngài đắp màu như chiên-đàn đỏ, cũng như tòa lâu đài báu, chiêm ngưỡng mãi không chán, nên anh nói kệ:

Sắc vàng như hoa nở
Y màu đỏ chiên-đàn
Y phục thật ngay ngắn
Trong sạch như gương đồng
Như trăng sáng mùa thu
Mặt trời trong hư không
Thế Tôn ngự giữa chúng
Thanh tịnh như trăng thu.

Bấy giờ, chúng sinh thấy Phật Thế Tôn sinh tâm rất vui mừng. Loài súc sinh thấy Phật, đôi mắt còn hớn hở, huống chi là loài người, cho nên có bài kệ:

Tôn nhan thật khó sánh
Thâm tâm rất kính yêu
Đáng gọi Đấng Thiền Định
Oai quang vàng rực rỡ
Tâm tà kiến ác độc
Thấy Phật cũng vui mừng
Chiêm ngưỡng hình tướng Ngài
Mắt nhìn không nhàm chán.
Thấy Phật tâm vui mừng
Thân Phật đều chiếu sáng
Càng nhìn càng sáng hơn,
Thân thể Ngài viên mãn
Không chỗ nào đáng chê
Dòng họ đáng ca ngợi
Không ai chê bai được
Bậc trượng phu trí sáng
Tiếp nối sinh giống tốt.
Người đời trang sức báu
Để làm đẹp thân hình
Thân Phật đủ tướng đẹp
Chẳng cần trang sức ngoài
Tướng đẹp, người yêu thích
Vẻ đẹp thường theo thân.
Người đời dùng chuỗi ngọc
Chẳng được mãi đẹp luôn
Hoa sen đều nở thắm
A-du-già tốt tươi
Trang sức trên mặt đất
Đẹp ấy không bằng Phật.
Mắt trong, các tướng tốt
Rực rỡ trang nghiêm thân
Dụ như áo giáp ngọc
Trang sức bằng các báu,
Cũng như trong ao nước
Làm đẹp bằng các hoa
Các loại như thế sánh
Không bằng thân Như Lai.
Hình thể Đấng Thiện Thệ
Tướng tốt thật rực rỡ
Cũng như trong hư không
Lúc không có mây che
Muôn sao trang điểm trăng.
Đấng khéo làm việc tốt
Chiêm ngưỡng không chán đủ
Như uống vị cam lộ
Như trăng tròn, trong vắt
Được mọi người mến yêu.

Trang nghiêm bằng tướng mầu
Khéo điều phục oai đức
Muôn đức đều đủ đầy
Ai mà ca ngợi hết.
Các lỗi xấu đã hết
Thí như trong sinh tử
Các con rối hiện hình
Không bao giờ biến được
Dung nghi giống như Phật,
Tuy làm con rối đẹp
Chẳng bằng thân tướng Phật
Tướng nhiệm mầu của Phật
Trời, người không sánh bằng.

Lại nữa, không thể dùng ngôn từ khen ngợi cho hết được về tướng tốt nhiệm mầu của Đức Thế Tôn. Các hạnh đầy đủ, công đức trọn vẹn, nên nói kệ khen:

Những điều Như Lai dạy
Được người trí kính trọng
Cung cách và cử chỉ
Không hề có lỗi lầm.
Hơn hết trong Mâu-ni
Gặp việc chưa từng có
Tuệ giác không dao động
Chê khen, tâm không khác
Vì có mười năng lực
Hiện tướng rất vắng lặng
Tròn đủ và ngay thẳng
Nhóm công đức lợi ích.
Bước đi thật khoan thai
Được mọi người yêu thích
Lời nói nghĩa sâu rộng
Xét trông rất chắc thật
Có trình tự rõ ràng.
Tất cả đều buông bỏ
Không tham đắm ăn uống
Tóm lại mà nói thì
Không gì chẳng đáng yêu.

Lúc đó, Ni-đề thấy Đấng Điều Ngự Vô Thượng các căn vắng lặng và các thầy Tỳ-kheo các căn không tán loạn vây quanh theo hầu Ngài, tâm càng yêu kính hơn. Ni-đề nói kệ:

Các căn đều vắng lặng
Người điều căn vây quanh
Đắp y màu mới nhuộm
Trước sau đi theo người.
Đạo thù thắng dòng Thích
Thân vàng không dao động
Bốn chúng thường vây quanh
Như mây vờn mặt nhật.

Ni-đề trông thấy Đức Phật, tự thẹn mình nhơ nhớp thấp hèn, trên vai lại vác vò phân, thì làm sao dám gặp Phật, bèn quay bước rẽ sang con đường khác để không gặp Phật, nhưng trong lòng buồn khổ vô cùng: “Vì đời trước ta không làm việc phước, bị bao điều xấu ác kéo lôi nên nay phải chịu nổi khổ này. Ta không buồn với cái nghề thấp hèn này, nhưng thấy mọi người đều được đến chỗ Phật, còn ta vì bẩn thỉu, hôi thối, cho nên không đến được bên Ngài”. Vì thế nên Ni-đề bị lửa buồn phiền thiêu đốt tâm tư.

Ni-đề nói kệ:

Phật ra đời rất khó
Khó có thể gặp được
Trời, người, A-tu-la
Bát bộ đều vây quanh,
Nay ta tuy được gặp
Hôi thối chẳng dám gần
Rõ ràng do nghiệp ác
Tội báo xả bỏ ta.

Nghĩ xong, Ni-đề liền rẽ vào ngõ khác và tránh thật xa. Nhưng lòng Đại bi bình đẳng của Đức Phật Thế Tôn vẫn dõi theo bước chân của Ni-đề không rời bỏ. Ngài liền hiện thân trong con hẻm kia và đứng ngay trước mặt Ni-đề. Ni-đề thấy vậy, vô cùng kinh sợ, thầm nghĩ: “Vừa rồi ta đã tránh Đức Phật nhưng bây giờ lại gặp Ngài, ta phải biết tránh nơi nào đây?”.

Vừa lo âu, vừa sợ sệt, Ni-đề tự trách: “Ta thật bạc phước, chư Phật thơm tho thanh khiết, làm sao thân bẩn thỉu này dám đến gần Phật? Nếu ta đến gần Ngài, thì tội càng thêm nặng. Do nghiệp ác đời trước khiến cho ta đến nỗi như vậy”.

Ni-đề nói kệ:

Trời dùng hương chiên-đàn
Hoa Mạn-đà thượng diệu
Các thứ vật cúng dường
Đem đến dâng Thế Tôn,
Khi Đức Phật vào thành
Có nước thơm rưới đất
Trời, người đều cúng dâng
Thật là Đấng Ứng Cúng,
Còn ta mang vò phân
Sao dám đến trước Phật!

Ni-đề lại nghĩ: “Ta phải làm cách nào cho thích hợp bây giờ?”. Ni-đề liền bỏ Phật, đi vào con hẻm khác. Đức Như Lai cũng lại hiện đến trong con hẻm ấy. Ni-đề thấy vậy càng ngạc nhiên hơn, bèn nói kệ:

Ánh sáng quanh một tầm
Rực rỡ biết bao màu
Mọi người trong thành ấy
Chắp tay đứng vây quanh,
Đế Thích cầm phất trần
Trời, người đều cúng dường
Con vừa tránh hẻm khác
Phật lại hiện đến ngay.

Nói kệ xong, Ni-đề nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn là Bậc trên hết trong cõi trời, cõi người, còn ta là kẻ thấp hèn nhất trong các chúng sinh. Bây giờ, với cái thân hôi hám này ta đâu dám đến gần Đức Thế Tôn.” Ni-đề liền tránh vào trong một con hẻm khác. Lúc đó, Đức Thế Tôn trước đã hiện đến trong con hẻm ấy rồi. Thấy Phật, Ni-đề xấu hổ nên bỏ đi, không ngờ vò phân va vào tường bể tan, nước phân chảy ra làm bẩn cả áo Ni-đề. Thấy mình quá bẩn thỉu, Ni-đề xấu hổ buồn rầu, mặt mày thất sắc, thầm nghĩ: “Lúc nãy phân tuy hôi dơ nhưng còn ở trong thùng, bây giờ thùng đã bể, phẩn uế rơi ra, thật đáng xấu hổ, thật đáng quở trách!”.

Ni-đề liền nói kệ:

Than ôi! Thật lạ thay
Nay ta như sắp chết
Nhơ nhớp khắp toàn thân
Ta phải làm sao đây?
Đấng hơn hết ba cõi
Mà đến gần chỗ ta
Đứng ngay trước mặt ta
Ta hết chỗ tránh đi.
Ôi thôi! Thật đáng ghét
Trong ngoài đều bất tịnh
Rất xấu hổ, khổ não
Giống như già suy đến.

Lúc đó, đại chúng thấy Đức Thế Tôn theo sau Ni-đề. Trong chúng đó có một thầy Tỳ-kheo suy nghĩ: “Đức Như Lai vào thành sao không lần lượt khất thực từng nhà giàu sang, thấp hèn, mà Ngài lại đi theo Ni-đề? Vì sao như vậy? Chắc là có lý do gì đó”. Thầy lại suy nghĩ: “Ta phải tìm hiểu việc này”.

Thầy Tỳ-kheo này liền nói kệ:

Đây chắc người công đức
Được Phật đi theo sau
Như ngọc rơi thùng phân
Khuấy lên để kiếm tìm.
Như Lai xét tâm kia
Không chọn sang hay hèn
Không cần dòng dõi quý
Bậc Thắng Diệu nói rằng:
Như thầy thuốc chữa bệnh
Xem bệnh nặng hay nhẹ
Tùy bệnh mà bốc thuốc
Không xét theo dòng họ.
Như Lai tâm bình đẳng
Quán sát tâm thô tế
Cũng không chọn dòng dõi
Cho thuốc dứt phiền não.

Bấy giờ, Ni-đề đi vào con hẻm chật hẹp gặp Đức Thế Tôn, xấu hổ co ro, không biết ẩn nấp vào nơi nào, bèn chắp tay nhìn xuống đất nói:

– Ngài có khả năng hộ trì tất cả chúng sinh. Xin Ngài hé một kẽ hở cho con có chỗ dung thân.

Ni-đề nói kệ:

Hôm nay Đức Như Lai
Cùng đi gần đến con
Thân con quá hôi thối
Không dám gần Thế Tôn
Lành thay một kẽ hở
Để con được dung thân.

Đức Như Lai với tâm Đại bi làm an vui lợi ích cho tất cả chúng sinh, với dung nhan từ hòa, sắc mặt tươi vui, Ngài đến bên Ni-đề dùng lời lẽ êm dịu an ủi Ni-đề, làm cho thân tâm Ni-đề thoải mái, vui sướng. Phật gọi Ni-đề, Ni-đề ngơ ngác nhìn khắp bốn phía: “Như lời Phật gọi, chẳng lẽ Đức Chí Tôn trong ba cõi, lại gọi người thấp hèn như ta sao, hay là có người đồng tên với ta mà Ngài gọi họ chăng?” Tâm Phật bình đẳng tuyệt đối, không hề có yêu hay ghét. Đức Thế Tôn đưa tay về phía Ni-đề, ngón tay dài thon nhỏ có móng như màu đồng đỏ. Giữa những ngón tay có màng lưới nối liền, tay Phật đẹp như hoa sen, bàn tay mềm mại tinh khiết có hình bánh xe. Đức Phật muốn làm cho Ni-đề sinh tâm mạnh mẽ bèn nói kệ bảo Ni-đề:

Ngươi có căn duyên lành
Nên ta đến chỗ ngươi
Nay Ta đã đến rồi
Sao ngươi cố lẩn tránh?
Hãy nên đứng lại đây
Tuy thân ngươi không sạch
Nhưng tâm có pháp lành
Hương thơm rất nhiệm mầu
Hiện đang ở trong ngươi
Chớ nên thấy thấp hèn.

Ni-đề nghe lời Đức Phật dạy, đưa mắt nhìn Phật, trong lòng tràn ngập hân hoan, chắp tay thưa với Phật:

– Đối với kẻ không nơi nương tựa, Ngài làm chỗ nương tựa. Đối với các chúng sinh không có nhân duyên, mà Ngài tưởng như con, tâm Ngài thật là bình đẳng, thật là Đấng Chân Tế. Nay Phật Thế Tôn nói chuyện với con, như rưới nước cam lộ lên thân tâm con.

Ni-đề nói kệ:

Giả sử Đại Phạm vương
Cùng nói chuyện với con
Bậc Thiên đế tôn trọng
Hạ mình ôm dắt con
Bậc Chuyển luân thánh vương
Ăn chung bữa với con
Không bằng Thầy ba cõi
Thương xót ban một lời.
Con được Ngài quan tâm
Còn vui mừng hơn kia
Chọn lựa bỏ dơ xấu
Việc bất thiện đã dứt
Việc lành đã đầy đủ.
Đấng Tự Tại cứu giúp
Khiến con được vui sướng
Bụi trên chân Thế Tôn
Đế Thích còn đội đầu
Cho là được phước đức
Huống con rất thấp hèn
Đích thân nhờ Phật dạy,
Mà kêu gọi tên con
Làm sao không vui thích?

Đức Phật bảo Ni-đề:

– Bây giờ ngươi xuất gia được không?

Ni-đề nghe Phật nói, sinh tâm vui mừng nói kệ:

Như con dòng thấp hèn
Có được xuất gia chăng?
Thế Tôn rủ lòng thương
Nếu con được xuất gia
Như dắt người địa ngục
Đem lên tận cõi trời.

Phật bảo Ni-đề:

– Ngươi không nên nghĩ như vậy. Ngài bèn nói kệ:

Như Lai không xét theo
Dòng dõi và giàu sang
Chỉ xét nghiệp chúng sinh
Hạt giống lành quá khứ,
Các phiền não buộc ràng
Không hề được giải thoát
Sinh già bệnh chết kia
Vui khổ đều như nhau.
Vì sao Bà-la-môn
Riêng mình được giải thoát
Người khác không thể được?
Câu chữ và âm thanh
Đâu chỉ Bà-la-môn
Dòng dõi khác cũng biết.
Thí như qua bến sông
Không chỉ Bà-la-môn
Dòng dõi khác cũng biết,
Tất cả mọi việc làm
Đâu chỉ họ làm được
Người khác không thể ư?
Hôm nay ngươi phải nên
Tin Ta mà xuất gia
Như trong pháp Phật Ta
Tâm bi không thiên lệch
Không giống các ngoại đạo
Có những pháp che giấu.
Cứu giúp đều bình đẳng
Pháp Phật không tổn giảm
Nói pháp không thiên lệch
Bình đẳng nêu đạo chánh
Vì tất cả chúng sinh
Làm đường ngay an ổn.
Thí như trong chợ lớn
Bán mua tất cả vật
Chợ pháp Ta cũng vậy
Không chọn dòng họ nào
Giàu sang và nghèo hèn
Thí như dòng nước trong,
Sát-lợi, Bà-la-môn
Tỳ-xá và Thủ-đà
Không có ai ngăn giữ
Không hạn người, chẳng người
Tất cả đều được uống
Pháp Ta cũng như vậy.
Nay Ta không riêng gì
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Mà vì cả thế gian
Làm Thầy thuốc trời, người.

Ta không phải chỉ vì người giàu sang, lựa chọn các vua hiền mà còn hóa độ cho cả hạng người thấp hèn như Ưu-ba-ly. Ta không những cứu giúp hàng đại phú trưởng giả như Tu-đạt-đa mà còn hóa độ những người nghèo cùng như Tu-lại-đa. Ta không những hóa độ người có trí tuệ rộng lớn như Xá-lợi-phất mà còn hóa độ kẻ có căn tánh chậm lụt như Châu-lợi-bàn-đặc. Ta không những hóa độ người có tâm ít muốn biết đủ như Ma-ha Ca-diếp mà còn hóa độ người nặng nề về dâm dục như Bà- nan-đà. Ta không những hóa độ bậc kỳ lão, nhiều phước đức như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp mà còn hóa độ kẻ ấu trĩ Tu-đà-da. Ta không những hóa độ hạng người kiêu mạn như Bà-ca-lại mà còn hóa độ kẻ cực ác tay luôn cầm kiếm như Ương-quật-ma- la. Ta không chỉ nói pháp cho người nam hiểu biết nhiều nghe mà còn nói pháp cho người nữ có sự hiểu biết nông cạn nghe. Ta không chỉ là Đấng Chân Tế của chúng xuất gia mà còn nói pháp cho hàng tại gia cực ác nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người thiểu dục nghe mà còn nói bốn Chân đế cho những kẻ thiếu niên tại gia buông lung năm dục nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người buông bỏ các việc như Bô-đa-lê nghe mà còn nói pháp cho người coi sóc việc nước, việc đời rối rắm như vua Tần-bà-sa-la nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người dứt rượu nghe mà còn nói pháp cho người say sưa như Nữu-già nghe, giúp y được dấu đạo. Ta không chỉ nói pháp lìa sinh tử cho người ưa tu thiền định như Ly Việt nghe mà còn nói pháp cho người mất con, cuồng loạn Bà-tư-tra nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người hiền đức sinh trong nhà Ưu-bà-tắc nghe, mà còn nói pháp cho đệ tử tà kiến là A-tu-bạt-đề nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người tráng niên như La-tra-hòa-la nghe mà còn nói pháp cho người già cả như La-câu-la. Ta không chỉ nói pháp cho người già cả như Bà-câu- la nghe, chứng quả La-hán mà còn nói pháp cho vị Sa-di bảy tuổi là Tu-đà-diên nghe, khiến chứng quả La-hán. Ta không chỉ trả lời những thắc mắc trong tâm của mười sáu người Bà-la-diên, mà còn nói pháp cho những đứa trẻ ngu ngơ, tham dục tìm cầu người nữ ở trong sáu mươi ngôi làng nghe. Ta không chỉ nói pháp cho Mãn Nguyện Tử, là Đại luân Ngưu vương có biện tài vô tận nghe, mà còn nói pháp cho Tỳ-kheo-ni Đạt-ma-địa-na có sự hiểu biết nông cạn nghe, giúp cô được trí sâu xa, có khả năng giải thích tất cả những lời gạn hỏi của Đại trượng phu. Ta không chỉ nói pháp cho phu nhân của vị vua giàu sang là bà Di-bạt-đề giúp bà chứng được đạo quả, mà còn nói pháp cho người hầu cận thấp hèn là Cưu-thục-đa-la nghe, giúp ông đạt được dấu đạo. Ta không chỉ nói pháp cho người trinh phụ như Tỳ-xá-khư nghe mà còn nói pháp cho dâm nữ Liên Hoa nghe. Ta không chỉ nói pháp cho người nữ đại đức biện tài là Cù-đàm-di nghe mà còn nói pháp cho vị Sa-di ni bảy tuổi là Chí-la có khả năng hàng phục ngoại đạo nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Nương vào pháp của Ta
Hãy nhanh chóng xuất gia
Nhờ trí được cam lộ
Chẳng do nơi dòng họ.
Bốn đại đều là không
Sang, hèn ai cũng có
Vô trí thì không được
Không phải do dòng họ.

Ni-đề vâng lời Đức Phật dạy, liền đi xuất gia, chứng quả A-la-hán. Lúc đó trong thành Xá-vệ, các trưởng giả Bà-la-môn nghe tin Ni-đề được xuất gia đều bàn tán, sinh tâm tức giận, chê bai:

– Ni-đề kia là kẻ hèn hạ, bẩn thỉu ở trong thành bây giờ được xuất gia. Nếu như có cuộc lễ, hắn ta đến đây sẽ làm nhơ nhớp nhà cửa, giường ghế của chúng ta.

Người trong thành đều phân vân, dần dần đến tai vua Ba-tư-nặc. Nhà vua nghe xong, bèn nói với các quan:

– Các khanh chớ có phân vân làm gì. Bây giờ chúng ta hãy đến chỗ Đức Thế Tôn bạch với Ngài rằng đừng cho kẻ hèn hạ này được xuất gia.

Vua Ba-tư-nặc bèn dẫn đoàn người theo hầu đến tinh xá Kỳ hoàn. Họ thấy có một thầy Tỳ-kheo ngồi trên tảng đá lớn, đang may chiếc y phấn tảo. Có bảy trăm Phạm thiên đang đứng hai bên, có vị chắp tay lễ kính. Có vị lấy chỉ, có người xỏ kim, như trong kinh có nói rộng.

Khi ấy, chư Thiên nói kệ khen ngợi:

Quan sát các căn lặng
Dung nghi rất oai đức
Chứng đắc đủ ba Minh
Lợi căn không lui sụt
Các điều lành đều đủ
Ngồi may y phấn tảo
Bảy trăm trời oai đức
Đến từ cung Phạm thiên
Quy mạng và kính lễ
Mong vượt đến bờ kia.

Khi ấy, vua Ba-tư-nặc không biết thầy Tỳ-kheo đó là Ni-đề bèn nói thế này:

– Xin Đại đức vào bạch Đức Thế Tôn giùm trẫm là có vua Ba-tư-nặc đang đứng ngoài cửa, muốn đến gặp Phật.

Ni-đề nghe xong, liền đi vào trong tảng đá như đi xuống nước, rồi hiện lên đến trước Phật, bạch:

– Bạch Đức Thế Tôn, vua Ba-tư-nặc hiện đang ở ngoài cửa, muốn gặp Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bảo:

– Thầy hãy trở ra bằng con đường lúc nãy đã vào và hãy mời vua Ba-tư-nặc vào đây.

Ni-đề vâng lời Đức Phật dạy, từ tảng đá hiện ra mời vua Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc đảnh lễ thăm hỏi Đức Thế Tôn và bạch:

– Bạch Thế Tôn, vừa rồi thầy Tỳ-kheo kia là Đại đức nào mà được chư Thiên cúng dường, đứng hầu hai bên, lại có thể ra vào tảng đá không hề bị trở ngại như thế?

Vua nói kệ:

Trí Phật tịnh thông suốt
Việc gì cũng rõ thông
Những điều con muốn hỏi
Phật đã biết trước rồi.
Việc trước hãy tạm gác
Con có điều muốn hỏi
Vừa thấy một Tỳ-kheo
Ra vào trong tảng đá
Thân như cò trong nước
Nổi chìm đều tự tại.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc:

– Thầy Tỳ-kheo vừa rồi mà nhà vua muốn biết chính là Ni-đề, kẻ mà Ngài cho là kẻ hạ tiện hèn hạ đấy.

Nhà vua nghe xong, kinh hoàng, quỵ té xuống đất, ăn năn tự trách: “Ta đã tự đốt cháy mình. Tại sao một Đại đức như vậy mà ta lại sinh tâm chê bai khinh ghét”. Sau khi thấy việc ấy, nhà vua đối với giáo pháp Phật-đà được sự chưa từng có, càng kính tin hơn. Ông liền đảnh lễ dưới chân Đức Phật mà nói kệ:

Thí như núi Tu-di
Do có báu hợp thành
Chim muông và cầm thú
Đến đó đều sắc vàng,
Xưa nay, tuy đã nghe
Giờ đây mới chứng biết
Phật như núi Tu-di
Vô lượng công đức nhóm
Có người đến nương Phật
Trở thành dòng giống quý.
Phật không xét dòng dõi
Sang giàu hay danh tiếng
Như thầy thuốc xem bệnh,
Cũng đâu xét giống dân
Chỉ trao các thuốc tốt
Khiến người được hết bệnh.
Sang, hèn cùng tánh chất
Từ bất tịnh mà ra
Thành tựu được đạo quả
Bình đẳng nào sai khác
Các dòng dõi đều đồng
Chứng quả cũng như nhau.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm cho lòng tin thuần nhất của vua Ba-tư-nặc thêm lớn nên dạy về “Bốn giai cấp đều thanh tịnh”. Nếu khi cưới hỏi thì dựa vào bốn giai cấp, bốn giai cấp này đều có khả năng được trong sạch.

Phật bảo vua:

– Nếu người lấy vợ, gả con phải chọn dòng dõi, còn trong pháp Phật chỉ xét nhân duyên thiện ác đời trước chứ không lựa chọn dòng họ nào. Chỉ xét sự bố thí do lòng tin chứ không xem trọng để ý của cải vàng bạc. Chỉ đòi hỏi giới pháp thanh tịnh chứ không đòi hỏi gia môn trong sạch. Chỉ cầu sự an định tự tại chứ không cần dòng họ tôn quý, chỉ xét trí tuệ chứ không xét nơi sinh.

Đức Phật thuyết kệ:

Như luyện quặng trong núi
Để tìm lấy vàng ròng
Thí như cây Y lan
Cọ xát liền phát hỏa
Cũng như trong bùn lầy
Mọc lên hoa sen xanh
Không xét nơi sinh ra
Chỉ xét về đức hạnh.

Nếu người sinh vào dòng họ cao quý, có đức hạnh, thì nên cúng dường. Nếu người sinh vào dòng thấp kém mà có đức hạnh, thì cũng nên cúng dường. Những người có trí tuệ nên cúng dường. Người có đức, dòng họ có khác nhưng đức hạnh thì không khác nhau. Cũng như cây Y lan và cây Chiên-đàn đều có thể phát ra lửa nóng và ánh sáng không khác nhau.

Lời Phật chân thật, không có lỗi lầm. Lời dạy ấy thấm sâu vào lòng người, làm cho nhà vua được giải ngộ. Vua Ba-tư-nặc đảnh lễ dưới chân Phật, năm vóc gieo sát đất, khen ngợi:

– Nam-mô Quy mạng Điều Ngự Trượng Phu Nhất Thiết Chủng Trí, đối với tất cả nghĩa, đều thấu đạt không có chướng ngại. Đấng Thập Lực mạnh mẽ, có bốn thứ không sợ, Bà-già-bà Tam- miệu-tam Phật-đà, là người bạn thân không mời mà đến của tất cả chúng sinh. Đối với bốn giai cấp, Ngài không có thiên lệch. Nói tóm tắt như vậy.

Nhà vua liền nói kệ:

Biển trí Nhất thiết chủng
Ý tịnh đến bờ kia
Đời chỉ Phật có bi
Tâm ý không dơ xấu
Vì tất cả chúng sinh
Làm người bạn thân nhất.
Chỉ Ngài nói giải thoát
Nhưng bằng nhiều phương tiện
Nương trí nhiều phương tiện
Ngoại đạo cuồng điên đảo
Khổ hạnh rất thô xấu
Chuyên mê chấp dòng dõi.

Vua Ba-tư-nặc đảnh lễ dưới chân Phật và dưới chân Tỳ-kheo Ni-đề rồi trở về thành Xá-vệ.

Chương 44

Người tuy chưa nhập Kiến đế nhưng nhờ năng lực tu tập học rộng nghe nhiều nên các ma không khuấy nhiễu được. Thế nên phải siêng tu, học vấn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một con ma hóa thành thầy Tỳ- kheo, vào trong Tăng phường, nơi ấy có một vị

Pháp sư đang nói pháp cho đại chúng nghe. Vị Tỳ- kheo hóa hiện nói:

– Ta đã đắc đạo La-hán. Ai có thắc mắc gì hãy hỏi ta.

Khi ấy, chúng Tăng thưa Pháp sư:

– Nên ghi nhận lời ông ta không?

Vị Pháp sư hỏi vị Tỳ-kheo hóa hiện:

– Thế nào là dứt bỏ kết sử? Thế nào là nhập định?

Vị Tỳ-kheo hóa hiện nói pháp một cách điên đảo. Bấy giờ, vị Pháp sư nói với chúng Tăng:

– Người này chẳng phải La-hán. Lời nói của ông ta không thể lãnh hội được.

Khi ấy, Tỳ-kheo hóa hiện bay vọt lên hư không, hiện mười tám thứ thần biến. Đại chúng chê trách vị Pháp sư:

– Người như thế này mà sao Pháp sư bảo chẳng phải La-hán?

Bấy giờ, vị Pháp sư tuy bị chê trách nhưng nhờ năng lực học rộng nghe nhiều nên vẫn bảo là không phải. Pháp sư nghĩ rằng: “Nếu đúng thật là La-hán thì tại sao lời ông ta nói ra điên đảo, nhưng lại có thể bay được, bây giờ ta cũng chẳng biết phải hiểu thế nào!”

Pháp sư nói kệ:

Ta đối người công đức
Không có tâm ganh ghét
Lấy đá A-tỳ-đàm
Mài thử biết đúng sai.
Nếu chỉ là vàng mạ
Khi mài, sắc không hiện
Nếu không phải vàng thật
Dùng đá mài ắt biết.
Phật dùng trí tuệ ấn
Không tương ưng với ấn
Thành cam lộ khó vào
Không ấn, không vào được
Người muốn vào thành ấy
Làm ta muốn tức cười!

Mọi người hỏi:

– Nếu không phải La-hán, tại sao ông ấy bay được?

Bấy giờ, Pháp sư lại nói kệ:

Hoặc là Nhân-đà-la
Hay ảo thuật làm ra
Gai góc trong Phật pháp
Ắt do ma làm ra.

Lúc đó vị Tỳ-kheo hóa hiện trở lại thân cũ, rất lấy làm vui mừng nói:

– Hay thay! Pháp Phật thật nhiệm mầu, dựa vào năng lực học rộng nghe nhiều mà phân biệt, xác định được ta.

Bèn nói kệ:

Cư sĩ, Thủ-la thảy
Đã được pháp nhãn tịnh
Không thể bị dao động
Việc này không lạ chi,
Dùng trí lực của mình
Nay thầy chưa Kiến đế
Nhưng vững tâm, không động
Việc này thật ít có!
Không có sức Thánh trí
Ta không thể lay chuyển
Việc này là ít có.
Quy y Phật Niết-bàn
Vì lời kia chân thật.
Người trí không dao động
Trí Nhất thiết chủng Phật
Nói quán sát La-hán
Không ai hủy hoại được
Giống như sóng biển lớn
Không hề sai kỳ hạn.
Giả sử lửa làm lạnh
Gió mà lại đứng yên
Lời Đức Như Lai dạy
Đều không có biến đổi.
Thế cho nên lời Phật
Trên hết trong các luận
Giống như ánh mặt trời
Xua tan bao tăm tối.
Đấng Ứng Cúng chân thật
Biện tài phân minh rõ
Người khéo phân biệt được,
Người không thể quán sát
Không thấy lý như vậy
Lời thật và lời dối
Cả hai trái nhau xa
Lời Phật và ngoại luận
Sự việc cũng như thế.

QUYỂN 8

Chương 45

Chỉ có pháp Phật là chữa trị được bệnh cả thân lẫn tâm, thế nên phải siêng năng nghe nói pháp.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, trong mắt vị thái tử, con vua Hán Địa, bị kéo màng che lấp cả mắt, sau đó bị mù. Tuy chữa trị bằng mọi cách nhưng không khỏi. Bấy giờ, ở nước Trúc-xoa-thi-la, các nhà buôn đi đến nước Hán địa. Vua nước Hán địa hỏi những người thương buôn:

– Con ta bị bệnh đau mắt, các ngươi từ phương xa đến có thể chữa trị được không?

Những người thương buôn thưa:

– Tâu đại vương, ở nước ngoài có một thầy Tỳ- kheo tên Cù-sa có thể chữa trị được.

Vua nghe xong, liền sắm sửa hành trang đưa con mình đến nước Trúc-xoa-thi-la. Đến nước kia rồi, vua đến chỗ Tôn giả Cù-sa thưa rằng:

– Tôi từ phương xa đến chữa bệnh mắt. Cúi xin ngài thương xót mà chữa trị cho tôi.

Tôn giả hứa sẽ chữa cho. Ngài làm nhiều chén đồng đưa cho mọi người rồi nói:

– Khi nghe tôi nói pháp, nếu có ai rơi nước mắt thì hãy hứng vào bát (đồng) này. Tôn giả nói kinh Thập Nhị Duyên. Chúng hội nghe xong, than khóc rơi lệ, liền hứng vào bát. Tôn giả Cù-sa gom hết nước mắt của mọi người đem đến chỗ con vua đổ vào lòng bàn tay phải rồi nói kệ:

Nay tôi đã nói pháp
Mười hai duyên sâu xa
Xua tan tối vô minh
Người nghe đều rơi lệ
Điều này nếu quả thật
Nên gom lệ mọi người
Trong Người, Trời, Dạ-xoa
Các thứ nước không bằng
Đem rửa mắt vương tử
Lìa chướng được sáng trong.
Liền lấy nước mắt rửa
Màng mắt được vẹt tan.

Tôn giả Cù-sa lấy nước mắt rửa mắt cho vương tử. Sau khi mắt được sáng trong, vì muốn cho tín tâm của mọi người được thêm lớn nên ngài nói kệ:

Phật pháp rất chân thật
Vén tan màng che mắt
Nước mắt cũng chữa được
Như nắng tan băng tuyết.

Mọi người thấy việc ấy, chắp tay cung kính, càng tin tưởng hơn. Chứng kiến được điều chưa từng có, toàn thân nổi ốc, mọi người liền nói kệ:

Việc ngài làm ít có
Giống như hiện thần túc
Thuốc men không chữa được
Nước mắt rửa khỏi bệnh.

Các thầy Tỳ-kheo nghe pháp buồn khóc rơi lệ.

Tôn giả Cù-sa bảo mọi người:

– Mặc dầu làm được việc ấy nhưng không có gì khó. Xưa kia, Đức Như Lai tu hành khổ hạnh trong ngàn ức kiếp. Ngài chứa nhóm công đức tu hành ấy thành thuốc pháp mười hai Nhân duyên này có công năng làm cho người nghe cảm động rơi lệ. Rồng của Bà-tu phun nọc độc, Dạ-xoa, ác quỉ đầy khắp cả nhà, Kiết-tỳ-để-đà-la xưa nay chán ghét đạo thì nước mắt này có công năng tiêu diệt tất cả. Việc đó mới khó, huống gì chướng ngại của màng mắt đây giống như rứt cánh con ong đâu có gì khó. Giả sử như có mây mù nổi lên đen nghịt, mưa to gió lớn thì nước mắt này cũng có công năng làm cho trời quang mây tạnh.

Lúc ấy, đoàn voi say cho đến bộ binh mặc giáp cầm trượng trông thật dữ tợn; nếu rảy nước mắt này vào thì quân trận tháo lui tan rã. Pháp tu tập bằng Nhất thiết chủng trí ai nghe mà không rơi nước mắt, nhưng dùng nước mắt này để cúng tế diệt hết tai họa thì chỉ trừ được nghiệp đời trước.

Bấy giờ, vương tử đã được lành mắt, vui mừng hớn hở; lại nghe nói pháp, nhàm chán sinh tử, chứng quả Tu-đà-hoàn sinh ý tưởng ít có liền nói kệ:

Ai được nghe pháp Phật
Mà không sinh vui mừng
Tôi đã rất kính tin
Dốc lòng nghe nói pháp,
Tai nghe việc ít có
Bệnh mắt cũng được lành
Mắt tuệ và mắt thịt
Tất cả đều thanh tịnh.
Người trị mắt hay nhất
Không ai bằng Đức Phật
Nay tôi cúi đầu lạy
Vị thầy thuốc giỏi nhất
Dùng thuốc Nhất thiết trí
Mở hai mắt sạch tôi
Người có tâm ở đời
Ai mà không kính tin
Giả sử có ít trí
Vì sao không sinh tin?
Đức Thích-ca Mâu-ni
Cha lành của chúng sinh
Nói lời rất hay đẹp
Nhu hòa đáng ưa thích
Cứu giúp việc xong rồi
Đến được bờ bên kia
Pháp ý căn nhỏ nhiệm
Tác ý sẽ hiểu rõ
Cho đến người biên địa
Cũng sẽ được khai ngộ.

Chương 46

Nếu có được “Bốn pháp thanh tịnh không thể phá hoại” thì thà xả bỏ thân mạng chứ không bao giờ giết hại chúng sinh. Cho nên phải siêng năng tu hành “Bốn pháp thanh tịnh không thể phá hoại”.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa có một người bị tội tử hình. Lúc ấy, Chiên-đà-la sẽ lần lượt giết người, mà người Chiên-đà-la kia là vị Ưu-bà-tắc hữu học, đã thấy được đạo đế nên không chịu giết người. Quan trông coi về hình pháp rất tức giận nói với ông ta:

Nay ông muốn làm trái với pháp luật của vua sao?

Ưu-bà-tắc nói:

Ông thật là người không hiểu biết gì cả. Đức vua chắc gì biết được nổi khổ giết người của tôi. Mặc dầu sắc thân tôi phụ thuộc nhà vua làm Chiên- đà-la, nhưng sinh trong dòng Thánh gọi là Pháp thân. Pháp thân không phụ thuộc vào vua cho nên không làm.

Ưu-bà-tắc nói kệ:

Đức Thích-ca Mâu-ni
Có trí Nhất thiết chủng
Giáo hóa khi gây nhân
Diệt trừ tất cả tội.
Pháp của vua Diêm-la
Giáo hóa khi kết quả
Gặp khổ mới nói khổ
Dễ phá cũng dễ trái.

Vị Chiên-đà-la này không tuân theo mệnh lệnh của vua, liền được dẫn đến chỗ vua. Vua hỏi Chiên-đà-la:

Vì sao ngươi không tuân theo mệnh lệnh của vua?

Ưu-bà-tắc tâu:

– Thưa đại vương, ngay bây giờ ngài nên sinh lòng tin, phát tâm vui mừng. Vị ấy liền nói kệ:

Dứt ba độc cho tôi
Tôi được nhân vắng lặng
Tại chỗ Phật Thế Tôn
Đấng Đại Bi vô thượng
Thọ trì các giới cấm
Cho đến loài ruồi muỗi
Cũng không sinh tâm hại
Huống chi đối với người.

Vua nói:

Nếu không giết thì tánh mệnh của ngươi khó chu toàn.

Nhờ năng lực kiến đế nên Ưu-bà-tắc ở chỗ vua chống đối không sợ nguy hiểm tâu:

– Thưa đại vương, thân mạng của bề tôi tùy thuộc nơi ngài. Ngài muốn làm gì cũng được. Còn ý của bề tôi dù trời Đế Thích dạy bề tôi vẫn không tuân theo.

Vua nghe lời ấy rất giận dữ, ra lệnh giết chết Chiên-đà-la. Bảy người gồm cha, anh, em… của Chiên-đà-la kia đều không theo lệnh vua hành xử tội. Vua liền giết họ, chỉ còn lại hai người. Đến người thứ sáu vua ra lệnh giết, vị ấy cũng không chịu giết. Vua lại giết luôn người này. Đến người thứ bảy cũng không chịu giết. Vua toan giết người ấy, thì người mẹ già tâu:

Thưa đại vương, xin ngài hãy vì tôi mà tha cho đứa con út thứ bảy.

Vua hỏi:

– Người này là gì của bà?

Bà lão tâu:

– Thưa đại vương, nó là con của tôi. Vua hỏi tiếp:

Sáu người trước không phải là con của bà hay sao?

Bà lão tâu:

– Thưa đại vương, chúng nó cũng đều là con của tôi cả.

Vua hỏi:

– Vậy tại sao bà chỉ xin tha tội chết cho đứa con thứ bảy?

Bà lão liền nói kệ:

Xin đại vương biết cho
Sáu con đều kiến đế
Đều là chân Phật tử
Nhất định không làm ác
Cho nên tôi không sợ
Riêng đứa thứ bảy này
Còn là kẻ phàm phu
Bị thân mạng ép ngặt
Sẽ gây các nghiệp ác
Cho nên ngày nay tôi
Xin ngài tha cho nó.
Ngài sẽ được tự tại
Mong ngài cho nó sống!
Lúc sắp chết sợ hãi
Hoặc gây các điều ác
Phàm phu lúc sắp chết
Chỉ thấy thân hiện tại
Không thấy những việc sau
Xét quả báo đời sau
Chẳng phải cảnh giới phàm.

Bấy giờ, đại vương nói:

– Đối với ngoại đạo ta chưa từng nghe lời ấy, giờ đây bà nói về nhân quả rõ ràng như ngọn đèn sáng.

Bà lão Chiên-đà-la thưa như vầy:

– Đại vương sinh tâm quyết định thì gọi là người ở trong xóm làng của bậc Hiền thánh, chứ chẳng phải là Chiên-đà-la. Tôi tuy bị gọi là Chiên- đà-la nhưng thật là người tu khổ hạnh, ngay cả thân mạng còn không luyến tiếc, huống gì đối với những người thân là những người giữ giới hơn là những người giữ tài sản. Họ không đoái hoài thân mạng và bà con quyến thuộc, chỉ giữ gìn giới cấm.

Bà lão liền nói kệ:

Người đời xét dòng dõi
Không xét giữ giới cấm
Giữ giới là dòng dõi
Nếu người không giữ giới
Dòng dõi sẽ hoại diệt.
Tôi là Chiên-đà-la
Kia là người tịnh giới
Họ sinh Chiên-đà-la
Nhưng tạo nghiệp thanh tịnh
Ngài tuy là dòng vua
Nhưng thật là Chiên-đà
Không có lòng thương xót
Cực ác giết người hiền
Chính thật Chiên-đà-la.

Nhà vua bèn dẫn đầu các quyến thuộc đến chỗ gò mả cúng tế các thây chết của họ. Vua lại nói kệ:

Ngăn các công đức lành
Như đem tro lấp lửa
Tuy miệng không tự nói
Nhưng tạo nghiệp rõ ràng.
Đế Thích thường cúng dường
Người giữ giới bền chắc
Không tiếc thân mạng mình
Mà vì giữ giới hạnh.

Vua dẫn đầu các quan và mấy ngàn ức vị Bà- la-môn đi bộ đến gò mả rồi nói:

– Các vị Đại sĩ này, tuy gọi là Chiên-đà-la nhưng thật là bậc Đại tiên.

Vua cho thu lấy các tử thi rồi ứa nước mắt, nói kệ:

Người mạnh mẽ giữ giới
Dùng dao chém chặt thân
Thi hài bỏ trên đất
Máu huyết chảy khắp người
Vì giữ gìn giới cấm
Nay bỏ thân mạng này,
Vững tâm không làm ác
Giữ giới cho đến chết
Hưởng được vị Phật pháp
Người trí đều phải thế.
Vua lại nói kệ tiếp:
Người ngu si đui mù
Tham đắm dục cấu uế
Dính mắc các căn mình
Dao động không yên định
Không nghĩ đến nghiệp ác
Chỉ biết vui hiện tại
Kết sử làm nhơ bẩn.
Người trí thường quán sát
Nghĩ thân, của mong manh
Như cây mọc ven sông
Không bao giờ làm ác
Nước trí rửa tâm dơ.

Bấy giờ, đại vương gần gũi với Chiên-đà-la. Vì kính chuộng pháp nên vua nhiễu quanh tử thi ba vòng, quỳ thẳng chắp tay nói kệ:

Kính lễ quy mạng Pháp
Người khéo léo quán sát
Bỏ mạng sống ngắn ngủi
Chứ không xả bỏ Pháp.
Giả sử vào rừng lửa
Kiến đế mà phá giới
Quyết không có việc ấy
Đây là điều minh chứng
Người này vâng lời Phật
Không hề có hai lòng.
Gục chết trong vũng máu
Do giữ gìn giới Phật
Dùng lửa đốt thi hài
Liền biến thành tro đất
Tiếng thơm người giữ giới
Cùng khắp cả thế giới.

Chương 47

Vì nhân duyên gì mà nói việc này? Vì muốn nói lên sự chứng đạo không có đổi khác. Phật nói bậc Kiến đế không bao giờ ai phá hoại được, thân tứ đại có thể tan hoại, nhưng “Bốn pháp thanh tịnh không thể phá hoại” thì không bao giờ bị tan hoại.

Tâm kiêu mạn thì không có điều ác nào mà không làm. Người kiêu mạn tuy tự cao nhưng cho là mình nhún nhường. Cho nên phải dứt bỏ kiêu mạn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa Đức Phật thành đạo không bao lâu thì Ngài hóa độ cho anh em và những người dưới trướng của ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp cả ngàn vị. Phiền não đã dứt bỏ thì râu tóc tự rụng, họ theo Đức Thế Tôn đến nước Ca-tỳ-la-vệ. Như trong kinh Phật Bản Hạnh có nói rõ. Vua Duyệt-đầu-đàn được hóa độ, điều phục. Những người dòng họ Thích cậy vào tộc họ của mình sinh ra kiêu mạn. Đức Phật Thế Tôn ai nhìn thấy thân Ngài cũng không nhàm chán, thân thể đầy đặn, vừa người. Còn các vị Bà-la-môn tu khổ hạnh đã lâu, thân thể gầy ốm. Tuy bên trong họ có chứng đạo nhưng diện mạo bên ngoài rất xấu xí. Đi theo Phật thật không tương xứng. Bấy giờ vua cha nghĩ rằng: “Nếu dòng họ Thích xuất gia đi theo Phật thì sẽ tương xứng với Ngài”. Nghĩ xong, vua đánh trống tuyên bố:

– Mỗi nhà họ Thích cho một người đi xuất gia.

Họ liền vâng lệnh vua, mỗi nhà cho một người đi xuất gia.

Lúc ấy, Ưu-ba-ly là người thợ hớt tóc cho dòng họ Thích khóc than buồn bã. Những người dòng họ Thích hỏi:

– Vì sao ông khóc?

Ưu-ba-ly thưa:

– Nay, những người trong dòng họ Thích đều đi xuất gia, tôi biết sống làm sao đây?

Những người dòng họ Thích đi xuất gia nghe Ưu-ba-ly nói liền cởi y phục đang mặc và chuỗi anh lạc, đồ trang sức chất thành một đống vật báu cho Ưu-ba-ly hết, rồi nói:

– Những vật này đủ nuôi sống cả đời ngươi.

Ưu-ba-ly nghe nói như thế thì sinh nhàm chán thưa:

Nay các ngài đều chán ghét những thứ châu báu trang sức nên vứt bỏ còn tôi lấy nó để làm gì chứ.

Rồi liền nói kệ:

Những người họ Thích này
Vứt bỏ các châu báu
Như đổ bỏ phẩn dơ
Cho đến các rác rưởi
Họ xả bỏ mê đắm
Sao tôi lại tham lấy?
Nếu tôi lấy đống báu
Trong tâm sẽ tham đắm
Chấp là cái của ta
Đó là tai họa lớn,
Họ Thích bỏ tai họa
Giờ nếu ta nhận lấy
Chính là lỗi lầm lớn.
Ví như người ói mửa
Chó lại đến liếm ăn
Tôi lấy của người bỏ
Thì khác gì với chó.
Nay tôi sợ đống báu
Như lìa xa bốn độc
Căn lành tự bộc phát
Không tham luyến đống báu
Nay tôi phải xả bỏ
Muốn đến chỗ Thế Tôn
Cầu xin được xuất gia.

Ưu-ba-ly nói kệ trên xong, lại nói bài kệ khác:

Thấy người được pháp hơn
Mới sinh tâm vui mừng
Nay nguyện cho thân tôi
Cùng họ được việc tốt
Nay tôi muốn thoát ra
Nên siêng làm phương tiện.

Ưu-ba-ly lại nghĩ: “Nay ta nhất định sẽ xuất gia vậy phải nên cần cầu, bởi cả ngàn vị Bà-la-môn đã được Phật xuất gia, năm trăm người họ Thích dòng Sát-lợi cũng được xuất gia, hai dòng họ Bà-la-môn, Sát-lợi đều cao quý, còn ta là Thủ-đà-la thuộc dòng hạ tiện, lại làm việc thấp hèn, xin xuất gia chung với những người cao quý ấy biết có được chăng? Nay ta đâu có thế lực gì, làm sao mà được xuất gia chung với họ? Ưu-ba-ly liền nói kệ:

Dòng Sát-lợi thuần tịnh
Bà-la-môn học rộng
Xuất thân chỗ cao quý
Đều nhóm họp đến đây
Thân tôi dòng Thủ-đà
Làm sao được tham dự?
Giống như viên sắt vụn
Lẫn lộn giữa vàng ròng.
Bà-già-bà Phật-đà
Tôi nghe có Chủng trí
Nay tôi đến chỗ Ngài
Từ bi thương tất cả
Đáng tịnh, không đáng tịnh
Đáng xuất, không đáng xuất.
Tất cả chúng ngoại đạo
Không biết nơi giải thoát
Chỉ người diệt kết sử
Mới biết được giải thoát.

Ưu-ba-ly nói kệ xong bèn đến chỗ Đức Thế Tôn quỳ thẳng chắp tay, gối phải sát đất, nói kệ:

Tất cả bốn dòng họ
Đều được xuất gia chăng?
Vui Niết-bàn giải thoát
Chúng con có được chăng?
Lành thay Bậc Cứu Thế
Đại bi bình đẳng khắp
Thương xót, xin cho con
Được thứ lớp xuất gia.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm ý Ưu-ba-ly đã được điều phục, căn lành thuần thục, đã đến lúc hóa độ. Ngài đưa tay phải tướng tốt trang nghiêm xoa đảnh Ưu-ba-ly rồi bảo:

– Cho phép ngươi xuất gia. Ngoại đạo không chỉ bày pháp bí mật cho đệ tử. Còn Như Lai thì không như thế, mà đại bi bình đẳng nói pháp không thiên vị; chỉ bày đạo lý vượt hơn để cứu độ họ. Giống như đi chợ mua đồ không lựa chọn đắt rẻ, pháp Phật cũng vậy, không phân biệt giàu nghèo cho đến dòng họ.

Ngài liền nói kệ:

Ai khát uống nước trong
Mà không được no đủ
Ai cầm lửa đốt đèn
Mà không xua bóng tối,
Pháp Bậc Nhất Thiết Trí
Chung cho mọi chúng sinh
Ai người có tu hành
Mà không được nghĩa mầu.
Ví như ăn đường phèn
Sang, hèn đều hết mệt
Sát-lợi, Bà-la-môn
Pháp Phật bình đẳng khắp
Khi ra khỏi ba cõi
Các dòng họ không khác.
Ví như ba loại thuốc
Đối trị nóng, lạnh, gió
Thuốc không chọn dòng họ
Sang, hèn đều trị được,
Thuốc pháp cũng như thế
Trị được tham sân si
Bốn dòng họ đều trừ
Không cao thấp khác nhau.
Giống như lửa bắt cháy
Không lựa củi tốt, xấu
Nọc độc cũng giống lửa
Không phân biệt sang, hèn.
Giống như nước tắm gội
Bốn họ đều trừ dơ
Bến bờ của hết khổ
Các họ đều xa lìa.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, giống như trời quang mây tạnh, Ngài phát ra âm thanh sâu xa giống như tiếng sấm, như tiếng rồng lớn đầu đàn, trâu đầu đàn, ca-lăng-tần-già, ong chúa, vua cõi người, kỹ nhạc trời phát ra tiếng Phạm âm bảo Ưu- ba-ly:

– Có muốn xuất gia chăng?

Ưu-ba-ly nghe âm thanh ấy tâm sinh vui mừng chắp tay bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, con mong muốn xuất gia. Đức Phật bảo:

– Này Ưu-ba-ly, lành thay Tỳ-kheo! Ông hãy tu phạm hạnh trong pháp lành này.

Ưu-ba-ly nghe Đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, râu tóc tự rơi rụng, áo ca-sa mặc trên thân, oai nghi khoan thai, các căn vắng lặng như vị Tỳ-kheo tu đã lâu năm.

