SỐ 193
PHẬT BỔN HẠNH KINH

(PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN)

Hán dịch: Đời Tống, Sa-môn Thích Bảo Vân ở Kinh châu.

QUYỂN 1

Phẩm 1: NHÂN DUYÊN

Phẩm 2: KHEN NGỢI NHƯ LAI

Phẩm 3: GIÁNG THAI

Phẩm 4: ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH

Phẩm 5: PHẠM CHÍ XEM TƯỚNG

Phẩm 6: A-DI PHÁ VỠ NGỜ VỰC

Phẩm 7: NHẬP DỰ LUẬN

QUYỂN 2

Phẩm 8: CÙNG CHÚNG THỂ NỮ DU CƯ

Phẩm 9: BIỂU HIỆN LO SỢ

Phẩm 10: DƯỚI BÓNG CÂY DIÊM-PHÙ-ĐỀ

Phẩm 11: XUẤT GIA

Phẩm 12: XA-NẶC

Phẩm 13: VUA BÌNH-SA THƯA HỎI

QUYỂN 3

Phẩm 14: THUYẾT PHÁP CHO VUA BÌNH- SA

Phẩm 15: KHÔNG ĐỒNG Ý A-LAN

Phẩm 16: HÀNG MA

QUYỂN 4

Phẩm 17: ĐỘ NĂM TỲ-KHEO

PHẨM 18: ĐỘ BẢO XƯNG

Phẩm 19: QUẢNG ĐỘ

Phẩm 20: HIỆN ĐẠI THẦN BIẾN

Phẩm (17*): CHUYỂN PHÁP LUÂN

QUYỂN 5

Phẩm 21: PHẬT LÊN CUNG TRỜI ĐAO-LỢI VÌ MẪU THÂN THUYẾT PHÁP

Phẩm 22: NHỚ XƯA

Phẩm 23: ĐI ĐẾN DUY-DA-LY

Phẩm 24: TÁN THÁN PHẬT ĐỊNH QUANG

Phẩm 25: HÀNG VOI

Phẩm 26: MA KHUYÊN XẢ THỌ MẠNG

QUYỂN 6

Phẩm 27: ĐIỀU-ĐẠT VÀO ĐỊA NGỤC

Phẩm 28: HIỆN NHŨ BỘ LỰC

QUYỂN 7

Phẩm 29: ĐẠI DIỆT

Phẩm 30: THÂN VÔ VI

Phẩm 31: TÁM VUA CHIA XÁ-LỢI


QUYỂN 1

Phẩm 1: NHÂN DUYÊN

Nay giảng pháp thô thiển
Tâm Từ chuyên nghe nhận
Yếu nghĩa các kinh Phật
Ngôn từ của Thánh sư
Sách vở về truyện Phật
Rất lợi ích cho đời
Người nghe mừng khôn xiết
Thấm nhuần đến mọi người.
Tất cả các Đức Phật
Trí Tiên thánh minh vương
Từ tâm xưng danh hiệu
Được phước không thể lường.
Nên nay giảng an lành
Ưu khổ dứt mất hẳn
Nơi chốn nào Phật đến
Thảy đều được yên ổn
Nhiếp căn chuyên giữ tâm
Mỗi người lắng lòng nghe.
Nếu có người vâng làm
Trừ sạch các nhơ bẩn
Dùng nước pháp thanh tịnh
Siêng rửa sạch tâm mình
Vào ao sâu diệt độ
Thọ sắc rất sáng trong.
Năm dục như ngựa rong
Đắm mê theo cuộc đời
Quanh quẩn không ra được
Bị năm dục lừa dối
Rong ruổi nơi tối tăm
Riêng xoay lăn năm đường
Dùng cái giàn trí tuệ
Khéo chế ngự tâm ngu
Phải dùng roi vô thường
Đánh ngựa dục chạy rong
Bẻ gãy ý tham lam
Khiến tâm bỏ nịnh hót.
Dòng sông sâu sáu dục
Đường ác rất mau chóng
Phải dùng sức trí tuệ
Đắp đê cho dày chắc.
Ưa sinh tử khổ đau
Chưa từng được nghỉ ngơi
Do tâm không nhàm đủ
Say mê nơi năm dục
Có tám thứ thuốc thang
Hòa hợp rất thần hiệu
Chịu uống vị cam lộ
Say mê liền tỉnh ngộ.
Chúng sinh trong ba cõi
Thấy ngược, tay chỉ dẫn
Điên đảo trong năm đường
Giống như người đánh cầu
Vừa thoát khỏi mé khổ
Trở lại đọa sinh tử
Nay nghe Thánh minh dạy
Nên dứt tâm mê lầm.
Ánh sáng của từ bi
Soi sáng khắp thế gian
Ngu thấy nóng thì cháy
Tâm si tự mê hoặc.
Sinh tử như đầm rộng
Hươu con lạc trong đó
Nên uống dòng sữa pháp
Dứt đói khát lâu ngày.
Chúng sinh từ xưa nay
Bị già chết lôi kéo
Không thích thấy thuốc hay
Còn mắng nhiếc thầy giỏi
Hợp ba mươi bảy vị
Các thứ thuốc thần hiệu
Phải dùng phương tiện cầu
Siêng uống để trừ bệnh.
Trong đêm dài mệt nhọc
Chúng sinh ngủ rất ngon
Phải đánh trống cam lộ
Thức dậy chớ ngủ nữa.
Mặt trời Phật xuất hiện
Pháp soi sáng mạnh mẽ
Phải dùng mắt trí tuệ
Siêng năng quán sát khắp.
Tâm chúng sinh như nước
Bị khuấy đục không trong
Dùng pháp lắng khiến trong
Giống như nước mùa thu.
Chúng sinh khéo điều tâm
Định ý, không lao chao
Mau chóng được trở về
Được vào biển Nê-hoàn.
Các hình thể biến hóa
Nơi sinh tử lâu xa
Trời, người, ba đường ác:

Địa ngục, quỉ, súc sinh.
Nay nên bỏ luống dối
Hình người gỗ dối lừa
Nhập diệt thành Lưu ly
Hợp thành một màu sắc.
Có vua tên A-dục
Cõi nước hưởng Vô ưu
Làm kẻ địch sợ hãi
Người theo thì kính yêu
Dựng khắp trên đất này
Tám mươi bốn ngàn tháp
Trời, Rồng, Quỉ, Thần vui
Tiếng vang khắp thiên hạ.
Thời Kim cang lực sĩ
Nghe tiếng vang động này
Phật pháp càng hưng thịnh
Nhân đó nghĩ nhớ Phật
Buồn cúi đầu chống má
Nhớ thuở Phật ở đời.
Các vị trời thưa hỏi
Rằng: “Thưa Ngài buồn chi?”
Nhìn thật lâu mọi người
Sau đó mới than dài
Nhớ thương, giọng buồn bã
Cất tiếng đáp lời rằng:
“Phật là Thầy của trời
Đem lành dạy trời, người
Nghĩ nhớ Phật, Thánh Tôn
Cho nên tâm sầu muộn.”
Các trời và người này
Sinh sau không thấy Phật
Sau khi Phật diệt độ
Mới sinh lên cõi trời
Mới nghe danh hiệu Phật
Khắp người đều nổi ốc
Nên đem tâm Từ kính
Mà hỏi thần Kim Cang:
“Thưa Ngài, Phật là ai?
Có đức thiện diệu gì?
Có sức trí tuệ gì?
Có pháp cấm, luật gì?
Hình mạo Ngài ra sao?
Tự nghiêm sức thế nào?
Cúi xin Ngài chiếu cố
Giảng nói chúng tôi nghe!”
Do lời sáng suốt ấy
Khuyến khích thần Kim Cang
Nói ra như hoa nở
Mỉm cười vui vẻ nói:
“Pháp sâu nhiệm đã hỏi
Khó có thể nói vội
Các Thánh chưa thể nói
Riêng ta đâu bày được.
Nếu như dùng tay chỉ
Thì cả thế giới Phật
Bốn biển, các ao, vực
Hút một lần cạn hết.
Nếu có thể nuốt chửng
Núi Thiết vi, Kim cang;
Dùng tơ rễ ngó sen
Buộc treo núi Tu-di;
Nếu như muốn gói gọn
Hết cả cõi hư không;
Nếu lại muốn tính biết
Số chúng sinh mười phương;
Những việc này còn dễ
Nếu học thì làm được
Muốn khen công đức Phật
Thì không thể hết được.
Xin nương oai thần Phật
Khiến tâm không sai lầm
Có đôi điều tuyên bố
Khen đức lành của Phật.
Nay những lời ta nói
Như tiếng hót Anh vũ
Để vui lòng các vị
Nên chuyên tâm lắng nghe”.

