Số 200
SOẠN TẬP KINH MỘT TRĂM TRUYỆN NHÂN DUYÊN
Hán dịch: Đời Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt chi.
1- Truyện Bà-La-Môn Mãn Hiền Thỉnh Phật Từ Xa
2- Truyện Nàng Danh Xưng Thỉnh Phật
3- Truyện Gã Nan-Đà Lười Biếng Gặp Phật
4- Truyện Năm Trăm Người Đi Buôn Ra Biển Tìm Châu Báu
5- Truyện Chàng Tu-Ma Nghèo Khổ Cúng Dường Phật Một Ít Sợi Chỉ
6- Truyện Trưởng Giả Bà-Trì-Gia Bị Bệnh Nặng
7- Truyện Người Giữ Ao Của Vua Rải Hoa Cúng Phật
8- Truyện Hai Vị Phạm Chí Tranh Cãi Về Như Lai
9- Truyện Phật Nói Pháp Và Xuất Gia Cho Hai Vị Vua
10- Truyện Trưởng Giả Làm Vua Bảy
Phẩm 2: BÁO ỨNG THỌ CÚNG DƯỜNG
11- Truyện Người Lái Đò Thỉnh Phật Qua Sông
12- Truyện Vua Quán Đảnh Thỉnh Phật
13- Truyện Pháp Hộ Thỉnh Phật Tắm Rửa
14- Truyện Đức Phật Cứu Giúp Dân Chúng Mắc Bệnh
15- Truyện Trời Đế Thích Cúng Dường Đức Phật
16- Truyện Phật Hiện Thân Trời Đế Thích Để Hóa Độ Bà-La-Môn
17- Truyện Thần Càn-Thát-Bà Trổi Nhạc Khen Phật
18- Truyện Chàng Như Nguyện Sắp Bị
19- Truyện Vua Tần-Bà-Sa-La Thỉnh Phật
20- Truyện Trời Đế Thích Biến Hóa Vườn
21- Truyện Vương Tử Hóa Sinh Chứng
22- Truyện Một Đứa Trẻ Rải Hoa Cúng Dường Phật
23- Truyện Một Phụ Nữ Rải Vật Báu Cúng Dường Đức Phật
24- Truyện Bà Lão Thiện Ái Tham Lam
25- Truyện Trưởng Giả Hàm Hương Thỉnh Phật
26- Truyện Người Lái Đò Đưa Đức Phật Và Chúng Tăng Qua Sông
27- Truyện Người Tớ Gái Xoa Hương
28- Truyện Người Nghèo Bạt-Đề Bố Thí Củi Cho Phật
29- Truyện Về Việc Trổi Nhạc Cúng Dường Được Chứng Thành Bích-Chi-Phật
31- Truyện Vua Liên Hoa Bỏ Thân Làm Loài Xích Ngư
32- Truyện Vua Phạm Dự Bố Thí Thóc Gạo Cho Bà-La-Môn
33- Truyện Vua Thi-Tỳ Khoét Mắt Mình Bố Thí Cho Chim Đại Bàng
34- Truyện Vua Thiện Diện Cầu Pháp
35- Truyện Thái Tử Con Của Vua Phạm Ma Cầu Pháp
36- Truyện Người Bà-La-Môn Đòi Nợ Phật
37- Truyện Đức Phật Sắp Nhập Niết-Bàn, Hóa Độ Năm Trăm Vị Lực Sĩ
38- Truyện Thỏ Đầu Đàn Nướng Mình Cúng Dường Tiên Nhân
39- Truyện Nói Về Con Của Vua Pháp Hộ Bị Mẹ Giết Hại
41- Truyện Bà Phú-Na-Kỳ Bị Đọa Vào Ngạ Quỉ
42- Truyện Vợ Trưởng Giả Hiền Thiện Bị Đọa Vào Loài Ngạ Quỉ
43- Truyện Nói Về Do Ác Kiến Không Bố Thí Nước Nên Đọa Vào Loài Ngạ Quỉ
44- Truyện Bàn-Đà-La Bị Đọa Làm Ngạ Quỉ Thân Thể Hôi Thối
45- Truyện Mục-Kiền-Liên Vào Thành Gặp Năm Trăm Ngạ Quỉ
46- Truyện Mẹ Chàng Ưu-Đa-La Bị Đọa
47- Truyện Ngạ Quỉ Sinh Ra Đã Bị Mù
48- Truyện Trưởng Giả Nhã-Đạt-Đa Vì
49- Truyện Ngạ Quỉ Tự Ăn Thịt Năm Trăm
50- Truyện Chàng Diêm-Ba-La Giống Ngạ Quỉ
Phẩm 6: CHƯ THIÊN XUỐNG TRẦN GIAN CÚNG DƯỜNG
51- Truyện Trưởng Giả Hiền Diện Vì Tham Lam Bỏn xẻn Mà Bị Đọa Làm Rắn Độc
52- Truyện Chàng Nguyệt Quang Sinh Lên Cõi Trời
53- Truyện Hái Hoa Cúng Dường Đức Phật Được Sinh Lên Cõi Trời
54- Truyện Nàng Công Đức Ý Cúng
55- Truyện Tu-Đạt Cỡi Voi Đi Khuyến Hóa
56- Truyện Chim Anh Vũ Đầu Đàn Thỉnh
57- Truyện Vua Sai Sứ Giả Thỉnh Phật, Sứ Giả Qua Đời Được Sinh Lên Cõi Trời
58- Truyện Phật Hóa Độ Con Trâu Được Sinh Lên Cõi Trời
59- Truyện Hai Vị Phạm Chí Thọ Trai
60- Truyện Năm Trăm Con Chim Nhạn Nghe Phật Nói Pháp
61- Truyện Cậu Bé Thân Màu Vàng Ròng
62- Truyện Cậu Bé Thân Có Mùi Hương
65- Truyện Vị Tỳ-Kheo Được Người Cung
66- Truyện Vị Tỳ-Kheo Trên Đầu Có Lọng
67- Truyện Vị Tỳ-Kheo Có Giọng Tiếng
68- Truyện Một Trăm Đứa Bé Cùng Sinh Ra Đời Một Lúc
69- Truyện Vị Tỳ-Kheo Trên Đầu Có Hạt
70- Truyện Treo Phướn Cúng Dường Tháp Phật
71- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Bảo Châu Lúc Sinh Ra Có Ánh Sáng Chiếu Khắp Trong Thành
72- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Thiện Ái Lúc Sinh Ra Tự Nhiên Có Các Thức Ăn Uống
73- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Bạch Tịnh Khi Sinh Ra Đời Đã Có Áo
74- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Tu-Mạn Có Tài Biện Luận
75- Truyện Cô Gái Múa Trở Thành Tỳ- Kheo-Ni
76- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Ca-Thi Khi Sinh
77- Truyện Tỳ-Kheo-Ni Trên Trán Có Vòng Trân Châu
78- Truyện Nhờ Tỳ-Kheo-Ni Sai-Ma Ra
79- Truyện Nàng Công Chúa Xấu Xí Con
81. Truyện Về Người Dẫn Đầu Đoàn Người Đi Buôn Tên Hải Sinh
82- Truyện Về Người Khi Sinh Ra Đã Mặc
84- Truyện Về Vị Tỳ-Kheo Thông Suốt Ba Tạng
87- Truyện Tỳ-Kheo Chúng Bảo Trang
89- Truyện Vua Bạt-Đề-Thích Làm Tỳ- Kheo
90- Truyện Phật Độ Vương Tử Hộ Quốc Xuất Gia
91- Truyện Về Chàng Tu-Bồ-Đề Có Tâm Độc Ác
92- Truyện Vị Tỳ-Kheo Trưởng Giả Ở Trong Thai Mẹ
94- Truyện Tỳ-Kheo Lê-Quân-Chi
95- Truyện Về Tỳ-Kheo Sinh Tử Khổ
96- Truyện Vị Trưởng Giả Thân Thể Bị Ghẻ Lở
98- Truyện Tỳ-Kheo Hằng-Già-Đạt
99- Truyện Về Phạm Chí Trường Trảo
100- Truyện Về Tỳ-Kheo Tôn-Đà-Lợi Khôi Ngô Tuấn Tú
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, tại thành Vương xá.
Bấy giờ, ở phương Nam có một vị Bà-la-môn tên Mãn Hiền, là người có vô lượng tài bảo nhiều không thể tính kể, có thể ngang bằng với trời Tỳ- sa-môn. Ông là người có đức tin hiền thiện, bản tánh đằm thắm mềm mỏng, tự làm lợi ích cho mình và cho người, thương xót chúng sinh như mẹ thương con. Đối với ngoại đạo, Mãn Hiền mở các hội lớn, dọn bày nhiều món ngon, thường cúng dường trăm ngàn người ngoại đạo, mong được sinh lên cõi trời Phạm thiên.
Bấy giờ Mãn Hiền có một người bạn thân từ thành Vương xá, đến nước này, tới chỗ Mãn Hiền, khen ngợi tất cả công đức của Phật, Pháp, Tăng:
– Có bậc tiếng tăm vang xa, tam đạt trùm khắp, được gọi là Bà-già-bà. Hiện giờ Ngài ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà ở thành Vương xá, được Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca- lâu-la, Khẩn-la-na, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, quốc vương, trưởng giả và dân chúng đều cúng dường, tôn trọng, khen ngợi sự tu tập của Ngài có ý vị hoàn hảo và nhiệm mầu trùm khắp thế giới. Tất cả chúng sinh đều kính trọng và thương mến.
Mãn Hiền nghe bạn khen ngợi công đức của Phật, sinh tâm kính tin, bèn lên lầu cao, tay cầm hương hoa, quỳ thẳng chắp tay, từ xa kính thỉnh Đức Thế Tôn mà nói như vầy:
Nay, nếu Đức Như Lai thật có công đức, xin hãy khiến cho mùi hương do con đốt bay tỏa khắp thành Vương xá và hoa con rải đây sẽ biến thành lọng hoa trong hư không ngay trên đảnh Đức Phật. Khi Bà-la-môn Mãn Hiền phát lời thệ như thế xong, hương hoa liền bay đến biến thành lọng hoa ngay trên đảnh Đức Phật; khói hương phủ khắp thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả A-nan thấy sự biến hóa đó, liền bước ra bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, mây hương ấy từ đâu bay đến?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ở phương Nam có một quốc gia tên là Kim địa, quốc gia ấy có vị trưởng giả tên là Mãn Hiền từ xa đã kính thỉnh Ta và chư Tỳ-kheo Tăng. Ta sẽ đến quốc gia ấy thọ Mãn Hiền cúng dường, các thầy đều hãy tự nương vào thần thông đến quốc gia ấy thọ thỉnh.
Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, nương hư không đến quốc gia ấy. Cách đền thờ không xa, Đức Phật dùng thần lực che khuất một ngàn Tỳ- kheo, chỉ hiện một mình Ngài tay cầm bình bát, đến chỗ Mãn Hiền.
Nghe Đức Phật đến, trưởng giả Mãn Hiền dẫn năm trăm đồ chúng mỗi người đều bưng trăm món ăn uống dâng lên Đức Như Lai. Mãn Hiền thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, khoan thai nhẹ bước, oai nghi trang nghiêm. Mãn Hiền bước đến lễ dưới chân Phật, bạch:
– Lành thay! Thưa Thế Tôn, cúi xin Ngài rủ lòng Từ bi thương xót, hôm nay xin Phật thọ nhận các vật thực cúng dường của chúng con.
Phật bảo Mãn Hiền:
– Nếu ông muốn cúng dường, hãy bỏ thực phẩm vào bát này.
Mãn Hiền và trăm đồ chúng, mỗi người đều tự tay bỏ thức uống ăn mà mình mang theo vào bát Phật, nhưng bỏ mãi vẫn không đầy, mọi người đều cho là kỳ lạ.
Nhờ thần lực này mà tâm mọi người liền được điều phục, bát của ngàn vị Tỳ-kheo cũng đều đầy thức ăn; các Tỳ-kheo bỗng nhiên lại hiện ra và nhiễu quanh Đức Phật, Thế Tôn.
Lúc ấy trưởng giả khen là việc chưa từng có, liền gieo năm vóc sát đất, phát thệ rộng lớn:
– Nguyện nhờ công đức căn lành cúng dường này, ở đời vị lai nếu có chúng sinh đui mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con nguyện làm cho họ được giải thoát; chúng sinh chưa an ổn, con nguyện làm cho họ được an ổn; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con nguyện cho họ được vào Niết-bàn.
Trưởng giả phát lời nguyện ấy xong, Phật mỉm cười. Từ khuôn diện Ngài phát ra ánh sáng năm màu, chiếu soi khắp thế giới, lại biến thành rất nhiều màu sắc, ánh sáng này nhiễu Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy. Cúi mong
Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Phật bảo A-nan:
– Nay ông có thấy trưởng giả Mãn Hiền cúng dường Ta không?
Ngài A-nan bạch:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy.
– Trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa ở đời vị lai, Mãn Hiền sẽ đầy đủ Bồ-tát hạnh, tu tâm đại bi, tròn đủ sáu Ba-la-mật, sẽ được thành Phật hiệu là Mãn Hiền, hóa độ chúng sinh nhiều không thể hạn lượng, vì vậy mà Ta mỉm cười.
Lúc Phật nói về việc nhân duyên của Mãn Hiền, trong đại chúng có người chứng quả Tu-đà- hoàn, có người chứng Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-la- hán, có người phát tâm Bích-chi-phật, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại giảng đường Trùng các, bên bờ sông Di hầu, thành Tỳ-xá-ly.
Bấy giờ Đức Phật đắp y, ôm bát dẫn các Tỳ- kheo vào thành khất thực, lần lượt đến nhà trưởng giả Sư Tử. Trưởng giả có người con dâu tên là Danh Xưng. Danh Xưng thấy thân tướng uy nghiêm của Phật có rất nhiều, tướng hảo, trang nghiêm, nàng bèn hỏi mẹ chồng:
– Thân Phật như vậy, con có thể đạt được không?
Mẹ chồng liền đáp:
– Nếu ngay từ hôm nay con có thể tu tập các công đức, phát tâm rộng lớn vô thượng thì con cũng đạt được tất cả tướng tốt như thế.
Danh Xưng nghe xong bèn cùng mẹ chồng sắm sửa lễ vật, mở hội thỉnh Phật cúng dường.
Sau khi Phật và đại chúng thọ thực xong, Danh Xưng lại rải các thứ hoa cúng dường trên đảnh Phật. Lúc ấy trên hư không hoa tự nhiên kết thành chiếc lọng và trong mỗi bước đi đứng của Phật, lọng hoa ấy cũng theo sát không rời.
Danh Xưng thấy sự biến hóa, trong lòng vui mừng khôn xiết, nàng liền gieo năm vóc sát đất; rồi phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với công đức cúng dường này, con nguyện trong đời vị lai; nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa; con nguyện làm chỗ nương tựa cho họ, chúng sinh không ai cứu giúp; con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa được giải thoát, con sẽ làm họ được giải thoát; chúng sinh không an ổn, con nguyện làm họ được an ổn; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con nguyện giúp họ vào Niết-bàn.
Thế Tôn nghe Danh Xưng phát tâm rộng lớn như thế, Ngài liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu soi khắp thế giới, lại biến thành rất nhiều sắc, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy, cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Phật bảo A-nan:
– Nay ông có thấy nàng Danh Xưng này cúng dường Ta không?
Ngài A-nan bạch:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy.
– Nhờ công đức căn lành của việc phát tâm rộng lớn của nàng Danh Xưng hôm nay, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa ở đời vị lai, Danh Xưng sẽ đầy đủ hạnh Bồ-tát, tu tâm đại bi, tròn đủ sáu Ba- la-mật, sẽ được thành Phật hiệu là Bảo Ý, độ khắp chúng sinh, không có hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Khi Phật nói về việc nhân duyên của nàng Danh Xưng, trong đại chúng có người chứng quả
Tu-đà-hoàn, có người chứng Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-la- hán, có người phát tâm Bích-chi-phật, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả là người giàu có vô lượng, tài bảo nhiều không thể tính kể. Trưởng giả chỉ có một người con tên là Nan-đà, tính rất lười biếng, thường ham thích ngủ nghỉ, không chịu làm việc, nhưng lại rất thông minh, không ai sánh kịp. Trong lúc nằm ngủ, vẫn nghe được kinh luận, nghĩa lý nào cũng thông suốt. Trưởng giả thấy con mình thông minh, hiểu rõ kinh luận, bèn nghĩ rằng: “Ta nên thỉnh sáu vị giáo chủ ngoại đạo như ngài Phú-lan-na,… đến nhà để dạy dỗ Nan-đà.”
Suy nghĩ xong, trưởng giả liền làm các món ngon vật lạ, rồi thỉnh sáu vị giáo chủ ngoại đạo đến để cúng dường.
Sau khi sáu vị thọ thực xong, trưởng giả thưa:
– Con chỉ có duy nhất một đứa con, nhưng nó rất lười biếng, ngủ mãi không chịu dậy. Cúi mong đại sư hãy dạy dỗ nó giùm con, để nó biết lo sửa sang gia nghiệp và học tập kinh luận.
Khi ấy sáu vị giáo chủ ngoại đạo liền cùng nhau đến chỗ Nan-đà. Nan-đà vẫn thản nhiên nằm không chịu ngồi dậy, huống chi nghĩ đến việc trải tọa cụ mời sáu vị ngồi. Trưởng giả thấy vậy trong lòng rất khổ não buồn rầu không vui.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thường rủ lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm luôn quán sát chúng sinh xem ai chịu nhiều khổ não, liền đến chỗ người ấy nói pháp cho nghe giúp họ được mở tỏ, Phật thấy trưởng giả ưu sầu vì con, đang ngồi chống cằm. Phật liền hướng dẫn các Tỳ-kheo đến nhà trưởng giả.
Lúc ấy bỗng nhiên Nan-đà kinh sợ đứng dậy, trải đồ ngồi thỉnh Đức Phật an tọa, bước tới lễ dưới chân Đức Phật rồi lui lại ngồi sang một bên. Phật liền nói pháp bằng mọi cách cho Nan-đà nghe và quở trách những lỗi lầm của sự lười biếng. Nan-đà tự trách ăn năn sinh tâm kính tín đối với Thế Tôn.
Đức Phật đưa cho Nan-đà một cây gậy bằng gỗ chiên-đàn và bảo:
– Nếu ngươi có thể siêng năng, dụng tâm chút ít, hãy gõ vào cây gậy này. Nó sẽ phát ra âm thanh rất dễ thương. Khi nghe âm thanh ấy, ngươi sẽ thấy mọi vật nằm trong đất.
Nan-đà liền nhận chiếc gậy, gõ vào phát ra âm thanh, quả nhiên thấy được mọi vật chôn giấu dưới đất. Nan-đà vui mừng khôn xiết, tự nghĩ: “Nay ta siêng năng, chỉ dụng tâm chút ít mà còn được lợi ích như thế, huống chi ta cố gắng nỗ lực, thì ở đời vị lai sẽ được nhiều lợi ích to lớn không gì hơn. Vậy hôm nay ta phải siêng năng, cố gắng hết sức để ra biển tìm châu báu”. Nghĩ xong, Nan-đà liền thông báo cho mọi người biết:
– Ai muốn ra biển để tìm nhiều châu báu, ta sẽ là người dẫn đầu đoàn người đi buôn.
Dân chúng ai nấy đều tranh nhau quyết tâm ra biển để tìm châu báu quý giá. Họ tìm được nhiều trân bảo và tất cả đều an ổn trở về, sắm sửa các thức ăn ngon để thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường.
Sau khi Phật và chúng Tăng thọ thực xong, Đức Phật liền nói pháp cho Nan-đà bằng mọi cách. Nan-đà được mở tỏ tâm ý, liền gieo năm vóc sát đất và phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với công đức căn lành của việc cúng dường này, con nguyện ở đời vị lai nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được sáng mắt; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ được giải thoát; chúng sinh không an ổn, con nguyện làm cho họ được an ổn; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con nguyện giúp họ vào Niết-bàn.
Nan-đà phát nguyện xong, Phật mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay, ông có thấy gã lười biếng ra biển tìm châu báu, sắm sửa các thức ăn ngon để cúng dường Ta không?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Gã lười này ở đời vị lai trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa, sẽ được thành Phật hiệu là Tinh Tấn Lực, hóa độ chúng sinh rộng khắp, không thể hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một người dẫn đầu đoàn người đi buôn dẫn năm trăm người đi buôn ra biển để tìm châu báu. Thuyền hỏng, họ phải trở về, ngày đêm quỳ lạy các vị Thần để được giúp đỡ. Họ lại ra biển lần thứ hai, lần thứ ba, thuyền cũng bị hỏng như trước. Nhờ có phước đức nên người dẫn đầu không bị chết ngoài biển, ông về được đất liền, trong lòng khổ não, thầm nghĩ: “Ta thường nghe có Đức Phật, Thế Tôn đã chứng được Nhất thiết trí, chư Thiên và loài Người không ai sánh kịp. Ngài thương xót chúng sinh, làm lợi mình, lợi người. Bây giờ, ta sẽ xưng niệm danh hiệu Đức Phật ấy để ra biển, nếu được an ổn trở về, Ta sẽ cúng dường Ngài phân nửa số châu báu”. Nghĩ xong, người dẫn đầu đoàn người đi buôn liền tụ tập những người đi buôn cùng nhau ra biển. Ông xưng niệm danh hiệu Phật, quả nhiên tìm được nhiều châu báu và an ổn trở về. Nhưng khi về nhà, ông nhìn các vật báu, trong lòng tham tiếc chẳng chịu cúng Phật, suy nghĩ: “Nếu phải cúng dường phân nửa số châu báu này, thì ta không hứa, chi bằng ta đưa hết số châu báu này cho vợ, rồi sẽ xin bà một ít tiền ra chợ mua hương thơm, mang về tinh xá Kỳ hoàn đốt cúng dường Phật”.
Suy nghĩ xong, như dự định, vị ấy xin vợ được hai đồng tiền, liền ra chợ mua hương thơm, mang đến tinh xá Kỳ hoàn đốt lên cúng Phật
Đức Phật dùng thần lực khiến khói hương lan tỏa, xông khắp tinh xá Kỳ hoàn. Vị ấy thấy khói hương len sâu vào đến trước Phật liền ăn năn tự trách: “Nay vì sao đối với Phật Thế Tôn ta lại tiếc rẻ vật báu ấy mà không cúng dường. Như Lai thật sự có thần lực, làm cho khói hương xông khắp tinh xá Kỳ hoàn, thật là ít có. Vậy ta phải sắm sửa các món uống ăn ngon, rồi thỉnh Phật và chúng Tăng về nhà cúng dường”.
Nghĩ xong, ông liền quỳ thẳng, chắp tay thỉnh Phật, Thế Tôn. Đức Phật hứa khả. Ông vội trở về nhà lo sắm sửa đầy đủ các thức uống ăn. Sáng hôm sau, đến giờ ông cho người đến bạch Phật:
– Thức ăn đã sắm sửa đầy đủ, cúi xin Phật biết cho đã đến giờ.
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai đắp y, cầm bát dẫn các Tỳ-kheo đến nhà vị ấy thọ thực. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật nói về tội lỗi xấu xa của tính tham lam bỏn xẻn. Ông liền lấy châu báu rải cúng dường trên đảnh Phật. Lúc ấy trên không trung châu báu tự nhiên biến thành lọng báu. Mỗi bước đi, đứng của Phật, lọng báu ấy cũng theo che chở không rời.
Ông liền gieo năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với công đức căn lành của việc cúng dường này, con nguyện ở đời vị lai, nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ làm cho họ được giải thoát; chúng sinh không an ổn, con nguyện làm cho họ được an ổn; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con nguyện giúp cho họ vào Niết-bàn.
Nghe vị ấy phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay ông có thấy vị thương chủ này cúng dường Ta với tâm hổ thẹn hay không?
A-nan đáp:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Hôm nay, nhờ cúng dường Ta mà vị ấy không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, thường hưởng thọ sự vui sướng. Ba a-tăng-kỳ kiếp sau, vị ấy sẽ được thành Phật hiệu là Bảo Thạnh, độ thoát chúng sinh không thể tính được số lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một người thợ dệt tên là Tu-ma, là người cùng khổ, trong nhà không có được thăng thóc đấu gạo, hằng ngày phải dệt mướn cho người để kiếm sống.
Một hôm, ông suy nghĩ: “Trước kia ta không biết bố thí, cho nên nay phải chịu nghèo khổ như vầy. Nếu đời nay ta lại không chịu bố thí, thì chắc chắn đời sau sẽ nghèo cùng hơn nữa, vì thế, ta phải cố gắng tìm cầu ít vật để bố thí, mong kiếp sau ta được quả báo tốt”.
Sau đó, Tu-ma tìm được một ít sợi chỉ, bèn trở về nhà. Vào trong một con hẻm, từ xa trông thấy
Đức Thế Tôn đắp y ôm bát, hướng dẫn các Tỳ- kheo vào thành khất thực, Tu-ma liền đến trước Phật dâng cúng những sợi chỉ ấy lên. Đức Phật liền nhận. Ngài bèn thị hiện y mình bị rách, dùng chỉ ấy để vá. Tu-ma thấy Thế Tôn vá y bị rách, trong lòng vui mừng, bước tới dưới chân Phật và phát thệ nguyện rộng lớn. Tu-ma ở trước Phật nói kệ:
Vật cúng tuy ít ỏi
Gặp ruộng phước lành lớn
Dâng cúng Thế Tôn rồi
Thệ nguyện sẽ thành Phật
Độ khắp các chúng sinh
Số ấy không thể lường.
Thế Tôn uy đức lớn
Sẽ chứng biết việc này.
Lúc ấy Thế Tôn đáp lại bằng bài kệ:
Nay, ngươi được gặp Ta
Quy y phát tâm thí
Vị lai sẽ thành Phật.
Danh hiệu là Thập Diên
Tiếng khen khắp mười phương
Độ chúng sinh vô lượng.
Sau khi nghe Phật nói kệ, Tu-ma sinh tâm rất kính tin, bèn gieo năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với tất cả công đức cúng dường các sợi chỉ này, con nguyện đời sau, nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ được giải thoát; chúng sinh không an ổn, con sẽ làm cho họ được an ổn; chúng sinh chưa vào Niết- bàn, con nguyện giúp họ vào Niết-bàn.
Tu-ma phát nguyện xong, Phật bèn mỉm cười. Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ. Có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy, cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay, ông có thấy chàng Tu-ma nghèo khổ cúng dường Ta mấy sợi chỉ và phát thệ nguyện rộng lớn chăng?
A-nan đáp:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Tu-ma cúng dường Ta mấy sợ chỉ với tâm ân cần, kính trọng, đời vị lai sẽ được thành Phật hiệu là Thập Diên, độ khắp chúng sinh, không thể hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Bà-trì-gia, là người có tính xấu, hay tức giận, không một ai thích thân thiện, nhưng ông rất kính tin sáu vị Giáo chủ ngoại đạo.
Một thời gian sau, Bà-trì-gia bị bệnh nặng, không ai chăm sóc việc ăn uống và thuốc men, mạng sống chỉ còn trong gang tấc. Ông bèn suy nghĩ: “Nay ta lâm vào cảnh khốn khổ thật là đúng lắm, nếu ai có thể cứu mạng, ta sẽ hầu hạ người ấy suốt đời một cách tốt đẹp.” Ông lại nghĩ: “Chỉ có Đức Thế Tôn là cứu được mạng Ta”. Vì nghĩ như vậy nên Bà-trì-gia sinh tâm ân cần, kính trọng đối với Đức Phật và khao khát muốn được thấy Đức Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Phật thường rủ lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm thường quán sát chúng sinh, xem ai bị khổ não thì Ngài sẽ đến cứu giúp và dùng lời dịu dàng để nói pháp, làm cho họ được vui mừng. Nếu có chúng sinh nào sa vào đường ác, Ngài sẽ tìm cách cứu giúp để họ được sinh lên cõi trời, cõi người, chứng được đạo quả.
Khi ấy Như Lai quán sát thấy trưởng giả bị bệnh nặng thân thể tiều tụy, không ai chăm sóc, không người nuôi dưỡng. Đức Phật liền phát ra ánh sáng chiếu trên thân thể người bệnh, khiến vị trưởng giả cảm thấy mát mẻ, tâm hồn tỉnh táo, vui mừng khôn xiết.
Lúc ấy Bà-trì-gia liền gieo năm vóc sát đất, quy mạng Như Lai.
Biết Bà-trì-gia căn lành đã thành thục, đáng được sự giáo hóa, Đức Phật liền đến nhà Bà-trì- gia. Bà-trì-gia bỗng nhiên kinh sợ đứng dậy, chắp tay đón rước, thốt lên:
– Lành thay! Thế Tôn. Bà-trì-gia bèn trải đồ ngồi thỉnh Phật an tọa. Đức Phật hỏi Bà-trì-gia:
– Nay ông bị bệnh khổ, vậy chỗ nào đau nhiều nhất.
Trưởng giả đáp:
– Cả thân tâm con đều chịu khổ não.
Lúc ấy Đức Phật nghĩ: “Trong nhiều kiếp Ta tu tâm từ bi, thệ nguyện cứu chữa các chúng sinh bị bệnh cả thân lẫn tâm”.
Bấy giờ trời Đế Thích biết được ý nghĩ của Đức Phật, liền đến Hương sơn hái một loại thuốc tên là Bạch nhũ, cung kính dâng Thế Tôn. Thế Tôn được thuốc, bèn trao cho Bà-trì-gia. Bà-trì-gia uống hết thuốc, được khỏi bệnh, thân tâm vui sướng, càng sinh thâm tâm kính tin Đức Thế Tôn. Bà-trì-gia liền sắm sửa các thức ngon cúng dường Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng, sau đó lại dâng cúng những chiếc y tốt đẹp giá trị bằng trăm ngàn lạng vàng lên Đức Phật và Tăng, rồi phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nguyện đem công đức căn lành cúng dường này, như nay Thế Tôn trị hết các bệnh thân tâm của con, được an vui, con nguyện đời sau cũng chữa trị các bệnh thân tâm của chúng sinh, giúp họ được an vui.
Trưởng giả Bà-trì-gia phát thệ nguyện xong, Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay ông có thấy trưởng giả nhờ hết bệnh, mà bày soạn cúng dường cho Như Lai và Tỳ-kheo Tăng chăng?
A-nan bạch Phật:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Bà-trì-gia ở đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni, độ khắp chúng sinh, không thể hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà trong thành Vương xá.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc chưa nghe có Phật, sáu thời trong một ngày đêm, vua thường đem hương hoa cúng dường các Thiên thần. Khi Đức Phật ra đời, thành Bậc Chánh Giác, vì muốn giáo hóa vua Ba-tư-nặc nên Ngài đắp y ôm bát đến gặp vua. Vua Ba-tư-nặc thấy Đức Phật ánh sáng chiếu khắp trời đất, oai nghi khoan thai, vượt hẳn thế gian, trong lòng vui mừng thỉnh Phật an tọa, cho dọn bày các món ăn ngon cúng dường Thế Tôn. Thọ trai xong, Đức Phật nói pháp cho vua nghe bằng mọi cách. Sau khi nghe Phật nói pháp, vua Ba-tư-nặc càng kính tin Như Lai, không còn phụng thờ lễ bái Thiên thần. Sau đó mỗi ngày ba lần, vua đều đem hoa cúng dường Như Lai.
Hôm ấy, người giữ ao, sau khi đem hoa cho vua, tự mình lấy một bông hoa định đem ra chợ bán. Trên đường đi, người giữ ao gặp một ngoại đạo.
Ngoại đạo hỏi:
ấy:
– Ngươi đem hoa này đi bán phải không? Người ấy đáp:
– Vâng! Tôi muốn bán.
Khi ấy trưởng giả Tu-đạt cũng đến hỏi người
– Anh cầm hoa này có bán không? Người giữ ao cũng nói:
– Muốn bán.
Lúc ấy người ngoại đạo và trưởng giả Tu-đạt cùng tranh nhau mua hoa, nâng giá lên đến trăm ngàn lượng vàng mà vẫn chưa thôi.
Người bán hoa hỏi ngoại đạo:
– Ông mua hoa để làm gì? Người ngoại đạo đáp:
– Để cúng dường trời Na-la-diên cầu phước. Anh lại hỏi trưởng giả Tu-đạt:
– Ông mua hoa để làm gì? Trưởng giả Tu-đạt trả lời:
– Để cúng Phật. Người giữ ao hỏi:
– Phật là người thế nào?
– Đức Phật là Bậc thấy suốt việc quá khứ, hiểu rõ việc vị lai, là Bậc tôn kính trong ba cõi, được chư Thiên, loài Người kính ngưỡng.
Người bán hoa nghe nói, trong lòng vui mừng, suy nghĩ: “Trưởng giả là người dè dặt, suy xét kỹ lưỡng, không vội vàng hấp tấp, vậy mà hôm nay vì một cành hoa này mà muốn mua với giá trăm ngàn lượng vàng”. Nghĩ xong, người ấy cầm hoa định bỏ đi, trong tâm nghĩ: “Chắc chắn phải có sự lợi ích lớn nên hai người không kể mắc rẻ, nhất định muốn mua.”
Bấy giờ người bán hoa liền bảo hai vị:
– Hoa của tôi không bán, tôi muốn tự mình đem hoa cúng dường Thế Tôn.
Tu-đạt nghe nói, vui mừng khôn xiết, liền dẫn người cầm hoa đến gặp Đức Phật Thế Tôn. Vị ấy thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời. Liền sinh tâm kính tin, rải hoa mình đang cầm lên thân Phật. Hoa ở trong không trung tự nhiên biến thành lọng hoa, mỗi bước Phật đi, đứng, lọng hoa cũng theo che chở không rời.
Người giữ ao thấy sự biến hóa, liền gieo năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nhờ công đức căn lành rải hoa cúng Phật này, con nguyện ở đời vị lai, nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ giải được giải thoát; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con nguyện giúp họ vào Niết-bàn:
Người giữ ao phát nguyện xong, Đức Phật mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước tới bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô có, có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay, ông có thấy người giữ ao rải một cành hoa lên mình Ta để cúng dường hay không? Ở đời vị lai, qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa, người ấy sẽ được thành Phật hiệu là Hoa Thạnh, độ thoát chúng sinh không có hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên
Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có hai vị Phạm chí một người tin sâu Phật pháp, thường nói về các công đức của Như Lai, rằng Ngài là Đấng Trung Tôn bậc nhất trong ba cõi. Vị Phạm chí thứ hai thì bị vướng mắc tà kiến sâu nặng, nói rằng đệ tử của giáo chủ sáu phái ngoại đạo là bậc nhất, không ai sánh bằng,
Cứ rối rắm như thế, nên họ tranh cãi nhau mãi. Khi tin này đến tai vua Ba-tư-nặc, vua cho mời hai Phạm chí đến hỏi lý do tại sao có sự tranh cãi. Vị Phạm chí kính tin ngoại đạo nói:
– Ngài Phú-lâu-na… mà tôi thờ phụng thật sự có thần lực hơn hẳn Sa-môn Cù-đàm kia.
Vua lại hỏi vị Phạm chí có tâm kính tin Phật:
– Sa-môn Cù-đàm, mà ông thờ phụng có thần lực gì không?
Phạm chí đáp:
– Sa-môn Cù-đàm mà tôi thờ phụng có thần lực không ai sánh bằng.
Sau khi nghe hai vị Phạm chí nói, vua Ba-tư- nặc bảo hai vị rằng:
– Các khanh mỗi người đều tự khen ngợi vị Thiên thần mà mình thờ phụng là bậc nhất, trong bảy ngày nữa ta sẽ vì các khanh triệu trăm ngàn vạn dân chúng đến tại một sân trống để xem sự thần nghiệm. Vậy các khanh hãy tự mình đốt hương, rải hoa, rưới nước rồi thỉnh thầy mình đến trong hội để cúng dường.
Nghe vua nói, hai Phạm chí cùng chấp nhận. Đến ngày thứ bảy, vua ra sắc lệnh cho dân chúng nhóm họp. Hai Phạm chí đứng trước đám đông, mỗi vị đều phát lời thệ nguyện. Vị Phạm chí kính tin Phú-lâu-na... liền cầm hương hoa và tịnh thủy đứng trước mọi người cầu nguyện:
– Nếu ngài Phú-lâu-na..., bậc mà tôi thờ phụng thật có thần lực xin hãy làm cho hương hoa và tịnh thủy này nương hư không đến chỗ thầy tôi, để thầy biết sự cầu nguyện của tôi mà đến trong hội này; còn nếu ngài không có thần lực thì hương hoa và tịnh thủy không bay đi được. Cầu nguyện rồi, vị Phạm chí tin Phú-lâu-na tung hương hoa và tịnh thủy. Nhưng các thứ ấy đều rơi xuống đất, nằm yên tại chỗ.
Mọi người thấy không có linh nghiệm, đều cho rằng:
– Phú-lâu-na... thật sự không có thần lực gì, chỉ thọ nhận sự cúng dường của chúng tôi và nhân dân trong nước, một cách luống uổng.
Sau khi mọi người nói như vậy, vị Phạm chí có tâm kính tin Phật cũng tung hương hoa và tịnh thủy lên hư không, rồi phát lời thệ nguyện:
– Nếu Như Lai thật sự có thần lực, thì xin khiến cho các hoa có mùi thơm và tịnh thủy mà tôi rải này bay đến chỗ Ngài, Ngài cũng biết tâm con mà đến trong hội này.
Phạm chí vừa nói dứt lời, liền tung hương hoa và tịnh thủy lên thật xa, khói hương bay tỏa khắp thành Xá-vệ; các hoa được tung lên hư không liền biến thành lọng hoa, che phía trên Như Lai và theo từng bước chân Ngài đi, đứng, lọng hoa cũng theo che chở không rời; còn nước tịnh thủy thì như lưu ly từ xa tung rải trên đất trước mặt Thế Tôn.
Lúc ấy Đức Thế Tôn liền hiện ra trước mặt mọi người.
Bấy giờ, mọi người thấy sự biến hóa như vậy đều khen là việc chưa từng có; họ càng sinh kính tin và không còn thờ phụng các ngoại đạo.
Bấy giờ lời nguyện của Phạm chí kia đã thành tựu, Phạm chí liền năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với tất cả công đức đốt hương, rải hoa, vẩy tịnh thủy này, con nguyện đời vị lai nếu có chúng sinh mù tối, con sẽ làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện sẽ cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ được giải thoát; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con sẽ giúp họ vào Niết-bàn.
Phạm chí phát nguyện xong, Đức Phật mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Đức Phật.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan bước ra bạch Đức Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay, ông có thấy vị đại Phạm chí kia dùng hương hoa và tịnh thủy cúng dường Ta không?
A-nan bạch Phật:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Đời vị lai, trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa, vị đại Phạm chí ấy sẽ được thành Phật hiệu là Bất Động, độ thoát chúng sinh không có hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, có hai vị quốc vương thường hay tức giận tranh chấp với nhau, giết hại nhiều dân chúng. Vua Ba-tư-nặc thấy hai vị vua ấy cứ trôi lăn trong chỗ sống chết, sợ rằng khó có thể cứu vớt. Từ trong chỗ sống chết muốn được sự hòa giải giữa hai quốc vương, vua Ba-tư-nặc liền đến gặp Phật, bước tới dưới chân Đức Phật rồi lui ngồi sang một bên, bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, hôm nay Như Lai là Đấng Pháp Vương Vô Thượng, quán sát chúng sinh có chúng sinh nào bị khổ nạn thì đến cứu giúp, có khả năng hòa giải sự tranh chấp. Nay, hai vị quốc vương thường chiến đấu với nhau gây nhiều thiệt hại, kết oán thù đã lâu chưa hòa giải được. Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi hòa giải cho hai vị vua ấy, để họ không tranh chấp với nhau nữa.
Đức Phật liền chấp nhận. Hôm sau, Đức Phật đắp y ôm bát, dẫn các Tỳ-kheo đến vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại.
Lúc ấy hai quốc vương đang dàn trận đánh nhau. Trong đó, một quốc vương vì yếu hèn sinh tâm rất sợ hãi bèn lui về chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói bài kệ vô thường cho vua nghe:
Có cao rồi có rơi
Có thường rồi có hoại
Có sinh phải có chết
Có hợp ắt có tan.
Quốc vương nghe Đức Phật nói kệ xong, tâm ý mở tỏ chứng quả Tu-đà-hoàn, liền ở trước Phật cầu xin xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Bấy giờ quốc vương râu tóc tự rụng, thân mặc pháp phục, liền thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng quả A-la-hán.
Quốc vương thứ hai nghe tin Phật đã hóa độ vị vua kia và cho xuất gia, trong lòng thanh thản không còn lo sợ gì. Vua cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật rồi ngồi sang một bên, nghe Phật nói pháp, trong lòng rất vui mừng và thỉnh Đức Phật, Phật liền hứa khả. Vua trở về nước mình sắm sửa các thức ăn ngon, thỉnh Phật và chúng Tăng vào cung cúng dường.
Đức Phật và các Tỳ-kheo thọ thực xong, quốc vương liền đến trước Phật phát thệ nguyện rộng lớn:
– Với công đức căn lành cúng dường này, con nguyện ở đời vị lai nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện giúp họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện sẽ cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ được giải thoát; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con sẽ giúp họ vào Niết-bàn.
Quốc vương phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Ông có thấy vua Bàn-già-da cúng dường Ta không?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Vâng. Bạch Thế Tôn, con có thấy. Phật dạy:
– Nhờ cúng dường Ta nên vị vua ấy không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự vui sướng, qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa, sẽ được thành Phật hiệu là Vô Thắng, độ khắp chúng sinh không thể hạn lượng. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Ngày
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và vua A-xà-thế thường hay tức giận tranh chấp với nhau, hai bên thường đem bốn thứ binh: Tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh giao chiến với nhau. Lúc ấy quân vua Ba-tư-nặc bại trận đến ba lần, quân lính tan tát; chỉ còn một mình vua chạy thoát vào thành, nên vua rất buồn khổ, hổ thẹn ngã lăn ra đất, bỏ ăn bỏ ngủ. Khi đó, có vị trưởng giả có rất nhiều tài bảo không thể tính kể. Trưởng giả nghe vua sầu não, bèn đến tâu vua:
– Hạ thần có nhiều vàng bạc, châu báu muốn dâng cho đại vương. Đại vương hãy mua voi ngựa, tuyển mộ binh lính để chiến đấu, sẽ thắng được vị vua kia. Nay cớ chi đại vương phải lo buồn như vậy? Vua liền chấp nhận. Sau đó trưởng giả xuất ra nhiều châu báu để hiến cho vua. Vua Ba-tư-nặc liền cho tuyển mộ binh lính, đi khắp các nước để cầu sách lược.
Lúc ấy có một người thanh niên khỏe mạnh đến xin gia nhập vào quân đội của vua. Một hôm, người thanh niên này đến tinh xá Kỳ hoàn, có nghe hai tướng sĩ bàn luận với nhau về cách chiến đấu. Một tướng sĩ nói:
– Khi chiến đấu nên cho quân khỏe mạnh đi trước, kế đến là quân khỏe vừa và sau cùng là quân yếu.
Nghe được lời bàn luận ấy, người thanh niên về trình báo lên vua về cách chiến đó. Vua Ba-tư- nặc nghe xong, cho tập hợp bốn binh chủng, y theo lời bàn luận của người tướng sĩ ấy, cho lính khỏe đi trước, lính yếu theo sau. Khi ra trận giao chiến, quả nhiên vua Ba-tư-nặc thắng được quân địch, thâu được nhiều voi ngựa và bắt được vua A-xà- thế. Vua Ba-tư-nặc vui mừng cùng vua A-xà-thế ngồi trên xe báu, về đến chỗ Đức Phật. Đến nơi vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay đối với vị vua ấy, hoàn toàn con không có oán hận gì. Nhưng vị vua ấy đối với con lại sinh tâm oán thù. Tuy nhiên, phụ vương của vua A-xà-thế đối với con là bạn thân cho nên con không nỡ sát hại vua ấy. Con muốn thả vua ấy trở về nước ông.
Lúc đó, Đức Phật khen vua Ba-tư-nặc:
– Lành thay! Lành thay! Đối với người thân cũng như không thân, tâm thường bình đẳng. Đó là điều Thánh hiền thường khen ngợi.
Đức Phật liền nói kệ cho vua nghe:
Thua thì sinh lo sợ
Thắng thì tâm vui mừng
Nay ông thả vua ấy
Cả hai đều vui vẻ.
Nếu vứt bỏ hơn thua
Là điều vui hơn hết.
Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói kệ xong, liền thả vua A-xà-thế về nước ông. Sau đó, vua Ba-tư-nặc tự mình trở về nước Xá-vệ, tự nghĩ: “Sở dĩ Ta chiến thắng là nhờ vị trưởng giả kia hiến cúng tiền bạc châu báu để tuyển mộ tướng sĩ, nay mới thắng trận”. Nghĩ xong, vua liền cho mời vị trưởng giả đến, nói:
– Ta nhờ khanh cung cấp trân bảo để tuyển mộ quân lính, chiến đấu được thắng trận. Nay ta sẽ đền ân khanh, ta cho khanh tùy ý ước nguyện.
Lúc ấy vị trưởng giả quỳ xuống tâu với vua:
– Xin đại vương đừng bắt tội thì hạ thần mới dám nói.
Vua bảo:
– Ta cho phép khanh nói.
Vị trưởng giả tâu:
– Nay hạ thần muốn thay đại vương làm vua trong bảy ngày để trị vì thiên hạ.
Vua Ba-tư-nặc liền chấp nhận để thỏa mãn ước nguyện của trưởng giả. Vua cho đánh trống, chính thức lập trưởng giả lên ngôi làm vua và đánh trống thông báo cho dân chúng trong nước hay biết, khiến đều được tự tại.
Lúc ấy trưởng giả làm vua cho người đem sắc lệnh ban đến các tiểu quốc, lệnh ban: “Trẫm cho phép các tiểu vương được bãi việc triều chính trong bảy ngày, để đến triều bái ta, quy y Tam bảo, thỉnh Phật cúng dường.”
Bảy ngày trôi qua, trưởng giả rất vui mừng, gieo năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn trước Phật:
– Với công đức bảy ngày làm vua, con nguyện ở đời vị lai nếu có chúng sinh mù tối, con nguyện làm cho họ được mắt sáng; chúng sinh không nơi nương tựa, con nguyện làm nơi nương tựa; chúng sinh không ai cứu giúp, con nguyện cứu giúp họ; chúng sinh chưa giải thoát, con sẽ giúp họ được giải thoát; chúng sinh chưa vào Niết-bàn, con sẽ giúp họ vào Niết-bàn.
Trưởng giả phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Ông có thấy vị đại trưởng giả làm vua bảy ngày không?
Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Trưởng giả ấy nhờ công đức thỉnh Ta, nên qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa ở đời vị lai, sẽ được thành Phật hiệu là Tối Thắng, độ khắp chúng sinh không có hạn lượng. Vì vậy Ta mỉm cười.
Khi Phật nói về truyện nhân duyên của vị trưởng giả làm vua, có người chứng quả Tu-đà- hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, có người chứng quả A-la- hán, có người phát tâm Bích-chi-phật, có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, bên bờ sông Y-la-bạt, có những người lái đò đang đậu thuyền ở bến sông. Khi ấy, Đức Như Lai hướng dẫn các Tỳ-kheo đến một ngôi làng bên kia sông, vì Ngài muốn qua đó để hóa độ những người lái đò ấy.
Từ bờ bên kia, các người lái đò thấy Phật đến, ai cũng vui mừng chèo thuyền qua sông.
Lúc ấy họ bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng:
– Thưa Thế Tôn, ngày mai xin Thế Tôn từ bi để chúng con được đưa Ngài qua sông.
Đức Phật bằng lòng. Họ sửa sang lại thuyền, lấp bằng đường sá, sạch sẽ, quét sạch gạch ngói rác rưởi, treo cờ phướn, rưới nước thơm trên đất, rải các hoa thơm, chuẩn bị ghe thuyền, chờ Phật và chúng Tăng đến.
Hôm sau, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến bờ sông để xuống thuyền sang sông. Khi đến ngôi làng kia, Đức Phật và đại chúng trải đồ ngồi an tọa. Sau khi quan sát thấy Đức Phật và chúng Tăng đã ngồi yên, các người lái đò tự tay dâng thức ăn ngon cúng dường, Phật và chúng Tăng thọ trai xong, các người lái đò khao khát được nghe Phật nói pháp.
Lúc ấy Đức Phật liền giảng cho họ nghe pháp Tứ đế. Tâm ý họ được mở tỏ, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Khi ấy các Tỳ-kheo thấy sự cúng dường này và việc sang sông, lấy làm lạ cho là việc chưa từng thấy có, liền bước ra bạch Phật:
– Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được sự cúng dường tự nhiên và việc đi thuyền qua sông như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe! Ta sẽ giải thích rõ ràng cho các thầy nghe!
Vô lượng kiếp về quá khứ, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-diêm-bà.
Lúc ấy Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến một nước khác để giáo hóa chúng sinh. Khi đến một bờ sông, ở đấy có những người đi buôn từ xứ khác tới, họ mang theo nhiều châu báu cũng đến bên bờ sông. Những người đi buôn thấy Đức Phật Thế Tôn cùng sáu vạn hai ngàn vị La-hán, rất sinh lòng kính tin, bèn bước đến, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Ngài cũng định qua sông sao? Đức Phật đáp:
– Phải, Ta muốn qua sông.
Sau khi hỏi và biết ý định của Đức Phật, những người khách buôn liền sắm sửa các thức ăn ngon để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật và đại chúng thọ trai xong, những người đi buôn bạch Phật:
– Cúi xin Đức Thế Tôn qua sông trước, vì e rằng bọn cướp sẽ đến đoạt lấy y bát và đồ dùng của các Tỳ-kheo.
Lúc ấy Đức Phật liền xuống thuyền qua sông. Ngài nói pháp cho những người đi buôn nghe bằng mọi cách, mọi người đều vui mừng phát tâm Bồ- đề. Đức Phật thọ ký cho người dẫn đầu đoàn buôn: “Đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu- ni, độ khắp chúng sinh, nhiều không thể tính lường”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết rằng người dẫn đầu đoàn người đi buôn ấy nay chính là Ta, còn những người đi buôn thời ấy là sáu vạn hai ngàn vị La-hán. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy, cho nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên các cõi trời, cõi người, thường thọ hưởng sự vui. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, thành Vương xá.
Bấy giờ Thế Tôn hướng dẫn sáu vạn hai ngàn vị A-la-hán đến nước Câu-tỳ-la. Dân chúng nước này bẩm tính hiền lành, nhân từ hiếu thuận, tâm hồn rộng lượng bao dung. Đức Như Lai suy nghĩ: “Nay Ta nên xây dựng một giảng đường nhiều tầng bằng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để giáo hóa dân chúng.” Khi Đức Phật nghĩ như vậy, trời Đế Thích biết được tâm niệm của Ngài, liền cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… ai nấy đều mang gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để dâng lên Thế Tôn và xây dựng một giảng đường lớn cúng dường Đức Phật, với các tiện nghi như giường, ghế, đồ nằm, mền nệm cõi trời và thức ăn Tu-đà cõi trời, tự nhiên đều đầy đủ để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.
Bấy giờ dân chúng thấy việc ấy cho là việc lạ chưa từng có, đều nói rằng: “Hôm nay Như Lai có công đức lớn, nên mới cảm được chư Thiên cúng dường như thế.” Nói xong, họ cùng nhau đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Lúc ấy Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho họ nghe, giúp họ mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu- đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Các Tỳ-kheo thấy chư Thiên cúng dường các tiện nghi như vậy, khen là việc chưa từng có, bèn bạch Phật:
– Chẳng hay đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay khiến chư Thiên cúng dường như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ ràng.
Thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, tại nước Ba- la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Phạm Hạnh. Một hôm, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, lần hồi đến hoàng cung của vua Quán Đảnh. Vua nghe tin Phật đến, liền ra khỏi thành đón rước, bước tới đảnh lễ dưới chân Phật rồi thỉnh Phật và chúng Tăng:
– Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chiếu cố, chúng con xin cung thỉnh Ngài vào trong và nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.
Được Phật hứa khả, vua bèn thỉnh Đức Phật an trụ tại giảng đường Trùng các, với đầy đủ giường đồ nằm và các thức ăn ngon cúng dường trong ba tháng. Ngoài ra vua còn phụng hiến cho Đức Phật và chúng Tăng mỗi vị một chiếc y báu. Đức Phật bèn nói pháp bằng mọi cách cho vua nghe, vua sinh tâm vui mừng và phát tâm Bồ-đề. Lúc ấy Đức Phật liền thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh, nhiều không thể tính lường.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Quán Đảnh thời ấy nay chính là Ta; còn các quan lúc bấy giờ nay là sáu vạn hai ngàn vị La-hán. Nhờ công đức cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên mà trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có năm trăm người đi buôn đang trên đường đi qua nước khác để buôn bán kiếm lời. Họ đến một quãng đồng trống thì bị lạc đường, không biết mình phải đi lối nào, lại gặp trời nắng hạn, nên họ khát nước gần chết. Mọi người đều quỳ lạy các Thiên thần để cầu phù hộ, nhưng chẳng có sự cảm ứng nào.
Lúc ấy trong số những người đi buôn, có một Ưu-bà-tắc nói với những người đi buôn:
– Đức Như Lai với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào bị khổ nạn, thì Ngài liền đến cứu giúp. Vậy ngay bây giờ, chúng ta nên thành tâm xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà” để cầu Ngài đến cứu.
Những người đi buôn nghe nói vậy, đều đồng thanh xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà, nguyện Ngài đến cứu giúp cho chúng con thoát cảnh nóng khát này”.
Lúc ấy Đức Phật từ xa nghe những người đi buôn xưng niệm danh hiệu Phật, Ngài cùng trời Đế Thích liền đến nơi những người đi buôn bị nạn, làm tuôn mưa lành. Những người đi buôn được hết nóng khát, đều vui mừng trở về nước mình thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường. Đức Phật liền hứa khả. Họ dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rải nước thơm trên đất, rải hoa thơm, đốt các thứ hương và sắm sửa đầy đủ các thức ăn ngon, rồi đến bạch Phật:
– Cúi xin Đức Thế Tôn biết cho! Đã đến giờ, thức ăn đã dọn bày đầy đủ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y, ôm bát hướng dẫn các Tỳ-kheo đến nhà người đi buôn thọ cúng. Đức Phật thọ trai xong, những người đi buôn trong lòng khao khát muốn nghe pháp. Ngài liền nói pháp bằng mọi cách cho họ nghe. Họ được mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bước tới trước Đức Phật bạch:
– Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được những người đi buôn cúng dường mà họ còn đắc đạo nữa?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích cho các thầy rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Chiên-đàn Hương. Một hôm, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến nước của vua Pháp Hộ, lúc ấy trời nắng hạn, mùa màng thất thu. Vua nghe tin Đức Phật đến, liền cùng các quan ra đón rước Ngài. Vua thỉnh Phật: “Cúi xin Thế Tôn từ bi nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng”. Đức Phật liền nhận lời. Vua bèn làm hồ tắm trong thành để Phật và chúng Tăng tắm rửa. Vua phát thệ nguyện rộng lớn: “Với công đức này, con nguyện trời Đế Thích tuôn mưa lành khắp cõi Diêm-phù-đề để lúa má được thấm nhuần, cứu giúp chúng sinh.”
Vua phát thệ nguyện xong, trời liền đổ mưa, khắp nơi đều được thắm nhuần. Lúc ấy vua cho làm tám vạn bốn ngàn chiếc bình quý để đựng nước Phật tắm rồi đem phân phát trong tám vạn bốn ngàn thành, khắp cõi Diêm-phù-đề, mỗi thành nhận một bình. Vua còn truyền lệnh xây tháp cúng dường bình nước ấy, để mọi người nhân đó phát tâm Bồ-đề vô thượng, Đức Phật Chiên-đàn thọ ký cho vua: “Đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, độ khắp chúng sinh không thể tính lường”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Pháp Hộ thời ấy nay chính Ta, còn các quan lúc bấy giờ nay là các Tỳ- kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật lúc ấy cho nên trong vô số lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui, đến ngày nay Ta đã thành Phật vì vậy trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thuộc thành Vương xá.
Bấy giờ, tại khu làng Na-la có nhiều thứ bệnh dịch đang hoành hành, giết hại dân chúng. Mọi người đều tranh nhau cầu thỉnh chư Thiên, Thiện thần, hy vọng dịch bệnh dần dần sẽ được đẩy lùi. Họ cứ quỳ lạy như thế nhưng bệnh dịch không hề chấm dứt.
Lúc ấy trong làng có một Ưu-bà-tắc nói với mọi người:
– Đức Như Lai ở đời, thường làm cho chúng sinh lợi ích an vui, chúng ta nên cùng nhau nhất tâm xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà” để cầu Ngài cứu giúp.
Mọi người nghe nói, tất cả đều cùng nhau xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà, cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót che chở chúng con thoát các bệnh khổ tật dịch.”
Bấy giờ, Thế Tôn với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm, thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào bị khổ ách, Ngài liền đến hóa độ và dạy họ pháp lành để dứt hẳn các khổ. Thấy những người dân bệnh tật này cùng nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật để mong được cứu bệnh, Đức Như Lai hướng dẫn các Tỳ-kheo đến ngôi làng ấy, từ bi an ủi dân chúng và khuyên họ làm việc lành, các dịch bệnh cùng lúc đều được đẩy lùi, không còn các họa hoạn. Khi ấy, người trong làng thấy Như Lai làm lợi ích, an vui cho dân chúng, họ bèn nói:
– Nay chúng ta nhờ ân đức của Phật mà được thoát chết, vậy ngày mai chúng ta phải mở hội thỉnh Phật cúng dường.
Nói như vậy rồi, mọi người cùng nhau đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi quỳ thẳng, chắp tay thỉnh Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận lời cầu thỉnh cúng dường của chúng con.
Đức Phật liền nhận lời. Biết Phật đã nhận lời, mọi người lập tức trở về nhà sửa sang đường sá cho bằng phẳng, dọn dẹp gạch đá, các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước thơm trên đất, trải hoa thơm, sắp đặt bàn ghế, sắm sửa đầy đủ các món ăn ngon. Sau đó họ đến bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, thức ăn đã chuẩn bị đầy đủ, cúi xin Đức Thế Tôn biết cho đã đến giờ.
Bấy giờ Thế Tôn đắp y ôm bát dẫn đầu các Tỳ- kheo đến ngôi làng ấy để thọ cúng. Đức Phật và chúng Tăng thọ trai xong, dân chúng khát khao muốn nghe pháp. Phật liền nói pháp cho họ nghe bằng nhiều cách tâm ý được mở tỏ, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay cảm hóa được dân chúng khiến họ cúng dường và đẩy lùi được tật bệnh như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Quang. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đến nước của vua Phạm Ma. Vua thỉnh Phật cúng dường, sau đó vua quỳ thẳng chắp tay bạch Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi cứu giúp dân chúng trong nước này khỏi những tật dịch tai ách.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền cởi y Tăng-già-lê đang mặc trao cho vua. Vua cho người treo y lên đầu ngọn cờ để dân chúng cùng nhau cúng dường, các bệnh dịch cùng lúc bị đẩy lùi, không còn các họa hoạn. Vua rất vui mừng, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật liền thọ ký cho vua Phạm Ma: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh rộng khắp không thể tính lường”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Phạm Ma lúc bấy giờ nay chính là Ta; còn các quan lúc bấy giờ nay là các Tỳ-kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật, nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa quá đổi ngu si, kiêu mạn, ganh ghét với Đức Thế Tôn, xúi giục vua A- xà-thế lập ra pháp chế sai lầm, đánh trống ra lệnh không cho dân chúng mang vật cúng dường đến chỗ Cù-đàm.
Lúc ấy trong thành có người tin Phật, khi nghe sự cấm chế ấy, buồn rầu than khóc, bi thảm áo não; cảm động đến cung điện của chư Thiên làm họ dao động không yên.
Khi ấy, trời Đế Thích suy nghĩ: “Cung điện của ta vì lý do gì lại dao động như vậy?” Trời Đế Thích liền tự quán sát thấy vua A-xà-thế chế lập ra điều cấm đoán không đúng pháp, khiến người trong thành phải ưu sầu, than khóc, cảm đến cung điện của mình, làm cho dao động như thế.
Trời Đế Thích lập tức xuống trần, lớn tiếng nói:
– Nay chính Ta sẽ cúng dường Phật và chúng Tăng.
Nói như vậy rồi, trời Đế Thích liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời thọ nhận sự cúng dường của con.
Đức Phật không nhận lời. Trời Đế Thích lại bạch Phật:
– Nếu Thế Tôn không thọ nhận sự cúng dường suốt đời của con, thì xin Ngài hãy thọ nhận con cúng dường trong năm năm.
Phật cũng không nhận. Trời Đế Thích lại bạch:
– Nếu không thọ nhận sự cúng dường của con trong năm năm, xin Ngài thọ nhận sự cúng dường của con trong năm tháng.
Đức Phật cũng không nhận. Trời Đế Thích lại bạch Phật:
– Nếu không nhận sự cúng dường của con trong năm tháng, xin Ngài thọ nhận sự cúng dường của con trong năm ngày. Phật liền nhận lời. Lúc ấy trời Đế Thích biến vườn trúc Ca-lan-đà rực rỡ như cung điện Tỳ-xà-da, với đầy đủ tiện nghi nào giường, ghế, nào dụng cụ để trải nằm, cùng thức ăn Tu-đà của cõi trời, đựng trong chén bát bằng vàng, được các vị trời tự tay dâng cúng Đức Phật và chúng Tăng.
Vua A-xà-thế đang đứng trên lầu cao, từ xa thấy vườn trúc Ca-lan-đà rực rỡ sáng chói như cung điện của chư Thiên, thấy thức ăn Tu-đà cõi trời đựng trong chén bát bằng báu, thấy trời Đế Thích và chư Thiên tự tay dâng cúng thức lên Đức Phật và chúng Tăng.
Bấy giờ, vua A-xà-thế nhìn thấy sự việc ấy, liền ăn năn tự trách, trong tâm rất giận dữ mắng nhiếc Đề-bà-đạt-đa:
– Ông là kẻ ngu si, tại sao xúi giục ta bày ra những pháp chế không đúng phép đối với Đức Thế Tôn?
Nói rồi, vua A-xà-thế càng sinh tâm rất kính tín đối với Phật. Lúc ấy các quan thưa với vua A-xà- thế:
– Ngay bây giờ, xin đại vương hãy hủy bỏ các pháp chế sai lầm trước kia, để cho dân chúng được gặp Như Lai và tùy ý cúng dường.
Vua A-xà-thế liền ra lệnh sai người đánh trống thông cáo cho dân chúng biết, từ đây về sau cho phép dân chúng được sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Thế Tôn.
Bấy giờ, Thế Tôn nói pháp cho họ nghe bằng nhiều cách, khiến họ được mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư- đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng. Khi các Tỳ- kheo thấy sự việc ấy, khen là việc chưa từng có, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được trời Đế Thích cúng dường như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Điện. Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa, đến nước của vua Già-sí. Hay tin Phật đến, nhà vua cùng các quan ra đón rước Thế Tôn. Vua quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Xin Thế Tôn từ bi nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.”
Đức Phật liền hứa khả. Sau khi thọ cúng, Đức Phật bèn nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách. Vua phát tâm Bồ-đề, Đức Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ khắp chúng sinh nhiều không thể tính kể.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Già-sí lúc ấy nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay chính là các Tỳ-kheo. Tất cả đều nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui. Cho đến ngày nay, Ta đã thành Phật, do đó trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, trong thành có một vị phụ tướng, tên là Lê-xa, tin theo kiến chấp tà vạy điên đảo, chẳng tin nhân quả, lại còn xúi giục vua A-xà-thế phản nghịch giết cha, tự lên ngôi vua. Khi lên ngôi vua rồi, A-xà-thế rất vui mừng, ra lệnh cho thần dân lập đại hội, tập hợp một trăm ngàn vị Bà-la-môn, cùng nhau đặt ra pháp chế nghiêm khắc, không cho ai được đến chỗ Cù-đàm để thưa hỏi điều gì. Các Bà- la-môn nghe biết việc ấy, họ không đến chỗ Phật nữa. Mỗi khi lén dụm đầu bàn tán thì có người nói rằng: “Kinh Vi-đà của ta có dạy rằng: Sa-môn Cù- đàm là người đứng đầu trong các vị trời của chúng ta. Vậy bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau xưng danh hiệu Ngài, có thể Ngài sẽ đến trong hội, chúng ta sẽ suốt đời thờ phụng Ngài.”
Nói lời ấy rồi họ cùng nhau xưng niệm: “Nam- mô Cù-đàm Sa-môn, chúng con xin thỉnh Ngài đến trong hội này.”
Bấy giờ Như Lai thường với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm, quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào hóa độ được, thì Ngài đến hóa độ. Đức Phật biết rằng các Bà-la-môn kia căn lành đã thuần thục, đáng được Ngài hóa độ, nên Ngài biến thân mình thành trời Đế Thích, đi trên hư không đến trong hội chúng Bà-la-môn. Các Bà-la-môn đều đứng dậy đón rước, thỉnh Đế Thích an tọa và thưa:
– Giờ đây, sự mong cầu của chúng con đã đạt được, chúng con nguyện suốt đời sẽ thờ phụng Ngài.
Đế Thích bèn khen ngợi. Khi Thế Tôn biết tâm của các Bà-la-môn đã được điều phục, Ngài hiện lại thân Phật và theo chỗ ứng hợp giảng nói pháp Tứ đế cho họ nghe, khiến họ được mở tỏ tâm ý. Các Bà-la-môn đều chứng quả Tu-đà-hoàn, ai cũng vui mừng, cùng nhau đặt bày trăm món uống ăn, thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường.
Các Tỳ-kheo thấy sự việc ấy, bước ra trước bạch Phật:
– Thuở xưa, Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được các Bà-la-môn sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Phật và chúng Tăng như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Diệu Âm. Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến chỗ vua Bảo Điện. Khi nghe tin Đức Phật đến nhà vua cùng các quan ra đón rước. Vua thỉnh Phật: “Cúi xin Thế Tôn nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng.” Đức Phật liền nhận lời. Trong ba tháng, sau khi thọ nhận sự cúng dường của vua, tại chỗ thọ trai, xuất hiện hoa sen bằng bảy chất báu, trong hoa sen có hóa Phật đang ngồi kiết già, phát ra ánh sáng rực rỡ, trên đến cõi trời A-ca-nị-trá, dưới đến địa ngục A-tỳ. Vua Bảo Điện thấy sự diễn biến như vậy, liền phát tâm Bồ-đề vô thượng. Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ khắp chúng sinh nhiều không thể tính kể.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết vua Bảo Điện lúc ấy nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay là các Bà- la-môn. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự an vui. Cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, vì vậy trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có năm trăm vị thần Càn- thát-bà đánh đàn cầm rất hay, ngày đêm thường trổi nhạc, ca múa để cúng dường Như Lai, tiếng tăm vang xa, khắp nơi đều nghe biết.
Khi ấy ở phía Nam của thành có vua Càn-thát- bà tên là Thiện Ái, cũng đánh đàn cầm rất giỏi, hay xướng nhạc ca múa, trong nước không ai bằng. Từ đó Thiện Ái sinh tâm kiêu mạn, cho rằng không ai có thể sánh bằng mình. Nghe nói ở phương Bắc cũng có vị Càn-thát-bà, ngón đàn rất giỏi, xướng nhạc ca múa cũng hay, cho nên Thiện Ái muốn đi đến đó, trải qua mười sáu nước lớn. Khi đến nơi, Thiện Ái gảy cây đàn một dây, đàn có thể phát ra bảy thứ âm thanh, mỗi âm thanh lại có hai mươi mốt giai điệu, khi dân chúng nghe đàn và xem ca múa đều hớn hở vui mừng, nhảy múa điên cuồng không kìm chế được, rồi dân chúng cùng theo Thiện Ái tâu vua xin tranh tài đánh đàn cầm cùng Càn-thát-bà bổn xứ.
Khi Thiện Ái đến nơi, vị thần giữ cửa và Càn- thát-bà bổn xứ vào tâu vua:
– Có vua Càn-thát-bà ở phương Nam, tên là Thiện Ái có tài sử dụng đàn cầm, trổi nhạc vui chơi, hiện đang ở ngoài cửa, nhân nghe bên vua có Càn-thát-bà cũng giỏi đàn cầm ca múa nên từ xa đến đây có ý muốn xin vua cho phép cùng thi tài đàn cầm.
Lúc ấy vua Ba-tư-nặc bảo người giữ cửa hãy mau gọi Thiện Ái vào. Khi diện kiến hai bên đều vui vẻ. Thiện Ái tâu vua:
– Nhân nghe nhà vua cũng có vị Càn-thát-bà có tài sử dụng đàn cầm, trổi nhạc vui chơi. Vậy đại vương cho phép cùng thi thố tài nghệ được chăng?
Vua đáp:
– Ta không ngại gì, có một nơi cách đây không xa, chúng Ta hãy đến đó tùy ý thi tài.
– Vua Càn-thát-bà Thiện Ái bằng lòng, cả hai cùng đến chỗ Thế Tôn. Phật hiểu ý vua Ba-tư-nặc, liền hóa thành vua Càn-thát-bà đem đến bảy ngàn nhạc thần Ban-già-thi-khí của cõi trời, mỗi vị đều cầm đàn lưu ly đứng hầu hai bên. Khi ấy, vua Ba- tư-nặc bảo Thiện Ái:
– Đây là các vị thần âm nhạc của Ta, bây giờ người hãy thi tài với họ.
Thiện Ái liền cầm cây đàn một dây lên gảy, đàn phát ra bảy âm thanh khác nhau, trong mỗi âm thanh lại có hai mươi mốt giai điệu. Tiếng đàn Thiện Ái hòa hợp tiết tấu rất hay, làm cho mọi người vui sướng nhảy múa đến mê loạn không tự kiềm chế được. Bấy giờ Như Lai cầm đàn lưu ly Ban-già-thi-khí một dây lên gảy phát ra hàng vạn âm thanh rất uyển chuyển dịu dàng thanh thoát. Người nghe vui cười ca múa, hớn hở thích thú.
Lúc ấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái nghe tiếng đàn, khen là chưa từng có, trong lòng hổ thẹn vì tiếng đàn của mình. Thiện Ái lui ra quỳ thẳng chắp tay thỉnh Đức Như Lai làm Bậc Đại Sư và học hỏi các phương pháp về đàn cầm.
Lúc ấy Đức Phật thấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái đã dứt bỏ tánh ngã mạn, tâm đã được thuần phục. Ngài trở lại thân cũ. Các Tỳ-kheo đều ngồi im lặng. Thiện Ái sợ hãi, khắp mình nổi ốc, liền đối trước Phật sinh tâm kính tin, quỳ thẳng chắp tay xin được nhập đạo. Đức Phật bảo Thiện Ái:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Thiện Ái râu tóc tự rụng xuống, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu đã chứng quả A-la-hán.
Vua Ba-tư-nặc thấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái tâm đã thuần phục lại còn chứng đạo, trong tâm vui mừng quỳ thẳng thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường. Đức Phật liền nhận lời, vua bảo các quan cho dân chúng sửa sang, dọn dẹp gạch đá, các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước thơm trên đất, rải các thứ hoa, đặt bày giường ghế, sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.
Các Tỳ-kheo thấy việc cúng dường ấy lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có, bèn bạch Phật:
– Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay Ngài được cúng dường âm nhạc không lúc nào xa rời như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ nói rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Chánh Giác. Một hôm Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, khi đến nước của vua Phạm Ma, Phật và đại chúng ngồi kiết già dưới gốc cây, nhập tam-muội Hỏa quang, ánh sáng chiếu khắp trời đất.
Lúc ấy vua Phạm Ma cùng các quan và mấy vạn người rời thành để du ngoạn, trổi xướng âm nhạc ca múa vui chơi, từ xa thấy Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đang ngồi kiết già dưới gốc cây, ánh sáng rực rỡ, soi khắp đất trời như trăm ngàn mặt trời, vua sinh tâm vui mừng dẫn các kỹ nữ đến chỗ Phật, cùng bước tới dưới chân Ngài, trổi xướng âm nhạc cúng dường, rồi quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, rủ lòng Đại bi thương xót vào cung thọ nhận sự cúng dường của chúng con.”
– Đức Phật liền chấp nhận. Vua liền cho sắm sửa các món ăn ngon cúng dường. Thọ trai xong, Đức Phật liền nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua phát tâm Bồ-đề. Đức Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Phạm Ma lúc bấy giờ nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay là các Tỳ-kheo. Đều nhờ công đức cúng dường Phật khi ấy, nên trong vô lượng kiếp Ta và các ông không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; thường sinh lên cõi trời, cõi người hưởng sự an vui, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật và được cúng dường âm nhạc không lúc nào xa rời như vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Hành Hình,
Xin Phật Xuất Gia
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một gã khờ tên là Như Nguyện. Như Nguyện thích việc giết chóc, trộm cắp, tà dâm, bị dân chúng tố giác nên vua ra lệnh bắt trói và đem ra ngoài chợ. Sau đó vua ra lệnh giải Như Nguyện đến pháp trường xử tử.
Khi sắp hành hình thì Như Nguyện được gặp Đức Phật, bèn đảnh lễ cung kính và tự nói lên tội trạng:
– Con đáng tội chết, không còn sống bao lâu nữa. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, xin vua cho con xuất gia, rồi chết cũng không ân hận.
Lúc ấy Đức Phật liền hứa khả, bảo A-nan:
– Ông hãy đến thưa với vua Ba-tư-nặc rằng hôm nay Ta muốn xin kẻ tử tội để cho y xuất gia.
Nghe lời Phật dạy, A-nan liền đi gặp vua Ba- tư-nặc, thưa rằng:
– Hôm nay Đức Thế Tôn muốn xin vua kẻ tử tội để cho y được xuất gia.
Vua vâng lời Phật, thả tội nhân ra về giao cho Thế Tôn. Đức Phật độ cho người này xuất gia, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả La-hán. Các Tỳ-kheo thấy Như Nguyện sắp chết mà được cứu thoát và xuất gia không bao lâu lại chứng quả, nên khen là việc chưa từng có, bèn bước tới bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay lời Ngài nói ra được vua tin tưởng thực hành? Ngài cứu người tội kia được an toàn tính mạng, chẳng hay việc ấy như thế nào xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Đế Tràng. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh trong các thôn làng. Trên đường đi, Đức Phật gặp một Tiên nhân. Thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng soi chiếu như trăm ngàn mặt trời, Tiên nhân vui mừng đảnh lễ dưới chân Phật, thỉnh Ngài an nghỉ và sắm sửa các món thức ăn ngon cúng dường. Cúng dường xong, Tiên nhân phát nguyện:
“Nguyện đời vị lai, khi con nói ra điều gì, đều được người tin tưởng thực hành theo.”
Đức Phật liền đáp rằng: “Ta sẽ khiến điều mong cầu của ông được toại nguyện như Ta hiện giờ, không hề sai khác”.
Nghe Phật dạy, Tiên nhân liền đối trước Phật phát tâm Bồ-đề vô thượng. Đức Phật liền thọ ký cho Tiên nhân: “Ở đời vị lai, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, Tiên nhân thuở ấy nay chính là Ta. Do đời quá khứ Ta kính thuận Phật, nên nay Ta nói ra điều gì cũng được mọi người tin nhận, cứu được người tội kia thoát chết, lại còn được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thành Vương xá.
Bấy giờ vua Tần-bà-sa-la cùng với mười hai ức na-do-tha người đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn cùng chúng Tỳ-kheo rủ lòng Từ bi thọ nhận bốn thứ cúng dường của chúng con suốt đời.
Nhưng Đức Phật không thọ nhận. Tần-bà-sa-la lại bạch Phật:
– Nếu Thế Tôn không nhận sự cúng dường trọn đời của con, xin Ngài nhận cúng dường của con trong mười hai năm.
Đức Phật cũng không thọ nhận. Vua lại bạch Phật:
– Nếu Đức Thế Tôn không nhận sự cúng dường của con trong mười hai năm, vậy xin Ngài nhận sự cúng dường của con trong mười hai tháng.
Đức Phật cũng không thọ nhận. Vua lại bạch Phật:
– Nếu Đức Thế Tôn không thọ nhận sự cúng dường mười hai tháng, vậy xin Ngài thọ nhận bốn thứ cúng dường trong của con ba tháng.
Đức Phật liền nhận lời. Vua Tần-bà-sa-la ra lệnh cho nhân dân sửa sang đường xá, dọn dẹp các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước hương trên đất, rải hoa thơm, sắp đặt giường, đồ nằm, chiếu mền, sắm sửa đầy đủ các thức ăn ngon, vua cùng các quan đều cầm lọng che mát Đức Phật cùng chúng Tăng trên đường đi về thành Vương xá.
Đến nơi, Đức Phật vừa bước chân vào cổng thành, thì mặt đất tự nhiên rung chuyển, các vật báu trong đất tự nhiên vọt lên; người mù thấy được sáng, người điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, kẻ nghèo được của; trên không trung âm nhạc không ai trổi mà tự nhiên réo rắt vang lừng; các loài voi, ngựa, chim muông cũng kêu hót lên những tiếng hòa êm tai; từ không trung mưa hoa đẹp tuôn xuống, rải khắp đến cung vua.
Vua Tần-bà-sa-la cho sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng ba tháng. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua sinh tâm vui mừng cúng dường lên Đức Phật và chúng Tăng y Gia-thi-dục, rồi lui ngồi sang một bên.
Lúc ấy các Tỳ-kheo đảnh lễ bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được sự cúng dường thượng diệu như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra hiệu là Sai-ma. Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, đến nước Bảo Thắng. Vua nước ấy là Già-sí, nghe tin Phật đến tâm ông rất vui mừng, bèn cùng các quan ra khỏi thành đón rước. Vua đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót thọ nhận sự cúng dường của chúng con.
Đức Phật liền thọ nhận. Vua bèn cho người sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật. Sau khi thọ trai, Đức Phật nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách. Vua sinh tâm vui mừng, đối trước Phật phát tâm Bồ-đề vô thượng. Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni làm lợi ích an vui cho chúng sinh nhiều không thể tính kể.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Già-sí lúc bấy giờ chính là Ta; các quan lúc ấy nay là các Tỳ-kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật thời ấy, cho nên trong vô lượng kiếp Ta và các thầy không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng; cho đến ngày nay Ta đã thành Phật vì thế có trời, người đến cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Trúc Ca-Lan-Đà
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thuộc thành Vương xá.
Bấy giờ, trong thành có một trưởng giả tên là Cù-sa, là người có vô lượng tài bảo không tính kể được. Nhưng trưởng giả không tin Phật pháp, mà tin theo những kiến chấp tà vạy điên đảo, thờ phụng ngoại đạo.
Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên quán sát thấy vị trưởng giả này vì quá tin tà kiến, e rằng khi trưởng giả bị đọa vào ba đường thì không thể cứu được. Tôn giả sinh tâm thương xót, liền tìm cách bảo với trời Đế Thích:
– Nay ông hãy biến hóa vườn trúc Ca-lan-đà thành bảy món báu, không khác nào cung điện ở các cõi trời, treo phướn lọng và các linh báu, rải hoa thơm cõi trời trên mặt đất, các món ăn Tu-đà cõi trời tự nhiên đầy đủ để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng; có các rồng Y-la-bát cầm phướn lọng che trên đảnh Phật, lại có các vua rồng mỗi vị cũng cầm các thứ phướn lọng che cho các Tỳ-kheo, phu nhân Xá-thi dẫn theo các thể nữ, mỗi người đều cầm quạt đứng hai bên quạt hầu Đức Phật và các Thần âm nhạc Ban-già-thi-khí, cũng trổi âm nhạc cúng dường Phật.
Trưởng giả thấy cảnh tượng ấy, khen là điều chưa từng có. Từ đó, trưởng giả sinh lòng kính tin đối với Phật. Ông đến chỗ Phật, bạch Đức Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót thọ nhận sự cúng dường của con. Đức Phật nhận lời. Trưởng giả trở về nhà lo sửa soạn các thức ăn uống, rồi sai người đến bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đã dọn bày đầy đủ, cúi xin Đức Thế Tôn biết cho đã đến giờ.
Lúc ấy Thế Tôn đắp y, ôm bát dẫn đầu các Tỳ- kheo đến nhà trưởng giả thọ trai. Sau khi thọ trai, Đức Phật liền nói pháp cho trưởng giả nghe bằng nhiều cách, tâm ý trưởng giả được mở tỏ và chứng quả Tu-đà-hoàn.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, những việc thần biến và sự cúng dường như thế cho là điều lạ chưa từng có, bèn bạch Phật:
– Đời trước Đức Như Lai Thế Tôn đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được quả báo như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Mãn Nguyện. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh; đến nước của vua Phạm Ma. Nghe tin Phật đến, vua và các quan ra thành đón rước.
Vua bước đến lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn thọ nhận sự cúng dường của con.
Đức Phật liền nhận lời. Vua bèn ra lệnh cho các quan chuẩn bị trăm thức uống ăn. Sau khi thọ trai, Đức Phật liền nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua phát tâm Bồ-đề. Đức Phật thọ ký cho vua:
– Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể hạn lượng.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Phạm Ma thời ấy nay chính là Ta. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy cho nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự vui sướng, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, vì thế mà trời, người cúng dường Ta.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Thành Bích-Chi-Phật
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại nước Ma-kiệt- đề. Ngài dẫn đầu các Tỳ-kheo lần lượt đi giáo hóa các nơi. Đến bên bờ sông Hằng, thấy một ngôi tháp cũ kỹ đổ nát, không ai tu sửa, các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đây là ngôi tháp gì mà đổ nát, không người sửa sang tu bổ như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại, có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa. Vua cai trị nhân dân bằng chánh pháp, đời sống nhân dân rất sung túc, an vui, trong nước không có chiến tranh, tai dịch, tật bệnh; có nhiều voi ngựa, trâu dê, lục súc và các thứ vật báu. Tuy nhiên, vì không có con, vua phải cầu
Thần linh để mong có con mà cũng chẳng có kết quả gì.
Bấy giờ, trong vườn của vua có một cái ao, trong ao mọc lên một bông sen rất đẹp. Khi hoa nở có một đứa bé đang ngồi kiết già trên bông sen, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân, miệng phát ra mùi thơm hoa Ưu-bát- la, các lỗ chân lông trong thân có mùi hương chiên- đàn.
Khi ấy người giữ ao thuật lại việc này cho vua nghe. Nhà vua rất vui mừng, bèn cùng hậu phi đến tận nơi. Thấy đứa bé ấy, vua và hậu phi hoan hỷ khôn xiết, muốn chạy lại bồng lấy đứa bé, thì đứa bé liền nói kệ cho vua nghe:
Đại vương thường mong cầu Nên nay ứng nguyện vua.
Vì thấy vua không con
Nay đến làm con vua.
Vua, hậu phi và thể nữ nghe nói thế, ai cũng vui mừng liền ẵm lấy đứa bé về hoàng cung nuôi dưỡng.
Đứa bé lớn dần và mỗi bước chân đi đều có mọc hoa sen, trong lỗ chân lông trên thân thoát ra mùi hương chiên-đàn. Do đó, vua đặt tên cho con là Chiên-đàn Hương.
Một hôm, đứa bé tự quan sát thấy mỗi dấu chân mình đều có mọc hoa sen, ban đầu thì tươi đẹp, nhưng không bao lâu đã úa rụng, bèn tự nghĩ: “Thân ta đây rồi cũng phải chết”. Tâm ngộ được lý vô thường, nên đứa bé thành Bích-chi-phật, thân bay lên hư không, hiện mười tám thứ thần biến rồi nhập Niết-bàn.
Lúc ấy vua, hậu phi và thể nữ đều ngửa mặt lên trời mà kêu khóc. Sau đó đem thi hài Bích-chi-phật về hỏa thiêu, nhặt lấy xá-lợi, xây tháp cúng dường. Cho nên ngôi tháp này chính là ngôi tháp ngày xưa ấy.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
– Vị Bích-chi-phật ấy đời trước tu phước đức gì mà được quả báo như vậy, cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-la-ca-tôn-đà. Trong chánh pháp của Ngài, có một vị trưởng giả có vô lượng tài bảo không thể kể tính được. Sau khi trưởng giả này qua đời, vợ và con đều tự sống riêng. Người con ham mê sắc dục, có lần thấy một dâm nữ, trong lòng ham muốn nên lấy trăm lạng vàng để mua vui một đêm. Trải qua nhiều năm như vậy, tài vật dần dần cạn kiệt không còn gì nữa. Từ đó, dâm nữ từ chối mọi ham thích của người con. Khi gã nài nỉ để mua vui một đêm, thì dâm nữ nói rằng: “Nếu anh có thể cho tôi một bông hoa đẹp, tôi sẽ bằng lòng”.
Lúc ấy người con trưởng giả suy nghĩ: “Nhà ta không còn vật gì để mua được hoa cho dâm nữ, trong tháp vua hiện giờ chắc chắn có hoa đẹp, ta sẽ lấy trộm đem cho nàng và nàng sẽ phục vụ ta”. Gã muốn trộm hoa nhưng tháp có người coi giữ, nên không thể lấy được. Chàng ta bèn chui qua lỗ trống để vào tháp và trộm được hoa đem cho dâm nữ. Qua một đêm hành lạc, ngày hôm sau toàn thân chàng ta đầy lở lói, gây đau đớn khổ não không thể tả. Gã liền nhờ các thầy thuốc chữa trị, họ đều nói rằng: “Cần phải có gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để thoa lên ghẻ thì mới trị lành.”
Lúc ấy gã nghĩ rằng trong nhà chẳng còn tài vật, nên gã bèn bán ngôi nhà, được sáu mươi vạn đồng tiền vàng và mua được sáu lạng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn trị ghẻ. Gã nói với thầy thuốc: “Căn bệnh hiện nay của tôi thuộc về tâm bệnh, các ông chỉ trị bên ngoài làm sao hết được”. Nói xong, gã bèn đem sáu lạng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn mà mình đã mua nghiền thành bột, rồi bỏ vào trong tháp, phát thệ nguyện rộng lớn:
“Ngày xưa Đức Như Lai đã tu các khổ hạnh, thệ nguyện cứu độ làm cho chúng sinh thoát khỏi ách nạn mà họ mắc phải, nay thân con một đời đọa đày khốn khổ, cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót trị bệnh cho con.” Phát lời thệ ấy rồi, người con trưởng giả liền lấy hai lạng chiên-đàn bột để bồi thường cho bông hoa trị giá hai lạng và tận lòng cúng dường hai lạng tô bên tháp để cầu xin sám hối.
Lúc ấy các mụt ghẻ liền được trị lành, các lỗ chân lông thoảng ra mùi thơm hương chiên-đàn. Nghe hương thơm ấy, người con trưởng giả vui mừng khôn xiết, phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức ấy, nên người con trưởng giả không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người đều có mọc lên hoa sen đẹp đẽ, các lỗ chân lông luôn tỏa mùi thơm hương chiên-đàn.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, con của vị trưởng giả dùng bột chiên-đàn tô tháp cúng dường thời ấy, nay chính là vị Bích-chi-phật kia.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y ôm bát, dẫn đầu các Tỳ-kheo vào thành khất thực. Khi Đức
Phật và chúng Tăng vào một con hẻm, thì thấy một người đàn bà đang ôm đứa trẻ ngồi dưới đất. Từ xa, đứa trẻ thấy Phật, trong lòng vui mừng xin mẹ mua hoa, mẹ liền mua cho.
Đứa trẻ được hoa, bèn mang đến chỗ Phật, rải lên mình Ngài cúng dường. Trong không trung các hoa này biến thành lọng hoa; mỗi bước chân Phật đi đứng lọng hoa cũng theo che chở Phật không rời. Đứa trẻ thấy sự diễn biến như vậy rất vui mừng, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nguyện nhờ công đức căn lành cúng dường này, khiến đời vị lai con được thành Bậc Chánh Giác, hóa độ chúng sinh như Phật không khác.
Nghe đứa trẻ phát nguyện xong, Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Đức Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn kính, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo A-nan:
– Nay ông có thấy đứa trẻ rải hoa cúng dường
Ta không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy.
Đức Phật dạy:
– Đứa trẻ rải hoa cúng dường Ta này, ở đời vị lai không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng. Ba a-tăng- kỳ kiếp nữa, đứa bé ấy sẽ thành Phật hiệu là Hoa Thạnh, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, trong nước có một người dẫn đầu đoàn lái buôn tên là Phù Hải. Một hôm Phù Hải cùng những người đi buôn ra biển để tìm châu báu. Người dẫn đầu đoàn người lái buôn có người vợ trẻ, dung mạo xinh đẹp, vì thương nhớ chồng nên đêm ngày buồn nhớ, mong chồng mau trở về. Một hôm, người vợ đến một đền thờ Thiên thần Na-la- diên cầu nguyện:
– Nếu trời có linh thiêng thì không trái lời cầu nguyện của con người; vậy Thần hãy giúp cho chồng tôi sớm trở về an ổn, tôi sẽ đền ân Ngài bằng vàng bạc, chuỗi anh lạc. Nhưng nếu chồng tôi không về, tôi sẽ đem phẩn tiểu bất tịnh để hủy nhục Thần linh.
Người phụ nữ nguyện như thế rồi, mấy ngày sau, quả đúng như lời nguyện, người chồng an ổn trở về. Người vợ rất vui mừng, cùng các người hầu, đem vàng bạc, chuỗi anh lạc, vòng xuyến đến ngôi đền thờ trời. Đi giữa đường, người phụ nữ ấy gặp Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đang trên đường vào thành Vương xá. Bấy giờ người phụ nữ thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng soi chiếu như trăm ngàn mặt trời; trong lòng vui mừng, muốn rải vàng bạc, chuỗi anh lạc lên thân Phật cúng dường.
Lúc ấy các người hầu bảo đây không phải là trời Na-la-diên và ngăn cản không cho người nữ ấy cúng dường, nhưng người phụ nữ không nghe, vẫn rải anh lạc lên thân Phật cúng dường. Trên hư không anh lạc biến thành lọng báu; theo bước chân Phật đi đứng, lọng báu ấy cũng theo che chở không rời.
Thấy sự biến hóa ấy, người phụ nữ càng sinh lòng kính tin, bèn gieo năm vóc sát đất và phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nay con đem công đức căn lành rải anh lạc cúng dường Phật, khiến ở đời vị lai con được thành Chánh giác, hóa độ khắp chúng sinh như Đức Phật không khác.
Người phụ nữ phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ khuôn mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu Đức Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười? Cúi xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay ông có thấy người phụ nữ rải vàng bạc, chuỗi anh lạc cúng dường Ta không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Phật dạy:
– Người phụ nữ này, ở đời vị lai không bị đọa vào đường ác, được sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng. Mười ba kiếp nữa, nàng sẽ thành Phật hiệu là Kim Luân Anh Lạc, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Bỏn xẻn
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một thể nữ hậu cung của vua Ba-tư-nặc, tên là Thiện Ái, tuổi đã già nua, nhưng rất tham lam, bỏn xẻn, không thích bố thí, chỉ muốn để mình hưởng thụ.
Khi ấy, vì muốn hóa độ bà nên một hôm Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mặc y, ôm bát, dùng năng lực thần thông từ dưới đất vọt lên đứng trước mặt lão bà để khất thực.
Bà lão nổi giận không chịu bố thí. Ăn xong, còn một ít trái cây hư thối và nước rửa chén không uống được, khi Ngài Mục-kiền-liên xin, bà tức giận cho ngay. Ngài Mục-kiền-liên nhận rồi bay lên hư không, hiện ra mười tám thứ thần biến.
Bà lão thấy sự biến hóa liền sinh tâm kính tin, thành tâm quy y sám hối. Ngay trong đêm ấy, bà qua đời, tái sinh làm người ở dưới một gốc cây ngoài đồng trống, hằng ngày ăn trái cây, uống nước để sống.
Một thời gian sau, một hôm vua Ba-tư-nặc cùng các quan đi dạo chơi săn bắn. Khi đuổi theo bầy nai, đoàn người đói khát gần chết, từ xa thấy có bóng cây, mọi người hy vọng có thể tìm nước uống. Đoàn người nhắm hướng đó thẳng tới. Cách bóng cây không xa, họ thấy có ánh lửa. Vua không cho các quan đến gần. Từ xa thấy có người ngồi dưới gốc cây, vua liền hỏi vọng tới:
– Ngươi là ai mà ở dưới gốc cây vậy? Người kia đáp:
– Tôi là thể nữ ở hậu cung của vua Ba-tư-nặc tuổi đã già nua, tên là Thiện Ái. Vì không thích ra ân bố thí nên khi chết đi tôi thác sinh ở đây. Cúi mong đại vương rủ lòng thương hãy vì tôi mà thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường, giúp tôi thoát được tấm thân xấu ác này.
Vua hỏi:
– Tôi làm việc phước hồi hướng cho bà, biết bà có được hưởng không?
Người kia đáp:
– Hễ làm phước thì được, chính đại vương sẽ thấy.
Nghe nói thế, vua Ba-tư-nặc ra lệnh cho binh lính lui ra xa một trăm bước, chỉ lưu lại một người để xem có gì báo lại. Còn vua trở lại hoàng cung lo việc thiết trai thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường. Nếu kẻ kia được hưởng phước, thì có binh lính sẽ mau báo về cho vua hay hư thật thế nào.
Vua sắp sửa thức ăn cúng dường rồi thỉnh Đức Phật và chúng Tăng chú nguyện xong. Tự nhiên thức ăn đủ các vị ngon hiện ra trước mặt người kia. Lúc ấy vua Ba-tư-nặc mới biết là thật, càng thêm kính tin Phật. Đức Phật bèn nói pháp cho vua nghe, vua được chứng quả Tu-đà-hoàn.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Hàm Hương, là người có vô lượng tài bảo, không thể tính kể; bẩm tính hiền nhu, biết kính tin Tam bảo. Ông thường tự suy nghĩ: “Thân ta và những tài sản vật báu vốn là hư vọng không thật, như bóng trăng dưới nước, bóng nắng lúc trời nắng… không thể giữ được lâu bền”. Nghĩ vậy xong, trưởng giả đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi lui đứng sang một bên, bạch:
– Con muốn thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng Tăng, cúi xin Phật nhận lời.
Đức Phật liền nhận lời. Trưởng giả trở về nhà, sửa soạn các thức ăn ngon rồi nhờ người đến bạch Phật:
– Thức ăn đã dọn bày đầy đủ, cúi xin Đức Phật biết cho đã đến giờ.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y, ôm bát dẫn đầu các Tỳ-kheo đến nhà vị trưởng giả thọ trai.
Đức Phật và chúng Tăng thọ trai xong, trưởng giả rất vui mừng; ông ngồi trên chiếc ghế nhỏ đối trước Phật khao khát được nghe pháp. Đức Phật liền nói pháp cho trưởng giả nghe bằng nhiều cách. Tâm ý trưởng giả được mở tỏ, nhân đó trưởng giả phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nguyện đem công đức căn lành cúng dường này, đời sau con được thành Chánh giác, độ khắp chúng sinh như Đức Phật không khác.
Trưởng giả phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ trên mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười? Cúi xin Ngài nói rõ cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay ông có thấy trưởng giả Hàm Hương sắm sửa các món ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Nhờ công đức căn lành cúng dường này, nên trong chín mươi kiếp ở đời vị lai trưởng giả không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, được sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng và thân sâu sau cùng được thành Bích-chi-phật, hiệu là Hàm Hương, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành. đề.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại nước Ma-kiệt-
Bấy giờ, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo lần lượt đi khắp nơi để hóa độ chúng sinh. Khi đến bên bờ sông Hằng, thấy một người lái đò đang đậu thuyền ở bến sông, Đức Phật bảo người lái đò:
– Ông hãy giúp Ta và chư Tăng qua sông. Người lái đò bảo:
– Ngài phải trả tiền cho tôi, tôi mới đưa Ngài sang sông.
Đức Phật nói:
– Ta cũng là người đưa đò trong ba cõi, Ta và ông cùng nhau cứu vớt chúng sinh khỏi biển sinh tử, chẳng vui hay sao? Như Ương-quật-ma-la là người nặng về giận dữ, giết hại nhân dân mà Ta còn cứu vớt khỏi biển sinh tử; như Ma-na-đáp-đà là người rất kiêu mạn, khinh rẻ kẻ khác, Ta cũng cứu độ ra khỏi biển sinh tử; lại như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là người nặng về ngu si có trí tuệ, Ta cũng cứu độ ra khỏi biển sinh tử… Vô lượng chúng sinh không thể tính kể như thế, Ta cũng đều cứu độ họ ra khỏi biển sinh tử, mà hoàn toàn không đòi hỏi nơi họ điều gì. Vậy giờ đây vì sao ông trước đòi hỏi cho mình rồi sau mới chịu đưa người sang sông?
Đức Thế Tôn dùng mọi cách nói pháp như thế cho người lái đò nghe, nhưng ông ta vẫn khư khư không chịu đưa Đức Phật và các Tỳ-kheo sang sông. Cùng lúc ấy tại bến đò phía dưới cũng có một người lái đò. Nghe lời Phật dạy, trong tâm vui mừng, bước đến bạch Phật:
– Con mong được đưa Đức Phật và chúng Tăng qua sông.
Đức Phật liền chấp nhận. Người lái đò liền chuẩn bị, rồi thỉnh chư Tăng xuống thuyền.
Lúc ấy các Tỳ-kheo, vị thì ở trên hư không, vị thì ở giữa dòng, vị thì qua đến bờ bên kia… Những người lái đò thấy Đức Phật và chúng Tăng hiện các thứ biến hóa như vậy, rất sinh tâm kính tin, khen là việc chưa từng có, bèn kính lễ Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật liền nói pháp cho họ nghe bằng mọi cách, tâm ý họ được mở tỏ, chứng được quả Tu-đà-hoàn.
Người lái đò đòi tiền công lúc nãy thấy người lái đò sau đã đưa Đức Phật và chúng Tăng qua sông, lại thấy các việc biến hóa nên trong tâm rất hổ thẹn, liền gieo năm vóc sát đất, thành kính quy y, sám hối trước Phật và muốn thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường.
Đức Phật liền nhận lời, người lái đò trở về nhà sắm sửa các thức ăn ngon, tự tay dâng thức ăn cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật và các chư Tăng thọ trai xong, người lái đò ngồi trên chiếc ghế nhỏ ở trước Phật, khao khát được nghe pháp.
Đức Phật liền nói pháp cho người lái đò bằng mọi cách. Tâm ý được mở tỏ, nhân đó người lái đò phát thệ nguyện:
– Với công đức căn lành cúng dường này, con nguyện đời vị lai con được thành Chánh giác, hóa độ khắp chúng sinh như Phật không khác.
Người lái đò phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ trên mặt Đức Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười? Cúi xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay ông có thấy người lái đò hổ thẹn, tự trách lỗi lầm của mình, đã thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng Tăng để sám hối không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Người lái đò kia, nhờ công đức sám hối thiết trai cúng dường, nên đời vị lai trải qua mười ba kiếp không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng và thân sau cùng được thành Bích-chi-phật, hiệu là Độ Sinh Tử Hải, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Chiên-Đàn Lên Chân Phật
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có một đứa tớ gái, bản tính hiền lành, biết kính tin Tam bảo.
Có lần, người nhà bảo người tớ gái nghiền hương chiên-đàn, cô tạm thời ra ngoài. Gặp Đức
Phật Thế Tôn, đắp y ôm bát dẫn đầu các Tỳ-kheo vào thành khất thực, người tớ gái rất vui mừng, liền trở vào nhà lấy ít bột chiên-đàn đem thoa lên chân Phật.
Lúc ấy Phật dùng thần lực khiến mây hương chiên-đàn bay tỏa bao trùm khắp thành Vương xá. Người tớ gái thấy sự biến hóa ấy càng sinh tâm kính tin, liền gieo năm vóc sát đất. Nhân đó nàng phát thệ nguyện:
– Với công đức cúng dường mùi hương này, con nguyện đời sau được thoát khỏi hẳn cảnh nghèo khổ thấp hèn sớm thành Chánh giác, hóa độ khắp chúng sinh như Đức Phật không khác.
Người tớ gái phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười? Cúi xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Ông có thấy người tớ gái của trưởng giả xoa hương chiên-đàn lên chân Ta không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy.
Đức Phật dạy:
– Nhờ công đức căn lành xoa hương chiên-đàn lên chân Ta, nên người tớ gái ấy, trong chín mươi kiếp ở đời vị lai thân thể được thơm sạch; không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người thường thọ hưởng sự vui sướng và thân sau cùng được thành Bích-chi-phật, hiệu là Chiên-đàn Hương, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một người nghèo khổ tên là Bạt-đề, sinh sống bằng cách trông coi vườn tược cho người. Một hôm, người nghèo này gánh củi vào thành bán. Khi vào cửa thành anh gặp một Hóa nhân. Hóa nhân nói:
– Nếu ngươi có thể đem củi này cho ta, ta sẽ cho nhà ngươi trăm món thức ăn.
Người nghèo khổ nghe vị Hóa nhân nói vậy, trong lòng mừng rỡ và đem củi cho Hóa nhân.
Lúc ấy Hóa nhân bảo:
– Nay ngươi hãy đem củi này đi theo ta đến tinh xá Kỳ hoàn. Ta sẽ cho các món thức ăn ngon.
Người nghèo liền theo Hóa nhân đến Kỳ hoàn, thấy Phật với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Anh ta rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi hiến cúng số củi cho Phật.
Đức Phật nhận củi rồi cắm xuống đất, Ngài dùng thần lực khiến củi khô trong phút chốc đã mọc cành sinh lá, hoa quả sum suê kết thành chùm rất đẹp, chẳng khác nào cây Ni-câu-đà.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi kiết già dưới gốc cây ấy, giảng nói pháp mầu cho trăm ngàn muôn trời người.
Người nghèo thấy vậy, trong lòng vui mừng, liền gieo năm vóc sát đất, phát thệ nguyện rộng lớn:
– Nguyện đem công đức bố thí củi cho Phật này, khiến đời vị lai con được thành Chánh giác, hóa độ khắp chúng sinh như Đức Phật không khác. Người nghèo phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ trên mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Bấy giờ Tôn giả A-nan bước tới bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Ông có thấy người giữ vườn nghèo khổ bố thí củi cho Ta không?
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật dạy:
– Nhờ công đức căn lành bố thí củi cho Ta với tâm kính tin, cho nên ở đời vị lai trong mười ba kiếp người nghèo này không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, thường thọ hưởng sự vui sướng và thân sau cùng được thành Bích-chi-phật, hiệu là Ly Cấu, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ các trưởng giả giàu có trong nước này đều chưng diện, mặc y phục đẹp, đeo chuỗi anh lạc vàng xuyến, đem theo hương hoa đến, trổi kỹ nhạc cùng nhau tụ họp, định ra ngoài thành để du ngoạn vui chơi. Khi vừa đến cửa thành, các trưởng giả gặp Thế Tôn dẫn đầu các Tỳ-kheo đắp y, ôm bát vào thành khất thực. Các trưởng giả thấy Đức Phật Như Lai có ánh sáng rực rỡ, với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Ai nấy đều vui mừng, đảnh lễ dưới chân Phật, tấu trổi âm nhạc để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Mỗi người đều tung rải các thứ hoa mình mang theo lên thân Đức Phật để cúng dường. Ở trên không trung, các hoa này biến thành lọng hoa, Đức Phật dùng thần lực biến lọng hoa ấy trùm khắp thành Xá-vệ.