Năm trăm người họ Thích đều phải bạch bốn lần yết-ma, thọ giới Cụ túc. Đức Phật dạy:

– Bây giờ Ta sẽ dùng phương tiện để trừ bỏ tâm kiêu mạn của những người dòng họ Thích.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với những người dòng họ

Thích:

– Bây giờ các thầy phải nên kính lễ theo thứ lớp từ các vị cựu Tỳ-kheo Thượng tọa Kiều-trần-như,

Tỳ-kheo A-tỳ Mã Sư... cho đến Ưu-ba-ly là vị hạ tọa sau rốt.

Thích Hiền vương là người dẫn đầu trong những người dòng họ Thích.

Những người dòng họ Thích kính thuận theo lời Đức Phật dạy, lần lượt đảnh lễ dưới chân các Tỳ-kheo, đến chỗ Ưu-ba-ly thì thấy chân của thầy khác lạ liền ngước lên nhìn thấy mặt Ưu-ba-ly, những người họ Thích hết sức kinh ngạc, giống như âm ba vang vọng của suối nước từ đỉnh đổ xuống va vào sườn núi. Họ liền nói:

– Chúng tôi là dòng Sát-lợi nhật chủng được người đời kính trọng. Nay vì sao phải kính lễ người xuất gia từng làm kẻ tôi tớ thấp hèn của mình, chúng ta sẽ thưa hết việc này lên với Đức Thế Tôn. Họ thưa với Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, Ưu-ba-ly cũng được kính lễ sao?

Phật bảo những người họ Thích:

– Nay dòng họ Thích của Ta nên cư xử theo pháp lễ lạy này để dứt trừ tâm kiêu mạn.

Những người họ Thích bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, Ưu-ba-ly thuộc giai cấp Thủ-đà-la.

Đức Phật dạy:

Tất cả đều vô thường, giai cấp không nhất định. Vô thường chỉ có một vị, giai cấp cũng thế, đâu có gì khác nhau!

Những người họ Thích lại bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, đây là dòng họ xuất gia, chúng con xuất thân dòng Sát-lợi nhật chủng.

Đức Phật dạy:

– Tất cả thế gian như mộng như huyễn, các dòng họ đâu có gì khác nhau.

Những người dòng họ Thích bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, đây là kẻ tôi tớ, còn chúng con là chủ.

Đức Phật dạy:

– Tất cả thế gian đều vì ân ái mà làm tôi tớ. Nếu chưa thoát khỏi sinh tử thì sang hèn không khác nhau. Hãy xả bỏ tâm kiêu mạn của các ngươi!

Lúc ấy những người dòng họ Thích trang nghiêm khác thường, như hoa nở rộ. Họ chắp tay hướng về phía Phật với sự do dự hoài nghi mà thưa như vầy:

– Bạch Đức Thế Tôn, Ngài nhất định bắt chúng con kính lễ dưới chân Ưu-ba-ly hay sao?

Đức Phật bảo họ:

– Không phải chỉ riêng Ta mà pháp xuất gia của tất cả chư Phật cũng đều như thế.

Những vị dòng họ Thích nghe Đức Phật nhắc lại pháp xuất gia liền đứng sững sờ như cây không gió. Tâm ý buồn bực, họ đều đồng thanh thưa:

Bạch Đức Thế Tôn, chúng con làm sao dám trái lời Đức Phật dạy? Mà phải kính thuận lời Đức Phật dạy.

Trước tiên, vị Tỳ-kheo hiểu biết tu hành đã lâu thưa như vầy:

– Sở dĩ Đức Như Lai hóa độ Ưu-ba-ly trước là vì muốn dứt bỏ tâm kiêu mạn cho những người dòng họ Thích.

Khi ấy, những người dòng họ Thích bèn xả bỏ tâm kiêu mạn, thuận theo pháp xuất gia, mà cũng là pháp mà các vị quý tộc xuất gia trong tương lai nên thuận theo. Bạt-đà-thích… có thói quen kiêu mạn đã lâu nay nhổ tận gốc, kính lễ dưới chân Ưu- ba-ly. Khi họ đang kính lễ thì mặt đất, thành quách, núi rừng, sông biển đều rung chuyển. Chư Thiên xướng rằng:

– Ngày hôm nay ngọn núi kiêu mạn của dòng họ Thích đã sụp đổ. Chư Thiên nói kệ:

Hay thay! Bỏ kiêu mạn
Dòng họ, sắc lực, tài
Thuận theo lời Phật dạy
Như cây nghiêng theo gió.
Dòng Sát-lợi nhật chủng
Đảnh lễ Ưu-ba-ly
Dứt bỏ tâm ngã mạn
Các căn đều vắng lặng.
Những người rất cao quý
Chân thật không dua nịnh
Phước lợi, đủ các đức
Số nhiều như rừng trúc
Bà-la-môn tiếng tăm
Sát-lợi quý tộc thảy
Các danh đức như thế
Vào trong pháp Mâu-ni
Trang nghiêm các Thánh chúng
Như sao vây quanh trăng
Lấm tấm khắp bầu trời.
Hay thay! Pháp hưng thịnh
Biển lớn của Như Lai
Nước công đức trên hết
Tràn đầy ở trong ấy
Nơi quy tụ các sông
Các thắng trí thế gian
Đều quay về pháp Phật
Các trời, người thêm nhiều
Khổ là đường phải thoát.
Như Lai khéo giải thích
Nói pháp dứt kiêu mạn
Chúng đệ tử một vị
Như biển chỉ vị mặn.

Vì nhân duyên gì nói việc này? Pháp Phật xuất hiện trên thế gian để dứt bỏ kiêu mạn.

Chương 48

Người đã Kiến đế không bị ma trời hay các ngoại đạo dối gạt. Thế nên phải siêng năng dùng mọi phương pháp tu hành cầu được Kiến đế.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa cư sĩ Thủ-la hết sức keo kiệt. Các ngài Xá-lợi-phất... thường lui tới nhà cư sĩ này.

Ngài nói kệ:

Đường ác sâu như biển
Tâm loạn như nước đục
Bị nước bỏn xẻn cuốn
Miệng liền nói không tiền.
Dòng sông lớn ganh ghét
Các cá, rùa tà kiến
Lội đầy dưới sông ấy
Theo dòng không dừng nghỉ.
Phải nhổ gốc keo kiệt
Được quả báo của thí
Đức Thế Tôn đại bi
Hàng Thích tử vô úy
Thấy người chìm trong khổ
Chúng tôi phải cứu giúp.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, sáng sớm đắp y, ôm bát đến nhà trưởng giả Thủ-la khen ngợi hạnh bố thí. Trưởng giả lấy làm không vui giống như dao nhọn đâm vào tim, ông nói với ngài Ca-diếp:

– Ngài được mời hay muốn đến xin ăn.

Ngài Ca-diếp đáp:

– Tôi thường khất thực. Trưởng giả nói:

– Nếu thầy khất thực thì nên đúng giờ.

Ngài Ca-diếp bỏ đi. Cứ như thế, ngài Xá-lợi- phất, Mục-kiền-liên... các vị đệ tử lớn của Đức Phật lần lượt đến nhà trưởng giả nhưng đều không được ông tiếp đãi. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đến nhà trưởng giả nói:

Ông nên thực hành năm việc bố thí rộng lớn. Trưởng giả Thủ-la nghe xong trong lòng rất buồn bã liền nghĩ rằng: “Một việc bố thí nhỏ ta còn không làm được, thì sao làm được năm việc bố thí rộng lớn. Trong pháp của Như Lai chẳng lẽ không còn pháp nào? Vì các đại đệ tử của Ngài dạy tôi bố thí; nay Đức Thế Tôn cũng dạy tôi bố thí.” Nghĩ xong, trưởng giả bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, một việc bố thí nhỏ nhặt con còn không thể làm được huống gì là năm việc bố thí rộng lớn?

Phật bảo trưởng giả:

– Không sát sinh là bố thí rộng lớn, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; những việc như thế gọi là năm việc bố thí rộng lớn.

Trưởng giả nghe xong, trong lòng rất vui mừng, bèn suy nghĩ: “Năm việc như thế không hao tốn mảy may mà được gọi là bố thí rộng lớn. Vì sao ta không làm?” Suy nghĩ xong, trưởng giả rất vui mừng, sinh tâm kính tín Đức Thế Tôn, rồi thưa:

– Đức Phật là Bậc Điều Ngự Trượng Phu, điều này quả thật không luống dối. Ngoài Đức Thế Tôn ra thì không ai có thể hiểu rõ để nói như thế. Ai cũng kính thuận và không dám trái lời Ngài dạy.

Ông nói kệ:

Dung mạo không ai bằng
Biện tài đời ít có
Thế Tôn nói đúng thời
Tiếng Phạm âm tốt đẹp
Lời dạy không luống dối
Người nghe đều kết quả.

Nói kệ xong, trưởng giả sinh tâm vui mừng đối với Phật, liền vào kho lấy hai tấm dạ định dâng cúng Phật. Ông lại nghĩ là nhiều nên chỉ muốn cúng một tấm nhưng lại ngại ít nên cúng luôn hai tấm. Biết tâm niệm của ông, Đức Phật nói kệ:

Vừa thí vừa đấu tranh
Nói cả hai giống nhau
Hai đức đều không trụ
Mạnh yếu của trượng phu
Vừa thí vừa đấu tranh
Gieo duyên giống như nhau.

Nghe kệ xong, trưởng giả Thủ-la cho là Đức Như Lai Thế Tôn biết được tâm niệm của mình, ông vui mừng hớn hở dẹp bỏ tâm keo kiệt, lấy dạ cúng dường Đức Phật. Biết Thủ-la có tâm vui mừng, Đức Phật bèn nói pháp đúng theo căn cơ, giúp trưởng giả dứt bỏ gốc rễ hai mươi ức ngã kiến, trưởng giả chứng quả Tu-đà-hoàn. Lúc ấy, Đức Thế Tôn từ ngồi đứng dậy trở về nơi an trụ của mình.

Thủ-la vui mừng tiễn chân Phật rồi trở về nhà mình mà trong lòng cảm thấy sung sướng. Thấy Thủ-la vui vẻ, Ma vương nghĩ: “Nay ta sẽ đến chỗ Thủ-la phá hoại tâm lành của ông ta”. Nghĩ xong, Ma vương hóa thành thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đến nhà Thủ-la nói kệ:

Thân như núi vàng sạch
Ánh sáng rất rực rỡ
Hóa hiện thật tự tại
Đi như voi đầu đàn
Đi vào nhà Thủ-la
Như trời ẩn trong mây
Người nhìn không nhàm đủ
Sáng như ngàn mặt trời.

Ánh sáng chói sáng cả nhà Thủ-la, Thủ-la kinh ngạc nghi ngờ không biết đây là người nào, liền nói kệ:

Như đống vàng ròng chảy
Chiếu sáng cả nhà tôi
Như mặt trời ló dạng
Ánh sáng hơn lúc thường.

Nói kệ xong, trưởng giả Thủ-la rất vui mừng như toàn thân được vẩy nước cam lộ. Ông nói:

– Con có phước lớn, hôm nay Như Lai lại vào nhà con. Tuy Như Lai lại đến nhưng con không cho là ít có, vì sao? Vì hạnh nghiệp của Như Lai Thế Tôn là tế độ chúng sinh bằng tâm Từ bi.

Thủ-la liền nói kệ:

Đầu như quả Ma-ni
Màu da như vàng ròng
Sợi lông trắng giữa mày
Mắt sáng trong dài rộng
Như sen xanh nở tròn,
Điều phục trong vắng lặng
Bước khoan thai không sợ
Dung mạo đẹp khác thường
Ánh sáng chiếu một tầm
Tự trang nghiêm thân Ngài,
Tự nói mạnh mẽ rằng
Ta đây thật là Phật.

Bấy giờ, Ma vương đứng rất trang nghiêm trước mặt Thủ-la nói:

– Trước kia ta có nói cái khổ của năm thọ ấm do tập mà sinh, tu tám con đường chánh diệt được năm thọ ấm. Điều đó là sai.

Thủ-la nghe xong rất nghi ngờ: “Tướng mạo giống Đức Phật nhưng những lời nói ra không đúng pháp, ta nằm mơ hay tâm trí đảo điên, nghe những lời ông ta nói nặc mùi tham lam ganh ghét, đây chắc là kẻ ác nào đã hóa hiện ra thân Phật? Như trong bụi hoa có rắn độc, nay ta xét biết đây chắc chắn là ma. Như người bán kim đến nhà người làm kim để bán.” Trưởng giả bèn bảo:

– Ngươi là ma Ba-tuần hãy nghe lời của ta là đệ tử Phật nói đây:

Cánh ngỗng quạt Tu-di
Làm sao nghiêng động được
Muốn cho tâm Kiến đế
Nghiêng động theo ý ngươi
Không hề có việc ấy.
Ngươi mê hoặc mắt thịt
Không mê được mắt pháp
Phật biết được việc này
Cho nên nói như vầy
Mắt thịt rất yếu kém
Không phân biệt thật giả
Nếu người được mắt pháp
Liền thấy Đấng Mâu-ni.
Ta được mắt pháp tịnh
Thấy được việc diệt kết
Không hề nghe lời ngươi
Ngươi luống tự mệt nhọc
Không thấy được mê loạn.
Nay ta biết rõ ngươi
Chính là ma Ba-tuần.
Người thấy bốn Chân đế
Không thể lay động họ
Như tiền được mạ vàng
Muốn dối gạt tiệm vàng
Việc này cũng khó thành
Ngoài hiện tướng vàng ròng
Nhưng trong thật là đồng.
Giống như lấy da cọp
Đem phủ lên mình lừa
Hình sắc lừa mắt thịt
Ngươi nói là biết dối.
Như lửa có tính lạnh
Tướng gió luôn thường trụ
Dù mặt trời u ám
Trăng có thể nóng lên
Không thể làm Kiến đế
Mà có tâm động chuyển.
Giả sử khắp thế giới
Cỏ cây đến ngói đá
Loài cầm thú hươu nai
Đều có tướng như Phật
Không lay được ý ta,
Nay tướng có đổi khác
Huống thân ma của ngươi
Sao lay động được ta.
Thủ-la bằng mọi cách
Trách Ba-tuần thậm tệ
Giống như người khỏe mạnh
Xông trận đánh kẻ ác.
Ma Ba-tuần sợ hãi
Vội trở về cõi trời.
Nơi sư tử chúa ở
Voi đến liền bỏ chạy
Ba-tuần cũng như thế
Chỗ người kiến đế ở
Ma không dám khuấy phá.

Chương 49

Người chưa chứng được thiền định lúc sắp qua đời không được quyết định.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, Đa-xí-na-ca là người hầu được vua Bà-tu yêu quý. Vì tội gièm pha hủy báng nên bị giam vào ngục nhưng ông vẫn tiếp tục tội lỗi của mình. Vua rất giận dữ sai người đến giết ông, bà con quyến thuộc đều đến thăm và nói với ông:

– Ông là người thông minh, sự hiểu biết vượt hơn người khác, nay vì sao tâm ông khuấy động? Khi cái chết đến thì có nỗi khổ nào bằng?

Na-ca đáp:

– Tôi sợ sệt cái chết, tâm không ổn định. Ông liền nói kệ:

Trước kia đối cha mẹ
Bà con và quyến thuộc
Xa lìa sinh buồn đau
Cho là điều khổ nhất
Nay gặp khổ khi chết
Khổ trước không đáng kể.
Xét trong các thứ khổ
Khổ chết cũng không lớn
Không biết nơi sẽ sinh
Khổ não đốt thân tâm.
Nay chết rất nhanh chóng
Không biết nơi sinh đến
Thân không lìa tham dục
Ai không khỏi kinh sợ
Tinh thần rất hoang mang
Như mù đi đường xa
Chẳng biết nơi nào đến.
Tâm ý rất suy sụp
Giống như tung nắm cát
Không thể ngăn được nơi
Như những lời Phật dạy.
Có tâm, tâm sai khiến
Tôi điên đảo sai lầm
Khó được sinh cõi lành
Do tâm được tự tại
Tùy ý chọn các cõi
Giờ tâm tôi xao động
Không thể giữ cho yên.
Xưa nay tôi ngu dốt
Tham đắm vui năm dục
Không thể quán nội thân
Buộc niệm vào chỗ lành
Nương vào rừng núi nào
Ngồi thẳng mà buộc niệm
Việc tốt nhất như thế
Giờ mới sinh mong muốn.
Kia được thiền ẩn náu
Nên an vui vắng lặng.
Tôi nhớ Thế Tôn dạy
Nghĩa của ba câu kệ
Buông lung làm phi pháp
Tu sửa điều đáng tu
Vứt bỏ các nghĩa lợi
Tham đắm nơi yêu quý,
Vừa muốn tu việc lành
Bỗng chốc cái chết đến
Xa lìa đường chánh kia
Theo đường tà hiểm này.
Như trục gãy xe dừng
Ngồi giữ rất lo buồn
Đến với pháp như thật
Tu những việc phi lý
Kẻ phàm phu chết đến
Trục gãy chịu sầu đau.

Vì lý do gì nói việc này? Vì trước kia không khéo quán sát để chuẩn bị tư tưởng cho cái chết. Nên lúc sắp chết sợ hãi mới tu tập thiền quán. Do không dứt bỏ năm dục nên không biết nơi đến mới ăn năn sợ hãi.

Cho nên nói kệ:

Người trí nên buộc niệm
Dứt bỏ tưởng năm dục
Người siêng năng giữ tâm
Lúc chết không ăn năn.
Tâm ý đã chuyên nhất
Không có niệm tán loạn
Người trí siêng giữ tâm
Sắp chết tâm không loạn.
Chuyên chú nơi cảnh giới
Không tu tâm chuyên chú
Sắp chết ắt tán loạn.
Nếu tâm bị tán loạn
Như dùng cương điều ngựa
Nếu khi nó chiến đấu
Lòng vòng không đi thẳng.

Người không khéo quán sát, không thu nhiếp năm căn, lúc sắp chết tâm khó kiềm chế. Như áo giáp trong kho đã bị mục nát, lúc gặp địch đem ra dùng thì áo giáp đã mục nát tơi tả. Không tập kiềm chế tâm lúc sắp chết cũng như vậy.

Chương 50

Người có công đức chân thật thì nên cúng dường. Người trí nên cung kính Bậc có đức.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có nước A-việt-đề, vua nước này tên là Nhân-đề-bạt-ma. Vua có người em tên là Tu-lợi-bạt-ma. Vì tranh giành lãnh thổ nên hai anh em đánh nhau. Tu-lợi-bạt-ma ném dây tròng vào đầu Nhân-đề-bạt-ma, kéo thật nhanh, Nhân-đề- bạt-ma hết sức sợ hãi phát nguyện: “Nếu được cứu thoát, tôi sẽ mở hội Vô già trong Phật pháp”. Nguyện xong thì sợi dây liền đứt ngay. Từ đó vua rất kính tin Phật, Pháp, Tăng. Vua ra lệnh cho quan đại thần Phù Giả Diên-mật-đa lập hội Vô già. Đại thần vâng lệnh vua, lập hội Vô già để làm lợi ích cho mọi người. Lúc ấy, quan đại thần ngồi hàng đầu trông thấy vị Thượng tọa Tỳ-kheo lưu lại nửa phần ăn, chú nguyện xong bỏ thức ăn dư vào đầy bát rồi đứng dậy đi. Như thế đến ba lần. Quan đại thần trông thấy liền sinh tâm bất tín. Ông suy nghĩ: “Tỳ-kheo như thế chắc chắn là không thanh tịnh”. Nghĩ xong, ông tâu mọi việc lên vua. Vua hỏi quan đại thần:

– Khanh có lòng tin chứ? Quan đại thần tâu:

Thưa đại vương, hạ thần không có lòng tin. Vì sao? Vì vị Tỳ-kheo Thượng tọa lưu lại nửa phần ăn rồi đứng dậy đem đi, chắc chắn là thức ăn ấy được mang về cho vợ con, nên hạ thần nghi ngờ ông ta.

Vua nghe xong, đưa hai tay bịt tai, bảo quan đại thần:

– Đừng nói nữa! Khanh chớ nghĩ quấy cho người. Khanh không có năng lực trí tuệ, làm sao có thể xét đoán được người ấy. Như Đức Phật có dạy: “Nghĩ sai cho chúng sinh chắc chắn tự làm hại mình”. Khanh chớ có sinh tà kiến điên đảo.

Vua liền nói kệ:

Giới, Định, Tuệ vắng lặng
Được Tuệ giác học rộng
Đệ tử Phật như thế
Che giấu các công đức
Như lửa được tro lấp
Hành giới trí lâu ngày
Điều Đức Thế Tôn dạy.
Khanh không cùng sống chung
Sao biết hạnh của người?
Phật nói quả Yêm-la
Dụ cho bốn hạng người
Chỉ người trượng phu khéo
Mới biết phân biệt được,
Chỉ Phật Thế Tôn nói
Và người ngộ như Phật
Mới suy lường người được.
Vì thế khanh không nên
Khinh thường đệ tử Phật
Mà đánh giá hồ đồ
Như kho tàng trong đất
Bị phủ bởi đất cát
Ai biết dưới có báu.
Thôi khanh đừng đi nữa
Tự nên xem xét lại
Ta từ nay về sau
Đích thân cúng dường Tăng
Người ngu uống thuốc hay
Cũng biến thành thuốc độc.

Sau đó, đích thân vua đến cúng dường chúng Tăng, tự tay dâng thức ăn. Vị Tỳ-kheo Thượng tọa lúc trước cũng để lại thức ăn, chú nguyện xong liền đem đi. Vua đi theo sau và thưa với Thượng tọa:

– Bạch Thượng tọa, ngài tuổi tác đã cao, có thể đưa bát cho trẫm cầm giúp.

Khi ấy, vị Thượng tọa không muốn trao bát, vua cố tình xin cầm giúp, cho đến thôn Chân-đà-la vị Thượng tọa vẫn không muốn trao bát. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo Thượng tọa liền nói kệ:

Tôi biết vua tịnh tín
Xót thương hay cứu giúp
Tuy vua sinh đời trược
Nhưng oai nghi trang nghiêm
Các vua tài trên đời
Vẫn cũng không bằng được.
Không biết giới hạnh tôi
Chỉ thấy tôi xuất gia
Chưa từng có qua lại
Cũng không có quan hệ
Mà rất là yêu kính
Ân còn hơn cha hiền
Dù không thấy tâm ông
Các căn đều vui hòa.
Mặt trời mọc trên không
Mây dày che không hiện
Dù có mây che khuất
Hoa nở biết trời sáng,
Biết vua tâm tin sâu
Đặc biệt chưa từng có
Biết nhún mình tự thấp
Muốn ôm bát giùm tôi
Giàu sang phước lợi nhưng
Không hay mạn, buông lung.
Các vua được tự tại
Kiêu mạn làm mù mắt
Chỉ gây các nghiệp ác
Sa đọa nhiều lầm lỗi
Mạnh mẽ có trí lực
Khéo biết dùng tài thí
Quán thân như huyễn hóa
Biết giữ pháp chắc thật.
Nếu nói tóm lại thì
Tất cả đều thêm lớn
Như vua tự điều phục
Trên hết trong giáo hóa
Đạo Hiền thánh thực hành
Hạnh tùy thuận của chúng.

Tôi đã nhận sự cúng dường của vua và vua cũng hạ mình xin ôm bát giùm tôi, việc cúng dường đã đủ, không cần phải lấy bát.

Bấy giờ, nhà vua lại ân cần xin theo ôm bát. Tỳ-kheo Thượng tọa nghĩ: “Vì sao vua muốn ôm bát giùm ta?”. Vị Tỳ-kheo Thượng tọa liền nhập định quán sát, biết vua muốn điều phục quan đại thần cho nên xin ôm bát. Ngài liền nói kệ:

Kẻ phàm phu ngu tối
Muốn động núi Tu-di
Giờ ta sẽ đưa bát
Để giúp tâm ý họ.
Đối với tiếng khen chê
Tâm ta đều không khác
Sinh bất tín với ta
Làm tổn giảm nhiều người.

Nói kệ xong, vị Tỳ-kheo Thượng tọa đưa bát cho vua. Vua liền ôm bát, giống như vòi voi cuốn lấy hoa sen xanh. Vua theo Tỳ-kheo Thượng tọa đi đến nhà Chiên-đà-la. Tỳ-kheo Thượng tọa mời vua vào nhà, vua không chịu vào mà chỉ đứng trước cửa. Bà mẹ của Tỳ-kheo trước đã chứng quả A-na- hàm, có Thiên nhãn biết được tâm người (khác) và cũng biết nhân duyên căn lành của người khác. Mẹ của vị Tỳ-kheo thưa với vua:

– Ngài chớ khiếp sợ! Hãy vào nhà tôi. Bà liền nói kệ:

Ngài không nên nghi ngờ
Đây nhà Thủ-đà-la
Chẳng phải nhà Chiên-đà
Con đầu chứng La-hán
Con thứ ba Dự lưu
Tôi là Ưu-bà-di
Của Phật Nhất Thiết Trí
Chứng quả A-na-hàm.
Ngài chỉ xét Giới hạnh
Chớ hỏi dòng họ nào
Chấp xét đạo đức tôi
Chớ màng đến gia quyến
Sau rốt sinh nhà này
Có công đức tốt đẹp.
Giống như trong cát đá
Có thể đãi ra vàng
Y-lan phát được lửa
Bùn hôi mọc hoa sen,
Xét người theo đạo đức
Đừng y cứ dòng họ?
Y-lan với chiên-đàn
Đốt cháy đều tỏa nhiệt
Cả hai đều có ích
Công đức giống như nhau.

Nghe bà mẹ nói kệ xong, vua than: “Hỡi ôi, đây chính là bậc Đại nhân trong Phật pháp. Thể tánh Phật đại bi giúp cho Chiên-đà-la được đến chỗ bất sinh bất diệt mà không phân biệt dòng họ, gầm lên tiếng rống sư tử giữa giai cấp Chiên-đà-la trong Chánh pháp do Phật nói”. Vua lại nghĩ: “Nếu cúng dường theo dòng họ thì mất công đức, còn nếu cúng dường theo công đức thì không nên phân biệt Chiên-đà-la”.

Vua liền nói kệ:

Chỉ cúng dường công đức
Không nên xét dòng họ
Bà-la-môn nói dụ
Trong bùn mọc hoa sen
Trời và A-tu-la
Tôn kính đội trên đầu.
Bà-la-môn có lỗi
Người trí đều dứt bỏ
Nếu họ gây nghiệp ác
Nói không lỗi được chăng?
Nhưng thật là có lỗi
Nếu Chiên-đà có đức
Há có thể không nhận
Mà thật có công đức
Chiên-đà-la như thế
Ta phải nên cúng dường.
Chiên-đà-la như vậy
Tu khổ hạnh trong rừng
Đó gọi là Tiên thánh
Chẳng phải Chiên-đà-la.
Chiên-đà-la giết nai
Vua chúa ăn thịt nó
Chiên-đà-la làm tên
Và cũng dùng tên bắn
Vì lý do như thế
Ta nên tùy thuận hành
Chiên-đà người có đức
Vì sao không dám nhận?

Nói kệ xong, vua vào nhà quỳ thẳng chắp tay suy nghĩ: “Trước khi kính lễ bà lão ta nên đảnh lễ Đức Phật trước. Đức Như Lai Thế Tôn chỉ bày con đường chân chính cho Chiên-đà-la, cũng chỉ bày con đường chân chánh an ổn cho tất cả chúng sinh, cho nên ta đảnh lễ Đức Phật trước.

Vua bèn nói kệ:

Kính lễ Phật khổ hạnh
Vị thầy thuốc trên hết
Nay con vì Thế Tôn
Kính lễ người thấp hèn.
Như nương núi Tu-di
Nai, chim đều sắc vàng
Nghe Ngài nói việc này
Nay con đang chứng biết,
Nương núi Tu-di Phật
Kẻ hèn có thể sang
Biển trí Nhất thiết chủng
Ý tịnh lên bờ giác.
Chỉ có Phật cứu đời
Lòng từ, không ác ý
Đối với các chúng sinh
Làm người bạn gần gũi
Với một vị giải thoát
Phân biệt nói nhiều loại
Ngoại đạo thì ngông cuồng
Phân biệt xằng dòng dõi.

Vua nói kệ xong, đảnh lễ ra về.

QUYỂN 9

Chương 51

Nhân duyên sân giận Đức Phật không thể can ngăn. Cho nên người có trí tuệ nên dứt bỏ tức, sân giận.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, các Tỳ-kheo nước Câu-diệm-di vì tranh cãi nên chia làm hai bộ, tranh chấp nhau về đạo lý suốt trong thời gian dài. Đức Thế Tôn có lòng Đại bi vô thượng dùng bàn tay có hình bánh xe để ngăn các Tỳ-kheo. Ngài nói kệ:

Tỳ-kheo chớ tranh cãi
Tranh cãi nhiều mất mát
Tranh hơn thua không ngừng
Nối nhau luôn không dứt
Bị người đời chê trách
Việc bất lợi thêm lớn.
Tỳ-kheo cầu lợi lành
Dứt bỏ các ái dục
Lìa gia đình, vợ con
Tâm mong được giải thoát
Nên nương pháp xuất gia
Chớ làm việc không nên,
Mà phải dùng móc trí
Khéo bỏ tâm ngạo mạn
Không hợp, gây tranh cãi
Gốc rễ của oán hại
Nương theo pháp xuất gia
Chẳng nên khởi tâm xấu.
Ví như nước trong mát
Chẳng thể sinh lửa dữ
Đã đắp y hoại sắc
Phải nên tu pháp lành
Áo này nên vắng lặng
Thường nghĩ tự điều phục.
Vì sao mặc áo này
Mà trợn mắt sừng sộ
Lại nhăn mày nhíu trán
Khởi lên tâm tức giận?
Phải nhớ đã đắp y
Cạo đầu làm Sa-môn
Tất cả đều xả bỏ
Tại sao lại tranh giành
Tướng Sa-môn như vậy
Phải chấm dứt tranh cãi.

Các Tỳ-kheo ấy quay hướng về Đức Phật và thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài tha thứ. Các thầy Tỳ-kheo kia khinh thường con thì tại sao con không trả thù?

Rồi họ nói kệ:

Việc khó điều phục kia
Nhẫn được càng thấy nhẹ
Nhẫn là muốn nhún mình
Giận dữ càng đầy ắp,
Tâm ác muốn chê bai
Giống như búa chặt đá
Người kia làm tổn hại
Ta cũng phải báo thù.

Đức Thế Tôn giống như Đấng Cha Lành nói như vầy:

– Người xuất gia phải siêng năng dùng mọi phương tiện dứt bỏ sân hận. Nếu thuận theo sự tức giận thì rất trái với đạo lý. Tức giận gây ra nhiều lỗi lầm.

Thế Tôn liền nói kệ:

Tức giận như dao bén
Cắt đứt tình thân thuộc
Tức giận giết hại họ
Người giữ đúng pháp luật
Người xuất gia tức giận
Là việc không nên làm.
Giận ghét như gông cùm
Tức tối là sợ hãi
Nhà cửa của khinh thường
Hạt giống của xấu ác
Bạn của lời thô ác
Lửa dữ đốt rừng ý.
Người chỉ ra nẻo ác
Cửa oán hại tranh cãi
Giường chiếu tiếng tăm xấu
Cội gốc gây điều ác.

Người tức giận bị người khác chê bai quở trách.

Thầy hãy nên quán sát lỗi lầm như thế.

Ngài lại nói kệ:

Sân mạnh hơn cọp dữ
Như ghẻ lở khó chạm
Rắn độc, khó thấy vui
Tức giận cũng như vậy.
Người sân ngủ cũng khổ
Phá hoại tiếng tăm tốt
Người tức giận bừng bừng
Không biết việc mình làm
Và việc người khác làm
Lúc phân chia tài lợi
Thì mình không được phần.
Nếu ở nơi vui chơi
Không hòa hợp với người
Nơi có lợi như thế
Do sân không vào được.
Người sân không ưa thích
Việc của họ rất nhiều
Thường có tâm hổ thẹn
Dù nói bằng trăm lưỡi
Nói không thể nào hết.
Nếu nói tóm lại thì
Chịu khổ trong địa ngục
Không thể nào nói hết
Tức giận gây ác rồi
Ăn năn đốt thân tâm
Cho nên người hiểu biết
Phải dứt bỏ tức giận.

Đức Như Lai nói pháp bằng nhiều cách cho các thầy Tỳ-kheo nghe nhưng sự giận dữ của các thầy vẫn không dứt. Do nhân duyên này chư Thiên, Thiên thần đều nổi giận mà nói kệ:

Giống như trong nước đục
Bỏ châu Ma-ni vào
Nước liền được lắng trong
Không còn bẩn đục nữa,
Như Lai, Bậc Tôn Quý
Vì các thầy Tỳ-kheo
Tùy thuận phương tiện nói
Các pháp mầu tốt đẹp.
Các thầy Tỳ-kheo này
Tâm nhơ còn chưa sạch
Thà làm nước dơ bẩn
Sức châu làm cho trong
Không làm Tỳ-kheo này
Nghe pháp do Phật nói
Mà trong tâm ý họ
Vẫn còn dơ không sạch.
Như nhật chiếu thế gian
Xua tan mọi bóng tối
Mặt trời Phật gần thầy
Tâm đen tối quá sâu.

Đức Như Lai Thế Tôn quở trách các Tỳ-kheo mang gánh nặng như vậy. Ngài có tâm thương xót, lại kể câu chuyện về vua Trường Thọ, nhưng các Tỳ-kheo cứ nhăn trán nhíu mày không thôi. Họ thưa:

– Đức Phật là Đấng Tự Tại đối với các pháp, xin hãy đợi giây lát! Chúng con tự biết.

Như Lai nghe lời này liền bỏ nơi ấy, đi đến chỗ khác cách đó mười hai do-tuần đến rừng Ta-la ngồi dưới gốc cây tự nghĩ: “Giờ đây Ta đã xa lìa các Tỳ- kheo tranh cãi nước Câu-diệm-di.”

Lúc ấy, có một con voi đầu đàn tránh xa bầy voi đến ở dưới gốc cây, cách Phật không xa, nhắm mắt đứng yên. Nó cũng khởi niệm: “Ta xa lìa bầy cảm thấy rất yên tịnh.” Đức Phật biết tâm niệm của voi đầu đàn liền nói kệ:

Voi kia voi đây ngà
rất dài Xa lìa bầy
thấy vui yên tịnh Vui
thích một mình, Ta cũng
vậy Xa lìa nơi nhóm
họp tranh cãi.

Nói kệ xong, Ngài nhập vào thiền định thật sâu. Các thầy Tỳ-kheo không chịu nghe lời Đức Phật dạy về sau ăn năn. Thiên thần giận dữ, cả nước nghe được việc ấy đều tức giận quát tháo. Các thầy Tỳ-kheo nói với nhau:

– Làm sao chúng ta còn được thấy Phật.

Họ bèn cùng nhau chắp tay thỉnh Phật, nói kệ:

Chúng con trái lời Phật
Phật, Thầy ba cõi dạy
Tội lỗi xấu tức giận
Ở tại trong tâm ta
Ngọn lửa hừng ăn năn
Đốt cháy cả rừng ý.
Lành thay! Đấng thương xót
Xin lại dạy chúng con
Nay chúng con phát nguyện
Đều cầu mong giải thoát
Từ nay trở về sau
Thà xả bỏ nhục thân
Chứ không trái lời Phật.

Đức Phật biết ý nghĩ trong tâm các thầy Tỳ- kheo, Ngài liền nói kệ:

Muốn ngăn chận tức giận
Không thuận theo buồn bực
Giờ Ta nên thương xót
Trở về cứu khổ nạn.
Trẻ ngu gây lỗi xấu
Người trí phải nhẫn chịu
Ví như người bế con
Chịu mọi thứ ô uế
Không thể vì phân thối
Mà vất bỏ con mình.

Nói kệ xong, Đức Phật từ tấm trải ngồi bằng cỏ đứng dậy, định trở về Tăng phường. Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la... chắp tay hướng về phía Phật nói kệ:

Than ôi! Đấng Đại Bi
Bậc Đại Tiên chánh đạo
Các thầy Tỳ-kheo kia
Bị buông lung làm mù
Tâm ganh tức không ngừng
Xúc não Đức Thế Tôn.
Như Lai tâm Đại bi
Vẫn không hề xả bỏ
Thương xót không giận ghét
Ý muốn cho điều phục
Như cưỡng ép ngựa dữ
Quất roi để điều phục.

Như Lai trở về đến Tăng phường, ánh sáng chiếu soi, các thầy Tỳ-kheo biết Phật đã trở về liền ra đón rước. Họ kính lễ Đức Thế Tôn rồi thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con tranh chấp làm cho nhiều người sinh tâm tức giận, lại còn bị họ khinh thường. Ngày nay chúng con đều phạm tội phá Tăng. Cúi xin Ngài trở lại nói pháp, làm cho chúng con được hòa hợp.

Lúc ấy Như Lai nói sáu pháp hòa kính cho các thầy Tỳ-kheo nghe, giúp họ trở lại hòa hợp. Thế nên Đức Phật dạy dứt bỏ tức giận.

Chương 52

Phải nên quán sát các thức ăn. Đức Thế Tôn cũng dạy chánh quán trong khi ăn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, vì việc khất thực của Tôn giả Hắc- ca-lưu-đà-di mà Đức Phật chế giới. Đức Phật nói các nhân duyên khen ngợi giới, khen ngợi giữ giới, ít muốn biết đủ, thực hành hạnh đầu-đà. Đức Phật nhóm họp Tỳ-kheo Tăng, khen ngợi pháp giữa ngày ăn một bữa, cho đến muốn chế giới giữa ngày ăn một bữa. Tỳ-kheo Tăng đều yên lặng, giống như biển lớn lặng yên, không có tiếng sóng. Lúc ấy, trong chúng Tăng có một thầy Tỳ- kheo tên Bà-đa-lê bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, Ngài đừng chế giới ấy vì con không giữ được.

Phật bảo thầy Tỳ-kheo:

Việc sinh tử ở quá khứ là do ăn uống, trong khi đang sinh tử phải chịu khổ vô cùng, trôi lăn cho đến nay. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp có bốn vị Tiên cầm thú. Vị Tiên thứ nhất lúc bấy giờ là con quạ nói như vầy: “Trong các khổ, đói khát là khổ nhất.” Lúc kiếp mới bắt đầu, chư Thiên ở tầng trời Quang âm xuống nhân gian. Có một vị trời, đầu tiên dùng ngón tay nếm thử vị đất rồi liền lấy ăn. Vị trời ấy nay chính là Bà-đa-lê. Vào thời đó Bà-đa-lê nếm vị đất trước, ngày nay cũng lại như vậy, chỉ vì ăn uống.

Bà-đa-lê không vì pháp nên từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài đừng chế pháp giữa ngày ăn một bữa.

Bà-đa-lê liền nói kệ:

Nay con không thể giữ
Giới một bữa của Phật
Nếu một người không kham
Không nên chế giới này.

Tất cả các Tỳ-kheo nghe kệ này xong đều cúi đầu suy nghĩ thật lâu rồi nói:

– Chao ôi! Vị ấy không thấy được tội lỗi của việc ăn uống. Vì việc ăn uống nên ở trong đại chúng bị hủy nhục.

Họ nói kệ:

Thà ăn cỏ với nai
Như rắn hít thở gió
Không ở trước Phật, Tăng
Cũng vì việc ăn uống
Mà trái lời Phật dạy.

Đức Phật bảo Bà-đa-lê:

– Cho phép thầy ăn một nửa tại nhà đàn-việt, còn một nửa đem về chùa ăn.

Bà-đa-lê vẫn cố ý không chịu. Ngay lúc ấy, Đức Phật chế giới giữa ngày ăn một bữa. Lần thứ hai, thứ ba Bà-đa-lê cũng xin Phật như vậy. Đức Phật không chấp nhận liền chế giới. Bà-đa-lê liền bỏ Phật mà đi, trong lòng rất ăn năn liền nói kệ:

Tôi trái lời Phật dạy
Vì sao lưỡi không đứt
Vì sao đất không lấp
Mà vẫn mang chở tôi?
La-sát, Tỳ-xá-xà
Rồng độc và giặc cướp
Không ai dám trái lời
Chỉ vì việc ăn uống
Ngu si trái lời Phật,
Thà dùng dao mổ bụng
Ăn nuốt các dòi trùng
Ăn đất cho đầy bụng
Tại sao vì ăn uống
Mà trái lời Phật dạy!
Nay con tự quở trách
Dụ như người vô tâm.

Bà-đa-lê nói kệ xong, hổ thẹn tự trách. Trong ba tháng thầy cảm thấy xấu hổ không dám gặp Phật. Lúc gần đến ngày Tự tứ ngày đêm ông buồn bã bức rứt, thân thể gầy ốm xấu xí, mất hết oai đức. Các thầy Tỳ-kheo những vị có tâm Từ rất thương xót nói kệ: kệ:

Nay các thầy Tỳ-kheo
May y và giặt nhuộm
Không lâu sẽ ra đi
Sau thầy đừng ăn năn
Thầy mau đến chỗ Phật
Lễ dưới chân hoa sen
Hướng về Bậc Tôn Quý
Hết lòng mà cầu xin
Phải đem hết sức lực
Mới có thể sám hối.

Nghe kệ xong, Bà-đa-lê nghẹn ngào rơi lệ nói

Lời Đức Thế Tôn dạy
Đời đều không dám trái
Vì tôi quá ngu si
Dám trái lời Phật dạy.
Tôi quá sức xem thường
Trước chúng không hổ thẹn
Không thấy đời sau cười
Làm giặc cướp trong chúng.
Không nghĩ lỗi xấu ấy
Nên nói lời như vậy
Việc này Tăng nên làm
Chẳng phải điều tôi xin
Do tôi không tâm định
Lỡ nói lời như vậy.

Những vị Tỳ-kheo đồng phạm hạnh nghe kệ, liền muốn thỉnh Phật cầu xin sám hối.

Bà-đa-lê lại nói kệ:

Giờ tâm con tha thiết
Cầu xin được sám hối
Xấu hổ làm sao dám
Đưa mắt nhìn Thế Tôn.

Các Thầy Tỳ-kheo bảo Bà-đa-lê:

– Nếu Đức Thế Tôn còn phiền não lậu hoặc thì thầy hãy sợ, giờ đây Đức Thế Tôn từ lâu đã dứt bỏ các lậu hoặc, thầy có điều gì sợ mà không đi? Bà- đa-lê nói kệ:

Tôi nghi tội lỗi mình
Như thấy vầng trăng tròn
Không sân, mặt dễ nhìn.
Đấng Từ Bi ba cõi
Nay con muốn nhìn thấy
Từ bi dạy cho con
Bị ngu si che mờ
Nên không vâng lời Phật.
Ví như người muốn chết
Không uống thuốc đúng bệnh
Trái với lời Phật dạy
Giờ chịu khổ ăn năn.

Các thầy Tỳ-kheo đồng tu phạm hạnh nói:

– Thầy hãy cùng chúng tôi đến gặp Đức Thế Tôn để bày tỏ lỗi lầm.

Các thầy Tỳ-kheo lại hỏi Bà-đa-lê:

– Thầy có quyết định sám hối chăng?

Bà-đa-lê liền nói kệ:

Giờ, nếu tôi lễ Phật
Thà khiến thân tan nát
Phật không bảo tôi dừng
Tôi không bao giờ dừng
Nếu Phật nói với tôi
Thân tâm mới thỏa mãn.

Bà-đa-lê cùng các thầy Tỳ-kheo đến chỗ Phật. Lúc ấy, Đức Phật Thế Tôn đang ở trong đại chúng. Ở trước Đức Phật, Bà-đa-lê sụp lạy và nói kệ:

Cho con sám hối tội
Thầy Điều Ngự loài người
Đấng thể tánh thương xót
Con như ngựa bị ép
Vượt qua đường điều thuận
Dù cho không được ăn
Mắt sâu, xương má lồi
Gầy còm cho đến chết
Thà chịu khổ như thế
Không trái lời Phật dạy.
Đế Thích và Phạm thiên
Kính vâng theo lời Phật
Con vì quá ngu si
Không vâng lời Phật dạy.

Đức Như Lai khéo biết lúc nào là đúng thời và lúc nào chẳng đúng thời. Ngài quở trách thật nặng để tất cả đều hiểu rõ. Đức Phật bảo Bà-đa-lê:

– Nếu có vị A-la-hán bị ngã vào đống phẩn dơ bẩn hôi thối, Ta đi trên lưng, ý thầy nghĩ thế nào? Vị A-la-hán kia có buồn khổ chăng?

Bà-đa-lê thưa:

– Thưa không, bạch Đức Thế Tôn.

– Nếu thầy đã chứng quả A-la-hán, A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn thì không bao giờ trái lời Đức Phật dạy, bởi thầy còn là phàm phu ngu si chưa chứng được gì hết. Dụ như trong cây chuối không có lõi… nói rộng như trong kinh.

Lúc ấy người ta cho rằng Bà-đa-lê chứng A-la- hán nhưng nghe Đức Phật nói xong họ biết Bà-đa- lê là phàm phu còn đầy phiền não. Các thầy Tỳ- kheo đều không tin khi nghe Bà-đa-lê chưa chứng quả A-la-hán. Như thế, nếu hàng quý tộc xuất gia mà không chứng quả A-la-hán thì làm sao Ni-đề thuộc dòng dõi thấp hèn xuất gia lại chứng quả A- la-hán được? Đức Phật muốn làm cho người nào hết lậu hoặc thì người ấy được hết lậu hoặc, còn không muốn cho người nào hết lậu hoặc thì người ấy không được hết lậu hoặc. Phật biết tâm niệm của các thầy Tỳ-kheo, liền bảo:

Nếu tu Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na thì chắc chắn sẽ dứt được lậu hoặc, còn không tu pháp ấy thì không thể dứt hết lậu hoặc. Nếu ai biết hoặc thấy như vậy thì dù sinh trong dòng họ thấp hèn vẫn chứng được quả A-la-hán. Nếu Bà-đa-lê không biết, không thấy dù sinh trong dòng họ cao quý cũng vẫn không chứng được quả A-la-hán. Cho nên Như Lai nói một cách bình đẳng không có thiên vị.

Chương 53

Điều làm cho buông lung ngông cuồng không gì hơn tham dục. Vì vậy phải siêng năng dứt bỏ tham dục.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, lúc Đức Thế Tôn còn tu hành đạo Bồ-tát, lúc ấy thế gian hoàn toàn không có Phật, Hiền thánh xuất hiện ở đời. Bấy giờ, có vị vua tên là Quang Minh cỡi voi đã được huấn luyện thuần thục đi du ngoạn.

Vua có các kỹ nữ ca múa theo hầu trước sau, đến chỗ núi nguy hiểm, con voi vua cỡi nhìn thấy voi cái ở đằng xa thì tâm dục rạo rực, liền rống lên một cách hung hăng cuồng dại. Nhanh như gió thổi, nó liền chạy đến chỗ voi cái, bất chấp nguy hiểm. Lúc ấy người nài voi dùng các móc sắt kềm hãm lại nhưng không làm cho voi đứng lại được. Vua Quang Minh rất sợ hãi nói:

– Sử dụng móc sắt mà không kềm hãm được, giống như đệ tử tội ác không thuận theo lời thầy.

Voi đi quá nhanh, vua rất hoảng hốt, trong lòng buồn khổ, cho rằng chắc chết, liền nói kệ:

Như thấy hư không động
Nhanh chóng trốn các nơi
Thảy đều nhóm họp lại
Thấy khắp nơi chuyển động
Mặt đất đều rung chuyển.
Voi kia chạy quá nhanh
Ví như núi đi mau
Các núi như theo sau
Sông giữa khe hang cao
Cây cối hại thân thể.
Vua sợ hãi buồn bực
Phát nguyện cầu Thần núi
Cho mình được an toàn,
Móc sắt làm hại thân
Dục khởi không biết khổ
Voi càng chạy càng nhanh
Giống như bị gió mạnh
Gai, góc đâm vào thân
Bị đá làm tổn thương
Đầu tóc đều rối tung
Bụi đất bám nhơ bẩn
Áo quần lại rách nát
Chuỗi ngọc và vòng vàng
Rơi rớt hết xuống đất.

Bấy giờ, vua bảo người nài voi:

– Mạng sống của ta sợ khó an toàn.

Vua lại nói kệ:

Ngươi gắng tìm cách nào
Kềm chế cho dừng lại
Ta như ở trên cân
Nghiêng hẳn về bên chết.

Người nài voi dùng hết sức dùng móc sắt đâm voi nhưng vẫn không kềm chế được. Ông ta luôn luôn than thở, sắc mặt xấu hổ, nước mắt ràn rụa, ngoảnh mặt tránh đi nơi khác không nỡ để vua nhìn thấy, rồi tâu:

– Thưa đại vương, hạ thần phải làm sao đây? Ông liền nói kệ:

Hết sức tụng chú voi
Lời dạy của cổ tiên
Móc sắt đập hết sức
Đều không kềm chế được.
Như người lúc sắp chết
Chú thuật và thuốc hay
Mạng hết ắt phải chết
Thuốc hay không cứu được.

Đại vương bảo người nài voi:

– Bấy giờ chúng ta rơi vào hoàn cảnh này phải tính sao đây?

Người nài voi tâu với vua:

Thưa đại vương, không có cách nào khác chỉ còn cách leo lên cây.

Nghe người nài voi nói, vua đưa tay đu lên cây, con voi vụt chạy theo voi cái. Khi voi đi rồi thì đoàn người theo hầu mới đến chỗ vua. Vua từ từ bước về hướng quân lính. Người nài voi tìm theo dấu vết voi. Trải qua nhiều ngày, ông ta tìm được voi và trở về trong quân. Lúc ấy, vua đang ngự giữa mọi người thì người nài voi cỡi voi đến chỗ vua. Vua tức giận nói:

– Trước kia ngươi nói voi đã được huấn luyện thuần thục có thể cỡi được. Nay tại sao đem con voi ngông cuồng này để dối gạt ta?

Người nài voi chắp tay tâu với vua:

– Thưa đại vương, con voi này thật sự đã được huấn luyện thuần thục. Nếu vua không tin hạ thần sẽ làm cho nó thể hiện rõ sự thuần thục để ngài được biết.

Người nài voi nung hòn sắt đem để trước mặt con voi rồi bảo nó nuốt. Vua không nghe lời người nài voi thưa. Vua bảo:

– Ngươi nói nó đã được thuần thục, tại sao lại hung hăng cuồng dại như thế?

Người nài voi quỳ thẳng chắp tay tâu:

– Thưa đại vương, voi hung hăng cuồng dại như thế chẳng phải lỗi nơi hạ thần.

Vua bảo:

– Vậy thì lỗi nào mới chẳng phải do ngươi làm? Người nài voi tâu:

Thưa đại vương, voi có tham dục vì đó là tâm bệnh của nó chẳng phải do nơi hạ thần. Cúi xin đại vương hiểu cho, bệnh như thế dù dùng roi quất móc đâm cũng không thể trị được. Tham dục phá hoại tâm cũng lại như thế.

Ông liền nói kệ:

Dục, tên độc của tâm
Không biết từ đâu sinh
Nhờ đâu được thêm lớn
Làm sao tiêu diệt nó?

Vua nghe nói tham dục không thể trị được liền hỏi người nài voi:

– Bệnh tham dục này không thể trị được sao? Người nài voi tâu:

– Thưa đại vương, bệnh tham dục này không thể nào che đậy hoặc cho qua mà không điều trị.