Phẩm 2: KHEN NGỢI NHƯ LAI

Nay muốn bay lên không
Xét Phật không pháp ngoài
Vừa muốn dùng lời khen
Thì tâm chìm trong nghi
Cánh lòng ta vừa chắp
Sức yếu không thể mạnh.
Tuệ không vô của Phật
Bao trùm cả hư không
Giả như có lực sĩ
Dùng sức bắn hư không
Tên đi qua nhiều kiếp
Cũng không đến mé không.
Biết bao Hiền thánh đối
Tuệ đại không của Phật
Dùng vô lượng biện tài
Khen chẳng hết Phật đức.
Đã vượt bờ biển khổ
Khô cạn sông ái dục
Lấp vực sinh già chết
Khai mở biển đại pháp
Trời, người và ngoại đạo
Không thể thấu nguồn ý
Cho nên biển tuệ Phật
Sâu xa không đáy, bờ.
Tu-di, vua các núi
Nơi các trời cư trú
Phật đức vượt Tu-di
Không thể thấy được đỉnh.
Ma vương dâng ba nàng
Định làm loạn đạo tâm
Mê hoặc Ngài không được
Phật từ giữ gìn được
Mười tám ức Ma vương
Biến hình muốn đánh Ngài
Phật liền đưa cánh tay
Như trời chiếu mây đỏ
Dùng tay tướng trăm phước
Chống đất thắng Ma vương.
Chẳng dám chống Phật đức
Như tối sợ ánh dương
Các trời không hủy được
Cờ “Cống cao” Ma vương
Chỉ Phật bẻ gãy được
Phật dựng cờ “Đại pháp”
Các vua trần lao khác
Sức mạnh ngậm hờn suông.
Ngu si và tử ma
Sai con cháu ra quân
Ái sinh ra năm cái
Trước che lấp thế gian
Còn ôm lại lòng hại
Biết bao loại biến hình
Tức giận, ganh, bỏn xẻn,
Phiền não, mạn, cống cao
Thấy ngược, tham mong cầu
Vua trần lao tà si
Tệ hại phá hoại mạnh
Vây quanh đòi chiến đấu
Kết bày trận trần lao
Thảy đều hiện vũ lực
Đều phóng nỏ mạnh mẽ
Hại trung phàm, kẻ ngu.
Tên kia như rắn độc
Lại có như lửa hừng
Từ sau Phật Ca-diếp
Không còn ai cự đương.
Phật đức ngăn tên ấy
Lửa càng cháy dữ dội
Ngồi trên xe giới đức
Mặc giáp nhẫn nhục chắc
Ngồi trên ngựa tinh tấn
Vào phá trận trần lao
Dùng mũi bén chánh kiến
Dùng nghĩ đúng làm tên
Dùng nói đúng làm cánh
Hạnh đúng làm lưỡi tên
Dùng đường chánh làm cung
Rút tên trong ống ý
Giương cung lành rất nhanh
Tên Phật là tứ đẳng
Một phát diệt trần lao
Rung động cõi tam thiên
Lửa tuệ đốt dục trần.
Giống như quân bị đốt
Thí, giới, nhẫn, tấn, định
Tuệ, tín và vững chắc
Giữ chí không lay động
Như các sông về biển.
Đời trong, không trung sáng
Mười phương đều được an.
Tâm nhất định vững bền
Suy nghĩ đời sinh diệt
Để được tâm kim cang
Phá vỡ núi trần lao
Dùng mắt Phật quán thấy
Cõi ba ngàn như gương.
Ngoại đạo, các Thần tiên
Tu lâu không thấy giác
Nhất thiết trí không thầy
Gọi là Thầy các thầy
Cường tuệ Kim cang cứng
Phá vỡ vỏ si dày,
Ra khỏi ngục ngu tối
Vượt hư không vô vi
Trên trời ăn cam lộ
Mà vẫn ăn lúa ngựa
Không đắm mê vị trời
Không nhàm chán lúa ngựa.
Điều-đạt giận lăn đá
La-vân đứng trước Ngài
Đều nhìn bằng mắt Từ
Thấy độc như chiên-đàn.
Bị ngoại đạo phỉ báng
Được trời, người ngợi khen
Cả hai lòng chẳng động
Như miệng thổi Tu-di.
Danh khắp cõi ba ngàn
Phật là thầy thế gian
Luôn đứng mũi chịu sào
Thản nhiên không buồn, vui
Gặp thành, bại, lợi, hại
Hoặc chê, khen, khổ, vui
Tám pháp không nhiễm được
Như hoa sen trong bùn.
Vui trên trời, dưới thế
Thấy đều là không thật
Nhìn đời như trò huyễn
Có tướng nhưng rỗng không.
Chúng sinh ba đường ác
Mở cánh cửa khó mở
Ba đường ác không còn
Dẫn người, trời vô vi,
Trải qua vượt ba đời
Trói Tu-la kiêu mạn
Khuyến dẫn các gốc thiện
Mưa Tam bảo xuống đời.
Thuở xưa, vua Chuyển luân
Tự tại khắp bốn phương
Đối mình không tự theo
Khỏi chết, đến vô vi
Phật tu các thứ nghiệp
Ngự trị thành pháp không
Cứu thoát giặc trần lao
Đem đến thành vô vi.

Vầng dương chiếu ngày, không chiếu đêm
Không chiếu cõi trời, ba đường ác
Ánh Phật ngày đêm chiếu tam thiên
Và soi tâm tất cả chúng sinh.
Ánh mầu của Phật thường chiếu sáng
Ngàn muôn vô số khó ví dụ
Trăng sáng ngày rằm viên mãn lắm
Chỉ soi đêm tối còn ngày không.

Thiên đế tâm buồn khổ
Thọ mạng hết, lâm chung
Trở lại hết phước trời
Đến chỗ Phật thấy đế.
Trời, trăng mắt cõi thế
A-tu-luân vây quanh
Phật từ cứu thế gian
Khiến không gặp tai ách
Khói lo tưởng như lửa
Dục lạc như uống thuốc
Yêu đắm dụ như lửa
Phật dùng nước pháp diệt.
Ôm giận rất tàn hại
Uống rượu tâm cuồng loạn
Voi điên Ương-quật ma
Phật dùng từ hàng phục.

Vô lượng sinh tử ràng buộc chắc
Bọn giặc ngu si che tầm nhìn
Phật dùng thuốc trí tuệ lời nói
Quyết trừ giặc Uất tỳ-ca-diếp.
Trần cấu ba người này rất dày
Dù Thanh văn như cát sông Hằng
Cũng không làm động mảy lông họ
Chỉ Phật độ khiến thấy đạo sáng.