Các trưởng giả thấy việc biến hóa như vậy, đều khen là việc chưa từng có, liền gieo năm vóc sát đất, nhân đó phát thệ nguyện:
– Với công đức căn lành tấu trổi âm nhạc này, nguyện cho đời sau chúng con được thành Chánh giác, độ khắp chúng sinh như Đức Phật không khác.
Các trưởng giả phát nguyện xong, Đức Phật liền mỉm cười. Từ trên mặt Phật phát ra ánh sáng năm màu, ánh sáng này nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi trở lại nhập vào đảnh Phật.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Như Lai là Bậc đáng tôn trọng, Ngài không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ, vậy có việc gì khiến cho Như Lai mỉm cười như vậy? Cúi xin Ngài giải thích rõ cho chúng con được biết.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Ông có thấy các trưởng giả này hay không? A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy.
– Nhờ công đức căn lành tấu trổi âm nhạc, rải hoa cúng dường này cho nên trong một trăm kiếp ở đời vị lai các trưởng giả này không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, thường thọ hưởng sự vui sướng và thân sau cùng tất cả đều thành Bích-chi-phật, đều đồng một hiệu là Diệu Thanh, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường. Vì vậy nên Ta mỉm cười.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một người ngu tên là Ác Nô. Ác Nô rình rập đó đây, cướp giết của cải người khác để sinh sống. Có một vị Tỳ-kheo đang ngồi thiền, hành đạo ngoài gò mả. Sắp đến giờ ăn, thầy Tỳ-kheo này đắp y, ôm bát vào thành khất thực. Lúc ấy có vị trưởng giả thấy vị Tỳ-kheo có oai nghi khoan thai nên sinh tâm kính tin, liền vào nhà lấy một xấp vải cúng dường vị ấy.
Trở về nơi gò mả, thầy Tỳ-kheo gặp tên cướp kia. Thấy Tỳ-kheo đang cầm xấp vải đi tới, tên cướp theo hỏi xin. Thầy Tỳ-kheo liền cầm xấp vải đưa cho Ác Nô. Ngày hôm sau, tên cướp trở lại hỏi xin vải nữa và vị Tỳ-kheo cũng cho vải. Đến ngày thứ ba, khi thầy Tỳ-kheo đi khất thực vừa về đến nơi, thì kẻ cướp lại đòi xin bình bát.
Lúc ấy thầy Tỳ-kheo suy nghĩ: “Ta chỉ có một cái bình bát dùng để khất thực nuôi mạng sống, thế mà tên cướp này cũng muốn xin. Thật là tham lam quá sức! Bây giờ, ta phải bày kế truyền pháp Tam quy cho hắn, nhằm sửa trị và để hắn không còn đến quấy nhiễu nữa”.
Nghĩ xong, thầy Tỳ-kheo liền nói với tên cướp:
– Hãy đợi tôi nghỉ một chút rồi sẽ cho bình bát.
Tên cướp nghe vị Tỳ-kheo nói vậy, đành phải ngồi chờ.
Lúc ấy thầy Tỳ-kheo dùng dây giăng bẫy, đầu dây hướng vào phía trong và nói với Ác Nô:
– Bây giờ, ta mệt quá không thể ngồi dậy, ngươi hãy đưa tay vào trong này, ta sẽ trao bát cho. Tên cướp nghe nói liền đưa tay vào trong. Tỳ- kheo ở bên trong giết dây và bắt được Ác Nô trói vào chân giường rồi ra ngoài lấy cây đánh, nói rằng:
– Gậy thứ nhất là quy y Phật.
Tên cướp đau điếng, hồi lâu mới hết. Thầy Tỳ- kheo quở trách bằng mọi cách rồi lại đánh, nói tiếp:
– Gậy thứ hai là quy y Pháp.
Ác Nô bị roi này còn đau hơn nữa, đau đến chết ngất, hồi lâu mới tỉnh lại. Vị Tỳ-kheo tiếp tục quở trách, đánh gậy thứ ba và nói:
– Gậy thứ ba là quy y Tăng.
Lúc ấy Ác Nô thầm nghĩ: “Hôm nay, ta bị trận đòn thấm thía, đau không thể chịu nổi. Nếu ta không cúi đầu, thì vị Tỳ-kheo sẽ truyền cho phép quy y thứ tư nữa, chắc ta phải chết”.
Nghĩ vậy, tên cướp liền xin tạ tội. Khi ấy thầy Tỳ-kheo liền thả cho về.
Ác Nô liền chạy đến chỗ Đức Phật, lớn tiếng nói:
– Thế Tôn thật Đại từ bi dạy các Tỳ-kheo chỉ truyền cho con ba phép quy y, nên con khỏi chết. Chứ nếu thọ bốn quy y, chắc chắn con phải chết không nghi ngờ gì, thì còn đâu nữa mà quy y.
Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm Ác Nô đã được điều phục, Ngài liền nói pháp cho nghe. Tâm ý Ác Nô được mở tỏ, chứng quả Tu-đà-hoàn và xin Phật xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Ác Nô râu tóc tự rụng, thân mặc pháp phục trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập và chứng quả La- hán, đầy đủ ba minh, sáu phép thần thông và tám pháp giải thoát; được trời, người kính trọng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, vào mùa thu, mùa cây trái đang rộ chín. Đức Thế Tôn dẫn đầu các Tỳ-kheo vào các thôn xóm, ăn phải các loại dưa trái, không tiêu hóa được, phần nhiều bị bệnh sốt rét, các thứ bệnh khác phát sinh, nên không thể ngồi thiền, đọc tụng, hành đạo.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Đời trước Như Lai Thế Tôn đã tạo phước đức gì, mà nay ăn món ăn nào cũng đều tiêu hóa được, thân không bệnh khổ; uy nhan Thế Tôn lại càng tươi nhuận như thế?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ta tự nhớ thuở xưa, đã tu hành Từ bi, hòa hợp thuốc thang để bố thí chúng sinh. Vì vậy mà Ta được quả báo không bệnh, hễ ăn các thức ăn nào cũng tiêu hóa được, không bị các bệnh khổ.
A-nan lại bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn, việc thuở xưa như thế nào? Cúi xin Phật giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại có vị vua tên là Liên Hoa. Vua cai trị dân chúng bằng chánh pháp. Đời sống nhân dân sung túc, an vui. Trong nước không có chiến tranh, không có sự chinh phạt lẫn nhau. Dân chúng nuôi nhiều ngựa voi, trâu dê, lục súc, trồng nhiều mía, nho và các thứ dưa trái. Nhưng vì người dân nước ấy tham ăn nhiều, nên không tiêu hóa được và sinh ra các thứ bệnh.
Dân chúng mắc bệnh dìu đỡ nhau đến chỗ vua, xin thuốc trị bệnh. Vua Liên Hoa thấy các người bệnh, sinh tâm Đại bi, cho mời các thầy thuốc đến, ra lệnh bốc thuốc để bố thí cho dân chúng. Nhưng số người bệnh ngày càng nhiều, không thể chữa trị hết, vua Liên Hoa quở trách các thầy thuốc: “Vì duyên cớ gì mà các khanh không trị bệnh cho dân chúng, để họ phải đến cầu ta”.
Các thầy thuốc đáp: “Vì thuốc thang không đủ vị, nên không trị được. Hiện nay chúng thần mắc bệnh còn không tự chữa trị được huống chi chữa trị cho người khác.”
Vua Liên Hoa nghe các thầy thuốc nói như thế, trong lòng buồn bã, hỏi các thầy thuốc: “Vậy còn thiếu món gì?”
Các thầy thuốc đáp: “Người bệnh nhân có máu thịt của loài Xích ngư để ăn thì bệnh mới lành. Các thầy thuốc chúng thần đã tìm khắp nơi, nhưng không đâu có được loài cá ấy. Do đó người bệnh ngày càng nhiều và người chết ngày càng đông.”
Lúc ấy vua Liên Hoa tự nghĩ: “Hiện nay, Xích ngư không câu được, ta nguyện làm loài cá ấy để trị các thứ bệnh cho chúng sinh.” Nghĩ xong, vua gọi thái tử và các quan, phán bảo: “Nay, ta giao đất nước này cho các khanh, hãy cùng nhau cai trị dân chúng thật tốt và không được làm oan ức họ.”
Thái tử và các quan nghe vua nói, trong lòng nghẹn ngào, thương cảm khóc lóc và buồn bã vô cùng. Họ đồng tâu vua: “Chúng thần và thái tử đã làm điều gì không phải, khiến cho đại vương phải thốt ra những lời cay đắng như vậy.”
Lúc ấy vua Liên Hoa bảo thái tử và các quan: “Cho đến nay, ta không thấy các khanh có lỗi lầm gì. Chỉ vì dân chúng trong nước mắc nhiều chứng bệnh khổ, phần đông bị chết, họ cần được ăn máu thịt của loài Xích ngư, thì bệnh mới khỏi được. Vì vậy ta muốn xả thân này để làm loài Xích ngư trị bệnh cho dân chúng, nên hôm nay ta gọi các khanh đến để giao phó đất nước.”
Lúc ấy thái tử và các quan nghe vua nói, đều kêu trời mà than khóc, thật bi thảm nghẹn ngào, chạy đến ôm lấy chân vua mà than: “Bấy lâu, chúng thần nhờ đại vương xót thương che chở; đất nước giàu mạnh, nhân dân thịnh vượng, nhờ ân đại vương mà sống còn, cớ sao trong một sớm đại vương lại bỏ chúng thần mà ra đi.”
Vua Liên Hoa đáp: “Điều ta làm hôm nay cũng vì dân chúng, tại sao các khanh lại cố ngăn cản?”
Lúc ấy thái tử và các quan can ngăn vua bằng mọi cách, nhưng không thể lay chuyển được ý vua. Sau đó, vua Liên Hoa cầm hương hoa lên lầu cao, hướng về bốn phương làm lễ, phát thệ nguyện rộng lớn: “Tôi bỏ thân này, nguyện làm loài Xích ngư lớn trong con sông ở nước Ba-la-nại. Nếu có ai ăn thịt cá này, thì các bệnh đều lành.”
Vua phát nguyện xong, từ trên lầu cao gieo mình xuống đất và chết tại chỗ, sinh vào sông kia làm thân Xích ngư.
Lúc ấy dân chúng nghe dưới dòng sông kia có con Xích ngư rất to, ai nấy đều đem búa rìu tranh nhau tới chặt lấy, được ăn máu tươi của loài cá này, dân chúng đều được hết bệnh. Trên thân Xích ngư, chỗ nào thịt bị cắt đi, thì liền sinh thịt khác đầy đặn trở lại. Cứ như vậy, dần dà trong mười hai năm,
Xích ngư cung cấp máu thịt cho chúng sinh, mà không một mảy may sinh tâm ăn năn. Khi chết, Xích ngư được sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông nên biết vua Liên Hoa lúc bấy giờ, nay chính là Ta hiện nay. Do bỏ thân để cứu mạng chúng sinh, nên trong vô lượng đời, Ta không hề bị bệnh khổ; cho đến ngày nay Ta đã thành Phật.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ các Tỳ-kheo bước ra bạch Phật:
– Hôm nay, vì sao Như Lai thường khen ngợi công đức bố thí là không thể tính lường. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ấy như thế nào? Chúng con mong muốn được nghe.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Ta nhớ thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp tại nước Ba-la-nại, vua nước ấy tên là Phạm Dự. Vua Phạm Dự cai trị nhân dân bằng chánh pháp, do đó mà đất nước mạnh giàu, đời sống nhân dân sung túc và an vui. Ngoài ra dân chúng còn nuôi nhiều voi ngựa, trâu dê, lục súc.
Lúc ấy trong nước có một vị Bà-la-môn rất giỏi về xem tướng. Bà-la-môn này tâu với vua: “Trên bầu trời của nước ta hôm nay có sao hỏa xuất hiện, trời sẽ nắng hạn trong mười hai năm. Do đó, lúa thóc không thâu hoạch được, dân chúng sẽ bị đói khổ.”
Vua Phạm Dự nghe nói, trong lòng rất lo buồn, suy nghĩ: “Ta phải làm thế nào để cứu giúp mạng sống của dân chúng?”, liền ra lệnh cho các giáo sư toán học hãy tính xem trong kho còn bao nhiêu lúa thóc, dân chúng được bao nhiêu người, mỗi người được bao nhiêu lúa thóc.
Lúc ấy các giáo sư toán học vâng lệnh vua, tính toán rồi tâu lên vua: “Mỗi người dân được một thăng thóc, số thóc chỉ đủ cung cấp trong sáu năm, số người chết rất nhiều, chỉ một mình vua có được hai thăng thóc.”
Bấy giờ có một Bà-la-môn từ phía sau đi đến, tâu vua: “Tôi là người duy nhất không nhận được phần thóc, mạng sống chỉ trong sớm chiều vậy xin đại vương chia ít nhiều thóc gạo cho tôi.”
Vua Phạm Dự nghe nói, tự nghĩ: “Nếu hôm nay, vì đói khát chút ít mà ta không chịu được thì làm sao trong vô lượng kiếp ở đời vị lai ta có thể vì chúng sinh mà chịu đựng các khổ đói khát, nóng lạnh cho được?”. Nghĩ xong, vua liền bố thí nửa số thóc cho vị Bà-la-môn.
Lòng thành ấy cảm động đến cung điện của chư Thiên, làm cho dao động không yên. Bấy giờ, trời Đế Thích tự hỏi: “Hôm nay, cung điện của ta vì sao lại bị dao động như vậy, hay là mạng ta sắp hết rồi chăng, nên có sự biến động ấy!”
Nghĩ vậy, Đế Thích liền quán sát, thấy vua Phạm Dự trong nước gặp nạn đói khổ đã vì chúng sinh, mà bỏ được điều khó bỏ, do đó mà cảm động đến cung điện trời, làm cho dao động như thế. Trời Đế Thích suy nghĩ: “Bây giờ ta phải đến đó thử xem thiện tâm của vua là chân thật hay giả dối.”
Nghĩ xong, trời Đế Thích liền hóa thân thành một vị Bà-la-môn ốm yếu, chống gậy, mạng sống không còn bao lâu nữa, đến cửa Hoàng cung để xin vua bố thí.
Vua suy nghĩ: “Thân ta đây, bố thí hay không bố thí rồi cũng sẽ chết”. Vua nghĩ thà bố thí làm lợi ích chúng sinh; có chết cũng không ăn năn, cho nên vua chỉ còn một thăng thóc, mà vẫn bố thí cho Bà-la-môn.
Bà-la-môn nhận thóc rồi hỏi vua: “Trong lúc đói khổ, mà đại vương đã bỏ được cái khó bỏ; là để cầu được làm Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay sự vinh hoa khoái lạc nơi trần thế?”
Vua đáp: “Với công đức bố thí này ta không cầu được làm Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay sự khoái lạc nơi trần thế, mà Ta nguyện ở đời vị lai sẽ được thành Chánh giác để cứu chúng sinh khỏi cảnh đói khát, nóng lạnh.”
Vua phát nguyện xong, Bà-la-môn khen ngợi: “Lành thay! Đây là việc chưa từng có.”
Lúc ấy Bà-la-môn biến trở lại thân Đế Thích và bảo vua:
“Từ nay, đại vương hãy ra lệnh cho dân chúng, phải làm đất và gieo giống, bảy ngày sau ta sẽ đổ mưa.”
Vua Phạm Dự nghe nói, trong lòng rất phấn khởi, liền ra lệnh cho nhân dân kịp thời cày đất gieo giống, bảy ngày sau chắc chắn sẽ có mưa.
Dân chúng nghe vua ra lệnh, ai nấy đều lo cày đất, đến ngày thứ bảy thì trời tuôn mưa lành, tất cả lúa mạ gieo xuống gặp mưa phát triển tươi tốt, chẳng bao lâu, mùa màng kết quả, thâu hoạch nhiều lúa thóc. Từ đó, đời sống nhân dân sung túc, an vui vô cùng.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Phạm Dự lúc bấy giờ nay chính là Ta. Vì bố thí có công đức lớn như vậy, cho nên Ta thường khen quả báo của việc bố thí là không thể tính lường.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ các Tỳ-kheo an cư sắp mãn, gần đến ngày Tự tứ, mùa xuân, mùa thu, thường nhóm họp lại để nghe Đức Phật nói pháp.
Lúc ấy các Tỳ-kheo, có vị thì giặt y, người thì xông bát, có vị đập nhuộm, có vị may vá… như vậy mỗi người đều có công việc của mình. Có một vị Tỳ-kheo tên là Thi-tỳ tuổi già mắt mờ đang ngồi dưới đất, vá y mà không xỏ chỉ được. Tỳ-kheo ấy lên tiếng nói lớn:
– Ai muốn cầu phước đức, xin hãy xỏ chỉ giùm tôi.
Lúc ấy Đức Phật nghe lão Tỳ-kheo nói vậy,
Ngài liền đến cầm tay Tỳ-kheo để xỏ chỉ. Lão Tỳ- kheo biết được tiếng nói của Phật, liền bạch:
– Như Lai Thế Tôn đã trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu tâm Đại từ bi, đủ sáu Ba-la-mật, hoàn thành hạnh Bồ-tát đã dứt bỏ kết sử, công đức viên mãn và đã thành Phật. Nay vì sao Ngài còn giúp con xỏ chỉ để tìm phước đức?
Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
– Vì từ xưa đến nay, Ta không quên thói quen đời trước, nên Ta vẫn xỏ chỉ giúp thầy để tu phước đức.
Nghe Đức Phật nói vậy, các Tỳ-kheo liền đảnh lễ, bạch Phật:
– Thuở xưa Như Lai đã tu công đức gì đối với lão Tỳ-kheo này? Cúi xin Phật giải thích cho chúng con được biết.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có vị vua tên là Thi-tỳ. Vua ấy cai trị nhân dân bằng chánh pháp, đất nước giàu mạnh nhân dân sung túc an vui. Vua thường thích bố thí, hay giúp đỡ kẻ nghèo khổ, đối với tiền tài, vật báu, đầu, mắt, tủy, não… hễ có người tới xin là vua liền bố thí không hề tiếc rẻ.
Lòng thành ấy cảm động đến cung điện chư Thiên, làm cho dao động không yên.
Lúc ấy trời Đế Thích suy nghĩ: “Có việc gì mà cung điện của ta dao động như vậy, hay là mạng ta sắp hết rồi sao?”
Nghĩ xong, Đế Thích liền quán sát thấy vua Thi-tỳ đã không tiếc tài bảo, hễ ai đến xin vua liền bố thí. Do lòng thành cảm động làm cho cung điện dao động như vậy. Đế Thích nghĩ: “Vậy ngay bây giờ ta phải đến thử thiện tâm của vua xem hư thật thế nào”.
Bấy giờ, trời Đế Thích liền hóa thân thành con chim đại bàng thật lớn, bay đến Hoàng cung nói với vua:
– Tôi nghe đại vương thích làm việc bố thí, không trái ý muốn một chúng sinh nào. Nay tôi đến đây muốn cầu xin một điều, mong đại vương hãy chiều theo tâm nguyện của tôi.
Vua Thi-tỳ nghe xong, tâm rất hoan hỷ đáp:
– Hễ ngươi cầu xin điều gì, ta không bao giờ tiếc rẻ.
Chim đại bàng thưa:
– Tôi không cần vàng bạc, châu báu hay tài vật, mà chỉ cần đôi mắt của vua để làm món ăn ngon. Ngay bây giờ xin đại vương hãy cho tôi đôi mắt.
Vua Thi-tỳ nghe chim đại bàng nói, vui vẻ cầm dao bén tự khoét mắt mình để bố thí cho chim đại bàng, mà không sợ đau đớn và lòng không mảy may hối hận.
Lúc ấy trời đất rung chuyển sáu cách, các thứ hoa trên trời tuôn rải như mưa.
Chim đại bàng hỏi vua:
– Đại vương tự khoét mắt bố thí cho tôi, không hối hận sao?
Vua đáp:
– Ta bố thí đôi mắt cho ngươi, thật sự không có tâm hối hận.
Đại bàng nói:
– Nếu không hối hận, lấy gì làm bằng chứng? Vua trả lời:
– Nay, ta bố thí đôi mắt cho ngươi, nếu thật sự ta không có tâm hối hận thì hãy khiến đôi mắt ta hoàn lại như cũ.
Vua phát lời nguyện xong, hai mắt hoàn lại như trước không khác. Khi ấy, chim đại bàng trở lại thân Đế Thích khen ngợi:
– Thật là điều kỳ lạ chưa từng có, hôm nay đại vương bỏ được cái khó bỏ là để cầu được làm trời Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay sự vinh hoa khoái lạc nơi trần thế?
Vua đáp:
– Ta không cầu được làm trời Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay sự vinh hoa khoái lạc trần thế, mà ta muốn hồi hướng công đức bố thí này, khiến cho ở đời vị lai ta sẽ thành Chánh giác để cứu độ chúng sinh được giải thoát.
Vua phát nguyện xong, trời Đế Thích trở lại
Thiên cung.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Thi-tỳ lúc bấy giờ, nay chính là Ta; còn chim đại bàng lúc ấy nay là lão Tỳ-kheo này. Do lúc ấy Ta bố thí đôi mắt mà không tiếc rẻ, cho nên ngày nay Ta đã thành Phật và đối với lão Tỳ-kheo còn phải tu phước đức không biết nhàm chán, không cảm thấy đủ.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì lòng Đại bi, trong suốt đêm dài Ngài thường giảng nói rộng rãi cho tám bộ chúng như Trời, Rồng... nghe về pháp mầu cam lộ vô thượng mà Ngài đã chứng được bằng trí Nhất thiết chủng nhưng Ngài không hề mỏi mệt nhàm chán hay sinh tâm biếng trễ.
Lúc ấy các Tỳ-kheo thấy việc ấy bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, nay vì sao trong suốt đêm dài Ngài giảng nói pháp yếu mà không nghỉ ngơi, thân tâm lại không biết nhàm chán, mỏi mệt như thế? Tại sao Ngài làm được như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, có nước Ba- la-nại rất hùng mạnh, đời sống nhân dân sung túc an vui. Vua nước ấy tên là Thiện Diện, vị thái tử con vua tên là Tôn-đà-lợi. Vua Thiện Diện là người thông minh trí tuệ, rất ưa thích đạo đức thường mong cầu pháp mầu, vua đem các thứ châu báu ra ngã tư đường nói rằng:
– Ai có pháp mầu, giảng nói cho ta nghe, Ta sẽ cho các châu báu này.
Do lòng chí thành của vua cảm động đến cung diện của chư Thiên, khiến cung điện chư Thiên phải chấn động.
Lúc ấy Thích Đề-hoàn Nhân liền quán sát, biết rằng vua Thiện Diện có tấm lòng sâu nặng đối với chánh pháp, lòng thành này cảm ứng khiến cung diện của ngài phải dao động. Thích Đề-hoàn Nhân liền hóa thân thành tướng La-sát, có hai nanh dài bén nhọn nhô ra ngoài, với dáng vẻ khác thường trông rất kinh sợ, đến hoàng cung tự nói rằng:
– Ta có pháp mầu.
Vua nghe nói, liền ra ngoài đón rước La-sát để được nghe pháp. La-sát nói với vua:
– Ta tuy có pháp, nhưng vì đang đói khát, nên không thể nói được.
Nghe vậy, vua liền sửa soạn đầy đủ các món uống ăn để dâng cho La-sát. Nhưng La-sát nói:
– Món ăn của ta chỉ có máu nóng và thịt tươi, còn các món ăn này không phải thức ăn của ta.
Bấy giờ thái tử Tôn-đà-lợi nghe La-sát nói vậy, bèn tâu với Phụ vương:
– Pháp âm rất khó được nghe. Nay, con dâng thân này cho La-sát tùy ý ăn thịt, mong rằng Phụ vương được nghe pháp mầu.
Nghe thái tử phát tâm rộng lớn, không tiếc thân mạng, vua tự nghĩ: “Trong nhiều đời kiếp, ta bị ân ái trói buộc, trôi lăn trong sinh tử chưa có lúc nào cùng. Hôm nay, để được nghe pháp, ta đành hy sinh đứa con yêu dấu của mình.” Nghĩ vậy rồi, vua chấp nhận cho thái tử bỏ mình.
Lúc ấy được Phụ vương cho phép, thái tử bố thí thân mình cho La-sát. La-sát liền cấu xé thân thể thái tử, máu me nhầy nhụa khắp mặt đất. Ăn thịt uống máu xong, La-sát vẫn nói chưa no.
Khi ấy, thấy con mình đã xả thân thí cho La- sát, La-sát ăn rồi còn nói chưa no, phu nhân của vua nghĩ rằng: “Con ta còn bỏ thân được huống chi ta không bỏ thân được sao!” Phu nhân theo suy nghĩ của mình, tâu lại cho vua nghe và vua lại đồng ý.
Khi đó phu nhân bố thí thân cho La-sát. La-sát cũng cấu xé thân thể phu nhân ăn uống như trước. Ăn rồi, La-sát nói vẫn còn đói khát, lại nói với vua:
– Đại vương hãy hiến thân cúng cho ta ăn luôn. Vua đáp:
– Giờ đây, đối với thân mạng ta không hề tiếc rẻ, nhưng nếu thân này chết đi thì không nghe pháp được. Vậy, ngươi hãy nói pháp trước, sau đó ta sẽ bỏ mình cho ngươi ăn thịt.
Bấy giờ, La-sát biết được tâm thành tín của vua, liền nói kệ:
Ân ái thì sinh lo Vì ái mà có sợ
Nếu dứt được ân ái Không còn sợ hãi gì.
La-sát nói kệ xong, liền hoàn lại thân Đế Thích, thái tử và phu nhân bỗng nhiên cũng được hoàn lại thân cũ. Vua nghe pháp rồi, càng sinh tâm kính tin, lại thấy phu nhân và thái tử còn sống, nên trong lòng vui mừng khôn xiết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Thiện Diên lúc bấy giờ nay chính là Ta còn thái tử bấy giờ nay là A-nan và phu nhân của vua là Da-du-đà-la bây giờ. Thuở xưa khi Ta tu đạo Bồ-tát, vì cầu pháp nên đối với vợ con kính yêu mà Ta còn không yêu tiếc, huống chi hôm nay mà Ta lại sinh tâm mỏi nhọc ư!
Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe theo lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Tu-đạt, người bản tính nhân hậu, hiền lành, có tâm kính tin Tam bảo. Hằng ngày trưởng giả đến tăng phòng, tinh xá để quét dọn chùa tháp.
Một hôm, trưởng giả có việc cần phải đi, không ở lại quét dọn chùa tháp được.
Lúc ấy Đức Thế Tôn dẫn đầu các vị Đại Mục- liên, Xá-lợi-phất và Đại Ca-diếp... vào tháp để quét dọn. Quét dọn xong, các Tỳ-kheo ngồi sang một bên, Đức Phật liền giảng nói về năm công đức của việc dọn quét chùa tháp là:
1. Dứt bỏ sự nhơ bẩn trong tâm.
2. Cũng dọn dẹp nhơ bẩn bên ngoài.
3. Dứt trừ tâm kiêu mạn.
4. Điều phục tâm mình.
5. Làm tăng trưởng công đức và được sinh về cõi lành.
Công việc hoàn tất, trở về, vào tịnh xá, Tu-đạt nghe Đức Phật giảng nói cho các Tỳ-kheo về công đức có được do việc quét dọn. Trưởng giả vui mừng, bước ra bạch Phật:
– Nay, con được nghe Phật giảng nói về năm công đức của việc quét dọn này, tại chỗ con đi như thấy bậc Hiền thánh ở trước mặt vậy.
Lúc ấy Thế Tôn bảo Tu-đạt:
– Tất cả pháp lành mà Ta yêu kính cũng như vậy. Giờ đây, ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba- la-nại, vị vua nước ấy tên là Phạm-ma-đạt-đa.
Phạm-ma-đạt-đa cai trị nhân dân bằng chánh pháp. Đời sống nhân dân sung túc an vui vô cùng.
Bấy giờ, phu nhân của vua biết mình có thai, tự nhiên trên đầu có một lọng báu, lúc nào cũng theo che chở phu nhân. Sau đó, vua mời thầy xem tướng để xem tướng phu nhân. Thầy tướng xem xong bảo: “Đứa trẻ này sinh ra có phước đức lớn và sẽ đi khắp nơi để tìm cầu chánh pháp.”
Sau mười tháng mang thai, phu nhân sinh ra một thái tử tướng mạo khôi ngô đẹp đẽ, trên đời ít có. Nhân đó cha mẹ đặt tên là Cầu Pháp.
Thái tử lớn dần, tâm ưa thích đạo pháp. Thái tử lại cho người mang châu báu, đi khắp nơi để cầu pháp. Nhưng rốt cuộc cũng không được, thái tử sinh ra buồn rầu khóc lóc, không thể yên lòng. Tâm chân thành của thái tử cảm ứng làm rung chuyển cung điện trời Đế Thích.
Lúc ấy trời Đế Thích suy nghĩ: “Có việc gì khiến cung điện của ta bị dao động như vậy?
Đế Thích liền quán sát thấy thái tử con vua, vì cầu pháp chưa đạt sở nguyện, nên buồn rầu khóc lóc, mà cảm ứng đến cung điện của mình, làm cho bị rung chuyển như thế. Đế Thích liền nghĩ: “Ta phải đến đó thử xem thiện tâm của thái tử hư thật thế nào”.
Đế Thích liền hóa thân thành một vị Bà-la- môn, đến cửa hoàng cung nói:
– Ta có pháp mầu, ai muốn nghe, ta sẽ nói cho. Thái tử nghe sứ giả nói, vui mừng khôn xiết, liền ra ngoài đón rước. Thái tử đảnh lễ dưới chân Bà-la-môn, dẫn lên điện, nhắc chiếc ghế thật đẹp mời Bà-la-môn ngồi, chắp tay thưa rằng:
– Cúi mong Đại sư từ bi thương xót, giảng nói pháp mầu cho tôi nghe.
Bà-la-môn đáp:
– Học pháp rất khó, phải theo thầy lâu ngày mới đạt được. Nay, muốn nghe một cách vô điều kiện thì không thể được.
Thái tử thưa:
– Đại sư cần gì, xin cứ dạy bảo. Ngay cả vợ con của tôi, voi ngựa, châu báu, tất cả đều có đủ, tôi sẽ cung cấp cho Đại sư, không hề tiếc rẻ.
Bà-la-môn nói:
– Những thứ thái tử vừa kể, ta đều không cần. Bây giờ nếu thái tử đào một cái hố lớn mười trượng, dưới hố đốt đầy lửa rồi nhảy xuống hố, ta sẽ nói pháp cho nghe.
Nghe Bà-la-môn nói, thái tử rất vui mừng liền đào một cái hố lớn và đốt đầy lửa. Khi thái tử định nhảy xuống hố thì phu nhân, nhà vua và các quan liền chạy đến ôm chầm lấy thái tử và khuyên can thái tử đừng làm như vậy. Họ nói với Bà-la-môn:
– Cúi mong Đại sư từ bi thương xót, vì chúng tôi đừng để thái tử phải nhảy xuống hố lửa. Nếu
Đại sư cần gì như quốc thành, châu báu và vợ con chúng tôi đều cung cấp cho ngài.
Bà-la-môn nói:
– Ta không ép buộc, tùy ý thái tử. Nếu làm được như vậy, ta mới nói pháp cho nghe.
Khi Bà-la-môn nói, thái tử thưa:
– Trong nhiều kiếp, ta đã bỏ mất thân mạng một cách luống uổng, nhưng chưa từng có người nào định nói pháp mầu như vậy cho ta nghe.
Nói xong, thái tử định nhảy xuống hố.
Lúc ấy phu nhân của vua và các quan biết được tâm chí thành nhất định nhảy xuống hố của thái tử, liền sai người cỡi một thớt voi rất nhanh, để thông cáo cho tất cả các quan trong khắp cõi Diêm-phù để hãy mau tụ họp về chỗ của thái tử. Đến nơi, họ chắp tay can ngăn:
– Thái tử hãy vì chúng tôi, xin đừng nhảy xuống hố. Thái tử chỉ vì một người, mà bỏ đi tất cả sao?
Thái tử đáp:
– Trong vô số kiếp sinh tử, có khi ta đọa địa ngục, có lúc làm súc sinh, có lúc làm ngạ quỉ, sát hại lẫn nhau, hoặc bị thiêu đốt, hoặc bị nung nấu, chịu đói khát khốn khổ, chỉ trong một ngày cũng không sao nói hết sự đau khổ, thân mạng bị bỏ đi một cách luống uổng, không hề có lợi ích cho chánh pháp. Vậy các ngươi sao còn ngăn cản Ta, dùng thân hôi thối này để cầu đạo Bồ-đề vô thượng. Ta phải bỏ thân này, thệ cứu vớt chúng sinh thoát ra khỏi biển sinh tử.
Nói xong, thái tử quyết định gieo mình xuống hố, nhưng thưa Bà-la-môn rằng:
– Cúi xin Đại sư hãy nói pháp cho tôi nghe trước, nếu chết thì không được nghe pháp.
Lúc ấy Bà-la-môn liền nói kệ: Thường hành tâm Từ bi Dứt bỏ tâm sân hại
Đại bi thương chúng sinh Thương xót mà lệ rơi.
Người thực hành Đại bi Đồng pháp, ta chứng được Cứu giúp các chúng sinh Mới là hạnh Bồ-tát.
Thái tử nghe kệ, vui mừng khôn xiết, liền gieo mình xuống hầm lửa, hầm lửa liền biến thành ao sen và thái tử ngồi trên sen. Mặt đất rung chuyển, các thứ hoa trên trời tuôn xuống như mưa, ngập lên tới gối thái tử.
Bấy giờ Bà-la-môn hoàn lại thân Đế Thích, khen thái tử rằng:
– Nay, thái tử nhảy vào lửa, chỉ vì một bài kệ, mà không tiếc thân mạng, là để cầu điều gì?
Thái tử đáp:
– Tôi cầu đại đạo Bồ-đề vô thượng, để cứu vớt chúng ra khỏi biển sinh tử.
Đế Thích nghe thái tử nói vậy, ngợi khen là việc chưa từng có. Sau đó, Đế Thích trở về Thiên cung.
Vua Phạm-ma và các quan thấy thái tử có những điều rất kỳ lạ đặc biệt, cũng khen là việc chưa từng. Ai nấy đều vui mừng, cùng nhau đưa thái tử trở về hoàng cung.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Phạm-ma lúc bấy giờ nay chính là vua Tịnh Phạn; còn người mẹ lúc ấy nay là phu nhân Ma-da và thái tử bây giờ là Ta.
Sau khi Đức Phật nói về việc cầu pháp này, có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà- hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có người phát tâm Bích-chi-phật và có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang dẫn đầu các Tỳ- kheo vào thành khất thực. Khi vào trong một con hẻm, Đức Phật gặp một người Bà-la-môn, đang dùng ngón tay vẽ dưới đất, ngăn cản không cho Phật đi qua và nói:
– Hôm nay Ngài phải trả cho tôi năm trăm đồng tiền vàng, thì tôi mới để Ngài đi. Nếu không, tôi sẽ không cho Ngài đi qua.
Lúc ấy Đức Phật và các Tỳ-kheo đứng im lặng, không thể bước tới.
Tin này đến tai hai vị quốc chủ là vua Bình-sa và vua Ba-tư-nặc. Bà Tỳ-xá-khư thuộc dòng họ Thích và ông Phú-lâu-na… cũng hay tin. Mỗi người đều mang theo châu báu và tài vật đến cho người Bà-la-môn nhưng Bà-la-môn không chịu nhận.
Lúc ấy trưởng giả Tu-đạt cũng nghe tin Phật bị người Bà-la-môn giữ lại, không cho đi. Tu-đạt liền đưa năm trăm đồng vàng cho Bà-la-môn, Bà-la- môn mới cho Phật đi.
Các Tỳ-kheo thấy sự việc ấy, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn vì duyên cớ gì, mà có sự ngăn cản, không cho Phật đi qua như vậy.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp tại nước Ba-la- nại, có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa.
Một hôm, thái tử của vua tên là Thiện Sinh cùng các bạn thân đi du ngoạn ngắm cảnh. Trên đường đi, thái tử gặp một người đánh bạc với con của vị phụ tướng bị thua năm trăm đồng tiền vàng. Người kia theo đòi, nhưng con của vị phụ tướng không chịu bỏ tiền ra để trả.
Thái tử Thiện Sinh thấy vậy, nói với người kia:
– Nếu ông ấy không trả, tôi sẽ trả thay.
Khi đó người con của vị phụ tướng tự cậy mình là con nhà quyền thế nên cuối cùng không chịu trả. Từ thời ấy cho đến nay, trải qua vô lượng kiếp Ta thường bị người đánh bạc kia theo đòi nợ.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, thái tử con vua lúc ấy nay chính là Ta, người con của vị phụ tướng bấy giờ nay là trưởng giả Tu-đạt; còn người đánh bạc nay là Bà-la-môn. Cho nên các thầy, hễ mắc nợ ai, không chống cự mà không trả, vì cho đến lúc thành Phật cũng không thoát khỏi nạn này.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, tại rừng Sa-la song thọ, thành
Câu-thi-na, Đức Phật sắp nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, ông Tu-bạt-đà nghe Thế Tôn sắp nhập
Niết-bàn, bèn dẫn năm trăm lực sĩ đến đảnh lễ dưới nơi chân Phật, rồi lui lại đứng sang một bên và cầu xin xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Râu tóc ông Tu-bạt-đà và các lực sĩ tự nhiên rụng xuống, thân mặc pháp phục, liền thành Sa- môn. Đức Phật nói pháp cho họ nghe bằng mọi cách. Tâm ý được mở tỏ, Tu-bạt-đà và các lực sĩ đều đạt được dấu hiệu chứng đạo.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, ông Tu-bạt-đà và năm trăm vị lực sĩ này đời trước đã gieo trồng phước đức gì mà nay trong lúc gấp rút, Phật sắp vào Niết- bàn lại được tế độ như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Không phải chỉ hôm nay trong lúc gấp rút họ mới được Ta hóa độ mà thuở xưa Ta cũng từng cứu giúp họ thoát khỏi những sự nguy nan.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc cứu độ những vị ấy như thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp; tại nước Ba-la- nại có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa.
Một hôm, vua cùng các quan ra khỏi thành đi săn bắn. Khi đến một vùng rừng núi, có một dòng sông lớn, gặp một bầy nai năm trăm con; vua định bắn. Lúc ấy Ta là nai đầu đàn, thấy mạng lưới bao vây tới gần, bầy nai hoảng hốt sợ hãi chạy đổ dồn về phía dòng sông, nhưng vì nước quá sâu, nên chúng không thể vượt qua. Vòng vây càng xiết chặt lại, mạng sống bầy nai rất mong manh. Lúc đó, nai đầu đàn bảo với bầy nai: “Ta vì các ngươi dang bốn chân để nối liền hai bờ sông, các ngươi cứ việc đi trên lưng Ta, để đến bờ bên kia”.
Nghe lời, bầy nai tranh nhau đi qua, đạp nát cả lưng, nai chúa đau đớn khôn cùng.
Khi tất cả đều qua được bờ bên kia, chỉ còn một nai mẹ đang dẫn nai con chạy theo phía sau, rất hoảng hốt lo sợ. Lúc ấy thấy hai mẹ con nai còn ở sau, dù phải chịu đựng đau đớn, nai đầu đàn cũng chờ đưa hết qua sông, rồi mới chịu chết. Nai đầu đàn chết được sinh lên tầng trời Đao-lợi.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Lúc ấy trong loài súc sinh mà Ta còn từ bi cứu giúp chúng sinh, không nề lao khổ; huống chi ngày nay, Ta đã ra khỏi ba cõi, tự tại vô ngại mà còn cho rằng mệt nhọc ư!
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, nai đầu đàn lúc bấy giờ nay chính là Ta, bầy nai lúc bấy giờ nay là năm trăm vị
Tỳ-kheo như Tu-bạt-đà, … Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Năm trăm vị Tỳ-kheo như Tu-bạt-đà... đời trước đã gieo trồng phước đức gì mà nay được gặp Thế Tôn và đều chứng đắc đạo quả như vậy?
Đức Phật dạy:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.
Khi ấy, trong chốn núi rừng có năm trăm vị Tỳ- kheo đang ngồi thiền hành đạo, nhưng chưa đắc đạo quả. Đức Phật Ca-diếp giáo hóa chúng sinh đã mãn, Ngài muốn nhập Niết-bàn. Năm trăm Tỳ- kheo kia không hay biết gì. Các vị Thần cây biết rằng hôm nay Đức Phật sẽ nhập Niết-bàn, cho nên trong lòng buồn bã khóc lóc, nước mắt rơi xuống trúng đầu các Tỳ-kheo đang ngồi dưới gốc cây.
Lúc ấy các Tỳ-kheo mới hỏi Thần cây rằng:
– Vì sao các vị khóc lóc như vậy? Thần cây đáp:
– Hôm nay, Đức Thế Tôn Ca-diếp sẽ nhập Niết-bàn, nên chúng tôi buồn rầu than khóc như vậy.
Các Tỳ-kheo nghe Thần cây nói, trong lòng cũng bàng hoàng lo âu, mình mẩy nổi ốc và hỏi Thần cây:
– Hôm nay chúng tôi làm sao đến gặp Thế Tôn kịp và được diệt độ trước, chứ không nỡ thấy Thế Tôn nhập diệt trước chúng tôi.
Thần cây đáp:
– Nếu các thầy muốn đi, hãy nhắm mắt lại, Thần cây chúng tôi sẽ đưa các thầy đến chỗ Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo nghe lời thần cây, nhắm mắt lại, bỗng nhiên được đưa đến chỗ Thế Tôn. Các Tỳ- kheo được gặp Phật và sám hối tội lỗi, rồi tất cả đều vào Niết-bàn.
Do vào thời ấy, đã xuất gia giữ giới, cho nên năm trăm vị này nay được gặp Ta và đắc đạo chứng quả.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, năm trăm Tỳ-kheo lúc bấy giờ, nay là năm trăm vị Tỳ-kheo lực sĩ như Tu-bạt- đà...
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Bạt-đề, đã xuất gia nhập đạo, nhưng tâm thường ham thích những công việc của người tại gia, nên bỏ bê việc tu tập ba nghiệp.
Lúc ấy Như Lai quán sát thấy căn lành của Bạt- đề đã thuần thục, đã đến lúc được hóa độ, nên Ngài bảo Tôn giả A-nan:
– Ngươi hãy đi gọi Tỳ-kheo Bạt-đề đến đây.
A-nan liền đi gọi Bạt-đề. Khi Bạt-đề đến, Đức Phật bảo:
– Thầy hãy vào rừng núi để tu tập pháp lành.
Bạt-đề vâng lời Phật dạy, vào chốn núi rừng ngồi thiền, hành đạo. Qua thời gian không bao lâu, Bạt-đề đã đắc đạo La-hán.
Bấy giờ các Tỳ-kheo thấy sự việc ấy bèn bạch Phật:
– Tỳ-kheo Bạt-đề đời trước đã gieo trồng phước đức gì mà nay tuy đã xuất gia mà còn ưa thích chuyện thế tục, lại gặp được Đức Thế Tôn và chứng đắc đạo quả như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đâu phải chỉ hôm nay Ta mới giáo hóa Tỳ- kheo ấy, mà thuở xưa Ta cũng từng giáo hóa Tỳ- kheo ấy rồi.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc giáo hóa thuở xưa thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong Hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại, có một Tiên nhân đang tu luyện đạo Tiên trong chốn núi rừng. Ông chỉ ăn trái cây, uống nước suối. Nhưng về sau trải qua nhiều năm gặp trời nắng hạn, không còn trái cây để ăn nữa, bị đói khát hành hạ, ông định vào thôn xóm xin ăn.
Bấy giờ, có một con thỏ đầu đàn là Bồ-tát cùng bầy thỏ đang đi tìm cỏ nước, gặp vị Tiên nhân râu dài bị đói khát hành hạ, định vào làng xin ăn để sống. Thỏ đầu đàn nói với Tiên nhân:
– Ngày mai ông hãy nhận chút ít vật cúng dường nhỏ mọn của tôi. Tôi còn có pháp hay, ông có thể nghe được.
Tiên nhân nghe rồi suy nghĩ: “Có lẽ thỏ đầu đàn kia gặp được loài chim bay thú chạy bị chết, muốn làm món ăn cho ta”, nên Tiên nhân bằng lòng. Lúc ấy thỏ đầu đàn đã biết Tiên nhân bằng lòng, liền tụ tập bầy thỏ và Tiên nhân kia lại giảng nói pháp mầu. Thỏ đầu đàn chất củi thành đống trên mặt đất, tự châm lửa rồi nhảy vào đống lửa đang cháy ngùn ngụt.
Lúc ấy Tiên nhân định giữ chân thỏ lại, nhưng thân vô thường đã qua đời sau rồi. Tiên nhân than:
– Hòa thượng Đại sư, tại sao mới một sớm gặp nhau, ngài lại bỏ tôi ra đi? Tôi đâu còn nghe pháp được nữa.
Tiên nhân buồn thảm nghẹn ngào, kêu trời than khóc. Vì quá cảm thương và tuyệt vọng, Tiên nhân té quỵ xuống đất, không nói thành lời.
Lúc ấy mặt đất rung chuyển, hoa thơm từ trên không trung rơi xuống như mưa và phủ kín trên thân thỏ đầu đàn.
Bấy giờ Tiên nhân kia vì thấy thỏ đầu đàn tu hạnh Đại bi nên không dám ăn thịt, bèn thâu lượm xương cốt rồi xây tháp cúng dường.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, thỏ đầu đàn Bồ-tát lúc bấy giờ nay chính là Ta còn Tiên nhân bấy giờ, nay là Tỳ-kheo Bạt-đề. Do vì khi ấy, Tiên nhân biết nghe lời Ta đến nghe pháp, nên nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật nói, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên
Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ Đề-bà-đạt-đa vì si mê không có trí tuệ nên đối với Thế Tôn thường sinh lòng ganh ghét, giận dữ, mắng nhiếc. Nhưng Đức Phật đối với Đề- bà-đạt-đa, không hề có tâm oán hận thù hiềm. Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ấy như thế nào?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đâu phải hôm nay Ta mới bị Đề-bà-đạt-đa mắng nhiếc, mà trong thuở xưa Ta cũng thường bị ông ấy mắng nhiếc và Ta thường nhẫn nhục.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
– Chúng con muốn được nghe việc thuở ấy, cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong Hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại, có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa. Vua ấy cai trị nhân dân bằng chánh pháp, nhân dân có cuộc sống sung túc, an vui vô cùng.
Phạm-ma-đạt-đa có hai vị phu nhân. Vị thứ nhất tên là Thiện Ý, vị thứ hai tên là Tu Thiện Ý. Phu nhân lớn bản tánh thuận hòa, rất hợp ý vua, nhưng lại không có con. Phu nhân thứ hai chỉ sinh được một thái tử rất thông minh lại nhân từ, hiếu thảo với cha mẹ. Do đó vua rất yêu thương và cho thái tử đến trường học tập sách vở.
Một hôm, thái tử đưa phu nhân lớn rời thành, ra ngoài dạo chơi giải trí vui vẻ, thái tử gửi ít rượu và thức ăn về hoàng cung cho mẹ mình.
Lúc ấy bà phu nhân mẹ thái tử rất tức giận, dùng lời lẽ độc ác mắng chửi:
– Ta thà đâm vào cổ giết chết thái tử để lấy máu uống, chứ nhất định không dùng rượu của nó gửi về.
Lúc ấy có sứ giả chạy đi báo cho vua biết về sự việc như vậy. Vua nghe tâu nổi giận, liền sai người đem thái tử giao cho phu nhân, xem bà có giết được không. Khi gặp thái tử, phu nhân định đâm cổ con mình. Thái tử cúi mình chắp tay thưa mẹ:
– Con đâu có lỗi gì, mà phải bị mẹ đâm vào cổ như vậy?
Người mẹ nói:
– Do phụ vương ngươi bảo ta giết, không phải lỗi ở ta.
Thái tử nghe mẹ nói, liền đến trước mẹ sám hối lỗi lầm. Nhưng phu nhân không nghe, liền giết thái tử. Nhờ có tâm lành, nên khi chết đi, thái tử được sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Lúc ấy chỉ là hạng phàm phu bị mẹ nhục mạ và giết hại, vậy mà Ta không hề sinh tâm oán hận. Huống chi ngày nay, Ta đã vượt ngoài ba cõi, cớ sao lại không thể đối với Đề-bà-đạt-đa mà sinh lòng từ bi?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, thái tử lúc bấy giờ, nay chính là Ta, còn người mẹ bấy giờ nay là Đề-bà- đạt-đa.
Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một tên cướp tên là Lâu-đà, lưng mang kiếm bén, tay cầm cung tên, đứng ở bên đường, cướp giật tài vật của người để sống.
Trải qua mấy ngày, Lâu-đà bị đói khát hành hạ, xa trông thấy các Tỳ-kheo ôm bát đi đến dưới một gốc cây, liền suy nghĩ như vầy: “Trong bát của các người kia, chắc chắn phải có thức ăn, bây giờ ta phải đến đó đoạt lấy mới được. Nếu như họ ăn rồi, ta phải mổ bụng lấy thức ăn”. Tên cướp nghĩ vậy, liền đi về phía các Tỳ-kheo, khi còn cách không xa liền đứng lại.
Lúc ấy các Tỳ-kheo biết ý định của Lâu-đà, nên suy nghĩ: “Nếu như chúng ta không gọi hắn, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị giết. Như vậy, lại càng làm cho hắn tăng thêm tội lỗi, phải đọa vào ba đường. Chi bằng ta gọi hắn trước để cho hắn thức ăn”.
Nghĩ rồi các Tỳ-kheo liền với gọi Lâu-đà:
– Ngươi hãy mau lại đây ta cho thức ăn.
Lúc ấy tên cướp suy nghĩ: “Tỳ-kheo này đoán biết ta đói nên gọi ta cho thức ăn.” Lâu-đà đến nhận, được ăn uống no đủ, trong tâm rất vui vẻ.
Nhân đó các Tỳ-kheo giảng nói nhiều pháp nhiệm mầu cho Lâu-đà nghe. Nghe xong, tâm ý Lâu-đà được mở tỏ, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, xin được xuất gia, siêng năng tu tập, rồi chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu phép thần thông và tám pháp giải thoát; được trời, người kính ngưỡng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thành Vương xá.
Khi sắp đến giờ ăn, Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên trước quán sát chúng sinh trong địa ngục, súc sinh và ngạ quỉ rồi sau mới ăn. Sở dĩ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên phải quán sát như vậy, vì muốn làm cho chúng sinh nhàm chán sinh tử mà ưa cầu Niết-bàn.
Lúc ấy Mục-kiền-liên thấy một ngạ quỉ, mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như quả núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn, lại quấn chằng chịt vào thân thể, giữa chi tiết trong thân đều có lửa bốc ra. Ngạ quỉ kêu la rên rỉ, rong chạy khắp nơi để ăn uống, khổ nhọc suốt ngày nhưng cũng không có.
Ngài Mục-kiền-liên thấy ngạ quỉ, bèn hỏi:
– Ngươi đã gây ra nghiệp gì, mà chịu khổ như vậy?
Ngạ quỉ thưa:
– Nơi có mặt trời thì không cần đèn đuốc. Đức Như Lai Thế Tôn hiện còn tại thế, xin Tôn giả hãy thưa hỏi Ngài, hiện giờ tôi đang đói khát nên không trả lời được.