Ông liền nói kệ:

Nên làm các phương tiện
Siêng tìm cách đoạn dục
Không biết nơi nó đến
Nhớ tinh tấn lui về
Xả bỏ năm món dục
Xuất gia tu khổ hạnh
Vì dứt bỏ dục kết
Phải siêng năng tu đạo.
Hoặc buông lung năm dục
Nói đủ sức tự dứt
Bao nhiêu thứ hạnh tu
Mong được xa lìa dục
Mỗi mỗi nơi như thế
Mong nhổ sạch gốc dục
Rừng dục khó nhổ sạch.
Trời, người, A-tu-la
Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà
Tất cả loài hữu sinh
Lưới dục tâm nhỏ nhiệm
Trói buộc các chúng sinh
Xoay vòng trong rừng hữu
Bởi không tự nhổ sạch.

Nghe nói tham dục không thể dứt bỏ, vua rất lấy làm quái lạ, liền nói kệ:

Nếu không có người nào
Dứt trừ được dục ấy
Vậy không có người nào
Dứt được tham dục sao?
Trong trời, người không có
Người nào dứt dục sao?

Bấy giờ, người nài voi tâu vua:

– Thưa đại vương, thần được nghe người ta nói chỉ có Đức Phật Thế Tôn, Bậc Thầy cao cả của thế giới có tâm Đại từ xem tất cả chúng sinh đều như con, thân như vàng ròng, được trang nghiêm bằng tướng của bậc Đại nhân. Ngài có trí tự nhiên biết được nhân duyên dục sinh khởi và sự diệt dục. Ngài có tâm vô ngại, từ bi thương xót tất cả.

Vua nghe Đức Phật là Bậc Đại Nhân liền đứng dậy chắp tay như hoa sen chưa nở ở trước mọi người phát thệ nguyện rộng lớn:

– Tôi dùng chánh pháp giúp cho nước nhà và đem bố thí của cải, nhờ công đức này, nguyện đời vị lai tôi được thành Phật, dứt bỏ tai họa tham dục cho chúng sinh.

Vì nhân duyên gì mà nói việc này? Vì chúng sinh không biết nhân duyên và cách đối trị tham dục nên nói kinh này.

Chương 54

Đức Phật quán xét trong thời gian lâu xa mới có được tín tâm, cho nên không làm việc một cách vội vã.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa ngồi thiền ở trong rừng. Ma Ba-tuần đội các vòng hoa lên đầu Tôn giả. Bấy giờ, Tôn giả xuất thiền thấy các vòng hoa ở trên đầu, ngài liền nhập định xem ai làm việc đó. Biết chính là do Ma vương Ba-tuần làm, ngài dùng năng lực thần thông cột ba thây chết vào cổ Ma vương. Ma vương thấy thây chết cột trên cổ mình, từ xa thấy Tôn giả biết chính là do ngài làm. Bấy giờ, Tôn giả liền nói kệ:

Đồ trang sức vòng hoa
Là vật Tỳ-kheo bỏ
Thây chết rất hôi thối
Người ái dục chán ghét.
Phật tử đấu sức nhau
Tranh giành ai thắng được
Nay ta đê tử Phật
Bỏ vòng hoa của ngươi
Nếu ngươi có sức mạnh
Hãy tháo gỡ thây chết.
Biển lớn sóng đánh vào
Người không thể kềm chế
Chỉ có núi Thiết vi
Nước tấp thì dội ngược.

Nghe xong kệ, Ma vương muốn cởi bỏ thây chết. Dù dùng hết năng lực thần thông nhưng Ma vương không thể cởi được. Như muỗi kiến muốn lay động núi Tu-di cao nhất thế giới, dù kiệt sức chúng cũng không thể lay động được. Ma Ba-tuần không thể cởi bỏ thây chết liền bay đi và nói kệ:

Nếu ta không tháo được
Thì các vị trời khác
Người oai đức tự tại
Chắc chắn họ gỡ được.

Bấy giờ, Tôn giả lại nói kệ:

Đế Thích và Phạm thiên
Đều không thể tháo được
Dù nhảy vào lửa cháy
Hay lặn xuống biển lớn
Không tiêu cũng không hoại
Thây trên cổ ngươi ấy
Không khô không mục nát
Cứ cột trên cổ ngươi
Không có người giải cứu.
Trời Ma-hê thủ-la
Và ba vị vua trời
Vua trời Tỳ sa-môn
Và cho đến Phạm thiên
Các vị trời như thế
Dù dùng hết thần lực
Không thể giải cứu được.

Bấy giờ Phạm thiên vương thấy Ma vương dùng hết sức nhưng không thể cởi bỏ thây chết liền bảo:

– Ngươi chớ sinh tâm kiêu mạn! Phạm thiên vương liền nói kệ:

Đệ tử của Thế Tôn
Dùng thần thông của mình
Do ngươi xem thường họ
Họ cố hủy nhục ngươi.
Ai mà có năng lực
Để giải cứu cho ngươi
Dù có sóng biển lớn
Không ngăn được sóng mòi,
Ví như dùng tơ sen
Để mà treo núi Tuyết
Ta dùng hết thần lực
Cũng không gỡ giùm được.
Ta tuy có sức mạnh
Không bằng Sa-môn kia
Giống như ngọn đèn sáng
Không bằng đống lửa lớn
Đống lửa lớn tuy sáng
Nhưng không bằng mặt trời.

Ma vương nghe kệ xong hỏi Phạm thiên:

– Tôi phải nhờ ai mới thoát được tai họa này? Để đáp lời Ma vương, Phạm thiên nói kệ:

Ngươi mau hướng Sa-môn
Để cầu xin quy y
Tiếng thần thông vang lừng
Giúp ngươi khỏi tai họa
Giống như người bị ngã
Chống đất để đứng lên.

Ma vương suy nghĩ: “Đệ tử của Như Lai phạm hạnh cao cả, oai lực của chư Thiên không bì kịp. Chính là các vị được Phạm thiên tôn kính.” Ma vương nói kệ:

Các đệ tử của Phật
Được Phạm thiên tôn kính
Huống gì đức hạnh Phật
Làm sao xét lường được!
Ta quá làm não loạn
Thương xót nên cố nhịn
Cho nên không vì ta
Làm các việc suy não
Hay nhẫn giúp đỡ ta
Đâu thể nào nói được.
Nay ta mới biết Phật
Bậc Đại Bi chân thật
Thể tánh rất thương xót
Không sinh tâm oán ghét.
Thân như ngọn núi vàng
Sáng chói hơn mặt trời
Ngu si mờ tâm ta
Làm những việc não loạn,
Ngài tinh tấn chắc thật
Chưa bao giờ nặng lời
Thường thấy Ngài thương xót.
Khiến tâm ta không vui.

Bấy giờ, Ma vương tự tại ở cõi Dục nói như vầy:

– Thấy khắp trong ba cõi không ai có khả năng giải cứu. Giờ đây ta chỉ còn trở về quy y với Tôn giả mới được thoát nạn.

Nói lời ấy xong, Ma vương hướng về chỗ Tôn giả, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ dưới chân ngài rồi thưa như vầy:

– Bạch Đại đức, con ở dưới cây Bồ-đề cho đến gây ra trăm thứ khổ não làm não loạn Phật, nhưng Ngài vẫn không làm khổ con.

Ma vương liền nói kệ:

Trong ngôi làng Bà-la
Xóm ấp Bà-la-môn
Cù-đàm đến khất thực
Con làm cho bát không
Đúng ngọ không được ăn
Nhưng Ngài không trách con.
Con từng làm trâu dữ
Cho đến làm rắn độc
Năm trăm xe lội nước
Làm Phật không uống được
Phật đều biết con làm
Nhưng Ngài không nói ác.
Việc con làm ít thôi
Tôn giả hủy nhục con
Trời, người, A-tu-la
Tất cả đều khinh thường
Trách con làm hư danh
Đem thây làm khổ con.

Tôn giả bảo Ma vương:

– Nay, ngươi là chúng sinh độc ác, bất thiện.

Thanh văn làm sao hơn Thế Tôn.

Ngài liền nói kệ:

Sao sánh hạt đình lịch
Với núi Tu-di được
Ánh sáng của đom đóm
Sao sánh với mặt trời?
Một vốc nước trong tay
Đem sánh với biển lớn,
Phật có tâm Đại bi
Thanh văn không đại bi
Như Lai dùng Đại bi
Tha thứ lỗi cho ngươi
Ta cũng theo ý Phật
Muốn ngươi gieo căn lành.
Ma vương nghe xong, liền
nói kệ: Nghe con nói
Phật đức Phước lợi, oai
đức sáng Ngài đã làm
được việc Dứt sạch các
ái dục Nhẫn nhục không
chê trách Nhưng vì con
ngu si Thường ngày hay
xúc não Như mẹ thương
con một.

Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa bảo ma Ba-tuần:

– Ngươi hãy nghe ta nói, đối với Đức Như Lai ngươi luôn luôn làm các việc ác. Muốn dứt sạch tội lỗi ấy để sinh các căn lành không gì hơn niệm Phật Thế Tôn.

Tôn giả liền nói kệ:

Nhờ nhân duyên như vậy
Biết Phật thấy sâu xa
Chưa từng đối với ngươi
Sinh tâm không thương xót.
Bậc trí đệ nhất ấy
Muốn ngươi được tín tâm
Thường nói lời thân ái
Người trí sinh chút tin
Liền được vui Niết-bàn.
Ta nói lược cho ngươi
Nói về lỗi lầm của
Ngu si và tối tăm
Nay ngươi sinh lòng tin
Có thể rửa sạch hết.

Toàn thân Ma vương nổi ốc như các thứ hoa Ba-đàm kia sinh ra xúc não, giống như đứa con có lỗi, tấm lòng mà người cha thương yêu hơn cả mặc đất bao dung, không hề trách mắng. Đức Phật là Bậc hơn hết trong các vị Tiên. Nếu tin Phật một chút thôi cũng rửa sạch tội lỗi. Lúc ấy, Ma vương ở trước Tôn giả nghĩ nhớ công đức Phật, đảnh lễ dưới chân Tôn giả rồi thưa như vầy:

– Bạch Tôn giả, ngài đã cứu con và giúp cho con sinh tâm kính tín. Xin ngài phát tâm cởi bỏ thây chết treo trên cổ con. Con tuy làm xúc não ngài nhưng cúi xin ngài mở lòng Từ bi cởi bỏ cho con.

Tôn giả bảo:

– Ngươi phải làm một việc thì sau đó ta mới cởi các thây chết cho ngươi.

Ma vương thưa:

– Bạch Tôn giả, đó là những việc gì? Tôn giả đáp:

– Đó là bắt đầu từ hôm nay ngươi không được làm não hại các Tỳ-kheo.

Ma vương thưa:

– Con không dám não hại nữa. Tôn giả nói:

– Ngươi nên biết cách Đức Phật Niết-bàn một trăm năm ta mới ra đời.

Tôn giả nói kệ:

Bậc Chân Tế ba cõi
Ta thấy pháp thân Ngài
Nhưng không thấy thân vàng.
Nay ngươi hãy hóa hiện
Thân Phật cho ta thấy
Nay ta rất mong mỏi
Yêu kính thân Như Lai.

Ma vương thưa với Tôn giả:

– Con cũng xin một điều là: Nếu thấy hình tướng Phật xin Ngài đừng vội đảnh lễ; dùng trí Nhất thiết chủng thận trọng đừng đảnh lễ con. Con giả làm tướng mạo Phật xin Ngài cẩn thận đừng đảnh lễ con. Ma vương nói kệ:

Vì cung kính nhớ Phật
Mà ngài đảnh lễ con
Thì con bị tiêu diệt
Con có thế lực gì
Được Bậc Ly Dục kính.
Dụ như mầm Y-lan
Bị cuốn bởi vòi voi
Hư hoại không dùng được
Nếu con nhận ngài kính
Việc ấy cũng như vậy.

Tôn giả đáp:

– Ta sẽ không kính lễ, ngươi cũng không trái lời đã hứa.

Ma vương lại thưa với Tôn giả:

– Xin đợi con trong giây lát.

Ma vương đi vào rừng vắng, nói kệ:

Con dùng phép thần thông
Hiện thân vàng sáng chói
Thân Phật không nghĩ bàn
Con làm thân như thế
Hiện thân sáng rực rỡ
Hơn mặt trời, mặt trăng
Làm vui mắt mọi người
Rõ như uống cam lộ.

Tôn giả nói:

– Bây giờ ngươi hãy hiện ra thân Phật cho ta thấy.

Ma vương thưa:

– Bây giờ con sẽ hiện thân Phật để cởi bỏ thây chết.

Lúc bấy giờ, Ma vương liền vào trong rừng vắng hiện làm thân Phật giống như người thợ tài giỏi trang trí từng nét đẹp. Các thân của Như Lai thể hiện tướng của bậc Đại nhân, có công năng giúp cho người nhìn thấy được mắt pháp thanh tịnh. Dụ như bức tranh mới vẽ, thân Phật bắt đầu từ trong rừng đi ra, làm trang nghiêm khu rừng ấy, khiến người chiêm ngưỡng không nhàm chán và thấy đủ, vầng ánh sáng tròn vây quanh một tầm hóa làm thân Phật, Xá-lợi-phất đứng hầu bên phải, Mục-kiền-liên đứng hầu bên trái, A-nan theo sau ôm bình bát của Phật. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, A- ni-lô-đầu, Tu-bồ-đề, các vị đại Thanh văn một ngàn hai trăm năm mươi vị như thế đứng hầu hai bên Phật giống như hình bán nguyệt, biểu hiện tướng mạo của Phật, hướng về chỗ Tôn giả Ưu-ba- cúc-đa.

Tôn giả thấy tướng mạo Phật tâm rất vui mừng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi quan sát hình tướng Phật. Chao ôi! Thật chán ghét vô thường không có tâm thương xót thân sắc tuyệt diệu của Kim Sơn vương, vì sao lại phá hoại thân Mâu-ni? Bị vô thường hoại diệt như thế? Bấy giờ, Tôn giả thấy tâm ý của mình muốn rối loạn. Ta thật sự thấy Phật, liền chắp tay như hoa sen nói như vầy: “Đẹp thay! Sắc thân kỳ diệu không thể tả xiết”, liền nói kệ:

Mặt đẹp hơn sen nở
Mắt như lá sen xanh
Thân hình đẹp tuyệt diệu
Tướng đẹp hơn mặt trăng
Sâu xa như biển cả
Đứng vững như Tu-di
Oai đức hơn mặt trời
Đi oai như sư tử
Mắt như trâu đầu đàn
Sắc đẹp hơn vàng ròng.

Tôn giả càng vui mừng kính tin hơn, hoan hỷ càng sinh thêm, liền nói kệ:

Than ôi! Nghiệp thanh tịnh
Được quả báo nhiệm mầu
Do nghiệp trước cảm nên
Chẳng phải nghiệp đang làm.
Trong trăm ngàn ức kiếp
Thân, miệng làm việc tốt
Tu thí, giới, nhẫn nhục
Thiền định và trí tuệ
Quyết định làm chánh hạnh
Lấy đó tự trang nghiêm.
Mọi người đều ưa nhìn
Thanh tịnh không nhơ bẩn
Khi hiện hình tướng này
Oan gia đều vui mừng
Huống gì ta ngày nay
Lẽ nào không ai kính.

Tôn giả nghĩ như vậy, chỉ nhớ đến Phật mà không nhớ đến ma, Ngài liền đứng dậy, gieo năm vóc lạy sát đất. Lúc ấy Ma vương kinh sợ nói như vầy:

– Vì sao Đại đức không giữ lời hứa? Tôn giả hỏi:

– Ta đã hứa gì? Ma vương nói:

– Lúc nãy ngài có hứa là không làm lễ, bây giờ sao ngài lại lễ.

Tôn giả liền đứng dậy nói kệ:

Mắt ưa thích muốn thấy
Tâm nghĩ là lễ Phật
Nay ta thật không phải
Cung kính làm lễ ngươi.

Ma vương nói:

– Ngài gieo năm vóc sát đất làm lễ con, ngài lại nói là không kính lễ?

Tôn giả nói với Ma vương:

– Ta không kính lễ, ngươi cũng không trái với lời hứa. Dụ như lấy bùn gỗ làm tượng Phật thì người trời đều kính lễ. Ta không kính lễ bùn gỗ mà ta muốn kính lễ Đức Phật. Ta kính lễ sắc tượng của Phật chứ không kính lễ hình tượng của ma.

Nghe những lời ấy xong, Ma vương hiện lại nguyên hình như cũ, đảnh lễ dưới chân Tôn giả rồi bay về trời.

Vì nhân duyên gì mà nói việc này? Vì hàng đại Thanh văn... muốn cho đàn-việt cúng dường chúng Tăng, không để bị thiếu thốn. Lại khiến cho Tỳ- kheo nghe pháp rồi thực hành theo, cho nên nói pháp cho bốn chúng nghe. Nếu muốn khen ngợi Phật phải làm theo lời ấy. Tuy đã dứt bỏ kết sử tham dục nhưng bất giác cũng làm lễ.

QUYỂN 10

Chương 55

Nếu người nào khen ngợi Phật thì được quả báo lớn, được mọi người cung kính. Thế nên phải thành tâm cung kính khen ngợi.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, vào thời Phật Ca-diếp có một vị Pháp sư nói pháp cho đại chúng nghe. Ở trước đại chúng, vị Pháp sư ấy khen ngợi Đức Phật Ca-diếp, nhờ nhân duyên ấy nên lúc qua đời được sinh lên cõi trời. Trong cõi trời, cõi người vị ấy thường thọ hưởng sự vui sướng. Sau khi Đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn một trăm năm, vào thời vua A-du- già vị ấy làm đại Pháp sư chứng quả A-la-hán có đầy đủ ba minh, sáu thông, tám giải thoát, từ nơi miệng thường tỏa mùi thơm. Ở cách vua A-du-già không xa, vị Pháp sư ấy nói pháp cho đại chúng nghe. Mùi thơm trong miệng ngài bay đến chỗ vua A-du-già. Vua ngửi mùi thơm tâm sinh thắc mắc liền nghĩ rằng: “Có lẽ vị Tỳ-kheo kia hòa các mùi thơm ngậm vào miệng nên có mùi thơm như vậy”.

Nghĩ rồi, vua thưa với vị Tỳ-kheo:

– Xin thầy há miệng ra.

Thầy Tỳ-kheo há miệng thì trong miệng không có gì cả.

Vua lại thưa:

– Xin thầy súc miệng.

Vị Tỳ-kheo súc miệng xong thì trong miệng vẫn có mùi thơm.

Thầy Tỳ-kheo hỏi vua:

– Vì sao đại vương bảo tôi há miệng rồi súc miệng làm gì?

Vua đáp:

– Vì trẫm ngửi thấy mùi thơm, trong tâm thắc mắc nên bảo thầy há miệng và súc miệng. Mùi thơm càng nồng, chỉ có mùi thơm, trong miệng không có gì.

Vua nói:

– Xin thầy hãy giải thích cho trẫm biết. Thầy Tỳ-kheo mỉm cười nói kệ:

Bậc tự tại trên đời
Sẽ giải thích ngài hiểu
Đó chẳng phải các hương
Trầm thủy, hoa lá cọng
Của loại gỗ chiên-đàn
Hòa hợp ra thế ấy.
Tôi sinh tâm ít có
Nên nói lời như vầy
Nhờ xưa khen Ca-diếp
Nên được mùi thơm ấy.
Hương của thời Phật ấy
Không khác với hương nay
Ngày đêm cũng đều thơm
Không bao giờ dứt tuyệt.

Vua thưa:

– Bạch Đại đức, ngài có được mùi thơm này bao lâu rồi?

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Tôi được đã lâu rồi. Xin đại vương hãy lắng nghe: Thuở xưa có Đức Phật hiệu là Ca-diếp, vào thời Đức Phật ấy tôi siêng năng tu tập nên có được mùi thơm này.

Nghe xong, vua sinh tâm ít có, hỏi thầy Tỳ- kheo:

– Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin thầy giải thích. Thầy Tỳ-kheo thưa với vua:

– Thưa đại vương, xin ngài dốc lòng lắng nghe: Vào thời Đức Phật Ca-diếp, tôi là một vị Tỳ-kheo nói pháp, ở trước đại chúng, tôi sinh tâm vui mừng khen ngợi Đức Phật Ca-diếp, nói kệ rằng:

Thân sắc vàng rực rỡ
Vui mừng sinh khen ngợi
Nhờ sức phước đức này
Hễ sinh đến nơi nào
Mỗi thân theo nghiệp này
Thường có mùi thơm ấy,
Thơm hơn Ưu-bát-la
Và mùi thơm Chiêm-bặc
Mùi thơm thoảng khắp nơi
Ai ngửi đều vui thích
Như uống nước cam lộ
Uống hoài không chán đủ.

Đại vương nghe xong, khắp mình nổi ốc liền nói như vầy:

– Ôi, nhờ khen ngợi công đức Phật mà được phước báo ấy.

Thầy Tỳ-kheo thưa:

– Thưa đại vương, ngài chớ cho rằng quả này được báo như thế.

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Tiếng khen và phước đức
Sắc lực và an lạc
Đã có công đức này
Người không kể sang hèn
Oai quang đáng yêu thích
Ý chí rất rộng lớn
Lìa được các lỗi ác
Đều do khen ngợi Phật.
Những phước báo như thế
Hiền trí mới nói được
Thọ thân đã chấm dứt
Được dấu vết cam lộ.

Đại vương lại hỏi thầy Tỳ-kheo:

– Bạch Đại đức, khen ngợi công đức Phật, việc ấy như thế nào?

Thầy Tỳ-kheo nói kệ:

Tôi ở trong chúng khen
Công đức thật của Phật
Do nhờ nhân duyên ấy
Tiếng khen khắp mười phương.
Nói nghiệp lành của Phật
Đại chúng nghe vui mừng
Hình tướng đều vui hòa.
Do trước khen ngợi Phật
Nhan sắc có oai quang
Nói pháp được hết khổ.
Điều Đức Phật ấy dạy
Cho những người tu thiện
Tạo các nhân duyên vui
Được quả báo an vui.
Thế nào gọi là Phật?
Lời nói có mười lực
Mà ở trong ba cõi
Không bị người khinh thường,
Huống người nói các pháp
Bước lên trên pháp tòa
Khen ngợi công đức Phật
Hàng phục các ngoại đạo.
Nhờ khen công đức Phật
Được thân tướng tốt đẹp
Liền nói mọi người nghe
Chánh đạo đáng ưa thích,
Nhờ vào nhân duyên ấy
Như trăng tròn mùa thu
Được mọi người yêu thích.
Khen đức thật của Phật
Suốt kiếp vẫn không hết
Giả sử lưỡi tiêu tan
Cũng không ngưng giữa chừng
Thường giữ tâm như vậy
Đời đời sinh nơi nào
Lời nói đều rõ ràng.
Nói trí tự nhiên Phật
Các trí tuệ thêm lớn
Nhờ vào nhân duyên ấy
Sinh đâu đều có trí.
Nói tất cả thế gian
Đều do nghiệp duyên tạo
Nghe rồi được điều lành,
Do xa lìa điều ác
Sinh đâu, lìa các lỗi.
Tham sân ngã kiến thảy
Như dầu rót sắt nóng
Khô cạn hết không còn
Các sự việc như thế
Nơi nào không thích ý?
Nhờ mũi tên nhân duyên
Tôi phá cung của ngài
Đã nói rõ cha rồi
Suy nghĩ khéo nói mẹ.

Đại vương nghe kệ xong, liền đứng dậy chắp tay thưa:

– Điều Đại đức nói rất nhiệm mầu khéo nhập vào tâm trẫm.

Vua nói kệ:

Nghe nói, ý ta hiểu
Quả khen công đức Phật
Nếu nói tóm lại thì
Thường nên khen ngợi Phật.

Do nhân duyên gì nói việc này? Vì người nói pháp được quả báo lớn. Những người nói pháp trong ba cõi nên sinh tâm vui mừng.

Chương 56

Người có công đức lớn còn tu không hề biết mỏi mệt, huống gì người không có phước đức mà lại biếng nhác, ngã mạn.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nhập vào các tam-muội thiền định giải thoát. Ngài muốn làm cho chúng sinh tu phước gieo hạt giống lành, được phước vô lượng. Vào lúc sáng sớm, Ngài đắp y Tăng-già-lê do Đức Phật cho, rồi đi khất thực. Lúc ấy có người trông thấy nói kệ:

Tán thán Bậc hơn người
Đắp y của Như Lai
Trước trời, người, tám bộ
Phật chia tòa cho ngồi.

Đức Phật cũng khen ngợi Tôn giả Ca-diếp với bài kệ:

Nay thầy tu hạnh lành
Như trăng dần dần tròn
Như tay vung trong không
Không có gì chướng ngại.
Thân như nước sạch trong
Không có các bụi đất
Phật thường ở trước người
Khen ngợi công đức thầy.
Cho đến đời vị lai
Lúc Di-lặc thành Phật
Cũng khen công đức thầy
Mà bảo đại chúng rằng:
Đây là vị đệ tử
Khổ hạnh của Mâu-ni
Đủ mười hai đầu-đà
Trong ít muốn biết đủ
Được gọi là bậc nhất.
Đây gọi là Ca-diếp
Trước trời, người, tám bộ
Khen ngợi công đức Thầy.

Lúc bấy giờ, từ xa thấy ngài Ca-diếp ung dung đi bộ, trời Đế Thích đang ngự trong cung điện bèn chắp tay cung kính. Phu nhân của trời Đế Thích là Xá-chi liền hỏi:

– Thưa ngài, ngài đang thấy ai mà cung kính như vậy?

Đế Thích nói kệ đáp:

Ở trong lửa tham dục
Thường buộc niệm ở trước
Tuy được vợ sắc vàng
Cùng phòng tâm không đắm.
Thân nương vào thiền định
Tâm ý cũng vui sướng
Vào thành ấp xóm làng
Vì muốn đi khất thực,
Dùng trí tuệ cày xới
Nhổ bỏ cỏ xấu hại
Đó gọi ruộng phước lành
Quả được trồng tốt tươi.

Nhìn Đế Thích với lòng kính trọng, Xá-chi thưa:

– Ngài sang quý cao tột lại ở nơi nhàn nhã mà còn có tâm lành tu phước đức.

Đế Thích dùng kệ đáp:

Nhờ nhân duyên bố thí
Ta rất được tự tại
Trời, Người, A-tu-la
Quý trọng, tôn kính ta.
Ngày đêm nghĩ bố thí
Nên ta được như vậy
Nhiều kho tàng như thế
Lấy ra đầy của báu.

Tôn giả Ca-diếp vào trong các hang cùng ngõ hẻm, thích nhạn người nghèo khó bố thí. Lúc ấy, Đế Thích hóa thành ông lão thợ dệt nghèo nàn, còn Xá-chi hóa làm bà lão ăn mặc rách rưới. Vợ chồng ngồi nghỉ bên vệ đường.

Tôn giả thấy hai vợ chồng người kia nghèo nàn rách rưới liền nghĩ: “Trên thế gian không có ai nghèo hơn hai người này”, bèn đến chỗ họ muốn an ủi. Ông lão thợ dệt vội đứng dậy cầm lấy bát của Tôn giả, đổ thức ăn Tu-đà cõi trời vào đầy bát rồi dâng lên Tôn giả.

Sau khi nhận thức ăn, trong tâm Tôn giả thắc mắc nên nói kệ:

Người kia quá nghèo nàn
Lại ăn ngon khác thường
Việc này rất đáng nghi
Thật là việc điên đảo.

Nói kệ xong, Tôn giả lại nghĩ: “Bây giờ ta nên hỏi ai? Ta phải tự quán sát.”

Tôn giả liền nói kệ:

Ta là hạt giống lành
Dứt mê cho người khác
Trời người làm việc gì
Ta còn giải thích cho,
Nay ta có thắc mắc
Không biết phải hỏi ai?

Nói kệ xong, Tôn giả dùng mắt tuệ thấy chính là trời Đế Thích, liền nói:

– Hay thay! Người thích tu phước dùng mọi cách để được phước báo tốt đẹp.

Tôn giả nói kệ:

Xả bỏ tướng tôn quý
Hóa thành người nghèo nàn
Già yếu và tiều tụy
Mặc y phục rách rưới
Xả bỏ cung điện trời
Giả dừng nghỉ bên đường.

Nói kệ xong, Tôn giả mỉm cười, lại nói kệ:

Ta muốn người vô phước
Có được phước nghiệp tốt
Phước ông đã đầy đủ
Cớ sao lại quấy nhiễu
Cúng dường ta thức ăn?
Hơn cả năm diệu dục
Thế Tôn lậu đã dứt
Ba đường ác cho ông
Nhưng ông vẫn tinh tấn
Tìm cách cầu phước nghiệp.

Trời Đế Thích hiện lại nguyên hình, ở trước mọi người đảnh lễ dưới chân Tôn giả rồi thưa:

– Bạch Tôn giả, vì sao ngài làm vậy? Đế Thích liền nói kệ:

Tôi thấy thí được báo
Được lợi ích tốt đẹp
Giúp nghiệp thêm rộng lớn
Tín tâm vững chắc hơn
Vì cớ gì Đại đức
Ngăn cản việc tôi làm?
Đế Thích lại nói kệ:
Người nghe nói bố thí
Vẫn còn bố thí được
Huống tôi được báo thí
Tự chứng biết rõ ràng.
Cha mẹ và bạn thân
Cứu giúp muốn lợi ích
Không thể bằng bố thí
Dứt bỏ khổ sinh tử.
Báo thí như hình bóng
Ban an vui khắp nơi
Trong sinh tử nguy nan
Chỉ có thí đi theo,
Lúc mưa gió lạnh lẽo
Chỉ thí làm an lạc
Như đi đường hiểm xấu
Hành trang phải đầy đủ.
Thí là chiếc xe lành
An ổn khỏi mệt mỏi
Nơi nạn cướp hiểm ác
Thí chính là bạn tốt.
Thí dứt các sợ hãi
Cao tột trong cứu giúp
Ở trong chỗ giặc thù
Thí là thanh kiếm bén.
Thí là thuốc hay nhất
Trị lành các bệnh nặng
Đi trên đất gồ ghề
Dùng thí để làm gậy.

Nói kệ xong, Đế Thích cúng dường Tôn giả rồi trở về cõi trời.

Do nhân duyên gì nói việc này? Vì người có trí tuệ hiểu rõ quả báo của sự bố thí, muốn làm cho người siêng làm việc phước. Trời Đế Thích là người có phước báo hơn người vẫn còn tu phước, huống gì người đời lại không tu bố thí. Đối với bậc Thanh văn mà Đế Thích còn cúng dường, huống gì đối với Đức Thế Tôn.

Chương 57

Tuy gieo chút ít căn lành nhưng phải cầu thành Phật, với chút ít căn lành mà cầu thành Phật giống như được cam lộ. Thế nên phải hết lòng cầu thành Phật.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một người nhờ năng lực nhân duyên nên phát tâm xuất gia. Vì muốn cầu giải thoát, nên ông đến Tăng phường, gặp lúc Phật đi giáo hóa không có ở Tăng phường. Ông ta suy nghĩ: “Không có Đức Thế Tôn ở Tăng phường ta nên đến chỗ ngài Xá-lợi-phất đại tướng của chánh pháp”.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất quán sát nhân duyên của vị ấy, xem thuở xưa ông ta có chút nào ghét việc ác, tu căn lành hay chăng. Quán sát xong, ngài không thấy có chút ít căn lành nào cả; một đời không có cho đến trong trăm ngàn đời cũng không có căn lành; lại thấy một kiếp không có căn lành cho đến trăm ngàn kiếp cũng không có. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với người ấy:

– Ta không xuất gia cho ông.

Người ấy lại đến chỗ vị Tỳ-kheo khác. Thầy Tỳ-kheo hỏi:

– Vừa rồi ông xin xuất gia với ai? Ông ta thưa:

– Bạch Đại đức, con đến xin xuất gia với Tôn giả Xá-lợi-phất nhưng ngài không chịu xuất gia cho con.

Các thầy Tỳ-kheo nói:

– Tôn giả Xá-lợi-phất không chịu xuất gia cho ông, chắc chắn ông có lỗi lầm gì rồi. Chúng tôi làm sao dám xuất gia cho ông?

Cứ như thế người ấy lần lượt đến chỗ thầy Tỳ- kheo này rồi thầy Tỳ-kheo khác nhưng không có vị nào chịu xuất gia cho ông ta. Giống như người bệnh, người thầy thuốc giỏi đã không chữa trị được thì các thầy thuốc tầm thường khác không ai chữa trị được. Không được toại nguyện, ông ta đứng khóc trước cửa Tăng phường và nói:

– Sao tôi bạc phước quá! Không có ai chịu xuất gia cho tôi cả. Cả bốn giai cấp đều được xuất gia, còn riêng tôi gây ra nghiệp ác gì mà không được xuất gia? Nếu không được xuất gia chắc tôi phải chết.

Ông liền nói kệ:

Giống như nước sạch trong
Tất cả đều uống được
Dù cho Chiên-đà-la
Cũng đều được xuất gia.
Trong Phật pháp như thế
Không chịu thâu nhận tôi
Tôi không được toại nguyện
Vậy còn sống làm gì.

Bấy giờ Đức Thế Tôn với tâm Từ bi muốn giáo hóa người ấy. Như người mẹ thương con, như bóng rợp của núi Hành kim che lấp mặt trời, Ngài đến cửa Tăng phường nói kệ:

Thân Nhất Thiết Chủng Trí
Lấy đại Bi làm thể
Phật ở trong ba cõi
Tìm người đáng hóa độ
Như bò mẹ tìm con
Thương nhớ mãi không thôi.

Đức Thế Tôn thanh tịnh vô cấu như hoa sen nở, cánh tay sáng rực, lòng bàn tay có hình bánh xe, có màng lưới bao bọc các ngón tay, Phật dùng cánh tay nhiệm mầu này xoa đầu ông ta rồi hỏi:

– Vì sao ông khóc?

Ông ta buồn bã thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, con xin xuất gia nhưng tất cả các thầy Tỳ-kheo đều không nhận, do đó mà con khóc.

Đức Thế Tôn hỏi:

– Các thầy Tỳ-kheo không nhận hay ai ngăn cản không cho ông xuất gia?

Phật liền nói kệ:

Ai có Nhất thiết trí
Mà còn muốn do dự
Nghiệp lực rất nhỏ nhiệm
Ai biết được cạn sâu.

Nghe kệ xong, người ấy bạch với Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, vị đại tướng trong Phật pháp là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất có Trí tuệ bậc nhất không cho con xuất gia.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng âm thanh như tiếng sấm vang an ủi người ấy:

– Trí lực của Xá-lợi-phất chẳng thể biết được. Trong vô lượng kiếp, ta đã làm những hạnh khổ khó làm, tu tập trí tuệ. Bây giờ Ta sẽ nói kệ cho ngươi nghe:

Đệ tử Xá-lợi-phất
Không phải Nhất Thiết Trí
Cũng không hiểu thể tánh
Không biết hết trung, hạ
Hiểu biết có hạn chế
Không hiểu được sâu xa
Không có trí hiểu biết
Các nghiệp báo nhỏ nhiệm.

Đức Thế Tôn bảo vị ấy:

– Giờ đây Ta cho phép ngươi xuất gia trong Phật pháp. Ta cho ngươi ở trong giáo pháp của Ta thử qua, nếu ngươi là người có tâm tin tưởng ưa thích thì Ta sẽ hóa độ đúng pháp, không để lỡ mất cơ hội.

Đức Thế Tôn đưa cánh tay mềm mại tốt đẹp có hình bánh xe cầm tay ông ta dắt vào trong Tăng phường, ở trước chúng Tăng bảo ngài Xá-lợi-phất:

– Này Xá-lợi-phất, vì lý do gì thầy không cho người này xuất gia?

Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, vì con thấy ông ta không có chút căn lành nào cả.

Đức Phật dạy:

– Này Xá-lợi-phất, thầy chớ nói như thế. Thế Tôn liền nói kệ:

Ta thấy căn lành này
Thật là rất nhỏ nhiệm
Như cát đá trong núi
Nung chảy cho ra vàng.
Thiền định và trí tuệ
Như ống bể, lò rèn
Ta dùng công đức thổi
Ắt sinh ra vàng ròng
Người này cũng như vậy
Lành nhỏ như vàng kia.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất sửa lại y Uất-đa- la-tăng, bày vai bên phải, quỳ gối chắp tay hướng về Đức Phật Thế Tôn nói kệ:

Đấng hơn hết trong luận
Cúi xin nói con nghe
Ngọn đèn trí tuệ lớn
Xua tan các bóng tối
Trong bao lâu người kia
Trồng được căn lành này
Làm được ruộng phước nào
Nảy mầm rất mau chóng?

Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Bây giờ thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho nghe: Nhân ấy rất nhỏ nhiệm, không phải cảnh giới mà hàng Bích-chi-phật thấy được. Thuở xưa có một người nghèo vào trong núi A-luyện-nhã đốn củi bị cọp uy hiếp. Vì sợ hãi nên ông ta niệm “Nam-mô Phật “. Nhờ hạt giống này mà được nhân giải thoát.

Ngài nói kệ:

Chỉ thấy họ xưng Phật
Cho đó là nhỏ nhiệm
Nhờ đó dứt mé khổ
Như thế là tốt lành.
Dốc lòng quy mạng Phật
Chắc chắn được giải thoát
Được quả giống như vậy
Thật không có ai bằng.

Bấy giờ Đức Phật liền độ cho người ấy xuất gia. Đích thân Ngài giáo hóa, Tỳ-kheo tâm khai ngộ, chứng đắc quả La-hán. Do nhân duyên này cho nên người nào gieo chút ít căn lành đối với Đức Thế Tôn cũng được vô lượng quả báo, huống gì là xây dựng hình tượng tháp miếu.

Chương 58

Người nào căn lành đã chín muồi thì được quả giải thoát. Do đó nên tu điều lành.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, khi Đức Thế Tôn còn học đạo, làm Bồ-tát, Ngài khổ hạnh trong sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo nhưng không đạt được kết quả gì, cũng không được lợi ích gì.

Vì không đạt được kết quả gì nên Bồ-tát bèn ăn cháo sữa ngon. Lúc ấy, năm người bạn hỏi Bồ-tát:

– Thưa Ngài, trước đây Ngài tu khổ hạnh còn không đạt được kết quả gì, huống gì bây giờ ăn cháo sữa mà đắc đạo sao?

Nói xong, họ liền bỏ đi, đến thành Ba-la-nại.

Sau khi thành Phật, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ta nên hóa độ chúng sinh nào trước?” Ngài lại nghĩ: “Chỉ có năm vị ấy có nhân duyên đắc đạo, họ có ân nghĩa với Ta”. Nghĩ rồi, Đức Thế Tôn đến thành Ba-la-nại, tới chỗ năm vị ấy nói kệ:

Với oai quang tốt đẹp
Khắp thân đều trang nghiêm
Đi một mình tướng hảo
Sáng chói đầy oai đức,
Mắt hơn trâu đầu đàn
Ngực rộng, thân sáng rực
Dung nghi rất xinh đẹp
Đi như voi đầu đàn
Bước từng bước khoan thai,
Việc làm đã làm xong
Trí hạnh đã đầy đủ
Trí sâu là mão trời
Lụa giải thoát buộc đầu
Tôn quý trong loài người
Vua Pháp luân trên hết.
Cõi trời trổi kỹ nhạc
Theo hầu cả trước sau
Dù các vua mạnh mẽ
Có xe giá, bốn binh
Vây quanh không bằng Phật.
Đi một mình khắp cõi
Ví như vua Chuyển luân
Các xe, ngựa, voi, binh
Mão trời rất tốt đẹp
Lọng lụa che ở trên
Như vua Đại Chuyển luân
Các phước lợi đầy đủ
Không trang nghiêm bằng Phật.
Tốt đẹp hơn vua kia
Tướng bậc nhất ai bằng
Oai đức hơn các Thánh
Chúng sinh thấy dung nghi
Sáng chói hơn mặt trời
Người, thú, các chim muông
Chiêm ngưỡng thân tướng Phật
Đang đi, chạy cũng dừng.

Thấy Đức Phật tướng mạo sáng chói, oai đức đầy đủ, trí đức vẹn toàn, không giống như trước kia, cả năm vị chưa biết là ai thì một vị nói kệ hỏi bốn vị kia:

Ai phát ra ánh sáng
Soi chiếu khắp núi rừng
Giống như nhiều mặt trời
Từ dưới đất mọc lên
Lưới ánh sáng đầy khắp
Chiếu soi khắp tất cả,
Như ngôi lầu vàng ròng
Ca-sa phủ lên trên,
Lại giống như luyện vàng
Chảy tan khắp trên đất.
Các thú ở đất liền
Và các trâu đầu đàn
Hươu nai và chim thỏ
Thấy Phật đều đứng lại
Đang ăn cỏ thì nhả
Nhìn chăm không chớp mắt,
Chim công xòe đôi cánh
Giống như vòng sen xanh
Khi ấy không buông lung
Đều vui múa với nhau
Vui vẻ hót tiếng hay.
Khi Phật đi trên đường
Tất cả loài chúng sinh
Mắt tâm đều thích quán
Bị sắc Phật hấp dẫn
Tự nhiên chạy đến nhìn.
Khi Phật đi trên đường
Ai sờ dấu chân Phật
Vui cả bảy ngày đêm
Theo đạo hạnh hơn hết
Trong sáng không xao động
Thân thể rất mềm mại
Bước nhẹ không chạm đất
Đi bộ không mỏi mệt.

Một vị khác lại nói với bốn vị kia:

Tôi thấy tướng mạo ấy
Trong lòng cũng thắc mắc
Là oai quang của ai?
Sáng chói hơn mặt trời
Do tướng sáng chói kia
Núi rừng đều màu vàng.

Thấy Đức Phật đến gần, năm vị bèn nói với nhau:

– Đây chính là người thanh niên dòng họ Thích đã bỏ nếp sống khổ hạnh trở về nuôi dưỡng thân mình bằng dục lạc. Ông ta đã bỏ nếp sống khổ hạnh mà còn đến gặp chúng ta.

Họ nói kệ:

Chúng ta chớ đứng dậy
Cũng đừng có kính lễ
Nên ở xa chỉ chỗ
Rồi bảo ông ta ngồi.

Đức Phật đi đến nơi, lúc ấy bỗng dưng cả năm vị tự đứng dậy và nói kệ:

Mặt như trăng tròn đầy
Thấy Ngài chợt đứng dậy
Ví như biển cả kia
Trăng tròn thì nước dâng.
Chúng ta tự đứng dậy
Như người bị kéo lên
Đây do oai Đức Phật
Tự nhiên khiến như vậy.
Như cột cờ Đế Thích
Trời khác đến không đứng
Khi trời Đế Thích đến
Tự nhiên nó đứng thẳng,
Chúng ta cũng như vậy
Phật đến tự nhiên đứng
Như dầu châm vào lửa
Lửa cháy nhanh phừng phực
Chúng ta thấy Phật đức
Đứng dậy nhanh hơn lửa.
Vô số kiếp đến nay
Bẻ gãy các kiêu mạn
Được mọi người tôn trọng
Thầy tổ và cha mẹ
Loài trời và loài người
Các Quỉ, Rồng, Dạ-xoa
Nếu có ai thấy Phật
Tất cả đều kính lễ.
Người trí đâm thắc mắc
Phải nên khéo phân biệt
Nếu Phật đưa chân xuống
Đất từ trên hạ xuống
Các núi như cỏ nhẹ
Thấy Phật đều nghiêng động.

Năm vị thấy Đức Phật thì cùng đứng dậy, đến đón rước. Người thì ôm bát, người trải đồ ngồi, người lấy nước; người thì rửa chân cho Ngài và nói kệ:

Năm người gặp Thiện Thệ
Thấy Phật rất oai đức
Tâm cả tâm đều vui
Không còn giữ lời hứa
Chậu rửa tay ba chân
Nhìn kỹ sợ núi lở
Đều thọ pháp không nói
Mười phần cũng được nửa.

Nghe kệ, Đức Thế Tôn mỉm cười bảo họ:

– Các vị là người si mê, tại sao lại bỏ lời hứa với nhau?

Sau khi Đức Phật ngồi, họ cung kính đứng hầu và nói như vầy:

– Thưa Ngài Cù-đàm có mạng sống bừng trí tuệ, Phật là người có tâm Từ không có ý thương ghét.

Đức Phật nói kệ:

Nay Ta đã đắc đạo
Lau sạch các bụi nhơ
Các vị chớ xem thường
Nên đứng dậy cung kính.
Ví như dùng bùn gỗ
Để đắp thành tượng Phật
Khi chưa đắp xong thì
Đạp dưới chân để đẽo
Khi đã đắp xong rồi
Thì hương hoa kính lễ.
Các vị cũng phải nên
Đừng xem Ta như bạn
Mà nên cung kính Ta
Không nên sinh khinh mạn.
Khen ngợi cũng không mừng
Mắng nhiếc cũng không giận
Ta thương xót các vị
Muốn giúp cho giải thoát
Để được vui vắng lặng
Được các việc lợi ích.
Các si ái, giận tức
Đều tự có tướng mạo
Chê bai nói lời ác
Như bôi tro vào ghẻ.
Nay Ta đã giác ngộ
Gọi Ta là Cù-đàm
Ta không còn thương, ghét
Nên sinh tâm cung kính
Chớ buông ra những lời
Hủy báng chê bai người.

Dù nghe Đức Thế Tôn nói như thế nhưng năm vị ấy vẫn còn cho Đức Thế Tôn chưa chứng được quả vị Giác ngộ nên nói kệ:

Trước Ngài tu khổ hạnh
Còn chưa được Giác ngộ
Nay chìm đắm trong bùn
Làm sao ngộ đạo được?
Ví như bỏ thuyền lớn
Mà vác cục đá to
Muốn vượt qua sông hiểm
Làm sao có thể được?

Biết tâm niệm của năm vị còn dính mắc khổ hạnh, cho đó là Chánh đạo. Phật liền dạy rằng dứt bỏ năm dục chính là Chánh đạo và cho rằng bỏ lối tu khổ hạnh cũng là Chánh đạo, Ngài dạy phải bỏ tất cả hai bên là không quá khổ hạnh, cũng không quá hưởng thọ năm thứ dục lạc. Ngài nói về pháp Trung đạo, lầy tâm từ làm đầu. Phật nói kệ đáp:

Chỉ người trí dứt được
Chướng Vô trí ngu si
Thế nên cần trí tuệ
Để giữ gìn thân mạng.
Có mạng, được trí tuệ
Giường đệm, y phục thảy
Ăn uống và thuốc thang
Dùng nó giữ thân mạng
Không có những thứ này
Thì thân mạng phải chết.
Dùng nó giữ thân mạng
Nên giữ vững giới cấm
Giữ giới được định, tuệ
Tu khổ hạnh không được,
Pháp nhịn đói không ăn
Chắc chắn không được đạo
Thân chết thì mạng mất
Mạng mất, thân không còn.
Hủy giới, không thiền định
Không thiền thì không trí
Vì thế nên giữ mạng
Cũng giữ gìn giới cấm.
Nhờ giữ gìn giới cấm
Được thiền định, trí tuệ
Cho nên phải dứt bỏ
Khổ não hại pháp thân
Cũng dứt bỏ năm dục
Không đắm sâu dục lạc.
Nếu mê đắm tham dục
Là hủy phạm giới cấm
Lại nuôi lớn ái dục
Ngu si đắm khổ hạnh.
Tự thích pháp không ăn
Hoặc ăn các cỏ lá
Nằm trên tro, gai nhọn
Hại thân mạng như thế
Không thể được định tuệ.
Vì thế, theo Trung đạo
Nương nhờ pháp như thế
Không chìm trong bùn dục
Cũng không làm khổ thân.
Có trí khéo phân biệt
Hai lỗi lầm như thế
Như trăng mọi người thích,
Ở đây cũng như vậy
Tham dục chìm bùn nhơ
Nhiều người bị chết chìm
Khổ hạnh đốt thân tâm
Không tránh khỏi họa ấy
Dứt bỏ hai bên này
Trung đạo đến Niết-bàn.

Bấy giờ ngài Kiều-trần-như là người có mạng sống bằng trí tuệ,... hiểu được lời Đức Phật dạy, muốn dứt bỏ các kết sử, khen ngợi lời Đức Phật dạy là pháp lành chân chánh ngay thẳng, liền nói kệ:

Nếu sống với trí tuệ
Dây si tự nhiên mở
Do vì các nghĩa này
Khổ thân thì vô ích.
Nếu có giới, định, tuệ
Sẽ đạt được dấu đạo
Ví như người giữ thân
Muốn diệt các lỗi ác.
Nên giữ tâm như vậy
Vì các ý nghĩa này
Không nên bỏ y phục
Ăn uống và đồ nằm
Cũng không sinh ưa đắm
Đối với các vật này.
Củi lửa và đống tuyết
Các vị nên lìa bỏ
Nướng mình trên đống lửa
Và sống cạnh bên tuyết
Cả hai nên chấm dứt
Không nên hành trì nữa.

Thấy Kiều-trần-như hiểu rõ việc này, Phật khen lành thay và Ngài nói kệ:

Uống ăn và thuốc men
Phòng nhà, đồ nằm thảy
Người yêu mến thân mạng
Việc ăn uống đúng thời,
Với các thức ăn ngon
Không nên sinh đắm nhiễm
Không hoàn toàn lìa bỏ.
Ví như đống lửa lớn
Thể tánh là đốt cháy
Người trí dùng tùy lúc
Sinh các thứ lợi ích
Nhưng không bị đốt cháy.

Đạt được văn tuệ rồi, muốn đi vào tư tuệ, Tôn giả Kiều-trần-như suy nghĩ giây lâu, bèn bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, bỏ ăn uống và các nhạc cụ không phải là tu đạo pháp sao?

Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Phật bảo Kiều-trần-như
Tâm thầy nên tin Ta
Nếu có gì thắc mắc
Nên thưa hỏi việc ấy
Thầy nên phá rừng nghi
Ta đốt bằng lửa trí.

Nghe Đức Phật nói như vậy, Kiều-trần-như hết sức vui mừng, nét mặt hớn hở, liền bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài cho phép con được nêu lên những điều thắc mắc.

Kiều-trần-như liền nói kệ:

Chán ác, cảm thấy đủ
Khổ hạnh rất là khó
Bỏ khổ hạnh khó này
Mà mê đắm năm dục
Thì làm sao Tỳ-kheo
Dứt bỏ được tham dục?

Đức Thế Tôn bảo Kiều-trần-như:

– Ông quán khổ Thánh đế sẽ thoát được sinh tử.

Kiều-trần-như đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay hướng về Đức Phật thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, con vẫn chưa hiểu! Cúi xin Ngài dùng phương pháp nào giải thích để con được hiểu. Vì sao muốn giải thoát phải quán khổ Thánh đế?

Thấy Kiều-trần-như đã được Văn, Tư tuệ, nay đúng lúc nói pháp Tu tuệ, Đức Phật liền nói kinh Chuyển Pháp Luân. Ngài bảo các Tỳ-kheo:

– Khổ Thánh đế này trước đây chưa từng nghe. Ta chứng được chánh quán nhãn trí minh giác… như trong kinh Chuyển Pháp Luân có nói rộng.

Hỏi rằng:

– Phật nói pháp cho Kiều-trần-như nghe tại sao Phật tự nói pháp do mình chứng đắc?