Dáng vẻ rất kiêu mạn
Mặc lễ phục quý sang
Bình sa rất kiêu ngạo
Thấy Phật cúi đầu lễ.
Đầu như đội lửa cháy
Nanh dài, mắt đỏ rực
Nổi giận ném lửa đốt
Phật hàng quỉ A lạp.
Rồng đầu đàn nổi giận
Mưa hại nước Ma-kiệt
Phật động đất lở núi
Ra oai diệt rồng dữ.
Phật như voi đầu đàn
Vào ao sen sinh tử
Dày xéo cỏ trần lao
Đứng vững trong Nê-hoàn.
Phật đưa qua sinh tử
Như trâu bơi qua sông
Chúng sinh qua đến nay
Như bầy trâu theo đường.
Phật như ao Bát giải
Sự sống: hoa Phù dung
Trời người như ong nhóm
Ngửi hương thì lìa khổ.
Các trời nghe nước biển
Đáy có thuốc không chết
Đem rồng chúa ở biển
Quấn quanh núi Tu-di,
Các trời A tu luân
Khuấy biển đến ngàn năm
Lập biết bao phương tiện
Hết sức rất khổ nhọc
Đem muôn món thuốc hay
Làm thuốc đọng lên trên
Gọi là thuốc không chết
Tiếp đựng trong bình vàng.
Nhưng uống chẳng sống mãi
Không khỏi già, bệnh, chết
Ý lầm giữ thuốc thần
Xoay chuyển, không bờ bến.
Phật dùng bảy giác ý
Sức tuệ khuấy biển lớn
Dùng diệt định bao vây
Dẫn bằng sức tinh tấn
Làm ra thuốc cam lộ
Mãi an, dứt già, bệnh
Diệt các khổ vui nhất
Uống vào lìa sinh tử.

Phật sáng như vầng dương chẳng loạn
Đầy như trăng tròn nhưng không lạnh
Vui hơn sáu trời mà tiêu dục
Bừng như lửa hừng không thiêu đốt.
Pháp rất nhiệm mầu, đức hạnh đủ
Các lành ẩn chứa, gọi phước nhóm
Gom nhóm điều lành của trời, người
Khen ngợi Phật đức không nhàm đủ.
Rực rỡ như trời, sáng như trăng
Vui mắt như hoa, tiếng sấm vang
Bước như voi chúa, nhẫn như đất
Hơn khắp thế gian chỉ có Phật.
Vô lượng lời khen mầu nhiệm đó
Của bao Thánh chúng, biết bao đời
Các Thánh cùng kiếp cũng không hết
Huống ta ngu cạn muốn rốt ráo
Như chẳng thuyền bè muốn vượt khơi.

Các trời đều chắp tay
Vui mừng thỉnh Kim Cang
Nguyện Phật xuống Đâu thuật
Phật nhận lời giảng nói.

Phẩm 3: GIÁNG THAI

Khi ở cung Đâu-thuật
Dùng mắt trời nhìn khắp
Thấy chúng sinh khổ não
Nhớ lại lời thề xưa:
Vốn nguyện an chúng sinh
Nhiều kiếp khổ cầu Phật
Đời đời gặp gian nan
Không chán, gieo cội đức.
Thờ kính là bậc nhất
Từ phát tâm đến nay
Đem vàng bố thí khắp
Tay tuệ thí thành đức
Các thí từ lúc đầu
Người nghe liền nổi ốc
Thân, chân, tay, đầu, mắt
Vợ con rất thương yêu
Sửa soạn các voi, ngựa
Xe báu rèm chân châu…
Nếu nhóm họp ở đây
Đất cũng không chứa hết!
Tiếng khuyên thí như sấm
Như trời đổ mưa dầm
Nhiều kiếp dùng nước tuệ
Thấm nhuần các chúng sinh.
Thí ao bơ, sông sữa
Núi phước, tô như suối
Nào mật, đường ngọt khối
Bày đầy khắp trên đất
Không trái ý người xin,
Cho hết không từ ai
Nước rửa tay người nhận
Giống như nước bốn biển.
Thờ minh sư, cha mẹ
Tâm Từ đủ thức dâng
Bố thí không giới hạn
Thành thí độ vô cực.
Sinh đâu cũng giữ giới
Thà chết không phá giới
Cạo tóc làm Sa-môn
Tóc chất hơn núi cao.
Sinh lên trời ngũ dục
Gặp khi mạng lâm chung
Chẳng động, phá giới cấm
Đủ giới, độ vô cùng.
Sinh được đấng tự do
Chưa từng thí kẻ ác
Cắt đầu, mắt, tay, chân
Tâm định được nhẫn nhục.
Tâm ngộ phát cầu Phật
Tiến kịp chín kiếp qua
Nên trước Di-lặc thảy
Mạnh mẽ vượt lên trước.
Ham ưa pháp sâu mầu
Do thân thọ nghĩa tuệ
Vào lửa, gieo xuống núi
Kim đâm khắp cả thân
Mười tám pháp trí tuệ
Vâng làm không bỏ bê
Hiểu rõ tất cả nguồn
Trí độ không bờ bến,
Thí, giới, nhẫn, tấn, định
Trí tuệ, sông biển sâu
Từ bi thương chúng sinh
Thành vui mừng sáng lòa!
Chân lông nhiều ánh sáng
Sáng động Đâu-thuật cung
Các trời hoài nghi nhóm
Cung kính lễ Bồ-tát.

Tức thời các thứ tiếng trống vàng
Mặc tư phú và bảy giác trù
Ai muốn cùng ta hàng thế gian
Thì mới khách pháp hội cùng nhau
Cho nên mời thỉnh hội khách pháp.
Ánh từ Đâu-thuật chiếu bốn phương
Khắp các cồn bãi cõi Diêm-phù
Liền sắc quan hầu Khanh Nguyệt Mãnh
“Ngươi biết đại quốc vương thế gian

Nước nào thác sinh được
Không trái phép tắc xưa
Hạp gặp gỡ Bồ tát.”
Vâng theo lời Phật dạy
Đáp rằng: “Xin Thánh, nghe
Có tôn vương giàu có
Có vua tên Thiện Cầu
Làm chủ thành Vương xá
Đứng đầu thành Ba-nại,
Vua tên là Thiện Mãnh
Vua nước Kiệt trăm tài
Sào, vua nước Uất thiền
Lưu Sinh vua Quang Diễm
Lại vua tên Dũng Võ
Con của vua Thiện Tý
Lại tên vua Bạch Tuyết

Tám vị vua này rất nổi tiếng
Chẳng hay có thể thác sinh không?”
Rằng: “Có vua nào nhơ không chánh?”
Lại quán tất cả người chân chánh
Nghĩ suy giây lát lại thưa: “Có!
Dòng vua Chuyển luân khi hưng thịnh
Vua cuối cùng tên là Sư Tử
Con tên Bạch Tịnh trong họ Thích.”

“Tốt thay! Vừa ý Ta
Nên thác sinh làm con.
Vua Bạch Tịnh trên hết
Hoàng hậu bậc anh thư
Ở trong các thành, ấp
Ca tỳ-la vượt trên.
Nay Ta sinh xuống đó
Đem thiện cho thế gian
Dạy chúng sinh chánh pháp
Mở gông cùm dục tham
Phá tan ngục sinh tử.
Mở bày nẻo vô vi
Bày chúng sinh phương tiện
Khiến thoát ngục sinh tử
Các vị ai muốn vui
Lìa khổ, diệt độ an
Muốn tự mình thoát khổ
Hãy cùng Ta xuống trần.”
Tuyên nói xong pháp đó
Liền rời cung Đâu thuật
Hiển hiện khắp nơi biết
Voi trắng như núi bạc
Bồ tát cỡi voi chúa
Như nhật chiếu mây trắng
Các trời múa tấu nhạc
Mưa khắp hoa đủ màu
Hạt châu sáng mặt trời
Ánh sáng chiếu cung vua.
Khi giáng thần hạ sinh
Hiện điềm rất nhiệm mầu.
Bồ tát giáng vào thai
Như nhạn ở vực sâu
Như mùa thu trăng tỏ
Như voi ở ao hoa
Vầng dương sáng rực rỡ
Trăng ví dường châu sáng.
Bồ tát không thể dụ
Chỉ đầy đủ phước lành
Đã nhập thai hoàng hậu
Đất rung chuyển sáu lần
Giống như thuyền trên sông
Tiếng sấm nổ trên không
Biển, ao khẻ rung động
Các dòng nước lắng trong.
Các trời trên không trung
Hoa giăng như trướng phủ
Khen ngợi vui hớn hở
Thần đất cười hân hoan
Các hoa đều nở tươi
Đất đai không gồ ghề
Thần cây thấy các hoa
Nở rộ như mắt nhìn
Ma vương yêu tham dục
Nên héo sầu tái tê.