Ngài Mục-kiền-liên liền đến gặp Phật định hỏi Như Lai ngạ quỉ đã gây ra hành nghiệp gì mà phải chịu khổ như vậy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ngự giữa đại chúng, đang giảng nói pháp mầu cho trời người nghe. Thấy Mục-liên, Đức Phật hỏi:
– Hôm nay, thầy có thấy điều gì lạ chăng? Tôn giả Mục-liên thưa:
– Con thấy một ngạ quỉ, thân thể bị cháy, rong chạy khắp nơi.
Tôn giả bèn thuật lại sự việc trên cho Phật nghe và hỏi Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước ngạ quỉ ấy đã gây ra nghiệp ác gì mà phải chịu khổ như thế?
Đức Thế Tôn bảo Mục-liên:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Vào hiền kiếp này, trong thành Xá-vệ có một vị trưởng giả, là người có vô lượng tài sản, của báu, nhiều không thể tính kể, thường sai người giúp việc ép nước mía để bố thí cho mọi người. Bấy giờ, có một vị Bích-chi-phật bị bệnh khát rất nặng, thầy thuốc bảo uống nước mía mới hết bệnh. Vị Bích-chi-phật liền đến nhà trưởng giả để xin nước mía.
Trưởng giả thấy vị Bích-chi-phật oai nghi đỉnh đạc trang nghiêm, sinh tâm rất kính tin, bèn hỏi:
Thưa, Ngài cần gì ạ! Vị Bích-chi-phật nói:
– Tôi bị bệnh khát rất nặng, cần uống nước mía, nên đến đây định xin.
Trưởng giả nghe nói, trong tâm rất vui mừng, liền bảo vợ là Phú-na-kỳ:
– Tôi có việc gấp định ra đi, vậy bà ở nhà hãy lấy nước mía cúng dường cho Bích-chi-phật.
Người vợ đáp:
– Anh cứ ra đi, em ở nhà sẽ cúng dường.
Khi người chồng đi rồi, người vợ liền lấy bát của vị Bích-chi-phật đến chỗ khuất tiểu tiện vào đó và đổ nước mía lên trên, rồi trao cho vị Bích-chi- phật. Bích-chi-phật nhận bát, biết ngay không phải là nước mía, liền đổ xuống đất, ôm bát không trở về.
Về phần người vợ, sau khi chết đi bị đọa vào loài ngạ quỉ, thường bị đói khát ép ngặt, do nghiệp duyên ấy nên phải chịu khổ như thế.
Đức Phật bảo ngài Mục-liên:
– Thầy nên biết, vợ của vị trưởng giả lúc bấy giờ nay chính là ngạ quỉ Phú-na-kỳ.
Khi Đức Phật nói về việc của ngạ quỉ này thì các Tỳ-kheo dứt bỏ được tâm tham lam, bỏn xẻn, nhàm chán sinh tử, có vị chứng được quả Tu-đà- hoàn, có vị chứng được quả Tư-đà-hàm, có vị chứng được quả A-na-hàm, có vị chứng được quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trên núi Kỳ-xà- quật, trong thành Vương xá.
Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ngồi kiết già dưới một gốc cây tư duy quan sát, thấy một ngạ quỉ, mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như quả núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn, lại quấn chặt thân thể, giữa các chi tiết trong thân đều bị lửa đốt. Ngạ quỉ rên rỉ khóc lóc, chạy rong khắp nơi, tìm kiếm phẩn tiểu để ăn uống, khổ nhọc suốt ngày cũng không có.
Mục-kiền-liên thấy ngạ quỉ liền hỏi:
– Trước kia ngươi đã gây ra hành nghiệp gì, mà phải chịu khổ như vậy?
Ngạ quỉ đáp:
– Trên đời có Đức Như Lai, xin Tôn giả hãy thưa hỏi Ngài. Hiện giờ tôi đang đói khát nên trả lời không được.
Lúc ấy Mục-kiền-liên đến gặp Phật để hỏi lý do là ngạ quỉ đã gây ra nghiệp ác gì mà phải chịu khổ như vậy.
Đức Phật bảo Mục-kiền-liên:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, có một nước tên là Ba-la-nại, đất nước giàu mạnh đời sống nhân dân sung túc, an vui, không có chiến tranh, không có sự tranh giành lẫn nhau.
Bấy giờ, có một trưởng giả tên là Hiền Thiện, bản tánh nhu hòa, kính tin Tam bảo, thường làm việc bố thí; tiếng tăm trưởng giả vang đồn khắp nơi.
Lúc ấy có một Tỳ-kheo đắp y ôm bát đến nhà trưởng giả để khất thực. Nhằm lúc trưởng giả có chút việc gấp phải đi ngay, không thể tự tay cúng dường được, nên ông ân cần dặn vợ:
– Em ở nhà hãy nhớ cúng dường thức uống ăn cho vị Tỳ-kheo này.
Người vợ trả lời:
– Anh chớ lo lắng, em ở nhà sẽ cúng dường.
Nhưng lúc ấy người vợ sinh lòng tham lam, bỏn xẻn tiếc nghĩ rằng: “Nay, nếu ta cho thức ăn thì hôm sau ông ấy sẽ đến nữa. Ôi! Những hạng người này nhìn thật đáng ghét”.
Nghĩ xong, bà liền gọi Tỳ-kheo vào một căn phòng, rồi đóng cửa nhốt lại, khiến từ sáng đến chiều, Tỳ-kheo không được ăn uống gì cả. Vì nghiệp duyên ấy, nên trong vô lượng kiếp, bà bị đọa trong loài ngạ quỉ, chịu khổ như vậy.
Đức Phật bảo Mục-liên:
– Thầy nên biết, người vợ của trưởng giả lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỉ ấy. Vậy, các thầy hãy siêng bố thí, không nên tham lam, bỏn xẻn, nên tu tập như vậy.
Khi Phật nói về việc của ngạ quỉ này, những người trong hội tất cả đại chúng đều dứt bỏ sự tham lam, bỏn xẻn, keo lận; nhàm chán sinh tử. Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà- hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thành Vương xá.
Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ngồi dưới gốc cây thấy một ngạ quỉ mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như quả núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn lại quấn chặt vào thân thể, giữa các chi tiết đều bị lửa đốt, môi miệng khô nóng, khát nước gần chết, chạy đến sông suối, thì sông suối đều khô cạn. Dù cho mưa xuống thì nước mưa rơi trên thân ngạ quỉ cũng biến thành lửa đỏ.
Ngài Đại Mục-kiền-liên bèn hỏi ngạ quỉ:
– Trước kia ngươi đã gây nghiệp gì, mà nay phải chịu nỗi khổ này?
Ngạ quỉ đáp:
– Tôi đang bị khát, chịu khổ không thể kể xiết, xin Ngài hãy đến thưa hỏi Phật.
Ngài Mục-kiền-liên liền đến gặp Phật, để hỏi Ngài về việc ấy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang giảng nói pháp mầu cho đại chúng nghe, thấy Mục-kiền- liên đến, Ngài ôn tồn hỏi Mục-kiền-liên có thấy điều gì lạ chăng.
Mục-kiền-liên bạch Phật:
– Vừa rồi con ngồi dưới một gốc cây, thấy có một ngạ quỉ, thân thể bị lửa đốt cháy, chạy rong khắp nơi.
Ngài Mục-kiền-liên bèn thuật hết sự việc trên cho Phật nghe và hỏi Ngài ngạ quỉ đã gây ra nghiệp ác gì, mà phải chịu khổ não như thế.
Đức Phật bảo Mục-liên:
– Nay thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời, hiệu là Ca-diếp.
Bấy giờ, có một vị Sa-môn bị khát nước trong khi đi bộ qua một đoạn đường. Lúc ấy có một cô gái tên là Ác Kiến đang múc nước tại một cái giếng đá bên đường. Vị Sa-môn này đến hỏi cô gái xin nước.
Cô gái ấy đáp:
– Để cho ông chết khát luôn, chứ tôi không bao giờ bố thí nước cho ông, nếu cho ông thì nước còn ít, không đủ mang về.
Lúc ấy vị Sa-môn không xin được nước, tiếp tục lên đường. Cô gái ấy là người tham lam bỏn xẻn, có người đến xin, cũng không bao giờ bố thí. Khi qua đời, cô gái ấy bị đọa vào loại ngạ quỉ. Do nghiệp duyên ấy, cho nên ngày nay Ác Kiến phải chịu khổ não như thế.
Đức Phật bảo Mục-liên:
– Thầy nên biết cô gái không cho nước lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỉ này.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỉ Ác Kiến, các Tỳ-kheo đều dứt bỏ tâm tham lam, bỏn xẻn và nhàm chán sinh tử. Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, ở thành Vương xá.
Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, gần đến giờ ăn, nên đắp y ôm bát vào thành khất thực, rồi trở về chỗ ở. Thọ trai xong, thu xếp y bát và ngồi kiết già dưới một gốc cây để nhập định.
Ngài Mục-kiền-liên thấy một ngạ quỉ, thân thể hôi thối, không thể đến gần. Ngài Mục-kiền-liên bèn hỏi ngạ quỉ:
– Ngươi gây ra nghiệp gì mà bị quả báo thân thể hôi thối không thể đến gần như vậy?
Ngạ quỉ đáp:
– Xin Ngài hãy đến hỏi Phật, Ngài sẽ giải thích. Bấy giờ Mục-kiền-liên liền đến gặp Đức Phật.
Theo pháp thường của chư Phật thì trước hết là phải hỏi thăm:
– Thầy có thấy điều gì lạ chăng?
Mục-kiền-liên bạch Phật:
– Vừa rồi khi nhập định dưới một gốc cây, con thấy một ngạ quỉ, thân thể hôi thối còn hơn phẩn người, rong chạy khắp nơi tìm phẩn tiểu để ăn uống. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay ngạ quỉ ấy đã gây ra nghiệp gì, mà phải chịu quả báo như vậy?
Đức Phật hỏi Mục-liên:
– Nay thầy muốn biết về việc ấy không? Mục-kiền-liên bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con rất muốn nghe. Đức Phật bảo Mục-liên:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích. Thuở xưa, cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tại nước Ba-la-nại có một vị Bích-chi-phật xuất hiện ở đời. Vị Bích-chi-phật trải cỏ, tâm chuyên chú ngồi thiền ở nơi vắng vẻ. Ngài bị bệnh, thầy thuốc bảo phải ăn thịt mới lành bệnh được.
Lúc ấy Bích-chi-phật nghe thầy thuốc nói, liền vào thành, gặp trưởng giả tên là Cát Thiện, để xin thịt trị bệnh.
Trưởng giả bảo vợ là Bàn-đà-la:
– Tôi có việc gấp, ngay bây giờ phải khởi hành, bà ở nhà hễ vị Bích-chi-phật bệnh kia gì thì bà hãy cho thuốc nấy.
Người vợ trả lời:
– Ông cứ lo việc của mình đi, chớ bận tâm việc nhà. Đối với việc ăn uống thuốc men của Bích-chi- phật đã có tôi đảm đương cúng dường.
Nhưng khi trưởng giả ra đi, Bàn-đà-la ở nhà lại sinh tâm tham lam tiếc rẻ, suy nghĩ rằng: “Bây giờ nếu ta bố thí cho ông ấy, thì ngày mai ông ta lại đến nữa. Hạng người gì thật đáng ghét!”. Nghĩ vậy, bà liền bảo vị Bích-chi-phật đưa bát rồi đem vào chỗ khuất, đại tiện vào rồi phủ đậy lên trên, đem trao cho Bích-chi-phật. Khi nhận, vị Bích- chi-phật biết ngay rằng đó là vật hôi thối, liền đổ xuống đất rồi ôm bát đi.
Do nghiệp ác ấy, nên trong vô lượng kiếp, Bàn- đà-la thường đọa vào loài ngạ quỉ, thân thể hôi thối, không thể đền gần, hay ăn phẩn người mà cho là ngon.
Đức Phật bảo Mục-liên:
– Thầy nên biết, người vợ trưởng giả đại tiện vào bát bố thí cho vị Bích-chi-phật lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỉ này.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỉ ấy, các Tỳ-kheo liền dứt bỏ tâm tham lam bỏn xẻn, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà- hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, ở thành Vương xá.
Bấy giờ, đã đến giờ khất thực, ngài Mục-kiền- liên đắp y, ôm bát vào thành khất thực.
Khi vào trong thành, Mục-kiền-liên gặp năm trăm ngạ quỉ từ ngoài đi vào. Ngạ quỉ thấy Mục- liên, chúng rất mừng, bèn thưa với ngài Mục-kiền- liên:
– Cúi mong Tôn giả, xin thương xót, hãy nói rõ họ tên chúng tôi cho những người trong thân quyến của chúng tôi biết rằng chúng tôi vì không tu nghiệp không thích bố thí, nên ngày nay phải đọa vào loài ngạ quỉ. Cúi xin Tôn giả bảo họ hãy dùng tài vật sắm sửa thức ăn ngon để thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường. Nếu vật thiếu, xin hãy vì chúng tôi khuyến hóa các đàn-việt để cùng nhau mở hội, giúp cho chúng tôi thoát khỏi thân ngạ quỉ.
Ngài Mục-kiền-liên liền hứa, lại hỏi các ngạ quỉ:
– Đời trước các ngươi đã gây ra nghiệp ác gì mà nay phải chịu quả báo như vậy?
Các ngạ quỉ đều cùng nhau thưa:
– Đời trước chúng tôi đều ở tại thành Vương xá này, là con của trưởng giả, nhưng tánh tính lại kiêu mạn, buông lung, không thích bố thí, tham ưa sự vui thế gian, không tin Tam bảo, không tin là đạo pháp vô lượng. Khi thấy các Sa-môn vào thành khất thực, chúng tôi chẳng những tự mình không bố thí mà còn ngăn cản không cho người khác cúng dường, còn nói: “Mấy đạo nhân này không tự làm ăn sinh sống, chỉ biết trông nhờ nơi bá tánh; nếu hôm nay cho họ thì mai họ lại đến nữa. Thật là những người không bao giờ nhàm chán, không bao giờ thấy đủ.” Do nghiệp duyên ấy, nên khi chết đi chúng tôi phải đọa vào loài ngạ quỉ, chịu tội báo này.
Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên nói với các ngạ quỉ:
– Nay, ta sẽ nói lại với những người bà con của các ngươi, để họ góp sức chung lo việc mở hội cúng dường. Nhưng lúc ấy các ngươi cũng phải đến dự hội.
Các ngạ quỉ đều cùng nhau thưa với Tôn giả:
– Chúng tôi vì tội nghiệp đời trước gây nên, tuy có hình thể, nhưng mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng như núi lớn, cổ nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như dao nhọn, quấn chặt vào thân thể, giữa các chi tiết trong thân đều bị lửa đốt, rong chạy khắp nơi tìm thức uống ăn nhưng không được gì. Giả sử thấy được món ăn ngon, chạy đến thì món ăn ấy đều biến thành máu mủ. Vậy với thân hình này làm sao chúng tôi có thể đến nơi mở hội được.
Ngài Mục-kiền-liên liền vì các ngạ quỉ ấy trình bày với các bà con của chúng đầy đủ sự việc trên. Các bà con nghe rồi, họ rất đau buồn, cùng nhau hợp sức vì ngạ quỉ mà mở hội. Khi đã mở hội ngài Mục-kiền-liên nhập định quán sát xem các ngạ quỉ đang ở đâu. Mục-kiền-liên quán sát khắp cả mười sáu nước lớn, kế quán khắp cả cõi Diêm-phù-đề, cả bốn cõi Thiên hạ và một ngàn thế giới, cho đến cả thế giới Tam thiên đại thiên, cũng không thấy ngạ quỉ đâu cả.
Mục-kiền-liên lấy làm lạ, bèn đến chỗ Đức Phật bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, nay con vì các ngạ quỉ ấy khuyến hóa mọi người và bà con của chúng mở đại hội để tạo phước cứu giúp họ, nhưng con đã quán sát khắp cùng, mà không thấy các ngạ quỉ. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay các ngạ quỉ ấy, hiện giờ chúng ở đâu?
Đức Phật bảo Mục-liên:
– Các ngạ quỉ ấy bị gió nghiệp thổi đi, hàng Thanh văn các thầy không thể thấy biết. Tuy nhiên hiện giờ các ngạ quỉ ấy nhờ thầy mở hội thiết cúng, nên tội chướng được tiêu trừ. Ta sẽ làm cho họ đến trong đại hội.
Ngài Mục-kiền-liên liền vì các ngạ quỉ sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.
Đức Phật dùng thần lực giúp các ngạ quỉ đến trong đại hội, để cho các Bà-la-môn, Sát-lợi và Cư sĩ trong thành Vương xá đều thấy hình dạng xấu xí đáng sợ của loài ngạ quỉ, mà dứt bỏ tánh tham lam, bỏn xẻn, nhàm chán sinh tử. Sau khi chứng kiến hình ảnh đáng sợ ấy, tất cả đều được mở tỏ tâm ý, có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư- đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các ngạ quỉ kia nói pháp bằng nhiều cách cho họ thấy rõ về những lỗi lầm của sự tham lam, bỏn xẻn. Các ngạ quỉ đều sinh tâm kính tin. Ngay đêm ấy, các ngạ quỉ đều chết đi sinh lên tầng trời Đao-lợi.
Khi ấy họ tự nghĩ: “Chúng ta đã làm được việc phước gì mà được sinh lên cung trời Đao-lợi”. Họ liền quán sát, thấy mình trước kia đọa vào loài ngạ quỉ, đã nhờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mở hội thỉnh Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường, nên được sinh lên tầng trời Đao-lợi này vậy.
“Chúng ta phải cùng nhau đến chỗ Ngài Mục- liên để đền đáp công ân”. Nói xong, các Thiên tử đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mỗi vị đều cầm hương hoa, từ cõi trời xuống nhân gian đến cúng dường Đức Phật và Tôn giả Mục-kiền-liên. Cúng dường xong, các Thiên tử lui lại ngồi sang một bên nghe Đức Phật nói pháp, tâm ý được mở tỏ, tất cả đều có dấu hiệu thấy đạo, nhiễu Phật ba vòng rồi trở về Thiên cung.
Đức Phật bảo ngài Mục-liên:
– Thầy nên biết, năm trăm ngạ quỉ lúc bấy giờ, nay chính là năm trăm vị Thiên tử.
Vào Loài Ngạ Quỉ
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, ở thành Vương xá.
Bấy giờ, trong nước ấy có một vị trưởng giả, có vô lượng tài sản của báu nhiều không thể tính kể, ông chọn một cô gái trong một gia đình giàu sang để cưới về làm vợ và thường tấu trổi kỹ nhạc để mua vui cho nàng.
Khi người vợ ấy mang thai, qua mười tháng cưu mang thì sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô đẹp đẽ, trên đời ít có, nên cha mẹ rất hài lòng, đặt tên là Ưu-đa-la.
Khi Ưu-đa-la lớn khôn thì trưởng giả qua đời, Ưu-đà-la tự nghĩ: “Cha mình trước giờ buôn bán để sống, nhờ đó lập nên gia nghiệp, bây giờ ta không nên học theo cách ấy!”. Đối với Phật pháp,
Ưu-đa-la có tâm kính tin và muốn xuất gia, bèn đến xin mẹ đi xuất gia.
Mẹ đáp:
– Cha con đã chết, ngoài con ra ta không còn ai, vậy tại sao con nỡ bỏ ta mà đi xuất gia? Nay ta còn sống, nhất định không cho con. xuất gia nhập đạo, khi ta chết rồi lúc ấy tùy con.
Ưu-đa-la không toại nguyện, trong lòng buồn bã, thưa mẹ:
– Nếu mẹ không cho con xuất gia thì ngay bây giờ con sẽ nhảy xuống vực sâu hoặc uống thuốc độc mà chết.
Mẹ nói:
– Con đừng nói vậy. Tại sao ngày nay con nhất định muốn xuất gia mới được chứ? Thôi từ nay về sau, nếu con muốn thỉnh các Sa-môn, Bà-la- môn,… thì mẹ sẽ sắm sửa các món ăn ngon để tùy ý con cúng dường.
Nghe mẹ nói, Ưu-đa-la an lòng. Sau đó Ưu-đà- la thường thỉnh các Sa-môn và Bà-la-môn về nhà để cúng dường.
Mẹ của Ưu-đà-la thấy các đạo sĩ thường xuyên lui tới, nên bà rất buồn bực và sinh tâm chán ghét, rồi thốt ra những lời độc ác, chửi mắng các Sa- môn, Bà-la-môn:
– Hạng người không chịu làm ăn, chỉ biết trông nhờ vào bá tánh, thật đáng ghét!
Lúc ấy Ưu-đa-la đi vắng, người mẹ bèn đổ thức ăn và nước uống xuống hố bỏ. Khi con về, mẹ liền nói:
– Con đi rồi, mẹ ở nhà sắm sửa thức ăn ngon cúng dường cho các Sa-môn và Bà-la-môn rồi.
Nói xong, bà dẫn con đến chỉ cho thấy chỗ bà đã đổ thức ăn nước uống và nói:
– Mẹ vừa cúng dường xong, các vị mới ra về.
Ưu-đa-la nghe mẹ nói, rất vui mừng. Về sau, người mẹ qua đời bị đọa vào loài ngạ quỉ. Ưu-đa- la được xuất gia, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán.
Một hôm, khi đang ngồi thiền trong một cái hang bên bờ sông, có một ngạ quỉ miệng mồm khô nóng, đói khát khổ sở đến chỗ vị Tỳ-kheo nói rằng:
– Ta là mẹ của con đây. Tỳ-kheo lấy làm lạ nói:
– Lúc còn sống mẹ tôi thường ưa bố thí, vì sao ngày nay lại đọa vào loài ngạ quỉ, phải chịu quả báo này?
Ngạ quỉ đáp:
– Vì mẹ tham lam, bỏn xẻn không chịu cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, vì thế mà phải chịu làm thân ngạ quỉ. Trong suốt hai mươi năm mẹ không được ăn uống gì cả, giả sử có đi ra sông, suối hay ao hồ uống nước, thì nước đều khô cạn, hoặc có đến cội cây có trái thì cây liền khô héo. Mẹ bị đói khát nóng bức ép ngặt, không thể nói cho hết được.
Tỳ-kheo hỏi ngạ quỉ:
– Do đâu mà đến nỗi như vậy? Ngạ quỉ đáp:
– Tuy ta bố thí như tâm thường bỏn xẻn. Đối với các Sa-môn, Bà-la-môn không có tâm cung kính, lại còn nhục mạ, nên ngày nay phải chịu quả báo này. Nếu thầy thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường và sám hối, hồi hướng công đức cho ta thì chắc chắn ta sẽ thoát khỏi thân ngạ quỉ.
Lúc ấy thầy Tỳ-kheo nghe mẹ nói, vô cùng đau xót, bèn khuyến hóa các thí chủ sắm sửa thức ăn ngon thỉnh Đức Phật, chư Tăng cúng dường. Sau khi cúng dường xong, ngạ quỉ kia liền hiện thân tại pháp hội để tỏ bày tội lỗi sám hối.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp cho ngạ quỉ này nghe bằng mọi cách. Ngạ quỉ sinh tâm hổ thẹn. Ngay trong đêm ấy ngạ quỉ qua đời, lại thọ thân khác, đọa vào loài ngạ quỉ biết bay, đầu đội mão trời, cổ đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể lại đến chỗ Tỳ-kheo thưa:
– Ta cũng chưa thoát được thân ngạ quỉ, một lần nữa thầy hãy khuyến hóa các thí chủ thiết lễ cúng dường, sắm sửa các thứ giường ghế, mùng mền để cúng dường chư Tăng khắp nơi hồi hướng công đức cho ta, thì ta mới thoát được thân ngạ quỉ.
Thầy Tỳ-kheo nghe mẹ nói lại khuyến hóa thí chủ sắm sửa đầy đủ thức uống ăn và giường ghế, mùng mền để cúng dường chư Tăng khắp nơi.
Sau khi cúng dường xong, ngạ quỉ hiện thân trước đại chúng, lại sám hối. Ngay trong đêm ấy ngạ quỉ chết đi, được sinh lên tầng trời Đao-lợi. Liền nghĩ rằng: “Không biết ta đã gieo trồng phước đức gì mà được sinh lên tầng trời này?”. Bèn quán sát biết rằng nhờ người con là Tỳ-kheo đã sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng hồi hướng công đức cho mình mà được thoát thân ngạ quỉ, sinh lên cõi trời. Vậy nay mình phải đền đáp ân đức của Đức Phật và vị Tỳ- kheo.
Nghĩ xong, vị trời này liền đội mũ trời, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang hương hoa đến cúng dường Đức Phật và người con Tỳ-kheo.
Cúng dường xong, vị trời lui lại ngồi sang một bên, nghe Đức Phật nói pháp, tâm ý được mở tỏ, chứng được quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại cõi trời.
Khi Đức Phật nói về việc mẹ chàng Ưu-đa-la, các Tỳ-kheo đều dứt bỏ tâm tham lam, bỏn xẻn và nhàm chán sinh tử; có vị chứng được quả Tu-đà- hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ Tôn giả A-nan đắp y, ôm bát vào thành khất thực, gặp một ngạ quỉ mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như núi, cổ họng nhỏ như cây kim, bị mù từ lúc sinh ra, bị các loài quạ, cú, thứu, điêu… cắn mổ; lại còn tự đánh mình rồi lớn tiếng kêu la, không lúc nào ngừng.
A-nan hỏi ngạ quỉ:
– Đời trước ngươi gây ra nghiệp ác gì, mà nay chịu khổ như vậy?
Ngạ quỉ đáp:
– Nơi có mặt trời thì không cần đèn đuốc. Trên đời có Như Lai, xin Tôn giả hãy đến hỏi Ngài.
Bấy giờ, A-nan liền đến gặp Phật, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vừa rồi con vào thành khất thực, thấy một ngạ quỉ chịu khổ não dữ dội, không thể nói hết được.
Ngài A-nan liền trình bày hết sự việc cho Phật nghe và bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay đời trước ngạ quỉ kia đã gây ra nghiệp ác gì mà nay chịu thọ quả báo như thế?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, theo thứ lớp Ngài đến vườn Nai, bấy giờ có một phụ nữ đang mang thai. Khi thấy Đức Phật Thế Tôn, phụ nữ ấy sinh tâm rất kính tin.
Đủ mười tháng, người phụ nữ sinh được một bé gái, dung mạo xinh đẹp khác thường mọi người đều kính quý. Bé gái dần dần khôn lớn.
Một hôm, cô gái ấy đến chỗ Phật, nghe Phật nói pháp, sinh kính tin. Khi trở về nhà cô thưa với cha mẹ:
– Xin cha mẹ bằng lòng cho con được xuất gia. Lúc ấy cha mẹ cố ngăn cản, nhưng không thể làm cho cô từ bỏ ý định. Sau đó cô xuất gia làm
Tỳ-kheo-ni.
Vị Tỳ-kheo-ni được cha mẹ xây dựng cho một ngôi chùa, lại thỉnh các Tỳ-kheo-ni về ở chung chùa. Hôm ấy, vị Tỳ-kheo-ni con của trưởng giả, đối với Giới luật có hủy phạm chút ít, nên bị các Tỳ-kheo-ni đuổi ra khỏi chùa. Tỳ-kheo-ni rất hổ thẹn, không dám về nhà, phải ở nhờ nhà người khác, cô sinh tâm giận dữ nói:
– Ngôi chùa đó là của ta, ta cư trú trong đó, nay tại sao các người lại đuổi ta để mình ở như thế?
Sau đó, cô bèn đi nói những lỗi xấu của các Tỳ- kheo-ni cho các trưởng giả cư sĩ nghe:
– Các người ấy giống như ngạ quỉ, không chịu làm ăn sinh sống mà chỉ biết trông nhờ vào bá tánh. Ta thề kiếp sau không thấy bọn họ nữa.
Thề như vậy rồi, về sau Tỳ-kheo-ni qua đời bị đọa vào loài ngạ quỉ sinh ra đã bị mù hai mắt.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy nên biết, con gái của vị trưởng giả xuất gia nhập đạo; vì bị đuổi khỏi chùa nên dùng lời độc ác để phỉ báng các Tỳ-kheo-ni lúc ấy, nay chính là ngạ quỉ sinh ra đã bị mù kia vậy.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỉ sinh ra đã bị mù thì các Tỳ-kheo đều giữ gìn ba nghiệp, thân, miệng, ý, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà- hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Tham Lam Nên Bị Đọa Vào Loài Ngạ Quỉ
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, tên là Nhã-đạt-la, có vô lượng tài vật của báu, tôi tớ, voi ngựa trâu dê nhiều không thể tính kể.
Một hôm, trưởng giả rời thành ra ngoài dạo chơi thưởng ngoạn phong cảnh, khi đến tinh xá Kỳ hoàn, trưởng giả thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng soi khắp như trăm ngàn mặt trời, trang nghiêm thân Ngài, trưởng giả sinh tâm rất kính tin đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên để nghe Phật nói pháp. Trưởng giả vui mừng, trở về từ giã gia đình và bà con để cầu xin nhập đạo. Được gia đình và bà con chấp nhận, trưởng giả trở lại bạch Phật xin được xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Trưởng giả, râu tóc tự nhiên rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn.
Những người trong thân tộc và dân chúng thấy Nhã-đạt-la là con nhà giàu sang mà xuất gia học đạo, nên tranh nhau cúng dường y bát và các vật cần dùng. Nhã-đạt-la được cúng dường sinh tâm tham, bỏn xẻn không cúng dường lại cho những vị đồng tu phạm hạnh. Về sau, khi qua đời, Nhã- đạt-đa bị đọa vào loài ngạ quỉ, trở lại giữ y bát.
Chúng Tăng thấy Nhã-đạt-đa chết, bèn mở cửa phòng định lấy y bát và đem thi hài làm phép yết- ma hỏa táng thì thấy một ngạ quỉ mình mẩy như thân cây bị cháy, hình dạng rất đáng sợ đang giữ lấy y bát này nên chẳng ai dám đến gần. Các Tỳ- kheo thấy vậy, liền trở về bạch Phật và thuật lại sự việc trên.
Bấy giờ, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến căn phòng ấy, Ngài bảo ngạ quỉ:
– Sao ngươi không biết hổ thẹn, trước kia ngươi đã xuất gia nhập đạo, cũng vì tham đắm lợi dưỡng, không chịu bố thí, nên mới đọa vào loài ngạ quỉ có thân hình xấu xí. Vì sao ngươi đã không biết hổ thẹn mà còn trở lại ôm giữ y bát làm gì.
Đức Phật quở trách tham lam bỏn xẻn có nhiều tội lỗi, chính điều này làm cho chúng sinh đọa vào đường ác. Đức Phật nói pháp cho ngạ quỉ nghe bằng mọi cách. Tâm ý được mở tỏ, ngạ quỉ rất hổ thẹn, liền lấy bát cho chúng Tăng. Nửa đêm hôm ấy ngạ quỉ chết đi lại đọa vào loài ngạ quỉ biết bay, thân tướng đẹp đẽ khác thường, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, thân phát ra ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn, bay lên không trung chẳng khác gì các vị trời, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp cho ngạ quỉ nghe bằng nhiều cách. Vị ấy tâm ý mở tỏ, vui mừng lui ra.
Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo thưa hỏi Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua có ánh sáng chiếu khắp Kỳ hoàn, đó là Phạm vương, Đế Thích, bốn vị Thiên vương và hai mươi tám bộ Quỉ thần tướng hay là các vị Đại Bồ-tát từ các nơi đến nghe pháp?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Chẳng phải Đế Thích, Phạm vương hay hai mươi tám bộ các Thần vương mà là một vị trưởng giả rất giàu có trong thành Xá-vệ xuất gia nhập đạo, gần đây mạng chung bị đọa vào loài ngạ quỉ biết bay, nay đem hương hoa đến cúng dường Ta. Ánh sáng này từ thân ngạ quỉ ấy phát ra.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên ngạ quỉ, các Tỳ-kheo đều dứt bỏ tâm tham lam bỏn xẻn, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A- na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Ngạ Quỉ Con Do Nó Sinh Ra
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, Tôn giả Na-la-đạt-đa mặc y, ôm bát vào thành khất thực. Khi Tôn giả trở về nơi cũ để thọ trai xong, từ xa nhìn thấy tinh xá Kỳ hoàn toàn một màu đỏ như máu. Tôn giả lấy làm lạ, liền đến xem; thấy một ngạ quỉ da thịt tiêu hết, chỉ còn bộ xương, trong một ngày đêm sinh ra được năm trăm ngạ quỉ con, gầy còm ốm yếu, không có khí lực. Trong khi ngạ quỉ sinh con thì tay chân rụng rời, bị đói khát hành hạ, vừa sinh ra con nào thì liền ăn thịt con nấy mà không bao giờ no.
Lúc ấy Tôn giả Na-la-đạt-đa hỏi ngạ quỉ:
– Ngươi đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay phải chịu quả báo đau khổ như vậy?
Ngạ quỉ đáp:
– Xin Tôn giả hãy hỏi Đức Phật Thế Tôn, Ngài sẽ nói cho Tôn giả nghe.
Bấy giờ, Na-la-đạt-đa liền đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại đứng sang một bên. Theo pháp thường của chư Phật thì trước hết là hỏi thăm.
Đức Thế Tôn hỏi:
– Nay thầy có thấy điều gì lạ chăng?
Na-la bạch Phật:
– Vừa rồi, khi con đang đi trông thấy một ngạ quỉ, trong một ngày đêm sinh ra năm trăm ngạ quỉ con, vì quá đói khát nên sinh con rồi ăn thịt con. Bạch Thế Tôn, chẳng hay đời trước ngạ quỉ này đã gây ra nghiệp ác gì mà nay phải chịu quả báo như vậy?
Đức Phật bảo Na-la-đạt-đa:
– Nếu thầy muốn biết, hãy dốc lòng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba- la-nại có một vị trưởng giả, vàng bạc, châu báu, tôi tớ, voi ngựa trâu dê nhiều không thể tính kể. Trưởng giả ấy chỉ có một vợ mà không có con, cầu xin với Thần linh, để mong được sinh con nhưng không được.
Lúc ấy trưởng giả cưới thêm một cô gái trong dòng họ, không bao lâu, trưởng giả được biết cô vợ sau đã có thai. Vợ cả hay tin, sinh lòng ganh tị, bà âm thầm dùng thuốc độc làm trụy thai vợ nhỏ.
Lúc ấy những người bà con của vợ nhỏ đến hành hung, họ dùng gậy gộc, tay chân để hỏi vợ cả có làm việc ấy không. Vợ cả nửa muốn nói thật vì sợ bị chết bởi đòn roi, nửa không dám nói vì sợ cũng bị tra khảo đau đớn vô cùng. Trong lúc bị dồn ép bức bách ấy, bà mới thề liều rằng:
– Nếu tôi thật sự có làm cô ấy trụy thai, thì khi chết tôi sẽ đọa vào loài ngạ quỉ, một ngày một đêm sinh năm trăm ngạ quỉ con, sinh con ra lại ăn thịt con mình và không bao giờ biết no.
Bà thề thốt như vậy rồi bỏ đi. Đức Phật bảo Na-la-đạt-đa:
– Thầy nên biết, người vợ cả thời ấy, vì sinh lòng ghen ghét làm trụy thai người khác, rồi dối trá thề thốt đọa vào loài ngạ quỉ, nên nay phải thọ quả báo như vậy.
Khi nghe Đức Phật dạy tâm ganh ghét có nhiều tội lỗi, làm cho chúng sinh đọa vào đường ác, các Tỳ-kheo tâm ý được mở tỏ, có vị chứng quả Tu- đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong giảng đường Trùng các, bên bờ sông Di-hầu, thành Tỳ-xá-ly.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Già-la. Ông kén chọn người xứng đáng phù hợp để cưới làm vợ và thường tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, người vợ mang thai, tự nhiên có mùi hôi thối, không ai có thể tới gần. Trưởng giả hỏi vợ:
– Trước kia nàng không có như vậy, tại sao nay lại có mùi hôi thối như thế?
Vợ đáp:
– Đó là do hành nghiệp của đứa con trong bụng em gây ra khiến cho như thế.
Mang thai đủ mười tháng, người vợ sinh được một bé trai, chỉ có da bọc xương, ốm yếu gầy gò, không ai muốn nhìn, lại khi sinh ra mình mẩy dính đầy phẩn uế. Đứa trẻ dần dần khôn lớn, nhưng không muốn ở nhà mà chỉ thích đi tìm đồ phẩn uế, không chịu dứt bỏ.
Cha mẹ và bà con thấy nó như vậy không muốn thấy mặt; bèn đuổi nó đi thật xa để khỏi gần gũi. Người con ra đi, tìm phẩn uế làm thức ăn. Dân chúng thấy vậy, bèn đặt tên là quỉ Diêm-ba-la.
Bấy giờ, trong nước có bọn ngoại đạo, tình cờ đi đường gặp Diêm-ba-la, họ khen tốt lắm. Diêm- ba-la nghe khen, mừng vui khôn xiết, bèn nói với các ngoại đạo:
– Xin các vị hãy rủ lòng thương cho tôi được nhập đạo.
Khi ấy, các ngoại đạo liền cho Diêm-ba-la xuất gia. Họ bảo Diêm-ba-la phải khỏa thân, bôi tro vào mình, tu theo tịnh hạnh.
Diêm-ba-la tuy là ở trong đạo, nhưng lại ưa thích những nơi có phẩn uế dơ bẩn. Các ngoại đạo thấy vậy đều quở trách, có khi họ dùng roi đánh đập và nói rằng:
– Ông là người, tại sao lại ưa thích chỗ bất tịnh như vậy.
Diêm-ba-la thường bị các ngoại đạo trách mắng hoặc đánh đập bèn bỏ ra đi, đến sống một mình thỏa thích tại hố nước bên bờ sông.
Lúc ấy tại bờ sông, lại có năm trăm ngạ quỉ đang sống ở đó, thấy Diêm-ba-la đến với thân hình rất hôi thối, nên chúng chỉ ở bên trong, chẳng dám gần gũi, nhưng Diêm-ba-la thường tự khen ngợi mình với các quỉ:
– Tôi ở tại nhân gian thường bị quở trách, đánh đập rất khổ sở. Nay ở đây, tôi không còn bị mắng nhiếc đánh đập, thật là sung sướng. Nhưng các ngạ quỉ thấy Diêm-ba-la hôi thối dơ bẩn, nên họ đều bỏ đi. Lúc ấy Diêm-ba-la nói với các ngạ quỉ:
– Thân hôi thối của tôi nhờ các anh mà sống được vài ngày, nay các anh lại bỏ tôi mà đi, từ nay về sau tôi biết sống sao đây?
Diêm-ba-la nói xong, trong lòng rất khổ não, buồn rầu đến nỗi ngã quỵ xuống đất.
Bấy giờ Đức Thế Tôn sáu thời trong một ngày đêm thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào độ được, Ngài liền đến hóa độ. Phật thấy Diêm-ba-la mất hết bạn bè, ưu sầu khổ não, Ngài liền đến chỗ hố nước nói pháp, khiến Diêm-ba-la vui mừng.
Diêm-ba-la thấy Phật Thế Tôn các căn vắng lặng, ánh sáng quang minh chiếu soi như trăm ngàn mặt trời trang nghiêm thân Ngài nên rất vui mừng và gieo năm vóc sát đất, bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, trong thế gian này, những người thấp hèn như con có được xuất gia hay không?
Đức Phật đáp:
– Trong giáo pháp của Ta, không có người cao quý hay thấp hèn nào mà không được xuất gia.
Diêm-ba-la nghe Phật dạy, bèn bạch:
– Cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót cho con được xuất gia.
Khi ấy Thế Tôn liền giơ cánh tay phải màu vàng ròng và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Diêm-ba-la, râu tóc tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, liền thành Sa-môn, oai nghi đỉnh đạc giống như một vị Tỳ-kheo đã có mười hai tuổi hạ không khác.
Sau khi nhờ ân Phật được xuất gia, Diêm-ba-la liền ở trước Đức Phật nói kệ:
Nay được nhờ ân Phật Vừa ý, như sở nguyện Trừ bỏ thân hôi thối
Được thành vị Sa-môn.
Đức Phật bảo Diêm-ba-la:
– Giờ đây, trong giáo pháp của Ta, thầy đã được xuất gia, vậy hãy siêng năng tu tập, giữ gìn tâm ý.
Không bao lâu, Diêm-ba-la chứng đắc quả A- la-hán, đầy đủ ba minh, sáu phép thần thông và tám pháp giải thoát, được các trời người kính ngưỡng. Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Diêm-ba-la này đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay phải chịu tội báo như vậy, lại do nhân duyên gì được gặp Đức Phật Thế Tôn và rồi đắc quả A-la-hán.
Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ cho các Tỳ-kheo nghe rằng:
Trước gieo nghiệp thiện, ác Trăm kiếp cũng không mất Vì nhân duyên tội nghiệp Nay chịu quả báo này.
Các Tỳ-kheo nghe Phật nói kệ xong, lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ở quá khứ như thế nào? Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích. Trong hiền kiếp này, lúc ấy con người sống lâu bốn vạn tuổi. Tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời, hiệu là Ca-la-ca-tôn-đà. Ngài cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, đến nước Bảo điện, nhà vua nghe tin Phật đến, trong lòng rất vui mừng, liền cùng các quan ra khỏi thành đón rước, vua quan cùng đảnh lễ dưới chân Phật rồi quỳ thẳng chắp tay, thỉnh Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng.
Đức Phật liền chấp nhận. Sau khi biết Đức Phật đã chấp nhận, vua liền vì Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng cho xây dựng phòng ốc, rồi thỉnh một Tỳ- kheo làm trụ trì để trông coi việc Tăng.
Một hôm, vị trụ trì có việc đi vắng. Lúc ấy có một vị Tỳ-kheo La-hán vào chùa, oai nghi khoan thai rất đáng chiêm ngưỡng. Các thí chủ của vị trụ trì bèn mời Tỳ-kheo ấy vào nhà tắm để tắm rửa. Sau đó, Tỳ-kheo lại xoa dầu thơm lên người.
Khi vị trụ trì trở về, thấy vị Tỳ-kheo này xoa dầu thơm lên mình, liền sinh lòng ganh ghét, rồi dùng lời lẽ độc ác mắng nhiếc Tỳ-kheo:
– Ông là người xuất gia, sao lại làm như vậy?
Chẳng khác nào bôi phẩn người lên mình.
Vị La-hán nghe vị trụ trì nói vậy, sinh tâm thương xót. Vị La-hán bỗng vọt lên không trung, hiện ra mười tám thứ thần biến. Lúc ấy vị trụ trì thấy sự thần biến, rất sinh tâm hổ thẹn và hướng về vị La-hán để sám hối tội lỗi. Do nghiệp duyên ấy nên trong năm trăm đời khi sinh ra, thân Diêm-ba- la thường hôi thối, không ai dám đến gần.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị trụ trì đã dùng lời lẽ ác độc mắng nhiếc vị La-hán lúc bấy giờ nay chính là Tỳ-kheo Diêm-ba-la vậy. Nhưng nhờ lúc ấy đã từng xuất gia và hướng về La-hán sám hối tội lỗi, cho nên nay gặp Ta, được xuất gia và đắc đạo.
Khi Đức Phật nói truyện nhân duyên của Diêm- ba-la, các Tỳ-kheo đều giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý; dứt bỏ tâm ganh ghét, nhàm chán sinh tử; có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng đắc Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắt quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích- chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, tại thành Vương xá.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, tên là Hiền Diện, có vô lượng tài sản, vật báu, nhiều không thể tính kể. Nhưng trưởng giả lại có tính tà vạy, tham lam, bỏn xẻn ganh ghét; không bao giờ biết bố thí, ngay cả chim muông ông cũng xua đuổi không cho bay gần nhà. Nếu có các Sa-môn, Bà- la-môn hay những kẻ nghèo khổ đến xin thì ông dùng lời lẽ ác độc mắng chửi họ.
Do tánh của ông chỉ lo tìm cầu tài sản, chứa để của cải, mà không chịu bố thí, nên khi chết đi bị đọa làm rắn độc, trở lại giữ tài sản ấy. Nếu có ai tới gần thì rắn giận dữ hung hăng, trợn mắt nhìn họ, có thể khiến cho người chết được.
Một hôm, sự việc này đến tai vua Ba-tư-nặc. Vua lấy làm lạ, suy nghĩ: “Con rắn độc này hung hăng, giận dữ, thấy người là làm hại ngay, chỉ có Đức Phật Thế Tôn mới điều phục nó được”.
Nghĩ xong, vua cùng các quan đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới nơi chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Trong thành có một vị trưởng giả có tài sản vật báu nhiều vô lượng, mà không chịu bố thí, nay chết đi bị đọa làm rắn độc, rất hung hăng giận dữ và trở lại giữ tài sản ấy. Nếu có người đến gần nó liền làm hại. Cúi mong Thế Tôn hãy hàng phục con rắn ấy, chớ để nó hại người.
Đức Phật liền chấp nhận. Hôm sau Phật đắp y, ôm bát đến chỗ rắn ở.
Rắn thấy Đức Phật đến liền nổi giận hung hăng định cắn Ngài. Đức Phật dùng năng lực từ bi, từ năm đầu ngón tay Ngài phát ra ánh sáng năm màu chiếu vào thân rắn. Lúc ấy rắn cảm thấy mát mẻ, nọc độc tan biến, tâm thần khoan khoái, ngẩng đầu nhìn xung quanh tự hỏi:
– Người có phước đức nào đã phóng ánh sáng chiếu vào thân tôi, khiến tôi được mát mẻ khoan khoái như vậy?
Lúc ấy Thế Tôn biết rắn đã được điều phục, Ngài bèn bảo:
– Này trưởng giả Hiền Diện, đời trước ngươi vì tham lam bỏn xẻn, nên phải làm thân rắn tội ác này, nay vì sao lại còn tiếc nuối của cải mà muốn cắn người như thế. Vì tánh hung dữ quá mức ấy, mà đời sau phải chịu nhiều khổ não.
Nghe Đức Phật dạy, rắn tự trách mình. Mây chướng ngại đã tiêu trừ, rắn độc nhớ lại đời trước mình là trưởng giả, nhưng vì gây ra nghiệp ác, nên nay phải chịu quả báo làm rắn, nên đối với Đức Phật, rắn mới sinh tâm kính tin.
Bấy giờ Thế Tôn biết tâm rắn đã được thuần phục, bèn bảo:
– Đời trước ngươi đã không nghe lời Ta, nên phải làm thân rắn. Vậy hôm nay, ngươi phải chịu điều phục và vâng lời Ta dạy.
Rắn bạch Phật:
– Tùy Phật dạy bảo, con không dám chống trái. Đức Phật bảo rắn:
– Nếu ngươi chịu thuần phục, hãy chui vào bát. Đức Phật nói dứt lời, rắn liền chui vào bát Phật.
Đức Phật đem bát trở về vườn trúc Ca-lan-đà.
Khi ấy vua Tần-bà-sa-la và thần dân nghe Thế Tôn đã điều phục được rắn độc, cho vào bát mang về, vua liền triệu tập nhân dân trong nước và cùng nhau đến xem. Rắn nằm trong bình bát của Phật, nhìn thấy mọi người, nó sinh tâm hổ thẹn và chán ghét thân rắn. Khi chết, rắn được sinh lên tầng trời Đao-lợi, liền tự nghĩ: “Ta đã làm được phước đức gì mà được sinh lên cõi trời như thế?” Nghĩ vậy, vị trời này bèn quán sát thấy rằng khi còn ở nhân gian, mình làm rắn độc. Nhờ được gặp Phật, sinh tâm kính tin, nhàm chán thân rắn, mà được sinh lên cõi trời, thọ hưởng sự vui sướng ở cõi trời. Vị trời tự nghĩ: “Bây giờ, ta phải trở lại đền đáp ân đức của Như Lai”.
Vị trời này liền đội mũ trời, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, tay cầm hương hoa, thân phát ra ánh sáng, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài. Cúng dường xong, vị trời lui lại, ngồi sang một bên nghe Đức Phật nói pháp, tâm ý được mở tỏ, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, ở trước Phật dùng kệ khen ngợi:
Bậc Đại Thánh vòi vọi Các công đức đều đủ Mở mắt chúng sinh mù Liền đắc được đạo quả. Gạn bỏ cặn phiền não
Vượt ra biển sinh tử Nhờ ân đức của Phật Lấp được ba đường ác.
Sau khi nói kệ khen Phật, vị trời nhiễu ba vòng quanh Phật, rồi trở về Thiên cung.
Sáng hôm sau, vua Tần-bà-sa-la đến chỗ Đức Phật, bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, tối qua có ánh sáng chiếu soi nơi Thế Tôn ngự. Đó là do ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay hai mươi tám bộ Quỉ thần tướng?
Đức Phật đáp:
– Không phải Đế Thích, Phạm vương, cũng chẳng phải Thiên thần đến nghe pháp, mà là vị trưởng giả tham lam bỏn xẻn ngày xưa, nay sinh lên cõi trời đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Khi vua Tần-bà-sa-la nghe Phật nói về truyện tham lam bỏn xẻn của trưởng giả Hiền Diện, trong chúng hội có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng đắc quả Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A- na-hàm, có vị chứng đắc quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui vẻ thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên
Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một Bà-la-môn sống bằng nghề buôn bán và làm ruộng. Người vợ mang thai, đủ mười tháng, sinh được một bé trai, đặt tên là Nguyệt Quang. Nguyệt Quang dần dần khôn lớn, một hôm, cùng người con của trưởng giả Tu- đạt ra ngoài thành để dạo chơi, đến trong Tăng phường. Nguyệt Quang thấy các Tỳ-kheo siêng năng tu tập, chàng được nghe một bài kệ bốn câu, rất sinh lòng kính tin. Sau đó, Nguyệt Quang trở về nhà và bảy ngày sau thì qua đời, được sinh lên tầng trời Đao-lợi.
Lúc ấy cha mẹ Nguyệt Quang rất buồn bã, kêu gào than khóc không kìm chế được, người cha ôm thi hài con ra nghĩa địa khóc kể:
– Tôi chỉ có duy nhất một đứa con. Bây giờ nó đã bỏ tôi ra đi, rồi ai sẽ săn sóc tôi? Thật đau đớn biết chừng nào! Tôi thà chết theo nó, chứ không thể trở về nhà được.
Lúc ấy người bà con thân quyến can gián đủ điều, mà người cha ấy cũng không chịu về. Sự chân thành đó cảm ứng đến cung điện người con, khiến rung động chẳng yên. Vị trời này quán sát biết rằng mình từ trong cõi người sinh lên cõi trời và thấy cha mẹ ở nơi nghĩa địa đang ôm thi hài mình khóc lóc thảm thiết. Do đó mà cảm ứng đến cung điện làm cho rung động như vậy.
Vị trời này bèn xuống nhân gian, tự biến mình thành một vị Tiên với thân thể bị năm thứ lửa đốt, đến bên cha mẹ.
Lúc ấy Bà-la-môn hỏi vị Tiên:
– Nay ông để cho năm thứ lửa đốt thân là để cầu điều gì?
Vị Tiên đáp:
– Tôi muốn được làm một quốc vương, xe làm bằng vàng và được khảm bằng các thứ châu báu, các vị trời Nhật, Nguyệt đứng hầu hai bên tôi và bốn vị Thiên vương kéo xe cho tôi đi khắp bốn cõi thiên hạ. Được như vậy không sung sướng hay sao?
Bà-la-môn trả lời:
– Dù cho ông có đốt thân suốt ngày đêm trong một trăm năm, để cầu chiếc xe bằng châu báu như vậy và được các vị trời hầu hạ, bảo vệ thì điều ấy cũng không bao giờ được.