Đáp:

– Vì để nói lên pháp Vô sư tự ngộ. Hỏi:

– Vì sao Đức Phật lại nói pháp trước kia chưa từng nghe?

Đáp:

– Vì dứt bỏ các thắc mắc của Kiều-trần-như. Nghe pháp với A-lan-ca-lan, Uất-đầu-lam-phất... mà được hiểu, vì dứt bỏ được thắc mắc như thế cho nên nói: “Trước kia ta chưa từng nghe.” Như nay chỉ bày rõ ràng, hiện làm năng lực của mình mà nói pháp Trung đạo. Nếu có người nào tu được Trung đạo thì không cần nghe người khác nói mà vẫn hiểu được nghĩa của Chân đế.

Đức Phật chỉ bày pháp Tứ đế. A-nhã Kiều-trần- như theo đó thấy được Chân đế, thuận theo Trung đạo thấy được bốn Chân đế, liền chứng đạo quả, vui mừng đến rơi lệ, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi nói kệ:

Như bệnh dại, mụt nhọt
Bị sâu dòi rúc rỉa
Thầy thuốc trị bằng dầu
Chẳng những không biết ân
Lại còn mắng thầy thuốc.
Phật dùng dầu thiền định
Nấu với trí oai đức
Giết bỏ sâu kết sử
Con bị vô minh che
Không biết làm lợi mình
Vì đại Bi tự đến
Trái lại còn xúc não.
Tất cả các trời thảy
Còn nên phải cúng dường
Bậc tự tại với pháp.
Nay cho con sám hối
Trước con cho khổ hạnh
Được trí Nhất thiết chủng
Do ngu si làm mờ
Che lấp mất tâm này.
Nay, con nghe Ngài dạy
Muốn xé màng vô minh
Nay mới chân thật biết
Nhịn đói là pháp tà.
Thế Tôn dạy thế gian
Hướng về đạo giải thoát
Luận ngoại đạo nghĩa hẹp
Chải chuốt các ngôn từ
Lời nói ra tốt đẹp
Gian xảo và dối trá
Lừa gạt cả thế gian
Ngu si tự trói buộc
Lời nói Thiện Thệ rộng
Sáng sủa ai cũng hiểu.

Tại sao Đức Phật nói việc này? Vì muốn giúp cho năm vị Tỳ-kheo dứt bỏ chấp hai bên mà tu hành Trung đạo, để thấy rõ Chân đế, chứng đắc đạo quả.

Chương 59

Chúng sinh gây ra nghiệp nào thì phải chịu quả báo của nghiệp ấy.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một người nghèo nghĩ như vầy: “Ta nên đến đền thờ trời cầu xin trong đời này được nhiều tiền tài của báu”. Nghĩ rồi, ông ta nói với người em:

– Này em, em hãy siêng năng làm ruộng cho tốt để kiếm sống, đừng để cho gia đình phải thiếu thốn!

Rồi ông ta dẫn người em đến ruộng chỉ cho biết chỗ này có thể trồng mè, chỗ kia để trồng lúa, chỗ nọ để trồng đậu, trồng bắp. Hướng dẫn cho em xong, ông ta đi đến đền thờ trời làm đệ tử vị Thiên thần, tổ chức hội tế trời thật lớn, cúng dường hương hoa, tô bùn thêm dưới mặt đất rồi ngày đêm lễ bái cầu xin ân phước, mong đời này được thêm nhiều tài sản.

Bấy giờ, vị Thiên thần nghĩ như vầy: “Ta phải quán xét coi người nghèo kia ở đời trước có gieo nhân duyên công đức bố thí hay không? Nếu có chút ít nhân duyên thì ta sẽ bày cách để ông ta được lợi ích”. Quán xong, không thấy ông ta có chút nhân duyên bố thí nào cả, vị Thiên thần lại nghĩ: “Ông ta không có chút nhân duyên nào cả, nay lại tha thiết cầu xin ta, chỉ uổng công khổ nhọc chứ không có lợi ích, rồi đây sẽ oán ta”, nên liền hóa làm người em đi đến đền thờ. Bấy giờ người anh bảo:

– Tại sao em không lo trồng trọt lại đến đây làm gì?

Người em hóa thân thưa:

– Thưa anh, em cũng muốn đến cầu xin Thiên thần vui lòng ban cho cơm áo. Em dù không trồng trọt gì cả nhưng nhờ năng lực Thiên thần, trong ruộng tự nhiên có đầy đủ lúa bắp!

Người anh trách em:

– Em à, đâu có thửa ruộng nào không gieo hạt mà hy vọng được thu hoạch!

Ông liền nói kệ:

Trong bốn biển, đất liền
Cho đến khắp mọi nơi
Đâu có việc không trồng
Mà thu hoạch quả trái!

Bấy giờ, người em do Thiên thần hóa hiện thật thà thưa với anh mình:

– Thưa anh, ở thế gian hễ ai không gieo hạt thì không gặt quả phải không?

Người anh đáp:

– Thật đúng như vậy! Nếu không gieo hạt thì không được quả.

Lúc ấy, vị Thiên thần kia hiện lại nguyên hình, rồi nói kệ:

Nay, chính ông tự nói
Không trồng không gặt quả
Đời trước không nhân thí
Nay làm sao được quả?
Dù ông chịu khổ nhọc
Nhịn ăn cúng dường ta
Luống tự mình khổ nhọc
Lại còn quấy nhiễu ta.
Do đâu sai sử ông
Hiện có việc lợi ích?
Nếu muốn được của báu
Vợ con và quyến thuộc
Phải giữ gìn thân, miệng
Mà làm việc bố thí
Không gieo mà thu hoạch
Thì trời và trăng sao
Không nên soi thế gian
Do soi sáng thế gian
Nên biết do nghiệp duyên.
Trong các trời trên trời
Cũng đều khác nhau cả
Phước nhiều, oai đức lớn
Phước ít, oai đức kém.
Cho nên biết thế gian
Tất cả đều do nghiệp
Bố thí được giàu có
Giữ giới sinh cõi trời.
Nếu không có bố thí
Oai đức đều tổn giảm
Định, tuệ được giải thoát
Quả báo ba thứ này
Lời do Phật đã dạy.
Giống này đều là nhân
Không nên nhiễu loạn ta
Thế nên phải tu nghiệp
Để cầu các quả lành.

Chương 60

Gieo hạt được quả, chẳng phải nhờ vào năng lực của điềm lành nào cả. Vì vậy không nên mê đắm các điềm lành.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một thầy Tỳ-kheo đến nhà người đàn-việt. Bấy giờ, người đàn-việt sau khi đánh răng và súc miệng xong, bôi ngưu hoàng lên trán, cầm tù và đội lên đỉnh đầu, cầm quả Tỳ-lặc giơ lên cao, cung kính đặt ngay trên trán. Thầy Tỳ-kheo thấy vậy bèn hỏi:

– Vì sao đàn-việt làm những việc như vậy? Người đàn-việt thưa:

– Tôi làm điềm lành. Thầy Tỳ-kheo lại hỏi:

– Đàn-việt làm điềm lành có phước lợi gì? Người đàn-việt thưa:

– Là công đức lớn, bây giờ thầy hãy thử xem! Điều gọi là điềm lành có công năng làm cho người chết không chết, người bị roi vọt giam cầm đều được giải thoát.

Thầy Tỳ-kheo mỉm cười rồi nói:

– Nếu điềm lành được như thế thì rất tốt! Nhưng điềm lành này từ đâu đến, xuất xứ từ chỗ nào?

Người đàn-việt thưa:

Chất ngưu hoàng này lấy từ trong tim và phổi con bò.

Thầy Tỳ-kheo hỏi:

Nếu chất ngưu hoàng đem lại điều lành thì tại sao con bò lại bị người ta dùng dây xỏ mũi bắt cày, kéo xe còn đánh bằng roi, đâm bằng dùi, đánh đập đủ mọi cách, dù đói khát mệt mỏi vẫn phải cày kéo không được ngừng nghỉ?

Người đàn-việt thưa:

– Thật có việc ấy! Thầy Tỳ-kheo hỏi:

– Con bò có chất ngưu hoàng còn không tự cứu được mình, phải chịu khổ như vậy thì làm sao có khả năng đem lại điềm lành cho ông?

Thầy Tỳ-kheo liền nói kệ:

Ngưu hoàng ở trong tim
Không thể tự cứu giúp
Huống gì là chút ít
Được bôi lên da trán
Làm sao mà giúp được
Ông nên khéo xem xét.

Lúc ấy, dù suy nghĩ rất lâu nhưng người đàn- việt vẫn im lặng không trả lời được. Thầy Tỳ-kheo lại hỏi:

– Đây gọi là vật gì mà trắng như nắm tuyết và làm bằng cái gì mà phải ngâm bằng nước, thổi mới ra tiếng?

Người đàn-việt thưa:

– Nó là con ốc sống ở dưới biển. Thầy Tỳ-kheo hỏi:

Ông nói con ốc đó từ ngoài biển trôi dạt vào đất liền, bị phơi nắng khổ sở nhiều ngày rồi mới chết phải không?

Người đàn-việt thưa:

– Thật đúng như vậy! Thầy Tỳ-kheo nói:

– Nếu như thế thì nó không phải là điềm lành rồi!

Vị Tỳ-kheo nói kệ:

Ruột, vỏ ốc cùng sinh
Ngày đêm ở trong vỏ
Đến khi ruột bị chết
Vỏ không thể cứu được,
Huống ông cầm chốc lát
Mà là điềm lành sao?
Lành thay! Việc như vậy
Ông phải nên phân biệt
Nay vì lý do gì
Đi vào đường si mê?

Người đàn-việt cúi đầu im lặng suy nghĩ nhưng không trả lời được. Thầy Tỳ-kheo nghĩ: “Dường như người đàn-việt kia sắp hiểu, ta nên hỏi tiếp”, rồi hỏi người đàn-việt:

– Người đời gọi viên hoan hỷ đó là vật gì? Người đàn-việt thưa:

– Đó là quả Tỳ-lặc. Thầy Tỳ-kheo hỏi:

Quả Tỳ-lặc là loại quả ở trên cây mà lúc hái, người ta ném đá để quả và cành đều rơi xuống, do đó quả và cành lá đều bị dập có đúng không?

Người đàn-việt thưa:

– Thật đúng như vậy! Thầy Tỳ-kheo hỏi:

– Nếu đúng như vậy thì tại sao ông cầm nó, lại mong được điềm lành?

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Quả này sống nhờ cây
Không thể tự sống được
Khi có người hái quả
Cành lá gãy rụng theo,
Nhặt lại để làm củi
Khô thì dùng để chụm
Nó không tự cứu được
Làm sao giúp cho ông?

Nghe những câu hỏi này, người đàn-việt không đối đáp được nên thưa với Tỳ-kheo:

– Bạch Đại đức, như những câu ngài đã hỏi thì đó thật không phải là các điềm lành! Con có điều thắc mắc, cúi xin ngài giải thích cho con được hiểu.

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Ông cứ việc hỏi, tôi sẽ giải thích. Lúc ấy người đàn-việt dùng kệ hỏi:

Các Thần tiên thuở xưa
Đều nói là điềm lành
Nhưng thật sự quán sát
Đều không có việc lành
Làm sao truyền nhau làm
Nói bừa có điềm lành
Vì những lý do gì?
Xin giải thích con hiểu!

Thầy Tỳ-kheo giải đáp cho người đàn-việt:

– Tất cả những kiến thức nảy sinh đều có lý do gốc gác.

Thầy Tỳ-kheo liền nói kệ:

Thuở xưa, vào kiếp đầu
Tất cả chưa có dục
Về sau dục phát khởi
Lìa dục, vào rừng sâu.
Người tham dục ở rừng
Sau này đi về nhà
Nói những lời như vầy:
Vô dục, không vợ con
Không được sinh cõi trời.
Nhiều người nói lời này
Cho lời đó là thật
Do tin lời nói ấy
Nên tìm cầu người nữ.
Việc dục đã lan rộng
Thay nhau tự trang nghiêm
Lại dối gạt lẫn nhau
Rồi lại sinh kiêu mạn.
Người kiêu mạn lẫy lừng
Cho dục là xinh đẹp
Soạn sách điềm lành này
Bị mọi người, chê trách:
Tại sao như phụ nữ
Lại trang điểm như vậy?
Người kia nói dối rằng:
Tôi mới làm điềm lành
Chẳng phải tự tô chuốc
Ngưu hoàng, vỏ, quả thảy
Đều là vật trang điểm
Vì những lý do này
Điềm lành càng thêm nhiều.
Mỗi nhân duyên sinh khởi
Do phụ nữ trang điểm
Người ngu, tâm kiêu mạn
Cho thật là điềm lành.

Nghe kệ xong, người đàn-việt nổi ốc khắp mình, liền nói kệ:

Người nên gần bạn tốt
Khen ngợi đấng Trượng phu
Bởi vì bậc Thánh kia
Khéo phân biệt tốt xấu.
Thế nên phải thuận theo
Ở trong các thế giới
Lời Phật đều chân thật.
Không cầu chỗ hay dở
Cũng không có hơn thua
Lời nói có nhân duyên
Mỗi việc có nguồn gốc
Nay con cũng hiểu rõ
Phước nghiệp là điềm lành
Ác nghiệp là điềm dữ
Lành cùng với không lành
Đều từ nhân duyên quả.

Thầy Tỳ-kheo bảo người đàn-việt:

– Lành thay! Lành thay! Ông là bậc Trượng phu khéo léo, biết Chánh đạo!

Thầy Tỳ-kheo nói kệ:

Tất cả các thế gian
Đều do nghiệp thiện, ác
Thiện, ác đọa năm đường
Nghiệp giữ mạng chúng sinh.
Nghiệp duyên tạo ngày tháng
Mười lăm ngày đầu tháng
Mười lăm ngày cuối tháng
Nghiệp ác tuy nhỏ nhiệm
Gọi là nửa tháng cuối
Nghiệp lành là nửa đầu
Do nghiệp gọi nửa đầu
Do nghiệp mà phân biệt
Cho nên có đầu, cuối.
Những người có phước nghiệp
Không tốt cũng thành tốt
Giống như núi Tu-di
Đầu, cuối đều màu vàng.
Những người không phước nghiệp
Điềm lành cũng thành dữ
Giống như nước biển cả
Tốt, xấu đều vị mặn.
Tất cả các thế gian
Đều có từ nghiệp duyên
Cho nên người hiểu biết
Nên dứt bỏ nghiệp ác
Bỏ tà vạy là lành
Siêng năng tu nghiệp lành,
Giống như người làm ruộng
Cày cấy trên đất lành
Nếu không gieo hạt giống
Mà thu hoạch kết quả
Đó mới gọi điềm lành!

Tại sao nói là phải thường siêng năng nghe pháp? Vì nghe pháp có công năng diệt trừ ngu si, tâm có khả năng phân biệt rõ ràng những điều thiện ác.

QUYỂN 11

Chương 61

Người có chút ít trí tuệ thấy Đức Phật tướng hảo còn sinh tâm lành, huống gì người có trí tuệ phước đức lớn lao mà không sinh được tâm lành hay sao?

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, Đức Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc thỉnh Phật và chúng Tăng an cư chín mươi ngày mùa hạ. Nhà vua cho tập trung đàn bò ở gần tinh xá để vắt sữa cúng dường Đức Phật.

Lúc ấy, có một ngàn Bà-la-môn vì tham lấy sữa bò nên theo sát bên những người chăn bò. Những người chăn bò nghe Bà-la-môn tụng Vi-đà đều thông suốt lanh lợi, khéo léo phân biệt rõ ràng, có Bà-la-môn chỉ có danh mà thật sự không hiểu biết; lại có Bà-la-môn biết rõ chú thuật mà không hiểu sách Vi-đà, hoặc có Bà-la-môn hiểu rõ Vi-đà mà không biết chú thuật.

Sau khi Thế Tôn an cư bốn tháng mùa hạ xong[1], vào ngày Tự tứ, Vua ra lệnh cho những người chăn bò:

– Nay trẫm không cần sữa nữa, các ngươi xem nơi nào có đồng cỏ và nguồn nước thì thả bò ra!

Vua lại ra lệnh:

– Khi các ngươi đi thì phải đến từ giã Đức Phật, nếu Ngài có nói pháp các ngươi hãy lắng nghe.

Những người chăn bò suy nghĩ: “Đức Phật Thế Tôn có phải là Bậc Nhất Thiết Trí hay không?” Nghĩ rồi, họ đến rừng Kỳ-đà, tới chỗ Đức Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi dưới gốc cây, có đại chúng vây quanh. Biết những người chăn bò đi vào rừng, Ngài liền vì họ mà làm cho mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài phát ra các thứ ánh sáng. Ánh sáng đó chiếu khắp cả khu rừng giống như khối vàng sáng rực, lại giống như mưa dầu rơi xuống rót vào trong lửa. Những người chăn bò nhìn không biết chán, liền sinh ý nghĩ cho là ít có khó gặp và nói với nhau:

– Ánh sáng này giống như hoa Chiêm-bặc, đầy khắp trong rừng, là ánh sáng gì vậy?

Họ liền nói kệ:

Rừng này rất sáng đẹp
Ánh sáng chợt khác thường
Có phải rừng báu trời
Dời đến vườn này chăng?
Sáng rực như lầu vàng
Cũng như cờ thiên đế
Sáng hơn cả ánh chớp
Sáng rực hơn lửa dầu
Hay hai trời Nhật, Nguyệt
Xuống chơi trong rừng này?

Nói kệ xong, những người chăn bò đi đến rừng Kỳ-đà, tới chỗ Đức Thế Tôn. Thấy vầng sáng tròn bao quanh Phật như trăm ngàn mặt trời, ba mươi hai tướng tốt rực rỡ của Bậc Đại Nhân sáng chói rõ ràng, mỗi người đều vui mừng, sinh ý nghĩ cho là ít có, cùng nhau khen ngợi và nói kệ:

Thân vương tử họ Thích
Trang nghiêm rất sáng đẹp
Oai quang thật rực rỡ
Thấy Ngài sinh vui mừng
Thân tâm đều vui sướng.
Lành thay Đấng Thanh Bạch!
Vắng lặng không sợ hãi
Nói qua sắc tướng Ngài
Khéo đáng gọi Chủng trí
Thế gian đều truyền nói
Chân thật không luống dối
Đều gọi là Phật-đà.
Ai cũng đều gọi Phật
Ghi nhớ chặt vào tâm
Miệng cũng nói như thế
Sơ lược điều quan trọng
Không thể nói đầy đủ
Nói chung điều cốt yếu:
Mặt trời trong họ Thích
Tên thật xứng với tướng
Tướng cũng xứng với tên
Tướng hảo và phước lợi
Hiển hiện thật sáng tỏ.
Giống như các vật báu
Tự trang sức khắp mình
Oai đức thật sáng ngời
Vầng sáng tròn một tầm.
Giống như núi vàng ròng
Thu hút mọi người nhìn
Chiêm ngưỡng không muốn rời
Được mọi người yêu kính.
Thể là Nhất thiết trí
Như người nói thật lớn
Mà xướng như thế này:
Bậc Nhất Thiết Chủng Trí
Nay ở trong thân này
Trí tuệ vượt thế gian
Chắc chắn ở trong đấy
Có trí công đức gì?
Chưa thấy trí như vậy
Thân tốt đẹp như thế
Chân thật kham nhận được
Khéo léo hơn tô vẽ,
Chưa từng thấy thân này
Không còn sinh nghi ngờ
Chẳng phải Nhất Thiết Trí
Hình dung đẹp như thế
Công đức ắt đầy đủ
Có hình tướng đẹp này
Không bao giờ vô đức
Nên phải hiểu chắc chắn
Không nên theo lời nói.

Bấy giờ những người chăn bò nói như vầy:

– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con cần phải hiểu cho chắc chắn!

Họ lại nghĩ: “Chúng ta là người chăn bò đâu có năng lực trí tuệ gì để hiểu rõ nhưng cũng nhất quyết hiểu biết cho kỳ được! Vậy làm sao để biết đây?” Rồi lại nói:

– Đối với việc chăn bò, chúng ta có thể biết rành rẽ, còn Đức Phật sinh trong cung vua, là người có năng lực trí tuệ, học hiểu tất cả các kỹ thuật, nhưng chắc có lẽ Ngài không biết cách chăn bò đâu? Bây giờ chúng ta nên hỏi việc chăn bò, chắc chắn Ngài không biết!

Họ liền nói kệ:

Vi-đà và bắn cung
Y thuật và cúng tế
Thiên văn cùng thanh luận
Văn chương căn bản luận
Lập ra luận tế trời
Nguồn gốc của các luận,
Luận biện bác khéo léo
Luận khéo học dâm dật
Luận tìm cầu tài lợi
Luận dòng họ thanh tịnh,
Luận tất cả muôn vật
Luận mười thứ tên họ
Luận toán số, tính lường
Luận cờ vây, bài bạc,
Luận sách học nguyên bản
Luận âm nhạc, ca múa
Luận thổi ốc ca hát
Luận nhảy múa, hài hước,
Mánh khóe và trường lớp
Luận lắc các vòng hoa
Các bộ luận như thế
Đều thông suốt hoàn toàn.
Xoa bóp hết mệt nhọc
Phân biệt giá Ma-ni
Cách phân biệt y phục
Màu sắc và dấu in
Máy móc và keo dán
Thuật bắn gần hay xa,
Lại khéo biết chặt, cắt
Chạm trổ thành các tượng
Văn chương và viết, vẽ
Đều thông suốt tất cả.
Lại còn khéo biết cách
Hòa hương, làm tràng hoa
Khéo biết cách đoán mộng
Khéo biết tiếng chim muông
Khéo biết tướng nam nữ
Biết cách điều voi, ngựa,
Lại khéo biết tiếng trống
Cho đến cách đánh trống
Khéo biết cách chiến đấu
Biết rõ cách hòa giải,
Cách điều ngựa, múa giáo
Khéo biết cách chạy nhảy
Khéo biết cách bước đi
Khéo biết cách cứu giúp
Các cách thức như vậy
Tất cả đều biết rõ.

Các trí tuệ kỹ năng vượt bậc như thế vương tử đều thông suốt. Nếu Ngài biết những việc đó thì vì đó là sở học của Ngài, nên không có gì là lạ, còn nếu Ngài biết cách chăn bò là việc của hàng thứ dân cạn cợt thì biết Ngài quả thật là Bậc Nhất Thiết Trí.

Lúc bấy giờ người chăn bò hỏi Đức Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, có mấy phương pháp chăn bò, giúp đàn bò ngày càng tăng thêm về số lượng?

Đức Phật dạy:

– Có mười một phương pháp chăn bò, giúp đàn bò ngày càng tăng thêm về số lượng, không bị ít đi. Nếu không biết sắc, không biết tướng, không biết dậy sớm... cho đến quét dọn, không biết băng bó vết thương, không biết ung khói, không biết dẫn chúng đi đường lớn, không biết cách làm cho đàn bò đi lại được thoải mái, không biết cách dẫn lội nước, không biết nơi thả bò cho tốt, không biết cách vắt sữa đừng để sót, không biết cách xử lý đối với chủ khi bò bị mất trộm. Nếu không hiểu rõ các pháp như thế thì không gọi là biết cách chăn bò, còn như hiểu được pháp này thì gọi là biết cách chăn bò.

Nghe Đức Phật dạy những điều ấy, những người chăn bò vui mừng thưa như vầy:

– Bạch Đức Thế Tôn, những người chăn bò lâu năm còn không biết được những pháp ấy, huống gì lũ chúng con làm sao biết được mười một phương pháp này. Vì vậy nên biết Đức Như Lai Thế Tôn thật là Bậc Nhất Thiết Trí.

Những người chăn bò sinh tâm tin hiểu, xin Phật xuất gia. Đức Phật liền nói cho họ nghe:

– Có mười một pháp, Tỳ-kheo nên học… như trong kinh có nói rộng.

Chương 62

Bậc Đại nhân chỉ mong giữ gìn đức hạnh chứ không cầu mong cúng dường và cung kính.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, sau chín mươi ngày hạ an cư trong vườn ông Cấp Cô Độc rừng cây thái tử Kỳ-đà tại nước Xá-vệ xong, Đức Như Lai định ra đi thì trưởng giả Tu-đạt-đa liền thỉnh ở lại nhưng Ngài không nhận lời. Các Ưu-bà-di như bà Tỳ-xá-khư Lộc Tử Mẫu…, cũng cầu thỉnh Phật, nhưng Phật cũng không nhận. Các Ưu-bà-tắc và các quan đại thần, phụ tướng kỳ cựu… trong nước Xá-vệ cũng cầu thỉnh Đức Phật, các anh em vua Ca-tỳ-lê… và các vương tử Kỳ-đà, vua Ba-tư-nặc… cũng cầu thỉnh Phật nhưng Ngài cũng không nhận lời.

Không được toại nguyện vì Đức Phật không nhận lời, trưởng giả Tu-đạt-đa trở về nhà buồn bã khóc than.

Trước kia, khi Như Lai còn làm Bồ-tát, Ngài đến chỗ các đạo sĩ Ca-lan và Uất-đầu-lam-phất. Lúc từ giã đồ chúng của họ, Ngài còn buồn khổ, huống gì Tu-đạt-đa, là người đã thấy được Chân đế, là Ưu-bà-tắc phụng sự Đức Phật đã lâu làm sao tránh khỏi buồn rầu khi thấy Đức Thế Tôn ra đi. Như trong kinh Bản Hạnh có nói rộng.

Lúc ấy, Phúc-lê-già là người tớ gái của trưởng giả Tu-đạt-đa từ bên ngoài đem nước đến chỗ trưởng giả đổ vào bồn lớn. Chưa đổ xong thì thấy trưởng giả buồn bã than khóc, Phúc-lê-già liền đặt bình xuống đất, thưa với trưởng giả:

– Thưa trưởng giả, vì sao ngài buồn khóc như vậy?

Trưởng giả Tu-đạt-đa đáp:

– Đức Thế Tôn định đi nơi khác. Các đại trưởng giả, quốc vương, đại thần, đều cầu thỉnh nhưng Ngài không bằng lòng ở lại cho nên ta buồn khóc như vậy.

Đứa tớ gái thưa với trưởng giả:

– Thưa trưởng giả, trưởng giả không thể thỉnh Đức Phật ở lại trong nước được sao?

Trưởng giả nói:

– Ta đã hết sức cầu thỉnh và nhiều người, nhiều Bà-la-môn trong thành cũng đều cung thỉnh nhưng Ngài vẫn không nhận lời. Các vua và các đại thần cung thỉnh Đức Như Lai, tất cả đều rất nhọc sức nhưng không thể làm cho Ngài ở lại. Nay Bậc Chân Tế của thế gian nhất định ra đi. Vì luyến tiếc, kính mến Ngài nên họ buồn bã không vui.

Trưởng giả nói tiếp:

– Không phải chỉ riêng mình ta buồn khổ mà mọi người trong nước Xá-vệ cũng không vui.

Trưởng giả liền nói kệ:

Người trong nước Xá-vệ
Già trẻ và trai gái
Tất cả đều lo buồn
Ví như lúc nguyệt thực
Mọi người đều lo sợ
Đều cùng nhau cầu thỉnh.

Khi nghe kệ xong, Phúc-lê-già vui mừng, hớn hở thưa với trưởng giả:

– Thưa trưởng giả, ngài nên vui vẻ, đừng lo buồn nữa! Con có thể thỉnh Đức Phật ở lại được.

Tu-đạt-đa liền nói:

– Từ quốc vương cho đến mọi người trong nước còn không thỉnh Đức Như Lai ở lại được, giờ đây ngươi dám nói có thể thỉnh Ngài ở lại, ta không tin!

Phúc-lê-già thưa:

– Thưa trưởng giả, con chắc chắn làm được!

Nghe Phúc-lê-già nói, trưởng giả Tu-đạt-đa vui hẳn lên, liền hỏi:

– Ngươi có năng lực gì?

Phúc-lê-già thưa:

– Thưa trưởng giả, con không có năng lực gì hết mà chính Đức Thế Tôn có tâm Đại bi!

Vị ấy nói kệ:

Bậc Nhất Thiết Chủng Trí
Như người mẹ thương con
Mong dạy dỗ con mình
Tâm không hề mỏi mệt,
Chúng sinh đắm vào hữu
Phật thường muốn cứu vớt
Ví như mẹ mất con
Tìm cho được mới thôi.
Con nắm áo Đại bi
Chắc chắn Ngài trở về.
Phật không phân dòng họ
Giàu sang và đẹp xấu
Tài sắc hay tốt xấu
Chỉ xét có lòng tin
Người căn lành thành thục
Nếu thấy chúng sinh này
Liền thương xót cứu giúp.
Nay con giữ Phật lại
Nhân dân ở trong nước
Tất cả đều vui mừng.

Đang gánh nước, áo còn ướt đẫm chưa khô, Phúc-lê-già cùng với các bạn đi đến Kỳ hoàn. Lúc ấy nhà vua và mọi người đang ở tinh xá Kỳ hoàn, mọi người đều tránh đường để Phúc-lê-già đến chỗ Phật. Các căn lành đã trồng trước kia, nay đều hiển hiện, Phúc-lê-già lớn tiếng thỉnh Phật và nói kệ:

Nhà vua và đại thần
Sát-lợi, Bà-la-môn
Tất cả người cao quý
Đều cúng dường Đức Phật.
Nay tâm con ao ước
Cũng muốn được cúng dường
Nay xin thỉnh cầu Phật
Mong Thế Tôn nghe cho.
Tuy biết các vị quý
Cầu thỉnh Đức Thế Tôn
Như Lai đại Từ bi
Xin nhận lời con thỉnh,
Tâm Thế Tôn bình đẳng
Không phân biệt cao, thấp
Kẻ nghèo hèn, thấp kém
Và cao sang, Đế Thích
Con sợ biển nghèo nàn
Lặn hụp trong các khổ
Chìm đắm mãi không thôi
Thường nghe tiếng khổ não,
Thế Tôn nên thương xót
Cứu vớt khỏi lửa nghèo
Nay con rất kính tin
Bậc hơn cả trong chúng.
Xin Đại Bi chứng biết
Mặt đất và hư không
Trong tất cả thế giới
Đều thấy biết tất cả
Không có gì không rõ
Chỉ Phật thấy đầy đủ
Tất cả đều biết hết,
Nay con không có gì
Cúng Phật và chúng Tăng
Chỉ có tin, nhận, hiểu
Thân này chẳng của mình
Thuộc người, không tự do
Không được theo Đức Phật
Cúi xin nhận lời con!
Nếu Phật bỏ đi xa
Tâm con như say cuồng
Sắc thân đã cúng dường
Nếu Phật ở lại đây
Con được kính Pháp thân
Pháp do Phật nói ra
Con đều thực hành được.
Lành thay! Cúi xin Ngài
Ở lại giáo huấn con.
Sang hèn không khác nhau
Chắc thật trong chúng sinh
Cùng tất cả thế gian
Làm người bạn không mời.
Màng lưới bao các ngón
Tay có bánh xe đẹp
Tất cả đều sợ hãi
Phật dùng tay an ủi.
Ai có tâm Đại bi
Bủa khắp cả thế gian
Đều là lời Chân tế
Lục sư xưng Chủng trí
Xưa đã điều phục họ?
Ai ở trước đại chúng
Tiếng Sư tử không sợ
Tiếng khen khắp ba cõi
Lay động khắp tất cả
Thế giới đều nghe biết?
Ai không có lỗi lầm?
Chỉ có Phật Thế Tôn.
Lành thay! Xin hòa vui
Tâm về nương Tam bảo
Giống như con nhớ mẹ.
Ngài vì các chúng sinh
Tu khổ hạnh khó làm
Chịu khó đi đến đây
Nói tám con đường chánh
Mở bày nẻo cam lộ
Người trí làm pháp khí.

Bấy giờ căn lành của Phúc-lê-già đã thuần thục. Đức Phật Bà-già-bà phát ra tiếng Phạm âm, dùng kệ bảo Phúc-lê-già:

Ngươi đã khéo tìm cách
Làm cho Ta ở lại
Ngươi dùng lời móc câu
Chế ngự các voi mạnh,
Ngươi có chí bền vững
Có độ lượng rộng rãi
Đã dùng tâm tha thiết
Cầu thỉnh Ta ở lại
Giờ đây Ta làm sao
Không nhận ngươi thỉnh được?
Nếu xa quán tâm ngươi
Còn phải nên đi đến
Huống giờ đứng trước ngươi
Mà nỡ bỏ đi sao?
Ta không vì tài lợi
Giàu sang và tiếng khen
Vì thật tâm của ngươi
Ta sẽ ở đây lâu.
Thấy tâm ngươi thanh tịnh
Giống như ngựa tài giỏi
Trang sức yên và dây
Ai không cỡi dạo chơi?
Ta đã vì mọi người,
Vì gây nhân giải thoát
Cho nên lìa gia đình
Không bị lợi dưỡng buộc
Giống như con voi mạnh
Dùng tơ sao buộc được?
Lợi dưỡng cũng như vậy
Không thể ngăn cấm Ta.
Lúc Ta ở trong thai
Trong chỗ tối tăm kia
Còn nghĩ lợi chúng sinh
Huống nay thành Chánh giác?
Khổ hạnh chứa vô lượng
Vẫn thường tự khô cạn
Nếu không vì chúng sinh
Ta đã nhập Niết-bàn
Vì muốn độ chúng sinh
Cho nên ở lại đời.
Ta vì các chúng sinh
Nhảy xuống vực, vào lửa,
Ta vì giáo hóa họ
Không nệ các khổ não,
Cũng không từ khó nhọc
Làm mãn nguyện Lê-già
Cho nên phải ở lại.
Phúc-lê-già nên biết,
Ta giúp ngươi mãn nguyện
Ta vì độ chúng sinh
Gánh vác lũ rắn độc
Ta ở vì Phúc-già.
Chúng sinh thành Xá-vệ
Đều sinh tâm ít có
Cùng nói lời như vầy:
Vui thay! Phật ít có
Không nhận lời của vua
Không nhận lời đại thần
Lời thỉnh người trong thành,
Không vì lời người nữ
Dịu dàng và mềm mỏng
Phật là người giáo hóa
Thấy nàng có tâm lành
Nên quyết định ở lại.
Tất cả việc đi, ở
Biết Phật vì Phúc-già
Cho nên phải ở lại
Không vì các lợi dưỡng
Danh lợi và tài vật.
Phật không các kết sử
Vì người được giáo hóa
Đi đứng và nằm ngồi
Thường xem xét chúng sinh
Ngài vì các chúng sinh
Đáng đi thì đi ngay
Đáng ở thì cứ ở.

Chương 63

Phải giữ gìn giới cấm, thà xả bỏ thân mạng chứ không bao giờ hủy phạm.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, có một thầy Tỳ-kheo theo thứ lớp đi khất thực, đến tiệm xâu ngọc đứng ở ngoài cửa. Lúc ấy người thợ đang xâu ngọc Ma-ni cho nhà vua, thầy Tỳ-kheo đi qua, màu y ánh vào viên ngọc làm cho nó có màu đỏ hồng. Người thợ vào nhà lấy thức ăn cúng dường thầy Tỳ-kheo, lúc ấy có một con ngỗng thấy viên ngọc màu đỏ giống như miếng thịt liền đến mổ và nuốt mất. Đem thức ăn cúng dường thầy Tỳ-kheo xong, người thợ tìm viên ngọc nhưng không thấy. Viên ngọc quý giá này là vật của vua. Nhà người thợ làm ngọc đã nghèo khổ nay lại làm mất ngọc quý của vua nên trong lòng khiếp sợ, bèn nói với vị Tỳ-kheo:

– Thầy ơi, hãy trả ngọc quý lại cho tôi!

Lúc ấy, thầy Tỳ-kheo suy nghĩ: “Viên ngọc ấy bị con ngỗng nuốt, nếu ta nói ra thì người thợ chắc chắn sẽ giết con ngỗng để lấy viên ngọc. Như vậy sự khổ sẽ đến với ta! Ta phải làm cách nào để tránh khỏi tai họa này?”

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Nay vì giữ mạng ngỗng
Thân ta chịu khổ não
Không còn cách nào khác
Lấy mạng ta thay ngỗng.
Nếu cho người thợ biết
Rằng chính do ngỗng nuốt
Người kia chưa chắc tin
Mà còn giết con ngỗng.
Ta phải làm cách nào
Để cứu được thân mình
Lại không hại ngỗng kia?
Nếu nói người khác lấy
Nói như vậy không được
Dù cho mình không lỗi
Cũng không nên nói dối.
Ta nghe Bà-la-môn
Vì sống được nói dối
Ta nghe Tiên thánh nói
Thà xả bỏ thân mạng
Không bao giờ luống dối.
Phật nói kẻ cướp ác
Bị cưa cưa đứt thân
Dù chịu sự đau đớn
Không bao giờ hủy pháp,
Nói dối được toàn mạng
Vẫn còn không nên làm
Thà có tâm giữ giới
Mà xả bỏ thân mạng.
Nếu ta nói dối thì
Những vị cùng phạm hạnh
Chê bai ta phá giới
Khinh chê ta như vậy
Giống như đốt tâm ta.
Vì những lý do ấy
Không nên phá giới cấm
Nay phải chịu khổ lớn
Ta phải nên học như
Ngỗng uống sữa pha nước
Chỉ uống hết phần sữa
Còn chừa lại phần nước
Nay ta cũng phải vậy
Bỏ ác mà lấy thiện.
Trong kinh dạy như vầy
Người trí và trẻ ngu
Tuy cùng làm một việc
Nhưng không theo việc ác
Người lành bỏ điều ác
Như ngỗng uống sữa nước.
Nay ta bỏ thân mạng
Vì mạng sống ngỗng kia
Bởi vì ta giữ giới
Để thành đạo giải thoát.

Khi nghe kệ ấy xong, người thợ xâu ngọc nói với thầy Tỳ-kheo:

– Trả viên ngọc lại cho tôi! Nếu không trả lại thì thầy phải chuốc lấy khổ não, không thể bỏ qua được.

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Ai lấy ngọc của ông!

Và thầy đứng im lặng. Người thợ nói:

– Ở đây không có người nào khác, ai lấy viên ngọc ấy?

Khi đó người thợ xâu ngọc liền đóng cửa lại rồi nói với thầy Tỳ-kheo:

– Bây giờ, thầy cứ ngoan cố đi!

Thầy Tỳ-kheo nhìn khắp bốn phía nhưng không biết nhờ cậy ai. Giống như con nai đi vào vườn mà không biết lối ra, thầy Tỳ-kheo không cầu cứu được ai cũng lại như vậy.

Bấy giờ thầy Tỳ-kheo tự thúc liễm thân, sửa y phục ngay ngắn. Người thợ lại nói:

– Bây giờ, ông có muốn đấu với ta không? Thầy Tỳ-kheo đáp:

Tôi không muốn đấu với ông! Tôi tự đấu với bọn giặc kết sử kia. Sở dĩ như vậy là vì tôi e rằng khi đánh nhau thân thể sẽ lộ liễu ra ngoài, mà Tỳ- kheo chúng tôi dù cho có khốn khổ nhưng lúc lâm chung y phục vẫn thường tự che kín, không để lộ thân thể.

Thầy Tỳ-kheo lại nói kệ:

Thế Tôn biết hổ thẹn
Nay ta tu học theo
Cho đến lúc qua đời
Không để lộ thân thể.

Người thợ nói với thầy Tỳ-kheo:

– Vậy thầy không tiếc thân mạng hay sao? Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Theo pháp xuất gia của tôi thì đến khi giải thoát cũng thường giữ gìn thân mạng, dù ở trong chỗ hiểm nạn vẫn giữ gìn thân mạng. Nay tôi nhất định bỏ thân này để chúng xuất gia khen ngợi tên tôi.

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Khi tôi bỏ thân mạng
Ngã xuống như củi khô
Khiến cho người ngợi khen
Vì ngỗng mà bỏ thân
Cũng khiến cho người sau
Đều buồn bã thương tiếc.
Xả bỏ thân mạng này
Người nghe siêng tinh tấn
Tu hành theo đạo chân
Giữ vững các giới cấm
Nếu có ai hủy giới
Nguyện cho ưa giữ giới

Bấy giờ người thợ nói với thầy Tỳ-kheo:

– Vừa rồi, ông đã nói những lời tà vạy không chân thật mà lại muốn cho người khác khen ngợi tên mình.

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Ông cho rằng tôi mặc chiếc y nhuộm này là hư dối hay sao? Tại sao phải khoe khoang cái tốt? Vì không tà vạy nên tự vui mừng, cũng không phải vì muốn người khác khen ngợi tên tôi mà chính là muốn cho Đức Thế Tôn biết rõ tâm chí thành của tôi.

Vị Tỳ-kheo liền nói kệ:

Đệ tử của Đức Phật
Vì giữ gìn giới cấm
Xả bỏ thân khó bỏ
Khiến những người thế gian
Sinh tâm chưa từng có,
Đối các vị xuất gia
Giờ tuy chưa sinh tâm
Tương lai ắt sẽ sinh.

Khi ấy, người thợ trói thầy Tỳ-kheo lại rồi dùng gậy đánh và hỏi:

– Viên ngọc ở đâu? Trả lại cho tôi!

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Tôi không lấy ngọc!

Người thợ khóc lóc, trong lòng ăn năn lại càng thêm khổ não vì để mất ngọc của vua, liền nói kệ:

Chao ôi, cái nghèo này!
Ta biết nghiệp lành, dữ
Nên sinh tâm ăn năn
Chao ôi, cái nghèo này!
Do tham nên làm ác.

Người thợ khóc lóc, đảnh lễ dưới chân thầy Tỳ- kheo rồi thưa:

– Xin thầy vui lòng trả viên ngọc lại cho tôi! Thầy chớ tự thiêu đốt mà cũng đừng thiêu đốt tôi!

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Thật sự tôi không lấy! Người thợ nói tiếp:

– Tỳ-kheo này thật ngoan cố, chịu đau đớn như vậy mà vẫn không chịu nói ra!

Bị cái nghèo ép ngặt mà không lấy lại được viên ngọc, người thợ lại càng tức giận đánh đập. Hai tay và cổ đều bị trói, nhìn khắp bốn phía không biết kêu ai, thầy Tỳ-kheo chắc chắn phải chịu chết một cách luống uổng, liền nghĩ như vầy: “Sống, chết, chịu khổ đều phải như thế, ta nhất quyết không nói ra, không để trái phạm giới luật. Nếu ta phạm giới sẽ chịu khổ địa ngục còn hơn cái khổ hiện giờ”.

Thầy Tỳ-kheo nói kệ:

Phải nhớ Nhất Thiết Trí
Lấy đại Bi làm thể
Vì tôi tôn trọng Phật
Nên nhớ lời Phật dạy,
Lời của Phú-na-già
Lại phải nên nhớ nghĩ.
Tiên nhẫn nhục trong rừng
Chặt bỏ cả tay, chân
Và tai, mũi của mình
Mà tâm không tức giận.
Tỳ-kheo phải nhớ nghĩ
Trong kinh Phật có dạy
Rằng các thầy Tỳ-kheo
Dầu bị cưa sắt cưa
Thân thể và chân tay
Cũng không sinh tâm ác,
Chỉ chuyên tâm nhớ Phật
Nghĩ mình đã xuất gia
Và nhớ nghĩ giới cấm.
Tôi ở đời quá khứ
Vì dâm, trộm bỏ thân
Như thế không thể đếm,
Dê, nai và lục súc
Bỏ thân không thể tính,
Khi ấy luống chịu khổ
Vì giới bỏ thân mạng
Hơn sống mà phá giới.
Dù cho muốn giữ mình
Rồi cuối cùng cũng chết
Không bằng giữ gìn giới
Cứu mạng sống vật khác.
Bỏ thân nguy ách này
Để cầu thân giải thoát
Tuy xả bỏ thân mạng
Nhưng có các công đức
Có được vô sở đắc.
Người trí giữ thân mạng
Mạng ấy có công đức
Người ngu bỏ thân mạng
Luống uổng không được gì.

Khi đó thầy Tỳ-kheo nói với người thợ xỏ ngọc:

– Giữ tâm Từ bi thật là khổ thay! Người thợ khóc lóc, buồn rầu nói kệ:

Mặc dù tôi đánh thầy
Nhưng hết sức khổ não
Lo sợ vua trách phạt
Lại muốn tra khảo thầy
Nay thầy bỏ khổ ấy
Cũng khiến ôi bỏ ác.
Thầy là người xuất gia
Phải dứt bỏ tham dục
Nên bỏ tâm tham ái
Hãy trả ngọc cho tôi!

Thầy Tỳ-kheo mỉm cười nói kệ:

Tôi tuy có tâm tham
Nhưng không hề tham ngọc.
Ông hãy nghe tôi nói
Tôi tuy tham tiếng khen
Nhưng người trí ca ngợi,
Cũng tham cả giới cấm
Cho đến pháp giải thoát
Con đường đến bất diệt
Là điều tôi tham nhất.
Đối với ngọc của ông
Thật không có tâm tham.
Tôi mặc y phấn tảo
Khất thực là sự sống
Sống ở dưới gốc cây
Tôi cho đó là đủ
Vì những lý do nào
Lại đi làm kẻ cướp?
Ông nên khéo xem xét!

Người thợ nói với thầy Tỳ-kheo:

– Thầy chớ nói nhiều?

Thế rồi người thợ lấy dây trói thêm và đánh đập nữa. Vì dây xiết mạnh quá nên mắt, tai, miệng, mũi của thầy Tỳ-kheo đều chảy máu. Khi ấy, con ngỗng liền đến uống máu; người thợ tức giận đánh con ngỗng chết. Thầy Tỳ-kheo hỏi:

– Con ngỗng còn sống hay chết?

Người thợ đáp:

– Con ngỗng sống hay chết đâu có gì đáng hỏi?

Thầy Tỳ-kheo hướng về chỗ con ngỗng, thấy nó đã chết bèn rơi nước mắt không vui mà nói kệ:

Tôi chịu các khổ não
Mong cho ngỗng được sống
Nay mạng tôi chưa chết
Mà ngỗng chết trước tôi.
Tôi mong cứu mạng nó
Mới chịu khổ như vầy
Sao nó lại chết trước
Mục đích tôi không thành!

Người thợ hỏi thầy Tỳ-kheo:

– Con ngỗng đối với thầy có liên can gì, sao thầy buồn bã như thế?

Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Vì không được mãn nguyện nên tôi không vui! Nãy giờ tôi có ý muốn chết thay cho ngỗng nhưng giờ nó đã chết làm cho tôi không được như ý nguyện.

Người thợ lại hỏi:

– Thầy muốn nguyện điều gì? Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Khi Đức Phật còn làm Bồ-tát, vì chúng sinh Ngài đã chịu chặt bỏ chân tay không hề tiếc thân mạng. Tôi muốn học theo hạnh của Ngài.

Vị Tỳ-kheo nói kệ:

Thuở xa xưa Bồ-tát
Bỏ thân thế mạng ngỗng
Tôi cũng làm như thế
Muốn bỏ mạng thay ngỗng.
Tôi có tâm cao thượng
Muốn ngỗng được toàn mạng
Do ông giết chết ngỗng
Tâm nguyện tôi không tròn.

Người thợ hỏi:

– Thầy nói điều ấy tôi vẫn chưa hiểu, thầy nên giải thích rõ ràng nguyên nhân.

Bấy giờ, thầy Tỳ-kheo nói kệ đáp:

Tôi mặc y màu đỏ
Sắc ngọc tựa màu thịt
Ngỗng cho đó là thịt
Liền đến nuốt ngọc ngay.
Tôi cam chịu khổ đau
Vì muốn giúp ngỗng kia
Bị tra khảo rất khổ
Mong nó được toàn mạng.
Tất cả các chúng sinh
Phật đều xem như con
Người không có công đức
Ngài cũng đều thương xót.
Cù-đàm là Thầy tôi
Làm sao giết chúng sinh
Tôi là đệ tử Ngài
Nỡ nào lại sát hại!

Nghe kệ xong, người thợ liền mổ bụng ngỗng lấy viên ngọc ra rồi khóc nức nở thưa với thầy Tỳ- kheo:

– Vì cứu mạng con ngỗng mà thầy không tiếc thân mình, làm cho tôi không biết mà gây ra những việc không đúng pháp này.

Người thợ liền nói kệ:

Thầy chứa việc công đức
Như lấy tro phủ lửa
Tôi vì quá ngu si
Thiêu đốt mấy trăm thân.
Thầy rất là xứng đáng
Tiêu biểu cho Đức Phật
Tôi vì quá ngu si
Không chịu xem xét kỹ
Bị lửa si thiêu đốt.
Xin thầy tạm ở lại
Cho tôi được sám hối
Giống như ngã xuống đất
Chống đất để đứng dậy
Đợi tôi cúng chút ít.

Khi ấy, người thợ chắp tay hướng về thầy Tỳ- kheo, lại nói kệ rằng:

Kính lễ hạnh thanh tịnh
Cung kính giữ vững giới
Gặp nạn khổ dữ dội
Không hề phá hủy giới.
Không gặp việc dữ này
Giữ giới nào có khó
Cần phải gặp việc khổ
Mới giữ gìn giới cấm
Đây mới gọi là khó.
Vì ngỗng thân chịu khổ
Không hủy phạm giới cấm
Việc này thật khó có!

Sám hối xong, người thợ đưa tiễn thầy Tỳ-kheo ra về.

QUYỂN 12

Chương 64

Pháp Phật khó được nghe. Thuở xưa, khi Đức Như Lai còn tu hạnh Bồ-tát, không tiếc thân mạng để cầu giáo pháp. Thế nên, chúng ta phải siêng năng tinh tấn nghe pháp.

Tôi nghe thí dụ về con chim bồ câu rằng:

Thuở xưa, có vị Pháp sư tà kiến nói pháp điên đảo cho Thích Đề-hoàn Nhân nghe. Vị Pháp sư ngoại đạo kia không có trí tuệ chân chánh mà tự xưng là Bậc Nhất Thiết Trí, nói rằng không có đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Trời Đế Thích nghe nói như vậy trong lòng không vui, sinh tâm buồn. Đế Thích nhìn xem các thế gian, có những vị tu hành khổ hạnh cùng cực để tìm cầu Nhất thiết trí, như trong kinh Đế Thích Vấn có bài kệ:

Nay tâm ta mong cầu
Mà không được đầy đủ
Ngày đêm cứ thắc mắc
Chẳng biết đúng hay sai.
Từ lâu xa đến nay
Ta thường nghĩ tìm khắp
Chẳng biết Bậc Chân Tế
Hiện giờ ở nơi đâu?

Tỳ-thủ-yết-ma bạch với trời Đế Thích:

– Ở cõi trời ngài không nên lo buồn. Nước Câu- thi ở dưới trần gian có vị vua hiệu là Thi-tỳ, rất siêng năng tinh tấn tu hành khổ hạnh cầu đạo Chánh đẳng Chánh giác. Người có trí tuệ quán sát thấy nhà vua ấy không bao lâu sẽ thành Phật, ngài hãy đến gần gũi học hỏi.

Đế Thích đáp:

– Việc làm của nhà vua ấy không thay đổi chăng?

Đế Thích liền nói kệ:

Giống như cá đẻ trứng
Tuy nhiều nhưng nở ít
Lại như quả Am-la
Sống chín khó phân biệt,
Bồ-tát cũng như vậy
Người phát tâm tuy nhiều
Thành tựu thì rất ít.
Nếu hành hạnh khó khổ
Mà không bị lui sụt
Có thể nói chắc được
Muốn biết bậc Bồ-tát
Phải giữ tâm vững chắc.