Hoàng hậu mơ màng chợt tỉnh mộng
Các căn vắng lặng vui hớn hở
Mắt nhìn bốn phía xem xét khắp
Mặt ngọc vui mừng như hoa sen
Tâu vua: “Xin hãy lắng lòng nghe
Điều thấy trong mộng rất tốt lành
Voi đầu đàn màu trắng sáu ngà
Bỗng nhiên lại đến trước mặt thiếp.”
Vua nghe mộng hoàng hậu
Vừa mừng lại vừa nghi
Liền mời Phạm chí đoán
Nói điềm mộng đã thấy.
Nghe rồi, thầy đoán mộng
Suy nghĩ bèn tâu rằng:
“Theo sách vở đoán mộng
Xin lắng nghe kỹ càng

Hoàng hậu mơ mặt trời vào bụng
Nhân đó thọ thai sinh bé trai
Như mặt trời chiếu khắp mặt đất
Người này đức hạnh, chủ mười phương
Mộng thấy trăng tròn và các sao
Chiếu bụng hoàng hậu mà mang thai
Sinh con Thánh đức xoay bánh vàng
Chánh pháp trị vì cả bốn phương.

Bà mơ thấy voi trắng
Đi vào hông bên phải
Bé trai không vết bẩn
Trời, người cúi đầu lễ
Tất cả thảy đều biết
Đã sinh ắt thành Phật.
Theo điển xưa, sấm Thánh
Hậu mơ thấy voi trắng
Sẽ sinh con Thánh quý
Dạo bước chốn thần tiên
Cứ theo quẻ mà đoán
Ắt làm Thầy trời người,
Chỉ có hai con đường
Tại gia làm Thánh vương
Xuất gia cạo râu tóc
Thành Phật, Thầy các Thánh.”
Mừng thầy đoán mộng kỹ
Theo ý ban cho vàng
Vương hậu nghe rất vui
Tâu với vua việc lành:
“Từ mộng ấy về sau
Vui như uống cam lộ
Trong tâm dứt điềm ác
Chỉ ưa các điềm lành
Không ưa áo quý báu
Chỉ thích mặc đơn sơ
Không ham quạt trân quý
Ưa sương sạch, gió lành,
Chán ngán cảnh năm dục
Ưa thọ pháp chánh chân
Sáu căn không còn đắm
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Chẳng còn ưa cung thất
Ý muốn dạo xem vườn.”
Tâu vua như thế rồi
Nhà vua liền đáp rằng:
“Tùy ý thích của khanh.”
Nhà vua cùng theo ra
Cho đến các nhân dân.
Vườn cây hoa mát mẻ
Hậu thấy trong thân thể
Như ánh trăng trên nước
Ở thai không nhơ bẩn
Xe lưu ly hoa vàng
Mười tháng các căn đủ
Nhìn như hạt châu sáng
Bà biết lúc sinh đến
Vào hoa viên ngoạn du
Vườn hoa sạch tinh khôi
Các Thần tiên vân tập.