Lúc ấy vị Tiên lại hỏi Bà-la-môn:
– Nay, ông ôm xác chết là để mong được điều gì?
Bà-la-môn đáp:
– Tôi chỉ có duy nhất một đứa con mà nó chết đi bỏ tôi. Do đó, tôi ôm nó là mong nó sống lại.
Nhân đó, vị Tiên nói:
– Dầu ông ôm xác nó, khóc lóc suốt ngày đêm trong một trăm năm, con ông cũng không thể sống lại được.
Bà-la-môn nghe vị Tiên nói vậy, trong lòng hổ thẹn, thôi khóc và đứng lặng yên. Bấy giờ, vị Tiên kia biến trở lại thân cũ là vị trời, thưa cùng cha mẹ:
– Đứa con một của cha mẹ, giờ đây chính là con. Nhân một ngày nọ con có đến Tăng phường, được nghe một bài kệ bốn câu, sinh lòng vui mừng phát tâm kính tin. Khi chết đi con được sinh lên cõi trời. Vì muốn xóa tan nỗi sầu khổ của cha mẹ, nên con hóa làm vị Tiên đến đây để khuyên giải cha mẹ.
Bấy giờ cha mẹ của vị trời nghe con nói tâm ý liền được cởi mở, vui mừng khôn xiết.
Lúc ấy vị trời đầu đội mũ trời, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, tay cầm hương hoa, khuyên cha mẹ cùng đến gặp Đức Phật, cúng dường Phật xong, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho họ nghe. Tâm ý được mở tỏ, tất cả đều đắc quả Tu-đà- hoàn.
Các Tỳ-kheo nghe thấy việc ấy, bước ra bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trước kia vị trời này đã gieo trồng phước đức gì, mà nay khéo dùng lời khuyên lơn, giải thích cho cha mẹ hiểu để không còn buồn khóc và chứng được đạo quả như vậy?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Không phải chỉ có ngày nay, vị trời kia mới giải tỏa cho cha mẹ khỏi buồn rầu, mà ngày xưa cũng đã từng cứu giúp cha mẹ.
Các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, lại bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ngày xưa như thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giải thích rõ cho chúng con được biết.
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có một kẻ ngu, thường thích làm kẻ trộm cướp, lại có tánh tà dâm, lừa dối mọi người. Một hôm hắn bị quan bắt trói, giải giao về cho vua phán xử. Vua hỏi tội, kẻ ngu thú nhận những tội lỗi như trên. Vua ra lệnh phải đem giết.
Lúc bây giờ, vị trời này là con của kẻ ngu, tánh tình nhân hậu hiền nhu và hiếu thuận, cả nước đều biết tiếng, con vì cha đã cầu xin vua tha tội chết cho cha. Cầu xin đến ba lần. Vua không nỡ trái ý người con, bèn tha tội cho kẻ ngu và để ông đi đâu tùy ý.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, kẻ trộm cướp lúc bấy giờ, nay chính là cha của vị trời; còn người con lúc ấy nay là vị trời. Vì có lần đã thọ pháp Tam quy với Phật Ca-diếp, nên nay vị trời được gặp Ta, được xuất gia và chứng được đạo quả.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của vị trời này, trong chúng có vị chứng đắc quả Tu-đà- hoàn, cho đến có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ các trưởng giả giàu có trong thành đều nhóm họp trên một suối nước để tấu trổi kỹ nhạc vui chơi. Để lập hội hoa Sa-la nên trong hội cử ra một người vào rừng hái hoa Sa-la về để làm vòng hoa. Bấy giờ, trên đường về chỗ hội, người hái hoa gặp Thế Tôn với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời. Trong lòng vui mừng, vị ấy đảnh lễ dưới chân Phật rồi lấy hoa mà mình hái được rải lên thân Ngài để cúng dường. Sau khi cúng dường Thế Tôn, người hái hoa lại trở vào rừng để hái thêm hoa. Trong khi leo, cành bị gãy, người hái hoa rơi xuống đất và chết ngay, được sinh lên tầng trời Đao-lợi làm vị trời có tướng mạo khôi ngô khác thường, vị trời này dùng hoa Sa-la để làm cung điện.
Lúc ấy trời Đế Thích hỏi vị trời này:
– Ông ở đâu, đã làm được phước đức gì mà được sinh lên tầng trời này?
Vị trời đáp:
– Tôi ở cõi Diêm-phù-đề, đi hái hoa Sa-la được gặp Đức Thế Tôn. Tôi đã rải hoa lên mình Ngài cúng dường, nhờ công đức ấy, nên tôi được sinh lên tầng trời này.
Trời Đế Thích thấy vị trời này thân tướng đẹp đẽ, trang nghiêm bậc nhất, nên nói kệ khen ngợi:
Màu thân như vàng ròng Chiếu sáng rất xinh tươi Dung mạo thật đẹp đẽ Hơn hết trong các trời.
Lúc ấy vị trời cũng dùng kệ đáp: Tôi nhờ ân Đức Phật Dâng cúng hoa Sa-la
Do nhân duyên lành ấy Nay được quả báo này.
Vị trời nói kệ xong, liền cùng trời Đế Thích đến gặp Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp cho nghe bằng nhiều cách. Tâm ý được mở tỏ, phá được hai mươi ức tà kiến nghiệp chướng, vị trời chứng quả Tu-đà- hoàn, trong tâm vui mừng, liền khen ngợi Phật bằng bài kệ:
Bậc Đại Thánh vòi vọi
Trên hết không ai bằng Cha mẹ và thầy tổ
Công đức cũng không bằng. Bốn biển lớn khô cạn
Vượt qua núi xương trắng Đóng bít ba đường ác
Mở ba cửa giải thoát.
Vị trời nói kệ xong, bước tới dưới chân Phật và nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi trở về cõi trời.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy rồi sáng sớm hôm sau đến bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua có ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn, đó là ánh sáng của Đế Thích, Phạm Thiên vương, bốn vị Thiên vương, hay là của hai mươi tám bộ Quỉ thần tướng?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Không phải ánh sáng của trời Đế Thích, hay Phạm thiên, Quỉ thần, bốn vị Thiên vương, mà là người trước kia đã hái hoa Sa-la cúng dường Ta, nay được sinh lên cõi trời, đem các thứ hương hoa đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị ấy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Dường Tháp Được Sinh Lên Cõi Trời
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, vua Tần-bà-sa-la, mỗi ngày ba lần, cùng các quan thuộc đến nơi Phật ngự để lễ bái cúng dường Thế Tôn.
Thời gian sau này, khi tuổi đã cao, thân thể ngày càng nặng nề, nên vua không thể hằng ngày đi lễ bái Phật như xưa.
Lúc ấy các quan đề nghị với đức vua:
– Xin đại vương đến gặp Phật, xin Ngài cho tóc và móng tay, để xây dựng chùa tháp ở hậu cung sắm sửa hương hoa, đèn đuốc cúng dường.
Vua bằng lòng, bèn đến chỗ Phật, bạch Phật. Lúc ấy Thế Tôn liền trao tóc và móng tay của Ngài cho vua Tần-bà-sa-la.
Trong hoàng cung, vua cho xây dựng chùa tháp, treo lọng phướn bằng tơ lụa, hương hoa đèn sáng. Hằng ngày vua đến cúng dường ba lần.
Lúc bấy giờ, thái tử A-xà-thế và Đề-bà-đạt-đa cùng nhau âm mưu giết hại vua cha, rồi tự lên ngôi. A-xà-thế ra lệnh cho các quan trong cung không được cúng dường ngôi tháp đó. Nếu ai trái phạm, thì vua sẽ trị tội không tha.
Sau đó, nhân ngày rằm tháng bảy, lúc chúng Tăng tự tứ, có một thể nữ trong cung tên là Công Đức Ý tự nghĩ: “Tháp này do tiên vương xây dựng, nay vì không có người quét dọn nên bụi bặm dơ bẩn. Cho dù thân ta có bị vua hành hình, thì ta cũng rưới nước quét dọn, rồi đem hương hoa, đèn nến cúng dường.” Nghĩ rồi, Công Đức Ý liền đốt đèn cúng dường tháp.
Lúc ấy từ trên lầu cao, vua A-xà-thế thấy có đèn sáng trong tháp, ông rất tức giận, liền sai người đến xem tại sao có đèn sáng. Sứ giả đến thấy Công Đức Ý đốt đèn cúng dường, liền trở về tâu trình sự việc lên vua. Vua cho đòi Công Đức Ý đến hỏi lý do. Công Đức Ý đáp:
– Ngôi tháp này là nơi cúng dường, do tiên vương xây dựng, nhân ngày tốt nên tôi quét dọn sạch sẽ và thắp đèn cúng dường.
Vua A-xà-thế nghe Công Đức Ý nói xong, bèn hỏi:
– Ngươi không nghe trước kia ta đã ra lệnh cấm rồi hay sao?
Công Đức Ý đáp:
– Tôi có nghe vua đã lệnh cấm, nhưng sự cai trị của vua hôm nay, không như tiên vương trước kia.
A-xà-thế nghe nói thế, càng thêm tức giận liền rút gươm chém Công Đức Ý, Công Đức Ý chết ngay. Nhờ thiện tâm ấy, Công Đức Ý được sinh lên tầng trời Đao-lợi, ánh sáng từ thân phát ra chiếu xa một do-tuần.
Lúc ấy trời Đế Thích và các vị trời cùng đến xem và hỏi Công Đức Ý, nay là vị trời:
– Ngươi đã làm được phước đức gì mà sinh lên cõi trời này và ánh sáng khác thường hơn hẳn các vị trời khác như vậy?
Vị trời dùng kệ đáp trời Đế Thích:
Như Lai hiện ra đời
Ánh sáng như nhật, nguyệt Soi chỗ đen tối kia
Thảy đều được sáng sủa Người thấy sinh vui mừng Tâm nhơ tự nhiên dứt
Lành thay, Đấng Vô Thượng! Ruộng phước cho chúng sinh,. Tín tâm tu phước đức
Tôi không tiếc thân mạng Bị giết hại chết đi
Được sinh lên cõi trời.
Sau khi nói kệ cho trời Đế Thích nghe xong, vị trời này đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, cùng các vị trời khác, mỗi vị đều mang hương hoa xuống nhân gian cúng dường Thế Tôn. Lúc ấy ánh sáng chiếu khắp cả vườn Trúc, hơn hẳn lúc bình thường.
Các vị trời đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho các vị nghe. Tâm ý được mở tỏ, các vị trời đều chứng quả Tu-đà-hoàn.
Sau khi chứng quả, vị trời nói:
– Tôi nhớ xưa kia, xương trắng chất đống còn cao hơn núi Tu-di, nước mắt còn nhiều hơn nước biển lớn; máu thịt khô cạn, thân mạng chết đi một cách vô ích. Từ nay tôi đã lìa bỏ nó.
Vị trời nói xong đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại cõi trời.
Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo bạch Đức Phật:
– Đêm qua có ánh sáng khác hẳn ngày thường. Đó là ánh sáng của Đế Thích, Phạm thiên, bốn vị Thiên vương, hay là hai mươi tám bộ Quỉ thần tướng?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Cũng chẳng phải ánh sáng của Phạm thiên, Quỉ thần, Đại tướng, mà là do một thể nữ ở hậu cung của vua Tần-bà-sa-la, tên là Công Đức Ý; vì cúng dường tháp, nên bị vua A-xà-thế giết chết. Khi qua đời thể nữ được sinh lên tầng trời Đao-lợi, nay đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của nàng Công Đức Ý, có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na- hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, tên là Tu-đạt, cúng dường Phật trăm ngàn đồng tiền vàng. Ông nghĩ: “Như ta hôm nay, có vô lượng tài sản vật báu, tuy có thể cúng dường Đức Phật và chúng Tăng ở tinh xá Kỳ hoàn trăm ngàn đồng tiền vàng, cũng không phải là khó, nhưng nếu hôm nay khuyến hóa những kẻ nghèo khổ thấp kém giảm bớt chút ít tiền của hay những vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ để bố thí, thì mới là khó, lại được vô lượng vô biên công đức.”
Nghĩ xong, Tu-đạt liền đến tâu lên vua Ba-tư- nặc. Vua bèn chấp nhận, liền sai các quan giúp đỡ, đánh trống loan truyền cho dân chúng trong thành biết rằng nay trưởng giả Tu-đạt muốn khuyến hóa mọi người làm việc bố thí. Nội trong bảy ngày, ông sẽ cỡi voi trắng lớn đi khắp hang cùng ngõ hẻm để khuyên khích dân chúng bố thí.
Lúc ấy dân chúng sinh tâm vui mừng, cùng đua nhau bố thí, người thì bố thí y phục, người thì bố thí chuỗi anh lạc, hoặc vàng bạc vật báu, cùng các thứ vòng xuyến, cho đến vật nhỏ như cây kim sợi chỉ, hễ bố thí được thứ gì thì họ đều bố thí.
Khi ấy, có một cô gái nghèo khổ, làm thuê ba tháng được một xấp vải, định để may áo. Thấy Tu- đạt khuyến hóa mọi người, nàng mới hỏi những người bên cạnh:
– Trưởng giả Tu-đạt lắm của nhiều tiền, đâu thiếu thốn gì. Vả lại, người ta được biết ông còn chôn của cải dưới đất; sao nay lại túng thiếu, phải xin người như vậy?
Mọi người nói:
– Thật ra trưởng giả không phải thiếu thốn; chỉ vì lòng Từ mà ông khuyến hóa mọi người, muốn cùng nhau làm phước, thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường.
Cô gái nghèo nghe nói, tâm nàng rất vui mừng, nói:
– Do đời trước tôi không bố thí, nên đời nay phải chịu nghèo khổ. Ngày nay nếu không lo bố thí nữa thì đời sau sẽ khốn khổ hơn.
Cô gái nghèo lại tự nghĩ: “Đức Phật ra đời rất khó gặp, tuy ta muốn thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường nhưng không có vật gì. Trên người ta chỉ có mỗi một chiếc áo, nếu bố thí, thì ta phải chịu ngồi khỏa thân. Còn nếu không bố thí thì đời sau ta còn trông mong vào đâu. Ta nghèo khổ, rồi cũng phải chết, chi bằng bố thí chiếc áo này”.
Nghĩ xong, cô gái nghèo liền vào nhà ngồi trong cửa sổ cởi áo quăng ra cho Tu-đạt.
Trưởng giả Tu-đạt nhận áo rồi cho người đến xem.
Lúc ấy sứ giả thấy cô gái nghèo ngồi ở trần, mới hỏi:
– Sao nàng lại bố thí áo? Cô gái nghèo đáp:
– Tôi sợ rằng đời sau sẽ nghèo khổ hơn nữa, Vì vậy cho nên tôi bố thí áo.
Sứ giả nói lại sự việc cho trưởng giả Tu-đạt nghe. Tu-đạt nghe rồi, khen ngợi đây là một sự việc lạ lùng. Ông liền cởi y phục đang mặc trên người đem biếu cho cô gái nghèo, cô gái nghèo được áo, trong lòng rất vui mừng thầm nghĩ: “Nay ta bố thí, liền được quả báo trước mắt, huống chi ở đời vị lai”.
Mấy ngày sau, cô gái nghèo qua đời được sinh lên tầng trời Đao-lợi. Cô gái nghèo giờ đây là vị trời tự nghĩ rằng: “Ta đã làm được phước gì mà được sinh lên cõi trời như thế?”.
Vị trời liền tự quán sát biết rằng khi còn ở nhân gian, mình là người nghèo khổ, vì bố thí áo nên được sinh lên cõi trời, vậy giờ đây phải trở lại để đền ân Đức Phật và trưởng giả Tu-đạt.
Lúc ấy vị trời đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang theo hương hoa xuống nhân gian để cúng dường Đức Phật và trưởng giả Tu-đạt.
Đến nơi, vị trời đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại, ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho họ nghe. Tâm ý được mở tỏ, vị trời chứng được quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại cõi trời.
Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua chúng con thấy có ánh sáng chiếu soi, đó là ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm vương, bốn vị Thiên vương, hay là của hai mươi tám bộ Quỉ thần đại tướng?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đó chẳng phải ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm thiên, các Thần vương, mà là một cô gái nghèo do Tu-đạt khuyến hóa mà bố thí áo, được sinh lên cõi trời, nay đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, cô gái nghèo lúc bấy giờ, nay là vị trời ấy vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Phật
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ, ba tháng hạ an cư đã mãn, Đức Phật và các Tỳ-kheo định đi đến hóa độ nước khác. Lúc ấy vua Tần-bà-sa-la cùng các quan ra khỏi thành, từ xa trông mong Đức Phật, nguyện rằng Thế Tôn đang ở đâu, xin Ngài từ bi thương xót cùng các Tỳ-kheo, đến thọ sự hiến cúng của họ.
Đức Thế Tôn từ xa biết vua có lòng khát ngưỡng, nên Ngài cùng các Tỳ-kheo Tăng lần lượt đi đến nước Ma-kiệt-đà.
Lúc ấy có một con chim Anh vũ đầu đàn đang dẫn đầu đàn Anh vũ, từ xa thấy Phật đến, nên vọt lên hư không bay ngược lại để đón rước Đức Phật và bạch:
– Cúi xin Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng rủ lòng từ bi thương xót hãy đến khu rừng của chúng con nghỉ lại một đêm.
Đức Phật liền chấp nhận. Chim Anh vũ đầu đàn biết Phật đã chấp nhận, liền bay về khu rừng của mình bảo các Anh vũ hãy ra đón rước Thế Tôn. Khi đến khu rừng của chim Anh vũ, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo trải đồ ngồi dưới gốc cây và ngồi thiền tư duy.
Lúc ấy chim Anh vũ đầu đàn thấy Đức Phật và các Tỳ-kheo Tăng đã ngồi yên lặng, trong lòng rất vui mừng, suốt đêm bay lượn nhiễu quanh Phật và các Tỳ-kheo để nhìn xung quanh xem sư tử, hổ báo, cầm thú hay trộm cướp có quấy nhiễu Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng hay không.
Sáng hôm sau, khi Đức Thế Tôn dẫn các Tỳ- kheo lên đường, chim Anh vũ đầu đàn vui mừng bay trước dẫn đường đi về hướng thành Vương xá. Đến nơi chim Anh vũ chúa thưa cùng vua Tần-bà- sa-la:
– Hôm nay, Thế Tôn dẫn đầu các Tỳ-kheo sắp sửa đến đây, cúi xin đại vương hãy chuẩn bị sắm sửa các thức ăn ngon để đón rước.
Sau khi vua Tần-bà-sa-la nghe chim Anh vũ nói, liền cho người chuẩn bị các thức ăn ngon, rồi cùng các quan cầm cờ phướn, hương hoa, kỹ nhạc ra đón rước Thế Tôn.
Đêm hôm ấy, chim Anh vũ đầu đàn chết đi, được sinh lên tầng trời Đao-lợi thân hình cao lớn như đứa trẻ tám tuổi, bèn suy nghĩ: “Ta đã làm được phước đức gì, mà được sinh lên cõi trời như thế?”
Nghĩ vậy, vị trời liền quán sát biết rằng trước kia mình là chim Anh vũ, nhờ công đức thỉnh Phật nghỉ lại một đêm, nên được sinh lên cõi trời. Vậy bây giờ phải trở lại, đền ân Đức Phật.
Nghĩ xong, vị trời này đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang theo hương hoa xuống nhân gian cúng dường Đức Phật. Cúng dường Đức Phật xong, vị trời lui lại, ngồi sang một bên.
Lúc ấy Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho vị trời nghe. Tâm ý được mở tỏ, vị trời chứng đắc quả Tu- đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở về cõi trời.
Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo đến bạch Phật:
– Đêm qua chúng con thấy có ánh sáng, đó là ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm vương, bốn vị vua trời, hay là hai mươi tám bộ Quỉ thần đại tướng?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Chẳng phải ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm vương hay các Thần vương, mà là do chim Anh vũ đầu đàn đã thỉnh Ta và chư Tăng về an nghỉ một đêm tại khu rừng của Anh vũ. Khi Anh vũ đầu đàn này chết đi được sinh lên cõi trời nên đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trước kia vị trời ấy đã gây ra nghiệp ác gì, mà bị đọa vào loài chim Anh vũ? Lại làm được phước đức gì, mà nay được nghe pháp và đắc quả?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức
Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong giáo pháp của Đức Phật này, có một vị Ưu-bà-tắc đã thọ trì năm giới. Nhân một lúc nọ, Ưu-bà-tắc có hủy phạm một giới, nên bị đọa vào loài chim Anh vũ, còn bốn giới kia giữ được trọn vẹn, nên nay được gặp Ta nghe pháp và đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Ưu-bà-tắc lúc bấy giờ, nay là vị trời Anh vũ.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, ba tháng hạ an cư đã mãn, Đức Phật và các Tỳ-kheo định đến hóa độ nước khác.
Lúc ấy trưởng giả Tu-đạt tâu lên vua Ba-tư- nặc:
– Chúng ta từ lâu đã không thấy Phật, vậy xin đại vương hãy viết thư, sai người thỉnh Phật về đây để chúng ta cùng nhau cúng dường.
Vua Ba-tư-nặc nghe đề nghị ấy, liền sai sứ giả đi thỉnh Đức Thế Tôn. Vua gửi thư hầu thăm sức khỏe Phật, từ xa đảnh lễ Thế Tôn: “Đã từ lâu, chúng con không được chiêm ngưỡng Thế Tôn. Cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót nhận lời thỉnh của chúng con.”
Lúc ấy Đức Phật liền chấp nhận. Sứ giả trở về báo cho vua biết là Đức Phật đã nhận lời.
Vua cho người sửa soạn một cỗ xe và giao cho sứ giả đi đón rước Phật. Vị sứ giả bạch Phật:
– Cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng thương, nguyện Ngài ngồi trên cỗ xe này, để vào cung thọ nhận vua cúng dường.
Đức Phật đáp:
– Ta có đôi chân sáu Thần thông, vòng hoa bảy Phần giác, con đường tám Thánh đạo, cỗ xe an ổn năm Lực…, đó là đôi chân mạnh mẽ của Ta, Ta không đi xe của ngươi.
Sứ giả tha thiết thưa thỉnh đến ba lần:
– Cúi xin Như Lai thương xót, Ngài chớ dùng thần thông, mà hãy đi bằng cỗ xe này, theo thỉnh nguyện của đại vương.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì thương xót sứ giả, liền lên xe. Đức Phật dùng năng lực thần thông khiến cỗ xe bay lên hư không, đến thành Vương xá để thọ vua cúng dường.
Ngay đêm ấy, sứ giả chết đi được sinh lên tầng trời Đao-lợi, thân hình bỗng nhiên cao lớn như đứa trẻ tám tuổi, bèn tự nghĩ: “Ta đã làm được phước đức gì, mà được sinh lên tầng trời này?”
Vị trời tự quán sát biết rằng đời trước mình là sứ giả vâng lệnh vua đi thỉnh Phật; nhờ thiện tâm, cố nài nỉ Đức Phật đi bằng xe để đến thọ sự cúng dường của vua cho nên được sinh lên cõi trời, vậy bây giờ phải trở lại nhân gian để đền ân Phật.
Vị trời liền đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang theo hương hoa, ánh sáng từ thân chiếu tỏa, soi đến tinh xá Kỳ hoàn, xuống nhân gian để cúng dường Đức Phật. Vị trời đến nơi, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho vị trời nghe. Tâm ý được mở tỏ, vị trời chứng quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở về cõi trời.
Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Đêm qua chúng con thấy có ánh sáng, đó là ánh sáng của trời Đế Thích, Phạm vương, bốn vị vua trời, hay là của hai mươi tám bộ Quỉ thần đại tướng đến nghe nói pháp?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Cũng chẳng phải trời Đế Thích, Phạm vương các Thần vương đến nghe pháp, mà là do một sứ giả vâng lệnh vua đến thỉnh Ta. Nhờ có thiện tâm, nên sứ giả ấy được sinh lên cõi trời, nay đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành. la.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại nước Kiều-tát-
Bấy giờ Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đến rừng Lặc-na. Đức Phật gặp một cái đầm, trong đầm có năm trăm con trâu rất hung dữ, lại có năm trăm người chăn trâu.
Từ xa, những người chăn trâu thấy Đức Phật và các Tỳ-kheo đi qua con đường này, họ vội kêu to:
– Cúi xin Đức Thế Tôn đừng đi trên đoạn đường này! Trong bầy trâu đây, có một con rất hung dữ, thường hay húc người bị thương, Ngài rất khó qua con đường này.
Đức Phật bảo những người chăn trâu:
– Các ông chớ quá lo sợ, dù cho trâu kia có đến húc Ta đi nữa thì cũng biết phải làm gì.
Ngay khi Đức Phật đang nói, con trâu hung dữ kia bỗng chạy về phía Đức Phật, vung đuôi, cúi sừng, rống to và nhảy thình thịch trước mặt Phật.
Lúc ấy từ năm đầu ngón tay của Như Lai hóa ra năm con sư tử đứng hai bên Phật; bao bọc xung quanh Ngài là một hố lửa lớn. Trâu rất sợ hãi, rong chạy khắp nơi, nhưng không có nơi nào có thể thoát thân chỉ còn một chỗ trống nhỏ an ổn trước chân Đức Phật, là có thể dung thân được, trâu liền chạy vào chỗ trống ấy, trong tâm an ổn không còn sợ sệt gì.
Lúc ấy trâu quỳ xuống, lưỡi liếm chân Phật, rồi ngửng đầu lên nhìn Ngài, trong lòng vui sướng khôn xiết.
Thế Tôn biết tâm trâu đã được điều phục, liền nói kệ cho trâu nghe:
Trong tâm quá hung dữ Muốn đến làm hại Ta
Tưởng rằng mình sẽ thắng Ai ngờ liếm chân Ta.
Trâu nghe Đức Phật nói kệ sinh lòng rất hổ thẹn, tâm bỗng nhiên bừng tỏ, mây ám tan đi, biết rằng trước kia, khi còn làm người, mình đã gây ra nhiều nghiệp ác; cho nên càng thêm hổ thẹn, không ăn cỏ, uống nước cho đến khi chết. Con trâu liền được sinh lên tầng trời Đao-lợi, thân chợt cao lớn như đứa trẻ tám tuổi, bèn tự nghĩ: “Ta đã làm được phước đức gì, mà được sinh lên cõi trời này?”, rồi tự quán sát biết rằng đời trước khi còn ở nhân gian, mình làm trâu; được Phật hóa độ, nên được sinh lên cõi trời này, vậy bây giờ ta phải trở lại nhân gian để đền ân Đức Phật.
Nghĩ xong, vị trời đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang theo hương hoa đến chỗ Phật, với ánh sáng rực rỡ chiếu soi Phật Thế Tôn. Vị trời đảnh lễ Phật rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho vị trời nghe, tâm ý được mở tỏ, vị trời chứng quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại cõi trời.
Sáng hôm sau, những người chăn trâu đến bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua chúng con thấy có ánh sáng, đó là Đế Thích, Phạm vương, bốn vị vua trời, hay là hai mươi tám bộ quỉ thần đại tướng đến nghe pháp?
Đức Phật bảo với những người chăn trâu:
– Chẳng phải trời Đế Thích, Phạm vương, các Thần vương đến nghe pháp, mà là con trâu hung dữ của các người được Ta hóa độ, khi chết đi nó được sinh lên cõi trời, nay đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của vị trời ấy.
Năm trăm người chăn trâu nghe Phật dạy, họ cùng bảo nhau:
– Con trâu hung dữ kia còn được Phật hóa độ, sinh lên cõi trời; huống chi chúng ta là người tại sao không tu các pháp lành?
Sau khi bảo nhau như vậy, các người chăn trâu cùng hội họp để sắm sửa các món thức ăn để thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường.
Thọ trai xong, Đức Phật liền nói pháp bằng mọi cách cho những người chăn trâu nghe. Tâm ý họ được mở tỏ, tất cả đều có dấu hiệu chứng đạo, cầu xin được xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, các Tỳ-kheo!
Những người chăn trâu, râu tóc tự nhiên rụng, thân mặc pháp phục, trở thành các Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng được quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông và tám pháp Giải thoát; được trời, người kính ngưỡng.
Khi các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước con trâu kia đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay bị đọa vào loài trâu? Và nhờ làm được phước đức gì, mà nay con trâu ấy và năm trăm người chăn trâu được gặp Thế Tôn, xuất gia và đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Nay các thầy muốn biết, các nghiệp duyên ác mà con trâu dữ và những người chăn trâu đời trước đã gây ra, Ta sẽ nói kệ cho các thầy nghe:
Nghiệp thiện ác đã làm Trăm kiếp cũng không mất Nhờ làm những việc lành Nay được quả báo ấy.
Các Tỳ-kheo nghe Phật nói kệ, lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay chuyện thuở xưa như thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong giáo pháp của Đức Phật ấy, có một Tỳ-kheo thông hiểu ba tạng, dẫn đầu năm trăm đệ tử đến nước khác để giáo hóa. Ở trong đại chúng cùng nhau nghị luận, có người đệ tử nạn vấn khiến vị Tỳ-kheo ấy không trả lời được, ông liền tức giận, dùng lời mắng chửi thô tục: “Các ông không hiểu biết gì cả, còn cố bắt bẻ ta. Các ông giống như con trâu muốn đến húc người.”
Lúc ấy các đệ tử đều im lặng nhưng biết rằng thầy không đúng, sau đó các đệ tử ấy đều bỏ đi. Do nhân duyên của nghiệp ác khẩu nên trong năm trăm đời, Tỳ-kheo ấy bị đọa làm trâu, cùng những người chăn trâu luôn theo nhau không rời; mãi cho tới nay cũng chưa thoát khỏi.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Tỳ-kheo thông hiểu ba Tạng kinh điển lúc bấy giờ nay chính là con trâu hung dữ trong bầy trâu ấy, còn các đệ tử lúc bấy giờ nay là năm trăm người chăn trâu.
Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của con trâu kia, các Tỳ-kheo ai nấy đều tự giữ gìn ba nghiệp, thân, miệng, ý, nhàm chán sinh tử. Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà- hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Pháp
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Vào lúc đầu hôm, có năm trăm vị trời, đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc trang nghiêm thân thể, mang theo hương hoa xuống nhân gian để cúng dường Thế Tôn. Lúc ấy, ánh sáng chiếu soi khắp cả tinh xá Kỳ hoàn.
Năm trăm vị trời đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên để nghe Đức Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, các vị trời đều chứng được quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi trở về cõi trời.
Sáng hôm sau, Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua có ánh sáng hơn hẳn ngày thường, chiếu sáng khắp tinh xá Kỳ hoàn. Đó là trời Đế Thích, Phạm vương, bốn vị vua trời, hay là hai mươi tám bộ Quỉ thần đại tướng đến nghe nói pháp?
Đức Phật dạy A-nan:
– Chẳng phải trời Đế Thích, Phạm vương, các Thần vương đến nghe pháp. Thuở xưa, vào thời Phật Ca-diếp, có hai vị Bà-la-môn theo vua đến chỗ Đức Phật, lễ bái thăm hỏi.
Bấy giờ, trong thành có một vị Ưu-bà-tắc khuyên hai vị Bà-la-môn:
– Nay hai vị theo vua đến đây đảnh lễ Phật Thế Tôn, nhân tiện xin mời hai vị thọ trai pháp.
Bà-la-môn hỏi:
– Trai pháp này có lợi ích gì? Ưu-bà-tắc đáp:
– Thọ trai pháp này, thì hễ các vị mong cầu điều gì chắc chắn được như ý.
Hai vị Bà-la-môn nghe nói, liền cùng nhau thọ trai pháp, một vị nguyện được sinh lên cõi trời; còn một vị thì cầu được làm vua trong cõi người. Thọ trai xong, hai vị Bà-la-môn cùng nhau trở về nơi nhóm họp của các Bà-la-môn. Các Bà-la-môn kia đang ăn uống, nói với hai vị Bà-la-môn mới về:
– Nếu các vị đói bụng, hãy ăn uống với chúng tôi.
Hai vị Bà-la-môn thọ trai pháp đáp:
– Chúng tôi đã thọ trai giới của Phật, quá giờ không ăn.
Các Bà-la-môn nói:
– Chúng ta cũng có pháp Bà-la-môn của mình, cần gì phải thọ trai giới của Sa-môn kia.
Cứ như thế, các Bà-la-môn tha thiết mời mọc mãi. Xiêu lòng, nên Bà-la-môn cầu sinh cõi trời bèn đến ăn uống chung. Vì phá trai giới, nên Bà- la-môn này không được như ý, khi chết đi bị đọa vào loài rồng. Người thứ hai dứt khoát không chịu uống ăn, nhờ giữ gìn trai giới nên được như ý, khi qua đời được sinh lên cõi người làm vua.
Về Bà-la-môn không giữ trai giới, nhờ đời trước hai vị cùng nhau thọ trai giới, nên nay sinh vào trong ao của vị vua kia.
Lúc bấy giờ, người giữ vườn, hằng ngày thường đem các thứ dưa trái dâng lên vua. Bỗng một hôm, người giữ vườn hái được một quả ngon dưới cái ao đó, màu đẹp mùi thơm, bèn nghĩ: “Khi ta ra vào, thường được người giữ cửa nhường bước, vậy ta nên biếu quả này cho ông ấy.”
Nghĩ vậy, người giữ vườn liền biếu quả ấy cho người giữ cửa.
Người giữ cửa được quả lại suy nghĩ: “Ta ra vào trong hoàng cung, nhưng thường được quan Thái giám nhường bước, vậy ta nên biếu quả này cho ông ấy”.
Nghĩ xong, người giữ cửa liền biếu quả ấy cho quan Thái giám.
Quan Thái giám được quả lại nghĩ: “Phu nhân của vua thường khen ngợi đức của ta với vua, vậy ta nên biếu quả này cho phu nhân”.
Nghĩ rồi, quan Thái giám biếu quả cho phu nhân. Phu nhân được quả lại dâng lên đại vương. Đại vương được quả, ăn thấy hương vị thơm ngon, liền hỏi phu nhân:
– Nàng được quả này ở đâu vậy?
Lúc ấy phu nhân liền trả lời đúng sự thật:
– Thần thiếp có quả này là do quan Thái giám dâng biếu.
Vua lại hỏi quan Thái giám:
– Ở đâu ngươi có quả này?
Cứ như vậy hỏi tới người giữ vườn. Vua gọi người giữ vườn đến quở trách:
– Trong vườn của ta có quả ngon như vậy, tại sao ngươi không dâng cho ta, mà lại biếu cho người khác.
Bị vua quở trách, người giữ vườn bèn trình bày đầu đuôi sự việc cho vua nghe. Vua không bằng lòng, bảo:
– Từ nay về sau, ngươi phải thường dâng quả này lên cho ta. Nếu không ta sẽ giết ngươi.
Người giữ vườn ra về, vào trong khu rừng ấy, than thở khóc lóc, nghĩ rằng loại quả này không có hạt giống thì làm sao mà trồng được.
Lúc ấy, Long vương nghe tiếng khóc, bèn hóa thành thân người đến hỏi người giữ vườn:
– Vì sao ông lại khóc lóc như vậy? Người giữ vườn đáp:
– Hôm qua, tôi hái được một thứ quả rất ngon từ cái ao này, đem biếu cho người giữ cửa, người giữ cửa được quả lại biếu cho quan Thái giám, quan Thái giám lại dâng cho phu nhân, phu nhân lại dâng lên vua. Vua ra lệnh cho tôi: Từ nay về sau tôi phải dâng quả ấy lên ngài, nếu không tôi sẽ bị giết. Do đó mà tôi khóc.
Hóa nhân nghe người giữ vườn nói, liền trở xuống nước lấy một loại quả vừa ngon vừa đẹp đặt trên mâm vàng, đem biếu cho người giữ vườn. Nhân đó, Hóa nhân lại bảo người giữ vườn:
– Ông hãy dâng quả này lên vua, đồng thời nói giùm ý của tôi rằng: “Thuở xưa kia, khi Đức Phật còn tại thế, tôi và vua vốn là bạn thân với nhau, cả hai đều là Phạm chí cùng thọ giới Bát quan trai của Phật, mỗi người đều có ý nguyện riêng, vua giữ giới đầy đủ nên được làm vua; còn tôi giữ giới chẳng trọn, nên đọa vào loài rồng. Nay tôi lại muốn tu tập trai pháp để cầu bỏ thân này.” Xin ông tâu lại với vua, xin ngài hãy tìm nghi thức tu Bát quan trai giùm và ông hoan hỷ đem về cho tôi. Nếu ông không giúp, tôi sẽ làm cho nước của ông biến thành biển lớn.
Khi người giữ vườn dâng mâm quả lên vua và cũng nhân đó thuật lại lời nhắn gửi của Hóa nhân. Vua nghe, trong lòng không vui. Sở dĩ như vậy là vì vào thời ấy thậm chí còn không có danh từ Phật pháp, huống chi là nghi thức tu Bát quan trai, làm sao tìm được. Nếu không có nghi thức tu Bát quan trai, sợ rằng đất nước sẽ bị nguy hại. Vua suy nghĩ nhiều về việc ấy, cũng không biết làm sao được.
Lúc bấy giờ, vua cho gọi một vị quan lớn được kính trọng nhất, nói rằng:
– Thần rồng xin ta tìm giùm nghi thức tu Bát quan trai, khanh hãy tìm hộ rồi mang về đây cho ta.
Vị quan lớn đáp:
– Đời nay không có chánh pháp, làm sao tìm được.
Vua lại nói:
– Nếu không tìm được nghi thức ấy mang về cho ta, ta sẽ giết khanh.
Nghe vua nói, vị quan trở về nhà, sắc mặt thay đổi, trong lòng buồn bã. Vị quan này có người cha đã già. Ông từ xa về, thấy con mình sắc mặt biến đổi khác thường, liền hỏi:
– Con có điều gì lo ngại, mà thất sắc như thế. Người con liền trình bày nỗi u uẩn trong tâm.
Người cha nói:
– Trên cột nhà mình, ta thấy có ánh sáng, con thử phá chỗ ấy ra xem, không chừng có vật lạ bên trong.
Lúc ấy người con nghe lời cha, bổ trụ ra xem, quả nhiên trong đó có hai quyển kinh, một quyển Thập Nhị Nhân Duyên, còn quyển kia là nghi thức tu Bát quan trai.
Vị quan được kinh, trong lòng rất vui mừng, liền đặt kinh lên khay vàng đem dâng lên vua. Vua nhận được kinh vui mừng khôn xiết, liền đem kinh đến cho vua rồng. Vua rồng nhận được kinh, tâm rất vui mừng, bèn biếu tặng vua châu báu.
Trở về cung rồng, vua rồng cùng năm trăm con rồng tha thiết tu trì pháp Bát quan trai. Khi chết đi, tất cả đều được sinh lên tầng trời Đao-lợi. Nay họ đến cúng dường Ta. Đó là ánh sáng của các vị trời ấy.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy nên biết, năm trăm con rồng kính tu trai pháp thời ấy, nay chính là năm trăm vị trời đến cúng dường Ta vậy.
Khi Đức Phật nói truyện nhân duyên của hai vị Phạm chí thọ trai pháp, có vị chứng đắc quả Tu- đà-hoàn, có vị chứng đắc quả Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắc quả A- la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui vẻ thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vùng rừng đầm lầy, ở nước Ba-la-nại, giảng nói pháp mầu cho trời người nghe. Trên không trung có một bầy nhạn năm trăm con thấy Đức Phật nói pháp, trong lòng ưa thích nên từ xa bay vòng trở lại rồi đáp xuống nghe pháp.
Lúc ấy có người thợ săn giăng lưới để bắt chim, năm trăm chim nhạn bị sa lưới, sau đó đều bị thợ săn giết hại. Khi chết đi, bầy nhạn được sinh lên tầng trời Đao-lợi, thân hình chợt cao lớn như đứa trẻ tám tuổi, thân tướng khôi ngô khác thường, từ thân của các vị trời này phát ra ánh sáng chiếu khắp cung điện giống như ngọn núi báu.
Các vị trời suy nghĩ: “Chúng ta đã làm phước đức gì mà được sinh lên cõi trời?” Rồi tự quán sát biết rằng trước kia là loài chim nhạn, đã nghe Phật nói pháp, sinh tâm tin tưởng ưa thích, nhờ thiện tâm ấy, nên khi chết đi được sinh lên cõi trời này. “Vậy chúng ta phải trở xuống nhân gian đền ân Đức Phật.” Nghĩ xong, các vị trời đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, xoa các thứ hương vào thân, mang theo hương hoa đến chỗ Đức Phật cúng dường.
Cúng dường xong, các vị trời đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay chúng con cúi mong Đức Phật Thế Tôn từ bi giảng nói pháp mầu, để chúng con được sinh tâm tin tưởng ưa thích và được sinh về cõi tốt đẹp. Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con, giảng nói một lần nữa, khai mở chỉ bày cho chúng con chỗ cốt yếu của chánh pháp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền giảng nói những điều cốt yếu của chánh pháp cho các vị trời nghe. Tâm ý được mở tỏ, năm trăm vị trời đồng thời chứng được quả Tu-đà-hoàn, trong lòng vui mừng, nhiễu quanh Phật ba vòng, đảnh lễ dưới chân Phật rồi trở về cõi trời.
Lúc bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, có nhân duyên gì mà đêm qua con thấy có ánh sáng chiếu nơi rừng cây? Cúi mong Ngài chỉ dạy.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trước đây, khi Ta ngự tại một vùng rừng đầm lầy, giảng nói pháp mầu cho trời, người nghe. Lúc ấy có năm trăm con chim nhạn, vì yêu kính tiếng nói pháp, sinh tâm vui mừng, cùng nhau bay đến chỗ Ta đang nói pháp, sau đó bị người thợ săn giết hại. Nhờ thiện tâm ấy nên được sinh lên cõi trời. Hôm nay, họ đến đây để đền đáp công ân.
Tôn giả A-nan nghe Đức Phật nói, liền khen ngợi:
– Là việc chưa từng có! Như Lai ra đời thật là tôn quý, nhiệm mầu không một loài nào chẳng được nhờ, cả đến loài chim nghe được pháp âm của Phật cũng được đắc đạo; huống chi là loài người có tâm kính tin thọ trì, còn vượt hơn loài cầm thú cả trăm ngàn muôn lần, không thể nào sánh được.
Đức Phật dạy:
– Cho nên các thầy phải một lòng kính tin Phật pháp, đúng như pháp tu hành.
Các Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy, có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng đắc quả Tư-đà- hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắc quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà quyền quý để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, sinh được một bé trai, thân có màu vàng ròng, tướng mạo khôi ngô khác thường, trên đời ít có; thân phát ra ánh sáng chiếu sáng khắp trong thành, đều biến thành màu vàng.
Thấy con như vậy, cha mẹ đứa bé rất vui mừng khen là việc chưa từng có, mời các thầy xem tướng về xem tướng cho cậu bé. Thầy xem tướng xem xong hỏi cha mẹ:
– Lúc ra đời đứa bé có điềm lành gì?
Cha mẹ đáp:
– Lúc sinh ra, thân đứa bé có màu vàng lại phát ra ánh sáng.
Do đó đặt tên là Kim Sắc. Kim Sắc dần dần khôn lớn, bản tánh hiền hậu, nhân từ hiếu thuận. Nghe có Đức Phật đang ngự dưới cội cây Ni-câu- đà, Kim Sắc cùng các bạn thân của mình cùng nhau đến chỗ Phật. Thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, Kim Sắc vui mừng đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho Kim Sắc và các bạn nghe. Tâm ý được mở tỏ, Kim Sắc chứng quả Tu-đà-hoàn, liền trở về nhà thưa với cha mẹ:
– Hôm nay con đến dưới cội cây Ni-câu-đà, nhìn thấy tôn nhan Đức Phật sáng rực rỡ như trăm ngàn mặt trời, lại thấy các Tỳ-kheo các căn đều vắng lặng, oai nghi đáng chiêm ngưỡng. Do đó con cúi xin cha mẹ thương xót cho con được xuất gia.
Nghe Kim Sắc nói, cha mẹ vì thương con không nỡ ngăn cản, nên liền dẫn Kim Sắc đến chỗ Đức Phật xin được xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Kim Sắc tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng đắc quả
A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Kim Sắc, đời trước đã làm phước đức gì mà nay được sinh vào gia đình giàu sang thân màu vàng ròng như vậy; lại gặp Thế Tôn được xuất gia và đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, sau khi giáo hóa chúng sinh đã viên mãn, Ngài thị hiện Niết-bàn.
Lúc ấy, có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu cao một do-tuần để cúng dường xá-lợi.
Về sau, có một người đi đường vì thấy ngôi tháp có chỗ bị lỡ, nên trộn bùn đắp lại và mua vàng lá dán lên tháp, sau đó phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp người ấy không bị đọa vào đường ác, thường được sinh lên cõi trời, cõi người, thân thường có vàng ròng hưởng sự vui sướng. Cho đến nay được gặp Ta, vị ấy thân vẫn có màu vàng ròng, lại được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người đã dán vàng lá lên ngôi tháp lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Kim
Sắc.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Chiên-Đàn
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản vật báu không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà quyền quý để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, sinh được một bé trai, dung mạo khôi ngô trên đời khó ai sánh kịp, các lỗ chân lông trên mình thoảng ra mùi hương gỗ Ngưu đầu chiên-đàn, còn từ mặt thì tỏa hương thơm hoa Ưu-bát-la. Cha mẹ, bà con ai cũng vui mừng, mời các thầy xem tướng đến xem tướng cho đứa bé. Thầy xem tướng xem xong hỏi cha mẹ:
– Đức bé này khi sinh ra có điềm tốt gì không? Cha mẹ đáp:
– Khi sinh ra, các lỗ chân lông trên thân đứa bé này tỏa ra mùi hương gỗ Ngưu đầu chiên-đàn và mặt có hương thơm hoa Ưu-bát-la.
Do đó mà đặt tên là Chiên-đàn Hương. Chiên- đàn Hương dần dần khôn lớn, bản tánh nhân từ, ai thấy cũng yêu kính. Một hôm, Chiên-đàn Hương cùng các bạn thân của mình rủ nhau dạo chơi, dần dần đi tới rừng cây Ni-câu-đà. Chiên-đàn Hương thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, trong tâm rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho Chiên-đàn Hương nghe. Tâm ý chàng được mở tỏ, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Chiên-đàn Hương liền trở về từ biệt cha mẹ, xin được xuất gia nhập đạo. Vì thương con, nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn cùng nhau dẫn đến chỗ Đức Phật, xin được xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo.
Tóc Chiên-đàn Hương tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được các trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Chiên-đàn Hương đời trước làm phước đức gì, mà nay khi ra đời liền có hương thơm, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài thị hiện nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, vua nước ấy tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Đức Phật, xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu để thờ xá-lợi; rồi cùng các quan, hậu phi, thể nữ đem hương hoa vào tháp cùng nhau cúng dường.
Về sau, do vì có sự đi lại nhiều, nên nền tháp có nhiều chỗ bị hư hỏng. Lúc ấy có vị trưởng giả thấy nền tháp bị hư hỏng bèn trộn bùn đất để đắp lại, rồi rải bột hương chiên-đàn lên, sau đó phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp vị trưởng giả không bị đọa và đường ác, được sinh lên cõi trời, cõi người, thân và miệng thường tỏa mùi thơm, được hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay gặp Ta, thân miệng vị ấy vẫn thơm, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người rải bột hương chiên- đàn lên tháp thời ấy, nay chính là Tỳ-kheo Chiên- đàn Hương.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cột cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi các thứ âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, người vợ ấy mang thai, đủ mười tháng, sinh được một bé trai, thân thể mềm mại, sắc mặt vui tươi, khôi ngô khác thường, ít có trên đời. Cha mẹ và bà con thấy thế rất hài lòng, nhân đó đặt tên đứa bé là Uy Đức.
Uy Đức dần dần khôn lớn, tánh tình càng nhu hòa, hiếu thuận; ai thấy cũng yêu kính, xa gần đều tin phục.
Một hôm, Uy Đức cùng các bạn thân đi dạo chơi ngắm cảnh. Khi đến dưới rừng cây Ni-câu-đà, Uy Đức thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời; chàng hết sức vui mừng, bèn bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại, ngồi sang một bên.
Lúc ấy Đức Phật nói pháp Tứ đế cho Uy Đức nghe. Tâm ý chàng được mở tỏ, chứng quả Tu-đà- hoàn. Uy Đức liền trở về từ biệt cha mẹ, xin được xuất gia. Vì thương con nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn dẫn Uy Đức tới chỗ Đức Phật xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Uy Đức tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được các trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Uy Đức trước kia đã làm phước đức gì mà nay thân thể lại mềm mại, sắc mặt vui tươi, lại được mọi người kính trọng và gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Đức Phật thị hiện Niết-bàn.
Lúc ấy, có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế, thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu cao một do-tuần để cúng dường xá-lợi.
Về sau, có một người đi đường, thấy trong tháp có những bông hoa héo úa và bụi bặm bám đầy, bèn đem bỏ hoa ấy và quét dọn sạch sẽ. Sau đó cúng dường, phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức ấy, mà trong chín mươi mốt kiếp người ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, sắc mặt tươi vui và có uy đức lớn, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay gặp Ta, vị ấy vẫn là người có uy đức, được xuất gia và đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người quét dọn sạch sẽ, bỏ hoa héo thời ấy, nay chính là Tỳ-kheo Uy Đức.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong nước có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, người vợ ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai rất to xương, vóc người khỏe mạnh, cha mẹ thấy vậy, nên đặt tên con là Đại Lực.
Đai Lực dần dần khôn lớn, thân thể khỏe mạnh không có ai bằng. Một hôm, Đại Lực cùng các bạn thân đi dạo chơi ngắm cảnh, dần dần đến dưới cội cây Ni-câu-đà. Đại Lực thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu sáng như trăm ngàn mặt trời, trong lòng vui mừng, bèn bước tới đảnh lễ Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho Đại Lực nghe. Tâm ý chàng được mở tỏ, chứng được quả Tu-đà-hoàn. Đại Lực liền trở về nhà thưa với cha mẹ cho chàng xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ chàng không nỡ ngăn cản, bèn dẫn chàng đến chỗ Đức Phật xin cho chàng xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Đại Lực tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng quả A- la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được các trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Đại Lực đời trước đã gieo trồng phước đức gì, mà nay sinh ra có sức mạnh không ai địch nổi, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài thị hiện Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn thứ báu để cúng dường.
Bấy giờ, có một người đang sinh sống bên cạnh ngôi tháp, đứng ra kêu gọi dân chúng cùng nhau xây dựng lại ngôi bảo tháp. Sau đó người ấy phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp, người ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, được sinh lên cõi trời, cõi người, thường có sức mạnh không ai bằng, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho tới ngày nay gặp Ta, vị ấy vẫn là người có sức mạnh, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người hô hào dân chúng cùng nhau xây dựng lại ngôi tháp thời ấy, nay chính là Tỳ-kheo Đại Lực.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Kính
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong nước có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, hơn hẳn mọi người, ai thấy cũng đều yêu kính.
Đứa bé dần dần khôn lớn, một hôm chàng trai này cùng các bạn thân đi dạo chơi ngắm cảnh. Khi đến dưới cội cây Ni-câu-đà, chàng trai thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, trong lòng vui mừng, bước tới đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho chàng trai nghe. Tâm ý được mở tỏ, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, chàng liền trở về từ biệt cha mẹ, xin được xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ chàng không nỡ ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Đức Phật, xin được xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Râu tóc chàng tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được các trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo được mọi người cung kính này, đời trước đã làm phước đức gì, mà nay sinh ra có tướng mạo khôi ngô, ai thấy cũng đều yêu kính, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật, xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu để cúng dường.