Tỳ-thủ-yết-ma nói:

– Bây giờ chúng ta nên đi đến xem thử, nếu thật tâm nhà vua bất động thì ta phải cúng dường.

Lúc bấy giờ trời Đế Thích vì muốn xem xét tâm của vị Bồ-tát, nên tự biến thành con chim ưng, nói với Tỳ-thủ-yết-ma: “Thầy hãy hóa thành con chim bồ câu”. Tỳ-thủ-yết-ma liền hóa thành chim bồ câu, thân màu xanh da trời, mắt như hạt châu đỏ, bay về chỗ trời Đế Thích. Đế Thích sinh tâm thương xót nói với Tỳ-thủ-yết-ma:

– Vì sao chúng ta lai sinh tâm bức xúc đối với Bồ-tát, gây sự khổ não cho vua Thi-tỳ. Tuy nhà vua đã chịu đựng những khổ đau, như rèn luyện vật báu tốt đẹp, thử nhiều lần như thế mới biết được thật giả. Cách thử vật quý là chặt, chẻ, bẻ cong, thiêu đốt, lấy chày đập, có như thế mới biết được thật giả.

Bấy giờ chim bồ câu biến hóa kia bị chim ưng đuổi. Chim bồ câu rất sợ hãi, bay đến trước đại chúng, núp dưới nách vua Thi-tỳ. Màu xanh thân chim giống như lá sen, ánh sáng rực rỡ như cầu vòng chiếu sáng trong mây đen rất xinh đẹp. Mọi người sinh tâm cho là việc ít có. Chim ưng liền nói kệ:

Người có tâm Từ bi
Chúng sinh đều thể tin
Giống như khi trời tối
Bay về ổ của mình.
Chim ưng hóa nói rằng:
Xin vua cho tôi ăn.

Nhà vua nghe chim ưng nói và trông thấy chim bồ câu kia rất sợ hãi, liền nói kệ:

Bồ câu sợ chim ưng
Bay vun vút đến ta
Tuy miệng không nói được
Vì sợ nước mắt tuôn
Do vậy nên hôm nay
Ta phải cần cứu giúp.

Nhà vua an ủi chim bồ câu, lại nói kệ:

Ngươi chớ có sợ sệt
Không ai giết ngươi được
Khi ta đây còn sống
Chắc chắn sẽ cứu ngươi.
Ta đâu riêng giúp ngươi
Còn che chở chúng sinh
Ta vì tất cả chúng
Mà làm cả mọi việc
Như làm thuê cho người
Ta được một phần sáu.
Ta đối tất cả chúng
Chính là người làm thuê
Cần phải luôn giữ gìn
Không để họ chịu khổ.

Lúc bấy giờ chim ưng kia tâu với nhà vua:

– Đại vương, xin hãy thả con chim bồ câu này ra vì đó là thức ăn của tôi.

Nhà vua đáp:

Từ lâu, ta đã có lòng Từ cứu giúp tất cả chúng sinh.

Chim ưng hỏi nhà vua:

– Đại vương, ngài nói đã lâu là thế nào? Đại vương liền nói kệ:

Tôi vừa phát Bồ-đề
Lúc ấy liền nhiếp hộ
Đối với các chúng sinh
Đều sinh tâm thương xót.

Chim ưng đáp bằng bài kệ:

Nếu ngài nói thật thì
Mau trả chim cho tôi
Nếu tôi bị đói chết
Thì ngài chẳng tâm Từ.

Nhà vua nghe xong liền suy nghĩ, bây giờ ta xử trí thật khó, ta phải làm các nào cho hợp lý. Nghĩ rồi, nhà vua liền trả lời chim ưng:

– Nếu có thịt khác thì ngươi có chịu ăn không? Chim ưng đáp:

– Đại vương, chỉ có máu thịt tươi mới cứu được mạng sống của tôi.

Lúc ấy nhà vua suy nghĩ không biết phải làm cách nào, liền nói bài kệ:

Tất cả các chúng sinh
Ta thường cứu giúp cả
Máu thịt nóng như thế
Không giết thì không được.

Nhà vua nghĩ rằng chỉ có thịt của thân mình mới cứu giúp được mạng sống chim ưng. Đây là việc làm rất dễ, liền nói kệ:

Tự cắt thịt thân mình
Để cho chim ưng kia
Cho đến bỏ thân mình
Để giúp mạng sợ hãi.

Lúc ấy vua nói bài kệ xong liền bảo với chim ưng:

– Ngươi ăn thịt ta để nuôi mạng sống được chăng?

Chim ưng đáp:

– Đại vương, được chứ. Xin đại vương hãy cân thịt của Ngài bằng với thịt chim bồ câu rồi đưa cho tôi, thì tôi sẽ ăn.

Nhà vua nghe chim ưng nói trong tâm rất vui mừng, liền bảo với người hầu cận hãy mau đem cân đến, cắt lấy thịt mình để đổi mạng cho chim bồ câu. Vua nghĩ: “Hôm nay chính là ngày hội rất tốt đẹp của ta. Sao gọi là ngày hội rất tốt đẹp?” Vua liền nói kệ:

Chỗ ở của già bệnh
Mong manh rất hôi nhơ
Nay ta nên vì pháp
Cắt bỏ thịt dơ này.

Vâng lệnh nhà vua, người hầu liền đem cân đến. Nhà vua thấy đem cân đến sắc mặt không ưu sầu, tự mình đưa chân ra, bắp chân trắng như lá đa- la. Nhà vua liền gọi một người hầu đến và nói kệ:

Ngươi hãy dùng dao bén
Cắt lấy thịt đùi ta
Ngươi chỉ nghe lời ta
Đừng sinh tâm nghi sợ
Không làm hạnh khó khổ
Không được Nhất thiết trí
Bậc Nhất Thiết Chủng Trí
Hơn hết trong ba cõi
Bồ-đề dùng duyên nhỏ
Không bao giờ chứng được
Vì thế hôm nay ta
Làm việc rất vững chắc.

Lúc bấy giờ, người hầu rơi lệ buồn khóc, nước mắt đầm đìa, chắp tay thưa:

– Xin đại vương hãy tha thứ cho tôi, tôi không làm được việc này. Tôi thường được nhà vua cung cấp, sai khiến, thì đâu nỡ dùng dao bén cắt thịt đùi của đại vương.

Vị ấy nói kệ:

Vua là người cứu giúp
Nếu tôi cắt thịt vua
Thân tôi cùng dao này
Đều sẽ bị đọa lạc.

Khi ấy nhà vua tay tự cầm dao định cắt thịt đùi của mình. Các quan đại thần, phụ tướng kêu khóc can ngăn không thể làm cho nhà vua thay đổi ý định. Mọi người trong thành ai cũng khuyên can, nhưng vua không nghe theo, tự cắt miếng thịt đùi mình.

Những người đứng gần đều quay đi chỗ khác, vì không nỡ nhìn thấy. Các vị Bà-la-môn lấy tay che mắt không dám nhìn. Các thể nữ trong cung cất tiếng buồn khóc, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát- bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… ở trên hư không đều bảo nhau:

– Như việc làm này, ta tin chưa bao giờ có.

Lúc đó, thân thể nhà vua rất mềm mại, vì nhà vua sinh ra và lớn lên trong cung, chưa bao giờ gặp phải sự khổ như thế này nên toàn thân đau đớn, mờ mệt sắp chết. Để tự khuyên mình, nhà vua liền nói kệ:

Ôi! Tâm phải vững chắc
Việc khổ nhỏ như vầy
Vì sao lại buồn phiền?
Ngươi xem các thế gian
Trăm ngàn khổ ép ngặt
Không ai nương, ai giúp
Ai che chở, nuôi dưỡng
Đều không được tự tại
Chỉ có tâm ngươi thôi
Nên làm việc cứu giúp
Vì sao không tự trách
Lại sinh tâm khổ não.

Thích Đề-hoàn Nhân bèn nghĩ: “Việc làm của vị vua này rất khổ sở, không biết có thể giữ vững ý chí chăng? Ta muốn thử xem việc làm của vị vua này như thế nào.” Liền hỏi:

– Hiện giờ nhà vua rất đau khổ, khó có thể chịu đựng được. Tại sao đại vương không bỏ việc làm khổ hạnh đó mà phải chịu khổ não như vậy? Ngài đã làm đủ rồi không cần phải làm nữa, hãy thả chim bồ câu kia cho nó bay đi.

Bồ-tát mỉm cười đáp:

– Không bao giờ vì đau đớn mà ta trái lời thệ nguyện. Nếu như có sự đau khổ nào hơn thế nữa thì cũng không bao giờ làm lui sụt ý chí của ta. Đây chỉ mới là nỗi khổ nhỏ, so với địa ngục thì không thể ví dụ được. Thế nên ta phải càng sinh tâm Từ bi hơn nữa đối với các nỗi khổ của chúng sinh.

Nói rồi, Bồ-tát nói kệ:

Nay ta cắt thân khổ
Tâm ý rất rộng lớn
Người trí nhỏ, tâm yếu
Chịu khổ nơi địa ngục
Nỗi khổ ấy lâu dài
Mênh mông không bờ bến
Làm sao chịu đựng được?
Ta thương những hạng ấy
Vì thế phải nhanh chóng
Gấp cầu đạo Bồ-đề
Các nỗi khổ như vậy
Giúp cho họ giải thoát.

Trời Đế Thích lại nghĩ: “Việc làm của nhà vua chưa phải là khổ lắm đâu, còn có những nổi khổ dữ dội hơn thế nữa, không biết tâm của ông có bị lay động chăng? Bây giờ ta sẽ thử xem”. Trời Đế Thích suy nghĩ như thế nhưng im lặng không nói. Khi nhà vua lấy dao cắt thịt và đặt ở một đầu cân, lại đặt chim bồ câu ở đầu cân còn lại thì thân bồ câu nặng hơn. Lại cắt thịt hai đùi cho đến thịt trong mình đặt thêm vào nhưng vẫn còn nhẹ hơn chim bồ câu.

Nhà vua lúc ấy rất kinh ngạc. Vì nguyên nhân nào lại như vậy? Ngài liền định bước lên trên quả cân. Chim ưng hỏi:

– Đại vương, ngài làm như vậy có ăn năn chăng?

Vua đáp:

Ta không ăn năn, ta muốn bước toàn thân lên cân để cứu mạng chim bồ câu này.

Khi nhà vua sắp bước lên cân, sắc mặt nhà vua rất vui vẻ. Những người đứng gần bên đều không nỡ nhìn thấy việc làm như vậy và lại xua đuổi những người khác không để cho họ nhìn cảnh tượng ấy. Nhà vua nói:

– Hãy giữ tâm, cứ nhìn. Khi nhà vua cắt hết thịt trên thân mình, đến các đốt xương, giống như đang vẽ một bức tranh trong mưa bị hủy hoại khó nhìn rõ được. Lúc ấy nhà vua liền nói:

– Nay ta bỏ thân mạng, không vì tiền tài vật báu, không vì dục lạc, không vì vợ con, cũng không vì bà con quyến thuộc mà chính vì cầu được Nhất thiết chủng trí để cứu giúp chúng sinh,

Vua liền nói kệ:

Trời, Người, A-tu-la
Càn-thát-bà, Dạ-xoa
Rồng và Quỉ thần thảy
Tất cả các chúng sinh
Ai thấy được thân ta
Đều được không lui sụt.
Vì tham cầu trí tuệ
Khổ sở cắt thân này
Vì mong cầu Chủng trí
Phải giữ vững tâm Từ
Nếu người không giữ vững
Thì bỏ đạo Bồ-đề.

Lúc bấy giờ nhà vua không tiếc thân mạng, liền bước lên cân. Khi ấy cả mặt đất đều rung chuyển sáu cách, cỏ lá theo sóng bị vùi dập, các trời trên hư không khen ngợi việc làm chưa từng có và xướng nói:

– Lành thay! Lành thay! Thật đáng gọi là tinh tấn, tâm ý vững chắc.

Vua liền nói kệ:

Ta bảo vệ mạng chim
Tự cắt thịt thân mình
Tâm thương xót thuần thiện
Giữ tâm không lay động
Tất cả các trời, người
Tâm đều nghĩ ít có.

Chim ưng khen ngợi là việc chưa từng có, tâm nhà vua quả là chắc thật, không bao lâu sẽ thành Phật, tất cả chúng sinh sẽ có chỗ nương cậy. Chim ưng hiện trở lại thân trời Đế Thích và ở trước vua nói:

– Tỳ-thủ-yết-ma hãy hiện trở lại thân gốc của ngài đi. Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau thiết trai cúng dường Bồ-tát. Vị Bồ-tát này có một ý chí và sức mạnh vững bền. Như núi Tu-di ngự giữa biển lớn không bao giờ bị lay động. Tâm vị Bồ-tát cũng như vậy.

Đế Thích nói kệ:

Chúng ta nên cúng dường
Bậc tinh tấn mạnh mẽ
Nay nên cùng phát khởi
Khen ngợi làm lớn thêm.
Chúng sinh gặp khổ nạn
Nên cùng nhau ngăn dứt
Cùng làm bạn với họ
Tu hành lâu vững chắc
An trụ đất đại Bi
Cây trí Nhất thiết chủng
Mầm mống mới nhô lên
Người trí nên che chở.

Tỳ-thủ-yết-ma nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

– Nhà vua đối với tất cả chúng sinh có tâm thương xót, chúng ta nên giúp cho nhà vua trở lại thân hình cũ, nguyện cho tất cả chúng sinh tâm trí không lay động.

Lúc ấy trời Đế Thích hỏi nhà vua:

– Đại vương vì một con chim bồ câu mà bỏ thân mạng, ngài có lo buồn gì chăng?

Nhà vua liền nói kệ:

Thân này rồi cũng bỏ
Giống như gỗ đá kia
Sẽ bỏ cho cầm thú
Lửa đốt, mục trong đất.
Dùng thân vô ích này
Để cầu lợi ích lớn
Phải nên rất vui mừng
Tâm không hề ăn năn.
Ai người có trí tuệ
Dùng thân mong manh này
Đổi lấy pháp bền chắc
Mà không vui thích ư?

Khi ấy trời Đế Thích nói với nhà vua:

– Đại vương, lời nói ấy thật khó tin. Lại nữa, việc như thế thật là việc làm không hề có, vậy ai là người dám tin?

Nhà vua đáp:

– Ta tự biết tâm ta, trên đời có vị Đại tiên có khả năng xem xét và chắc chắn biết được tâm ta, chân thật không thay đổi.

Trời Đế Thích nói:

– Đại vương hãy nói lời chân thật. Bấy giờ nhà vua liền phát thệ nói:

Nếu tâm tôi không ăn năn thì hãy khiến cho thân này trở lại như cũ.

Nhà vua xem xét những chỗ thịt bị cắt trên thân, liền nói kệ rằng:

Khi ta cắt thịt mình
Tâm không có khổ, vui
Không giận cũng không lo
Không có tâm không vui,
Nếu việc này chân thật
Thân trở lại như cũ
Mau thành đạo Giác ngộ
Cứu khổ các chúng sinh.

Nói kệ xong, những chỗ thịt trên thân mà nhà vua đã cắt liền đầy đặn lại như cũ. Vua bèn nói kệ:

Các núi và đất đai
Tất cả đều rung chuyển
Cây cối và biển cả
Ẩn, hiện không tự dừng
Giống như người sợ hãi
Run rẩy không tự an.
Các trời trổi âm nhạc
Không trung mưa hoa thơm
Các âm thanh chuông trống
Đồng thời cùng trổi lên.
Âm nhạc của trời người
Tất cả đều trổi lên
Chúng sinh đều rung động
Biển lớn cũng ầm vang.
Trời mưa hương bột mịn
Đầy khắp các lối đi
Hoa ở trong hư không
Rơi nhanh chậm không đồng,
Các Thiên nữ trên không
Rải hoa đầy mặt đất
Bao nhiêu màu sắc đẹp,
Áo trang sức vàng báu
Từ trời rơi như mưa
Áo trời các tua vải
Chạm nhau phát ra tiếng.
Trong nhà của mọi người
Vật báu tự phát tiếng
Trang nghiêm ở trong nhà
Tự nhiên phát ra tiếng
Giống như kỹ nhạc trời.
Các phương đều quang đãng
Bốn phía đều trong sáng
Gió nhẹ thổi hơi thơm
Sông trôi chảy êm đềm.
Dạ-xoa khát ngưỡng pháp
Càng vui mừng thêm lên
Không lâu thành Chánh giác
Ca vịnh và khen ngợi.
Trong tâm rất vui mừng
Các vị Càn-thát-bà
Ca tụng trổi âm nhạc
Âm thanh hay dìu dặt
Khen ngợi mà nói rằng:
Không bao lâu thành Phật
Vượt qua biển thệ nguyện
Mau chóng đến chốn vui
Kết quả đã thành tựu
Hãy nhớ độ thoát ta.

Lúc bấy giờ trời Đế Thích và Tỳ-thủ-yết-ma cúng dường Bồ-tát xong, liền trở về cõi trời.

Chương 65

Phải gần gũi bậc thiện tri thức, nếu gần gũi thiện tri thức thì các phiền não lẫy lừng cũng dứt bỏ được.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, thái tử Ta-la-na con của vua Tố-tỳ- la. Sau khi nhà vua băng hà, thái tử Ta-la-na không chịu lên nối ngôi, giao sự nghiệp lại cho em và đến xin ngài Ca-chiên-diên xuất gia.

Sau khi xuất gia, thái tử theo Tôn giả Ca-chiên- diên đến vương quốc Ba-thọ-đề vào ngồi tĩnh tọa trong khu vườn của vua. Vua Ba-thọ-đề dẫn các cung nhân vào trong khu rừng này nghỉ ngơi dưới gốc cây. Tôn giả Ta-la-na đi khất thực trở về ngồi yên lặng dưới gốc cây. Bấy giờ, các cung nhân tánh rất thích hoa quả, nên đi khắp nơi trong rừng tìm kiếm. Tỳ-kheo Ta-la-na đi xuất gia khi tuổi còn trẻ nên tướng mạo rất khôi ngô. Khi ấy, các cung nhân thấy thầy Tỳ-kheo kia tuổi trẻ dung mạo lại tuấn tú khác thường nên sinh tâm cho là ít có bèn nói:

– Trong Phật pháp lại có người này xuất gia học đạo.

Họ liền đến ngồi chung quanh thầy Tỳ-kheo ấy. Bấy giờ, vua Ba-thọ-đề thức dậy, bèn tìm kiếm các cung nhân và những người theo hầu, nhưng tất cả đã đi tứ tán nên vua tìm không thấy. Vua lại đích thân đi tìm và trông thấy các cung nhân ngồi chung quanh thầy Tỳ-kheo nghe nói pháp. Vua liền nói kệ:

Tuy mặc áo sáng đẹp
Không bằng miệng nói pháp
Ngàn cô ngồi chung quanh
Yêu kính dung mạo người.

Vua Ba-thọ-đề rất giận dữ, nói với Tỳ-kheo:

– Ngươi đã chứng quả La-hán chưa? Thầy Tỳ-kheo đáp:

– Tôi chưa chứng.

– Ngươi đã chứng quả A-na-hàm chưa?

– Tôi chưa chứng.

– Ngươi đã chứng quả Tu-đà-hoàn chưa?

– Tôi chưa chứng.

– Ngươi đã chứng Sơ thiền, Nhị thiền, cho đến Tứ thiền chưa?

– Tôi chưa chứng.

Vua Ba-thọ-đề nghe Tỳ-kheo nói như vậy trong lòng rất giận dữ, nói:

– Ngươi chẳng phải là người đã lìa dục, tại sao lại ngồi chung với các cung nhân như thế này?

Nhà vua liền ra lệnh cho những người theo hầu bắt giữ thầy Tỳ-kheo ấy, cởi bỏ y phục, chỉ chừa lại nội y, dùng cây có gai nhọn đánh đập thầy Tỳ- kheo. Các cung nhân khóc lóc tâu với nhà vua:

– Đại vương, vị Tôn giả này không có tội lỗi gì, vì sao lại đánh đập như thế?

Vua Ba-thọ-đề nghe các cung nhân nói, càng giận dữ đánh đập dữ dội hơn. Trước kia, Tỳ-kheo Ta-la-na là vương tử nên thân hình mềm mại, không chịu được sự khổ đau, toàn thân chảy máu. Các cung nhân thấy thế đều rơi lệ. Tôn giả Ta-la- na bị đánh đập chắc không còn sống được, té xỉu xuống đất, hồi lâu mới tỉnh dậy, thân thể bị rách toác như bị chó cắn, cũng giống như có người bị con mãng xà nuốt, đã vào trong miệng, thật khó có thể khỏi chết. Nếu như ra khỏi được miệng con mãng xà giữ mạng sống cũng rất khó. Tôn giả Ta- la-na thoát được nạn này cũng giống như vậy. Tôn giả mở mắt nhìn sợ sệt, lại sợ bị đánh. Khắp thân chảy máu, không thể mặc y, Tôn giả bèn ôm y phục mà đi, nhìn khắp bốn bề, lại sợ có người đến bắt mình. Các vị đồng tu phạm hạnh thấy việc ấy, liền nói kệ:

Ai không tâm thương xót
Đánh đập Tỳ-kheo này
Sao có ý hung dữ
Đối với người xuất gia!
Vì sao không nương tay
Sinh tâm tàn hại thầy
Không lỗi, vô cớ hại
Thật là kẻ phi lý!
Xuất gia bỏ giàu sang
Một mình, không thế lực
Y bát mang bên mình
Không chứa để vật dư
Người nào nỡ tàn hại
Đánh đập đến thế này?

Những người bạn đồng tu học dìu đỡ thầy đi đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên. Vừa nhìn thấy Tỳ- kheo Ta-la-na thân thể như vậy, Tôn giả bật khóc, tỏ ý tưởng chán ghét thân này, nói kệ:

Như quả Diêm-phù kia
Đỏ, trắng, xanh loang lỗ
Cũng có chỗ ứ đỏ
Máu chảy khắp mọi chỗ
Ai làm thân thể ông
Có màu sắc như vậy?

Lúc bấy giờ Tỳ-kheo Ta-la-na đưa những chỗ thân thể bị rách toác máu chảy cho Tôn giả Ca- chiên-diên thấy và nói kệ:

Con không người cứu giúp
Một mình mong được sống
Tự xét không lỗi lầm
Bị đánh vì xem thường.
Ba-thọ-đề tự ý
Người giàu chủ đất nước
Khởi tâm buông lung ác
Roi dữ như rót lửa
Thiêu hủy thân thể con.
Con đã không lỗi xấu
Bị đánh đập vô cớ
Bị thương đến như vậy.

Tôn giả Ca-chiên-diên biết được trong lòng của Tỳ-kheo Ta-la-na rất tức giận, Ngài liền nói:

– Tỳ-kheo Ta-la-na, pháp của người xuất gia không giữ gìn thân mạng mình, mà chính là dứt bỏ khổ não trong tâm.

Tôn giả liền nói kệ:

Thân ông bị khổ ách
Sinh thù ghét làm gì?
Chớ vung roi tức giận
Tâm cuồng tự hại mình.

Thầy Tỳ-kheo Ta-la-na trong tâm rất khổ não, nên lộ vẻ tức giận giống như khi con rồng đánh nhau le lưỡi phát ra ánh sáng như sấm chớp, liền nói kệ:

Xin Hòa thượng biết cho
Tức giận đốt tâm con
Giống như cội cây khô
Giữa trời mà phát hỏa,
Xuất gia tu phạm hạnh
Trải qua bao tháng ngày
Như con ngày hôm nay
Muốn quay trở về nhà.
Người yếu đuối kém hèn
Không chịu nỗi khổ này
Làm sao con chịu nổi
Việc khổ dữ dội này?
Nay, con muốn về nhà
Trở về lên ngôi vua
Nhóm tượng chúng, binh chúng
Che tối cả mặt đất.
Tâm tức giận bùng lên
Ngày đêm không dừng nghỉ
Giống như ngọn lửa dữ
Thiêu đốt cả núi rừng
Ba-thọ-đề bị cháy
Như đom đóm trong lửa.

Nói kệ xong, thầy liền trao ba y cho người đồng phạm hạnh, nghẹn ngào khóc lóc lễ dưới chân Hòa thượng, từ tạ trở về nhà, lại nói kệ:

Xin Hòa thượng cho con
Sám hối dứt tội lỗi
Nay, con muốn về nhà
Tâm ý không an vui
Sống trong pháp xuất gia
Không trả được oán này.

Hòa thượng là người thông thạo bậc nhất về giáo nghĩa trong kinh, ngôn từ biện thuyết cũng là bậc đệ nhất nên nói:

– Con không nên làm như thế. Bởi vì sao? Vì thân này không bền chắc, rốt cuộc rồi cũng chết. Vậy con không nên vì thân mà trái xa pháp Phật. Con phải quán xét vô thường bất tịnh.

Ngài liền nói kệ:

Thân này không thanh tịnh
Chín lỗ thường chảy nhơ
Hôi thúi thật đáng ghét
Là đồ chứa các khổ.
Thân này rất xấu xa
Chỗ chứa nhóm các bệnh
Khi bị xúc phạm nhỏ
Sinh khổ não dữ dội.
Tâm ông mê đắm thân
Thật trái với trí tuệ
Nên bỏ tâm thấp hèn
Kệ do Như Lai nói.
Nay ông nên nhớ giữ
Khi tức giận phiền não
Ông hãy tự cấm chế
Cũng như dùng dây cương
Ngăn chận con ngựa dữ
Cấm chế gọi khéo cỡi
Không chế gọi buông lung.
Tại gia gọi lao ngục
Xuất gia là giải thoát
Con đã được giải thoát
Về nhà tìm ràng buộc
Nơi lao ngục giam cầm.
Sân là kẻ cướp trong
Ông chớ khởi tâm sân
Bị tức giận ngăn cấm,
Phật do nhân duyên này
Khen ngợi người học rộng
Đứng đầu các Tiên thánh.
Ông phải theo lời Phật
Nay nên nhớ học rộng
Chớ khởi tâm giận dữ
Dù bị cưa sắt xẻ
Thân thể và tay chân
Phật vì Phú-na-kỳ
Nói điều phải nên nói.
Ông phải nhớ học rộng
Những lời dạy như thế.
Nên nhớ Xá-lợi-phất
Nói năm pháp không khổ
Ông nên xem xét kỹ
Tám pháp của thế gian.
Ông nên suy tính kỹ
Lỗi lầm của tức giận
Phải nên tự quán xét
Hình tướng người xuất gia
Tâm và tướng tương ứng
Nay sao không tương ưng?
Pháp của thầy Tỳ-kheo
Khất thực tự nuôi sống
Vì sao thọ tín thí
Mà sinh nhiều sân si.
Ăn của người vào bụng
Sao lại sinh tức giận
Làm sao của tín thí
Có chỗ tiêu hóa được?
Ông muốn thực hành pháp
Không nên sinh tức giận
Tự nói mình hành pháp
Làm pháp tắc cho người
Mà sinh tâm giận tức
Là việc không nên làm.
Giận tức khổ tâm ông
Miệng nói những lời ác
Bị người trí chê trách
Vì thế không nên làm.
Những người đi xuất gia
Phải nên có ba việc
Điều phục thầy Tỳ-kheo
Chịu đựng không giận tức
Nhất định giữ giới cấm
Nói thật không nói dối
Khéo thực hành chịu đựng
Không nên sinh tâm sân.
Những bậc Sa-môn này
Không nên nói lời ác
Phải mặc y nhu hòa,
Người xuất gia không nên
Giận nói lời thô ác
Như vị Tiên ngồi thiền
Rút kiếm nắm trên tay.
Y bát và Tỳ-kheo
Tất cả khác người đời
Tức giận đồng tại gia
Là việc không nên làm.
Lời ác đồng người đời
Làm sao gọi Tỳ-kheo?
Cạo tóc, bỏ trang sức
Nhún mình đi khất thực
Tạo dáng vẻ thấp hèn
Mà không dứt kiêu mạn,
Nếu muốn dứt kiêu mạn
Nên bỏ tâm nhơ xấu
Mau cầu đến giải thoát.
Thân như đích bắn kia
Có đích bắn thì trúng
Có thân thêm các khổ
Không thân thì không khổ.
Thí như người giữ cửa
Để chiếc trống bên cạnh
Có người từ xa đến
Mỏi mệt muốn ngủ nghỉ
Người ấy đều đánh trống
Không hề ngủ nghỉ được.
Người ấy không ngủ được
Tức giận người đánh trống,
Tranh cãi với nhiều người
Sau suy nghĩ nguyên nhân
Đây vốn chính là trống
Chẳng phải lỗi mọi người
Đứng dậy đập bỏ trống
Mới được ngủ an ổn.
Thân Tỳ-kheo như trống
Vì an vui xuất gia
Muỗi mòng và cỏ độc
Đều có thể cắn người
Phải thường xuyên tinh tấn
Đừng coi trọng thân này.
Đừng tưởng vui lâu dài
Nên xem xét cội nguồn
Chỉ là nhóm ấm, giới
Phá hoại khổ ấm, giới
An ổn ngủ Niết-bàn.

Hòa thượng nói kệ rồi, lại dạy:

Này Ta-la-na, ông nên dứt bỏ tâm tức giận, não hại đi, nếu ông muốn não hại người khác thì nên nghe ta nói. Tất cả thế gian đều bị nỗi khổ não quấy nhiễu, tại sao ông lại còn muốn gây hại chúng sinh? Tất cả chúng sinh đều nằm trong tay Thần chết. Ta và ông cùng vị vua kia không bao lâu sẽ chết, nay sao ông còn muốn giết kẻ thù? Tất cả có sinh thì phải có chết, đâu cần ông phải ra tay giết hại? Có sinh ắt có tử không có gì nghi ngờ cả. Cũng như mặt trời có mọc thì phải có lặn, thể tánh là chết đâu cần phải gây hại. Nếu ông muốn hại người thì đâu có lợi lạc gì? Ông là người giữ giới mà muốn làm hại người, đời vị lai chắc chắn phải chịu quả báo nặng nề, chịu khổ vô lượng, quả báo này cũng như vậy, đâu nên hủy hoại họ. Vị vua kia muốn hủy hoại thân thể ông, ông sinh tâm tức giận, sự tức giận hiện tại rất khổ sở, đến đời vị lai lại chịu quả báo đau khổ, vậy trước nên dứt bỏ sự tức giận. Thế nào là thương hại? Nếu trong một sát-na khởi lên sự tức giận thì sẽ bức não thân tâm. Nay ta vì ông mà nói pháp này, hãy nghe rõ ví dụ: Như người lấy tay bốc lửa để đốt người khác, thì chưa hại được người mà tự mình đã chuốc lấy khổ sở. Sự tức giận cũng vậy, muốn hại người khác thì tự mình đã chịu khổ sở rồi. Thân như khúc củi khô, tức giận như lửa, chưa đốt được người mà tự thân mình đã bị đốt cháy. Ông luống khởi tâm tức giận muốn làm hại người khác thì có thể hại được, có thể không hại được nhưng tự hại mình thì chắc chắn đã.

Bấy giờ Tỳ-kheo Ta-la-na im lặng nghe pháp yếu do Hòa thượng chỉ dạy. Những người bạn đồng tu phạm hạnh đều sinh tâm vui mừng, nói với nhau:

– Ta-la-na nghe pháp yếu do Hòa thượng giảng nói chắc chắn không bỏ đạo.

Thầy Tỳ-kheo Ta-na-la không nén được sự tức giận, lớn tiếng nói:

– Người vô tâm cũng không thể chịu đựng được việc này, huống gì con có tâm mà chịu đựng sao?

Ta-la-na bèn nói kệ:

Ánh chớp khắp hư không
Như roi đánh ngựa vàng
Hư không vật vô tình
Còn phát ra tiếng sấm,
Nay con là vương tử
Không khác với vua kia
Làm sao mà chịu đựng
Không báo thù cho được?

Nói bài kệ xong, thầy bạch với Hòa thượng.

– Bạch Hòa thượng, lời thầy dạy thật đúng. Nhưng giờ đây tâm con vững chắc như đá, giọt nước không thấm vào được, con thấy da thịt bị rách toác máu tuôn ra ngoài, cho nên sinh tâm tức giận kiêu mạn. Con không van xin, cũng chẳng phải phường tôi tớ, cũng chẳng phải kẻ thấp hèn, con cũng chẳng phải là người dân của họ, con không phải là trộm cướp, không gây hại cho người, cũng không gây loạn đến vua, Con có lỗi gì mà lại bị gia hình như thế? Ông ấy là vua, cho mình có quyền lực, còn con là người thấp hèn, nhưng mỗi người đều có địa vị khác nhau. Con đi khất thực ngồi thiền trong rừng bị hủy nhục một cách oan uổng, Con sẽ làm cho vị vua kia chịu khổ như con, không còn dám hủy hại nữa. Con sẽ báo thù không để cho ông ta được yên ổn ngủ nghỉ. Con là người lành mà bị hủy nhục oan uổng, con sẽ báo thù làm cho ông ta phải chịu khổ sở còn hơn con ngày nay, khiến cho kẻ làm ác không dám làm ác nữa.

Nói xong, thầy đến trước mặt Hòa thượng quỳ thẳng bạch rằng:

Thưa Hòa thượng, xin ngài hãy xả giới cho con!

Lúc bấy giờ, những vị đồng sư và những vị cùng tu đồng học phạm hạnh khóc thật lớn mà nói:

– Thầy Ta-la-na, sao thầy lại bỏ Phật pháp?

Có người nắm tay, có người ôm chầm lấy thầy, gieo năm vóc sát đất làm lễ và nói:

– Thầy Ta-la-na, thầy hãy cẩn thận không nên bỏ Phật pháp.

Họ liền nói kệ:

Vì sao ở trong chúng
Một mình tự bỏ đi
Xả giới cấm của Phật
Sao nói lời ác rằng:
Phật chẳng phải thầy tôi!
Tỳ-kheo đến nhà thầy
Vì sao không hổ thẹn?
Lúc thầy mới thọ giới
Thệ nguyện giữ trọn đời
Sao lại không trung tín
Mà muốn bỏ phạm hạnh?
Ôm bát mặc ca-sa
Khất thực đã lâu ngày
Mặc giáp, cầm dao gậy
Vừa định vào chiến trận
Roi vua hủy thân thầy
Lìa bỏ pháp Sa-môn.
Không nhớ Tiên nhẫn nhục
Bị chặt hết tay chân
Chỉ người ấy xuất gia
Thầy không xuất gia sao?
Chỉ người ấy biết pháp
Thầy không biết pháp sao?
Tiên bị chặt chân tay
Còn sinh tâm thương xót
Tâm vững chắc không loạn
Nay thầy bị gậy đánh
Mà vội mất tâm chăng?

Tôn giả Ca-chiên-diên nói với mọi người:

– Tâm Ta-la-na đã nhất định rồi, các thầy hãy ra về, ta sẽ lo liệu cho thầy ấy.

Sau khi các Tỳ-kheo ra về, Tôn giả Ca-chiên- diên đưa tay xoa đầu Ta-la-na mà bảo:

– Ta-la-na, ông hãy suy nghĩ thật kỹ.

Ta-la-na đáp:

– Bạch Hòa thượng, con nhất định ra đi. Tôn giả Ca-chiên-diên nói:

– Ta-la-na, ông nên nghỉ ở đây lại một đêm, sáng mai hãy đi, đừng vội xả giới.

Thầy Ta-la-na đáp:

– Dạ vâng! Con xin nghe lời dạy của Hòa thượng lần cuối. Đêm nay con sẽ ngủ bên Hòa thượng, sáng mai khi xả giới xong con trở về, lên ngôi vua, chiến đấu với Ba-thọ-đề.

Ta-la-na lấy cỏ trải một chỗ bên cạnh Hòa thượng mà ngủ.

Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên dùng năng lực thần thông làm cho thầy Ta-la-na ngủ thật say, nằm mộng thấy trở về nước mình, xả giới trở về lên ngôi vua, tập hợp bốn thứ binh, đến nước Ba-thọ-đề. Quốc vương Ba-thọ-đề cũng tập hợp bốn thứ binh cùng chiến đấu, binh lính của Ta-la-na tất cả đều bị đánh tan. Ta-la-na bị bắt giữ sắp sửa đem đi giết. Vua Ba-thọ-đề nói: “Đây là kẻ ác hãy đem đi giết, đóng gông trên cổ, treo trên thành La-tỳ-la.”

Đao phủ cất tiếng dữ tợn, sai mọi người dùng binh khí áp giải Ta-la-na dẫn ra gò mả. Trên đường đi trông thấy Tôn giả Ca-chiên-diên mặc y ôm bát vào thành khất thực, Ta-la-na rơi lệ khóc than nhìn Hòa thượng nói:

Con không nghe lời Thầy
Tức giận làm khổ thân
Nay sẽ đến dưới cây
Xin giã từ Phật pháp.
Nay con đến chỗ chết
Đao kiếm vây quanh con
Như nai ở trong chuồng
Nay con cũng như vậy.
Không thấy Diêm-phù-đề
Lần cuối thấy Hòa thượng
Tuy con có tâm ác
Vẫn như mẹ nhớ con.

Đao phủ kia cầm dao giống như hoa sen xanh, mà nói:

Dao này chặt đầu ngươi, dù cho có Hòa thượng cũng không làm gì được.

Ta-la-na than khóc thảm thiết, cầu cứu Hòa thượng: “Nay con xin quy y Hòa thượng”. Ta-la- na liền thức dậy, sợ hãi lễ dưới chân Hòa thượng thưa:

– Bạch Hòa thượng, xin ngài hãy cứu con. Và đến bên Hòa thượng thưa:

– Con vốn là người ngu si muốn bỏ giới pháp của Phật, xin hãy cho phép con được xuất gia, con không trả thù và cũng không làm vua nữa. Vì sao? Vì dục lạc thì ít mà khổ não thì nhiều. Những lỗi lầm oán hận con đều đã chứng biết. Giờ đây, con chỉ muốn được pháp giải thoát. Vì không có chí định nên con coi thường chúng sinh, không khéo quán sát. Đối với những người hiểu biết con không nói chuyện với họ, bị tất cả chúng sinh quở trách. Cúi xin Hòa thượng hãy cho phép con xuất gia. Khi khổ não ngài rủ lòng thương xót. Con đang khổ não, xin Hòa thượng hãy thương xót con.

Tôn giả Ca-chiên-diên nói:

– Này Ta-la-na, ông chưa bỏ đạo, ta đã dùng năng lực thần thông hiện ra giấc mộng này.

Ta-la-na vẫn chưa tin, từ cánh tay phải của Hòa thượng phát ra ánh sáng. Hòa thượng bảo:

– Này Ta-la-na, ông chưa bỏ đạo, hãy tự nhìn lại thân tướng của mình.

Ta-la-na vui mừng nói:

– Hay thay! Bậc thiện tri thức! Ngài đã dùng phương tiện khéo léo mở bày cho con. Vì con có lỗi, nên ngài dùng giấc mộng cứu giúp con.

Đức Phật dạy: “Thiện tri thức là thể tánh hoàn toàn của Phạm hạnh”. Lời dạy này thật đúng. Có ai được giải thoát mà không nhờ vào Thiện tri thức? Có ai ngu si không nương vào bạn lành mà được giải thoát?

Tôn giả Ca-chiên-diên cứu giúp Tỳ-kheo Ta- la-na. Thuốc độc tức giận của vua Ba-thọ-đề tan biến không còn. Thế nên, người hiểu biết nên gần gũi bậc Thiện tri thức.

QUYỂN 13

Chương 66

Cúng dường tháp Phật công đức rất lớn, vì thế cần phải chuyên tâm cúng dường.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, nghe có mùi thơm khác lạ hơn mùi thơm ở cõi trời. Nghe mùi thơm ấy, nhà vua nhìn khắp bốn phía, chẳng biết ở đâu, liền thưa hỏi Đức Thế Tôn:

– Bạch Đức Thế Tôn, đây là hương gì? Đức Phật bảo:

– Đại vương muốn biết mùi thơm này ở đâu phải không?

Vua đáp:

– Vâng. Bạch Đức Thế Tôn, con muốn biết.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn ấn ngón tay xuống đất, liền có bộ xương hiện ra như gỗ chiên-đàn đỏ, dài năm trượng. Đức Thế Tôn bảo:

Đại vương, mùi thơm ấy phát xuất từ bộ xương này.

Vua Ba-tư-nặc liền bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà bộ xương này có mùi thơm như thế?

Đức Phật dạy:

– Đại vương, hãy khéo lắng nghe. Thuở xưa có Đức Phật hiệu là Ca-diếp, Đức Phật Thế Tôn kia hóa duyên xong, bèn nhập Niết-bàn. Lúc ấy có nhà vua tên là Già-xí, thâu lấy xá-lợi của Phật, xây ngôi tháp bằng bảy chất báu, cao rộng hai do-tuần. Vua ra lệnh cho những người trong nước có các thứ hoa thì không được dùng vào việc khác mà phải đem đến cúng dường ngôi tháp kia.

Khi ấy, trong nước có con của vị trưởng giả tư thông với dâm nữ, chỉ nghĩ những việc dâm dục, không dứt bỏ được. Tất cả các loại hoa đều cúng dường tháp Phật, bị dục vọng làm mờ mắt nên anh chàng bèn lẻn vào trong tháp Phật Ca-diếp, trộm một cành hoa đem đến tặng dâm nữ.

Con của vị trưởng giả biết công đức Phật, nhưng vì bị dục vọng ngăn che, mê mờ tâm trí nên làm việc không đúng pháp này. Vị ấy tâm ăn năn và muốn dứt bỏ tình ý dâm dục. Sáng hôm sau, anh sinh tâm chán ghét bèn suy nghĩ: “Ta làm việc bất thiện, ăn cắp hoa cúng Phật tặng cho dâm nữ.” Liền khi ấy, do sức nóng của tâm hối hận nên khắp mình anh ta sinh ghẻ lở, ban đầu nhỏ như hột cải, sau đó lớn dần và lan ra khắp cơ thể, liền nói kệ:

Ta làm việc không tốt
Trái phạm lời chư Phật
Không có tâm hổ thẹn
Không có tâm cung kính
Trái với lời Thiện Thệ
Chẳng phải đệ tử Phật.
Tất cả mọi người dân
Không dám trái lời vua
Chỉ có ta hủy phạm
Phép nước và phép Phật,
Nay ta không hổ thẹn
Giống như loài cầm thú.
Hơn hết trong ruộng phước
Không gì bằng tháp Phật
Nhưng vì ta ngu si
Trộm hoa làm việc xấu
Vì sao cánh tay này
Không rơi xuống ngay đi
Và trên mặt đất này
Vì sao không vùi lấp
Mà lại chuyên chở ta!
Lạ thay! Lửa dục đốt
Đốt mất các việc lành
Bị dục làm mê hoặc
Vào trong khu rừng tối
Bị giặc phiền não cướp
Ta bị dục sai khiến
Không thấy quả báo này
Trộm hoa để tặng người
Mãi chịu khổ địa ngục
Càng sinh tâm ăn năn
Thân này càng bị đốt.

Bấy giờ những mụt nhọt trên thân anh ta vỡ ra và rất hôi thúi. Cha mẹ, anh em của anh ta đều đến săn sóc và đưa thuốc uống nhưng bệnh càng nặng thêm. Họ mời thầy thuốc giỏi đến xem bệnh cho anh ta. Thầy thuốc bảo:

– Phải có gỗ Ngưu đầu chiên-đàn thoa trên thân thể thì người này mới hết bệnh.

Cha mẹ anh ta lấy vật quý để mua gỗ Ngưu đầu chiên-đàn thoa thân thể cho con, nhưng bệnh càng nặng thêm không hề thuyên giảm. Người con khóc than sợ hãi và thưa với cha mẹ:

– Mọi người đã luống khổ nhọc vì con, nhưng bệnh này từ trong tâm con gây ra chớ không phải thân bệnh.

Người cha hỏi:

– Bệnh từ trong tâm nghĩa là thế nào? Người con liền đáp bằng bài kệ:

Ngượng thay việc hèn này
Không dám nói với cha
Nhưng giờ bệnh nguy khốn
Vì không biết xấu hổ.
Trộm lấy hoa tháp Phật
Đem tặng cho dâm nữ
Đã làm việc xấu ấy
Sau trong tâm ăn năn
Ban ngày như lửa đốt
Ban đêm biết rõ tâm.
Nếu người mong hối lỗi
Dụ như tưới nước lạnh
Giờ thân tâm nóng bức
Sau chịu khổ địa ngục.
Giống như thân cây mục
Lửa từ trong cháy lên
Nay con cũng như vậy
Lửa tâm từ trong phát.
Nước lạnh Ưu-thi-la
Sen xanh trân châu quán
Cù-mạch-ma-la thảy
Cùng với các chiên-đàn,
Nếu dùng các thứ này
Thoa bên ngoài thân thể
Cũng không thể hết bệnh.
Sức nóng từ trong phát
Vậy phải nên thoa tâm
Thoa thân có ích gì?
Dẫn con vào trong tháp
Trai tăng rồi hồi hướng
Bệnh này mới hết được.
Cha mẹ và anh em
Cùng khiêng giường người bệnh
Đem đến chỗ tháp Phật
Thân thể càng nóng dần
Hơi thở sắp chấm dứt.

Khi ấy cha mẹ, anh em và những người thân khiêng giường người bệnh đến chỗ tháp, người bệnh chỉ nghĩ nhớ Đức Như Lai Ca-diếp Chánh Đẳng Chánh Giác, nước mắt lưng tròng, giơ hương chiên-đàn mà mình đang cầm, buồn bã hướng về tháp mà nói kệ:

Đấng Đại Bi cứu khổ
Thường nói các việc lành
Con bị dục làm mê
Tối tăm không thấy biết.
Đối với Bậc Chân Tế
Con làm các điều ác
Tháp như núi Tu-di
Vì si nên con phạm
Giờ bị mang tiếng xấu
Đời sau đọa đường ác.
Không quán công đức Phật
Giờ chịu quả báo xấu
Quả báo hiện đang mang
Sau sẽ chịu khổ não
Người trí dùng mắt tuệ
Dứt khổ, bỏ các dục.
Giờ tâm con lo buồn
Thành tâm quy mạng Phật
Các lỗi lầm đã gây
Nguyện xin cứu giúp con
Như người té xuống đất
Chống đất mà đứng lên.

Lúc bấy giờ cha mẹ và những người quyến thuộc khen ngợi:

– Lành thay! Lành thay! Giờ đây con đã làm được việc đáng khen này, chỉ có Phật Thế Tôn mới trị được bệnh của con.

Họ liền nói kệ:

Nay con đến chỗ Phật
Nên sinh tâm tin hiểu
Chỉ công đức lớn của
Phật mới cứu được con,
Thí như ra biển lớn
Thuyền vỡ mất tài vật
Chẳng những thân không chết
Mà còn được tài lợi.

Bấy giờ những người thân của con vị trưởng giả thấy các vết ghẻ lở trên thân thể anh ta bị vỡ ra hôi thúi, nên họ chán ghét sinh tử, bèn đem hương hoa, hương xoa, hương bột để cúng dường tháp Phật Ca-diếp và dùng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để họa vẽ thân Phật. Các vết ghẻ lở trên thân người con trưởng giả dần dần lành lặn, trong lòng chàng thư thái và bệnh nóng trên thân được dứt hẳn. Lúc ấy con của vị trưởng giả đã được quả báo hiện tiền, trong lòng rất vui mừng, biết tội lỗi đã dứt hết, liền nói kệ:

Như Lai, Nhất Thiết Trí
Giải thoát các kết sử
Đức Phật-đà Ca-diếp
Cứu giúp các chúng sinh
Phật là cha chúng sinh.
Vì khắp các thế giới
Làm người bạn không mời
Chỉ có Phật Thế Tôn
Có tâm Từ bi này.
Nay con đối với Phật
Gây ra tội lỗi lớn
Xin cho con sám hối
Trong tâm phát thệ nguyện
Cúi xin nghe con nói:
Vì dâm dục ép ngặt
Tâm mê gây tội ác
Giúp con dứt ái dục
Và các oán kết sử
Các căn không điều phục
Như ngựa chưa thuần thục.
Nguyện chẳng làm việc ác
Thường được đạo vắng lặng
Dùng Ngưu đầu chiên-đàn
Cúng dường lên tháp Phật
Thân thường được hương thơm
Chẳng đọa vào đường ác.

Về sau con của vị trưởng giả qua đời, được sinh lên cõi trời, hoặc sinh làm người, thân thường có mùi thơm, các bộ phận trên thân đều có tướng tốt, cha mẹ bèn đặt tên là “Hương Thân”.

Bấy giờ, Hương Thân đã chán ghét ấm giới, xin được xuất gia và chứng được quả Bích chi phật. Mùi hương này chính là mùi hương phát ta từ bộ xương của vị Bích-chi-phật. Vì thế, mọi người nên cúng dường tháp, sẽ được công đức lớn.

Chương 67

Trước có căn lành đáng lẽ được giải thoát nhưng vì không nghe các pháp nhân duyên nên lại đọa vào địa ngục. Vậy chúng ta phải dốc lòng nghe pháp.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, đệ tử của Phú-lan-na là Thi-lợi-cúc- đa, là chồng bà Thọ-đề-già. Cha của Thọ-đề-già trước kia là đệ tử của Ni-kiền-đà, tất cả chúng sinh đều tu học theo giáo pháp nên Thọ-đề-già cũng được Phật hóa độ. Người cha cũng là đệ tử Phật có tâm kính tin, không tu học theo sáu vị giáo chủ ngoại đạo.

Vì muốn hóa độ chồng là Thi-lợi-cúc-đa nên bà thường ở bên cạnh chồng nói:

– Đức Phật Bà-già-bà là Bậc Nhất Thiết Trí. Người chồng nói:

– Phú-na-lan cũng là bậc Nhất thiết trí.

Vì vấn đề ai là bậc Nhất thiết trí nên họ bàn luận tranh cãi nhau. Thọ-đề-già nói với Thi-lợi- cúc-đa:

– Em sẽ nói cho anh nghe về Nhất thiết trí. Phú- lan-na của anh chẳng phải là bậc Nhất thiết trí. Vì ông ấy có chút ít trí tuệ nên mê hoặc người đời, tự xưng mình có trí nhưng thật ra chẳng phải bậc Nhất thiết trí. Cứ xem tướng mạo ông ấy thì sẽ đoán được, chỉ biết được một vài việc nhỏ thì sao gọi là bậc Nhất thiết chủng trí được.

Thọ-đề-già liền nói kệ:

Như người mù bẩm sinh
Mắt giả bằng thủy tinh
Dối gạt đứa trẻ nhỏ
Tự nói mình có mắt,
Lúc trước vốn không mắt
Nay nói mình có mắt
Lời này không đáng tin
Chỉ gạt được kẻ ngu.
Hiểu được nhân tướng luận
Phương tiện dối tự bày
Dùng tướng mạo giả này
Để lừa dối mọi người
Tướng mạo gần việc ấy
Rốt cuộc sao hiểu biết?

Thi-lợi-cúc-đa bảo Thọ-đề-già:

– Em bị huyễn thuật của Cù-đàm mê hoặc rồi. Phú-lan-na là bậc Nhất thiết trí, em không biết mà sinh ra phỉ báng. Phú-lan-na trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, những việc trong cả ba đời đều biết rõ.