Phẩm 4: ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH

Bấy giờ sao Phí
Vừa cùng trăng hợp
Điềm lành ứng hiện
Từ hông phải sinh
Giống như mây tan
Ngàn trăng hiện rõ
Như tối lâu ngày
Đuốc sáng chiếu tỏ.
Phương Đông là đầu
Cây rừng là tóc
Hoa cỏ là lông
Hoa sen là mặt
Mắt là sen xanh
Cây đỏ là môi
Tu-di là vú
Bốn biển là bụng
Trung thổ là lưng
Phương Nam là gối
Tư là châu rủ
Thường là chuỗi thơm
Phương Tây là chân.
Các báu trang sức
Các vua Chuyển luân
Làm vua nhiều đời
Như số giọt nước.
Lòng bàn chân Phật
Bánh xe ngàn căm
Thường đi “ấn xa”.
Các Phật quá khứ
Đức nghĩa đã tu
Nuôi sống muôn vật
Giống như Mẹ hiền.
Khó động lập tức
Bỗng nhiên vang tiếng
Lòng mừng hớn hở
Vui vẻ ngắm nhìn,
Liền đó hông phải
Sáng rực chói ngời
Át mặt trời sáng
Như đom đóm thôi
Khiến nhật mất sáng
Không còn tinh quang.
Ánh như hoa kết
Hiện nhiều màu sắc
Che lấp bốn phương
Đầy khắp hư không
Thí như mây tan
Mặt trời chợt hiện.
Khi ấy các trời
Thấy ánh mặt trời
Đều lấy làm lạ
Bảo với nhau rằng:
“Mặt trời giáng hạ
Cây vàng hiện chăng?”
Có thần đáp rằng:
“Mặt trời Phật hiện.”
Vua mặt trời nghi:
“Ấy mặt trời gì?
E rằng đoạt ta
Cung điện mặt trời.”
Bỗng thấy ghen ghét
Ngàn ánh sáng kia.
Phật quang rạng đất
Trời chiếu hư không
Ánh sáng Thái tử
Vượt ngàn mặt trời
Mặt trời khuất sáng
Chẳng dám đương đầu.
Khắp cả đất trời
Như kiếp tận thiêu
Đất trời mờ tối
Như mới sáng sớm.
Các thần đều vui
Thần đất cổ vũ.
Ánh sáng mưa rơi
Thuốc lành cam lộ
No đủ tất cả
Dứt hết lo buồn,
Biển động như cười
Cây cối xào xạc
Sen xanh dưới ao
Như mở mắt nhìn
Các cây rải hoa
Để kính Thái tử.
Các chim liệng hót
Như tiếng tụng êm
Các trời ưa lành
Như hoa gặp trời
Đều soi mười phương
Ánh như sắc vàng.
Thần kỳ vui mừng
Hoa nở trái thời
Vàng bạc, chiên-đàn
Vụn như bụi trần
Ý trời tạo hoa
Tạnh không mây mưa
Ánh sáng soi chiếu
Cùng khắp mười phương.
Châu sáng, bốc lửa
Rồi chợt biến mất.
Mặt trời không chiếu
Những nơi đen tối
Nhưng bỗng sáng lòa
Tận ba đường ác.
Trí thánh sáng suốt
Tướng sáng dạy đời
Phạm thiên, thần thảy
Trong hoa lá sinh
Lòng Từ khiêm kính
Vừa tung rải hoa
Tay mầu hoa sen
Hai tay tiếp nâng
Hết lòng yêu kính
Mắt lành nhìn chăm,
Dùng âm thanh Phạm
Khen ngợi công đức
Đều tự nghiêng mình
Trán lễ chân Phật
Cúi đầu cung kính.
Trời đỉnh Tu-di
Hiệu gọi Bá từ
Tay cầm kim cang
Dùng ngàn mắt lành
Nhìn chăm không chán,
Hoa trời lọng trắng
Đủ thứ hoa báu
Sáng như mặt trăng
Che trên Thái tử
Khen công đức Ngài:
“Khổ nhọc nhiều kiếp
Dùng đại phương tiện
Đề cầu Phật đạo
Nguyện rủ lòng Từ
Chúng sinh đáng thương
Xin vì cuộc đời
Làm thầy không thỉnh.”
Bảy sao Bắc đẩu
Cũng được khen ngợi
Hiện bảy Giác ý
Tiêu bảy nhọc bẩn
Nên đi bảy bước
Như sư tử dậy
Dấu chân in rõ
Như bảy vì sao
Bước đi khoáng đạt
Không tâm nghi mạn
Thần đất cúi xuống
Tiếp đỡ bước chân.
Dùng mặt trời sáng
Chiếu khắp bốn phương
Hiện pháp bốn Đế
Như sư tử rống:
“Ta đến kiếp này
Thọ thân sau cùng
Không còn phải ở
Ngục tù bào thai.
Nay sẽ thành Phật
Đạo rất khó được
Dẫn dắt tất cả
Uống mật cam lộ.”
Cỏ mềm tốt đẹp
Các hoa nhiều mầu
Như trời nối kết
Trùm khắp mặt đất
Thí như Thiên vương
Ở ao trong mát
Như hoa cây vàng
Nhìn rất mầu nhiệm.
Chúng sinh năm đường
Chịu nhiều khổ sở
Đều được ngừng nghỉ
Thân an vui sướng,
Các kết trói buộc
Giam giữ rất bền
Bấy giờ các kết
Đều được giải thoát.
Khi ấy, tiếng lớn
Nghe khắp cõi Phật
Các trời, quỉ, thần
Vui mừng hớn hở
Liền bay lên không
Đến xem báu thánh.
Các trời đầy dẫy
Lấp kín không gian;
Con của rồng chúa
Như núi Tu-di
Mắt như trời, trăng
Rời khỏi biển khơi
Đầu đội lọng mây
Vội vã đến nơi
Rưới mưa nước thơm
Tắm gội Thái tử.
Thiên tử An Tường
Được trời, người đời
Cung kính thờ phụng
Làm cho thỏa nguyện
Tự hóa thân mình
Hiện thành bốn đầu
Cỡi trâu cầm lọng
Kính hầu Bồ-tát.
Đồng nam Thiên tử
Đầu đội mũ lông
Uy lực vời vợi
Hiệu Khổng Tước Tràng
Đội mũ mặc giáp
Vũ khí cầm tay
Làm Đại quân sư
Đại chúng đi theo
Ủng hộ Bồ-tát
Trong một do-diên.
Vua trời Đại lực
Tên Tỳ-sa-môn
Trân bảo đầy dẫy
Đức trùm khắp nơi.
Trời hai mươi tám
Thần và tướng quân
Các quân theo đến
Khí giáp chỉnh tề
Cùng ức quỉ, thần
Đến hầu Bồ-tát.
Lại có vua trời
Tên Tôn Tự Tại
Cùng với vô số
Hàng ức các trời
Tay cầm cờ phướn
Cùng đến nhóm họp
Đem tâm cung kính
Lễ chân Bồ-tát.
Diêm vương ác hại
Không có ai hơn
Đuổi theo chúng sinh
Dùng một pháp môn
Vất bỏ kiến chấp
Núi Thái, gậy ngục
Với tâm thương yêu
Đến lễ Bồ-tát.
Vô số các trời
Rồng, quỉ, thần vương
Trên trời Tịnh cư
Các trời thanh tịnh
Cung kính chắp tay
Như búp hoa sen
Cúi dâng cung kính
Khen ngợi thân Ngài
Hoa trời sắc vàng
Đài minh châu sáng