Về sau, bảo tháp có vài chỗ bị lở. Lúc ấy có một cậu bé vào bên trong, thấy tháp bị lở, đã vui vẻ kêu gọi dân chúng cùng nhau tô đắp sửa sang chỗ hư hỏng. Khi xong công việc, cậu bé phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức ấy, cho nên trong chín mươi mốt kiếp, vị ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, được sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho tới ngày nay gặp Ta, vị ấy vẫn được mọi người kính ngưỡng, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người đã đứng ra kêu gọi dân chúng tu bổ sửa sang nền tháp thời ấy nay chính là vị Tỳ-kheo được mọi người cung kính.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Báu
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản vật báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai có tướng mạo khôi ngô, trên đời ít có; khi sinh ra tự nhiên trên đầu có lọng báu Ma- ni che phủ khắp thành Ca-tỳ-la-vệ. Cha mẹ thấy vậy rất vui mừng, nhân đó đặt tên là Bảo Cái.
Bảo Cái dần dần khôn lớn. Một hôm, Bảo Cái cùng các bạn thân ra khỏi thành để dạo chơi ngắm cảnh dần dần đến dưới cội cây Ni-câu-đà. Thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, Bảo Cái trong lòng vui mừng đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên, nghe Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, Bảo Cái chứng quả
Tu-đà-hoàn, liền trở về từ biệt cha mẹ, xin được xuất gia. Vì thương con nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn dẫn Bảo Cái đến nơi Đức Phật ngự, cầu xin cho Bảo Cái được xuất gia nhập đạo.
Lúc ấy Đức Phật gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Bảo Cái tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập và chứng đắc quả A-la-hán.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Bảo Cái đời trước đã làm phước đức gì, mà đời nay sinh ra đời có bảo cái Ma-ni che phủ cả thành như vậy, lại gặp Đức Thế Tôn, xuất gia chưa bao lâu đã chứng được Thánh quả?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài thị hiện Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu để cúng dường.
Bấy giờ có một người đi buôn ra biển lấy được châu báu và trở về an ổn, đem bảo châu Ma-ni rải trên đỉnh tháp, sau đó phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức ấy, nên trong chín mươi mốt kiếp vị ấy không bị đọa vào đường ác; thường sinh lên cõi trời, cõi người, hễ khi sinh ra thì thường có lọng báu. Cho tới ngày nay gặp Ta, vị ấy được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người đi buôn cúng dường bảo châu Ma-ni thời ấy, nay chính là Tỳ-kheo Bảo Cái.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Hay
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường trên đời ít có.
Cậu bé dần dần khôn lớn, chàng có giọng nói rất hay, mọi người ai cũng thích nghe. Một hôm, chàng trai này cùng các bạn thân ra khỏi thành để dạo chơi, dần dần đến dưới cội cây Ni-câu-đà. Thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp ánh sáng chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, chàng rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho chàng nghe. Tâm ý được mở tỏ, chàng trai chứng quả Tu-đà-hoàn, bèn trở về từ giã cha mẹ, xin xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Phật, xin Phật cho con xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc chàng trai tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành bậc Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được các trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo có giọng tiếng hay này, đời trước đã làm phước đức gì mà nay có giọng nói hay như thế, lại gặp Đức Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập
Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây ngôi tháp bằng bốn chất báu cao một do-tuần để cúng dường xá-lợi.
Lúc ấy có một người thấy ngôi tháp này, sinh tâm vui mừng, bèn tấu trổi âm nhạc và nhiễu quanh tháp để cúng dường, sau đó người ấy phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức ấy, cho nên trong chín mươi mốt kiếp không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, được sinh lên cõi trời, cõi người, thường có giọng nói rất hay, khiến ai cũng muốn nghe. Đến ngày nay người ấy gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người nhiễu tháp, tấu trổi âm nhạc cúng dường tháp lúc bấy giờ, nay chính là vị Tỳ-kheo có giọng nói hay kia vậy.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng. Về sau, nàng mang thai, đủ mười tháng sinh ra một cục thịt. Trưởng giả thấy vậy, trong tâm rất buồn bã, cho là điềm chẳng lành. Ông đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vợ con mang thai, sinh ra một cục thịt, chẳng hay đó là điềm lành hay dữ. Cúi xin Đức Thế Tôn chỉ dạy.
Đức Phật bảo trưởng giả:
– Ông chớ thắc mắc và lấy làm lạ, hãy cứ nuôi nấng bảy ngày sau sẽ rõ.
Trưởng giả nghe Đức Phật dạy, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền trở về nhà bảo vợ hãy săn sóc. Bảy ngày sau quả nhiên cục thịt nứt ra, trong đó có một trăm đứa bé, tất cả đều có tướng mạo khôi ngô khác thường, trên đời ít có.
Một trăm đứa bé dần dần khôn lớn, một hôm cùng nhau ra khỏi thành đi dạo chơi, dần dần đến dưới cội cây Ni-câu-đà. Thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, các đứa trẻ vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên, Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho các cậu bé nghe. Tâm ý được mở tỏ, một trăm cậu bé đều đắc quả Tu-đà-hoàn, liền ở trước
Phật cầu xin xuất gia.
Đức Phật bảo các cậu bé:
– Cha mẹ chưa cho phép, không được xuất gia.
Các đồng tử nghe Phật dạy, bèn trở về xin phép cha mẹ. Vì thương con, nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn dẫn các con đến chỗ Phật, xin Ngài cho các con được xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc các đứa trẻ tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, tất cả đều chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Một trăm vị Tỳ-kheo cùng ra đời một lượt, đời trước đã gieo trồng phước đức gì mà nay một trăm người anh em lại cùng sinh ra một lượt như vậy, tất cả đều có tướng mạo khôi ngô khác thường, được mọi người yêu kính, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Lúc ấy, có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu để cúng dường xá-lợi. Bấy giờ, có một trăm người khác cùng ở trong làng dâng hương hoa và tấu trổi âm nhạc để cúng dường ngôi tháp.
Tất cả đều cùng nhau thệ nguyện rằng: “Nguyện đem công đức căn lành cúng dường này, khiến cho chúng con đời sau được sinh ra tại cùng một nơi và cùng là anh em của nhau”. Phát nguyện xong, họ ra đi.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, những người cùng ở trong làng thời ấy, nay chính là một trăm vị Tỳ-kheo đây vậy. Nhờ năng lực thệ nguyện của họ lúc đó, nên trong chín mươi mốt kiếp, họ không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ. Bất cứ sinh lên cõi trời, cõi người, họ thường sinh ra đồng một lượt thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay gặp Ta vẫn sinh ra đời một lượt, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Châu
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường trên đời ít có, trên đầu tự nhiên có hạt châu Ma-ni. Cha mẹ thấy vậy, bèn đặt tên con là Bảo Châu.
Bảo Châu dần dần khôn lớn. Một hôm Bảo Châu cùng các bạn thân ra khỏi thành để dạo chơi. Khi đến dưới cội cây Ni-câu-đà, Bảo Châu thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Bảo Châu vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại, ngồi sang một bên nghe Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, Bảo Châu chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Bảo Châu bèn trở về từ giã cha mẹ, xin được xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, liền dẫn con đến chỗ cây Ni- câu-đà để xin Phật cho Bảo Châu xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Bảo Châu tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người kính ngưỡng.
Một hôm, thầy Tỳ-kheo này đắp y, ôm bát vào thành khất thực. Bấy giờ, hạt châu vẫn ở trên đầu thầy Tỳ-kheo, người trong thành thấy hiện tượng ấy họ rất ngạc nhiên:
– Tại sao Tỳ-kheo đi khất thực lại mang theo hạt châu trên đầu như vậy?
Rồi họ cùng tranh nhau đến xem. Lúc ấy Tỳ- kheo Bảo Châu cảm thấy hổ thẹn, bèn trở về chỗ mình ở, bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trên đầu con có hạt châu chẳng thể lấy đi được, khiến cho hôm nay trong khi đi khất thực con bị dân chúng chế nhạo. Cúi xin Ngài từ bi lấy hạt châu đi cho con.
Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo:
– Ông hãy nói với hạt châu thế này: “Nay sinh phần của tôi đã hết, nên chẳng cần ngươi giữ nữa.” Cứ nói như vậy ba lần thì hạt châu sẽ tự nhiên biến mất.
Tỳ-kheo Bảo Châu vâng lời Phật dạy, liền nói với hạt châu ba lần như vậy, quả nhiên, hạt châu tự nhiên biến mất.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Bảo Châu trước kia đã gieo trồng phước đức gì, mà nay sinh ra có hạt châu trên đầu, chiếu sáng hơn mặt trời, mặt trăng; lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Khi ấy, có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật, rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu cao một do-tuần để cúng dường. Về sau, thái tử của vua vào tháp, đảnh lễ cúng dường, treo một hạt châu Ma-ni trên đỉnh tháp, phát nguyện rồi ra về.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp thái tử không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; sinh lên cõi trời, cõi người thường có hạt châu trên đầu, thọ hưởng sự sui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay vị ấy được gặp Ta, xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Vương tử lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Bảo Châu.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị Trưởng giả có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, vượt hơn mọi người.
Lúc bé trai này mới sinh, trong hư không có chiếc lọng phướn lớn, che phủ cả thành. Do đó mà mọi người đặt tên cho đứa trẻ là Ba-đa-ca.
Ba-đa-ca dần dần khôn lớn. Một hôm cùng các bạn thân ra khỏi thành dạo chơi, đến dưới cây Ni- câu-đà, Ba-đa-ca thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Ba-đa-ca vui mừng, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại đứng sang một bên. Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho Ba-đa-ca nghe. Tâm ý được mở tỏ, Ba-đa-ca chứng quả Tu-đà-hoàn, liền trở về từ giã cha mẹ, xin được xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, bèn dẫn con đến vườn Ni-câu- đà, xin Đức Phật cho Ba-đa-ca xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Ba-đa-ca tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, chứng quả A- la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người kính ngưỡng.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Ba-đa-ca đời trước đã làm được phước đức gì, mà nay sinh ra có tướng mạo khôi ngô khác thường, trên đời thật ít có, trên không trung còn có chiếc lọng phướn to che phủ cả thành, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi Phật, rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn chất báu, cao một do-tuần để cúng dường. Về sau, có một người, khi tổ chức đại hội để cúng dường tháp, người này làm một lá phướn dài rồi treo trên tháp, phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp người này không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, sinh lên cõi trời, cõi người thường có lọng phướn che mát trên đầu, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay, vị ấy gặp Ta được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người làm phướn lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Ba-đa-ca.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, tên là Thiện Hiền, có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé gái, tướng mạo xinh đẹp khác thường, trên đời ít có; trên đầu bé gái ấy tự nhiên có một hạt châu chiếu sáng khắp thành. Thấy vậy, cha mẹ rất vui mừng và đặt tên con là Bảo Châu.
Bảo Châu dần dần khôn lớn, bản tánh hiếu thuận, thích làm việc bố thí. Hễ có người tới xin hạt châu trên đảnh thì nàng liền lấy cho, cho rồi hạt châu khác lại hiện ra.
Cha mẹ vui mừng, một hôm dẫn Bảo Châu đến chỗ Phật. Bảo Châu thấy Phật, trong lòng vui mừng liền xin Phật xuất gia nhập đạo.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu Bảo Châu tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Bảo Châu, đời trước đã gieo trồng phước đức gì, mà nay khi ra đời tự nhiên trên đầu có hạt châu, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp về trước, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ- bà-thi. Sau khi hóa độ chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa thâu lấy xá-lợi Phật, rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn vật báu để cúng dường.
Về sau, có một người vào trong tháp này, treo một hạt châu cúng dường trên đỉnh tháp, sau đó phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên trong chín mươi mốt kiếp, người này không bị đọa vào đường ác; hễ sinh lên cõi trời, cõi người, lúc nào cũng thường có hạt châu trên đầu, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời. Cho đến ngày nay, vị ấy gặp Ta được xuất gia và đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Tu-già, có vô lượng tài sản, vật báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng. Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé gái. Khi sinh ra bé ấy đã nói được, trong nhà tự nhiên đầy đủ các thức ăn uống. Cha mẹ bé gái thấy vậy nghĩ rằng đó chẳng phải là người mà là quỉ Tỳ-xá-xà, nên sợ sệt chẳng dám gần gũi.
Lúc ấy bé gái thấy cha mẹ tỏ vẻ lo sợ, nên chắp tay nói kệ cho mẹ nghe:
Mong mẹ nghe lời con Nay con nói lời thật Chẳng phải Tỳ-xá-xà Cũng chẳng phải quỉ khác, Mà con là người thật
Do hạnh nghiệp tạo nên Do nhân duyên nghiệp lành Được quả báo như vậy.
Lúc ấy cha mẹ nghe con nói kệ, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền ẵm bồng, cho bú và nuôi dưỡng, nhân đó đặt tên con là Thiện Ái.
Thiện Ái thấy cha mẹ vui mừng, liền chắp tay thưa cha mẹ:
– Xin cha mẹ hãy đi thỉnh Đức Phật và các Tỳ- kheo Tăng để cúng dường giúp con.
Cha mẹ liền nghe lời con đi thỉnh Đức Phật và các Tỳ-kheo Tăng để cúng dường với đầy đủ các thức ăn uống. Cúng dường xong, Thiện Ái ở trước Phật sinh lòng khát ngưỡng muốn nghe pháp. Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho Thiện Ái nghe. Tâm ý được mở tỏ, nàng liền chứng quả Tu-đà-hoàn.
Thiện Ái dần dần khôn lớn, một hôm xin cha mẹ xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ cô không nỡ ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Phật xin Phật cho Thiện Ái được xuất gia nhập đạo.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu Thiện Ái tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Một hôm, Thế Tôn dẫn đầu một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, đi giáo hóa chúng sinh tại một nước khác. Khi đến một khoảng đồng trống, thì đã đến giờ ăn.
Đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Thiện Ái:
– Cô có thể bày các món ăn uống cúng dường Đức Phật và các Tỳ-kheo Tăng không?
Đức Phật nói xong, Thiện Ái liền cầm lấy bát Phật tung lên hư không, lúc ấy tự nhiên các thức ăn uống chứa đầy trong bát. Cứ như thế, Thiện Ái lần lượt cầm lấy bát của một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo tung lên hư không cũng được đầy đủ các món ăn.
Lúc bấy giờ, A-nan thấy việc ấy, khen là sự chưa từng có, bèn bước đến bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Thiện Ái đời trước đã gieo trồng phước đức gì, mà nay lại có khả năng làm được việc kỳ diệu như thế, các món ăn uống hễ muốn là có ngay; lại gặp Đức Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.
Một hôm, Đức Phật Ca-diếp đắp y, ôm bát dẫn đầu các Tỳ-kheo vào thành khất thực. Theo thứ lớp đến nhà một vị đại trưởng giả, trong nhà sắm sửa các món ăn ngon để đãi khách. Trong khi khách chưa đến, một cô gái hầu thấy Đức Phật và chúng Tăng đang đứng ngoài cửa, cô không nói cho ai biết, mà tự mình lấy các món ăn uống để cúng dường hết cho Đức Phật và chúng Tăng.
Sau đó khách đến, trưởng giả mới bảo cô hầu lấy thức ăn ra.
Cô hầu đáp:
– Thưa trưởng giả, hôm nay có Đức Phật và chúng Tăng đến khất thực và đứng ngoài cửa, nên con đã lấy các thức uống ăn cúng dường hết rồi.
Trưởng giả nghe xong, sinh tâm vui mừng và nói với cô hầu:
– Hôm nay ta đã gặp được ruộng phước. Ngươi đem thức ăn cúng dường, thật lòng ta vui không sao nói được. Bây giờ ta cho con được yêu cầu điều gì tùy ý.
Cô hầu đáp:
– Nếu trưởng giả cho phép tùy theo ý con, xin cho con xuất gia nhập đạo.
Vị trưởng giả liền bằng lòng cho cô xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Trong một vạn năm người hầu ấy siêng năng tu tập, không hề xao lãng. Khi qua đời, vị ấy không sa vào đường ác; thường được sinh lên các cõi trời, cõi người, các thức ăn uống hễ muốn liền có ngay.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người hầu nữ lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo-ni Thiện Ái. Do vì lúc đó, người hầu nữ đã tinh tấn siêng năng giữ giới, nên nay được gặp Ta, xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một hôm nọ, Phật ngự dưới rừng cây Ni-câu- đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Cù-sa, có vô lượng tài sản, của báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng. Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé gái, tướng mạo xinh đẹp khác thường, lúc sinh ra đã có mặc áo trắng sạch. Do vậy mà đứa bé được đặt tên là Bạch Tịnh.
Bạch Tịnh dần dần khôn lớn và chiếc áo cũng rộng ra theo, màu sắc vẫn luôn trắng tinh sạch sẽ và không phải mất công giặt giũ, Mọi người trông thấy, ai cũng muốn có được chiếc áo như vậy.
Một hôm, Bạch Tịnh thưa với cha mẹ:
– Con chẳng tham cầu sự vinh hoa thế tục mà chỉ mong được cha mẹ cho xuất gia.
Vì tình thương nên cha mẹ không nỡ ngăn cản, liền dẫn con đến chỗ Phật, xin cho Bạch Tịnh được xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu Bạch Tịnh tự rơi rụng, chiếc áo trắng đang mặc trên mình bỗng hóa ra áo ca-sa, trở thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Tôn giả A-nan thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh đời trước đã làm được phước đức gì, mà nay khi sinh ra tự nhiên đã mặc áo đẹp đẽ thanh tịnh, lại được xuất gia không bao lâu đã chứng đắc đạo quả.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Ngài dẫn đầu các Tỳ-kheo vào xóm làng để giáo hóa chúng sinh.
Lúc ấy có một cô gái, khi thấy Đức Phật và chúng Tăng, tâm rất vui mừng, bèn cúng dường Phật và chúng Tăng một xấp vải, sau đó nàng phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, cho nên cô gái này, khi được sinh lên cõi trời, cõi người, lúc sinh ra đã mặc áo sạch. Cho đến ngày nay gặp Ta, cô ấy được xuất gia đắc đạo,
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy nên biết, cô gái cúng dường vải lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo-ni Bạch Tịnh vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị Bà-la-môn tên là Phạm-ma. Ông là người học rộng nghe nhiều, có tài biện luận, hiểu rõ kinh luận. Đối với bốn bộ Vệ- đà, ông đều thấu đạt. Ông chọn con gái trong một gia đình giàu sang để cưới làm vợ.
Người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé gái, tướng mạo xinh đẹp khác thường, có trí tuệ và tài biện luận không ai sánh kịp. Nghe các Bà-la-môn nghị luận với cha mình, nàng đều ghi nhớ không mất một lời.
Dần dà như vậy, sự hiểu biết của cô ngày càng nhiều. Các bậc Trưởng lão tôn túc đều đến thưa hỏi, không điều gì mà nàng chẳng thông suốt.
Cô nghe rằng trên đời có Đức Phật mới chứng thành quả Chánh giác và đang giáo hóa chúng sinh. Nàng muốn đến cầu xin thọ pháp. Hôm ấy, nàng đeo chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, đến nơi Phật ngự. Thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, cô gái bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho cô nghe, tâm ý được mở tỏ, nàng liền chứng đắc quả Tu-đà- hoàn, sau đó nàng cầu xin xuất gia.
Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu cô gái tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán.
Tôn giả A-nan thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Tu-mạn đời trước đã làm được phước đức gì, mà đời nay tuy làm thân gái, nhưng học rộng nghe nhiều bậc nhất; lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Trong thời kỳ Tượng pháp của Phật Ca-diếp, có một vị Tỳ-kheo-ni siêng năng tu tập không hề xao lãng, tâm thường ưa thích khi nói pháp giáo hóa chúng sinh. Nhân công đức đó Tỳ-kheo-ni ấy phát nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai được sinh trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, là người hiểu rõ kinh luận.” Phát nguyện xong, Tỳ- kheo-ni ấy qua đời, được sinh lên cõi trời, cõi người, thông minh trí tuệ, không ai sánh kịp.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy nên biết, Tỳ-kheo-ni nói pháp giáo hóa chúng sinh lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo-ni Tu-mạn, là người học rộng nghe nhiều bậc nhất, lại được gặp Ta, xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ các vị trưởng giả giàu có trong thành nhóm họp lại, tổ chức đại hội, tấu trổi kỹ nhạc để vui chơi.
Lúc ấy có hai vợ chồng vũ sư từ phương Nam tới, dẫn theo một cô con gái xinh đẹp tên là Thanh Liên Hoa. Thanh Liên Hoa tướng mạo xinh đẹp khác thường trên đời ít có, lại thông minh trí tuệ, khó ai có thể đối đáp với nàng. Nàng có đến sáu mươi bốn nghề, tất cả đều thành thạo. Nàng còn hiểu rõ về nghệ thuật múa; các động tác như xoay người, cúi xuống, ngẩng lên đều rất linh hoạt khéo léo và khúc hát được biểu hiện bằng tiết điệu của thân thể.
Cô kiêu hãnh nói rằng:
– Trong thành này, có người nào múa được như ta không; hay hiểu rõ kinh luận có thể đối đáp với ta không?
Khi đó có người trả lời:
– Đức Phật Thế Tôn tại vườn trúc Ca-lan-đà có khả năng đối đáp, làm cho cô không còn kiêu hãnh. Cô gái múa nghe nói, liền dẫn đầu đoàn người vừa ca vừa múa đi đến vườn Trúc. Khi đến vườn Trúc, cô gái thấy Đức Thế Tôn, vẫn còn kiêu mạn, buông lung và cười đùa vô lễ, tỏ ra bất kính Như
Lai.
Đức Phật thấy vậy, Ngài liền dùng thần lực biến cô gái múa thành một bà lão tóc bạc trắng, mặt nhăn nheo, răng rụng lưa thưa và đi lom khom.
Lúc ấy cô gái múa tự thấy thân mình già nua như một bà lão, bèn nói:
– Vì sao thân thể ta bỗng nhiên lại già nua suy yếu thế này? Đây chắc chắn là do uy thần của Đức Phật gây ra.
Nàng liền ở trước Phật sinh tâm hổ thẹn, bước đến bạch Đức Phật:
– Hôm nay con ở trước Thế Tôn mà dám kiêu mạn, tự đại, buông lung tâm ý. Cúi xin Đức Thế Tôn từ bi tha thứ lỗi lầm.
Bấy giờ Thế Tôn biết tâm cô gái múa được điều phục. Ngài bèn dùng năng lực thần thông biến bà lão trở lại thành cô gái múa, như trước không khác. Mọi người thấy cô gái múa thoạt già, thoạt trẻ không nhất định, nên ai nấy đều sinh tâm nhàm chán thân người, hiểu rõ lý vô thường. Tâm ý mở tỏ, có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, cho đến có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Bây giờ cô gái múa cùng cha mẹ đến trước Phật, ông bà cầu xin cho cô gái múa được xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu cô gái tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành Tỳ-kheo-ni. Cô siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được cõi trời, cõi người tôn kính.
Đại chúng thấy vậy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, làm sao đối với một người buông lung, xinh đẹp, không có lòng tin Phật, mà Ngài hóa độ được khiến cho cô ta khai ngộ, xuất gia đắc đạo như thế.
Đức Phật bảo đại chúng:
– Đâu phải ngày nay Ta mới giáo hóa nàng ấy, mà thuở quá khứ xa xưa Ta từng giáo hóa nàng ấy rồi.
Sau khi nghe Phật dạy, đại chúng lại bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ở quá khứ thế nào, cúi xin Ngài giải thích cho chúng con được biết.
Bấy giờ Đức Phật bảo đại chúng:
– Các vị hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, vua nước Ba- la-nại có vị thái tử tên là Tôn-đà-lợi vào núi học đạo, đạt được năm thứ thần thông…
Một hôm, thái tử gặp một vị nữ Khẩn-na-la, tướng mạo xinh đẹp khác thường, giống như chư Thiên, nhưng lại có phong cách lẳng lơ, vừa đi vừa múa nhằm làm động tâm thái tử, muốn làm cho thái tử mê đắm, lui sụt Tiên đạo. Nhưng tâm thái tử lúc đó vẫn bền chắc, không hề có ý tưởng tham dục.
Lúc ấy thái tử nói với vị nữ Khẩn-na-la: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, nay ta quán sát thấy thân ngươi, toàn là chất hôi thối chứa đầy bên trong, với lớp da mỏng bao phủ bên ngoài, không thể giữ được lâu bền, rồi sẽ có lúc tóc bạc, mặt nhăn và lưng còm. Vậy bây giờ, ngươi lấy cớ gì còn kiêu mạn buông lung đến như thế; giọng ca hay của ngươi ngày trước, cũng bị biến đổi, tại sao ngươi còn dựa vào đó mà có những hành động lẳng lơ như thế?!”
Nghe thái tử nói, vị nữ Khẩn-na-la liền sám hối tội lỗi với thái tử và nhân đó phát nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai dứt bỏ được sinh tử và được gặp Ngài, chứng đắc đạo quả.”
Phật bảo đại chúng:
– Các vị nên biết, vị vương tử học đạo Tiên lúc bấy giờ, chính là Ta hiện nay, còn vị nữ Khẩn-na- la bấy giờ, nay là Tỳ-kheo-ni Thanh Liên Hoa. Nhờ năng lực phát nguyện lúc đó mà nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Ra Đã
Mặc Ca-Sa
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn Lộc dã, trong thành Ba-la-nại.
Bấy giờ hoàng hậu của vua Phạm-ma-đạt-đa mang thai, đủ mười tháng, bà sinh được một công chúa, thân mặc ca-sa, tướng mạo xinh đẹp khác thường, trên đời ít có. Vua cho vời các thầy xem tướng đến xem tướng cho công chúa. Các thầy xem tướng xem xong hỏi cha mẹ:
– Lúc công chúa sinh ra có điềm lành gì chăng? Vua đáp:
– Lúc công chúa ra đời, trên người có mặc ca- sa.
Do đó đặt tên là Ca-thi-tôn-đà-lợi. Ca-thi dần dần khôn lớn, chiếc áo ca-sa trên người cũng rộng theo. Ca-thi bản tính hiền lành, nhân từ và hiếu thuận. Một hôm, Ca-thi dẫn các người hầu ra khỏi thành dạo chơi, dần dần đến vườn Nai. Ca-thi thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, nàng sinh lòng vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Lúc ấy Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho Ca-thi nghe. Tâm ý được mở tỏ, nàng liền chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Ca-thi liền trở về tâu vua cha:
– Tâu vua cha, hôm nay con ra khỏi thành dạo chơi, khi đến vườn Nai, con thấy Đức Phật Thế Tôn có tướng tốt đẹp trăm phước, trang nghiêm thân Ngài, oai nghi khoan thai, dung mạo đáng chiêm ngưỡng. Con mong vua cha hãy thương xót, cho con được xuất gia.
Vì thương con nên vua cha không nỡ ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Phật xin Phật cho con xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu Ca-thi-tôn-đà tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Ca-thi-tôn- đà-lợi đời trước đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được sinh trong gia đình giàu sang, khi sinh ra đời đã có mặc ca-sa và tu hành đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-na-ca Mâu-ni. Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh. Lúc ấy công chúa, đang trên đường đi bỗng gặp Phật, tâm nàng vui mừng bèn bước đến đảnh lễ dưới chân Phật và bạch: “Cúi xin Đức Phật và chúng Tăng từ bi nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.”
Đức Phật liền chấp nhận.
Công chúa cúng dường trong ba tháng xong, lại còn hiến cúng Đức Phật và chúng Tăng mỗi vị một chiếc y.
Nhờ công đức ấy mà được sinh lên cõi trời, cõi người, Ca-thi luôn được sự tôn kính và được sinh trong gia đình giàu có, khi sinh ra đời thường có mặc ca-sa.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, công chúa lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo-ni Ca-thi-tôn-đà-lợi.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Phất Sơ, có vô lượng tài sản, vật báu không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng. Người vợ này mang thai, đủ mười tháng cưu mang, nàng sinh được một bé gái, tướng mạo xinh đẹp khác thường, trên đời ít có, lại có vòng ngọc trên trán. Cha mẹ bé gái thấy con như vậy rất vui mừng, liền mời các thầy xem tướng đến xem tướng cho bé gái.
Các thầy xem tướng xem xong hỏi cha mẹ:
– Lúc trẻ này sinh ra có điềm gì lành? Cha mẹ đáp:
– Khi con tôi ra đời, tự nhiên trên trán có vòng ngọc.
Do đó mà đặt tên con là Chơn Châu Man. Chơn Châu Man dần dần khôn lớn, bản tính hiền lành, hay thương xót những kẻ nghèo cô đơn. Khi có người tới xin, cô liền cởi vòng ngọc cho. Sau đó, lại có chiếc vòng ngọc khác y như trước.
Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt nghe trưởng giả Phất Sơ có cô con gái xinh đẹp như vậy, nên ông có ý muốn giao hảo với Phất Sơ để xin cưới nàng ấy cho con mình. Nhưng khi Chơn Châu Man hay tin trưởng giả Tu-đạt muốn cưới mình làm dâu, nàng liền thưa với cha mẹ:
– Xin cha mẹ thương xót, nếu muốn gả con cho con trai của trưởng giả Tu-đạt, thì nên ra một điều kiện chàng phải thệ nguyện sau khi thành hôn cả hai sẽ cùng xuất gia. Nếu được như thế, cha mẹ mới gả con cho anh ấy; bằng không con sẽ không bằng lòng vì con chẳng tham đắm sự vinh hoa phú quý của thế tục.
Lúc ấy vợ chồng trưởng giả Phất Sơ vì thương con, nên không thể làm trái ý con, bèn nói ý nguyện của Chơn Châu Man cho trưởng giả Tu-đạt biết.
Trưởng giả Tu-đạt nghe rồi liền bằng lòng.
Sau đó hai bên đồng tiến hành hôn lễ. Vợ chồng Chơn Châu Man chung sống được ít lâu, cả hai đều sinh tâm nhàm chán, cùng nhau đến chỗ Đức Phật, cầu xin xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo-ni!
Tóc trên đầu Chơn Châu Man tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành Tỳ-kheo-ni. Siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vợ chồng Chơn Châu Man, đời trước đã làm được phước đức gì, mà nay khi sinh ra tự nhiên có vòng ngọc trên trán, xuất gia không bao lâu đã chứng đắc quả A-la-hán.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Đức Phật cùng các Tỳ- kheo đến vườn Nai để quay bánh xe pháp hóa độ chúng sinh.
Lúc ấy có vị trưởng giả A-sa-la nghe tin Đức Phật đang giáo hóa chúng sinh tại vườn Nai, ông bèn nghĩ: “Ta sẽ đi khuyến hóa dân chúng trong thành, mở đại hội Vô già”.
Nghĩ xong, trưởng giả liền thưa với vua cho mình cỡi voi trắng lớn đi khắp chợ, khắp mọi nơi chốn, khắp mọi con đường khuyến hóa mọi người đóng góp để mở đại hội Vô già.
Lúc ấy có một phụ nữ nghe lời khuyến hóa, liền đem hạt châu trên đầu để bố thí. Người chồng từ xa trở về, thấy hạt châu trên đầu vợ không còn, nên hỏi: “Nàng đã đem hạt châu cho ai?”
Người vợ đáp: “Hôm nay, trưởng giả A-sa-la đi khắp nơi để khuyến hóa mọi người bố thí, nên tôi đã bố thí hạt châu rồi.” Người chồng nghe nói, rất vui mừng, cũng đem hạt châu ra bố thí.
Nhân đó người vợ phát nguyện: “Con nguyện ở đời vị lai không bị đọa vào đường ác, được sinh lên cõi trời, cõi người, khi sinh ra thường có vòng trân châu.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Nhờ bố thí hạt châu lúc bấy giờ nên Tỳ-kheo- ni Chơn Châu Man ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Đời Mà Hai Vị Vua
Hòa Giải Với Nhau
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc và vua Phạm-ma-đạt, thường có sự bất hòa, mỗi bên đều đem các binh chủng như: Tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh để trú đóng tại hai bên bờ sông.
Lúc ấy hai phu nhân của hai vua đến lúc sinh nở, một vị sinh được thái tử, một người sinh được công chúa. Cả hai trẻ đều có tướng mạo khôi ngô, xinh đẹp khác thường. Hai vua đều vui mừng, đánh trống ra lệnh tập hợp các binh chúng để ban thưởng tài vật. Nhân đó, hai vị vua đều vui mừng cầu hòa và kết mối thông gia với nhau, từ đó hai nước không còn xâm chiếm nhau nữa, mãi đến đời con cháu sau này, vẫn giữ được mối giao hảo như xưa.
Sau khi có sự hòa giải giữa hai vị vua, ai về nước nấy.
Bấy giờ thái tử con vua Phạm-ma-đạt mới bảy tuổi, được vua cha cho phép đem các thứ đồ châu báu đến xin cầu hôn công chúa của vua Ba-tư-nặc. Công chúa của vua Ba-tư-nặc nghe tin, nàng liền thưa vua cha:
– Thân người khó được, nay con đã được; các căn khó đầy đủ, nay con đã đầy đủ; tín tâm khó sinh, nay tín tâm con đã sinh; ở đời khó gặp Phật, nay con đã được gặp. Cúi xin vua cha đừng đẩy con vào chốn hiểm nạn, khiến con mãi xa lìa các bậc Thiện tri thức, xin vua cha thương xót cho con được xuất gia.
Vua đáp:
– Khi con nằm trong thai, ta đã hứa hôn với vua Phạm-ma-đạt rồi. Nhờ con ra đời mà hai nước trở nên hòa bình thân thiện, không còn xâm chiếm nhau nữa. Giờ đây, nếu ta không giữ lời, tức là phụ lòng tin của người, vua Phạm-ma-đạt chắc chắn đối xem ta như kẻ thù nghịch, chư Thiên sẽ chê trách mà không giúp đỡ cho ta, các quan và nhân dân sẽ không tin phục ta. Như vậy, ta đã đi ngược lại pháp chế lâu đời của Tiên vương. Con chưa từng nghe hay sao: Hai vị vua A-xà-thế và Ba-cù- lợi, cùng mấy mươi vị vua nữa… đều do nói dối mà phải đọa ngục. Vì sao ngày nay con muốn ta giống như các vua kia phải chịu khổ nơi địa ngục vì lời nói dối của mình. Con chớ nên bỏ ta đi xuất gia.
Nói xong, vua Ba-tư-nặc liền sai sứ giả đến báo tin cho vua Phạm-ma-đạt biết, nội trong bảy ngày hãy mau mang sính lễ đến. Sứ giả vâng lệnh vua, liền đến báo tin cho vua Phạm-ma-đạt biết bảy ngày nữa sẽ làm lễ cưới.
Khi nghe vua cha đã sai sứ giả đi hối thúc vua Phạm-ma-đạt phải tiến hành nhanh việc cưới hỏi, nàng rất buồn phiền, bèn mặc y phục dơ bẩn, cởi bỏ các chuỗi anh lạc và làm cho thân thể trở nên tiều tụy hao mòn, rồi nàng lên lầu cao, quỳ thẳng chắp tay hướng về tinh xá Kỳ hoàn bạch Phật:
– Đức Như Lai Thế Tôn từ bi thương xót tất cả chúng sinh, trong một niệm biết rõ ba đời. Hôm nay, con gặp khổ nạn, cúi mong Thế Tôn thương xót cứu giúp.
Lúc ấy Thế Tôn từ xa biết công chúa chân thành cầu nguyện, mong được cứu giúp. Trong phút chốc, Thế Tôn liền hiện ra trước mặt công chúa để nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, công chúa liền chứng đắc quả A-na-hàm.
Đến ngày thứ bảy, thái tử của vua Phạm-ma- đạt dẫn đầu đoàn thị tùng, đến mấy ngàn muôn người, mang theo châu báu, các đồ phục sức đến để cầu hôn. Vào đến trong cung, thái tử sắp tiến hành lễ cưới, bỗng nhiên công chúa từ trên hư không hiện ra mười tám thứ thần biến, ẩn đi ở phía Tây xuất hiện ở phía Đông, xuất hiện ở phía Nam ẩn đi ở phía Bắc, đi đứng nằm ngồi biến hóa tự tại, rồi từ không trung bước xuống.
Vua Ba-tư-nặc thấy công chúa biến hóa như vậy, sinh tâm sợ hãi và nói với con gái:
– Ta vì ngu muội không biết con có thần thông biến hóa, vậy mà cố đẩy con vào chốn ô uế cấu nhiễu của trần gian. Ta xin sám hối tội lỗi và cho phép con xuất gia.
Bấy giờ thái tử cũng sinh tâm kính tin, nói:
– Ta cũng ngu si, không biết phân biệt, nên có ý định như vậy. Xin cũng cho ta sám hối tội lỗi, ta cho phép nàng xuất gia.
Bấy giờ công chúa được nghe những lời ấy, nàng liền đến tinh xá Kỳ hoàn, gặp Đức Phật và xin được xuất gia.
Đức Phật liền chấp nhận. Công chúa trở thành Tỳ-kheo-ni, siêng năng tu tập, chứng đắc quả La- hán.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Sai-ma này đời trước đã làm được phước đức gì mà nay được sinh trong hoàng tộc mà không hề có tư tưởng tham dục, lại được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong chánh pháp của Ngài, có một đôi vợ chồng không có sự thương cảm nhau, thường hay kình cãi bất hòa.
Một hôm, vợ chồng khuyến khích nhau đến chỗ các Tỳ-kheo để thọ Bát quan trai giới. Nhân đó, vợ chồng đồng phát nguyện: “Chúng con nguyện đời sau được sinh nơi tôn quý sang trọng, thường hòa giải nhau khi có tranh cãi.” Sau khi phát nguyện, cả hai tùy theo tuổi thọ, lần lượt qua đời, cùng sinh vào hoàng tộc.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người cha chồng nay chính là vua Phạm-ma-đạt; cha vợ nay là vua Ba-tư-nặc; người chồng nay là thái tử, người vợ nay là công chúa.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, vui mừng thực hành.
Vua
Ba-Tư-Nặc
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên
Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, phu nhân Mạt-lợi của vua Ba-tư-nặc hạ sinh được một nàng công chúa, diện mạo xấu xí, thân thể thô nhám như da rắn, tóc cứng như lông đuôi ngựa.
Vua Ba-tư-nặc thấy vậy, nên lòng buồn bã, ra lệnh cho các quan trong cung phải canh giữ cẩn thận không cho con gái ra ngoài để ai nhìn thấy.
Vua tự nghĩ: “Con gái ta tuy hình dạng xấu xí chẳng giống người, nhưng là con do phu nhân Mạt- lợi sinh ra nên ta vẫn nuôi dưỡng”.
Công chúa dần dần khôn lớn, đã đến tuổi phải có chồng. Vua rất ưu sầu không biết phải làm thế nào. Một hôm, vua truyền lệnh cho một vị quan:
– Khanh hãy đi tìm và dẫn về đây một chàng trai vốn là con nhà giàu sang, nhưng nay đã sa sút nghèo khổ.
Vị quan vâng lệnh vua đi khắp nơi để tìm kiếm và tìm được một người có điều kiện như vậy, liền dẫn đến gặp vua.
Vua gọi chàng trai ấy đến chỗ khuất, nói riêng:
– Ta nghe khanh vốn là con nhà giàu sang, nhưng nay đã nghèo khổ. Về việc ấy ta hứa sẽ lo liệu cho. Điều ta muốn nói là ta có một công chúa diện mạo rất xấu xí. Ta mong khanh không chê và ta sẽ gả con gái cho.
Kẻ nghèo khổ kia quỳ thẳng tâu rằng:
– Thần xin vâng lệnh đại vương, giả sử đại vương có đem chó để gả cho thần, thì thần cũng xin nhận không dám trái lệnh, huống chi đây là công chúa do phu nhân Mạt-lợi sinh ra. Đại vương có nhã ý con xin vâng lệnh.
Sau khi gả công chúa cho người này, vua cho xây dựng phòng ốc, làm bảy lớp cửa rào vững chắc để nhốt công chúa bên trong và căn dặn phò mã:
– Con phải giữ công việc đóng mở cửa, nếu muốn ra ngoài chính con phải cài cửa chặt, luôn nhốt vợ con vào trong, không được để người ngoài thấy khuôn mặt xấu xí của công chúa.
Vua xuất tài vật tùy theo nhu cầu, để cung cấp cho phò mã không thiếu thốn món gì. Một hôm, nhà vua bảo phò mã và ban cho chàng chức quan Đại thần trong triều.
Một thời gian sau, vị Đại thần này trở nên giàu có, có rất nhiều tài sản vật báu, không còn thiếu thốn vật gì. Từ đó, viên Đại thần này và những người thuộc dòng dõi giàu sang thường cùng nhau tổ chức những cuộc hội họp vui chơi. Ngày qua tháng lại, trong những lần gặp gỡ ấy, những đôi vợ chồng hoặc trai gái cùng vui vẻ đi chung với nhau. Nhận thấy những người dự hội, ai cũng đem vợ mình theo, chỉ có vị Đại thần kia là không có vợ đi chung, cho nên mọi người mới lấy làm lạ cho rằng: “Hoặc là vợ ngài rất xinh đẹp, nhan sắc mỹ miều; hoặc là quá xấu, nên không dám trình diện trước công chúng.” Do đó bọn người kia bèn tính mưu kế để đi xem tận mặt người vợ. Họ âm thầm toan tính với nhau là dụ Đại thần uống rượu, đến hồi say khước ngã lăn ra đất, họ mới mở lấy chìa khóa cửa và bọn họ gồm năm người về nhà Đại thần để xem mặt cô vợ thế nào.
Lúc ấy người vợ ở nhà đang buồn bã, tự trách lỗi mình:
– Đời trước ta đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay khiến chồng ghét bỏ, lại thường bị giam hãm nơi tăm tối, không được thấy mặt trời, mặt trăng và mọi người.
Công chúa tự nghĩ: “Hiện nay Đức Phật ra đời, Ngài từ bi thường quán sát chúng sinh, hễ chúng sinh nào gặp khổ nạn, Ngài liền đến cứu độ.
Khi ấy công chúa liền dốc lòng, từ xa đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch:
– Cúi xin Đức Phật thương xót, đến trước mặt con để ban cho con lời giáo huấn.
Biết tâm chân thành, kính tin của công chúa đã thuần thục, Đức Phật liền đến nhà, hiện đến trước mặt nàng. Khi ấy, Đức Phật từ dưới đất hiện lên. Đầu tiên Ngài hiện tướng tóc xanh, công chúa ngẩng đầu nhìn màu tóc của Phật, trong lòng vui mừng và càng tôn kính. Lúc ấy tóc công chúa tự nhiên mềm mại trở lại và biến thành màu xanh. Đức Phật lại hiện tướng mặt, công chúa thấy cũng sinh tâm vui mừng, gương mặt nàng bỗng trở nên xinh đẹp, tướng thô kệch cùng làn da thô nhám tự biến mất. Đức Phật lại hiện ra thân màu vàng sáng rỡ cho công chúa thấy. Khi thấy thân Phật, công chúa càng vui mừng hơn nữa. Bấy giờ thân thể công chúa hoàn toàn xinh đẹp chẳng khác nào các Thiên nữ. Đức Phật liền giảng nói các pháp yếu cho công chúa nghe. Tâm ý được mở tỏ, công chúa chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, trong lòng nàng hớn hở, thế gian không ai bằng. Giáo hóa công chúa xong, Đức Phật trở về.
Bấy giờ năm người kia đến nhà vị Đại thần mở cửa vào, họ thấy người vợ có dung mạo xinh đẹp khác thường, trên đời không hai. Năm người bèn bảo nhau:
– Thật lạ! Tại sao Đại thần lại không đem vợ cùng đi?
Sau khi thấy vợ Đại thần có dung nghi xinh đẹp như vậy, họ đóng cửa cột khóa rồi ra về.
Cuộc hội ngộ giải tán, Đại thần trở về nhà, mở cửa vào thấy vợ mình trong dáng điệu đẹp đẽ, khác thường hơn người. Vị Đại thần mừng rỡ hỏi:
– Nàng là ai vậy? Người vợ đáp:
– Thiếp đây chính là vợ chàng. Vị Đại thần lại hỏi:
– Trước kia nàng rất xấu xí, sao giờ đây lại xinh đẹp như vậy?
Công chúa bèn kể lại sự việc cho chồng nghe:
– Đó là nhờ công đức oai thần lực của Đức Phật làm cho thiếp có được thân tướng như vậy. Bây giờ thiếp muốn được gặp vua cha, chàng hãy thưa lên vua cha giùm thiếp.
Đại thần nghe lời vợ, bèn tâu với vua cha:
– Vợ con muốn diện kiến vua cha. Nhà vua liền nói:
– Con chớ nói việc ấy, hãy mau đóng chặt cửa nhốt lại, đừng để công chúa ra ngoài.
Vị Đại thần bèn hỏi:
– Thưa vua cha sao như vậy? Bởi vợ con hôm nay nhờ oai thần của Đức Phật nên có được thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ, chẳng khác gì Thiên nữ.
Vua nghe xong, xét quả đúng như vậy, rồi cho người sửa soạn một cỗ xe, tức tốc đến rước công chúa về cung. Vua thấy con gái mình dung mạo xinh đẹp khác thường, trên đời không hai nên lòng vui mừng vô cùng. Vua liền cho người sửa soạn một cỗ xe, để đến chỗ Phật. Đến nơi, vua đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui sang một bên, quỳ thẳng chắp tay bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, không biết công chúa con trẫm đời trước đã làm được phước lành gì mà nay được sinh trong dòng họ quý tộc, giàu sang, nhưng lại gây ra nghiệp ác gì mà nay phải chịu thân hình xấu xí, da tóc khô cứng còn hơn súc sinh. Cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Thế Tôn bảo vua và phu nhân:
– Đại vương và phu nhân hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, có một nước lớn tên là Ba-la-nại, có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu không thể tính kể được. Trưởng giả cùng những người trong nhà thường cúng dường một vị Bích-chi-phật, có thân thể thô kệch, tướng mạo xấu xí, xơ xác không ai muốn nhìn.
Lúc ấy có một cô bé thấy vị Bích-chi-phật đến, sinh ác tâm khinh mạn, mắng nhiếc, hủy báng: “Người gì đâu mà tướng mạo xấu xí, thân thể thô kệch đáng ghét thế!”
Vị Bích-chi-phật thường đến nhà trưởng giả để thọ cúng dường. Trụ thế đã lâu, nay Ngài muốn nhập Niết-bàn, liền vì cô gái, hiện các đại thần biến như: thân vọt lên hư không xuất ra nước lửa, xuất hiện ở phía Đông ẩn đi ở phía Tây, xuất hiện ở Nam ẩn đi ở phía Bắc, đi đứng nằm ngồi ở trong hư không, tùy ý biến hóa, khiến cho tất cả mọi người trong nhà trưởng giả đều thấy; rồi từ trên hư không bước xuống, đến nhà trưởng giả. Trưởng giả sinh tâm vui mừng khôn xiết. Riêng cô con gái trưởng giả hối lỗi tự trách: “Cúi xin Ngài từ bi tha thứ ác tâm của con trước đây. Tội con quá nặng, mong Ngài bỏ qua, cho con được sám hối để không còn tội lỗi gì”.
Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc:
– Đại vương nên biết, người con gái của trưởng giả lúc ấy vì đã hủy báng chê bai vị Bích-chi-phật, nên về sau khi sinh ra nơi nào cũng thường có thân hình xấu xí. Nhưng nhờ sau đó, do thấy sự biến hóa của Bích-chi-phật, cô gái ấy bèn sám hối với Ngài, cho nên nay được dung mạo xinh đẹp, hơn hẳn thế gian, không ai sánh bằng; và nhờ lúc ấy cúng dường vị Bích-chi-phật, nên khi sinh ra nơi nào cũng thường sinh trong nhà giàu có, tôn quý sang trọng, không thiếu thốn vật gì, lại được gặp Ta, thoát khỏi lo buồn khổ não.
Vua Ba-tư-nặc và các quan, dân chúng nghe Đức Phật dạy về nhân duyên nghiệp báo, tâm ý được mở tỏ. Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi- phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong giảng đường Trùng các, thuộc nước Tỳ-xá-ly.
Bấy giờ, trong thành có một kẻ ngu, tâm thường ưa thích sống bằng nghề trộm cắp, dân địa phương ai cũng biết. Một hôm, nghe trong phòng chư Tăng có một cái lọ quý bằng đồng, kẻ ngu định đánh cắp chiếc lọ ấy. Kẻ ngu theo những người đi đường để vào tăng phòng định lấy cái lọ, nhưng cuối cùng không lấy được. Tên trộm nghe các thầy Tỳ-kheo giảng về một bài kệ bốn câu, ý nói: Cái chớp mắt của chư Thiên rất chậm, còn nháy mắt của người đời thì nhanh. Tên cướp nghe kệ và ghi nhận trong lòng rồi ra về.
Sau đó, có một người đi buôn từ xứ khác tới, mang theo một hạt châu Ma-ni rất giá trị để dâng lên nhà vua. Vua được hạt châu, liền sai người treo lên đỉnh tháp để cúng dường.
Lúc ấy tên trộm biết rằng vua đã treo bảo châu trên đỉnh tháp nên âm thầm để bụng, sau đó, liền đến trộm lấy rồi trốn biệt dạng.
Khi vua nghe hạt châu bị mất, trong lòng tức giận, liền thông báo khắp trong nước:
– Ai bắt được kẻ cắp, mật báo cho vua, sẽ được trọng thưởng.
Qua một thời gian, không ai dám đáp ứng lời kêu gọi của vua. Vua tức giận sai người đi tìm, cũng chẳng kết quả.
Lúc ấy có một vị quan mưu trí tâu vua:
– Hiện nay, trong kinh thành của đại vương, nhân dân đều giàu có thịnh vượng, rất ít kẻ trộm cắp, chỉ còn một người sống bằng nghề trộm cắp mà cả nước đều biết tiếng, hạt châu này chắc chắn do hắn lấy. Nhưng nếu bắt hắn trói lại rồi tra khảo đánh đập, chắc chắn hắn không thú nhận. Nay đại vương phải bày mưu tính kế, mới biết được kẻ kia có lấy hay không.
Vua hỏi vị quan này rằng:
– Nên lập kế gì?
Vị quan đáp:
– Đại vương hãy âm thầm sai người đi mời tên trộm đến cùng ngồi ăn thịt uống rượu. Khi hắn thật say, đại vương cho xe chở về trước điện, đừng cho hắn hay biết gì cả. Trang nghiêm điện đường và các kỹ nữ cực kỳ xinh đẹp, tấu trổi âm nhạc làm cho hắn thích thú. Lúc ấy tên trộm tất phải bàng hoàng ngơ ngác, nhân đó đại vương bảo các kỹ nữ: “Vì lúc còn ở Diêm-phù-đề, ông đã lấy cắp hạt châu trên đỉnh tháp, nên nay được sinh lên tầng trời Đao-lợi. Các kỹ nữ chúng tôi đang trổi nhạc hầu hạ ông đây, mà thật ông có lấy hạt châu không?”
Vua y kế ấy thi hành. Bấy giờ, tên trộm trong cơn say, nửa muốn nói thật, nhưng còn sợ đây không phải cõi trời, nửa chẳng muốn nói mà các cô gái bắt ép phải nói. Khi đó, tên trộm bỗng nhớ lại lúc trước ta có nghe Sa-môn giảng: “Cái chớp mắt của chư Thiên rất chậm, còn của người đời rất nhanh, mà giờ đây cái nháy mắt của các kỹ nữ rất nhanh chẳng phải là cõi trời rồi. Tên trộm chỉ cúi đầu không chịu nói. Chẳng bao lâu hắn tỉnh rượu, quan cũng không hỏi tội, tên trộm được thoát chết.