Thọ-đề-già nói:

– Em sẽ cho anh thấy Phú-lan-na chẳng phải là bậc Nhất thiết trí.

Bà liền mời Phú-lan-na đến nhà. Khi ấy Phú- lan-na suy nghĩ: “Trước kia cha của Thọ-đề-già là đệ tử ta, nay theo Cù-đàm biết rõ lỗi lầm, trở về với ta, đó là phước đức của ta”. Nghĩ rồi, ông chấp nhận lời thỉnh cầu của Thọ-đề-già.

Hôm sau Phú-lan-na dẫn mấy trăm ngàn đồ chúng, lại có năm trăm đệ tử vây quanh cùng đi đến nhà Thọ-đề-già. Thấy đoàn người đến nhà, Phú-lan-na mỉm cười. Thi-lợi-cúc-đa hỏi Phú-lan- na:

– Bà-già-bà sao ngài cười?

Phú-lan-na đáp:

– Từ xa ta trông thấy bên bờ sông Na-ma-đà kia có con khỉ rơi xuống nước thế nên ta cười.

Thi-lợi-cúc-đa nói tiếp:

– Bà-già-bà mắt trời thanh tịnh, đang ở trong thành mà từ xa trông thấy ngoài ngàn dặm trên bờ sông Na-ma-đà có con khỉ rơi xuống nước.

Khi ngoại đạo kia dẫn các đệ tử đi vào nhà Thọ- đề-già và đến chỗ ngồi. Sau khi mọi người đã an tọa, Thọ-đề-già lấy cơm che trên canh mà trao cho Phú-lan-na.

Phú-la-na nói:

– Cơm này không có canh làm sao mà ăn?

Thọ-đề-già vẹt cơm, canh lộ ra, bèn nói với Thi-lợi-cúc-đa:

– Nay thầy anh còn không thấy dưới cơm có canh, làm sao có thể từ xa cả ngàn dặm biết được có con khỉ rơi xuống sông. Nghiệm lại sự việc, có thể biết chẳng phải là bậc Nhất thiết trí. Chỉ vì tham tiếng tăm, tham lợi dưỡng, chúng sinh thật đáng thương! Đã tự dối gạt mình, còn dạy cho người khác dối gạt.

Cô liền nói kệ:

Phú-lan-na thầy anh
Tà kiến điên đảo hoặc
Không có đèn trí tuệ
Sống trong tối vô minh
Mê lầm luyến ái nhau
Người ngu lại coi trọng.
Hơn hết trong họ Thích
Có đủ ba hai tướng
Chỉ Nhất Thiết Trí này
Không còn bậc nhất khác.

Lúc ấy Phú-lan-na vì quá xấu hổ, nên ăn không no bèn cúi đầu ra về. Lúc ấy Thi-lợi-cúc-đa buồn bã không vui, đã là thầy trò, tuy thầy có những việc thua kém nhưng Thi-lợi-cúc-đa vẫn muốn cho thầy mình chiến thắng. Thi-lợi-cúc-đa bèn đến chỗ của Phú-lan-na nói:

– Thầy đừng nên buồn rầu. Nay Thọ-đề-già hủy nhục thầy nhưng thầy vẫn còn được về nhà, không có gì đáng xấu hổ. Nếu như tôi mời thầy của Thọ- đề-già đến nhà thì chỉ được vào mà không được ra. Nói xong, Thi-lợi-cúc-đa liền đến Kỳ hoàn cầu thỉnh Đức Thế Tôn, trong tâm thật tà vạy nhưng giả bộ cung kính, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn mà nói bài kệ:

Mai con thiết lễ mọn
Cúi xin đến nhà con
Bậc hơn hết ba cõi
Xin Ngài không từ chối.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết trong tâm Thi- lợi-cúc-đa tà vạy, nhưng bên ngoài thì tỏ ra cung kính, liền nói kệ:

Trong tâm hai tính cách
Ngoài tỏ vẻ hiền lành
Giống như nơi có cá
Thì nước bị lay động,
Ví như làm anh lạc
Trong đồng ngoài mạ vàng
Người trí xem xét rồi
Biết chẳng phải vàng thật.
Tâm có sự hẹp hòi
Ngoài mặt sẽ có khác
Vô tâm còn biết được
Huống gì là có tâm.
Thuần vàng hình sắc đẹp
Người xem biết đúng vàng
Nếu dùng vàng mạ đồng
Khéo phân biệt không thật.

Đức Thế Tôn biết rõ Thi-lợi-cúc-đa có tâm tà vạy. Như Lai Thế Tôn có tâm Đại bi thương xót, Ngài quán thấy việc cúng dường này căn lành chưa thuần thục nhưng Ngài lặng im chấp nhận lời thỉnh cầu.

Thi-lợi-cúc-đa tự nghĩ: “Nếu là Bậc Nhất Thiết Trí, thì tại sao không biết được ý định trong tâm ta mà lại chấp nhận lời thỉnh cầu của ta như thế?”, liền nói kệ:

Sao có Nhất thiết trí
Mà không tu khổ hạnh
Ưa đắm các việc vui,
Không biết được tâm ta
Sao gọi Nhất Thiết Trí?
Ôi! Kẻ ngu trên đời
Không biết chỗ dở mình
Lại có tướng công đức
Thật không có trí tuệ
Dối khen ngợi công đức
Lầm đắm thân tướng đẹp
Ca tụng khắp thế gian.

Thi-lợi-cúc-đa nói kệ xong, liền trở về nhà sắm sửa các vật cúng dường. Y trộn thuốc độc trong thức ăn và ở phía trong cửa giữa đào một cái hố rất sâu, dưới hố đốt đầy than cháy mà không có khói, rồi dùng tro đất phủ lên trên, phía trên nữa lại phủ một lớp cỏ. Lúc ấy người vợ hỏi:

– Anh làm những việc cực khổ này để làm gì? Người chồng đáp:

– Hôm nay, anh làm những việc này vì muốn hại kẻ thù.

Người vợ hỏi:

– Ai là kẻ thù?

Thi-lợi-cúc-đa liền nói kệ:

Ưa đắm các việc vui
Chán sợ việc khổ não
Không tu các khổ hạnh
Muốn cầu được giải thoát
Ưa thích thức ăn ngon
Lại biện thuyết mạnh mẽ
Người đàn ông họ Thích
Là kẻ thù của ta.

Vợ của Thi-lợi-cúc-đa chắp tay nói với chồng:

– Anh hãy bỏ tâm tức giận, trước đây có lần tại nhà đứa em trai thấy Phật như Bậc Đại Trượng Phu, sao bây giờ anh sinh tâm oán ghét như thế.

Cô liền nói kệ:

Mâu-ni kia nhẫn chịu
Dứt bỏ sự hận thù
Trừ ngã mạn, cống cao
Dứt bỏ việc tranh chấp
Oán thù với vị ấy
Vậy còn thân với ai?
Thấy tướng Đại nhân kia
Không có tâm sân hại
Thường nói lời mềm mỏng
Trước hỏi thăm, an ủi.
Đầu mũi tròn lại thẳng
Không có vết bị gãy
Nhìn thẳng, không quay đầu
Không nhìn ngó hai bên,
Lời nói không thô tục
Không nói ác, hai lời
Mặt hiền hòa, không sân
Cũng lại không bạo ác;
Lời nói không thương tổn
Cũng không gây ưu sầu
Vì sao tâm sân độc
Muốn làm hại người ấy?
Mặt Ngài như trăng thu
Mắt như sen xanh nở
Tướng đi như sư tử
Tay dài quá đầu gối
Thân như núi vàng ròng,
Anh gặp “kẻ thù” này
Thì đường ác không còn
Nếu không “kẻ thù” này
Thế gian khổ dữ dội
Ba đường ác đầy chật.

Thi-lợi-cúc-đa suy nghĩ: “Em trai của Thọ-đề- già đã có ý hùa theo cô ta, vậy ta phải thận trọng, bằng không, thì cô ta sẽ tiết lộ việc của ta cho người khác biết”. Nghĩ xong, Thi-lợi nhốt người vợ vào phòng kín, rồi liền sai người đến mời các vị Ni- kiền tử đến. Thi-lợi-cúc-đa nói với các vị Ni-kiền tử:

– Hôm nay các ngài hãy xem tôi diệt trừ kẻ thù cho các ngài. Tôi đã chuẩn bị hố lửa, cơm có trộn thuốc độc.

Các Ni-kiền tử này đốt thân bằng năm nguồn nhiệt, tất cả đều bị cháy đen như cục than, cùng nhau đến nhóm họp tại nhà Thi-lợi-cúc-đa.

Thi-lợi-cúc-đa trang hoàng nhà cửa sạch sẽ, tinh khiết như cây quý Tra-ca. Các Ni-kiền tử đã đến nhà ông và ở trên lầu, giống như một đàn chim, cũng như chim Câu-xí-la. Như những con ong đen vây quanh bên cây quý Tra-ca vui mừng hớn hở, các Ni-kiền tử cũng như vậy. Họ nói:

– Chúng ta hãy xem Sa-môn Cù-đàm bị thiêu cháy ở đây. Nếu không bị lửa đốt thì cũng bị cơm độc làm hại, nhất định sẽ chết.

Nói rồi, họ mỉm cười vui vẻ. Thi-lợi-cúc-đa sai một người đến chỗ Đức Phật và thưa:

– Bạch Thế Tôn, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.

Lúc các Ni-kiền tử và Phú-lan-na bàn luận với nhau việc này thì vị Thần trong nhà Thi-lợi-cúc-đa buồn lo, than khóc nói:

Đức Như Lai Thế Tôn là Bậc Đại Hùng trong ba cõi, là Phật Bà-già-bà, vì sao lại sinh tâm ác muốn hại Ngài? Nay ta hoàn toàn không còn con đường sống. Vì sao? Vì Đức Như Lai Thế Tôn là Bậc Vô Thượng trong ba cõi, nếu Ngài chết ở đây thì tiếng xấu sẽ đồn khắp thế gian. Tất cả các Thiện thần đều chê cười ta, cho ta là người xấu làm sao ta sống được? Thuở xưa, khi Đức Như Lai còn tu hạnh Bồ-tát, Ngài đã không tiếc tài sản, thân thể, tay chân. Vì thương xót chúng sinh nên Ngài làm những việc như vậy, huống gì ngày nay mà Ngài yêu quý thân mình? Làm sao đối với người như vậy mà lại sinh tâm tội ác, giết hại, cho nên nhất định ta sẽ bỏ mạng. Lại nữa, Đức Như Lai ở đời hiện tại vì chúng sinh nên Ngài tu khổ hạnh trong suốt sáu năm, một ngày chỉ ăn một hột gạo, một hạt mè, thân thể gầy gò, xương thịt khô khan.

Thần liền nói kệ:

Như Lai tu khổ hạnh
Sáu năm tự khô kiệt
Làm việc khó khổ này
Vì tất cả chúng sinh
Bậc Từ Mẫn như vậy
Vì sao muốn hại Ngài?

Thi-lợi-cúc-đa sai người đến rừng Trúc, nói:

– Bạch Thế Tôn, thức ăn đã chuẩn bị đầy đủ xin Ngài biết cho đã đến giờ.

Khi ấy, với tâm được xông ướp bằng đức tánh đại Bi, Đức Thế Tôn vì muốn làm lợi ích cho các chúng sinh nên Ngài duỗi tay nói:

– Than ôi! Kẻ phàm phu ngu si, ngay bây giờ ngươi nên thấy rõ Chân đế, thuở xưa ngươi đã cúng dường chư Phật, có nhân duyên giải thoát, căn lành đã chín muồi, sao ngươi lại sai người làm những việc điên đảo, dùng hầm lửa, cơm độc để thiết đãi Ta? Tại sao ngươi làm việc cực ác như vậy mà đến đây mời thỉnh Ta? Việc làm này rất phi lý.

Ngài nói kệ:

Thuở xưa Ta đã từng
Tu khổ hạnh sáu năm
Vì tất cả chúng sinh
Làm những việc khó làm
Nay vì sao chúng sinh
Trở lại muốn hại Ta?
Than ôi! Thật ngu si
Kẻ mù không mắt tuệ
Làm những việc phi pháp
Muốn não hại oan uổng.
Ta nghĩ nhớ chúng sinh
Hơn lòng từ cha mẹ
Vì sao đối với Ta
Mà sinh tâm tàn hại?
Bây giờ đã đúng lúc
Theo thường pháp chư Phật
Vì cứu giúp chúng sinh
Như thầy thuốc chữa bệnh
Mỗi một lời hủy nhục
Cũng nên sinh tâm nhẫn.
Nay Ta như thầy thuốc
Đi đến nơi nhà kia.
Vì sao đến nơi ấy?
Vì tâm Bi bức xúc.
Như người bị bệnh nặng
Tâm ý không ổn định
Nên hủy mắng thầy thuốc
Vì để trị bệnh nặng
Cũng không trách người bệnh.
Ngày nay các chúng sinh
Quỉ phiền não trong tâm
Ngu si không phân biệt
Vô cớ muốn giết hại
Nay Ta cũng như vậy
Chỉ giết quỉ phiền não
Không trách cứ người kia.

Đức Thế Tôn rời chỗ ngồi đứng dậy, Ngài lộ vẻ không vui, lại nói kệ:

A-nan đem y đến
La-hầu-la lấy bát
Nan-đà cũng đi theo.
Hãy mau gọi Tỳ-kheo
Không được dừng không đi
Phải nên mau đến đó
Thi-lợi-cúc-đa kia
Đang chờ được giáo hóa.
Ta sống thân rắn độc
Vì muốn độ chúng sinh
Nay Ta chứa oán này
Vì lợi ích chúng sinh.

Lúc bấy giờ Đức Như Lai ra khỏi rừng Trúc, như đám mây tan thì mặt trời xuất hiện. Thần cây nhìn bằng mắt trời thấy trong nhà của Thi-lợi-cúc- đa có đào một hầm lửa và chuẩn bị cơm có thuốc độc. Thần than khóc thảm thiết, vì kính yêu Đức Phật nên đảnh lễ dưới chân Ngài, cố nhìn dung nhan Đức Phật mà nói kệ:

Tâm kẻ kia tàn ác
Không có tâm ích lợi
Xin Phật không nên đến
Nên trở về rừng Trúc!
Thế Tôn rất khó gặp
Nhiều kiếp mới một lần
Phật tuy không tiếc thân
Nhưng vì độ chúng sinh
Như thân tốt đẹp này
Cần phải nên gìn giữ.
Người chưa được cứu độ
Phải làm cho được độ
Người sợ cho không sợ
Người mệt được nghỉ ngơi
Giúp người không chỗ nương
Có được chỗ nương tựa
Nói tóm lược lại thì
Có vô lượng lợi ích.
Chỉ xin Phật Thế Tôn
Chớ đi đến nhà ấy
Mà làm chỗ nương tựa
Cho Trời, A-tu-la.

Lúc ấy Đức Thế Tôn biết mà cố hỏi. Ngài hỏi Thiên thần:

– Này Thiên thần, vì việc gì mà không nên đến chỗ của Thi-lợi-cúc-đa?

Lúc ấy, có vị trời nói kệ:

Nhà Thi-lợi-cúc-đa
Đào hầm lửa thật sâu
Đốt lửa đầy trong đó
Rồi ngụy trang ở trên.
Đức Phật lại nói kệ:
Lửa tham dục ngu si
Rất khó dập tắt được
Ta tưới bằng nước trí
Chúng hoàn toàn tắt ngấm
Huống gì lửa thế gian
Làm sao hại Ta được?
Lửa dữ ở địa ngục
Đốt cháy khắp thế gian
Đốt trời đất bảy ngày
Thế gian đều tiêu tan,
Thứ lửa dữ như thế
Còn không thể hại Ta
Thì lửa của Thi-lợi
Làm sao hại Ta được?

Lại có vị trời nói:

– Bạch Thế Tôn, lửa không thể nào thiêu đốt Như Lai nhưng nếu Ngài ăn cơm độc thì sẽ như thế nào? Nay Thi-lợi-cúc-đa bị chất độc tà kiến làm nhuốm bẩn tâm mình. Với tâm ác nghịch độc hại, ông ta trộn thuốc độc vào cơm để hại Ngài. Lại nữa, bên trong tà vạy bên ngoài làm ra vẻ hiền lành đến mời thỉnh Đức Thế Tôn. Thế thì trong lòng ông ấy thật là xấu ác, cúi xin Ngài không nên đi đến đó.

Phật bảo vị trời ấy:

– Ta đã dùng thuốc Từ bi A-già-đà để thoa thân tâm, chất độc tham ái rất khó làm hại. Ta đã nhổ sạch cội gốc của nó từ lâu rồi, huống gì là chất độc của thế gian mà hại được Ta, vậy ngươi chớ có ưu sầu lo lắng.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ rừng Trúc đi đến cửa thành. Thần cây trông thấy Đức Thế Tôn tiến thẳng vào thành bèn thưa:

– Đức Như Lai Thế Tôn sẽ không trở về rừng Trúc này nữa, ngày nay Phật hướng về nơi giải thoát kia, cũng như mặt trời mọc thì nhất định chỉ hướng về phía Tây.

Mắt vị Thần ấy cứ nhìn mãi, sợ rằng sau này không còn thấy Ngài. Nếu như lửa không thiêu đốt thì nhất định cơm độc sẽ hại Ngài, vì các nhân duyên khó thấy, chỉ có người nào có phước đức mới trông thấy được. Ngài phá dẹp sự luận bàn, trong đại chúng cất tiếng sư tử rống, người có phước mới được nghe, người có phước lợi mới được lạy dưới chân Ngài.

Đức Thế Tôn đi lên lầu báu với các căn vắng lặng. Các thầy Tỳ-kheo đều theo sau, giống như mặt trăng sáng, các ngôi sao vây quanh, đến nhà của Thi-lợi-cúc-đa. Bấy giờ vị Thần trong nhà của Thi-lợi-cúc-đa cất tiếng muốn khóc:

– Than ôi! Lạ thay! Đức Phật lại đến đây, hôm nay Thi-lợi-cúc-đa đào hầm lửa và làm cơm độc muốn hại Ngài.

Vị Thần trong nhà lễ dưới chân Ngài và nói kệ:

Khi con chưa thấy Phật
Thì mong Ngài đến nhà
Nay thấy Phật đến nhà
Trong tâm không vui mừng
Sở dĩ không vui mừng
Vì có việc phi pháp.
Tướng tốt, thân trang nghiêm
Chiêm ngưỡng không nhàm đủ
Như Bậc Đại Nhân này
Nay sẽ thành đống tro.
Ta nhớ nghĩ việc ấy
Thân thể muốn chết đi
Ai thấy việc như vầy
Mà không bị khổ não.
Giả sử rất hung dữ
Ngu si tàn hại người
Nếu thấy thân Như Lai
Không nỡ sinh tâm ác
Huống gì là giết hại.
Trăng vào miệng La-hầu
Người đời đều giận dữ
Lành thay! Ngài hãy về
Hầm lửa sâu bảy nhận
Dưới đó lửa cháy hừng
Xin đừng vào chỗ này
Tự giữ và giữ con
Cùng giữ người chủ ấy
Và tất cả chúng sinh.

Đức Thế Tôn bảo vị Thần trong nhà Thi-lợi- cúc-đa:

– Đao kiếm, chất độc, nước, lửa không thể nào làm hại tâm Từ.

Ngài liền nói kệ:

Ta cứu giúp chúng sinh
Nghĩ như đứa con một
Giả sử muốn hại Ta
Ta cũng sinh tâm Từ.
Lửa phiền não cháy mạnh
Tâm Từ giúp bỏ ác
Do vì nhân duyên này
Lửa nào đốt được Ta.

Đức Phật bảo vị Thần trong nhà:

– Ông đừng sợ nữa, nay Ta cất tiếng sư tử rống để dẹp tan ngoại đạo, như La-hầu-la nuốt mặt trời, mặt trăng. Ta không thể bị Thi-lợi-cúc-đa làm hại, nếu không trừ được thì làm sao hàng phục được ma chướng?

Sau khi an ủi vị Thần trong nhà, Đức Thế Tôn liền đi vào nhà. Khi ấy bọn ngoại đạo trông thấy Đức Phật vào nhà, trong tâm rất vui mừng và nói với nhau:

– Sa-môn Cù-đàm đã vào đến cửa ngoài, lại vào đến cửa giữa.

Phật dùng uy quang không sợ đi thẳng vào không e ngại, đến cửa thứ ba và dần dần đến gần hầm lửa. Bấy giờ Thọ-đề-già đang ở trong phòng trống, nghe Đức Phật đến bên hầm lửa, trong lòng cuồng loạn, cô nghĩ: “Đức Như Lai đã đến gần hầm lửa, nếu chân Ngài đạp lên cỏ thì lửa sẽ bùng lên. Ôi! Thật là khủng khiếp”. Cô nói kệ:

Nay sẽ chìm trong khói
Sặc sụa chảy nước mắt
Khi lửa cháy đốt y
Thì làm sao giũ được?
Mắt nhìn cầu cứu giúp
Nghiêng ngả khắp chung quanh
Đã bị đốt cháy rồi
Uy quang đâu còn nữa.
Thân mình bị đốt cháy
Đầu tóc cháy rơi rụng
Trán rộng, tướng lông trắng
Nay đều tiêu diệt hết.
Như chim hộc trên hoa
Bị lửa đốt cháy rụi
Mặt như trăng tròn sáng
Chúng sinh nhìn mắt Ngài
Như được uống cam lộ
Đã rơi xuống hầm lửa
Sợ hãi nhìn bốn bên
Lửa dữ không thương xót
Sẽ đốt khiến cháy rụi.
Màu vàng ròng tinh luyện
Người thấy đều vui mừng
Lửa phủ Bậc Đại Nhân
Tốt đẹp rất khác thường
Hình dung như thế này
Nay lửa làm co rút.
Tóm lại mà nói thì
Giống như cuộn vải vàng
Cuốn tròn lại một chỗ
Lần lần bị tiêu diệt
Khi mặt trăng sắp lặn
Thân Phật rất nhiệm mầu
Người thấy thân tâm vui
Như Lai rất kỳ lạ
Thế gian không ai bằng.

Đức Như Lai đã vào cửa thứ ba và dần dần tiến đến gần hầm lửa. Các Ni-kiền tử ở trên lầu trông thấy Ngài đã đến gần hầm lửa trong tâm vui mừng hớn hở. Như cây ở giữa gò mả có bầy chim đậu trên đó, bầy chim này muốn được ăn thịt người chết, các Ni-kiền tử ở trên lầu cao cũng như vậy. Trong lòng Phú-lan-na vui mừng, bèn nói kệ:

Ông khéo làm huyễn thuật
Xoay chuyển các thế gian
Giờ đây rơi hầm lửa
Còn làm huyễn nữa không?
Lại có một Ni-kiền
Nói lời như thế này:
Một chân đã bước lên
Vì sao không rơi xuống
Vì mắt ta không rõ
Đây là mộng huyễn chăng?

Đức Thế Tôn dùng bàn chân hình bánh xe bước lên hầm lửa và biến hầm lửa thành ao nước trong mát, trong ao mọc đầy hoa sen, lá sen tròn tốt, hoa nở tươi đẹp. Các hoa sen có hoa nở rộ, có hoa chưa nở.

Thi-lợi-cúc-đa thấy việc ấy, liền nói với Phú- lan-na:

– Phú-lan-na, trước đây ngài nói muốn cùng với Đức Phật luận bàn Nhất thiết trí, nay ngài hãy bỏ lời ấy đi.

Thi-lợi-cúc-đa bèn nói kệ:

Lành thay! Hãy tin hiểu
Phải dứt tâm giận tức
Bỏ đi ý giận ghét.
Ông nên xem Cù-đàm
Oai nghi chưa từng có
Lửa dữ biến thành nước
Đất đều hóa thành cá
Các than lửa trong hầm
Đều biến thành ong đen,
Lại ở trong ao nước
Hóa ra các hoa sen
Có đủ cả ngàn cánh
Mọc đầy khắp trong ao,
Râu sen rất rực rỡ
Như hoa nở mùa thu
Trăm cánh rất mềm mại
Xinh đẹp khắp trong ao.
Các chim hạc trong đó
Đều hót tiếng êm tai
Chim Ca-lan-đà thảy
Cũng nô đùa vui chơi
Vẫy cánh tạt nước nhau,
Bầy ong vây quanh Phật
Vo ve tiếng nhiệm mầu
Chim Uyên ương từng đôi
Đều vui vẻ tự tại.

Bấy giờ Phú-lan-na bảo Thi-lợi-cúc-đa:

– Ông chớ để cho những trò huyễn thuật của Cù-đàm làm cho mê muội.

Thi-lợi-cúc-đa sinh tâm rất kính tin đối với Đức Như Lai, nói với Phú-lan-na:

– Đây là huyễn à?

Phú-lan-na đáp:

– Đúng vậy. Đây là do huyễn hoặc tạo ra.

Thi-lợi-cúc-đa nói:

– Ngài có phải là bậc Nhất thiết trí không?

Phú-lan-na đáp:

– Tôi là bậc Nhất thiết trí.

Thi-lợi-cúc-đa lại nói Nếu ngài đúng là bậc Nhất thiết trí thì hãy nghe tôi nói.

Vị ấy liền nói kệ:

Nếu là Nhất thiết trí
Ngài phải biết huyễn này
Nay sao ngài không làm
Những việc huyễn hóa này?
Nếu ngài không biết làm
Chẳng phải Nhất thiết trí.

Khi ấy Phú-lan-na cạn lời đuối lý nên không thể đáp lại. Các Ni-kiền tử nói với Thi-lợi-cúc-đa:

– Ông không nên nói như vậy. Vì sao? Vì Phú- lan-na đúng thật là bậc Nhất thiết trí, ông ấy có thể thị hiện tất cả.

Thi-lợi-cúc-đa nói với các Ni-kiền tử:

– Các ông cố cho rằng Phú-lan-na là bậc Nhất thiết trí phải không? Phú-lan-na có nghĩa là đầy khắp, vì ông ta làm các việc ác đầy khắp địa ngục, nên gọi là Phú-lan-na. Các ông đối với Phú-lan-na là người đã gây tội lỗi đầy khắp đường ác mà còn có ý nghĩ cho rằng ông ta là bậc Nhất thiết trí hay sao?

Thi-lợi-cúc-đa lại nói:

– Còn đối với Đấng Thích Chủng đã đạt được sự giải thoát là Đấng Như Lai Chánh Đẳng Giác mà các ông không có ý nghĩ Ngài là Bậc Nhất Thiết Trí ư?

Vị ấy liền nói kệ:

Các người hãy đi đi
Thật là kẻ vô tâm!
Nếu các ông có tâm
Giả sử như kim cương
Thấy việc ít có này
Còn nên sinh kính tin,
Hiện thấy Đức Như Lai
Làm việc chưa từng có
Mà không sinh lòng tin
Thì đó là ngu si.

Bấy giờ các Ni-kiền tử đều bỏ ra về, như vị chú sư tài giỏi làm cho các quỉ bỏ chạy tứ tán, như ánh mặt trời xuất hiện thì bóng tối đều tan biến.

Thi-lợi-cúc-đa thấy các Ni-kiền tử đã bỏ ra về, liền nói kệ rằng:

Sợ sệt mắt dớn dác
Kinh hãi đua nhau về
Nhờ sức oai thần Phật
Sợ hãi đều bỏ về.
Nay Ni-kiền thất bại
Cũng như ma quân thua
Bụi dơ lấm thân thể
Như mặc áo giáp dày.
Khi ấy các Ni-kiền
Bỏ về thật mau chóng
Giống như con nghé kia
Bị trúng độc trong rừng
Lăn lộn bùn dính thân
Cuồng chạy không tự dừng
Như mây đen bủa khắp
Gió thổi tự nhiên tan.

Bấy giờ các Ni-kiền đã bỏ về hết. Trong lòng của Thi-lợi-cúc-đa rất hổ thẹn, ông nghĩ: “Ai sẽ đưa ta đến gặp Đức Thế Tôn?”. Ông lại nghĩ: “Thọ-đề-già trước đây có gặp Đức Phật, nay ta sẽ cùng nàng đến chỗ Đức Thế Tôn”.

Nghĩ rồi, Thi-lợi đến trước cửa phòng vợ mình, gõ cửa kêu vợ và nói kệ:

Lành thay! Em thật là
Pháp khí mầu vô thượng
Do em có trí tuệ
Gần gũi thờ phụng Phật.
Bởi do ta tà kiến
Thờ phụng các Ni-kiền
Giờ em mau bước ra
Cùng em cúng dường Phật.

Thọ-đề-già nghe chồng nói xong, thầm nghĩ: “Thi-lợi-cúc-đa đã hại Phật rồi, lại còn đến dối gạt ta”. kệ:

Nàng bật khóc, trong tâm không vui, liền nói

Anh biết tôi sầu khổ
Nên đến đùa giỡn tôi
Nay ta làm thế nào?
Để đến gặp Như Lai
Khi Kiền tử tập hợp
Giống như đám sâu trùng
Ngọn lửa hừng tà kiến
Làm tắt đèn họ Thích.

Thi-lợi-cúc-đa nói với vợ:

– Chẳng lẽ em không biết năng lực thần thông của Phật hay sao mà lại nói như vậy?

Ông liền nói kệ:

Tất cả lửa thế gian
Sao thiêu đốt Phật được?
Ai đốt được Kim cang
Ai nâng được quả đất?
Em xem Đấng Thập Lực
Phá tan các ngoại đạo
Khắp bốn bên hầm lửa
Hoa sen đều nở rộ
Như chim ở giữa hoa
Hoa vây quanh Đức Phật.

Nghe kệ xong, vợ của Thi-lợi từ xa thấy Đức Thế Tôn trong hoa sen nên nàng rất vui mừng hớn hở nói:

– Đức Phật không bị thiêu đốt.

Thi-lợi-cúc-đa nghẹn ngào rơi lệ, nói kệ:

Thân Kim cang của Phật
Không gì thiêu đốt được
Do gần Phú-lan-na
Nay ta tự thiêu đốt
Cũng như ít củi ướt
Để ở gần củi khô
Khi châm lửa để đốt
Cả hai đều bị cháy.

Lúc bấy giờ vợ của Thi-lợi vội ra khỏi nhà và đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ gối chắp tay, ngước nhìn dung nhan Phật mà nói kệ:

Thấy được oai dung Ngài
Thế gian đều kính tin
Nay con nhờ có phước
Lại được nghe âm thanh.
Mặt như trăng tròn sáng
Nay con được trông thấy
Nay con nhờ có phước
Lại được thấy Thế Tôn.
Thân tướng hảo trang nghiêm
Nếu đã bị hoại diệt
Tiếng xấu sẽ đồn khắp
Đốt mất thân chúng con.

Người vợ đã chuẩn bị đầy đủ các vật cúng dường, thỉnh cầu Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo an tọa, rồi nói với chồng:

– Thánh tử, anh hãy đến đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn.

Lúc ấy Thi-lợi-cúc-đa nước mắt lưng tròng, nói kệ rằng:

Nay con làm hầm lửa
Muốn giết hại Thế Tôn
Bây giờ mặt mũi nào
Mà dám đến gặp Ngài.

Bấy giờ người vợ nói với chồng:

– Thánh tử, anh đừng có mặc cảm như vậy. Đức Như Lai không bao giờ có tâm giận ghét.

Cô liền nói kệ:

Như huơ tay trong không
Không hề bị chướng ngại
Pháp chư Phật cũng vậy
Phật đối tất cả pháp
Không nhiễm cũng không đắm
Lìa tám pháp thế gian
Như hoa sen trong nước.
Thuở xưa Đề-bà-đạt
Tâm tức giận che mờ
Vì muốn làm hại Phật
Bèn xô tảng đá lớn
Lăn từ trên không xuống
Không thể giết hại Phật,
Như La-hầu-la kia
Chính là con Như Lai
Phật đối với hai người
Bình đẳng không thương ghét.
Như hai mắt không khác
Đối với các chúng sinh
Từ bi hơn con một
Ngài không bao giờ có
Tâm oán ghét anh cả
Vì thế không nên sợ.

Thi-lợi-cúc-đa vì hổ thẹn, nên vợ phải dìu đi, môi miệng khô khát, lê chân từng bước như kẻ sắp chìm xuống đất, toàn thân run rẩy, tâm khiêm hạ rất sợ sệt, gieo năm vóc sát đất buồn bã than khóc và nói kệ:

Thà ôm đống lửa cháy
Cùng với rắn độc dữ
Chứ không gần bạn ác.
Nay con làm kẻ xấu
Bị rắn độc cắn hại
Về nương thầy thuốc hay
Mong được trừ độc hại.
Đấng Chân Tế ba cõi
Nguyện lại được thương xót
Con gây tội ác nặng
Xin Ngài rủ lòng thương
Cho con được sám hối.

Bấy giờ sắc mặt Đức Thế Tôn rất vui, Ngài bảo Thi-lợi-cúc-đa:

– Thánh tử, ông chớ lo sợ!

Đứng dậy, Ta không giận
Không còn tâm oán thân
Tay phải thoa chiên-đàn
Tay trái bị dao cắt
Đối với hai người này
Xem như nhau, không khác.

Hôm nay việc này đối với Ta không phải là hiếm có. Ta đã dứt bỏ kết sử, không có tâm thêm bớt. Xưa kia, khi Ta làm voi trắng bị chất độc hại,

Ta vẫn dùng hai chân để che chở, cứu giúp cho người săn bắn không bị thương.

Lại nữa, khi Ta làm con rùa, bị người ác cắt xẻ tay chân, thân thể ra từng miếng nhưng Ta không khởi tâm giận tức. Có lúc, Ta làm con gấu, thương người bị nạn. Lúc ấy kẻ bị nạn còn chỉ cho người thợ săn chỗ ở của Ta, nhưng Ta không khởi tâm giận tức. Khi Ta làm vị Tiên tay, chân, tai, mũi đều bị cắt đứt mà Ta không khởi lên một chút tâm giận hờn. Thuở xưa, khi Ta bị Bà-la-môn Nhất Thiết Thí chặt cổ, Ta cũng không có tâm tức giận, huống gì hôm nay Ta đã dứt bỏ tất cả kết sử mà có tâm giận ghét ngươi hay sao? Cũng như hư không không dính bụi bặm và như hoa sen không bị dính nước, Ta tránh xa tám pháp cũng như vậy.

Bấy giờ Thi-lợi-cúc-đa chắp tay bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, nếu thương con, xin Ngài hãy đợi con trong chốc lát, con sẽ làm cơm cúng dường.

Đức Phật dạy:

– Thế chẳng phải ông đã sai người đến thưa với Ta đã đến giờ ăn hay sao?

Thi-lợi-cúc-đa thưa:

– Đúng thật vậy! Con đã sai người đến thỉnh Đức Phật, nhưng con đã làm việc không có lợi ích.

Đức Phật dạy:

Nhưng Ta đã dứt bỏ được những việc làm không lợi ích, vậy hôm nay ông đã làm việc gì không lợi ích?

Thi-lợi-cúc-đa nói kệ:

Do ngu, con làm việc
Kẻ săn giết không làm
Lỗi con nặng hơn họ
Trộn thuốc độc vào cơm
Nhưng không hại được Phật
Chỉ tự hại thân mình.

Đức Phật dạy Thi-lợi-cúc-đa:

– Bây giờ đã đúng lúc ông làm việc cúng dường.

Thi-lợi-cúc-đa đáp:

– Bạch Thế Tôn, cơm con cúng dường có trộn thuốc độc.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Rồng chúa Bà-tu-kiết
Khi tức giận dữ dội
Nhưng chất độc dữ này
Không làm hại Ta được.
Nay Ta tu tâm Từ
Cơm độc đâu hại được
Ta dùng quả đại Từ
Nay sẽ chỉ dạy ông.

Thi-lợi-cúc-đa liền đem cơm độc đến trước Đức Thế Tôn, buồn khóc thưa:

Nay con đem cơm độc
Kho tàng ngầm công đức
Tâm con rất độc ác
Biểu hiện bằng cơm độc.
Phật dứt bỏ ba độc
Thần túc trừ cơm độc
Ngài dùng giúp cho con
Có được tâm bất động.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Các thầy phải đợi xướng Tăng bạt sau đó mới được ăn.

Ngài nói kệ:

Ở trước vị Thượng tọa
Khi xướng Tăng bạt rồi
Các độc tự tiêu tan
Các thầy mới ăn được.

Khi xướng Tăng bạt rồi, Đức Phật và chúng Tăng đều thọ trai. Thi-lợi-cúc-đa xem xét trên dưới rồi suy nghĩ:

– Nay trong chúng đây, không ai bị trúng độc.

Thấy các thầy Tỳ-kheo đều được an ổn không bị trúng độc, Thi-lợi-cúc-đa càng thêm kính tin, sinh tâm vui mừng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ: “Thi-lợi-cúc-đa đã được tâm kính tin và nhân duyên đã đúng thời, phải nên làm gì? Ta sẽ dập tắt lửa phiền não và dứt bỏ tà kiến cho ông ta.” Đức Phật đúng như sự thích ứng liền nói pháp Tứ đế. Thi-lợi-cúc-đa nghe pháp xong tin hiểu, dứt bỏ kết sử, kiến đế, loại bỏ chất độc thân kiến, dập tắt lửa các sử.

Do được Kiến đế nên Thi-lợi-cúc-đa nói kệ:

Con vượt khỏi ngu si
Và biển lớn tà kiến
Không còn sợ đường ác,
Con sắp vào chỗ tối
Gặp Phật được đèn sáng
Sắp vào trong lửa dữ
Lại được ao mát mẻ.
Lành thay! Phật Đại Nhân
Lành thay! Pháp thanh tịnh
Không thể nói cho hết
Nay con chỉ nói lược,
Con vốn muốn cho độc
Mà được ăn cam lộ
Tranh chấp đáng mất của
Trái lại được lợi lớn
Vì thế gần gũi Phật
Chúng sinh mở mắt tuệ
Và được thấy đường chánh.

QUYỂN 14

Chương 68

Đức Phật xuất hiện ở thế gian rất hy hữu, mặc dầu người nữ có kết sử nặng nề nhưng vẫn được giải thoát.

Tôi từng nghe:

Khi sắp nhập Niết-bàn, Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di, di mẫu của Đức Phật muốn mọi việc trang nghiêm tốt đẹp. Bấy giờ, ở giữa đại chúng, Đức Thế Tôn nhảy mũi. Vì nuôi dưỡng và thương yêu Đức Phật như con ruột của mình, nên khi nghe tiếng nhảy mũi của Đức Phật, bà Cù-đàm-di liền chúc:

– Cầu Thế Tôn trường thọ! Những âm thanh như thế sẽ chuyển đến Phạm thiên.

Đức Phật bảo bà Cù-đàm-di:

– Này Cù-đàm-di, đây chẳng phải pháp chú nguyện kính Phật đâu!

Ngài nói kệ:

Nên siêng năng tinh tấn
Điều phục ở thân ta
Siêng tu pháp chắc thật
Siêng làm việc tinh tấn
Thấy nơi chúng Thanh văn
Tất cả đều hòa hợp
Khi kính lễ Thế Tôn
Nên lập nguyện như thế.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di nghĩ: “Chúng Thanh văn hòa hợp gọi là lễ Phật nhưng Thế Tôn vẫn không làm cho chúng Thanh văn hòa hợp mãi, cũng không muốn thấy họ có sự biệt ly. Vì lý do này, ta không muốn thấy Đức Phật nhập Niết-bàn và chúng Thanh văn của Ngài bị phân tán. Do nguyên nhân này, ta nên nhập Niết-bàn trước Ngài”.

Bấy giờ, biết Cù-đàm-di muốn nhập Niết-bàn, Thiên thần ở Già-lam của Ni buồn rầu khóc lóc, rơi lệ trên áo Tỳ-kheo-ni. Lúc đó vị Tỳ-kheo-ni xem xét Thiên thần ấy vì lý do gì rơi lệ trên áo bà. Quán sát xong, biết bà Cù-đàm-di muốn nhập Niết-bàn, năm trăm Tỳ-kheo-ni đều đến chỗ Cù-đàm-di. Tôn giả Ni nói với họ:

– Này chư Hiền, khó có thể ở lâu trong rương rắn độc tứ đại. Vì thế, tôi muốn nhập Niết-bàn. Thiên thần ấy có tâm mềm yếu nên khóc lóc làm rơi lệ trên áo ngươi.

Năm trăm vị Tỳ-kheo-ni thưa:

Chúng ta xuất gia cùng một lúc, Tôn giả chớ nên nhập Niết-bàn trước mà bỏ chúng con.

Họ nói kệ:

Chúng con cùng xuất gia
Lìa vô minh tối tăm
Nay chúng con cùng đến
Thành Niết-bàn an ổn
Các sinh tử khổ não
Ở nơi rừng rậm hữu
Tại sao riêng mình đi
Đến ở chốn cam lộ?

Tỳ-kheo ni Cù-đàm-di nói kệ:

Các vị ngay bây giờ
Vì sao Niết-bàn hết?
Nếu các vị Niết-bàn
Ta sẽ theo các vị.

Bấy giờ Tôn giả Cù-đàm-di và năm trăm Tỳ- kheo-ni đứng dậy tạm biệt vị Thần trụ xứ để rời khỏi nơi mình ở.

– Đây là lần cuối cùng ta từ biệt căn nhà này. Thiên thần hỏi:

– Thưa Tôn giả, ngài muốn đi đâu? Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di đáp:

– Ta sẽ đến một nơi không già, không chết, không bệnh, không khổ… cho đến không yêu ghét, cũng không còn ái biệt ly. Ta muốn đến nơi Niết- bàn.

Khi ấy các phàm phu Tỳ-kheo-ni cùng lên tiếng:

– Than ôi! Lạ lùng thay! Trong khoảng một sát- na mà tất cả Tăng phường của Tỳ-kheo-ni đều trống rỗng, ví như dãy ngân hà trên không biến mất khắp bốn phương.

Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di và năm trăm Tỳ-kheo- ni đều ra đi, như sông Hằng và năm trăm con sông cùng chảy vào biển cả.

Lúc ấy các Ưu-bà-di đảnh lễ sát chân Tôn giả

Cù-đàm-di rồi thưa:

Cúi xin ngài thương xót, chớ nên bỏ chúng con!

Các Tỳ-kheo-ni an ủi các Ưu-bà-di:

– Bây giờ các ngươi chớ nên buồn rầu! Tôn giả nói kệ:

Chúng tôi đã biết khổ
Đoạn trừ tập trói buộc
Do tu bát Chánh đạo
Chứng đắc được Diệt đế.
Việc làm đã làm xong
Các ngươi chớ buồn khổ
Tăng chúng Phật còn đủ
Tạng pháp Mâu-ni còn
Thế Tôn còn tại thế
Tôi nên nhập Niết-bàn.
Tỳ-kheo Kiều-trần-như
A-phú, các vị khác
Bậc vô cấu như vậy
Chưa có ai phân tán
Tôi muốn nhập Niết-bàn.
Nan-đà, La-hầu-la
A-nan, Tam-ma-đà
Cho đến A-nan-đà
Các vị còn ở đời
Tôi nên nhập Niết-bàn.
Mâu-ni được an ổn
Tỳ-kheo Tăng hòa hợp
Phá hoại bọn ngoại đạo
Tà đạo cũng lụi tàn
Bậc Tối Tôn hãy còn
Nay tôi nhập Niết-bàn
Chính là lúc tốt nhất.
Tâm tôi nguyện giải thoát
Đến nay được đầy đủ
Các ngươi vì cớ gì
Buồn khóc đến rơi lệ?
Hãy đánh trống vui mừng
Âm thanh chưa chấm dứt
Tôi đến nơi giải thoát
Nay chính là lúc ấy
Các ngươi chớ nên buồn!
Nếu các ngươi nhớ ta
Nên siêng năng hộ pháp
Khiến chánh pháp trường tồn
Tức là nhớ nghĩ ta.
Thế nên siêng tinh tấn
Phải hộ trì chánh pháp.
Phật đem lòng thương xót
Cho người nữ xuất gia
Các ngươi nên hộ giới
Chớ để người mạ nhục
Cho đến đời vị lai
Đừng để họ chê Ni.

Các Tỳ-kheo-ni an ủi các Tỳ-kheo-ni khác và các Ưu-bà-di. Khi ấy năm trăm vị Tỳ-kheo-ni đi đến gặp Đức Thế Tôn, sửa lại y Uất-đa-la-tăng, họ đảnh lễ sát chân Ngài rồi quỳ xuống chắp tay nói kệ, thưa:

Nay con là Phật mẫu
Như Lai là cha con
Con từ pháp sinh ra
Sữa con nuôi sắc thân
Phật nuôi Pháp thân con
Sữa con đối Thế Tôn
Hết khát trong giây lát
Sữa pháp Ngài cho con
Mãi mãi không đói khát
Đoạn sạch các ân ái.
Nay con sẽ lược nói
Tuy con đem sữa nuôi
Báo ân là lớn nhất
Nguyện tất cả người nữ
Có con giống như Phật.
La-ma và A-thuần
Bà-tu và các mẹ
Ở trong chốn biển hữu
Luân hồi không thỉ chung
Ý con nhờ vào Phật
Vượt qua biển sinh tử.
Người nữ rất cao quý
Mọi người xưng hoàng hậu
Mẹ Bậc Nhất Thiết Trí
Danh ấy khó có được.
Ý nguyện có lớn nhỏ
Nhưng con đều đầy đủ
Giờ đây muốn Niết-bàn
Bạch Phật để Ngài biết.
Chân như cánh hoa sen
Luân tướng rất sáng tỏ
Xin cho con trọn nguyện
Đảnh lễ lần sau cùng,
Cung kính lần sau cuối
Thâm tín nên đảnh lễ
Đảnh lễ Bà-già-bà
Thân như khối vàng ròng.
Xin mở Uất-đa-la
Hiện thân cho con thấy
Nhìn toàn thân Như Lai
Con về cõi tịch diệt.

Bấy giờ Đức Như Lai vén y Uất-đa-la-tăng, hiển bày thân ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Thấy được thân tướng Thế Tôn, Tôn giả đảnh lễ sát chân Ngài, thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, con nhập Niết-bàn. Đức Phật bảo:

– Này Cù-đàm-di, bà muốn nhập Niết-bàn, Ta cho bà được toại ý, nhưng chúng Tăng không giảm bớt. Giống như trăng sắp tàn, dần dần lặn mất, không còn gì cả. Đệ tử cứ đi trước, còn Ta sẽ đi sau.

Như đoàn người lái buôn, người lái buôn đi đường thì người chủ lái theo sau. Năm trăm Tỳ- kheo-ni nhiễu quanh Đức Phật Thế Tôn như đi quanh núi Tu-di. Họ đứng trước mặt Như Lai chiêm ngưỡng tôn nhan của Ngài không biết nhàm chán. Đức Phật cho nghe âm thanh diệu pháp, họ cũng không biết nhàm chán. Khi cảm thấy được đầy đủ rồi thì họ cố giữ pháp vị. Các Tỳ-kheo-ni đến gặp các Tôn giả Nan-đà, La-hầu-la, A-nan-đà, Tam-ma-đề, Bạt-đà đảnh lễ cầu xin sám hối nhưng tất cả Thánh chúng đều lặng yên không một chút gió, họ chắp tay mà nước mắt cứ tuôn tràn.

Bấy giờ Cù-đàm-di thưa với Tôn giả:

– Thưa Tôn giả A-nan, ngài là bậc Dự lưu nghe nhiều thấy rộng, tại sao bây giờ giống như phàm phu? Đức Như Lai thường dạy: Tất cả ái ân đều có biệt ly. Nếu ngài không xin Đức Thế Tôn cho tôi xuất gia thì ngày nay làm sao tôi được pháp này?

Tôn giả nói kệ:

Nhờ ngài cầu xin Phật
Chúng con được xuất gia
Thật không uổng công ngài
Đều được quả báo thật.
Tất cả thầy ngoại đạo
Chưa từng có việc này
Ngay thân của người nữ
Có thể chứng Niết-bàn.
Nhờ Phật, Thiện tri thức
Thế nên được chứng đắc
Ngài giữ tạng Phật pháp
Phải khéo léo giữ gìn.
Đây là lần cuối cùng
Con được gặp mặt Ngài
Nay con nhập Niết-bàn
Nương theo đạo đi đến.
Giữa chúng, Phật hắt hơi
Con liền chúc trường thọ
Phật dạy: không kính lễ
Việc ấy nói như trên.
Phật cũng ủng hộ Tăng
Không muốn cho giảm bớt
Con cũng không mong muốn
Nên vào nơi giải thoát.
Gió lớn vô thường đến
Thổi đến rừng Thanh văn
Trốc gốc ngã trên đất
Gió kim cang vô thường
Làm sụp núi Tu-di
Mặt trời Phật lặn mất
Thì bóng tối bao vây.
Phật vẫn còn tại thế
Đạo thắng diệu Niết-bàn
Đấng Thập Lực chỉ dạy
Ánh sáng pháp chiếu rạng
Phá hoại luận đạo khác.
Nhật quang chiếu khắp nơi
Đức của Phật cũng vậy
Nay gặp lúc tốt đẹp
Cho nên muốn xả thân.

Bấy giờ ngài A-nan nghe kệ xong liền nín khóc, nói kệ:

Bà có ý chí lớn
Tôi không còn buồn nhớ
Giống như trong rừng sâu
Gai đâm rất khốn khổ.
Lại như voi cái đi
Ra khỏi rừng khổ não
Nay bà cũng như thế
Vượt ra khỏi thế gian.
Người nào còn buồn rầu
Kiêu mạn và ngu si
Lửa các ác kết sử
Thiêu đốt cả ba cõi.
Các vị Niết-bàn trước
Tôi e Phật Thế Tôn
Giống như đống lửa lớn
Hết nhiệt thì lửa tàn.

Lúc ấy Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề chắp tay hướng về Đức Phật chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài rồi nói kệ tán thán:

Nam-mô quy mạng Phật
Đại Thế Tôn Như Lai
Chân thật ngữ, đế ngữ
Nghĩa ngữ và pháp ngữ
Lời lợi ích không vọng
Hay nói chân tịch diệt
Nói vô ngã và ngã
Nói hơn hết tất cả.
Bậc Túc Nhãn viên mãn
Chỉ dẫn đến tương lai
Đi trên đường thắng diệu
Lại thường hay quán sát
Tướng chân thật các pháp
Làm sáng tỏ cùng khắp.
Hay trừ các tối tăm
Hay diệt trừ tranh giận
Như đốt thuốc pháp lớn
Chiếu sáng khắp tất cả,
Hay đem nhiều đèn sáng
Cho chúng nhiều đèn sáng
Và đi theo sánh sáng
Đại Trượng Phu Điều Ngự.
Vị Thầy đại giải thoát
Bậc đầy đủ mười lực
Đủ bốn Vô sở úy
Thành tựu không thoái chuyển
Thuyết pháp không luống đổi
Nhất định có lợi ích
Cho tất cả chúng sinh.
Sư tử rống họ Thích
Chắc thật trong tinh tấn
Bậc thắng diệu tinh tấn
Đầy đủ thể đại Bi
Tám pháp của thế gian
Không thể làm ô nhiễm.
Thích, Phạm, bốn Thiên vương
Ma-hê-thủ-la vương
Diêm vương Bà-lâu-na
Bậc giàu có tự tại
Như thế, các bậc Thắng
nhân chắp tay cùng tán
thán Đức Phật:

– Đức Thế Tôn là Bậc Hòa Hợp giải thoát vi diệu thậm thâm, Bậc Vô Úy, chân thật hiển bày và hướng dẫn thuyết giảng giáo pháp, giảng giải tất cả âm thanh vi diệu như chim, danh vang khắp cả hư không. Ngài xuất thân trong dòng họ của các đại vương kế tục, được sinh từ đảnh sinh Ưu-bát-giá- na-bạt-la-đà.