Hoa phù dung xanh
Thân lưu ly xanh
Làm thành hoa ý
Biết bao sắc mầu,
Chiên-đàn thơm ngát
Tung rải như mưa.
Thiên nữ trên không
Đến cùng họ hàng
Trổi kỹ nhạc trời
Ca ngợi công đức:
Xưa kia tu hành
Hằng ức gốc lành
Quả báo thành thục
Thấm nhuần chúng sinh.
Vui mừng trổi nhạc
Chư Thiên rải hoa
Thân phát ánh sáng
Rỡ rỡ ràng ràng
Các trời khen ngợi
Chúng sinh vui mừng.
Nhờ ân đức Phật
Trang nghiêm thế giới
Chim vàng, các rồng
Đều hòa hợp nhau,
Trời, A-tu-luân
Xóa bỏ oán hờn
Theo trăng Bạch Tịnh
Phát sáng trong lành
Khắp vì cõi thế
Diệt lửa ghét yêu.

Phẩm 5: PHẠM CHÍ XEM TƯỚNG

Ngay lúc bấy giờ
Các điều lành nhóm
Tai ương tiêu tan
Vui sướng vô cùng.
Vua nhân vui ấy
Ân xá, chúng dân
Vui mừng đến nhóm
Như các dòng trôi.
Như trời Đế Thích
Sinh con Cù-di,
Như trời An Tường
Sinh con đồng nam,
Như Tỳ-sa-môn
Sinh con Bảo bình
Bồ-tát xuất thế
Vua cũng vui mừng.
Thân Ngài mềm mại
Như trời mới sinh
Nhũ mẫu nuôi dưỡng
Như trẻ sơ sinh.
Mời các cựu đức
Người biết làm mẹ
Vây quanh ủng hộ
Chăm nom chẳng rời.
Quang minh chiếu sáng
Như Bậc Trung Tôn
Các mẹ vội vàng
Đến đền thờ trời
Muốn Ngài bái yết.
Hình tượng các trời
Tượng trời đứng lên
Co duỗi cao thấp;
Tượng trời bằng bùn
Bằng vàng, bằng đá
Chắp tay cúi đầu
Kính lễ Bồ-tát.
Các mẹ sợ hãi
Lòng đầy kinh ngạc
Vì điềm lành này
Hiệu Thiên Trung Thiên,
Chưa thấu sự thật
Thần đức Thái tử
Vì nỗi sợ này
Vội về cung tâu.
Vua Bạch Tịnh nghe
Kinh hoàng, sợ hãi
Liền mời Phạm chí.
Người giỏi xem tướng
Vâng lệnh đến nơi
Vua liền hỏi rằng:
“Thưa các minh sư,
Xem tướng con ta
Sợ rằng con này
Xúc phạm tượng trời
Xin dứt giùm tôi
Những nỗi ngờ vực.”
Phạm chí vui mừng
Thưa với vua rằng:
“Nay phải vui mừng
Không nên lo lắng
Vương tộc lại thịnh
Từ nay trở đi
Vua Thánh chuyển luân
Khắp đến bốn phương.
Theo quẻ xét xem:
Sinh từ hông phải
Chắc chắn tôn quý
Trí Thánh thông đạt
Đứng trên các vua
Như núi Tu-di
Đứng đầu các núi
Không có ai bằng,
Trong các thứ báu
Như ý đứng đầu
Trong các dòng trôi
Biển cả trên hết,
Trong các ánh sáng
Trời, trăng sáng nhất,
Nay Thái tử đây
Đứng trên các Thánh.
Xét các sách xưa:
Có vua Uy Nghi
Từ cánh tay sinh
Vua Luật bàn tay
Vua Tình Tư Lực
Sinh từ nách cha,
Còn vua Vãng Cổ
Sinh từ vế cha.
Vua Chi-đà-kiệt
Sinh từ đinh đầu,
Những vì vua này
Đều là Chuyển luân.
Nay xem điềm sáng
Tương ứng vua Thánh
Hóa độ trời, người
Dùng sức tuệ Thánh
Danh hiệu Phổ Văn
Trùm khắp mười phương,
Như vua Đại Thánh
Hiệu Chi-đà-kiệt
Kim luân, voi trắng
Ngọc nữ, ngựa tía
Tôi Thánh minh châu
Chúa binh bảy báu
Dạo cõi trời, người
Bốn thứ binh theo
Sẽ vì người, trời
Mở đường vô vi.
Sẽ có ngàn con
Tài lực mạnh mẽ
Sẽ dùng chánh pháp
Trị đời thái bình
Bỏ nhà xuất gia
Tiến cầu đạo thuật
Chắc chắn thành Phật,
Dùng tuệ hơn đời
Đè nén thế tục
Làm thầy các Thánh
Theo quẻ đoán ra
Chỉ hai đường ấy!”
Vua hiện dáng vui
Bảo Phạm chí rằng:
“Tổ tông đến nay
Vua Thánh đã dứt
Vua cha cũng không
Ngôi vua Chuyển luân
Con sẽ nhờ đâu
Tự làm vua Thánh!”
Tuy vua như thế
Phạm chí ngạc nhiên
Đều cùng cất tiếng
Giơ tay khen ngợi
Giống như rồng lớn
Tiếng sấm vang động
Ở trên điện vua
Mừng rỡ khen ngợi:
“Xin vua chớ ngờ
Không phải như vậy.
Cha con đức khác
Hạnh trước không đồng
Chỉ tại đời trước
Tu lập đức hạnh.
Sách quẻ mời xem
Vua nên đối chiếu
Thánh tiên thuở xưa
Hiền tài minh đạt
So sánh bốn câu
Như về phương thuốc
Đến Y-lâu-tha
Không thể đạt được
Con là Tiên hiền
Thông đạt hơn cha.
Thánh vương đời xưa
Sau không ai nối
Đến đời cháu xa
Mới có kẻ nối;
Cận Thánh cũng thế
Ngăn bờ sông biển
Người trước không thể
Như con người ấy
Di thuật như vậy.
Còn nhiều vô số
Tiên nhân thuở trước
Không thể đạt được
Cháu con về sau
Tài vượt hơn trước.
Việc do đức xưa
Chẳng phải do người.
Đời trước đã tu
Hợp với đức nay
Tuy thời nay trái
Người đức ở yên.
Xem xét quẻ này
Phù hợp điềm ứng
Chắc chắn ở đời
Làm vua Chuyển luân.”
Vua bảo các ông
Đại Phạm chí rằng:
“Nay vì Thái tử
Theo đức đặt tên!”
Phạm chí im lặng
Lòng nghĩ giây lát
Tuân lời từ tốn
Bạch với vua rằng:
“Xét nay vận thời
Lặng trong, hòa thuận
Chim lành liệng hót
Điềm ứng phát thanh,
Đất rung rộn ràng
Thời tiết điều hòa
Gió mưa đúng lúc
Đời được thái bình,
Lửa hiện sáng ngời
Trong suốt không khói.
Các trời trên không
Hiện thân chắp tay
Mưa các thứ hoa
Nhạc trời cùng tấu,
Vua giáo hóa khắp
Quốc phong thuần thục
Cõi nước của vua
Điềm lành đều đến
Đặt tên Thái tử
Hiệu là Cát Tài.
Lòng vua mừng rỡ
Ban thưởng Phạm chí
Bò sữa sừng vàng
Mấy trăm ngàn con.
Vua lại vui mừng
Xoa đầu Thái tử
Lấy chuỗi diệu bảo
Choàng quanh cổ con
Tâm Từ chắp tay
Khen đức con rằng:
“Trước làm vua Thánh
Sau mới xuất gia”.