Lúc ấy vị quan mưu trí kia lại tâu vua:
– Xin đại vương thay đổi mưu kế để buộc tên trộm nhận tội.
Vua hỏi:
– Ta phải lập kế gì?
Vị Đại thần đáp:
– Đại vương hãy giả cách thân thiện, gọi kẻ cắp lại và ban cho hắn chức Đại thần. Tất cả kho tàng, đại vương âm thầm tính đếm số lượng rồi giao cho hắn giữ. Sau đó đại vương dùng lời lẽ nhẹ nhàng nói với hắn ta: “Nay chưa có người nào thân thiết như ngươi, hãy giữ gìn kho tàng, đừng để thất thoát vật gì.” Kẻ cắp nghe rồi, chắc chắn sẽ vui mừng. Nhân đó đại vương từ từ hỏi: “Trước kia ta có treo hạt châu Ma-ni trên đỉnh tháp, ngươi có biết không?”
Lúc ấy kẻ cắp sẽ thú thật. Tại sao biết được? Là vì nay hắn đã được đại vương quý trọng và đem tất cả tài sản, tin tưởng ủy thác cho hắn. Chắc chắn là hắn sẽ thú nhận tội lỗi với đại vương.
Vua Ba-tư-nặc theo lời vị quan, sắp đặt kế hoạch thi hành. Quả đúng như lời vị quan nói. Kẻ cắp đã thú thật với vua:
– Chính bề tôi này đã lấy cắp hạt châu và vì sợ nên chẳng dám ra mặt.
Vua lại hỏi:
– Trước kia ngươi say rượu tại cung điện của ta, các kỹ nữ có gạn hỏi, cho rằng ngươi đang ở tại cõi trời, tại sao ngươi không nhận tội?
Kẻ cắp đáp:
– Ngày xưa, tôi có vào tăng phòng và được nghe các Tỳ-kheo giảng về một bài kệ bốn câu ý nói: “Cái chớp mắt của chư Thiên thì rất chậm, còn chớp mắt của người đời thì nhanh lắm.” Lúc ấy tôi nhớ lại, nên biết rằng đó chẳng phải cõi trời, do đó tôi không thú tội.
Sau đó kẻ trộm đã trả lại hạt châu cho vua. Vua Ba-tư-nặc được trả lại hạt châu, rất đổi vui mừng và không hỏi tội vị đại thần trộm cắp.
Lúc ấy vị đại thần trộm cắp thoát chết, liền tâu vua:
– Xin đại vương tha tội và cho phép tôi xuất gia.
Vua hỏi:
– Ngày nay, ngươi rất được tôn trọng, giàu sang sung sướng. Vì lẽ gì lại muốn xuất gia?
Vị đại thần trộm cắp đáp:
– Tôi nhờ nghe Sa-môn giảng nói bài kệ bốn câu mà được thoát chết. Chỉ nhờ nghe kệ mà được thoát nạn huống chi được học rộng nghe nhiều, đọc tụng tu tập, y như pháp tu hành, chắc chắn phải được nhiều lợi ích. Vì thế nên tôi muốn xuất gia.
Vua nghe xong liền chấp nhận cho vị đại thần trộm cắp xuất gia.
Khi được xuất gia, người ấy siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có năm trăm người đi buôn định ra biển để tìm châu báu. Trong số những người đi buôn có một người đã cưới vợ trong dòng dõi giàu sang rồi cùng dẫn nhau xuống biển. Trong cuộc hành trình ấy, người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, nhân đó đứa trẻ được đặt tên là Hải Sinh.
Vì bé trai có phước đức lớn, nên khiến các khách buôn tìm được nhiều châu báu và trở về an ổn.
Hải Sinh dần dần khôn lớn, mọi người lại khuyến kích Hải Sinh ra biển lấy châu báu, khi trở về họ gặp một trận bão dữ dội, ghe thuyền bị gió thổi trôi tấp vào cõi nước quỉ La-sát. Vì mong sóng to gió dữ lắng dịu, những người đi buôn cùng quỳ lạy chư Thiên, thiện thần cứu nạn, nhưng không có sự linh ứng nào trong việc cứu họ khỏi tai ách.
Lúc ấy trong số những người đi buôn, có một Ưu-bà-tắc nói với mọi người:
– Có Đức Phật Thế Tôn thường rủ lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm luôn quán sát xem chúng sinh nào bị khổ nạn, thì Ngài liền đến cứu hộ. Vậy các anh em hãy cùng nhau xưng niệm danh hiệu Phật, có thể Ngài sẽ đến đây cứu mạng chúng ta.
Những người đi buôn liền cùng nhau xưng niệm:
– Nam-mô Phật-đà.
Bấy giờ Đức Phật từ xa thấy những người đi buôn gặp nạn, Ngài liền phóng ánh sáng chiếu vào trận cuồng phong, cuồng phong liền tan biến.
Mọi người thoát nạn, họ cùng nói với nhau:
– Hôm nay, chúng ta nhờ uy quang của Đức Phật mà thoát nạn, được bình yên trở về, vậy chúng ta hãy xây dựng chùa tháp, thỉnh Đức Phật và chúng Tăng về an trụ, sắm sửa các thức ăn ngon, cung cấp các vật dụng cần thiết không để thiếu thốn.
Nghe rồi mọi người đều bằng lòng. Bấy giờ, tất cả đều trở về an ổn. Theo lời ước nguyện trước kia, họ xây dựng chùa tháp, thỉnh Đức Phật và chúng Tăng, sắm sửa thức ăn ngon cúng dường. Cúng dường xong, họ lui lại ngồi sang một bên nghe Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, mọi người đều có được dấu hiệu chứng đạo, ở trước Phật xin được xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay! các Tỳ-kheo!
Râu tóc trên đầu những người đi buôn tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành các Sa-môn. Họ siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la- hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay năm trăm vị Tỳ-kheo là những người đi buôn này đời trước gây ra nghiệp ác gì mà nay gặp các thứ ách nạn như thế? Và nhờ uy quang của Đức Phật mà được thoát nạn, lại gặp Đức Phật Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Chẳng những đời nay Ta cứu họ thoát khỏi ách nạn mà thuở xưa Ta cũng đã từng cứu họ thoát khỏi các ách nạn.
Các Tỳ-kheo lại bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc thuở xưa như thế nào. Cúi mong Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp tại nước Ba-la- nại có một vị Tiên có năm thứ thần thông đang trú ngụ bên một bờ sông.
Lúc ấy có năm trăm người đi buôn muốn ra biển để tìm châu báu. Khi đi về phía bờ sông, những người đi buôn thấy vị Tiên, họ cùng nhau lại chào hỏi và khuyên mời vị Tiên cùng ra biển với họ.
Vị Tiên đáp:
– Các ông cứ đi một mình, nếu bị tai nạn sợ hãi, chỉ cần xưng danh hiệu ta, ta sẽ đến cứu hộ cho.
Những người đi buôn nghe vị Tiên nói, họ bèn ra biển và tìm được nhiều châu báu. Đến khi trở về, những người đi buôn bị trận cuồng phong của quỉ La-sát. Lúc ấy họ cùng nhau dốc lòng xưng niệm danh hiệu vị Tiên. Vị Tiên liền đến cứu họ thoát khỏi ách nạn.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Tiên lúc bấy giờ nay chính là Ta, còn những người đi buôn kia, nay là năm trăm vị Tỳ-kheo. Lúc đó Ta chưa đoạn hết phiền não, mà còn cứu họ thoát được ách nạn, huống chi ngày nay Ta đã vượt ngoài ba cõi mà không thể hóa độ họ được sao.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Áo
Tu-Mạn Hoa
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô số tài sản, vật báu, không thể tính kể được. Ông chọn con gái trong một gia đình cao sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Người vợ ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, khi sinh ra đã mặc áo Tu-man-hoa. Cha mẹ mời các thầy xem tướng về xem tướng con.
Các thầy tướng xem xong hỏi cha mẹ đứa bé:
– Lúc đứa trẻ sinh ra có điềm lành gì? Cha mẹ đáp:
– Lúc sinh ra đã mặc áo Tu-man hoa che thân. Do đó đứa bé được đặt tên là Tu-man-na. Tu- man-na bản tánh hiền hòa, từ tâm và hiếu thuận. Tu-man dần dần khôn lớn, chiếc áo cũng rộng theo. Vì thương con nên cha mẹ giao con cho Tỳ- kheo A-na-luật để làm Sa-di. A-na-luật dạy Sa-di ngồi thiền, không bao lâu Sa-di Tu-mạn đã chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Một hôm, ngài A-na-luật bảo Sa-di:
– Chú hãy ra sông Bạt-đề múc nước sạch đem về đây.
Tu-mạn-na vâng lời thầy, ra sông múc đầy một bình nước, quăng lên trên hư không và bình nước cứ bay theo Sa-di về nhà.
Các Tỳ-kheo thấy vị Sa-môn ấy, khen là chưa từng có và bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Sa-di Tu-mạn-na đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay được sinh trong nhà giàu có, lúc sinh ra đã mặc áo Tu-mạn hoa, xuất gia không bao lâu đã chứng quả A-la- hán?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Đức Phật nhập Niết-bàn.
Lúc bấy giờ, có vị vua tên là Phạm-ma-đạt-đa thâu lấy xá-lợi Phật, rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn thứ báu để cúng dường xá-lợi.
Khi ấy, có một đứa trẻ thấy ngôi tháp sinh lòng vui mừng rồi phát tâm xuất gia, mãi cho đến tuổi già vẫn chưa đắc đạo. Do đó người này tự trách mình, bèn mua hoa Tu-mạn, dùng chỉ xâu lại rồi đem giăng lên khắp ngôi tháp để cúng dường, sau đó phát nguyện rồi ra về.
Nhờ công đức ấy, nên trong chín mươi mốt kiếp người ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, khi sinh ra đời thường mặc áo bằng Tu-man hoa và thọ hưởng sự vui sướng cõi trời, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên
Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản vật báu, nhiều không thể tính kể được. Ông chọn con gái trong một gia đình giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó vợ trưởng giả mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, ít có trên đời; trong lòng hai bàn tay có sinh ra đồng tiền vàng, hễ lấy đi thì đồng tiền khác lại hiện ra. Cứ lần lượt như vậy, tiền vàng không thể lấy hết.
Cha mẹ đứa bé mời các thầy tướng về xem tướng cho con, các thầy tướng xem xong hỏi:
– Lúc trẻ sinh ra có điềm lành gì? Cha mẹ đáp:
– Trong hai bàn tay có sinh ra đồng tiền vàng, hễ lấy đi thì đồng tiền vàng khác lại sinh ra. Nhân đó đứa trẻ được đặt tên là Bảo Thủ. Bảo Thủ dần dần khôn lớn, bản tính hiền hậu, từ tâm và hiếu thuận, lại thích việc bố thí. Có ai tới xin thì Bảo Thủ đưa tay ra, liền có đồng tiền vàng rồi bố thí cho họ.
Một hôm, Bảo Thủ cùng các bạn thân ra khỏi thành dạo chơi, dần dần đi đến tinh xá Kỳ hoàn. Bảo Thủ thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Bảo Thủ vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi chắp tay thỉnh Phật:
– Cúi xin Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng từ bi thương xót thọ nhận con cúng dường.
Lúc ấy A-nan đang đứng hầu Phật, nghe đứa trẻ nói, bèn hỏi:
– Nếu muốn cúng dường phải có tài bảo chứ?
Đứa trẻ nghe A-nan nói, liền đưa hai tay ra và tiền vàng rơi xuống như mưa, trong phút chốc thì tiền vàng chất thành đống.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy đem số tiền vàng báu vật này để mua sắm sửa các món ăn ngon rồi thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường.
A-nan vâng lời Phật, đi sắm sửa thức ăn uống. Thọ trai xong, Đức Phật nói pháp cho Bảo Thủ nghe. Tâm ý được mở tỏ, Bảo Thủ chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Bảo Thủ liền trở về thưa với cha mẹ xin được xuất gia. Vì thương con nên cha mẹ Bảo Thủ không ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Phật ngự để xin cho Bảo Thủ xuất gia.
Khi ấy, Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Bảo Thủ tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Tôn giả A-nan thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Bảo Thủ đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay được sinh trong nhà của đại trưởng giả thuộc dòng họ giàu có, tự nhiên hai tay có đồng tiền vàng, hễ lấy đi thì đồng tiền khác lại sinh ra như vậy?
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Sau khi giáo hóa chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn.
Lúc ấy có vị vua tên là Ca-sí thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn thứ báu để cúng dường.
Sau đó, có một vị trưởng giả, khi thấy bảo tháp này, sinh tâm tùy hỷ cúng một đồng tiền vàng vào trong tháp, phát nguyện rồi ra về. Nhờ công đức ấy mà trưởng giả không bị đọa vào đường ác, được sinh lên cõi trời, cõi người, trong lòng bàn tay thường sinh ra đồng tiền vàng. Cho đến ngày nay, gặp Ta trong lòng bàn tay vẫn có đồng tiền vàng, hễ lấy đi thì đồng tiền khác được sinh ra, được xuất gia và đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ phu nhân của vua Ba-tư-nặc đang mang thai, sau mười tháng bà hạ sinh thái tử, tướng mạo khôi ngô khác thường, ít có trên đời, thân mặc ca-sa và mới sinh ra đã biết nói.
Vừa ra đời, thái tử bỗng nhiên hỏi vua cha:
– Đức Như Lai Thế Tôn còn tại thế không? Các đệ tử lớn của Đức Phật như: Đại đức Ca-diếp, Xá- lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… có còn tại thế không?
Vua cha đáp:
– Tất cả các vị ấy đều còn tại thế. Thái tử thưa với vua cha:
– Cúi xin vua cha hãy thiết trai thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường giúp con.
Vua liền ra lệnh thiết trai rồi thỉnh Đức Phật và chúng Tăng vào cung để cúng dường. Khi vào cung, Đức Phật thấy thái tử, Ngài bèn hỏi:
– Thái tử có nhớ dưới thời Phật Ca-diếp, thái tử là một vị Tỳ-kheo thông suốt ba Tạng kinh điển không?
Thái tử thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, con nhớ, đúng như vậy.
– Ở trong bào thai có yên ổn không?
– Nhờ ân Phật, nên con được toàn tánh mạng, sống qua ngày tháng.
Vua và phu nhân thấy thái tử và Đức Phật Thế Tôn vấn đáp với nhau, nên lòng vui mừng khôn xiết. Nhân đó, vua bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước thái tử đã làm được phước lành gì mà nay sinh ra đã biết nói, lại dám cùng Phật vấn đáp? Cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ cho vua nghe:
Xưa làm các nghiệp lành Trăm kiếp cũng không mất Nhờ nhân duyên nghiệp lành Nay được quả báo ấy.
Sau khi nghe Đức Phật Thế Tôn nói kệ, vua Ba- tư-nặc và Phu nhân bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc thuở xưa như thế nào, cúi xin Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:
– Đại vương hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Ngài dẫn đầu các Tỳ- kheo đi giáo hóa chúng sinh.
Khi Đức Phật và đại chúng đến nước của vua Ca-sí, thái tử của vua tên là Thiện Sinh thấy Phật, sinh tâm rất kính tin, liền trở về thưa với vua cha xin được xuất gia.
Vua không chấp nhận và nói:
– Ta chỉ có một thái tử, sẽ kế vị ngôi vua để cai trị dân chúng. Ta không bao giờ cho phép con xuất gia nhập đạo.
Thái tử nghe vua cha nói, trong lòng buồn bã, ngất xỉu xuống đất. Thái tử bỏ ăn một ngày, hai ngày, cho đến sáu ngày cũng không ăn uống gì cả.
Thấy vậy, các quan liền tâu vua:
– Thái tử không ăn đã sáu ngày, e rằng không sống được, xin đại vương cho thái tử xuất gia, để cha con còn được thấy nhau.
Nghe các quan báo tin thái tử bỏ ăn, vua nghĩ không thể ngăn cản được, đành gọi thái tử dạy:
– Con hãy cam kết với ta rằng: Bây giờ nếu con đọc tụng ba tạng kinh điển được thông suốt thì ta sẽ cho con xuất gia, sau đó đến gặp ta.
Nghe vua cha phán, thái tử rất vui mừng. Sau đó được xuất gia, thái tử siêng năng tập tụng ba Tạng kinh điển. Sau khi đã thông suốt bèn trở lại gặp vua cha.
Lúc ấy vua hỏi thái tử nay là Tỳ-kheo:
– Trước kia ta đã ra điều kiện, rằng con phải đọc tụng ba Tạng kinh điển thông suốt sau đó mới đến gặp ta. Vậy nay con đã thông suốt chưa?
Vị Tỳ-kheo đáp:
– Thưa nay con đã thông suốt rồi. Vua rất vui mừng nói với Tỳ-kheo:
– Giờ đây, tất cả tài vật trong kho tàng của ta con cứ tùy ý dùng, ta không hề tiếc rẻ.
Nghe vua phán như vậy, thái tử Tỳ-kheo liền lấy một số lượng lớn tài vật để sắm sửa nhiều thức ăn ngon rồi thỉnh Phật Ca-diếp và hai vạn vị Tỳ- kheo để cúng dường; sau đó mỗi vị Tỳ-kheo được cúng ba y và sáu vật.
Nhờ công đức ấy, nên vị Tỳ-kheo này không bị đọa vào đường ác; được sinh lên cõi trời, cõi người, lúc sinh ra thân thường mặc ca-sa. Cho đến ngày nay gặp Ta, vị ấy khi sinh ra vẫn còn áo ca-sa và được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Trong thành, có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, không thể tính kể được. Ông chọn con gái trong một gia đình giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, trên đời ít có, lúc sinh ra thì trời mưa lớn. Cha mẹ rất vui mừng, mời các thầy tướng về xem tướng cho con.
Các thầy xem tướng xem xong bảo:
– Đây là đứa bé có phước đức, lúc sinh ra trời có mưa lớn, cả nước đều nghe biết.
Do đó đứa bé được đặt tên là Da-xá-mật-đa. Da-xá không bú sữa mẹ, vì ở kẽ răng tự nhiên tiết ra nước tám công đức đủ dùng.
Da-xá dần dần khôn lớn, một hôm cùng các người bạn thân đi dạo chơi. Khi đến tinh xá Kỳ hoàn, Da-xá thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, tâm sinh vui mừng, bước tới dưới chân Phật xin được xuất gia.
Đức Phật liền chấp nhận và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Da-xá tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Bấy giờ các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Tỳ-kheo Da-xá đã làm được phước lành gì, mà nay khi sinh ra trời đã tuôn mưa lành, không bú sữa mẹ, trong kẽ răng tự nhiên tiết ra nước tám công đức đủ dùng; lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong giáo pháp của Ngài có một vị trưởng giả, tuổi đã già mới xuất gia học đạo, nhưng tánh tình biếng nhác, buông lung; không siêng năng tu tập, lại còn bị bệnh nặng. Thầy thuốc xem bệnh, bảo rằng phải dùng bơ thì bệnh mới lành. Tỳ-kheo nghe lời thầy thuốc dùng bơ, trong đêm ấy thuốc bơ làm phát nhiệt và nổi cơn khát. Tỳ-kheo đi tìm nước, nhưng các bình đựng nước toàn là bình không, tìm đến các suối hồ thì suối hồ cũng khô cạn, chạy ra sông thì sông cũng ròng đến tận đáy… tìm khắp nơi như vậy, mà không chỗ nào có nước.
Lúc ấy Tỳ-kheo rất ăn năn tự trách lỗi lầm của mình. Tại bờ sông ấy Tỳ-kheo cởi y máng trên cây rồi bỏ về. Sáng hôm sau, Tỳ-kheo bạch chuyện này lên thầy.
Thầy nghe rồi bảo vị ấy:
– Ông gặp cảnh khổ này, tình trạng giống như ngạ quỉ, bây giờ ông hãy lấy nước trong bình của tôi đem đi châm hết các bình trong các Tăng phòng.
Tỳ-kheo vâng lời thầy lấy bình đi châm nước, thì nước cũng không còn. Tâm Tỳ-kheo lúc ấy rất lo sợ, cho rằng khi chết chắc phải đọa vào loài ngạ quỉ.
Tỳ-kheo liền đến nơi Đức Phật Ca-diếp đang ngự, thuật lại việc trên cho Phật nghe, rồi bạch:
– Con bị ách nạn này thật đáng sợ, e rằng con phải đọa vào loài ngạ quỉ. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót dạy bảo.
Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
– Nay ông hãy làm công việc châm nước uống vào bình trong các Tăng phòng, thì sẽ thoát được thân ngạ quỉ.
Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, trong lòng vui mừng, thường xuyên cung cấp nước uống cho các Tăng phòng. Tỳ-kheo làm công việc ấy trải qua hai vạn năm thì qua đời, được sinh ở đâu cũng thường có nước thanh tịnh tám công đức từ nơi kẽ răng tiết ra đủ dùng, không bú sữa mẹ, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Tỳ-kheo già nua lúc bấy giờ, nay chính là Da-xá-mật-đa vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Lúc bấy giờ, Đức Phật đang an cư ba tháng tại điện Bảo thạch, dưới cội cây Ba-lợi-chất-đa-la, trên tầng trời Đao-lợi để nói pháp hóa độ mẹ là Hoàng hậu Ma-da. Thuyết pháp xong, Thế Tôn sắp trở lại cõi Diêm-phù-đề.
Lúc ấy Thích Đề-hoàn Nhân biết Đức Phật sắp trở lại nhân gian, bèn sai các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-la-na, Ma- hầu-la-già, Cưu-bàn-trà… tạo ra ba thềm thang báu để Phật từ cõi trời đi xuống. Hai bên thềm thang báu có vô số trăm ngàn vạn ức Thiên, Long, Dạ-xoa, Nhân, Phi nhân… đứng hầu.
Thấy Đức Phật Như Lai từ trên trời đi xuống, ai cũng vui mừng và khao khát được nghe Phật nói pháp.
Lúc ấy Đức Thế Tôn quán sát thấy căn lành của đại chúng đã thuần thục, Ngài liền nói pháp cho họ nghe. Tâm ý được mở tỏ, có chứng đắc quả Tu-đà- hoàn, có vị chứng đắc quả Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắc quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Bấy giờ, trong đại chúng bỗng nhiên có một Tỳ-kheo Hóa sinh thưa với đại chúng:
– Hôm nay xin các vị nhận lời mời cúng dường thức ăn của tôi và trăm món cần dùng, tôi đều cung cấp.
Khi nghe Tỳ-kheo Hóa sinh nói vậy, các đại chúng đều tư niệm tưởng, quả nhiên đại chúng đều được sự ăn uống đầy đủ với các thức ăn uống ngon đựng trong các đồ đựng quý báu của cõi trời.
Tôn giả A-nan thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Hóa sinh đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay làm cho đại chúng có đầy đủ thức uống ăn như vậy? Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ấy thế nào?
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay chín mươi mốt kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Trong chánh pháp của Ngài, có các Tỳ-kheo đang an cư kiết hạ ba tháng tại chốn rừng núi để ngồi thiền và hành đạo, phải đi khất thực nơi xa, rất mệt nhọc, phế bỏ việc hành đạo.
Lúc ấy trong đại chúng có một vị Tỳ-kheo bạch với chúng Tăng:
– Tôi vì các thầy sẽ khuyến hóa đàn-việt cung cấp vật thực cho chúng Tăng không để thiếu thốn. Vậy các thầy nên an tâm hành đạo đừng lo lắng điều gì.
Các Tỳ-kheo được nghe nói, ai nấy cũng đều dụng tâm tu hành trong ba tháng và tất cả đều chứng đắc đạo quả.
Nhờ công đức ấy, cho nên Tỳ-kheo này sinh ra bất cứ nơi nào cũng thường các thức uống ăn, hễ nghĩ là có ngay, cho đến ngày nay được gặp Ta, cũng hễ nghĩ là có ngay để cúng dường đại chúng, không để bị thiếu thốn.
Bấy giờ ngài A-nan lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà ngày nay Tỳ-kheo ấy được Hóa sinh?
Đức Phật bảo A-nan:
– Trong hiền kiếp này, dưới thời Phật Ca-diếp có một người đi buôn dẫn đầu đoàn người đi buôn qua xứ khác để buôn bán kiếm lời. Đang trên đường đi, thì người vợ của người dẫn đầu đoàn buôn vốn đã mang thai, bỗng nhiên chuyển dạ sắp sinh, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, muốn chết cũng không được. Bấy giờ, người dẫn đầu đoàn buôn sinh tâm nhàm chán việc này, sau đó từ giã vợ xuất gia tu học, phát thệ nguyện rộng lớn: “Nguyện hồi hướng công đức căn lành xuất gia này, khiến cho đời sau dù sinh bất cứ nơi đâu, Tôi đều không sinh ra từ bào thai mà được Hóa sinh.” Do đó, ngày nay Tỳ-kheo này được quả báo như vậy.
Đức Phật lại bảo A-nan:
– Thầy nên biết, người dẫn đầu đoàn người đi buôn lúc bấy giờ, nay chính là vị Tỳ-kheo hóa sinh vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Nghiêm
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới cội cây Ni- câu-đà, trong thành Ca-tỳ-la-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có nhiều tài sản của báu, nhiều không thể tính kể được, nhưng lại chẳng có một mụn con nào. Ông cầu khẩn Thần linh để mong được sinh con, nhờ lòng chân thành nên cảm ứng đến Thần linh.
Sau đó vợ trưởng giả có thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô khác thường, trên đời ít có. Trong nhà tự nhiên có dòng suối từ lòng đất vọt lên, trong suối có đầy châu báu; lại có cây trổ hoa, trên cành treo y phục bậc nhất cõi trời.
Trưởng giả thấy vậy, lòng vui mừng khôn xiết. Ông mời các thầy xem tướng về xem tướng cho con. Các thầy xem tướng xem xong hỏi cha mẹ đứa bé:
– Khi trẻ này sinh ra có điềm lành gì? Cha mẹ đứa bé đáp:
– Lúc con tôi sinh ra, tự nhiên trong nhà có dòng suối từ lòng đất vọt lên, trong suối có đầy châu báu, trên cây có treo áo của chư Tiên rất đẹp. Nhân đó đứa trẻ được đặt tên là Chúng Bảo Trang Nghiêm. Chúng Bảo dần dần khôn lớn, bản tánh hiền hậu, từ tâm hiếu thuận. Một hôm cùng các bạn thân ra khỏi thành dạo chơi, dần dần đến rừng cây Ni-câu-đà, thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời. Chúng Bảo vui mừng bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại, ngồi sang một bên, nghe Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, Chúng Bảo Trang Nghiêm chứng quả
Tu-đà-hoàn, bèn trở về xin cha mẹ xuất gia.
Vì thương con nên cha mẹ Chúng Bảo không ngăn cản, họ bèn dẫn con đến chỗ rừng Ni-câu-đà để cầu xin Phật cho Chúng Bảo xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc trên đầu Chúng Bảo Trang Nghiêm tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A- la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Chúng Bảo Trang Nghiêm đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay khi sinh ra tự nhiên có những điều lạ kỳ như vậy, lại xuất gia không bao lâu đã chứng đắc đạo quả?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-lưu-tôn -đà. Sau khi hóa độ chúng sinh viên mãn, Ngài nhập Niết- bàn.
Lúc ấy vua nước này tên là Phạm-ma-đạt-đa thâu lấy xá-lợi Phật, rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn thứ báu cao một do-tuần để cúng dường xá- lợi. Về sau, có một vị trưởng giả thấy ngôi tháp sinh tâm vui mừng, bèn treo các thứ châu báu, các thứ y phục trên cành cây có hoa và đặt một bình nước trước tháp phát nguyện cúng dường.
Nhờ công đức ấy, nên trong vô lượng kiếp trưởng giả không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; được sinh lên cõi trời, cõi người, khi sinh ra đã có suối nước và cây có hoa, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người đem cây có hoa để cúng dường ngôi tháp lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ- kheo Chúng Bảo Trang Nghiêm vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, ở phía Nam nước Xá-vệ, có một nước tên là Kim địa, vua nước ấy tên là Kế-tân cùng với phu nhân chung sống hạnh phúc. Về sau phu nhân thọ thai, đủ mười tháng, hạ sinh một vị thái tử, xương cốt rắn chắc, có sức mạnh hơn người.
Ngày thái tử ra đời cũng là ngày một vạn tám ngàn người con của các vị quan lớn ra đời và tất cả các công tử này cũng đều có sức mạnh hơn người.
Thái tử con vua Kế-tân dần dần khôn lớn, được lên nối ngôi, lấy hiệu là Kế-tân-ninh, lập tức phong cho một vạn tám ngàn vị công tử của các quan lớn kia làm đại thần, cùng nhau trông coi việc nước.
Một hôm, vua Kế-tân-ninh cùng các quan đi săn bắn, vua bỗng hỏi các quan:
– Hiện nay, trên thế gian này, có ai có sức mạnh như ta không?
Lúc ấy trong đoàn người theo hầu vua có một người đi buôn nghe vua hỏi liền tâu:
– Dưới miền Trung đô có một vị vua tên là Ba- tư-nặc, là người có sức mạnh phi thường hơn hẳn đại vương cả trăm ngàn muôn lần.
Vua Kế-tân-ninh nghe người đi buôn nói rất tức giận, liền sai sứ giả đến báo cho vua Ba-tư-nặc biết rằng trong bảy ngày nữa, vua Ba-tư-nặc phải dẫn đoàn người thị tùng đến nước ta để triều bái thăm hỏi. Nếu không, ta sẽ giết sạch năm họ của vua Ba- tư-nặc không để ai sống sót.
Lúc ấy vua Ba-tư-nặc nghe sứ giả nói, rất đỗi lo sợ, chưa biết làm cách nào để đối phó, liền đến chỗ Phật, bạch Phật:
– Vua Kế-tân-ninh đã ra lệnh cho con nội trong bảy ngày phải dẫn đoàn thị tùng đến nước ấy để triều bái thăm hỏi. Nếu không, vua ấy sẽ giết con. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay con phải làm như thế nào?
Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:
– Đại vương chớ lo, chỉ cần nói với sứ giả kia rằng đại vương chỉ là vị vua nhỏ còn có một vị vua lớn ở gần tinh xá Kỳ hoàn và bảo sứ giả hãy đến đó mà truyền lệnh.
Lúc ấy sứ giả liền đến Kỳ hoàn, thấy Đức Phật Thế Tôn lúc ấy là một vị Chuyển luân thánh vương. Đức Phật sai Đại Mục-kiền-liên coi nắm binh quyền, dẫn đầu các binh chúng tuần nhiễu xung quanh Kỳ hoàn. Ngài dùng thần lực khiến bốn phía đều có bảy lớp hào thành và các cây bằng bảy chất báu xếp thành hàng tương xứng. Đức Phật lại khiến trong các hào thành ấy có các hoa sen nhiều màu sắc. Ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trong thành. Vua ngự trên điện thật tôn nghiêm đáng sợ.
Sứ giả kia thấy vua, trong lòng run sợ, tự nghĩ: “Vua mình vô cớ chuốc lấy tai họa.” Nhưng bất đắc dĩ sứ giả phải bước đến dâng lên bức thư của vua mình.
Bấy giờ, vị vua do biến hóa ra này nhận thư rồi đạp dưới chân, bảo sứ giả:
– Ta là đại vương thống lãnh bốn cõi, nay ngươi về bên đó đem giáo sắc của ta trình lại cho vua ngươi biết rằng ngay khi được lệnh này, hãy mau tới đây mà hầu hạ, nếu vua ngươi đang nằm, nghe lệnh thì phải ngồi dậy; còn đang ngồi thì phải đứng lên; nếu đứng nghe lệnh ta thì phải lên đường. Ta kỳ hạn cho vua ngươi trong bảy ngày nữa, phải dẫn đoàn thị tùng đến đây triều bái, ra mắt ta. Nếu trái lệnh, tội ấy không tha.
Sứ giả trở về, tâu lại việc trên cho vua nghe, vua nghe rồi, tự trách lỗi mình và liền triệu tập ba vạn sáu ngàn vị quan, xa giá chỉnh tề định đến triều bái vị đại vương kia. Nhưng lòng vua vẫn còn hồ nghi, nên chưa chịu lên đường. Vua trước sai sứ giả đến tâu cùng đại vương:
– Chúng thần thống lãnh ba vạn sáu ngàn vị vua nhỏ, nhưng xin mang theo một nửa số thị tùng thôi, còn bao nhiêu sẽ đến sau.
Lúc ấy vị vua do biến hóa ra bảo sứ giả:
– Hãy mau đem nửa số người ấy đến đây.
Sứ giả trở về tâu lại vua Kế-tân-ninh về mệnh lệnh của vị đại vương. Kế-tân-ninh cho ở lại một nửa, còn đem theo một muôn tám ngàn các vua nhỏ đến triều bái vị đại vương. Đến nơi, triều bái xong, Kế-tân-ninh tự nghĩ: “Vị đại vương này tuy dung mạo vượt trội hơn ta, nhưng sức mạnh không bằng ta”.
Bấy giờ vị vua do biến hóa ra xa biết ý nghĩ của vua kia, liền bảo vị quan coi kho:
– Ngươi hãy đem cái cung lớn của Tổ tiên đến đây cho ta.
Vị vua biến hóa đưa cung cho vua kia bảo hãy kéo cung, nhưng vua kia không kéo nổi. Vị vua biến hóa bèn lấy cung lại, chỉ dùng ngón tay là đủ kéo được, rồi đưa lại cho vua kia bảo kéo một lần nữa. Vua ấy hoàn toàn không đủ sức làm động dây cung. Khi đó, vị vua biến hóa lại lấy cung, trương cung ra rồi dùng ngón tay gảy lên dây cung, dây cung phát ra âm thanh làm rung động thế giới Tam thiên đại thiên. Sau đó, vị vua biến hóa bắn một mũi tên, mũi tên này lại hóa thành năm mũi nữa, trên đầu mỗi mũi đều có hoa sen, trên mỗi hoa sen lại có Đức Hóa Phật, phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả thế giới Tam thiên đại thiên. Chúng sinh trong năm đường, đều nương nhờ ánh sáng ấy. Chư Thiên và loài người có vị chứng đắc đạo quả, người trong địa ngục thì mát mẻ, lửa nóng tắt ngấm; còn người trong loài ngạ quỉ đều được no đủ; còn loài súc sinh thì không còn bị chở nặng; các chúng sinh tham dục, giận tức, ngu si phiền não gặp được ánh sáng này thì đều được điều phục, kính tin Phật pháp.
Vua Kế-tân-ninh thấy sự biến hóa như vậy, tâm liền được điều phục bèn đảnh lễ vị vua biến hóa năm vóc sát đất. Bấy giờ, vị vua biến hóa biết tâm vua Kế-tân-ninh đã được điều phục, bèn trở lại thân Phật với bốn chúng xung quanh.
Đức Phật liền nói pháp cho vua Kế-tân-ninh và một vạn tám ngàn vị vua nhỏ nghe. Tâm ý được mở tỏ, các vị vua nhỏ đều được dấu vết của sự chứng đạo và chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, liền ở trước Phật xin được xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Râu tóc trên đầu các vị vua nhỏ tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Lúc ấy Tôn giả A-nan bước ra bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, các vị Tỳ-kheo như vua Kế-tân-ninh… này đời trước đã làm được phước lành gì mà đều sinh vào dòng họ giàu sang, có sức mạnh hơn người, được gặp Phật Thế Tôn và đều chứng đắc đạo quả như thế?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Ngài dẫn đầu các Tỳ-kheo đến nước Bảo điện, vua nước này hiệu là Bàn-đầu-mạt-đế nghe tin Phật đến, sinh tâm vui mừng, dẫn đầu các quan gồm một vạn tám ngàn người ra khỏi thành đón rước Đức Phật. Họ bước đến đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng chắp tay thỉnh:
– Cúi xin Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng từ bi thương xót thọ nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.
Đức Phật liền chấp nhận. Đức Phật và chúng Tăng thọ cúng dường xong, Ngài liền nói pháp cho vua và các quan nghe bằng nhiều cách. Vua rất vui mừng, bèn cùng các quan đồng phát nguyện: “Xin hồi hướng công đức căn lành cúng dường này nguyện cho chúng con đời sau, khi sinh ra ở nơi nào cũng cùng với đại vương đồng sinh trong một ngày.” Phát nguyện xong mọi người đều ra về.
Nhờ công đức ấy, nên trong vô lượng kiếp, vua và các quan không bị đọa vào đường ác, được sinh lên cõi trời, cõi người đều sinh ra trong một ngày và thọ hưởng sự vui sướng cõi trời, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ Đức Như Lai sau sáu năm khổ hạnh đã thành Chánh giác được mười hai năm. Ngài dẫn đầu một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ- kheo đến nước Ca-tỳ-la-vệ.
Đức Phật tự nghĩ: “Nay Ta về nước đó không giống lúc bình thường, vì họ phần nhiều là những người kiêu mạn, nên tất cả đều hiện thần biến, mới về đó được.”
Nghĩ xong Đức Phật liền bảo một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo:
– Nay Ta muốn về bổn quốc, các thầy hãy hiện thần biến, thần thông, làm cho những người trong hoàng tộc họ Thích thành kính tin phục quy y.
Bấy giờ Đức Thế Tôn phóng ánh sáng rực rỡ, cùng với các Tỳ-kheo đi trên hư không để về Ca- tỳ-la-vệ. Vua Tịnh Phạn nghe Đức Phật trở về, liền sai những người trong dòng họ Thích sửa sang đường sá, quét dọn sạch sẽ, dựng cờ treo phướn, treo các linh báu, rưới nước thơm dưới đất, rải các thứ hoa thơm, tấu trổi kỹ nhạc để đón rước Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi thỉnh Ngài vào cung, thọ vua cúng dường.
Lúc ấy vua Tịnh Phạn thấy các đệ tử Phật tuy có thần lực, nhưng hình dạng lại xấu xí không hợp với lòng người, nên thầm nói: “Ta nay nên chọn năm trăm người như Bạt-đề-thích… là những người có dung mạo khôi ngô để hầu Thế Tôn”. Nói xong vua liền chọn ra năm trăm người cùng đến chỗ Thế Tôn và sai Ưu-ba-ly cạo bỏ râu tóc cho Bạt-đề-thích.
Lúc ấy ông Ưu-ba-ly nước mắt tuôn đầm đìa, rơi trên người Bạt-đề-thích.
Bạt-đề-thích vương hỏi Ưu-ba-ly:
– Tại sao ông lại khóc như vậy? Ưu-bà-ly đáp:
– Vì vua hiện nay là người tôn quý trong những người dòng họ Thích, chẳng ngờ trong phút chốc đã cởi bỏ áo vương gia, để mặc áo nhà tu và sống đời kham khổ. Thấy vậy nên tôi rơi nước mắt.
Bạt-đề-thích nghe Ưu-ba-ly nói, trong lòng buồn bã nhưng tánh kiêu mạn vẫn còn. Sau khi đã cạo bỏ râu tóc, đắp y ôm bát, sắp thọ giới Cụ túc để vào Tăng đoàn, vị ấy phải theo thứ tự bước tới làm lễ đại chúng. Khi đến trước ngài Ưu-ba-ly, Bạt-đề-thích chỉ đứng mà không đảnh lễ. Thấy vậy, Đức Phật hỏi Bạt-đề-thích:
– Vì sao chỉ có Ưu-ba-ly là thầy không đảnh lễ? Bạt-đề-thích thưa:
– Vì ông ấy là hạng người thấp kém, còn con thuộc dòng họ cao quý. Do đó mà không đảnh lễ.
Đức Phật nói:
– Trong giáo pháp của Ta, không có thấp kém hay cao quý, giống như huyễn hóa, an nguy khó giữ.
Bạt-đề-hoàn vẫn nói:
– Ông ta là kẻ tôi tớ của con, nên con không thể đảnh lễ.
Đức Phật dạy:
– Tất cả những người tôi tớ, giàu nghèo sang hèn, ân ái chia ly… có gì là sai khác nhau?
Nghe Phật dạy xong, Bạt-đề-thích bước tới cúi lạy Ưu-ba-ly. Lúc ấy đại địa rung chuyển và trên hư không có tiếng khen:
– Chưa từng có! Bạt-đề-thích vương vì cầu đạo nên hạ mình quỳ lạy một người thấp kém. Ngọn cờ ngã mạn đã gãy đổ rồi.
Sau khi Bạt-đề-thích thọ giới Cụ túc, ông lui lại ngồi sang một bên để nghe Phật nói pháp. Tâm ý được mở tỏ, Bạt-đề-thích chứng quả A-la-hán.
Từ đó, Bạt-đề-thích ôm bát đi khất thực, vào gò mả, nghỉ dưới gốc cây, nhưng tâm ý lại thư thái, không còn lo sợ gì, Bạt-đề-thích nói:
– Ngày trước, khi còn ở cung vua, ta được những người có sức mạnh cầm khí trượng đứng hầu hai bên, thế mà lòng vẫn lo sợ nguy khốn. Còn nay, ta xuất gia nhập đạo, dù ở nơi gò mả mà không sợ sệt điều gì, thật là vui sướng không thể nói được. Lúc ấy nghe Bạt-đề-thích nói vậy, Tôn giả A- nan bước ra bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Bạt-đề-thích đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay được sinh trong nhà giàu sang, xuất gia không bao lâu đã chứng quả A-la-hán.
Đức Phật bảo A-nan:
– Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có một vị Bích-chi-phật. Trong lúc đang ôm bát đi khất thực, ngài gặp một người nghèo trong cơn đói khát đi trên đường. Chỉ còn chút bánh, người ấy định ăn nhưng khi thấy vị Bích-chi-phật có oai nghi khoan thai, ôm bát đi khất thực, người nghèo kia sinh tâm vui mừng bèn cúng dường bánh ấy cho vị Bích-chi-phật.
Vị Bích-chi-phật nhận bánh rồi liền bay lên hư không hiện mười tám thứ thần biến, xuất hiện ở phía Đông, ẩn mất ở phía Tây, xuất hiện ở phía Nam, ẩn mất ở phía Bắc, hoặc từ thân tuôn ra nước, lửa… Vị Bích-chi Phật lần lượt hiện mười tám thứ biến hóa như vậy.
Lúc bấy giờ người cúng dường bánh thấy sự biến hóa ấy, tâm rất kính tin, phát nguyện rồi mới đi.
Nhờ công đức ấy, cho nên trong vô lượng đời, người ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ thường sinh lên cõi trời, cõi người, được giàu sang sung sướng, thọ hưởng sự an vui cõi trời, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật dạy A-nan:
– Thầy nên biết, người cúng dường bánh lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Bạt-đề-thích vương. Khi Đức Phật kể truyện nhân duyên của Bạt- đề-thích làm Tỳ-kheo rồi, có vị chứng quả Tu-đà- hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả
A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự dưới rừng cây Thổ- la, thuộc nước Câu-tỳ-la.
Bấy giờ, Đức Phật khởi ý nghĩ: “Nay Ta nên đến hóa độ vương tử Hộ Quốc, giúp cho vương tử xuất gia”.
Nghĩ xong, Đức Phật liền dẫn đầu các Tỳ-kheo vào cung. Khi chân vừa bước đến cổng thành, thì trời đất rung chuyển sáu cách, hoa trời tuôn rải như mưa.
Lúc ấy Đức Phật phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trong thành, khiến cho người mù thấy được, người điếc nghe được, người câm nói được và người què đi được.
Vương tử thấy ánh sáng, khen là việc chưa từng có, liền đến chỗ Phật. Thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, oai nghi khoan thai, vương tử vui mừng, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên, Đức Phật liền giảng nói pháp Tứ đế cho vương tử nghe. Tâm ý được mở tỏ, Vương tử chứng quả Tu-đà-hoàn.
Sau khi chứng được Sơ quả, vương tử định trở về gặp vua cha, trong lòng khen ngợi công đức của Đức Phật: “Nếu Đức Thế Tôn ở thế gian, Ngài sẽ là vị Chuyển luân thánh vương, thống lãnh bốn cõi thiên hạ, bảy thức báu theo mình, đi đâu cũng được tự tại… mà Ngài còn xả bỏ tất cả, để xuất gia nhập đạo. Huống chi ta đây mà không thể theo Phật xuất gia hay sao?”
Nghĩ xong, vương tử liền đến thưa vua cha:
– Cúi xin phụ vương rủ lòng thương xót cho phép con được xuất gia theo Đức Phật.
Nghe thái tử xin xuất gia, vua Tu-đề không chấp nhận. Từ đó, thái tử sinh ra buồn bã và bỏ ăn một ngày, hai ngày, cho đến sáu ngày. Lúc ấy các quan thấy thái tử đã bỏ ăn sáu ngày, nên quỳ tâu với vua:
– Thái tử bỏ ăn đã sáu ngày nay, e rằng khó sống được, cúi xin đại vương cho thái tử xuất gia, để cha con còn được thấy nhau.
Sau khi nghe các quan nói, vua Tu-đề mới bằng lòng cho thái tử xuất gia. Lúc ấy thái tử liền đến chỗ Phật, cầu xin xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc vương tử tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo vương tử Hộ Quốc đời trước đã gieo trồng phước lành gì, mà nay được sinh ra trong cung vua, xuất gia chưa bao lâu đã được chứng quả như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các vị hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có vị vua tên là Tỳ-đề dấy binh giao chiến với vua nước láng giềng.
Lúc ấy vua láng giềng bị thua và dẫn binh chúng tháo chạy. Khi chạy đến chỗ đồng trống, đang lúc gặp trời nắng hạn, không có đồng cỏ và nguồn nước, nên vua và quân lính bị đói khát gần chết. Đoàn người bèn đến chỗ một vị Bích-chi- phật, được vị Bích-chi-phật này chỉ cho chỗ có đồng cỏ và nguồn nước.
Qua được cơn đói khát, vua dẫn đoàn quân trở về nước mình, lòng vui mừng khôn tả. Lúc ấy vua nói với các quan:
– Chúng ta thoát được cơn đói khát là nhờ ân đức của vị Bích-chi-phật, vậy nay ta phải thiết lễ để cúng dường vị Bích-chi-Phật ấy. Nói xong, vua bèn cho người sắm sửa các thức ăn ngon, rồi thỉnh vị Bích-chi-phật vào cung để cúng dường. Sau khi thọ cúng, vị Bích-chi-phật bèn nhập Niết-bàn.
Lúc ấy vua Tu-đề cùng các quan, hậu phi và thể nữ đều than khóc thảm thiết. Vua thâu lấy xá-lợi Phật rồi xây dựng ngôi tháp bằng bốn thứ báu để cúng dường xá-lợi. Nhờ công đức này cho nên trong nhiều đời vị vua ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh ngạ quỉ; thường sinh lên cõi trời, cõi người, được giàu sang sung sướng, thọ hưởng sự an vui cõi trời, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vua Tu-đề lúc bấy giờ, nhờ công đức cúng dường vị Bích-chi-phật, nên nay gặp Ta, được xuất gia và chứng đắc đạo quả.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn mới thành Chánh giác, vì muốn hóa độ các vua rồng, nên Ngài đến dưới núi Tu-di, hiện thân Tỳ-kheo, ngồi thẳng tư duy.
Lúc ấy có một con chim cánh vàng đầu đàn lặn xuống biển bắt được một rồng con, rồi đem lên đảnh núi Tu-di định ăn thịt. Khi ấy rồng con chưa chết, từ xa thấy vị Tỳ-kheo đang ngồi thẳng tư duy, nên rồng dốc lòng cầu khẩn Tỳ-kheo từ bi cứu hộ cầu cứu xong thì liền chết.
Rồng con chết sinh vào trong một gia đình Bà- la-môn ở nước Xá-vệ, tên là Phụ-lê, có tướng mạo khôi ngô khác thường ít có trên đời, do đó đặt tên là Tu-bồ-đề.
Tu-bồ-đề dần dần khôn lớn, trí tuệ thông minh không ai sánh kịp, nhưng tánh tình lại hung ác, hễ thấy người hay súc sinh, liền nổi giận chửi mắng. Cha mẹ và người thân đều chán ghét, chẳng muốn thấy mặt.
Tu-bồ-đề phải bỏ nhà vào sống trong rừng. Thấy các chim thú và cỏ cây, gió thổi dao động…, Tu-bồ-đề cũng sinh tâm giận dữ, không bao giờ có tâm hoan hỷ.
Bấy giờ, có vị Thần núi bảo Tu-bồ-đề:
– Vì sao ngươi bỏ nhà vào sống trong núi rừng này? Nếu không biết tu thiện, thì không có lợi ích gì cả, như vậy vào đây cũng chỉ luống công khổ nhọc mà thôi! Hiện giờ, Đức Thế Tôn đang ở tại tinh xá Kỳ hoàn, Ngài có phước đức lớn, có khả năng giáo hóa chúng sinh bỏ ác làm lành, bây giờ nếu ngươi đến đó, chắc chắn sẽ dứt bỏ được tâm tức giận độc ác.
Nghe Thần núi nói, Tu-bồ-đề liền sinh tâm vui mừng, bèn hỏi Thần núi:
– Đức Thế Tôn hiện nay ở đâu?
Thần núi đáp:
– Ngươi cứ việc nhắm mắt lại, ta sẽ đưa ngươi đến chỗ Thế Tôn.
Tu-bồ-đề nghe lời thần núi nhắm mắt lại trong giây lát. Bất giác, Tu-bồ-đề tự nhiên có mặt tại Kỳ hoàn. Thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, Tu-bồ-đề rất vui mừng, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền dạy về tội ác của sự tức giận, là ngu si phiền não, đốt cháy căn lành, làm cho các điều ác thêm lớn, sau sẽ chịu quả báo đọa vào địa ngục, chịu nhiều đau khổ, không thể kể xiết; nếu thoát khỏi địa ngục, còn phải đọa vào loài rồng, loài rắn hay quỉ thần, La-sát… tâm thường độc ác, tàn hại lẫn nhau.
Tu-bồ-đề nghe Phật dạy, trong tâm lo sợ, khắp người nổi ốc, ăn năn tự trách, ở trước Phật sám hối tội lỗi. Sám hối xong, Tu-bồ-đề hoát nhiên đắc quả Tu-đà-hoàn, trong tâm vui mừng, cầu xin Phật xuất gia.
Đức Phật chấp nhận và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Tu-bồ-đề tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu đã chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Tu-bồ-đề đời trước đã làm được phước lành gì, nay tuy được làm người, nhưng tâm thường tức giận không hề dứt bỏ, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong chánh pháp của Ngài, có một vị Tỳ-kheo thường làm việc khuyến hóa. Trong một vạn năm, Tỳ-kheo này thường cùng các Tỳ-kheo khác đi khắp nơi để cúng dường chư Tăng.
Một thời gian sau, có những vị Tăng vì thiếu duyên nên không thể cùng đi, Tỳ-kheo này dùng những lời độc ác chửi mắng: “Mấy ông thật ngang bướng, chẳng khác nào loài rồng dữ.” Tỳ-kheo ấy mắng chửi xong rồi bỏ đi.
Vì nghiệp duyên ấy, nên trong năm trăm đời Tỳ-kheo này phải đọa làm rồng dữ, thân tâm chất chứa toàn những thứ độc ác, hay quấy nhiễu chúng sinh; nay tuy được thân người, nhưng tập quán xưa chẳng dứt bỏ, nên thường hay sinh sân hận.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Tỳ-kheo khuyến hóa chúng sinh, nhưng dùng lời độc ác chửi mắng lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Tu-bồ-đề. Nhờ công đức cúng dường chúng Tăng lúc đó, nên nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Sáu Mươi Năm
Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, trong nước có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu, nhiều không thể tính kể được. Ông chọn con gái trong một gia đình giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, người vợ mang thai, đủ mười tháng, nàng muốn sinh nhưng đứa bé không chịu ra; rồi lại tiếp tục mang thai, đủ mười tháng thì sinh được một đứa bé. Cái bào thai trước vẫn nằm ở hông bên phải. Như vậy, người vợ lần lượt mang thai chín lần; cứ đủ mười tháng đều sinh được con, chỉ có đứa con đầu tiên là còn nằm trong thai, không chịu ra.