Đức Như Lai như nhật nguyệt, là nơi trời, người, A-tu-la cúng dường; là Bậc được bảy giác ý, trừ ám vô minh, lại hay tạo dựng cờ Tam bảo tối thắng.

Diện mạo của Như Lai giống như đỉnh núi vàng, ánh sáng tỏa chiếu như mặt trời. Bậc Trượng Phu tối thượng này gọi là hoa sen. Trượng phu Câu-vật-đầu, Trượng phu Phân-đà có năng lực đoạn trừ các kết sử tham dục, sân hận, ngu si… cho đến bốn sự trói buộc: Lo buồn khổ não, phóng dật kiêu mạn, tranh cãi giận dỗi, tự cống cao.

Đức Như Lai Thế Tôn đều đoạn sạch cờ bạc, dối trá, tranh hơn phạt người, cùng nhau tranh cãi rồi giận dỗi xa cách như ngoại đạo sư nói pháp còn giấu giếm. Các ác ấy Ngài đoạn trừ hết, xô ngã cờ kiêu mạn, dựng cờ thắng pháp, hay chuyển pháp luân làm cho biển lệ, sữa máu đều khô cạn, được biển thiền định bát ngát không bờ mé, hay xả bỏ tất cả tài vật trong ngoài không hề tham tiếc; đối với oán thân, tâm Ngài đều bình đẳng.

Thân Phật vi diệu như khối vàng rực sáng, tướng lưỡi dài rộng như cánh hoa sen không có dơ uế, thanh khiết tươi tốt, bụng đầy đặn, bằng phẳng, rốn xoáy bên phải giống như hộp hương tròn sáng một tầm, giống như điện sáng, cũng như vàng ròng.

Ngài mặc áo giáp tinh tấn, được hộ vệ bằng thiền định, dùng tên trí tuệ bắn trúng vào điểm nhỏ bằng một phần trăm sợi lông, phá hoại chúng ma quân, dũng mãnh không sợ.

Ngài là Bậc Long Tượng, Bậc Chân Tế trong loài người, định Như ý túc vô lượng, vô biên, vô sắc, chỉ dạy phân biệt tám Chánh đạo, đoạn trừ tưởng ái dục sân hại, thệ nguyện kiên cố, ý chí vững vàng không hề loạn động. Như hoa Ưu-đàm- bát rất khó gặp, công đức của Như Lai hơn cả đại địa cho đến trăm ngàn vạn ức vi trần đều lấy tám Chánh đạo diệu trừ kết sử, cứu giúp chúng sinh vượt qua sông sinh tử, đến bờ giải thoát.

Ngài hay hiển bày ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm, giống như bức họa rực rỡ, chày trí Kim cang tiêu diệt tất cả tà luận ngoại đạo.

Ngài hay chỉ bày phương pháp vi diệu, đạt giải thoát Niết-bàn để được pháp tự tại, không còn tham đắm thế gian. Ngài hay nói pháp đối trị phiền não và các nhập xứ được biện tài thù thắng, hay phân biệt rõ ràng các pháp, trừ sạch việc dối trá huyễn hoặc, đạt đến Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ ba-la-mật, là Bậc mà Tiên A- tư-đà tôn kính, vang danh khắp mười phương, trụ thân cuối cùng, đã tự giác ngộ rồi khai ngộ cho chúng sinh.

Ngài có kho tàng công đức, núi Tu-di công đức, biển lớn công đức, vô lượng danh xưng, vô lượng biện tài, tri ân báo ân.

Khen ngợi xong, Tôn giả đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra, dẫn năm trăm Tỳ-kheo-ni vào nơi yên tịnh, ngồi bán già để xả bỏ thân mạng.

Trước khi đó, các Ưu-bà-di đến chỗ các vị Tỳ- kheo-ni lễ sát chân Tôn giả, khóc lóc nức nở nói kệ:

Chúng con có các lỗi
Thạnh trí cho con sám
Nhất định không tái phạm
Lại được gặp gỡ nhau

Vì ly dục nên tâm ý dũng mãnh, Tỳ-kheo ni Ba-xà-ba-đề đưa tay rờ vị Ưu bà-di nói:

– Các ngươi không nên luyến tiếc, ái ân có tụ họp ắt có chia ly.

Tôn giả nói kệ:

Phật dạy có tụ họp
Ắt sẽ có chia ly
Tất cả pháp hữu vi
Thảy đều là vô thường.
Lửa vô thường thiêu đốt
Thiêu rụi cả ba cõi
Người yêu ta rất nhiều
Ta yêu người chẳng ít.
Nay ta đều bỏ hết
Các tham ái như vậy
Nơi sinh tử đen tối
Trong luân hồi hiểm trở.
Thân quen lại mến nhau
Ắt gặp nhau tụ họp
Vô thường không buồn thương
Phá hoại làm chia lìa.
Không xa lìa ân ái
Chớ mong cầu giải thoát
Lần lựa yêu mến nhau
Mến nhau thành thân thiện,
Cuối cùng chắc chia lìa
Do nhân duyên thế ấy
Người trí cầu giải thoát
Không có gì luyến tiếc.

Lúc ấy, bằng nhiều cách Tôn giả Cù-đàm-di khen ngợi Niết-bàn, rồi lặng im tạ từ Đức Phật Thế Tôn, nhập Niết-bàn.

Thật không sai lời! Muốn là làm được, các Tỳ- kheo-ni nhiếp niệm trước mặt, nhập Sơ thiền. Như thế theo thứ lớp, đến diệt tận định, quán thuận nghịch rồi hiện các thứ thần thông và nói kệ:

Thân ở trên mặt đất
Đưa tay vuốt trời trăng
Biến thân làm ẩn mất
Vọt lên trên hư không
Một thân biến nhiều thân
Nhiều thân hợp làm một.
Thân phóng ánh sáng lớn
Làm chao động đại địa
Vào đất như xuống nước
Xuống nước như trên đất.
Thân phóng ánh sáng lớn
Lại trút xuống mưa to
Vì Thần túc như ý
Nên hiện được như vậy.

Ngoài ra, năm trăm vị Tỳ-kheo-ni cùng hiện các đại thần biến như thế. Vì hiển bày năng lực Phật pháp của Đức Như Lai, tất cả đều hiện thần thông bay vọt lên hư không. Giống như mây kéo đùn lại làm mưa lớn, cũng như ngọn đuốc lớn giữa hư không bị gió thổi tứ tán, trên thân các vị phun ra lửa, dưới thân phun ra nước và ngược lại. Họ nói kệ:

Phát ra ngàn hỏa quang
Vây quanh tự trang nghiêm
Trên thân phát hỏa quang
Dưới thân tuôn mưa lớn,
Hoa đầy khắp hư không
Giống như cành Chiêm-bặc
Trên nước nổi nhiều hoa
Biến hiện thần thông rồi
Làm cho các đàn-việt
Đều phát tâm hoan hỷ
Như củi hết lửa tắt
Vào Vô dư Niết-bàn.

Lúc ấy vua Phạm thiên cúng dường Phạm thiên, Thích Đề-hoàn Nhân cùng chư Thiên sáu cõi trời dục, các đại Thiên thần và các bậc Tôn thắng,

Rồng, Thần, Dạ-xoa đi đến chỗ Đức Phật. Tất cả đều chắp tay bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, Ngài xa lìa kết ái nhưng vì tùy thuận theo thế gian. Vậy Thế Tôn muốn sai chúng con làm những gì cho người thân sau cùng của Ngài?

Tùy theo thời gian thích hợp, Đức Như Lai bố trí công việc. Ngài bảo:

– Này A-nan, vì cúng dường Phật mẫu, thầy hãy nói với tất cả người ở xa gần đến hội họp.

Với giọng buồn rầu, Tôn giả A-nan nói:

– Những đệ tử Phật bất luận xa gần lắng nghe tôi nói: “Tất cả hãy đến hội họp nghe Đức Thế Tôn dạy”.

Đức Thế Tôn dạy:

– Cù-đàm-di là người nuôi dưỡng bú mớm cho Ta. Bây giờ, thân cuối cùng của Bồ-tát nhập Niết- bàn như dầu hết đèn tắt. Những Phật tử nào có tín tâm muốn cúng dường thân Phật mẫu, hãy mau chóng đến đây hội họp. Trong trời, người không có người nữ nào làm được công việc bú mớm và nuôi dưỡng thân Phật như vậy. Vì vậy, tất cả các Tỳ- kheo phải tập hợp hết lại.

Khi ấy các Tỳ-kheo xa gần ở bốn phương mang gỗ Ngưu đầu chiên-đàn đến. Từ không trung như Nhạn vương, như mặt trời chiếu vào mây khắp cả hư không, các Tỳ-kheo-ni cũng hiện như vậy đầy cả hư không.

Bốn Thiên vương nhấc bốn chân tử sàng của Tôn giả Ma-ha-bà-đề, chúng Đế Thích, Phạm thiên cũng khiêng tử sàng của năm trăm Tỳ-kheo-ni.

Mỗi tử sàng đều dựng tràng phan, hoa trời Mạn-đà-la giống như màn hoa phủ ở trên các Tỳ- kheo-ni, giống như hang thiền dựng các tràng phan đầy khắp đại địa. Phan lọng bằng lụa trời nhiều màu, nhiều kiểu cũng đầy cả hư không. Trời mưa xuống, các tràng hoa lại cũng mưa xuống bột hương, khói hương như mây đầy khắp hư không, có đầy đủ âm thanh các loại nhạc trời. Các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên, Nan-đà, La-hầu-la, A-na- luật, A-nan, Phạm vương, chư Thiên, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời, Rồng, Dạ-xoa đi theo sau Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn như núi vàng di chuyển, ở trước tử sàng Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề và tiếp theo sau là tử sàng của năm trăm Tỳ-kheo-ni. Tất cả đại địa sáng đẹp trang nghiêm chưa từng có, giống như sự trang nghiêm của Tỳ-kheo-ni Ba-xà- ba-đề đã làm.

Khi Cù-đàm-di nhập Niết-bàn, Đấng Pháp Vương Thế Tôn liền tập hợp các Thánh chúng hiện có mặt, như các ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… Khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các ngài Xá-lợi- phất, Mục-kiền-liên đã nhập diệt. Do vậy việc trang nghiêm của Thế Tôn không bằng Ba-xà-ba- đề.

Tử sàng này được đặt ở nơi rộng rãi, thoáng mát, chất nhiều gỗ thơm dùng để làm củi, năm trăm thi thể Tỳ-kheo-ni ấy an trí lên trên và chất các loại gỗ Ngưu đầu chiên-đàn, nhiều hương thơm lên trên nữa, lại đem nhiều dầu thơm rưới lên đó.

Thấy các Tỳ-kheo-ni đã được hỏa thiêu, Tôn giả A-nan buồn bã khóc lóc nói kệ:

Như thế theo thứ lớp
Như Lai cũng không lâu
Sẽ vào nơi tịch diệt
Như lửa đốt cháy rừng
Chỉ còn một cây lớn
Lửa ngọn đốt cành lá
Thế lực không lâu dài
Thế gian đều khổ não
Nói pháp khắp ba cõi
Đấng Tối Tôn tịch diệt
Không còn ai niệm pháp.
Vô lượng kiếp gom góp
Được mật pháp tối thắng
Thanh văn như ong hút
Đức Phật nhập Niết-bàn
Ai sẽ cho mật pháp?
Pháp diệt không bao lâu
Hình tượng chùa tháp diệt
Người vẽ tượng không còn
Huống gì có pháp phục.
Những người chưa ly dục
Khóc lóc rất áo não
Bậc Ly dục quán pháp
Lễ trà-tỳ đã xong
Thâu cốt xây tháp thờ
Để chúng sinh cúng dường.

Lúc ấy có người nghi ngờ: “Ai là người đáng được xây tháp để cúng dường?”. Vì muốn chấm dứt sự nghi ngờ, Đức Thế Tôn dạy:

– Có ba bậc đáng được xây tháp cúng dường là Đức Phật, A-la-hán lậu tận và Chuyển luân thánh vương.

Chương 69

Vị nào thường nhớ công đức Tăng bảo với nhận thức rõ ràng nên dù có xả bỏ thân mạng vẫn còn phát tâm lành.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, khi còn là Bồ-tát, Đức Thích-ca Mâu-ni làm bạch tượng sáu ngà. Lúc đó, vì có oán thù với bạch tượng, hoàng hậu sai người tìm chỗ voi ở để lấy ngà.

Khi ấy người bị sai đến chỗ voi ở, thấy bạch tượng sáu ngà giống như voi Y-la-bát lìa bầy, cùng với voi cái ở riêng một nơi, anh ta nói kệ:

Hoa sen Ưu-bát-la
Nước trong đầy ao lớn
Đi đến nơi như thế
Thấy được nơi Long tượng.
Hoa Câu trần màu trắng
Màu giống như sữa tuyết
Đều cùng là màu trắng
Giống như núi trắng lớn,
Có chân đi lại được
Con voi chúa lớn ấy
Màu sắc giống như trăng
Từ miệng mọc sáu ngà
Sáng chói rất trang nghiêm
Như bó hoa sen trắng
Nhìn gần là ngà voi
Giống như ngó sen trắng.

Lúc ấy, người thợ săn mặc áo ca-sa, nách kẹp cung tên, ở trong lùm cây, từ từ bước đến chỗ bạch tượng. Thấy người thợ săn kẹp cung tên dưới nách, voi cái nói với voi chúa:

– Người kia có vẻ muốn hại ta. Voi chúa hỏi:

– Người ấy mang cung tên nhưng mặc áo gì? Voi cáu thưa:

– Người ấy mặc áo ca-sa. Voi chúa nói:

Người ấy mặc áo ca-sa thì đâu có gì phải sợ hãi.

Rồi voi nói kệ:

Với biểu tướng như vậy
Không làm hại vật khác
Trong có tâm Từ bi
Thường cứu giúp tất cả
Thế nên với người kia
Không nên sinh sợ hãi.
Người thấy được an ổn
Vắng lặng được tốt đẹp
Như mặt trăng trong mát
Nhất định không tỏa nhiệt.

Nghe kệ xong, voi cái không còn nghi ngờ. Khi ấy, người thợ săn vào khu rừng rậm rạp rình, đợi voi chúa đến thì dùng tên độc bắn trúng nó.

Voi cái nói với voi chúa:

– Ngài nói ai mặc áo ca-sa chắc chắn có tâm Từ bi, thế sao bây giờ hắn ta lại làm như vậy?

Voi chúa liền nói kệ:

Đây là áo giải thoát
Tâm phiền não đã tạo
Xa lìa nơi Từ bi
Chẳng phải lỗi nơi áo.
Như đồng được dát vàng
Nấu chảy mới biết tạp
Mê hoặc các phàm phu
Kẻ ngu cho là thật
Người trí phân biệt rõ
Biết là đồng mạ vàng.
Do cung tên ác tâm
Cho nên làm hại ta
Ca-sa áo thiện tịch
Chính là các ác tâm
Nếu ai xem xét kỹ
Ca-sa áo toàn thiện.

Voi cái rất tức giận, nói với voi chúa:

Ngài nói rất đúng! Nhưng tôi không thể nhẫn nhịn được. Tôi muốn bắt hắn xé tan ra.

Voi chúa Bồ-tát nói:

– Vì không điều trị tâm kết sử nên mới như thế. Nàng chớ nên tức giận mà nói như vậy! Không cần phải căm ghét hắn ta!

Voi chúa nói kệ:

Như người bị quỉ nhập
Mê dại mắng nhiếc thầy
Thấy thuốc trị bệnh quỉ
Không trách người khổ bệnh
Kết sử cũng như quỉ
Vì vô minh che lấp
Hay có tham, sân, si
Chỉ nên trừ phiền não
Đâu cần trách người bệnh.
Nếu ta thành Chánh giác
Danh xưng khắp ba cõi
Các kết sử dối trá
Dùng niệm, định, cần, tấn
Diệt trừ các kết sử
Dùng dùi trí sắc bén
Đập tan các kết sử
Chắc chắn làm khô cạn
Đốt cháy hết không còn.
Mai sau ta cần phải
Trừ sạch hết khổ não.

Nghe voi chúa Bồ-tát nói kệ này thì voi cái im lặng.

Khi ấy, bầy voi đều đến tụ tập, voi chúa nghĩ: “Không được để bầy voi này làm hại người thợ săn”. Nghĩ xong, voi chúa đến chỗ người thợ săn nói:

Hãy núp dưới bụng tôi! Tôi sẽ che chở cho ông.

Bầy voi tiến đến giết hại thì voi chúa liền đuổi đi, rồi bảo người thợ săn:

– Ngươi cần gì thì cứ tùy ý lấy.

Khi nghe lời ấy, người thợ săn suy nghĩ: “Bây giờ, nếu ta không có tâm Từ thì không bằng voi kia”, rồi anh ta khóc lóc thảm thiết.

Voi chúa hỏi:

– Vì sao ngươi khóc? Người thợ săn đáp:

– Vì bị khổ não bức bách nên tôi khóc.

Voi chúa nói:

Tôi sợ bầy voi làm hại nên tôi kêu ông núp dưới bụng, phải chăng thân thể tôi đè ép ông?

Người thợ săn đáp:

– Không. Không phải thân thể ngài đè ép tôi. Voi chúa lại hỏi:

– Phải chăng voi cái nói những lời cay cú làm ông buồn bực đến khóc?

Người thợ săn đáp:

– Cũng không phải lời cay cú kia làm tôi buồn bực mà chính là đạo đức và tâm đại Từ bi của ngài. Vì ác tâm, tôi đã dùng tên độc hại ngài mà ngài vẫn có tâm Từ lo sợ bầy voi trông thấy làm hại nên kêu tôi núp dưới bụng. Do việc này, tôi bứt rứt trong lòng, lo sợ nên khóc vậy.

Ông ta nói kệ:

Nay tôi dùng tên độc
Làm hại thân voi chúa
Ngài đem đạo đức, từ
Thương hại cho tâm tôi.
Nhờ ngài tâm hại hết
Nhưng tôi hại đức ngài
Nhọt tâm ngu khó lành
Đức ngài như biển lớn
Làm sao nói hết được
Kẻ làm hại mạng ngài
Vẫn Từ bi cứu giúp.
Nếu nói cho đúng ra
Thân tôi tuy là người
Không Từ bi nhân đức
Luống uổng hình hài này
Còn tệ hơn thú vật.
Tướng mạo giống như người
Làm ác hơn súc sinh
Ngài tuy mang thân thú
Đạo đức hơn loài người
Hình tướng chẳng phải người
Nhưng đạo đức là người.

Voi chúa hỏi:

– Hãy mau trả lời cho tôi biết, vì việc gì mà ông đến bắn tôi?

Người thợ săn đáp:

– Tôi bị vua sai lấy chút ít thân phần của ngài, chứ không phải tự ý tôi đến làm hại ngài.

Voi chúa nói:

– Nếu có cần gì, ông hãy mau lấy. Lúc ấy voi chúa nói kệ:

Ông có muốn cần gì
Mau đưa tay nhận lấy
Người phát tâm Bồ-đề
Không tham tiếc gì cả.
Tùy theo ông cần gì
Đều cho ông hết cả
Cần ngà thì cho ngà
Tùy ý ông nhổ lấy.
Tôi vì việc cứu giúp
Do đó thọ thân này
Tôi đều bỏ tất cả
Cần gì tùy ý lấy.
Tôi làm việc lợi mình
Nhanh chóng đến Niết-bàn
Vì tất cả chúng sinh
Thọ thân trong ba cõi
Vì Nhất thiết chủng trí
Lấy Từ bi làm nhân.

Người thợ săn xấu hổ nói:

– Tôi bị vua sai đến lấy ngà của ngài.

Voi chúa nói:

– Ông cứ tùy ý lấy, chớ có nghi ngờ. Người thợ săn đáp:

– Tôi thật không thể nào lấy ngà của ngài được. Và nói kệ:

Từ tâm ngài tràn trề
Tôi sợ lửa từ kia
Nếu nhổ lấy ngà ngài
Tay tôi chắc gãy mất.

Voi chúa bảo:

– Nếu ông sợ, tôi sẽ nhổ cho ông.

Nói xong, voi chúa lấy vòi quấn lấy ngà mình, vì chân gốc của ngà rất sâu nên nhổ lâu lắm mới ra. Voi chúa nhổ ngà của mình xong thì máu ra dầm dề. Voi chúa nói kệ:

Máu chảy nơi nhổ ngà
Từ mặt máu chảy xuống
Voi chúa rất phước lợi
Nó trắng như sen trắng
Lẫn với hoa sen đỏ
Chứa nhóm thành đống lớn.
Các hoa kết đống kia
Trắng như thân voi chúa
Lại giống núi đá lớn
Tuyết trắng phủ lên trên
Giống như đỉnh núi cao
Dòng nước đỏ chảy xuống.

Voi chúa đau đớn, run rẩy quỵ xuống nhưng còn tự an ủi mình. Lúc đó, có một vị trời nói kệ:

Tâm an trụ vững chắc
Không bị si buồn bực
Nên quán các khổ não
Làm sao cứu giúp được.
Thế giới đều có chết
Ngài làm việc cứu giúp
Nên giữ vững ý chí
Chớ có tâm buồn rầu.
Trời, Người, A-tu-la
Càn-thát-bà, Dạ-xoa
Đầy khắp cả hư không
Khen việc chưa từng có.
Thiên thần nói như vầy:
Xưa nay rất ít có
Hay làm việc khổ khó
Nhổ ngà rất khốn khổ,
Ngay trong lúc đau đớn
Tâm hướng đến Bồ-đề
Cầu được quả Tối thắng
Ý quyết không thoái chuyển.

Lại có Thiên thần nói với vị trời kia:

– Bồ-tát như vậy, nhất định không thoái chuyển!

Thiên thần lại nói kệ:

Biết ngài nhổ ngà khổ
Thường nhớ ở địa ngục.

Nhổ ngà xong, voi chúa đứng im lặng. Bấy giờ người thợ săn suy nghĩ: “Ngài nhổ ngà thả xuống đất có hối tiếc hay không, sao không cho tôi?” Biết tâm niệm người thợ săn, voi chúa dùng lời an ủi nói kệ:

Ngà như hoa sen đỏ
Đầu kia như ngó sen
Sáu ngà cho người hết
Tối thượng trong các ngà.
Để cho ông an vui
Đợi chút, mong tâm tôi
Lần lần hết đau đớn
Để tôi đối với ông
Có tín tâm kính trọng.
Giả sử ý ông nói
Tôi là người rất ác
Sát, đạo, dâm, dối ông
Lừa dối đầy bất thiện
Nghe tôi nói ý ông:
Ông làm nhiều việc ác
Cung tên nhọn hại tâm
Tôi đều quên không nhớ
Chỉ kính nhớ ca-sa
Thấy được tâm kính tín
Người cho và người nhận
Thanh tịnh hay cấu uế
Nay tôi là thí chủ
Thảy đầy đủ thanh tịnh.
Đợi tôi được chánh niệm
Để quả báo rộng lớn
Mới bố thí cho ông.

Lúc ấy, voi chúa nói với người thợ săn:

– Ca-sa này là biểu tượng ly dục. Thấy nó thì tâm tôi cung kính tôn trọng.

Voi chúa dùng vòi nâng lấy ngà trao cho người thợ săn rồi nói kệ:

Bây giờ tôi nói thật
Tên độc bắn thân tôi
Không có chút oán hận
Gây ác báo cho ông.
Do nhân nói thật này
Mau chóng chứng Bồ-đề
Độ thoát các chúng sinh
Các khổ não như thế.

Nói kệ xong, voi chúa đưa ngà cho người thợ săn.

Do nhân duyên gì mà dẫn ví dụ này? Vô lượng trăm ngàn thân trong quá khứ, Đức Thế Tôn thường bố thí những thứ khó xả bỏ như thế, bổn nguyện là muốn thành tựu được kết quả. Ngài muốn làm cho chúng sinh đang chịu khổ não đạt được đạo lý căn bản, muốn làm cho con người giải thoát, tự giữ thanh tịnh, tâm sinh kính tín cho nên dẫn ví dụ cao đẹp này.

Chương 70

Vì các chúng sinh nên bậc Bồ-tát Đại nhân không hề tiếc thân mạng.

Tôi từng nghe:

Trong núi Tuyết có hai con nai chúa, mỗi con thống lãnh một đàn nai năm trăm con ăn cỏ ở trên núi.

Bấy giờ, trong thành Ba-la-nại có vua Phạm- ma-đạt đến núi tuyết, sai người giăng lưới bao vây nai.

Lúc ấy đàn nai đều lọt vào vòng vây không thể làm cách nào để thoát thân, cho nên không có một con nai nào thoát được.

Bấy giờ nai chúa có bộ lông sặc sỡ nhiều màu sắc, suy nghĩ: “Ta phải tìm cách nào để làm cho đàn nai thoát khỏi nạn này”. Rồi voi chúa lại nghĩ: “Không có cách gì tính được nữa, chỉ còn đến gặp ngay đức vua”. Nghĩ xong, nai chúa đi thẳng đến chỗ vua.

Đức vua trông thấy liền ra lệnh cho tả hữu của mình phải cẩn thận, không được làm hại, để nó tự ý đi đến. Nai chúa yết kiến đức vua rồi thưa:

– Tâu đại vương, xin ngài chớ nên vì việc vui chơi mà giết hại đàn nai để làm thú vui. Cúi mong ngài thương xót, chớ nên làm việc này! Hãy phóng thích đàn nai, đừng làm hại chúng!

Đức vua nói:

– Trẫm cần ăn thịt nai. Nai chúa thưa:

– Tâu đại vương, nếu ngài cần thịt, mỗi ngày tôi sẽ dâng lên một con, còn như ngài giết sạch thì chắc chắn sẽ sình thối không để lâu được. Một ngày lấy một con thì nai ngày càng thêm nhiều, sẽ không thiếu thịt cho ngài dùng.

Đức vua liền bằng lòng. Lúc ấy nai chúa Bồ-tát nói với nai chúa Đề-bà-đạt-đa:

Bây giờ mỗi ngày tôi và ngài dâng nộp một con nai để cung cấp thịt cho đức vua dùng. Hôm nay tôi dâng nộp một con, ngày mai đến lượt ngài dâng một con.

Cả hai cùng giao ước thay nhau dâng nộp nai được khá lâu.

Sau đó, vào một hôm, nai chúa Đề-bà-đạt-đa dâng nộp một con nai cái có thai sắp sinh. Nó đến nai chúa Đề-bà-đạt-đa cầu xin tha mạng và thưa:

– Thưa ngài, bây giờ thân tôi có chết cũng không dám từ chối. Chỉ cần đợi tôi sinh xong, dù có chết, cũng không hối tiếc!

Không nghe lời nai cái phân trần, nai chúa tức giận quát:

– Bây giờ, ngươi phải đi thôi! Đâu có ai chịu thay ngươi!

Bị nai chúa tức giận trách mắng, nai cái suy nghĩ: “Nai chúa đàn bên kia rất Từ bi, ta nên đến đó xin cứu mạng cho con”.

Nghĩ xong, nó đi đến chỗ nai chúa Bồ-tát quỳ xuống trình bày đầy đủ lại mọi việc và nói kệ:

Không ai cứu giúp con
Cúi xin ngài cứu giúp
Có rất nhiều chúng sinh
Nhưng riêng con sợ hãi.
Xin rủ lòng thương xót
Cứu con khỏi nạn khổ
Con không nơi nương tựa
Đến đây quy y ngài.
Ngài thường làm lợi ích
An vui cho chúng sinh
Nếu bây giờ con chết
Mẹ con không chu toàn
Xin cứu giúp thai nhi
Để một mạng sống sót.

Nghe kệ xong, nai chúa Bồ-tát hỏi nai cái:

– Ngươi đến chúa đàn ngươi trình bày mọi việc chưa?

Nai cái thưa:

– Con đã đem mọi việc trình bày nhưng ngài ấy không chịu nghe, còn tức giận trách mắng: “Ai thay thế cho ngươi?”

Nó nói kệ:

Bị chúa đàn mắng giận
Không có lòng thương xót
Ra lệnh mau đến vua
“Nào có ai thay ngươi”.
Nay con quy y ngài
Xin thương xót thân này!
Vì thế làm cho con
Khỏi mất đi một mạng.

Nai chúa Bồ-tát nói với nai cái:

– Ngươi chớ nên buồn rầu! Ta chấp nhận lời thỉnh cầu của ngươi. Hãy để ta suy nghĩ.

Nghe xong, nai cái vui mừng hớn hở trở về đàn của mình. Nai chúa Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu sai con khác đi thì nó sẽ nói: “Ngài còn chưa chịu đi, làm sao sai con”. Nghĩ xong tâm liền khai ngộ, nai chúa nói kệ:

Bây giờ ta tự mình
Đến nhà bếp của vua
Ta đối với chúng sinh
Nguyện nhất định cứu giúp.
Nếu ta đem thân mình
Đổi mạng cho kiến mối
Làm được việc như thế
Còn có lợi ích lớn.
Sở dĩ làm súc sinh
Chính là vì cứu giúp
Giả sử được thế mạng
Bỏ thân như cỏ rác.

Nói kệ xong, nai chúa lập tức triệu tập đàn nai của mình thống lãnh, rồi bảo:

– Ta đối với các ngươi có gì không đúng, cho ta sám hối. Ta muốn đem thân này thay mạng cho nai cái sắp dâng thịt của nó cho đầu bếp đức vua.

Nghe nai chúa nói như vậy, cả đàn đều buồn bã quyến luyến thưa:

Xin ngài chớ nên đi! Chúng tôi sẽ đi thay ngài.

Nai chúa đáp:

– Vì ta lập nguyện nên phải tự đích thân đi. Nếu sai ai khác, chắc chắn các ngươi sẽ buồn khổ. Hiện giờ, ta hoan hỷ không có điều gì buồn bực.

Nai chúa nói kệ:

Không ly dục xả thân
Nhất định còn tái sinh
Nay ta vì cứu giúp
Xả thân sinh nơi tốt
Ta biết hình hài này
Chắc chắc có hư hoại
Nay vì việc cứu giúp
Chỉ vì pháp xả thân
Được lấy pháp làm nhân
Làm sao không vui mừng.

Lúc ấy cả đàn nai phân trần mọi thứ ví dụ để can gián nhưng chỉ hoài công phí sức, không thể làm cho nai chúa đổi ý. Khi nai chúa đi đến nhà bếp đức vua để nộp mình thì cả đàn nai của mình thống lãnh và cả đàn nai của Đề-bà-đạt-đa đều theo đến Ba-la-nại. Ra khỏi rừng, nai chúa từ giã cả hai đàn nai và bảo chúng trở về, chỉ còn lại một mình đi đến nhà bếp đức vua.

Trước đó, người trông coi nhà bếp đức vua đã gặp nai chúa nên biết ngay là nó. Ông ta đến tâu với đức vua:

Tâu đại vương, nai chúa tự đến nhà bếp nộp mình.

Nghe xong, đức vua đích thân đến gặp nai chúa hỏi:

Thế nào, nai của ngươi hết sạch cả hay sao mà ngươi đích thân đến vậy?

Nai chúa thưa:

– Tâu đại vương, nhờ ngài giúp đỡ, nai của tôi càng thêm nhiều. Tôi tới đây là vì con nai cái đang mang thai, tôi muốn thay nó nộp mình.

Rồi nai chúa nói kệ:

Ý có điều mong muốn
Chưa thỏa mãn tâm ấy
Sức tôi có thể làm
Nếu không làm điều đó
Khác gì với cỏ cây?
Giả sử trong sinh tử
Bỏ thân nhơ nhớp này
Cũng hư hoại uổng thôi
Không làm chút điều lành
Thân tâm nay cũng hoại
Bỏ mình, người được cả
Ta làm được lợi lớn.

Nghe kệ xong, toàn thân rợn tóc gáy, vua Phạm-ma-đạt nói kệ:

Tôi thân người, tâm nai
Người thân nai, tâm người
Đủ công đức là người
Tàn ác là súc sinh.
Hay thay! Người có trí
Hay thay! Có dũng mãnh
Hay thay! Hay từ mẫn
Cứu giúp các chúng sinh.
Ngươi hiện thân như vậy
Tức là chỉ dạy ta
Nay ngươi hãy trở về
Cùng cả hai đàn nai
Chớ có tâm lo sợ
Nay ta phát thệ nguyện
Vĩnh viễn không còn ăn
Tất cả loại thịt nai.

Bấy giờ nai chúa thưa với đức vua:

– Tâu đại vương, nếu ngài rủ lòng thương tưởng thì hãy đến chỗ đàn nai đích thân an ủi, làm chúng không sợ hãi.

Nghe xong, đức vua đích thân vào rừng, đến chỗ đàn nai ở, ban bố sự an vui cho chúng:

Tất cả các đàn nai
Ở trong nước của ta
Ta nhất định bảo hộ
Chớ có nên sợ hãi!
Rừng cây này của ta
Cho đến các ao suối
Đều đem cho đàn nai
Lại cấm không giết hại
Cho nên gọi rừng này
Là rừng thí cho nai.

QUYỂN 15

Chương 71

Dù cho đất nước rộng lớn, có đầy đủ mọi thứ, nhưng người phân biệt rõ ràng biết được khổ não của nó cũng lìa bỏ tránh xa.

Tôi từng nghe:

Thuở xưa, khi tu hạnh Bồ-tát, Đức Thế Tôn làm vua một nước lớn. Tất cả những người nghèo nàn đến xin ăn, đức vua đều bố thí. Với trí tuệ thông minh, lại ở vào ngôi vị vua chúa, ngài muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh nên hay cứu giúp người bị nạn khổ.

Khi vua nước láng giềng đem binh đến giao chiến, thì ngài suy nghĩ: “Đắm trước năm dục lạc không thể điều phục tâm, sáu căn khó thỏa mãn, của cải quá nhiều, ta cần phải liệu tính để giúp đỡ họ. Vì của cải mà có đấu tranh, nguyện xả bỏ việc này để không còn đấu tranh nữa. Ta nên tu tập pháp tùy thân thù thắng”.

Vị ấy nói kệ:

Khi quán sát rõ ràng
Bậc trí nên phân biệt
Làm việc không suy nghĩ
Sau hối hận không kịp.

Thấy rõ việc đó là sai thì biết phải làm gì, ngài nói kệ:

Dục như cầm đuốc cỏ
Như thịt bị chúng dành
Đắm dục làm thương tổn
Hại hơn cả hai đời.
Bậc trí mau tránh xa
Cõi nước, nhiều của cải
Nhiều của báu như thế
Rốt cuộc phải xả bỏ,
Thà bây giờ chịu khổ
Nguyện không ở đời sau
Chịu khổ lâu dài này.
So thế lực của ta
Chiến thắng được quân địch
Hiện tại biết kết quả
Dù được tiếng tốt đẹp
Sau chịu khổ tổn hại.
Dù biết mình tài giỏi
Vẫn nguyện giúp quân địch
Nếu không giúp được họ
Sau nhất định hại mình.

Nghĩ xong, vị quốc vương Bồ-tát bỏ vào rừng. Gặp một ông lão Bà-la-môn đi lạc vào đó. Bồ-tát hỏi:

– Này ông lão, vì sao ông vào rừng này?

Ông lão Bà-la-môn đáp:

– Tôi muốn yết kiến đức vua. Bồ-tát hỏi:

– Vì sao ông muốn yết kiến đức vua?

Bà-la-môn đáp:

– Hiện nay tôi nghèo khổ, lại mắc nhiều nợ nần, nghe đức vua hay bố thí nên đến xin về trả nợ để không còn nghèo nàn nữa! Tôi không nơi nương tựa, chỉ hy vọng đức vua ban ân cứu giúp.

Bồ-tát nói:

– Này ông lão, ông hãy về đi! Ở đây không có đức vua, sao ông thành khẩn tha thiết đến thế?

Nghe xong, vị Bà-la-môn buồn bã quỵ xuống đất. Bồ-tát thấy ông ta như vậy rất thương xót. Ngài suy nghĩ rồi nói kệ:

Tôi vì cứu giúp người
Bỏ hết, việc khó bỏ
Bây giờ tôi hết sạch
Lấy vật gì để cho?
Nay tôi vì người ấy
Xả bỏ thân mạng mình.

Nói kệ xong, Bồ-tát đỡ Bà-la-môn dậy rồi bảo ông ta:

– Ông chớ nên buồn rầu! Tôi sẽ làm cho ông có được của cải.

Vị Bà-la-môn nghe như thế thì trong lòng rất vui mừng. Bồ-tát tức thời lấy cỏ se thành sợi dây rồi đưa cho Bà-la-môn:

– Cho tất cả, thân ta cũng thế! Ngài nói kệ:

Vua kia chưa bắt ta
Nhất định không an tâm
Lão nên lấy dây này
Trói hai tay ta lại
Dẫn đến chỗ vua kia
Làm ông ta vui mừng
Sẽ cho lão châu báu
Vàng bạc các tài vật
Lão sẽ được giàu to
Vua kia lại vui mừng.
Có sống ắt có chết
Mạng sống hợp rồi tan
Do cứu giúp khổ nạn
Nên tổn hoại thân mạng
Bậc trí chết như vậy
Gọi là mang anh lạc.

Nghe kệ xong, vị Bà-la-môn rất vui mừng liền lấy dây trói Bồ-tát lại, dẫn đến vị vua kia.

Đức vua kia trông thấy liền nhìn Bà-la-môn nói kệ:

Đây là người nào vậy?
Sắc thân như núi vàng
Oai quang rất rực rỡ
Giống mặt trời chiếu khắp
Diện mạo rất đoan nghiêm
Ai thấy cũng vui mừng.
Người phước đức như vậy
Đáng làm chủ đại địa
Bấy giờ bị bắt giữ
Khổ sở đến như thế.
Ta ngồi tòa Sư tử
Thật là đáng xấu hổ
Người kia đáng làm vua
Còn ta chẳng đáng làm
Ta không kềm chế được
Không xứng ở ngôi vua.

Nghe kệ xong, vị Bà-la-môn tâu với đức vua:

– Tâu đại vương, đây là vua oán địch của ngài. Đức vua hỏi Bà-la-môn:

– Ai trói người này?

Bà-la-môn thưa:

– Tâu đại vương, người đó đích thật do con trói.

Vua nói:

– Không lý nào người này bị ngươi trói? Ngươi nói dối!

Đức vua nói kệ:

Người kia to như voi
Sức lực rất hùng tráng
Thân thể ngươi yếu ớt
Lại không có binh mã
Làm sao trói được người?
Việc này không thể tin
Ngươi hãy nói thành thật
Chớ có nói dối trá!

Bà-la-môn tâu trình đầy đủ mọi việc rồi nói kệ:

Thấy tôi hết hy vọng
Người kia liền tự trói
Vì Từ bi giúp tôi
Ông ta tự trói mình.
Trượng phu tốt như thế
Danh vang khắp mười phương
Giống như đốt đuốc lớn
Chiếu sáng khắp tất cả.
Người hung ác ngu si
Giết hết không còn gì
Khi đuốc lớn thắp sáng
Hay diệt trừ tối tăm.

Nghe xong, đức vua kinh sợ đứng dậy chắp tay thưa:

– Lành thay! Lành thay! Bậc Trượng phu toàn thiện. Vì cứu giúp người khác mà ngài làm như vậy.

Và vị ấy nói kệ:

Đã nghe về đại vương
Danh hiệu là La-xà
Lợi ích cho thế gian
Cho nên gọi La-xà.
Ngài cần phải làm vua
Giữ gìn cho đại địa
Cúi xin ngài cho tôi
Sám hối các tội lỗi.
Tôi là trẻ dại khờ
Kẻ hèn mọn vô trí
Ngài hãy lên làm vua
Tôi rời khỏi nước này.
Ngài làm cho chúng sinh
Tất cả được an vui
Nếu người khác làm vua
Gây khổ não thế gian.

Đức vua kia trao lại ngôi vị cho Bồ-tát rồi trở về nước mình.

Chương 72

Vị nào tu tạo phước nghiệp thanh tịnh, xứng đáng được thiết lễ cúng dường. Vì vậy, nên siêng tu phước nghiệp.

Tôi từng nghe:

Vua Ô-việt-kỳ nước Thạch thất, cùng nhân dân cả nước thiết lễ hội cúng Phật. Có một phụ nữ ở trong cửa sổ nhìn chăm chú Đức Thế Tôn. Trông thấy cô gái đoan trang xinh đẹp, đức vua mở chuỗi anh lạc, sai quan thị vệ đem đến ban tặng cô ta.

Quan tả hữu tâu với vua:

– Tâu đại vương, cô gái kia là phụ nữ trong nước ta, nếu ngài ưa thích thì gọi đến, chứ cần gì tặng ngọc để người chê cười.

Nghe lời ấy, đức vua bịt hai tai lại rồi nói:

– Trời ơi! Thật quá ghê tởm! Tại sao ngươi dám nói những lời này với ta?

Và vua nói kệ:

Ta thệ lập nguyện này
Nếu có tâm ý xấu
Khiến ta thành đại ác
Ta không vì nhiễm trước
Đem ngọc tặng cô kia.

Hãy nghe ý ta nói:

Nghiệp làm chủ, tự tại
Bậc nghiệp tối thắng nói
Không phải chủ tể làm
Chỉ là nghiệp làm ra.
Tâm tạo ra chủ tể
Nghiệp lành Phật ngợi khen
Như thế đến sắc đẹp
Hoàn toàn không có ngã
Chỉ nghiệp lành làm ra.
Nghiệp lành, ta cung kính
Nghiệp dữ, ta lánh xa
Quá khứ tạo nghiệp lành
Quả báo ngay hiện tại.
Ta đem xâu chuỗi ngọc
Nhiều của báu trang nghiêm
Đeo vào cổ nhiều vòng
Chuỗi ngọc trắng như tuyết.
Ta nhờ đức đời trước
Không đắm nhiễm sắc dục
Nếu biết nghiệp lành dữ
Làm sao còn đắm sắc?
Tránh xa không muốn thấy
Huống gì lại đắm nhiễm.
Thà chịu đói khát chết
Không tham lam phi pháp,
Thà nhảy vào đống lửa
Không làm việc gian tà
Nếu ta đắm nhiễm ái
Thân này hoặc thân sau
Chịu khổ nhọc vô lượng.

Chương 73

Người nào có nghiệp lực lành, thì tự nhiên thọ nghiệp báo tốt. Dù có sức lực của vua chúa cũng không bằng nghiệp lực được quả báo tốt. Vì thế, nên tu nghiệp lành.

Tôi từng nghe:

Khi ngủ nghỉ vào ban ngày, vua Ưu-duyệt-già có hai nội quan, một người hầu phía trên đầu, còn một người hầu dưới chân, cầm quạt phe phẩy. Họ bàn với nhau:

– Hiện nay chúng ta được vua thương tưởng đến là vì lý do gì?

Một người tự cho là nghiệp lực của mình, còn một người tự cho là nhờ oai lực của vua. Do việc này mà họ hầu hạ cung phụng đức vua. Vì thường nghe pháp, nên cả hai cùng nhau luận bàn giải thích ý nghĩa pháp. Họ nói kệ:

Như trâu dữ lội nước
Dẫn đúng thì theo đúng
Vua hiền hành chánh pháp
Người theo cũng như thế.

Do tranh giành lý lẽ, nên hai người to tiếng với nhau.

Người thứ nhất nói:

– Tôi sống nhờ vào đức vua. Người thứ hai nói:

– Còn tôi nhờ vào nghiệp lực.

Nghe ồn ào, đức vua thức giấc hỏi họ:

– Tại sao ồn ào vậy?

Vua lại nghe họ tranh lý lẽ. Dù biết chưa trừ hết ngã kiến, nhưng cũng muốn giúp kẻ tâng bốc mình, trong lòng không vui, vua đọc kệ hỏi người nói “nhờ vào nghiệp lực”:

Sống nhờ vào nước ta
Tự cho là nghiệp lực
Vậy ta xem thử ngươi
Là sức của ai đây?

Nói kệ xong, đức vua đi đến gặp phu nhân, nói:

– Này ái khanh, bây giờ trẫm sai người qua bên khanh, khanh hãy phục sức thật xinh đẹp như phu nhân của Đế Thích.

Phu nhân thưa:

– Thần thiếp xin vâng lệnh.

Khi ấy vua trao nước bồ đào cho người hầu nói “sống nhờ vua” đem đến ban thưởng cho hoàng hậu. Đuổi người hầu nói “sống nhờ vào nghiệp lực” đi rồi, đức vua suy nghĩ: “Nó sẽ phải hối hận!”. Vua suy nghĩ chưa bao lâu thì người nói “nhờ nghiệp lực” mặc y phục đẹp đẽ đến bên mình. Thấy ông ta, vua hết sức kinh ngạc nói kệ:

Ta tự mình lầm lẫn
Cho ngươi chút nước thừa
Bị nghiệp lực của ngươi
Cưỡng đoạt đem đến đây
Hay có thể thân hậu
Cho nhà ngươi đem đi
Hoặc là phu nhân giận
Đoạt kia cho ngươi chăng?
Có thể ta nhầm lẫn
Đưa cho hắn ta sao?
Hay hắn mê hoặc ta
Làm cho ta rối loạn?

Nói kệ xong, đức vua hỏi người kia:

– Hãy nói thật cho ta biết! Nhờ nghiệp lực nào, chứ tại sao ta cố ý không cho mà ngươi vẫn được.

Người kia tâu:

– Tâu đại vương, thần nhờ vào nghiệp lực mà được.

Người kia đem mọi việc tâu đầy đủ lên đức vua:

– Tâu đại vương, người được ngài sai vừa ra khỏi cửa, bỗng nhiên bị chảy máu cam nên liền đưa nước này nhờ bề tôi đem đến phu nhân và được lệnh bà ban cho y phục này.

Nghe xong, vua nói kệ:

Nghiệp báo như bóng vang
Như tốt đẹp của ngươi
Ngươi nói nhờ nghiệp lực
Điều này đáng tin cậy.
Do năng lực nghe pháp
Lời nói hợp đạo lý
Ngươi nói do nghiệp lực
Lời này quả hiệu nghiệm.
Ta quá ư tự phụ
Ngươi nhờ nghiệp lực tốt
Phật dạy: nghiệp lực mạnh
Lời này đúng hoàn toàn.
Phật, Bậc Điều Ngự giỏi
Lành thay cho nghiệp lực!
Hay phá hoại sức vua
Mười phương Phật Thế Tôn
Cũng nói tùy nghiệp lực.
Nay ngươi nhờ nghiệp lực
Để tự trang nghiêm thân
Chẳng cần sức lực ta.

Chương 74

Tuy có oán thù với người trí nhưng vẫn được lợi ích. Thế nên, dù bị người trí oán thù, vẫn thường xuyên gần gũi.

Tôi từng nghe:

Nước Ma-đột-la có vị Bà-la-môn trí tuệ thông minh, nhưng không tin Phật pháp, cũng không gần gũi các thầy Tỳ-kheo. Trước đó vị Bà-la-môn này xích mích với vị Bà-la-môn khác, nên ông tức giận đến Tăng phường nói dối:

– Thưa các Đại đức, ngày mai ở nhà vị Bà-la- môn kia có mở đại hội thiết lễ cúng dường, xin thỉnh các thầy Tỳ-kheo đến dự!

Vì ông muốn sáng mai các thầy Tỳ-kheo đến nhà vị Bà-la-môn kia mà không được ăn uống gì cả để tiếng xấu của ông ấy đồn khắp trong nước.

Sáng sớm hôm sau, các thầy Tỳ-kheo đến nhà vị Bà-la-môn kia nói với người giữ cổng:

– Chủ nhân của ông mời chúng tôi đến cúng dường, ông hãy vào thưa lại.

Người giữ cổng vào thưa lại với chủ nhân.

– Thưa ông, hiện giờ ở ngoài cổng có các thầy Tỳ-kheo nói ông mời nên họ đến.

Người chủ nghe xong suy nghĩ: “Vì lý do gì xảy ra sự việc như thế? Hay là Bà-la-môn có thù oán với ta làm việc này? Bây giờ ta phải cho người vào thành đi chợ mau sắm đầy đủ các thứ để cúng dường các thầy Tỳ-kheo”. Nghĩ xong, ông ta lập tức cho người mời các thầy Tỳ-kheo vào nhà an tọa rồi dọn thức ăn cúng dường.

Các thầy Tỳ-kheo thọ thực xong nói với thí chủ:

– Bây giờ ông hãy ngồi xuống! Theo pháp Tỳ- kheo của chúng tôi, sau khi thọ thực xong phải thuyết pháp cho thí chủ. Dù ông không tin nhưng theo pháp Phật là phải như thế.

Lúc ấy vị chủ nhân lấy ghế nhỏ ngồi trước vị Thượng tọa và được nghe thuyết pháp về bố thí, luận bàn về giới, sinh cõi trời, dục là bất tịnh, xuất thế là an vui… cho đến nói pháp bốn Chân đế.

Trong đời quá khứ, vị Bà-la-môn này có gieo trồng căn lành, nên ngay trên tòa ngồi, ngộ được bốn Chân đế, đắc quả Tu-đà-hoàn. Vị ấy nói kệ:

Than ôi! Sức ngu si
Hay làm hại Chánh kiến
Người ngu không phân biệt
Báu tưởng chẳng phải báu.
Nay con được thắng lợi
Biết phân biệt Tam bảo
Thật sự là của báu
Phật pháp là Thánh chúng.
Con đã thấy rõ ràng
Đóng bít ba đường ác
Thích, Phạm và chư Thiên
Không thể nào đạt được.
Nay con được đầy đủ
Giờ đây Bà-la-môn
Được gọi là Phạm thiên
Sẽ đạt được mục đích
Giải thoát không còn chết
Nay con mới đạt được
Thắng pháp Bà-la-môn.
Bản tánh con thay đổi
Hôm nay thật thay đổi
Hôm nay mới đạt được
Pháp thắng diệu Tỷ-đà.
Giờ đây được vô lậu
Vượt qua khỏi Tỷ-đà
Nay con chân thật là
Cúng tế ruộng phước lớn.
Con sẽ siêng cúng lớn
Không phân biệt rõ ràng
Có cúng hay không cúng.
Từ ngày nay trở đi
Sẽ cúng Thiên Trung Thiên
Đa-đà A-già-đà
Nói tóm lại rằng là
Ngày nay mới được lợi
Đạt kết quả thân người.
Từ ngày nay trở đi
Sẽ theo lời Phật dạy
Nhất định không cầu xin
Các trời thần nào khác.
Nay con được học pháp
Tùy thuận theo chánh đạo
Pháp và tùy thuận pháp
Tôi ắt được quả ấy.
Con nay quy mạng lễ
Đời trước nhàm việc ác
Từng tu pháp, hướng pháp
Nay được quả lợi ích
Gần gũi Thiện tri thức
Pháp lợi tự nhiên thành.
Nếu con không gần gũi
Đệ tử Đấng Đại Bi
Mãi rơi vào tà kiến
Luân hồi ba đường ác.
Không có Bà-la-môn
Là kẻ thù ghét con
Con không được gần gũi
Thánh chúng như thế này.
Bên ngoài giống bạn xấu
Nhưng thật là bạn tốt
Ân quá hơn cha mẹ
Cho đến các quyến thuộc.
Nhờ Bà-la-môn này
Chúng Tăng đến nhà con
Tưới xuống mưa cam lộ
Mầm tốt đều được sống
Mưa pháp thấm ướt thêm
Rưới đất bụi tâm con
Bụi đất đã sạch sẽ
Ngộ được pháp chân thật.
Cho nên thế gian nói
Nhờ ghét được của cải
Tự nghĩ được lợi lớn
Liền thọ Tam quy y
Đãi các món ăn ngon
Cho Bà-la-môn kia.