Phẩm 6: A-DI PHÁ VỠ NGỜ VỰC

Núi cao, ao hoa trái
Vui sướng như cảnh trời
Ít núi nào bằng được
Nên gọi núi A-di.
Ở lâu nơi núi ấy
Già nua tóc kết kén
Hình thể phơi dưới nắng
Sống lâu hơn trăm tuổi,
Thân thể như mây đen
Tóc như màu bạc trắng
Mắt sáng ngời thấu lý
Hình như núi nhiều màu
Trí tuệ như Phạm thiên
Sáng như mặt trời, trăng
Bốn lửa, nhật thứ năm
Tự phơi tên A-di.
Chợt nghe tiếng vang vọng
Chim thú hót như nói
Ông hiểu tiếng chim thú
Hoài nghi ra khỏi động
Thấy chư Thiên đang bay
Vui mừng giữa không trung
Ngẩng đầu hỏi chư Thiên:
“Vì sao các vị vui?”
Vị trời tên Pháp Lạc
Đáp lời A-di rằng:
“Thầy chưa nghe hay sao?
Đời có điềm tốt lành
Vua Bạch Tịnh sinh con
Sẽ độ khắp chúng sinh
Chắc chắn thành Phật đạo
Làm Thầy của trời, người.”
Nghe danh hiệu của Phật
Hớn hở thân nổi ốc
Liền bay lên hư không
Xem đồng tử họ Thích,
Nhân đã thấy điềm ứng
Thần thông xét kỹ càng
Trong khoảng thời gian ngắn
Đã đến cửa cung vua.
Là bậc Thánh thông tuệ
Thông đạt, giới cấm cũ.
Vua đem lòng yêu kính
Mau chóng mời vào cung
Nhường ngồi chỗ Thượng tọa
Khiêm cung an ủi rằng:
“Rủ lòng thương đoái tưởng
Cúi mình vào nước hèn.”
A-di biết ý vua
Yêu kính, lễ nghĩa mình
Nhìn vua bằng mắt Từ
Khiêm cung kính trình tâu:
“Vua phải nên như vậy
Mến khách bằng thượng lễ.
Đại vương dùng pháp trị
Ban ân xuống quốc dân
Từ các vua đời trước
Bố thí nhiều các thứ
Của báu thật vô hạn
Giới, trí tuệ dồi dào.
Sở dĩ tôi đến đây
Có tâm vui mừng nghe
Nghe trời trên không nói:
“Vua sinh con thành Phật”
Tôi được nghe, vui mừng
Biết tốt lành nên đến
Cờ pháp rất đáng yêu
Xem giống dòng Thích-ca”.
Vua nghe nói lời ấy
Kinh ngạc lẫn vui mừng
Vội truyền đưa Thái tử
Đến để gặp A-di.
Ngài trên tay nhũ mẫu
Ánh quang minh sáng ngời.
Nhìn đức tướng Thái tử
Như con thiên hậu bồng
A-di không kềm được
Bèn đến trước Thái tử
Hai tay bồng trìu mến
Như mây che mặt trời.
A-di bồng trên tay
Bồ-tát thêm ngời sáng
Như trong khoảng núi tối
Lò nấu vàng đang sôi,
Mắt lành nhìn hồi lâu
Trong mắt lệ ứa trào
Thân Thái tử rực sáng
Như mây đen mưa rào.
Vua thấy A-di khóc
Trong tâm rất lo sợ
Sợ con không tốt lành
Nghi ngờ bảo A-di
Rằng: “Xin Ngài chỉ rõ
Hơi thở tôi sắp dứt
Nay thấy Ngài buồn khóc
Làm kinh hãi lòng tôi.
Được, không là mạng ta
Một sớm bỗng nhiên mất
Trước làm ta mừng rỡ
Sau sao để âu lo?
Cuối đời được con ấy
Như khát lâu được nước
Xin đừng làm ta oán
Đừng khiến ta đương đầu
Ta mới sinh ý nghĩ:
Được con, dù không còn
Còn con ta tại thế
Thì ta chẳng lo buồn.
Con ta dòng cây quý
Giáng sinh nơi cung báu
Lòng thành mách ta biết
Đem tình thương con mình”.
Mặt đầy như trăng tròn
A-di nhìn Ngài kỹ
Mi mắt ánh xanh biếc
Lưỡi như cánh hoa sen
Tóc tơ màu xanh biếc
Che vầng trán rộng cao
Hai má như sư tử
Cằm đầy đặn làm sao!
Tay dài, vai sư tử
Bàn tay bánh ngàn căm,
Lần lượt xem xong tướng
Từ đỉnh đầu đến chân
Thầy hết lòng yêu kính
Cúi đầu lễ Thái tử
Lệ tuôn như mưa rơi
Lòng thảm não tâu vua:
“Thái tử có đầy đủ
Ba mươi hai tướng tốt
Chắc chắn sẽ thành Phật
Đem lành cho nhân thế!”
Các trời nghe lời này
Từ không tung rải hoa
Đồng thanh khen “Hay lắm!”
Vua bảo A-di rằng:
“Thầy trước dựa quẻ đoán
Là thành vua Chuyển luân
Nay Thánh sư xem tướng
Lại nói sẽ thành Phật”.
Lời vua như đổ dầu
Lửa càng thêm cháy mạnh
Miệng A-di nói mau
Nói ra lời quyết định
Rằng: “Tôi xem tướng Ngài
Dáng đẹp, ý diệt dục
Hiện thân độ chúng sinh.
Với dung mạo của Phật
Nếu như không trung mưa
Lớn như núi Kim cang
Không động sợi lông Ngài
Huống gì gian nan khác.
Các lực sĩ thế gian
Các quỉ thần tệ hại
Và vua A-tu-la
Cả quan, quân thuộc hạ
Đều cầm chày Kim cang
Lớn như núi Tu-di
Đến muốn đánh Thái tử
Chày đập tan núi hết
Thái tử không lay chuyển
Phải hiểu biết như thế.
Tôi không lo việc này
Còn vui mừng là khác
Tôi thương mình, lệ rơi
Gặp Phật mà luống qua,
Tuyên ban tuệ sáng ngời
Thông ngàn lời nghĩa sáng
Phật nhân đó hiển bày
Riêng tôi không cảm được.
Đứng trong vô vi không
Diệt độ như trăng trong
Đời nhờ mát trừ nóng
Riêng tôi sẽ cháy lòng.
Phật thường cầm chày tuệ
Kim cang đập trần lao
Sẽ có thuốc cam lộ
Riêng tôi chẳng được nếm.
Phật như ngựa biển chúa
Cứu người dạt biển khơi
Riêng tôi lùi lại sau
Quỉ dâm nuốt trôi mất.
Tất cả nước trí tuệ
Các trùng ý lành đủ
Dòng sông trí tuệ trôi
Tất cả uống hết khát,
Các lành là gốc rễ
Cành nhẫn, lá ý dừng
Hoa chính là giác ý
Thành quả ngọt Nê-hoàn,
Thiền giải thoát chúng sinh
Hương giới ngát cõi đời
Cây Phật sẽ lớn lên
Tôi bạc phước không thấy.
Cửa ngu si rất chắc
Ải ái ân vững bền
Dùng chìa khóa pháp mở
Cửa nhà tù tử sinh,
Cả thế gian bốc cháy
Do lửa dâm, nộ, si
Dùng nước pháp dập tắt
Như mây, mưa, lửa đồng,
Đem tiếng còi tâm Bi
Mười phương động vang rền
Sẽ thí sửa pháp lành
Trời, người uống không chán.
Lưới giăng khắp cõi thế
Căn bệnh nặng trần lao
Dùng thuốc pháp tối thắng
Để trị bệnh chúng sinh.
Vực biển lớn của Phật
Bãi báu của các Phật
Độ người buôn sinh tử
Đem báu cho họ đầy.
Hạt cải sánh Tu-di
Vũng chân trâu so biển
Lửa đóm tranh mặt trời
Vua Chuyển luân so Phật,
Thông đạt hơn Phạm thiên
Giác tuệ vượt Đế Thích
Tướng tịnh hơn Phạm chí.
Truyện vua xưa sách đời
Tiên Thánh đại sư xưa
Học sâu, chán cúng tế
Nếu nghe Phật giáo hóa
Vội bỏ chỗ tu trì
Bình tắm, gậy, bện tóc
Bỏ các oai nghi xưa
Tâm cống cao liền xả
Ngán ngẫm lễ đã tu.
Ôi! Ngục tù già suy
Khiến ta không kịp người
Ta đã được năm thông
Nay không thể gặp hầu
Giờ ta muốn đốt sáng
Định tuệ soi thế gian
Nay ta sắp rũ diệt
Thì sao mà chẳng buồn!”
Liền gọi đệ tử đến:
“Ngươi chớ lầm như ta!”
Đem trao Thái tử lại
A-di từ giã về.