Người mẹ rất khổ sở, phát bệnh. Bà dùng các thứ thuốc để tự điều trị nhưng không bớt bệnh, bà bảo với người trong nhà:
– Trong bụng ta có đứa con, nó vẫn còn sống không chết, nếu ta chết hãy mổ bụng ta để lấy đứa con ấy mà nuôi dưỡng.
Căn bệnh người mẹ không hề thuyên giảm, khi bà qua đời, người thân đem thi hài ra nơi gò mả, rồi mời thầy thuốc nổi tiếng Kỳ-bà mổ bụng ra xem, quả thấy một đứa bé, tướng mạo già nua, tóc trên đầu bạc trắng, đứng dậy lom khom đi lại, nhìn xung quanh và nói với người thân:
– Các ngươi nên biết, do đời trước ta nói lời ác để nhục mạ chúng Tăng, cho nên phải ở lâu trong thai đến sáu mươi năm, chịu nhiều khổ não không thể nói được.
Những người thân nghe đứa bé nói vậy liền kêu gào khóc lóc, buồn bã không thể nói được.
Bấy giờ Đức Thế Tôn từ xa biết đứa bé này căn lành đã thuần thục, nên Ngài dẫn đầu các Tỳ-kheo đến chỗ đứa bé.
Đức Phật hỏi đứa bé:
– Ngươi có phải là vị Tỳ-kheo Trưởng lão không?
Đứa bé đáp:
– Bạch Đức Thế Tôn, con thật là vị Tỳ-kheo Trưởng lão.
Phật hỏi đứa bé hai ba lượt như vậy và đứa bé cũng đều trả lời:
– Con thật là vị Tỳ-kheo Trưởng lão.
Lúc ấy đại chúng thấy đứa bé đối đáp với Đức Phật, ai cũng thắc mắc nên bước ra bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đứa bé già nua này đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay phải ở trong bào thai lâu năm đến nỗi tóc bạc trắng, đi đứng lom khom, lại đối đáp với Đức Thế Tôn như thế?
Đức Phật bảo đại chúng:
– Các vị hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.
Có các Tỳ-kheo kiết hạ an cư, chúng Tăng hòa hợp, sai một vị Tỳ-kheo lớn tuổi làm Tăng Duy na. Trong chúng cùng nhau lập ra quy định là những người đắc đạo trong mùa an cư mới được phép Tự tứ, nếu ai chưa đắc đạo thì không được Tự tứ.
Lúc bấy giờ, chỉ có một mình vị Duy na này không đắc đạo, nên chúng Tăng không cho ông Bố-tát tự tứ. Vị Duy na rất buồn bã, nói như vầy:
– Một mình ta vì các ông coi sóc việc chúng, để các ông an ổn tu hành, nay lại không cho ta làm pháp Yết-ma tự tứ, Bố-tát.
Nói xong ông đùng đùng nổi giận chửi mắng chúng Tăng, rồi lôi các Tỳ-kheo vào trong nhà nhốt kín lại, còn nói: “Để cho mấy ông ở luôn trong tối, khỏi thấy ánh sáng như hiện bây giờ ta đang ở trong nhà tối vậy.” Nói dứt lời ông liền tự sát. Khi chết đi, ông liền bị đọa vào địa ngục, chịu khổ não dữ dội, mãi cho đến ngày nay mới được thoát khỏi nhưng còn phải ở lâu trong bào thai để chịu khổ như vậy.
Đại chúng nghe Phật dạy, ai nấy đều tự giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, nhàm chán sinh tử, có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư- đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có rất nhiều tài sản, vật báu, nhiều không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, người vợ ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, nhưng không có tay, vừa sinh ra đã nói được và nói như vầy:
– Nay đôi tay của ta thật là khó có.
Đứa bé tỏ ra rất tiếc rẻ. Cha mẹ lấy làm lạ, bèn mời các thầy xem tướng về xem tướng cho con. Các thầy tướng xem xong hỏi cha mẹ đứa trẻ:
– Khi trẻ sinh ra có điềm lành gì chăng? Cha mẹ đáp:
– Lúc mới sinh ra nó có nói như vầy: “Nay đôi tay của ta thật là khó có.”
Do đó mà đặt tên cho đứa bé là Ngột Thủ. Ngột Thủ dần dần khôn lớn, tính tình hiền hậu, thông minh trí tuệ. Một hôm, Ngột Thủ cùng các bạn thân đi dạo chơi, lần lượt đến tinh xá Kỳ hoàn. Thấy Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, Ngột Thủ rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên. Đức Phật liền nói pháp bằng nhiều cách cho Ngột Thủ nghe, tâm ý được mở tỏ, Ngột Thủ chứng đắc quả Tu-đà- hoàn, liền trở về xin cha mẹ đi xuất gia. Vì thương con nên cha mẹ không ngăn cản, bèn dẫn con đến chỗ Phật xin cho Ngột Thủ xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Ngột Thủ tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát, được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Ngột Thủ này đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay vừa sinh ra đã biết nói, nhưng không có tay, lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ.
Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Có hai thầy Tỳ-kheo, một vị đã chứng quả La-hán và vị kia còn là phàm phu, là vị Pháp sư nói pháp. Dân chúng đua nhau thỉnh vị Pháp sư nói pháp này đi thọ sự cúng dường của các nhà đàn-việt. Một hôm, vị Pháp sư phàm phu đi vắng, dân chúng bèn thỉnh vị La-hán. Khi vị Pháp sư phàm phu trở về thấy vậy, liền tức giận chửi mắng: “Tôi thường rửa bát và dâng nước cho ông uống, nay ông lại đi với người khác, từ nay về sau nếu tôi còn làm việc cho ông nữa thì sẽ bị cụt tay.”
Sau đó, hai người chia tay không còn ở chung với nhau nữa. Do nghiệp duyên ấy, mà trong năm trăm đời vị Tỳ-kheo này phải chịu quả báo không có tay, cho nên Ngột Thủ mới nói: “Nay đôi tay của ta thật là khó có.”
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, vị Tỳ-kheo Pháp sư đã thề thốt lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Ngột Thủ. Nhưng nhờ khi đó đã rửa bát và dâng nước uống cho bậc Thánh, nên nay gặp được Ta, xuất gia đắc đạo.
Khi Phật nói về truyện nhân duyên của Tỳ- kheo Ngột Thủ, các Tỳ-kheo ai nấy cũng tự giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý, nhàm chán sinh tử; có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng đắc quả
Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắc quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi- phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị Bà-la-môn, người vợ của vị Bà-la-môn này có thai, đủ mười tháng, bà sinh được một bé trai, diện mạo rất xấu xí, thân thể lại hôi hám dơ bẩn. Mỗi khi đứa bé này bú sữa, lập tức khiến sữa mẹ bị hư. Nếu nhờ người cho bú thì sữa cũng hư như vậy. Để cứu lấy tính mạng đứa trẻ, cha mẹ chỉ còn cách dùng sữa hay mật thoa lên ngón tay rồi cho con liếm. Do vậy đứa trẻ được đặt tên là Lê-quân-chi.
Lê-quân-chi dần dần khôn lớn, lại càng bạc phước hơn nữa, hễ ăn uống thì không bao giờ no. Một hôm, Lê-quân-chi thấy các Sa-môn có oai nghi khoan thai, tay ôm bình bát vào thành khất thực, được thức ăn đầy bát trở về. Lê-quân-chi thấy vậy rất vui mừng, nghĩ rằng: “Bây giờ ta phải đến chỗ Thế Tôn để xin làm Sa-môn, có thể sẽ được ăn uống no nê”.
Sau khi nghĩ vậy, Lê-quân-chi liền đến tinh xá Kỳ hoàn xin Phật xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Lê-quân-chi tự rơi rụng xuống, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán, nhưng khi đi khất thực, cũng không được gì, nên thầy ăn năn tự trách.
Có lần Lê-quân-chi vào tháp, thấy trong tháp có chút ít bụi dơ, ông liền rưới nước quét dọn sạch sẽ. Đến khi đi khất thực, Lê-quân-chi được nhiều thức ăn,
Lê-quân-chi rất vui mừng thưa với chúng Tăng:
– Từ nay về sau xin chúng Tăng cho phép tôi được quét dọn chùa tháp của chúng ta. Bởi vì việc làm ấy, mà đi khất thực tôi được no đủ.
Chúng Tăng liền chấp nhận, sau đó thường nhờ Lê-quân-chi quét dọn. Một hôm, vì vô minh che lấp nên Lê-quân-chi ngủ mê man không hay biết gì, do đó không kịp lau quét.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất dẫn đầu năm trăm vị đệ tử, từ xứ khác về để hầu thăm Thế Tôn, thấy trong tháp Phật có chút ít bụi bặm liền dọn sạch sẽ. Khi Lê-quân-chi thức dậy, thấy Xá-lợi-phất đã làm xong công việc của mình, nên rất hối hận, bèn thưa với ngài Xá-lợi-phất:
– Việc ngài quét dọn tháp sẽ làm cho tôi hôm nay phải nhịn đói.
Xá-lợi-phất nghe Lê-quân-chi nói vậy, liền bảo:
– Hôm nay, tôi sẽ đưa thầy vào thành thọ thỉnh, thầy sẽ được no đủ chớ lo lắng.
Lê-quân-chi nghe nói, trong tâm thơi thới. Đến giờ đi thọ cúng, Lê-quân-chi cùng Xá-lợi-phất vào thành thọ thỉnh, gặp lúc vợ chồng nhà đàn-việt đang có chuyện tranh cãi với nhau, nên rốt cuộc Lê-quân-chi cũng chẳng được ăn uống gì, đành mang bụng đói trở về.
Ngày thứ hai Xá-lợi-phất lại bảo:
– Sáng nay, tôi sẽ dẫn thầy đến nhà trưởng giả thọ thỉnh, thầy sẽ được no đủ.
Đến giờ Xá-lợi-phất dẫn Lê-quân-chi cùng đi, đến nơi mọi người đều được ăn uống, chỉ một mình Lê-quân-chi là không được ăn. Lê-quân-chi bèn lớn tiếng nói:
– Tôi chưa được thức ăn.
Lúc ấy người chủ không nghe và Lê-quân-chi lại nhịn đói trở về.
Tôn giả A-nan nghe việc này, trong lòng rất thương xót, nên ngày thứ ba Tôn giả nói cùng Lê- quân-chi:
– Sáng nay tôi theo Phật thọ thỉnh, tôi sẽ lấy thức ăn cho thầy, chắc chắn thầy sẽ được no đủ.
Tuy A-nan là người có khả năng ghi nhớ tám vạn bốn ngàn các môn pháp tạng của Như Lai, không hề sót mất điều gì, thế mà hôm nay hứa lấy thức ăn về cho Tỳ-kheo Lê-quân-chi thì A-nan lại bỗng nhiên không nhớ, chỉ mang bát không trở về. Ngày thứ tư A-nan lại lấy thức ăn về cho Lê- quân-chi, nhưng trên đường về gặp con chó hung hăng chạy ra cắn giựt làm đồ ăn đổ hết xuống đất, cũng đành mang bát không mà về, Lê-quân-chi phải nhịn đói nữa.
Ngày thứ năm, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng lấy thức ăn về cho Lê-quân-chi, giữa đường bị chim cánh vàng đầu đàn trông thấy, nó dùng miệng cắp chiếc bình bát ra bỏ giữa biển cả, Lê- quân-chi lại không được ăn.
Vào ngày thứ sáu, ngài Xá-lợi-phất lại lấy thức ăn về cho Lê-quân-chi. Khi về đến cửa phòng Lê- quân-chi, cửa tự nhiên đóng lại. Ngài Xá-lợi-phất phải dùng thần lực để vào, từ dưới đất nhảy vọt lên đứng trước Lê-quân-chi, thì cái bát bị rơi đến tận mé kim cương. Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất lại dùng thần thông đưa tay để lấy bát, thì miệng Lê-quân- chi lại bị khóa chặt, cuối cùng cũng không được ăn. Khi giờ ăn đã qua, thì miệng Lê-quân-chi lại được mở ra.
Qua ngày thứ bảy, Lê-quân-chi cũng chẳng có gì để ăn, nên sinh lòng hổ thẹn, ở trước bốn chúng đành phải ăn cát uống nước, rồi nhập Niết-bàn.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, lấy làm lạ không hiểu tại sao, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Lê-quân-chi đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay sinh ra đã bị đói khát, mới đầu lại chịu sự thiếu thốn? Lại nhờ duyên gì, mà được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Đế Tràng. Ngài dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh.
Lúc ấy có vị trưởng giả tên là Cù-di, thấy Phật và chúng Tăng, tâm ông rất kính tin và hằng ngày thỉnh Phật và chúng Tăng về nhà để cúng dường. Về sau trưởng giả này qua đời, người vợ vẫn giữ lệ cúng dường như xưa. Nhưng người con lại sinh tâm tiếc rẻ, ngăn cản không cho mẹ bố thí, lại còn giới hạn phần ăn cho mẹ.
Tuy vậy người mẹ vẫn giảm bớt phần ăn của mình để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Biết việc ấy, người con rất tức giận và bắt mẹ mình nhốt trong căn nhà trống, khóa cửa rồi bỏ đi. Đến ngày thứ bảy, người mẹ bị đói khát khốn khổ, bà phải xin cơm con để ăn.
Người con đáp: “Sao mẹ không ăn cát uống nước để sống, mà bây giờ mẹ còn xin cơm con để ăn.” Người con nói vậy rồi bỏ đi. Cuối cùng người mẹ không được ăn, nên qua đời.
Về sau, khi người con chết đi liền đọa vào địa ngục A-tỳ, chịu khổ trong địa ngục A-tỳ, rồi lại được sinh lên cõi người, phải chịu sự đói khát khốn khổ như vậy.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, kẻ bỏ đói người mẹ lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Lê-quân-chi. Lại nhờ thuở xưa có cúng dường Phật, nên nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, có vô lượng tài sản, vật báu không thể tính kể được. Ông chọn con gái ngoan hiền để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, vợ trưởng già ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, mới sinh ra, đứa bé đã tự nhớ đời trước của mình và nói: “Sinh tử rất khổ đau.” Do đó cha mẹ đặt tên con là Sinh Tử Khổ.
Sinh Tử Khổ dần dần khôn lớn, hễ gặp người nào cũng nói:
– Sinh tử rất khổ đau.
Tuy nhiên đối với Cha mẹ, Sư tăng hay những vị lớn tuổi có đức độ thì Sinh Tử Khổ lại rất từ tâm hiếu thuận, nói năng tươi cười, không bao giờ nói lời thô lỗ độc ác.
Một hôm, Sinh Tử Khổ cùng các bạn thân ra khỏi thành để dạo chơi, dần dần đến tinh xá Kỳ hoàn. Thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời…, Sinh Tử Khổ rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại, ngồi sang một bên.
Lúc ấy Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho Sinh Tử Khổ nghe. Tâm ý được mở tỏ, Sinh Tử Khổ chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, liền trở về xin cha mẹ được xuất gia nhập đạo. Vì thương con nên cha mẹ không ngăn cản, liền dẫn con đến chỗ Phật, xin Phật cho xuất gia.
Đức Phật liền gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Sinh Tử Khổ tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, không bao lâu đã chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Sinh Tử Khổ đời trước đã làm được phước lành gì, mà nay mới sinh ra đã biết nói, nhớ được việc đời trước của mình, lại gặp Thế Tôn được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ.
Trong hiền kiếp này, lúc con người sống đến hai vạn tuổi, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong chánh pháp của Ngài, có một Sa-di hầu hạ, phụng thờ Hòa thượng. Bấy giờ trong thành có mở lễ hội lớn. Sa-di bạch với Hòa thượng:
– Hôm nay là ngày lễ hội, chúng ta nên khất thực sớm, chắc chắn sẽ được nhiều thức ăn.
Hòa thượng đáp:
– Thời gian còn sớm, chú hãy ngồi thiền.
Lần thứ hai, thứ ba Sa-di cũng bạch thầy như vậy, nhưng thầy vẫn không chịu. Sa-di sinh tâm tức giận, dùng lời ác mắng nhiếc thầy:
– Sao ông không chết đi cho rồi!
Nói xong, Sa-di liền bỏ vào thành khất thực.
Khi trở về, Sa-di sám hối với thầy.
Do nghiệp duyên ấy nên trong năm trăm đời, Sinh Tử Khổ phải đọa vào địa ngục, chịu nhiều đau khổ, cho đến ngày nay mới thoát khỏi. Do đó Sinh Tử Khổ mới nói:
– Sinh tử rất khổ đau.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, chú Sa-di mắng nhiếc thầy lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Sinh Tử Khổ vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả có vô lượng tài sản, vật báu, nhiều không thể tính kể được. Ông chọn con gái nhà giàu sang để cưới làm vợ, tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.
Sau đó, vợ vị trưởng giả ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, thân thể bị ghẻ lở, rất đau đớn, khổ sở. Đứa trẻ cứ mãi kêu khóc, không thôi. Khi đứa trẻ lớn lên, các mụt ghẻ vỡ ra máu mủ tuôn chảy, thường bị đau nhức, do đó đứa trẻ được đặt tên là Thân Hào (Rên la).
Cha mẹ thương xót, tuy cố công tìm các thứ thuốc để trị liệu cho con, nhưng bệnh không thể nào trị lành.
Thân Hào dần dần khôn lớn nghe mọi người nói:
– Ở tinh xá Kỳ hoàn có một thầy thuốc giỏi, có khả năng trị dứt mọi căn bệnh.
Nghe vậy, Thân Hào lập tức tìm đến tinh xá Kỳ hoàn. Thấy Phật Thế Tôn Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, Thân Hào rất vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói về cái khổ của năm ấm lẫy lừng cho Thân Hào nghe, là mụt ghẻ, là ung nhọt, như mũi tên độc bắn thẳng vào tim, làm tổn thương và gây nguy hại cho con người. Cả năm ấm này đều là nguồn gốc của tất cả mọi căn bệnh.
Thân Hào nghe Phật dạy trong lòng ăn năn tự trách, rồi sám hối tội lỗi với Đức Thế Tôn. Khi ấy bệnh ghẻ liền lành, tâm chàng rất vui mừng và xin Phật xuất gia.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc Thân Hào tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Thân Hào đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay khi mới sinh ra thân thể đã có ghẻ lở, máu mủ lai láng, thật đáng kinh sợ; lại nhờ phước lành gì mà được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có hai vị trưởng giả, cả hai đều là người rất giàu có, tài sản của họ nhiều vô lượng. Nhân vì có sự bất hòa tranh chấp với nhau, nên một trưởng giả đã dâng lên vua một số lượng lớn châu báu.
Nhà vua nhận vật của trưởng giả, nhân đó trưởng giả này đối trước vua có lời gièm siểm: “Trưởng giả kia là người có ác tâm, thường ấp ủ âm mưu gian muốn hãm hại hạ thần. Mong đại vương nghe lời hạ thần trừng trị tên trưởng giả kia.”
Vua liền hứa khả, liền đến nhà bắt trưởng giả kia đem trói rồi đánh đập, làm cho trưởng giả kia đau đớn khổ sở không cùng, toàn thân đầy thương tích, máu chảy lai láng và đau đớn không thể nói hết.
Khi thôi bị hành hạ đánh đập, trưởng giả bèn tự nghĩ: “Có thân là có khổ; thân là nơi nhóm họp của mọi điều ác và nhiều tai họa. Thật đáng nhàm chán. Đối với vị trường giả kia ta đâu có oán thù gì lắm đến nỗi phải bị đánh đập hành hạ một cách ngang trái đến như vậy”.
Nghĩ vậy rồi, sau đó vị trưởng giả liền vào chốn núi rừng, quán sát thấy: Các pháp hữu vi đều vô thường, nên ngộ sâu được lý Không, thành Bích- chi-phật, xem kẻ oán người thân đều bình đẳng.
Vị Bích-chi-phật nhớ lại trưởng giả kia đã gây ra sự khổ sở cho mình, đời sau chắc chắn phải đọa vào địa ngục, chịu nhiều đau khổ.
Bích-chi-phật nghĩ: “Vậy bây giờ Ta phải đến nhà trưởng giả, hiện các thứ thần biến cho ông ta thấy để giúp ông được khai ngộ.” Nghĩ xong, Bích- chi-phật liền đến trước nhà trưởng giả, thân vọt lên hư không, hiện mười tám thứ thần biến.
Trưởng giả thấy sự biến hóa nên sinh tâm khát ngưỡng, càng thêm kính tin đối với Bích-chi-phật. Trưởng giả bèn thỉnh Bích-chi-phật ngồi nghỉ, ông dọn bày các món ăn ngon để cúng dường và xin sám hối tội ngày trước với Bích-chi-phật.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, người đã gièm siểm trưởng giả với vua để vua tra khảo đánh đập trưởng giả lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Thân Hào.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây của thái tử Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Trong thành có một vị trưởng giả chọn con gái trong một gia đình cao sang để cưới làm vợ, tấu trổi kỹ nhạc để cho vợ vui lòng.
Sau đó, người vợ ấy mang thai, đủ mười tháng, nàng sinh được một bé trai, mặt mũi thật xấu xí, hình dạng trông giống như ác quỉ; mọi người trông thấy đều xa lánh.
Cậu bé dần dần khôn lớn, cha mẹ lấy làm chán nản và đuổi đi thật xa. Chàng trai này đi đến đâu, ai cũng ghê sợ, thậm chí súc sinh nhìn thấy còn phải sợ hãi huống chi con người.
Một hôm, chàng trai đi vào rừng hái hoa quả ăn để tự nuôi sống. Các loài chim bay thú chạy mỗi khi trông thấy chàng, thì chẳng có loài nào không sợ, chúng bỏ đi hết, không dám ở trong khu rừng ấy nữa.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm ngài thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào độ được thì ngài liền đến cứu độ, Đức Phật biết chàng trai xấu xí kia căn lành đã thuần thục, nhân duyên hóa độ đã đến.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Hôm nay, chúng ta nên vào trong rừng để cứu độ chàng trai xấu xí kia.
Đức Thế Tôn dẫn đầu các Tỳ-kheo vào rừng. Chàng trai xấu xí kia thấy Phật, liền muốn tránh mặt đi. Nhưng Đức Phật đã dùng thần lực khiến chàng không đi được.
Bấy giờ các thầy Tỳ-kheo ngồi kiết già dưới gốc cây, còn Đức Phật cũng hóa thành một người mặt mũi xấu xí, tay ôm bình bát, bên trong đầy ắp thức ăn, lần lần đi về phía người ấy. Nhìn thấy một người có hình tướng cũng xấu xí như mình, nên chàng trai xấu xí cảm thấy vui và cho: “Người này thật là bạn ta”. Chàng bèn đến nói chuyện, rồi cùng ăn chung trong một cái bát. Bấy giờ cơm trong bát có mùi vị thơm ngon, ăn xong, bỗng nhiên mặt mày Hóa nhân trở nên khôi ngô đẹp đẽ.
Lúc ấy chàng trai xấu bèn hỏi bạn:
– Sao bỗng nhiên ông đẹp đẽ như thế? Hóa nhân đáp:
– Tôi nhờ ăn cơm này và quán tưởng các Tỳ- kheo đang ngồi thiền dưới gốc cây đằng kia. Với thiện tâm mà hình tướng của tôi trở nên khôi ngô đẹp đẽ như thế.
Chàng trai xấu xí nghe rồi liền bắt chước, cũng quán tưởng các Tỳ-kheo đang ngồi thiền dưới gốc cây với thiện tâm. Quả nhiên, chàng trai xấu xí này cũng được khôi ngô đẹp đẽ. Trong lòng chàng vui mừng và sinh tâm kính tin đối với Hóa nhân.
Khi ấy Hóa nhân trở lại thân Phật. Chàng trai thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, nên bước đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.
Đức Phật liền nói pháp cho chàng trai nghe bằng nhiều cách. Tâm ý được mở tỏ, chàng trai chứng quả Tu-đà-hoàn và xin xuất gia với Phật.
Đức Phật bèn gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc chàng tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành vị Sa-môn, siêng năng tu tập, không bao lâu sau thì chứng đắc quả A-la-hán.
Các Tỳ-kheo thấy việc trên, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo xấu xí kia đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay tuy được thân người nhưng xấu xí như vậy, lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa. Ngài đang ngồi kiết già dưới một gốc cây, Ta và Di-lặc đều là Bồ-tát cùng đến chỗ Phật cúng dường các món cần dùng. Ta đứng một chân trong bảy ngày để nói kệ:
Trên trời, nhân gian ai bằng Phật Thế giới mười phương cũng không ai Tất cả thế giới Ta đều thấy
Không ai có thể bằng như Phật.
Khi Bồ-tát nói kệ xong, trong núi có một Quỉ thần hóa ra hình dạng thật xấu xí đến làm Ta sợ hãi, Ta dùng thần lực khiến Quỉ thần kia gặp non cao vực thẳm rất hiểm trở không thể vượt qua được.
Khi ấy, Thần núi liền nghĩ rằng: “Vì ta có ác tâm làm người khác sợ hãi nên khiến phải gặp chỗ hiểm nạn không vượt qua được. Vậy ta phải đến chỗ vị ấy để sám hối tội lỗi”.
Nghĩ xong, Thần núi liền đến sám hối với Bồ- tát, sám hối xong, phát nguyện rồi ra đi.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, Thần núi đã làm cho Ta sợ hãi lúc bấy giờ, nay là chàng trai xấu xí đã chứng quả La-hán kia. Vì lúc bấy giờ làm Ta sợ hãi, nên trong năm trăm đời chàng phải chịu thân hình xấu xí, ai thấy cũng đều xa lánh. Nhưng nhờ biết sám hối, cho nên nay gặp Ta được xuất gia đắc đạo.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn Nai, thuộc nước Ba-la-nại.
Bấy giờ, trong nước có một Phụ tướng, nhà rất giàu có tuy nhiên ông chẳng có mụn con nào.
Lúc ấy bên bờ sông Hằng-già có một ngôi đền thờ trời Ma-ni-bạt-đà, nhân dân địa phương đều cung kính thờ phụng. Một hôm, vị Phụ tướng này đến ngôi đền ấy chú nguyện:
– Tôi không có con, được nghe Thiên thần có công đức lớn, cứu độ chúng sinh, có khả năng làm cho người được toại nguyện, nên tôi đến đây cầu xin Thiên thần cho tôi một đứa con. Nếu được như nguyện, tôi sẽ đem vàng bạc để tô điểm thân thể Thiên thần và dùng danh hương tô phết đền Thần, còn bằng không linh nghiệm, tôi sẽ phá hủy ngôi đền này, bôi phẩn uế trên thân ngài.
Vị Thiên thần nghe rồi tự nghĩ: “Người này thuộc dòng họ giàu sang, uy thế mạnh mẽ, không phải là hạng người tầm thường cầu con, thế lực của ta kém cỏi, không thể nào làm cho ông ta được như nguyện. Nếu người ấy không được như nguyện thì sẽ phá hủy miếu Thần”.
Nghĩ xong, vị Thiên thần bèn đến thưa với trời Ma-ni-bạt-đà. Trời Ma-ni-bạt-đà cũng không đủ sức làm việc đó, liền đến gặp vua trời Tỳ-sa-môn để trình bày sự việc.
Vua trời Tỳ-sa-môn nói:
– Năng lực của ta cũng không thể làm cho người ấy có con được. Chỉ phải tìm đến trời Đế Thích mới mong thỏa mãn sự cầu nguyện đó.
Tỳ-sa-môn lập tức lên trời và tâu với Đế Thích:
– Tôi có một thuộc hạ là Ma-ni-bạt-đà, gần đây có một lời trình tấu rằng tại nước Ba-la-nại có một vị Phụ tướng muốn cầu con, đã kết lập lời thề quan trọng. Nếu nguyện của viên Phụ tướng ấy được thành tựu, ông ta sẽ gia tăng cúng dường nhiều thêm, còn bằng không thành, Phụ tướng sẽ phá hoại miếu đền, lại còn hủy nhục Thiên thần nữa. Người ấy rất giàu có, chắc chắn sẽ làm như vậy, rất mong được Thiên vương giúp cho người ấy có con.
Trời Đế Thích đáp:
– Việc này rất khó, ta phải tìm một người có nhân duyên.
Lúc bấy giờ, có một vị trời năm tướng suy đã hiện, mệnh trời sắp hết. Đế Thích bảo vị trời ấy:
– Nhân duyên của ngươi ở cõi trời sắp hết, hãy nguyện sinh vào nhà một vị Phụ tướng!
Vị trời đáp:
– Tôi có ý muốn xuất gia để phụng tu chánh hạnh, nếu sinh vào nhà giàu sang sung sướng, thì việc ly dục rất khó. Tôi muốn là đầu thai vào nhà trung lưu, thì việc mong ước mới được toại nguyện.
Trời Đế Thích lại nói:
– Chỉ cần ngươi sinh vào đó, nếu muốn học đạo ta sẽ ủng hộ cho.
Vị vua trời qua đời, thần thức thọ thai trong nhà Phụ tướng, khi sinh ra dung mạo rất khôi ngô. Phụ tướng mời thầy xem tướng về đặt tên cho con.
Thầy xem tướng hỏi Phụ tướng:
– Ông cầu được đứa con này ở đâu? Phụ tướng đáp;
– Trước kia tôi cầu trời Hằng-già nên được cháu.
– Vậy, nhân đó hãy đặt tên là Hằng-già-đạt.
Hằng-già-đạt dần dần khôn lớn, một hôm xin cha mẹ đi xuất gia.
Cha mẹ đáp:
– Nhà ta giàu sang, sự nghiệp rộng lớn, chỉ có một mình con, Vậy con phải nối nghiệp gia đình, ngày nào ta còn sống, không bao giờ cho con đi xuất gia.
Hằng-già-đạt không toại nguyện, sinh ra buồn rầu, rồi nghĩ đến việc xả thân để cầu sinh trong nhà thường dân, ở đó việc cầu xuất gia sẽ được dễ dàng. Do vậy mà Hằng-già-đạt đã lén đi, tự gieo mình xuống sườn núi, nhưng khi rơi xuống lại chẳng tổn thương gì; lại đến bờ sông nhảy xuống nước, thì nước liền đưa vào bờ, cũng không hề gì; lại dùng thuốc độc, nhưng khi uống vào, chất độc không tác dụng… Hằng-già-đạt không có cách gì để chết, rồi có ý định phạm vào phép vua để bị vua giết chết. Sau đó Hằng-già-đạt gặp phu nhân của vua cùng các thể nữ rời cung điện đến một cái hồ để tắm rửa, họ cởi y phục và để trong lùm cây.
Lúc ấy Hằng-già-đạt lẻn vào lấy hết đồ phục sức của phu nhân và các thể nữ rồi mang đi. Người giữ cửa thấy được, liền báo cho vua A-xà-thế.
Vua nghe rất tức giận và đem cung tên tự mình bắn Hằng-già-đạt, nhưng khi bắn thì mũi tên bay ngược về chính hướng nhà vua. Vua A-xà-thế bắn ba lần như vậy, đều không trúng Hằng-già-đạt. Vua sợ hãi liệng cả cung tên và hỏi Hằng-già-đạt:
– Ngươi là Trời, Rồng hay Quỉ thần? Hằng-già-đạt nói:
– Xin cho tôi một điều kiện, tôi mới dám nói. Vua bảo:
– Ta bằng lòng, nói đi. Hằng-già-đạt nói:
– Tôi chẳng phải Trời, Rồng hay Quỉ thần gì cả, mà là con của một vị Phụ tướng ở Xá-vệ. Tôi muốn xuất gia, nhưng cha mẹ không cho, nên muốn tự sát để được sinh vào nhà khác. Tôi đã nhảy xuống vực, lao xuống sông, uống thuốc độc… nhưng đều không chết nên tôi cố phạm pháp vua, hy vọng được chết, giờ đây vua muốn hại lại bắn không trúng. Sự tình như vậy, thật là quá đỗi, xin đại vương thương xót cho tôi xuất gia.
Vua A-xà-thế bảo Hằng-già-đạt:
– Ta cho ngươi xuất gia.
Nhân đó, vua A-xà-thế dẫn Hằng-già-đạt đến chỗ Đức Phật và kể lại sự việc trên cho Đức Thế Tôn nghe.
Bấy giờ Đức Phật cho Hằng-già-đạt xuất gia làm Sa-môn, được mặc pháp phục, trở thành Tỳ- kheo. Đức Phật nói pháp cho Hằng-già-đạt nghe. Tâm ý được mở tỏ, Hằng-già-đạt chứng quả A-la- hán, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát.
Thấy vậy, vua A-xà-thế bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Hằng-già-đạt đời trước đã gieo trồng căn lành gì, mà nay gieo mình xuống sườn núi không chết, rơi xuống nước không chìm, uống thuốc độc chẳng hề gì, tên bắn không trúng… lại gặp Thế Tôn, được thoát khỏi sinh tử?
Phật bảo vua A-xà-thế:
– Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, có một nước lớn tên là Ba-la-nại, vua nước ấy là Phạm- ma-đạt-đa. Một hôm, vua dẫn các cung nhân đi dạo chơi trong vườn cây. Vua ra lệnh cho các thể nữ cùng nhau ca hát. Bấy giờ bên ngoài có người cất tiếng họa lại. Vua nghe tiếng hát ấy, liền nổi giận, sai người bắt trói và bảo đem giết.
Lúc ấy có một vị quan lớn từ ngoài thành đi vào, thấy một người bị trói, liền hỏi: “Vì sao trói người như vậy.”
Những người xung quanh kể lại sự việc cho vị quan nghe. Vị quan nghe xong liền bảo: “Hãy ngừng tay, đợi tôi gặp đức vua.”
Nói xong, vị quan vào gặp vua tâu: “Tội người kia không đến nỗi quá nặng, sao đại vương lại giết ông ta. Tuy ông ta có họa tiếng nhưng không thấy thân; như vậy là không có việc thông dâm gian tà. Rất mong đại vương rủ lòng thương mà tha tội chết cho người.”
Lúc ấy vua nghĩ không thể trái lời vị quan, bèn tha tội chết cho kẻ kia. Được thoát chết, người ấy xin theo phục vụ một cách ân cần và chu đáo đối với vị quan đã cứu mạng mình. Việc phục vụ cho vị quan như vậy đã trải qua nhiều năm; một hôm ông tự nghĩ: “Dâm dục làm tổn thương con người còn hơn dao bén, ta bị khốn khổ tai ách đều do lòng dục mà ra cả”.
Nghĩ vậy rồi, người ấy thưa với vị quan xin được xuất gia để huân tu đạo nghiệp. Vị quan đáp: “Tôi đâu dám ngăn cản, nếu ông tu học thành đạo, xin trở lại cho tôi được gặp.”
Sau đó, người ấy đi vào chỗ núi rừng thanh vắng, để tư duy về diệu lý. Nhờ siêng năng tu tập, tâm ý vị ấy được mở tỏ, thành Bích-chi-phật.
Thành đạo rồi, Bích-chi-phật trở lại thành ấp ngày xưa để gặp vị quan. Vị quan rất vui mừng, thỉnh Bích-chi-phật vào trong nhà để cúng dường các thức ăn ngon, bốn thứ cúng dường đầy đủ.
Lúc ấy Bích-chi-phật bay lên không trung, hiện các pháp thần biến như thân tuôn ra nước, lửa; phóng ánh sáng lớn rực rỡ… Vị đại quan thấy vậy, lòng mừng vô hạn, nhân đó thệ nguyện: “Cũng nhờ tôi nên Ngài mới sống còn. Với ân đức ấy, tôi nguyện đời sau khiến tôi được giàu sang sống lâu, đặc biệt khác thường gấp ngàn vạn lần và cũng khiến cho tôi được trí đức như Ngài.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua A-xà-thế:
– Vị quan đã cứu một người thoát chết lúc bấy giờ, nay chính là Hằng-già-đạt. Do nhân duyên này nên Hằng-già-đạt khi sinh ở đâu, cũng được sống lâu và nay được gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Khi Phật kể truyện nhân duyên của Tỳ-kheo Hằng-già-đạt, những người hiện diện trong đại hội lúc ấy đều sinh tâm kính tin vui mừng và thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, trong thành Vương xá.
Bấy giờ, có một vị Phạm chí tên là Điệt Sử, ông có hai người con, con trai tên là Trường Trảo và con gái tên là Xá-lợi.
Trường Trảo rất thông minh, học rộng hiểu nhiều và giỏi tranh luận. Hễ mỗi lần tranh luận với chị là Xá-lợi thì ông thường thắng, nhưng từ ngày người chị mang thai, thì Trưởng Trảo không thắng được chị nữa.
Lúc ấy Trường Trảo suy nghĩ: “Trước kia chị ta tranh luận với ta thì chị thường không bằng ta, nhưng từ lúc mang thai, chị lại hơn hẳn ta. Đó là sức mạnh phước đức của bào thai. Nếu đứa con ấy ra đời, luận biện tất phải hơn ta. Vậy ta phải đi các nơi tìm học bốn bộ Vệ-đà, mười tám thứ phương thuật, sau đó về nước, ta sẽ tranh luận với cháu”.
Nghĩ xong, Trường Trảo đi về phía Nam Thiên trúc để học tập các luận, thề rằng: “Nếu không thông suốt, trở thành vị thầy bậc nhất, thì chẳng cắt móng tay.”
Trong khi đó ở nhà, người chị Xá-lợi mang thai đủ mười tháng, sinh được một bé trai. Dựa theo tên mẹ, bé trai được đặt tên là Xá-lợi-phất.
Xá-lợi-phất tướng mạo khôi ngô khác thường, lại thông minh trí tuệ, học rộng. Các luận, khó ai có thể đối đáp với Xá-lợi-phất.
Một hôm, các Phạm chí trong thành Vương xá đánh chiếc trống lớn bằng vàng để tập hợp tám ngàn ức dân chúng, cùng tụ hội tại nhà tranh luận.
Xá-lợi-phất mới tám tuổi cũng đến đó, thấy bốn tòa cao được thiết lập, bèn hỏi mọi người:
– Thiết lập bốn tòa cao kia là muốn đợi ai vậy? Mọi người trả lời:
– Tòa thứ nhất dành cho quốc vương, tòa thứ nhì dành cho thái tử, tòa thứ ba cho quan đại thần, còn tòa thứ tư dành cho luận sĩ.
Xá-lợi-phất nghe nói, liền lên ngồi trên tòa cao, nơi dành cho luận sĩ.
Lúc ấy các Phạm chí kỳ cựu đức độ cùng tất cả đồ chúng của họ đều kinh ngạc nghĩ rằng: “Các luận sĩ chúng ta, nếu tranh luận với đứa bé kia, dù chiến thắng cũng chưa phải vinh dự, còn nếu thua thì là điều rất xấu hổ nhục nhã”.
Nghĩ xong, các Phạm chí liền sai một Bà-la- môn nhỏ thuộc hàng hạ tọa để cùng luận nghị với Xá-lợi-phất. Hai bên cùng vấn đáp với nhau, ngôn từ lý luận của vị Bà-la-môn đều bế tắc. Họ lần lượt đưa lên người này người kia, cho đến các luận sĩ hàng thượng tọa, thì cuộc tranh luận cũng không quá mấy phen đều thua. Lúc ấy Xá-lợi-phất luận nghị chiến thắng, nổi tiếng khắp mười sáu nước lớn gần xa là bậc trí tuệ, học rộng biết nhiều, độc đáo khác người.
Một hôm, ở tại thành Vương xá, Xá-lợi-phất lên lầu cao để ngắm nhìn phong cảnh xung quanh. Thấy dân chúng trong thành nhóm họp vui chơi trong ngày lễ, Xá-lợi-phất chợt nghĩ: “Cảnh xôn xao kia một trăm năm sau cũng đâu còn gì”.
Nghĩ xong, Xá-lợi-phất bước xuống lầu. Sau đó, Xá-lợi-phất xuất gia cầu đạo với ngoại đạo.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn mới thành Chánh giác; mười sáu nước lớn chưa ai hay biết. Như Lai vì lòng Đại từ bi muốn giáo hóa chúng sinh, nên sai Tỳ-kheo A-tỳ đắp y, ôm bát vào thành Vương xá khất thực.
Lúc ấy Xá-lợi-phất thấy Tỳ-kheo A-tỳ oai nghi khoan thai đáng chiêm ngưỡng, bèn tự hỏi: “Đây là ai, mà phước đức như thế? Từ trước tới giờ ta chưa gặp vị này.”
Xá-lợi-phất bèn bước đến hỏi Tỳ-kheo:
– Ông phụng thờ vị Thầy nào mà có phép tắc như vậy?
Tỳ-kheo A-tỳ dùng kệ đáp: Thầy tôi, trời trong trời Chí tôn trong ba cõi
Tướng tốt, thân trượng sáu Thần thông dạo hư không.
Tỳ-kheo A-tỳ nói kệ xong bèn đứng im lặng.
Xá-lợi-phất nói với A-tỳ:
– Thầy ông dung mạo trang nghiêm, thần thông, trí tuệ… nay tôi mới được nghe, vậy Thầy ông ngộ đạo gì mà được như vậy?
Tỳ-kheo A-tỳ dùng kệ đáp: Trí tuệ khử năm ấm Nhổ sạch mười hai căn
Chẳng tham vui trời, người Tâm tịnh mở pháp môn.
Lúc ấy Xá-lợi-phất lại hỏi Tỳ-kheo A-tỳ:
– Đối với lời Thầy ông dạy, ông đã học được bao lâu và đã học tập được pháp gì?
A-tỳ cũng dùng kệ đáp: Tuổi đời tôi còn nhỏ Sức học lại nông cạn Làm sao nói cho đúng
Giáo nghĩa rộng của Phật.
Xá-lợi-phất lại nói với A-tỳ:
– Những điều Thầy ông chỉ dạy, rất mong ông chỉ dạy lại cho.
Lúc ấy A-tỳ lại nói kệ đáp:
Trong tất cả các pháp
Nhân duyên sinh không chủ. Dứt tâm đạt bổn nguyên Nên gọi là Sa-môn.
Xá-lợi-phất nghe kệ, tâm liền tỏ ngộ và chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Bấy giờ, Mục-kiền-liên thấy Xá-lợi-phất mặt mày hớn hở, bèn hỏi:
– Xưa kia tôi và bạn đã có lời thệ ước: Nếu ai được pháp vị cam lộ trước, thì phải nói cho người còn lại biết. Nay tôi thấy bạn dường như có sở đắc, nên vẻ mặt hớn hở như thế?
Lúc ấy Xá-lợi-phất liền đọc ba lần bài kệ trên cho Mục-kiền-liên nghe. Mục-kiền-liên nghe xong, tâm ý được mở tỏ, cũng chứng đắc quả Tu- đà-hoàn.
Bấy giờ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều chứng được đạo quả, trong lòng vui mừng, trở về kể hết sự việc trên cho đồ chúng nghe và nói:
– Hôm nay, ta muốn đến chỗ Phật để xin xuất gia; vậy ý các ngươi thế nào?
Các đệ tử đều bạch với thầy:
– Nay Đại sư muốn học tập theo lời dạy của Sa- môn Cù-đàm, đệ tử chúng con cũng xin theo thầy.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên nghe đồ chúng nói như vậy, mỗi người dẫn hai trăm năm mươi đệ tử của mình đi theo Tỳ-kheo A-tỳ đến vườn trúc Ca-lan-đà. Đến nơi, thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, trong lòng mọi người đều vui mừng, bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, xin được xuất gia.
Đức Phật chấp nhận và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Râu tóc trên đầu Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và đồ chúng tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành các Sa-môn, đầy đủ ba Minh, sáu phép Thần thông, tám pháp Giải thoát; được trời, người tôn kính.
Bấy giờ, Phạm chí Trường Trảo nghe Xá-lợi- phất đã xuất gia nhập đạo, lòng buồn bã tức giận và nói:
– Xá-lợi-phất là cháu của ta, bản tánh trí tuệ, quán thông tất cả các sách. Các luận sư kỳ cựu của mười sáu nước lớn đều phải bái phục. Vì sao bỗng nhiên lại xả bỏ danh vọng cao sang để phụng thờ
Cù-đàm?
Nói xong, Trường Trảo từ Nam Thiên trúc liền đến chỗ Phật để tranh luận với Ngài.
Lúc ấy Thế Tôn bảo Trường Trảo:
– Điều thấy biết của ngươi không phải là con đường đi đến Niết-bàn rốt ráo.
Phạm chí nghe Phật nói, im lặng không đáp. Đức Phật nói ba phen như vậy, Phạm chí cũng im lặng.
Bấy giờ, thần Kim cang Mật Tích từ trên hư không, dùng chày Kim cang định đánh trên đầu Phạm chí. Kim cang Mật Tích nói:
– Nếu ngươi không trả lời, ta sẽ dùng chày Kim cang đập nát thân nhà ngươi.
Lúc ấy Phạm chí rất sợ hãi, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, chẳng biết trốn đi đâu, giấu mặt nơi nào, liền hạ mình chịu khuất phục. Phạm chí sinh tâm kính phục đối với Phật và cầu xin xuất gia làm đệ tử Phật.
Đức Phật nhận lời và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Râu tóc của vị ấy tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán.
Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Phạm chí này đời trước làm được phước lành gì, mà nay bỏ tà theo chánh, gặp Phật Thế Tôn, được xuất gia, đắc đạo như thế?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la- nại có một vị Bích-chi-phật đang ngồi thiền tư duy trong một khu rừng.
Lúc ấy có năm trăm tên cướp, chuyên cướp bóc của người. Họ định vào khu rừng ấy. Tên cầm đầu trước sai một tên vào rừng xem có ai không, thấy vị Bích-chi-phật đang ngồi thiền dưới gốc cây, gã liền bắt trói dẫn đến chỗ tên cầm đầu, tên cầm đầu định giết Bích-chi-phật.
Lúc ấy vị Bích-chi-phật suy nghĩ: “Nếu Ta làm thinh để hắn giết Ta, tức làm cho tội nghiệp của hắn thêm lớn và hắn sẽ bị đọa địa ngục không có ngày ra khỏi, vậy bây giờ ta phải hiện các thần biến, làm cho hắn tin phục”.
Nghĩ rồi, vị Bích-chi-phật thân bay lên hư không, xuất hiện ở phía Đông, ẩn ở phía Tây, xuất hiện ở phía Nam, ẩn mất ở phía Bắc, thân tuôn ra nước lửa, hoặc hiện thân hình to lớn đầy khắp hư không, rồi hiện nhỏ lại… vị Bích-chi-phật xoay vần hiện mười tám thứ biến hóa như vậy.
Bọn cướp thấy sự thần biến, trong lòng sợ hãi. Tất cả đều sụp lạy, chí thành quy y sám hối. Vị
Bích-chi-phật nhận sự sám hối của bọn cướp, sau đó họ sắm sửa các món ăn ngon để thỉnh Ngài cúng dường. Cúng dường xong, họ phát nguyện rồi ra đi.
Nhờ công đức này, mà trong vô lượng kiếp kẻ ấy không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ; thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng cõi trời, cho đến ngày nay gặp Ta, được xuất gia đắc đạo.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy nên biết, tên cầm đầu bọn cướp lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Phạm chí Trường Trảo vậy.
Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca- lan-đà, thành Vương xá.
Bấy giờ, phu nhân của vua Ba-tư-nặc đã thụ thai, đủ mười tháng, bà sinh được một thái tử có hình tướng khôi ngô, đẹp đẽ trên đời ít có, đôi mắt sáng trong như chim Câu-na-la vậy, do đó vua đặt tên thái tử là Câu-na-la. Vua cho thái tử đeo các chuỗi anh lạc, mặc quần áo tốt đẹp, rồi sai người bồng đi khắp phố phường hỏi mọi người rằng:
– Trên thế gian này, có đứa trẻ nào khôi ngô đẹp đẽ như con ta không?
Lúc ấy trong xóm làng có những người đi buôn tâu với vua:
– Xin đại vương tha thứ, đừng bắt tội thì chúng tôi mới dám nói.
Vua liền bảo:
– Các ngươi cứ nói, đừng sợ.
Khi đó những người đi buôn tâu:
– Thưa đại vương, trong xóm chúng tôi ở có một đứa trẻ tên là Tôn-đà-lợi, tướng mạo khôi ngô khác thường, dung mạo như vị trời, đẹp hơn con vua cả trăm ngàn vạn lần, con vua không thể nào sánh được. Lại lúc sinh ra, trong nhà tự nhiên lại vọt lên một dòng suối, hương vị thơm tho, trong mát, lại có các thứ châu báu.
Vua nghe nói, liền sai người truyền lệnh cho dân chúng trong làng ấy biết:
– Chính ta sẽ đích thân đến thăm Tôn-đà-lợi. Khi trưởng làng biết rằng vua sẽ đến xem Tôn- đà-lợi, ông bàn với những người trong làng:
– Hôm nay vua sẽ đến, nhưng hơi đâu mà trông đợi, chi bằng ta trước đưa đứa trẻ đến cho vua xem. Sau khi bàn như vậy, họ cho Tôn-đà-lợi đeo chuỗi anh lạc, mặc quần áo tốt đẹp để trang nghiêm, rồi bồng đến cho vua xem.
Vua thấy Tôn-đà-lợi có dung mạo khôi ngô khác thường, trên đời có một không hai, nên rất ngạc nhiên, khen đây là đứa trẻ chưa từng có. Sau đó vua đem Tôn-đà-lợi đến chỗ Đức Phật, muốn hỏi Đức Phật do đâu mà bé trai này lại có thân tướng tốt đẹp như vậy. Đến nơi thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chiếu soi như trăm ngàn mặt trời, đứa bé bèn đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Bấy giờ Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho đứa bé nghe. Tâm ý được mở tỏ, Tôn-đà-lợi chứng quả Tu-đà-hoàn và xin Phật xuất gia.
Đức Phật chấp nhận và gọi:
– Lành thay, Tỳ-kheo!
Tóc trên đầu đứa bé trai tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng đắc quả A-la-hán.
Vua Ba-tư-nặc thấy việc ấy, bèn bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Tôn-đà-lợi đời trước đã gieo trồng phước lành gì mà đời nay sinh ra tự nhiên có dòng suối vọt lên và các món châu báu đầy dưới suối ấy, lại gặp Thế Tôn, được xuất gia đắc đạo?
Đức Phật bảo vua Ba-tư-nặc:
– Đại vương hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp.
Lúc bấy giờ, có một vạn tám ngàn vị Tỳ-kheo đang ngồi thiền, hành đạo trong rừng. Lại có một vị trưởng giả trong khi đang đi, tình cờ gặp các Tỳ- kheo ấy, sinh tâm vui mừng liền trở về nhà chuẩn bị nước thơm, để thỉnh chúng Tăng tắm rửa, dọn bày thức ăn ngon cúng dường các thầy Tỳ-kheo. Cúng dường xong trưởng giả lại đem các món châu báu bỏ vào thau nước để dâng lên chúng Tăng. Sau đó trưởng giả phát nguyện rồi ra về.
Nhờ công đức này, mà trong nhiều đời trưởng giả không đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người; khi sinh ra luôn có dòng suối vọt lên và các thứ châu báu trong dòng suối ấy.
Đức Phật bảo đại vương:
– Đại vương nên biết, người con của vị đại trưởng giả đã chuẩn bị nước thơm để chúng Tăng tắm rửa và cúng dường ẩm thực cho chúng Tăng cho nên thường được thân tướng tốt đẹp lúc bấy giờ, nay chính là Tỳ-kheo Tôn-đà-lợi.
Lúc ấy các Tỳ-kheo và vua Ba-tư-nặc nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.
❑
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]