Chương 75

Nếu người nào thuần thành đem của cải bố thí, giống như gia sản được giàu có thêm. Do biết việc này, nên hết lòng bố thí.

Tôi từng nghe:

Vợ chồng người nước Kế tân nằm trên nệm cỏ. Vào lúc trời sắp sáng, người chồng nảy sinh ý niệm lành: “Trong nước này, vô lượng trăm ngàn người đều tu phước cúng dường chúng Tăng, còn chúng ta nghèo khổ gặp được bến báu này không bám chút ít thì đến đời sau nghèo khổ vô cùng. Bây giờ ta không tạo phước thì tương lai sẽ khổ mãi”.

Nghĩ xong, người chồng buồn bã than thở rồi khóc lóc rơi lệ trên tay người vợ. Người vợ liền hỏi chồng:

– Việc gì làm chàng không vui vậy? Và nói kệ:

Vì sao quá buồn thảm
Chàng luôn luôn than thở
Nước mắt ướt tay em
Giống như lấy nước nhiễu?
Người chồng nói kệ đáp:
Tôi không có chút thiện
Để mang đến đời sau
Suy nghĩ việc này rồi
Cho nên tự buồn than.
Đời có ruộng phước lành
Tôi không hạt giống thiện
Thân này hoặc thân sau
Đói khổ khó lường được.
Đời trước không gieo giống
Đời này rất nghèo khổ
Nay nếu không gieo nhân
Tương lai không có quả.

Nghe kệ xong, người vợ nói với chồng:

– Chàng chớ nên buồn rầu nữa! Em là vợ chàng, bản thân lệ thuộc vào chàng. Nếu bán thân em, chàng sẽ có tiền của thì được mãn nguyện.

Nghe xong, người chồng vui mừng, nét mặt hớn hở bảo vợ:

– Nếu không có em, ta không thể nào sống được!

Rồi nói kệ:

Thân tôi và thân em
Giống như đôi uyên ương
Có thể cùng bán thân
Có tiền đem làm phúc.

Lúc ấy hai vợ chồng đến nhà trưởng giả thưa:

– Thưa trưởng giả, ông làm ơn cho chúng tôi vay vàng! Nếu sau một tháng không trả hết thì hai vợ chồng tôi sẽ thuộc về ông. Sau một tháng, nếu không trả hết số vàng chúng tôi sẽ làm phận nô tỳ. Trong vòng một tháng, chúng tôi có thể cúng dường các Tỳ-kheo Tăng.

Trưởng giả liền đưa vàng cho họ. Nhận được vàng, họ nói với nhau:

– Chúng ta có thể vào chùa Ly việt cúng dường chúng Tăng.

Người vợ hỏi chồng:

– Ngày nào cúng dường? Người chồng đáp:

– Ngày mười lăm.

Người vợ lại hỏi:

– Tại sao lại ngày mười lăm? Bây giờ người chồng nói kệ đáp:

Thế gian ngày mười lăm
Các Thiên vương Câu-tỳ
Đi xem xét thế gian
Đây là lời Phật dạy
Muốn cho người trời biết
Thế nên ngày mười lăm.

Đến ngày mười ba, hai vợ chồng tận lực chuẩn bị đầy đủ thức ăn đem đến chùa thưa với vị tri sự:

– Thưa Đại đức, sáng ngày mười lăm xin Đại đức giữ chúng Tăng lại chùa và nhận lời mời của con.

Vị tri sự đáp:

– Được.

Ngày mười bốn, hai vợ chồng ở lại đêm trong chùa, nói kệ để tự khuyên bảo nhau:

Tự khuyên nhủ thân mình
Chớ nên sợ mệt nhọc
Nay mình được tự tại
Phải nên làm hết sức
Sau bị người quản thúc
Hành động không tự do
Chỉ uổng công khổ nhọc
Chẳng có lợi ích gì.

Nói kệ xong, suốt đêm hai vợ chồng không ngủ được, cứ lo nấu nướng thức ăn ngon để đến sáng mai là hoàn tất. Người chồng nói với người vợ:

– May quá! Đã xong hết rồi, chúng ta được mãn nguyện trong ngày tốt này, bán có một thân này mà trong trăm ngàn thân thường được giàu có.

Lúc ấy, có vị vua một nước nhỏ dọn các thức ăn uống rồi đến chùa thưa:

– Bạch chư Đại đức, cúi xin chư Tăng nhận sự cúng dường của con!

Vị tri sự nói:

– Thưa đại vương, vừa rồi chư Tăng chúng tôi có nhận lời mời của người khác rồi. Xin ngài đợi ngày khác!

Đức vua ân cần mời thỉnh:

– Thưa Đại đức, con có nhiều việc cần gấp, xin Đại đức nhận lời mời của con!

Chư Tăng im lặng không trả lời. Đức vua nói với vợ chồng người kia:

– Hôm nay, đích thân trẫm đánh kiền chùy.

Trẫm sẽ bồi thường lại thức ăn ngươi đã làm.

Nghe xong, hai vợ chồng hướng đến đức vua lạy sát đất rồi thưa:

Tâu đại vương, vợ chồng con nghèo khổ không có gì cả, phải tự bán thân mình để thiết lễ cúng dường. Suốt đêm lo sắp xếp nấu nướng đã xong, chỉ có hôm nay được tự do cúng dường, đến ngày mai, thì chúng con bị người khác quản thúc, không còn tự do. Cúi xin ngài rủ lòng thương xót chớ nên giành ngày của chúng con!

Họ nói kệ:

Vợ chồng như uyên ương
Thiết cúng đã làm xong
Cúi xin nghĩ nhớ cho
Mai lệ thuộc người khác.
Vợ chồng thuộc người khác
Không thời gian làm phúc
Tự bán thân như thế
Chính vì muốn tu thiện

Nghe đầy đủ mọi việc, đức vua khen ngợi:

– Lành thay!

Và nói kệ:

Ngươi khéo hiểu lời Phật
Hiểu rõ ràng nhân quả
Hay đem thân giả dối
Đổi tài mạng vững chắc.
Ngươi chớ có sợ hãi
Cứ làm theo ý nguyện
Ta đem lòng thương xót
Lấy tiền của thưởng ngươi
Nay thân ngươi chịu khổ
Sau được nhiều lợi lạc.

Sau khi nói kệ xong, đức vua cho phép vợ chồng người kia cúng dường chúng Tăng và đem tài vật ban cho để đền bù lại chi phí, lại còn cấp phát tài sản để họ còn mưu sinh.

Hai vợ chồng người kia được hưởng phước báu ngay trong hiện tại, không còn thiếu thốn nữa.

Chương 76

Người nào hết lòng giữ giới dù cho mất mạng vẫn được quả báo ngay trong hiện tại.

Tôi từng nghe:

Ở thành Nan-đề-bạt-đề có hai anh em Ưu-bà- tắc đều giữ năm giới. Bấy giờ, người em bỗng nhiên bị bệnh, hông sườn đau nhức, hơi thở thoi thóp. Thầy thuốc chẩn đoán bảo phải ăn thịt chó mới giết và uống rượu mới khỏi bệnh.

Bệnh nhân thưa:

– Thịt chó có thể mua ở ngoài chợ về ăn được, còn uống rượu thì tôi xin nguyện thà bỏ thân mạng, chứ nhất định không phạm giới.

Thấy bệnh tình của em nguy cấp, người anh mua rượu rồi bảo em:

– Em à, hãy bỏ giới uống rượu để trị bệnh! Người em thưa:

– Anh à, dù bị bệnh nặng nhưng em nguyện thà bỏ thân mạng, nhất định không phạm giới để uống rượu.

Và nói kệ:

Lạ thay! Lúc sắp chết
Phá giới anh lạc ta
Dùng giới trang nghiêm thân
Không cần đồ tẩn táng.
Thân người đã khó được
Gặp giới pháp lại khó
Nguyện bỏ trăm ngàn thân
Không hủy phá cấm giới.
Vô lượng trăm ngàn kiếp
Mới gặp được giới pháp
Trong thế giới Diêm-phù
Thân người rất khó được.
Dù có được thân người
Nhưng chánh pháp khó gặp
Khi gặp được pháp bảo
Người ngu không biết giữ.
Người khéo phân biệt pháp
Việc này càng khó hơn
Giới báu vào tay tôi
Tại sao lại muốn đoạt
Chính là kẻ oán ghét
Chẳng phải quyến thuộc tôi.

Nghe kệ xong, người anh nói với em:

– Này em, anh vì tình cốt nhục nên không muốn để em chết.

Người em thưa:

Anh chẳng phải thương yêu gì cả mà chính là hại tôi.

Và nói kệ:

Tôi muốn đến nơi tốt
Phá giới làm đọa lạc
Hại tôi mới như thế
Sao nói yêu thương tôi?
Tôi siêng tu tập giới
Mới sắp bị cướp đoạt
Trong năm giới đã giữ
Giới rượu là nặng nhất
Nay muốn ép tôi phá
Chớ nên nói thương tôi.

Người anh hỏi:

– Tại sao rượu là giới căn bản? Người em nói kệ đáp lời anh:

Nếu ở trong giới cấm
Không hết lòng giữ gìn
Làm trái đạo Đại bi
Đầu cỏ có tẩm rượu
Còn không dám nếm thử
Vì thế nên tôi biết
Rượu là nhân đường ác.
Kinh dạy người tại gia
Nói ác báo của rượu
Chỉ có Phật biết rõ
Ai có thể lường được.
Phật dạy thân, miệng, ý
Ác hạnh của ba nghiệp
Riêng rượu là cội rễ
Đọa lạc trong ác hạnh.
Xưa kia Ưu-bà-di
Vì nhân duyên uống rượu
Phá bốn giới còn lại
Đây là kể hạnh ác.
Lại nói năm đại thí
Cũng là năm vô úy
Rượu là gốc phóng dật
Không uống, thoát đường ác.
Hay được tâm tin vui
Bố thí, bỏ keo kiệt
Thủ-la nghe Phật dạy
Được vô lượng lợi ích.
Tôi không có ý khác
Người muốn phá giới cấm
Nói tóm lại rằng là
Thà bỏ trăm ngàn thân
Không hủy phạm lời Phật
Thà để thân khô héo
Nhất định không uống rượu.
Giả sử hủy phạm giới
Sống được trăm ngàn năm
Không bằng giữ giới cấm
Thân bị chết tức thời.
Dẫu chắc chắn hết bệnh
Tôi vẫn không uống rượu
Huống nay chưa biết chắc
Là hết hay không hết
Tâm tôi vẫn quyết định
Trong lòng rất vui mừng.
Liền thấy được Chân đế
Bệnh tật liền tiêu trừ.

Chương 77

Ai tin lời Đức Phật thì cho các luận ngoại đạo giống như lời nói của đứa bé khờ khạo điên cuồng. Thế nên, cần siêng năng học luận Phật pháp.

Tôi từng nghe:

Có một nước tên là Thích-già-la, vua của nước ấy là Lô-đầu-đà-ma thường xuyên đến chùa nghe pháp. Lúc Pháp sư nói về lỗi lầm uống rượu, đức vua liền vặn hỏi Pháp sư trên tòa cao:

– Bạch Đại đức, người nào cho người khác uống rượu sẽ mắc quả báo si cuồng, nhưng bây giờ có nhiều người uống rượu vẫn không mắc quả báo si cuồng?

Pháp sư chỉ các ngoại đạo, đức vua hiểu ý khen ngợi:

– Hay thay! Hay thay!

Lúc ấy, có ngoại đạo bàn tán với nhau:

– Pháp sư kia không hiểu biết gì cả, cứ chỉ không không mà thôi. Đức vua bị Pháp sư lừa bịp, đã không hiểu còn khen suông “Hay thay!”.

Không ai có thể giải đáp câu hỏi này nhưng trong hội chúng cũng có người rất thông minh, nói kệ hỏi vì sao không giải đáp cho đức vua:

Pháp sư tài hùng biện
Khéo hay đáp nghĩa này
Vì thương xót các ngươi
Giữ gìn nên không nói.

Bọn ngoại đạo thưa:

– Tâu đại vương, ngài cho Pháp sư này lừa bịp hay thông suốt đạo lý?

Vua bảo:

– Điều mà ta hiểu có ý khác. Vua thưa với Pháp sư:

– Bạch Đại đức, xin ngài giải thích rõ ràng ý nghĩa vừa rồi.

Vị Pháp sư đáp:

– Tâu đại vương, sở dĩ tôi chỉ ngoại đạo vì họ có tư tưởng khác nhau nên tâm điên đảo. Thế nên gọi là người cuồng si.

Vị Pháp sư liền nói kệ:

Không hẳn quỉ nhập thân
Gọi là người điên cuồng
Tâm tà kiến Dạ-xoa
Mới chính là điên cuồng,
Người cuồng si lầm lỗi
Không hiểu biết việc ấy.
Các ngươi có lỗi cuồng
Bậc Nhất Thiết Trí dạy:
Ngươi trái lời Chủng trí
Chạy theo các tà kiến.
Với thần biến hiện thấy
Làm nhục đại Tiên kia
Nói lỗi họ cấm ngăn
Điên cuồng trước đã đúng
Tại vì sao ta nói?
Gieo trăm ngàn nhân cuồng
Vì sao nói rõ ràng?
Nhảy vực, đêm vào lửa
Tự rơi từ đỉnh cao
Bỏ bố thí, trì giới
Theo mê tà cuồng điên
Không tu theo chánh hạnh,
Cuồng mê nhảy vào lửa
Làm hư hoại tịnh hạnh,
Uống, tắm nước sông Hằng
Gọi là theo chánh hạnh.
Bất tịnh và được mất
Có ý nghĩa thế nào?
Bán thịt, gom điều ác
Ba loại Thần túc biến
Ngoại trừ ba loại này
Lại cũng có thần biến.
Chỉ có mười hai pháp
Ngoài ra không có ngã
Hiện thấy Tiên thần biến
Lại thấy pháp mười ba.
Việc điên cuồng như thế
Kể ra có cả trăm
Hiện thấy nhảy vào lửa
Tự rơi từ đỉnh cao
Bởi vì muốn sinh Thiên.
Đó chỉ là tà kiến
Chẳng phải nhân sinh Thiên
Thí, giới khéo điều tâm
Tức là nhân sinh Thiên
Bán muối gây ác lớn
Tắm sông có thiện lớn
Như thế có nghĩa gì?
Được gọi là thiện ác
Bà-la-môn bán thịt
Là bị mất pháp rồi
Cầm đao cũng mất pháp
Nếu lại còn bán thịt
Đủ ba mươi sáu cân
Bại hoại Bà-la-môn
La sát đến ăn mật
Đều gọi là mất pháp
Thấy La-sát nếm mật
Cả hai đều có tội.
Dùng cân lừa dối người
Thiếu hụt gọi là trộm
Bán thịt thành sát sinh
Lúa, dê đều có mạng
Ăn lúa không phải giết
Dê, lúa đều nên ăn
Vì sao được ăn lúa
Mà không được ăn dê?
Các ngươi nói tự giết
Nhất định không sinh Thiên
Nhảy núi gieo xuống vực
Lại nói được sinh Thiên
Giết mình nói có tội
Ngươi nuôi dưỡng thân mình
Tại sao không được phước?
Xem xét không đúng lý
Là ngu si điên đảo
Do nhân duyên như vậy
Gọi các ngươi là cuồng.
Đây tức là ngu si
Biểu tướng của La-sát
Thế nên nói các ngươi
Thành tựu pháp điên cuồng.
Đó tức là nhân quả
Cho rượu và uống rượu
Sân hận là nhân si
Sân nhuế nên cấu uế
Hay thay đổi nhan sắc
Do nhân duyên như vậy;
Sân là vựa nhân đen
Uống rượu nhan sắc xấu
Hai việc này đều xấu.
Mục-liên thấy ngạ quỉ
Ngươi trước tự uống rượu
Nói không có tội báo
Cho nên trong hiện tại
Đã bị thân ngạ quỉ
Hoa báo đã như thế
Quả báo mới đến sau.

Khi các Bà-la-môn nghe việc này, ngay lúc ấy có nhiều ngoại đạo xuất gia.

Chương 78

Người nào khéo phân biệt tôn kính công đức sẽ không mong mỏi vào dòng dõi.

Tôi từng nghe:

Ở thành Hoa thị, có hai vương tử chạy trốn về nước Đầu-mạt-đầu-la. Trong nước ấy có một nội quan tên Bạt-la-bà-nhã làm phụ tá cho vua, tự tay đem thức ăn cúng dường chúng Tăng.

Chúng Tăng thọ thực xong, ông sai người thu dọn thức ăn thừa trên cỏ đem vào cung, rồi hướng về đó làm lễ, sau đó mới ăn và đem phân chia cho người yêu mến. Ăn thức ăn dư kia có thể phá trừ bệnh ngã chấp, cho nên ông ta trước tiên lấy ăn rồi mới đưa cho hai vương tử.

Hai vương tử ăn xong, trong lòng cảm thấy ghê tởm nên đi ra ngoài ói mửa và nói:

– Người xuất gia xuất thân từ nhiều dòng họ. Bây giờ, chúng ta ăn thức ăn dư của họ rồi ói ra thì sau đó không có lỗi.

Nghe việc ấy, vị phụ tá cho vua nói:

– Hai đứa bé dại khờ này thật không biết gì cả! Và nói kệ:

Được thức ăn thừa này
Người trí trừ tội lỗi
Ngươi ghê tởm chê bai
Đây gọi là trẻ dại.
Pháp Phật quán khi ăn
Ngoại đạo đều không có
Sa-môn quán khi ăn
Hay trừ phiền não chướng
Dùng đồ dư của Phật
Nên cung kính trên đầu
Tay cầm thức ăn dư
Nước rửa trừ tội lỗi.

Hôm sau vị phụ tá quốc vương không đưa thức ăn dư, nên người hầu hỏi:

– Thưa ngài, tại sao ngài không chia thức ăn cho hai vương tử?

Vị phụ tá quốc vương nói kệ:

Hai vị ấy không hiểu
Cơm dư của Sa-môn
Vì tự ỷ dòng họ
Ăn dư là bất tịnh.
Tâm họ không hoan hỷ
Thế nên ta không cho.
Không biết họ Sa-môn
Không ăn thừa của họ
Không biết dòng họ ta
Không nên ăn của ta.
Sa-môn sống mọi nơi
Không như dòng họ ta
Ta không bằng Sa-môn
Lại không ăn của ta.
Hoặc nói không dòng họ
Cũng không có tuổi tác
Như ngựa không giống nòi
Nội quan cũng như thế.
Nội quan đến mọi nơi
Không có định phương nào
Chỉ thấy ta giàu sang
Không xem dòng họ ta.
Vì chỉ thấy giàu sang
Nên ăn dư của ta
Không ăn của Sa-môn
Gọi đây là trẻ dại.
Tâm Sa-môn tự tại
Đầy đủ bảy thứ tài
Không ăn của Sa-môn
Mà ăn dư của ta,
Giống như lên nửa giếng
Không thấy được gì cả.
Thấy ta có thế lực
Được đức vua nhớ tưởng
Liền ăn dư của ta.
Sinh trong dòng Cam Giá
Thái tử vua Du-đầu
Dòng họ đến như thế
Không hơn được ta sao?
Thắng trí của Sa-môn
Không ai bằng hay hơn
Không xét dòng tộc họ
Mà chỉ xét đức hạnh.
Dòng họ làm điều ác
Cũng gọi là thấp hèn
Đủ giới, có trí tuệ
Gọi đây là tôn quý.

Nghe xong, hai vương tử thưa:

– Thưa ngài, ngài dạy chánh đạo tức là cha chúng tôi. Từ nay trở đi, chúng tôi kính cẩn vâng theo lời ngài đã dạy.

Và nói kệ:

Nay ngài nói dòng họ
Khác với lời phi pháp
Nhân hạnh không nhất định
Hiểu biết không định phương
Bàn luận đúng lý rồi
Không gọi là thiên kiến
Như điều ngài hiểu biết
Tức dòng họ tôn quý.

Chương 79

Ai muốn biết rõ thần biến của Đức Phật thì nên đích thân đến cúng dường tháp Phật.

Tôi từng nghe:

Ở thành nước A-lê-xa-tỳ-già có tháp thờ móng tay của Đức Phật, gần tháp có cây Ni-câu-đà, bên cạnh có giếng nước. Khi ấy, có vị Bà-la-môn tâu với đức vua:

– Tâu đại vương, nếu ngài du hành sẽ thấy tháp kia. Tháp đó phá hoại phước đức của ngài. Quyền lực của ngài bao trùm cả cõi đất này, vậy nên phá bỏ tháp đó.

Đức vua tin lời vị Bà-la-môn liền ra lệnh cho quần thần:

– Các khanh hãy mau phá bỏ tháp đó cho ta!

Ngày mai khi ra ngoài, chớ để ta thấy nữa!

Khi ấy Thần linh trong thành và dân chúng đều buồn khóc. Các Ưu-bà-di thiết lễ cúng dường, người đốt đèn nói:

Bây giờ là lần cuối cùng chúng ta cúng dường!

Có một Ưu-bà-tắc ôm tháp khóc thảm thiết rồi nói kệ:

Nay con ôm lần cuối
Chân nền tháp Thế Tôn
Như Tu-di ngã nhà
Ngày nay bị phá hoại.
Tháp Thập Lực Thế Tôn
Giờ đây sẽ không còn
Nếu con có lỗi lầm
Xin cho con sám hối
Chúng sinh không còn thấy
Biểu tướng của Đức Phật.

Lúc ấy, các Ưu-bà-tắc cùng nói:

– Bây giờ có thể trở về nhà, chúng ta không thể đứng nhìn người ta phá hoại tháp được!

Sau đó, vua đích thân sai người đem dụng cụ đến đập phá. Khi họ đến đó thì tháp và cây không còn nữa. Họ nói kệ:

Lạ thay! Thật kỳ quái.
Cả thành đều hét lên
Giống như làn sóng biển:
Không thấy tháp Thập lực.
Ni-câu-đà và giếng
Không biết ở nơi nào.
Tất cả Bà-la-môn
Đều xấu hổ sợ hãi.
Đức vua nghe việc ấy
Sinh lòng rất thán phục.
Khi ấy vua nghĩ rằng:
Ai đem tháp này đi
Đích thân đi đến tháp
Chẳng thấy tháp ở đâu.

Bấy giờ đức vua sai cả ngàn người cỡi voi, phóng ngựa tìm kiếm khắp nơi. Một bà lão bên đường thấy nhiều người đi lại vội vã hỏi họ:

– Các ông làm gì vậy? Họ đáp:

– Chúng tôi đi tìm tháp và cây.

Bà lão nói:

– Hồi nãy ở bên đường, tôi thấy một việc rất lạ. Có một cái tháp cùng với cây Ni-câu-đà bay trên không, còn cái giếng thì tôi không nhớ. Tôi chỉ thấy nhiều người, đầu đội thiên quan, đeo vòng hoa, thân mang nhiều hoa đem tháp đi. Khi thấy họ đi qua, tôi cho là kỳ lạ.

Nói xong, bà lão chỉ hướng tháp đi. Nghe xong, mọi người đem đầy đủ mọi việc về tâu vua. Đức vua rất vui mừng nói kệ:

Tháp kia tự bay đi
Hay là bay lên trời
Lòng tôi rất kính tin
Và hết sức vui mừng
Nếu tôi phá tháp đó
Sẽ đọa vào địa ngục.

Đức vua liền hướng về chỗ tháp thiết lễ cúng dường lớn. Tháp ấy hiện này được gọi là Tự di. Tháp, cây và giếng ở cách thành Tỳ-già ba mươi dặm.

Chương 80

Tháp Phật có oai thần lớn. Vì vậy, nên cúng dường tháp Phật.

Tôi từng nghe:

Nước Trúc-xoa-thi-la có chùa tháp do vua Ba- tư-nặc xây cất bị hỏa hoạn. Đức Phật còn để lại đó một cái bậc cửa hư.

Bấy giờ vua nước ấy tên là Câu-sa-đà-na. Có một thầy Tỳ-kheo cầu xin đức vua:

Tâu đại vương, tôi đang làm bậc cửa cho tháp, xin ngài cho tôi cây.

Có cây lớn nhưng vua không tiếc giữ, liền nói:

– Trừ cây cối trong nội cung của trẫm ra, còn bao nhiêu cây khác đều được lấy.

Được vua cho phép rồi, các thầy Tỳ-kheo tìm kiếm cây khắp mọi nơi. Lúc đó có một ao nước lớn ở ven một thôn nọ, trên bờ cỏ cây Thủ-già to lớn được rồng giữ gìn. Vì rồng dữ kề cận, nên không người nào dám chạm đến cây. Cây ấy rất to lớn.

Nếu có người nào đến lấy cành lá, có thể bị rồng giết chết. Do đó, không ai dám đến gần cây. Có người mách với thầy Tỳ-kheo:

– Bạch Đại đức, ở đó có cây to.

Thầy Tỳ-kheo liền dẫn nhiều người đem theo búa rìu muốn đến đó đốn chặt, thì lại có người thưa:

– Bạch Đại đức, con rồng đó rất dữ. Thầy Tỳ-kheo nói:

– Ta làm Phật sự nên chẳng sợ rồng dữ.

Lúc ấy, có vị Bà-la-môn phụng sự thưa với thầy Tỳ-kheo:

– Bạch Đại đức, con rồng đó rất dữ, nếu chặt cây ấy sợ có nhiều điều tổn hại. Xin thầy chớ chặt phá!

Bà-la-môn nói kệ:

Thầy không nghe mà chặt
Vì tham lam làm ác
Thầy nên bỏ tất cả
Thầy phải nhớ việc này
Thường nên tự giữ gìn
Chớ nên vì cây kia
Tự đi đến tổn hại
Thầy Tỳ-kheo nói kệ:
Ông là con rồng dữ
Nên tự mình cống cao
Tôi nương vào Đức Phật
Nhờ đó cũng lên cao
Xem sức người, ta hơn
Thế lực ta như vậy.
Làm cho mọi người thấy
Vì ta cung kính Phật
Nên hy sinh thân mạng
Với bầy rồng dữ tợn.
Vì ông làm rồng chúa
Có ý rất cung kính
Phật là Nhu Điều Tịch
Và là vua trong chúng
Nay tôi cũng cung kính
Như Lai Bà-già-bà
Ai hàng phục rồng dữ
Nên được làm đệ tử.

Thầy Tỳ-kheo cùng với thầy Bà-la-môn tranh lý lẽ nhân đó kình cãi nhau. Khi chặt cây, thầy Tỳ- kheo cũng không thấy hiện có hiện tượng mây sấm đổi khác xảy ra.

Thấy như thế, vị Bà-la-môn nói kệ:

Trước, ai lấy cành lá
Nổi mây sấm sét đánh
Thầy dùng thần chú nào
Bị chết đến đời sau.

Nói kệ xong, vị Bà-la-môn đi ngủ và mộng thấy rồng dữ hướng về mình nói kệ:

Ngươi chớ có sân hận
Đây là được cúng dường
Chẳng phải khinh khi ta
Đích thân ta cõng tháp
Nên ta không tiếc giữ
Tháp Thập Lực Thế Tôn
Ta làm sao giữ được?
Rừng này cây tự mọc
Để làm tháp của Phật
Như thế cây tự mọc
Làm sao luyến tiếc được?
Lại có lý do khác
Sẽ nói rõ ngươi nghe:
Ta không có thế lực
Long vương Đức-xoa-ca
Tự đến lấy cây này
Ta làm sao giữ được?
Long vương Y-la-bát
Cho đến Tỳ-sa-môn
Tự đích thân đến đây
Ta đâu có thế lực
Để chống cự lại họ!
Oai đức các Thiên, Long
Như Lai đời hiện tại
Cho đến sau diệt độ
Người xây dựng tháp miếu
Hai việc đó như nhau.
Có nhiều người đắc đạo
Trời, Người và Dạ-xoa
Danh vang khắp mười phương
Thế giới không ai bằng.
Do tiếng tăm như thế
Tháp cửa treo linh báu
Tiếng linh rất hòa nhã
Xa gần đều nghe biết.

Nghe kệ xong, Bà-la-môn tỉnh dậy, lập tức xuất gia.

Chương 81

Tôi từng nghe:

Có một bà lão, mang bình váng sữa đang đi giữa đường, thấy cây Yêm-ma-lặc liền hái quả ăn. Ăn xong lại khát nước, bà liền tìm giếng xin nước uống và được người xách nước đưa cho. Vì trước đó ăn quả Yêm-ma-lặc nên bà cho rằng có vị ngon ngọt giống như đường phèn. Bà nói với người kia:

Tôi đem bình váng sữa đổi bình nước của ông.

Người xách nước thuận lời, đưa cho bà một bình nước. Được nước rồi, bà lão mang về nhà. Vừa đến nhà thì vị ngọt của quả Yêm-ma-lặc đã ăn lúc trước cũng vừa hết, nên khi uống thì chỉ có vị lạt như nước, ngoài ra không có mùi vị nào khác. Bà liền mời bà con đến nếm thử. Họ đều nói:

Nước có mùi hôi thối của dây mục nát hòa lẫn với bùn rất gớm ghiếc, tại sao bà đem về đây? Nghe mọi người nói xong, bà tự lấy uống thử, rồi hối hận: “Tại sao tôi lại đem váng sữa tốt đổi lấy nước hôi thối này?”

Tất cả chúng sinh, người phàm phu cũng lại như thế. Vì ngu si không trí tuệ nên đem bình váng sữa công đức đời vị lai đổi lấy bốn bình điên đảo hôi thối mà cho là thơm ngon, về sau mới biết chẳng phải chân thật, nên rất hối hận. “Trời ơi! Tại sao ta đem bình váng sữa công đức đổi lấy thứ nước điên đảo hư thối”. Và nói kệ:

Than ôi! Tại sao tôi
Đem ba nghiệp thanh tịnh
Mà đổi lấy các hữu
Như đem váng sữa ngon
Đổi lấy nước hôi thối.
Vì ăn Yêm-ma-lặc
Lưỡi không biết mùi vị
Nước thối gọi cam lộ.

Chương 82

Tôi từng nghe:

Có vợ một vị trưởng giả bị mẹ chồng giận rượt chạy vào rừng muốn giết hại nhưng không được, cô ta leo lên cây. Dưới cây có ao nước, bóng cô ta hiện dưới nước. Khi ấy, có một nô tỳ mang vò lấy nước, thấy bóng dưới nước ngỡ là bóng của mình, nên nói như vầy:

– Lúc này, dung mạo của ta xinh đẹp như thế, tại sao phải lấy nước cho người khác?

Rồi cô đập bể vò, đi về nhà thưa với chủ nhà:

– Thưa ông, dung mạo con nay xinh đẹp như vầy, tại sao ông lại sai con mang vò lấy nước chứ?

Lúc đó, ông chủ nói:

– Con nô tỳ này đã bị ma nhập, nên mới làm việc ấy.

Ông ta lại đưa một cái vò khác bảo đến ao lấy nước, cô vẫn thấy cái bóng kia dưới nước liền đập vỡ cái vò. Người vợ của vị trưởng giả ở trên cây thấy vậy liền mỉm cười.

Thấy bóng người, nô tỳ tự tỉnh mộng ngước lên thấy người phụ nữ ở trên cây mỉm cười; người phụ nữ xinh đẹp ấy mặc y phục khác mình mới đâm ra xấu hổ.

Vì nhân duyên gì nói thí dụ này? Vì những bọn người tà kiến ngu si. Ví như dầu Chiêm-bặc thoa lên tóc, do mê mờ không biết, nên họ cho rằng đầu tôi tỏa ra mùi hương này. Cho nên nói kệ:

Bột hương để thoa thân
Và xông y, anh lạc
Tâm mê lầm cũng vậy
Cho thân mình tỏa hương
Như tớ gái xấu xa
Thấy bóng người tưởng mình.

Chương 83

Mèo con được mẹ sinh ra, nuôi đến lớn. Nó hỏi mẹ:

– Mẹ à, những thứ gì con ăn được? Mèo mẹ bảo:

– Này con, loài người sẽ dạy cho con.

Đêm đến, nó vào nhà người ta và núp trong cái hủ. Có người thấy được liền bảo:

– Các thứ tô, sữa, thịt rất ngon, hãy lấy vung đậy lại! Còn gà con đưa lên cao, chớ để mèo ăn.

Lúc ấy, mèo con mới biết gà, tô, sữa, lạc đều là thức ăn của mình.

Vì nhân duyên gì mà nói ví dụ này? Đức Phật thành đạo Chánh đẳng Chánh giác, đầy đủ mười lực, tâm nguyện đã mãn, đem tâm đại bi cứu độ nhiều nơi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ta nên dùng phương pháp nào để hóa độ chúng sinh?”. Đấng Đại Bi tự đáp: “Tất cả tâm hạnh của chúng sinh đều hiển hiện. Ta dùng tha tâm trí quán sát phiền não, tất cả các hành tham dục, sân nhuế, ngu si… tăng trưởng trong chúng sinh suốt ngày đêm, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng tịnh, lần lượt nương nhau”.

Ngài dạy: “Không thể nào làm tăng trưởng pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Như Lai đã biết như vậy, nên ngài nói các pháp đối trị tà kiến cho chúng sinh. Như Lai thuyết pháp vi diệu thậm thâm, khó hiểu, khó thâm nhập, gọi là đạo giải thoát.”

Tại sao ngài thuyết pháp này cho chúng sinh? Vì các chúng sinh có tà kiến điên đảo. Ngài quán sát biết được như thế, liền tùy theo căn cơ của họ mà nói pháp yếu.

Chúng sinh tự có bao nhiêu nghiệp khác nhau. Vì vậy nên biết rằng Đức Như Lai thuyết pháp đối trị phá trừ điên đảo giống như vì mèo con nên đậy thịt, tô, sữa.

Chương 84

Tôi từng nghe:

Ở một nước nọ, có một thí chủ dựng một trụ đá rất cao lớn. Ông ta chặt bỏ thang dây bắt lên trụ để người thợ kia ở trên chót trụ. Vì sao vậy? Vì sợ người thợ kia còn sống sẽ đến nơi khác xây dựng trụ khác đẹp hơn trụ này.

Đêm ấy, cả gia đình quyến thuộc của người thợ kia tụ họp bên trụ đá rồi nói với anh ta:

– Bây giờ làm sao ông xuống được?

Lúc ấy người thợ đã có rất nhiều phương chước. Anh ta xé vải áo có chiều dài gấp đôi thả xuống dưới trụ. Thân quyến anh liền lấy sợi dây to cột vào sợi dây áo, anh kéo lên, cầm lấy sợi dây to rồi nói với thân quyến:

– Bây giờ các ngươi có thể bện dây to vào dây nhỏ.

Thân quyến nghe theo lời anh cứ lần lượt làm như thế. Cuối cùng, họ thắt được một sợi dây to lớn. Bây giờ, người thợ dùng sợi dây tuột xuống dưới.

Nói trụ đá là dụ cho sinh tử. Dây thang dụ cho giáo pháp của Đức Phật quá khứ đã diệt. Nói thân quyến là dụ cho chúng Thanh văn. Sợi dây áo dụ cho Định và Tuệ của Đức Phật quá khứ. Chiều dài sợi dây áo dụ cho tín tâm. Cột dây lớn dụ cho gần bạn lành được nghe nhiều. Dây nhỏ là dây nghe nhiều nhờ vào dây Trì giới, dây Trì giới nhờ vào dây Thiền định, dây Thiền định nhờ vào dây Trí tuệ. Sợi dây to cột chắc chắn dụ cho sinh tử trói buộc. Từ trên xuống dưới dụ cho sinh tử.

Lấy Tín làm sợi dây
Đa văn và Trì giới
Giống như sợi dây to
Giới, Định là dây nhỏ
Trí tuệ là dây to
Đi xuống trụ sinh tử.

Chương 85

Tôi từng nghe:

Có một vị vua ở nước nọ sắp tuyệt tự. Mọi người đến ép buộc người dòng họ của vua trước đó đã vào rừng học đạo tu Tiên để về làm vua. Vua theo người hầu trải chỗ nằm hỏi y phục cho đến thức ăn uống. Người này tâu với vua:

– Tâu đại vương, mỗi việc đều có quan trông coi. Bây giờ đại vương không nên mỗi việc theo hỏi con, con chỉ biết việc trải chỗ nằm, còn tắm, giặt, y, thực có người khác, chẳng phải việc của con đảm đang.

Do ví dụ này có thể biết tất cả các nghiệp giống như người trải chỗ nằm cho vua, nói mỗi việc đều có quan trông coi. Nghiệp cũng như vậy, đều không giống nhau, về hình sắc không bệnh thì các vật đáng yêu. Các nghiệp về trí đều khác biệt, có nghiệp được vô bệnh, có nghiệp được sắc lực xinh đẹp, đoan trang. Như Tiên nhân kia theo người hầu trải chỗ nằm đòi lo đủ mọi vật, trọn không thể được.

Ai sinh dòng họ trên không hẳn giàu có, các nghiệp thọ báo đều sai khác, không do một nghiệp mà chịu mọi thứ quả báo. Ai tạo nghiệp đoan chánh, sẽ được sắc lực đoan trang xinh đẹp, giàu có lẽ ra phải từ nghiệp khác. Vì vậy, người trí phải nên tu tập mọi thứ tịnh nghiệp để được mọi thứ quả báo khác nhau.

Vô bệnh, sắc, chủng tộc
Trí năng, nhân khác nhau
Như vua Tiên nhân kia
Đòi người làm mọi việc.

Chương 86

Tôi từng nghe: Có một vị vua nước nọ, nuôi nhiều ngựa tốt. Gặp lúc đánh nhau, vua nước láng giềng mới biết vua nước này có nhiều ngựa tốt, nên lập tức rút lui.

Bấy giờ, đức vua suy nghĩ: “Trước đây ta nuôi ngựa mưu toan chống cự nước địch, giờ đây quân địch đều rút lui, ta còn nuôi ngựa làm gì? Ta đem số ngựa này thay thế sức người để ngựa không hao tổn mà người lại có lợi ích nữa”.

Nghĩ xong, vua ra lệnh cho quan hữu ty đem bầy ngựa phân phát cho mọi người. Người ta dùng nó kéo cối xây trải qua nhiều năm.

Sau đó, nước láng giềng lại đến xâm chiếm bờ cõi. Đức vua ra lệnh lấy ngựa lại để đem ra chiến đấu. Vì ngựa dùng kéo cối xay nên chúng cứ đi vòng quanh chứ không chịu tiến tới được. Nếu lấy roi quất nó cũng không chịu đi.

Chúng sinh cũng như vậy. Nếu muốn được giải thoát, phải nhờ vào tâm, nếu cho rằng thọ năm dục sau mới được giải thoát thì thần chết đã đến mà tâm ý còn đeo bám năm dục lạc không thể thẳng tiến để được giải thoát.

Cho nên nói kệ:

Bậc trí nên điều tâm
Chớ đắm trước năm dục
Vốn không điều được tâm
Lâm chung sinh luyến ái.
Tâm đã không điều thuận
Làm sao được tịch tĩnh
Tâm thường mê ngũ dục
Mê man không thể tỉnh
Tâm đã không điều thuận
Làm sao được thanh tịnh?
Tâm đắm say ngũ dục
Mê muội không giác ngộ
Như ngựa không tập luyện
Đánh trận mà đi vòng.

Chương 87

Lại nữa, tôi từng nghe: Có một vị vua bị bệnh nặng, các lương y trong nước đều bó tay.

Lúc ấy, có một lương y từ xứ xa đến trị lành bệnh cho đức vua. Đức vua rất vui mừng, nghĩ như vầy: “Ta được lương y cứu chữa, bây giờ phải đền đáp trọng hậu cho ông ta”. Nghĩ xong, đức vua bảo riêng người hầu cận:

– Ngươi hãy mang nhiều tài vật đến chỗ vị lương y kia ở cất nhà, sắm đủ mọi vật dụng nuôi sống như nhân dân, ruộng đất, trâu, ngựa, voi, dê, tôi trai, tớ gái… tất cả vật dụng của cải đều không được thiếu thứ gì.

Làm xong mọi việc, đức vua bảo vị lương y trở về nhà. Trước mắt, không thấy vua có gì làm quà cho lời giao ước, vị lương y đành phải tay không trở về nhà mà trong lòng rất hận.

Sắp đến nhà, trên đường gặp trâu dê, voi, ngựa nhưng ông ta không biết gì cả chỉ hỏi là ai cho. Mọi người đều nói tên của vị lương y và trâu ngựa này là của ông ta. Vừa đến nhà, lương y thấy nhà cửa của mình tráng lệ, trang trí giường màn, thảm… các vật dụng bằng vàng bạc, còn vợ ông ta đeo anh lạc và đủ thứ y phục. Thấy thế, ông ta rất kinh ngạc, giống như đang ở cung trời. Ông hỏi vợ:

– Này bà, sao bà được giàu sang như thế? Người vợ thưa:

– Ông không biết sao? Do ông trị hết bệnh cho vua, nên ngài đền đáp công ân của ông.

Nghe xong, người chồng vui mừng suy nghĩ: “Đức vua rất có đức, biết tri ân báo ân hơn cả ta trông mong. Do ta cạn cợt, lúc đầu thấy không được gì nên trong lòng căm hận”.

Lấy chuyện trên làm ví dụ, nay sẽ nói ý nghĩa: Lương y dụ cho nghiệp lành.

Vua không cho gì dụ cho chưa được hiện báo. Thân không được gì như vị lương y kia không thấy vật giao ước cho là không được gì nên đem lòng căm hận. Như người đang làm điều thiện thấy chưa có quả báo nên trong lòng rất giận ghét và cho là: “Tôi không được gì”.

Đi về nhà giống như bỏ thân này hướng đến đời sau, thấy đàn trâu, dê, voi, ngựa như từ thân trung ấm thấy đủ thứ tướng tốt mới nghĩ: “Do ta tu điều lành nên được quả báo tốt này, chắc chắn sinh lên cõi trời”.

Đã đến cõi trời là dụ cho vào trong nhà thấy mọi thứ đầy đủ mới có tâm kính trọng, biết là nhờ sự báo ân của vua.

Đàn-việt thí chủ được sinh Thiên rồi mới biết Bố thí, Trì giới nhận quả báo như thế và biết rõ lời Phật là chân thật, không hư dối.

Tu chút ít nghiệp lành sẽ được quả báo vô lượng. Vì vậy nên nói kệ:

Khi cho chưa thấy qua
Tâm có ý nghi hối
Nói uổng công mệt sức
Rốt cuộc không được gì.
Đã được thân trung ấm
Mới thấy tướng mạo tốt
Như lương y về nhà
Trong lòng rất vui vẻ.

Chương 88

Lại nữa, từng nghe:

Có hai cô gái đều được quả Yêm-la. Trong đó, có một cô ăn vứt hột, còn một cô ăn xong giữ hột lại.

Cô giữ hột lại thấy quả Yêm-la ngon, đem trồng vào đám đất tốt, tưới bón đúng thời nên cây lớn ra quả tốt như người thế gian kia làm cội lành, lại tu nhiều nghiệp lành, sau được quả báo.

Người vứt hạt cũng giống như người không biết nghiệp lành, cuối cùng không tu tạo nên không thu hoạch được gì mới ôm lòng hối hận. Do vậy nên nói kệ:

Giống như được ăn quả
Ăn xong không giữ hạt
Sau thấy người ăn quả
Mới ôm lòng hối hận
Cũng như cô gái kia
Đem hột trồng được quả
Trong lòng rất vui mừng.

Chương 89

Lại nữa, từng nghe:

Thuở xưa có thầy Tỳ-kheo Tu-di-la có tài giỡn cợt. Thầy cùng với vua nói cười vui vẻ, rất xứng ý.

Bấy giờ, thầy Tỳ-kheo muốn lập Tăng phường nên theo vua xin đất. Vua nói:

– Này Đại đức, thầy hãy chạy nhanh không nên ngừng nghỉ, đến hết chỗ nào thì đó là đất trẫm cho thầy.

Thầy Tỳ-kheo sửa soạn y phục, lập tức chạy nhanh. Tuy mỏi mệt nhưng vì tham đất, nên thầy vẫn không dừng nghỉ. Sau quá mệt, không thể chạy nổi, thầy nằm xuống đất để bò đi. Trong chốc lát lại mệt nhừ, thầy lấy gậy phóng đi và nói:

– Đến chỗ có dấu trượng đều là đất của tôi.

Đã nói ví dụ, tôi nay sẽ nói ý nghĩa tương đương:

Như muốn lấy đất, thầy Tỳ-kheo Tu-di-la dù mỏi mệt vẫn không dừng nghỉ. Đức Phật cũng như thế, vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh. Ngài đã suy nghĩ: “Làm sao để chúng sinh được hưởng vui ở cõi trời, người, cho đến được giải thoát?”

Giống như Tu-di-la chạy không dừng nghỉ, Đức Phật Bà-già-bà cũng lại như thế. Ngài đã điều phục những vị như: Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Ương-quật-ma-la. Có nhiều chúng sinh có thể hóa độ được thì lúc ấy Thế Tôn liền đến hóa độ.

Như Tỳ-kheo Tu-di-la đã mỏi rồi mà còn bò đi, Đức Phật cũng như vậy. Độ các chúng sinh đã khổ nhọc rồi, Ngài đem thân ngũ ấm này nằm nghỉ giữa hai cây Ta-la. Như cây Ca-thi-ca bị chặt gốc thì phải ngã. Dù chỉ tựa mình dưới hai cây để nghỉ, ngài vẫn nhất quyết không bỏ tâm tinh tấn, độ cho các lực sĩ Câu-thi-la và Tu-bạt-đà-la. Giống như thầy Tu-di-la, vì muốn lấy được đất nên phóng gậy để lấy đất. Đức Phật cũng như thế, vì muốn cứu độ chúng sinh, nên Ngài nhập Niết-bàn lưu lại xá-lợi, làm tám hộc bốn đấu để chúng sinh được lợi ích. Loại xá-lợi nát nhỏ như những hạt cải, nhưng người nào đến nơi cúng dường xá-lợi ấy thì chẳng khác gì cúng dường Đức Phật, làm cho họ đều được vào Niết-bàn. Do vậy nên nói kệ:

Đích thân Như Lai độ
Ông Ưu-lâu-tần-loa
Quyến thuộc và đồ đảng
Ưu-già Ương-quật-ma.
Sức tinh tấn thiền độ
Lúc nằm nghỉ cuối cùng
Còn độ các lực sĩ
Và Tu-bạt-đà-la.
Vì muốn độ chúng sinh
Phân chia các xá-lợi
Cho đến để lại pháp
Đều là cúng dường ta
Như Tu-di-la kia
Phóng gậy để được xa.

Chương 90

Lại nữa, tôi từng nghe:

Trong thôn Bát-la-vu-la, ở nước Trúc-xoa-thi- la hiện giờ vẫn còn ngôi chùa do vị thương gia Xưng-già-bạt-tra xây dựng.

Trước kia Xưng-già-bạt-tra là con của trưởng giả giàu có, về sau bị sa sút đến nghèo nàn. Tất cả bà con quyến thuộc đều khinh chê, không xem ông như người trước đây nữa. Ông buồn rầu bỏ nhà ra đi và cùng với bạn bè đến nước Đại tần lập nghiệp, được nhiều của báu mới trở về quê cũ.

Khi nghe việc ấy, bà con quyến thuộc dọn các thức ăn uống, hương hoa, kỹ nhạc ở trên đường để đón tiếp.

Lúc ấy Xưng-già-bạt-tra mặc áo xấu xí đi phía trước bạn bè. Trước kia ông nghèo hèn, tuổi tác lại nhỏ; sau đó giàu có, tuổi tác lại lớn nên bà con đón tiếp không biết mặt ông.

Họ hỏi ông:

– Xưng-già-bạt-tra đang ở đâu? Ông liền nói:

– Hiện giờ, ông ta còn ở phía sau. Họ đến giữa bạn bè của ông hỏi:

– Này các ông, Xưng-già-bạt-tra đang ở đâu? Bạn bè ông đáp:

– Người đi phía trước chính là ông ta. Bà con đến chỗ ông nói:

– Ông là Xưng-già-bạt-tra, tại sao nói với tôi là ở sau?

Xưng-già-bạt-tra nói:

– Xưng-già-bạt-tra chẳng phải là tôi. Ông ta đang cỡi lừa ở giữa bạn bè. Vì sao? Vì thân tôi trước đây bị bà con khinh chê không hỏi han, bà con khinh chê không hỏi han, sau nghĩ tôi giàu có mới chịu đón tiếp. Do vậy, tôi cố ý cỡi lừa đi sau.

Bà con nói:

– Ông nói cái gì vậy? Chúng tôi không hiểu! Xưng-già-bạt-tra đáp:

– Lúc tôi nghèo nàn, không thấy các ông nói tiếp đãi. Bây giờ, thấy tôi giàu có mới dọn đủ thức ăn để đón tiếp. Như vậy, là vì tiền tài mà đến chứ không phải vì tôi.

Ví dụ này dụ cho Đức Thế Tôn. Xưng Già-bạt- tra vì có được tài vật nên được bà con quê cũ thiết lễ đón tiếp. Như Lai cũng vậy, sau khi được thành Phật rồi thì Người, Trời, Quỉ, Thần, các Long vương mới đến cúng dường. Họ chẳng phải đến cúng dường Đức Phật khi Ngài chưa đắc đạo và chưa có công đức, Ngài không hề được các chúng sinh nói đến huống gì lại cúng dường. Vì vậy nên biết họ cúng dường công đức Phật chứ không phải cúng dường Đức Phật. Dù được tất cả Trời, Người… cúng dường, Ngài cũng không có sự thêm bớt là do khéo quán kiến như vậy.

Trời, Người, A-tu-la
Dạ-xoa, Càn-thát-bà
Như thế các chúng sinh
Dù cúng dường thật nhiều
Phật cũng không hoan hỷ
Do khéo quán sát vậy.
Vì cúng dường công đức
Chẳng phải cúng dường Ta
Như xưng Già-bạt-tra
Chỉ dạy các quyến thuộc
Nói mình đang ở sau
Dụ đó cũng như vậy.

 



[1] Nguyên bản: 於 夏 四 月 安 居 已 訖, ư hạ tứ nguyệt an cư dĩ ngật. Có lẽ sai sót trong nguyên bản vì đoạn trên có câu: 時 波 斯 匿 王 請 佛 及 僧 於 九 十 日 夏 坐 安 居; thời Ba-tư-nặc vương thỉnh Phật cập Tăng ư cửu thập nhật hạ tọa an cư.


[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]


[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]


[Mục lục tổng quát]