Phẩm 7: NHẬP DỰ LUẬN

Khi ấy Thích vương
Đức ngày một tăng
Báu đầy đất nước
Vang danh trí tuệ
Vàng báu chứa nhóm
Các thứ Anh lạc
Các lành trở về
Như vực biển thu,
Voi ngựa xe cộ
Như xa giá trời
Hiền thiện thuần tốt
Tự nhiên đến nơi,
Mía ngọt, đường phèn
Bơ, sữa, nước uống,
Lương thực, ngũ cốc
Khí lực thêm lên.
Tai ương trừ hết
Kẻ thù khuất phục
Thân thuộc thêm kính
Đói, dịch tan biến
Gió mát điều hòa
Mưa thuận thấm nhuần
Không trung quang đãng
Tốt đẹp đầy dẫy
Khắp toàn đất nước
Ích lợi tốt tươi
Các lành nhóm họp
Không lành tan biến
Nhờ đức Thái tử
Hòa hợp tạo thành.
Do hòa hợp đó
Vang danh khắp nơi
Các căn đầy đủ
Tướng tốt dễ nhìn
Như trăng mới mọc
Mười lăm ngày qua.
Các vua, trưởng giả
Đều đến cống dâng
Nai vàng, giá ngự
Xe dê, chiên-đàn
Ngà voi, vàng bạc
Các báu hợp thành
Đủ trân báu quý,
Ngựa giỏi, voi tài
Đồng tử kéo chơi
Vui vẻ cười đùa
Nhạn bằng bạc trắng
Mỏ bằng san hô
Theo tuổi ngài lớn
Cống nạp cho vua
Bộ cờ vàng báu
Để dâng Thái tử.
Ngài tuổi còn nhỏ
Xử sự hơn người
Nhẫn nhục hơn đất
Nặng vượt Tu-di
Sâu xa như biển
Ý trùm hư không.
Qua thời thơ ấu
Sang tuổi tráng niên
Theo đời học tập
Mọi ngành kỹ thuật.
Thái tử học giỏi
Không phải nhọc nhằn
Năm lên mười sáu
Thể hình mạnh khỏe
Văn võ đầy đủ
Nghề vượt vương tôn.
Vua thấy Thái tử
Đức ngày khá lạ
Mạnh trong anh em
Như sư tử hùng,
Vua chợt nhớ lại
Lời của A-di
Làm sao đừng khiến
Bỏ đức lớn này
Vào núi chịu khổ
Tinh tấn học đạo.
Tâm liền nghi hoặc
Vời các quan bàn
Tìm cách khiến con
Không vào núi tu.
Các quan vâng sắc
Như tôi thiên đế
Vâng lệnh vua triệu
Nghĩ kế trình bày
Suy nghĩ giây lát
Cung kính tâu rằng:
“Vâng chiếu chỉ vua
Thái tử khó lưu!
Biển có thể vượt
Nhật có thể tối
Trăng có thể mát
Nguyện Ngài khó sai!
Xin thưa đại vương
Nên nghĩ tìm cách
Nếu như tìm cách
Việc khắc phục ngay.
Giả như không được
Không ân hận gì
Việc rời phương tiện
Thì khó làm nên.
Nghe lời người xưa
Nuốt khí nuôi thân
Thân khổ nhọc mãi
Còn da bọc xương,
Nặng như núi Thái
Bị gió dục thổi
Ái, nhuế chao đảo
Như gió thổi cây
Làm đẹp nhà cửa
Sắc, thanh, hương, vị…
Hoa hương trang sức
Dáng như Tiên nữ
Niềm vui bậc nhất
Mê say nữ lạc.
Năm dục còn làm
Mê hoặc Tiên sĩ
Ôi! Sắc, thanh, hương
Vị, xúc êm ái
Tâm đã vui mừng
Năm tình tham đắm
Dục là ngục tù
Lưới lớn bền chắc
Ràng buộc con vua
Mới không lo lắng!”
Vua tin điều này
Liền vời gái đẹp
Từ mười lăm tuổi
Dung mạo đẹp đẽ
Sáu mươi bốn điều
Tư thái đầy đủ
Đem số cô gái
Sung cung Thái tử.
Ngài tịnh tu lâu
Cầm giáo hổ thẹn
Giữa các thể nữ
Như trăng giữa sao
Thu hết ánh sáng
Chẳng ưa năm dục
Miệng không hề nói
Lời không thuận lúc
Mắt không thích thấy sắc
Như người đói vẫn vui.
Các kỹ nữ xấu hổ
Như tối tránh sáng ngời.
Vua cha nghe như vậy
Chẳng ngủ yên trên giường
Lại ra lệnh trong nước
Những người tướng đẹp sang
Ai có con gái đẹp
Phải nhóm họp về cung
Nếu ai trái kỳ hạn
Thì trách phạt thật nặng.
Lập xong nghiêm hạn đó
Lấy ra nhiều Anh lạc
Cho họ lấy tùy ý,
Vào cung làm thể nữ
Đủ các thứ trang sức
Để dạo xem ao vườn
Vô số cô gái đến
Đều được ban Anh lạc.
Đức Ngài như mặt trời
Mắt không hề nhìn đến
Tự giữ ý so lường
Không bao giờ nhiễm ô.
Thích nữ dòng Chấp trượng
Dung mạo như Thiên nữ
Tâm nhẫn nhục như đất
Mặt sáng như trăng tròn
Con cháu vua thánh xưa
Tương ứng ngọc nữ báu,
Đức rộng trùm thiên hạ
Dứt lo như nhạc trời
Mang nặng có trí tuệ
Tướng đẹp dung mạo ngời
Danh xưng là bậc nhất
Cho nên hiệu Hàng Xưng.
Mắt như cánh sen biếc
Tay cầm hoa Ba-đàm
Hai tay bưng hoa đẹp
Vui mừng đến chỗ mẹ
Chỉ mẹ thấy trang sức
Ý muốn vào cung xem
Muốn được gặp Thái tử
Tâm tự nhiên luyến mến.
Mẹ liền bảo cô gái:
Rằng: “Thà chịu vua trách
Không bao giờ cho đi!”
Quyết xin mẹ cho đi
Thưa với cha mẹ rồi
Liền được phép ra đi.
Dáng khiêm cung yêu kính
Giã từ cha mẹ rồi
Cùng người hầu sang đó
Như sông Hằng ra khơi
Đã vào trong cung vua
Từ xa thấy Thái tử
Năm trăm đời quá khứ
Từng làm vợ Thái tử
Nơi nàng đã sinh ra
Bậc nhất trong người nữ
Đời trước duyên đã định
Nên nhìn chăm Thái tử
Dáng vui mừng hiện rõ
Như hoa sen trên nước
Bước đi nhẹ, khoan thai
Vắng lặng không tiếng động
Giống như các dòng chảy
Vào biển thì lặng im.
Trong chúng có cô gái
Làm hai bài tụng khen
Âm vận rất hòa hợp
Hợp lúc, thuận cảnh tình
Rằng: “Cô gái đẹp đến
Tay cầm hoa sen xanh
Nhớ hạnh lành đời trước
Nhờ hình tướng nhớ lại
Quá khứ dâng danh hoa
Cúng dường Phật Định Quang
Cầm hoa đẹp khác thường
Giống như trời Đao-lợi.”
Bồ-tát bỗng nghe được
Danh hiệu Phật Định Quang
Trong tâm liền kinh động
Đưa mắt nhìn khắp cùng
Rồi liền lên tiếng bảo:
“Đưa hoa trong tay đây!”
Được lời, nàng hớn hở
Như uống thuốc cam lộ.
Theo lời liền dâng hoa
Lên cúng dường Bồ-tát
Hầu bên trái Bồ-tát
Như sao sáng bên trăng.
Thái tử thấy chuỗi ngọc
Không hợp trang phục nàng
Liền cởi chuỗi ngọc sáng
Đeo vào cổ mỹ nhân.
Bấy giờ chuỗi ngọc sáng
Trang sức dáng mỹ nhân
Đẹp đẽ không gì sánh
Châu sáng thêm sáng ngần
Giống như trời Đế Thích
Ở nơi điện tía xanh
Cũng như ngày mười lăm
Các sao vây quanh trăng.
Cả cung đều vui mừng
Đều cùng nhau cất tiếng
Bảo rằng: “Thật được phi!
Ai cũng đều vui mừng!”
Tiếng xưng tụng như vậy
Giây lát đến tai vua
Vua nghe rất vui mừng
Ban thêm vật trân báu.

Vua liền ra lệnh
Cha mẹ nàng vào
Ban cho trân báu
Không thể tính kể,
Vời Phạm chí giỏi
Chọn tháng ngày lành
Sửa đường rải hương
Hoa đèn kết quanh
Dùng dầu thần chú
Lửa thần dồi dào
Rửa tay Thái tử.
Cha mẹ trao nàng
Làm phi Thái tử
Nữ nhân bậc nhất
Ở bên Thái tử
Như trời, trăng sao.

QUYỂN 2

Phẩm 8: CÙNG CHÚNG THỂ NỮ DU CƯ

Các thứ trang trí
Giống như cung trời
Xuân, hạ, thu, đông
Bốn mùa đều khác,
Theo mùa sửa sang
Dạo chơi ao vườn
Cũng như Thiên đế
Thí an cây rừng.
Thái tử nhân dạo
Đến xem vườn ao
Thể nữ vây quanh
Như trăng giữa sao.
Bấy giờ các cô
Đêm ngày trổi nhạc
Cười vui đùa cợt
Hơn mấy năm sau
Hoặc vì vui Ngài
Lại làm thuật mới
Hoặc hiện thân mình
Thỉnh thoảng viết tụng,
Hoặc vẽ tranh ảnh
Hoặc là khắc chạm,
Hoặc dùng đất bùn
Đắp nhiều bức tượng,
Hoặc kết tràng hoa
Dùng để trang sức,
Hoặc ở trước mặt
Hoặc có hương xoa,
Hoặc dùng gương soi
Hoặc lược chải đầu
Vẽ đen mi mắt
Tô đỏ môi son.
Lại có thể nữ
Lấy hoa ném nhau
Hoặc là cười đùa
Hoặc buồn than khóc
Hoặc miệng ca vịnh
Càng nghe càng thích
Như ong, đom đóm
Kêu ở trong hoa.
Thể nữ xin tắm
Thái tử bằng lòng
Chỗ cây Vô ưu
Có ao sen hồng
Ánh sáng tô điểm
Chiếu cây sắc vàng
Như vàng trong lửa
Rực rỡ cây rừng.
Các cây nghiêng xuống
Tung hoa cúng dường
Chim hòa điệu hót
Giọng nghe cảm thương;
Gái cười, chim hót
Tiếng vọng vang xa
Năm âm cùng trổi
Rung động cõi lòng.
Thái tử xuống tắm
Nước ngập đến lưng
Thể nữ vây quanh
Ao nước sáng bừng
Giống như ngọc sáng
Vây núi báu chúa
Tướng mầu sáng rỡ
Đẹp đẽ vòi vọi.
Thể nữ trong ao
Đùa vui đủ trò
Hoặc hụp hoặc lặn
Hoặc toé nước nhau
Hoặc cùng hoa giỡn
Dùng hoa ném nhau,
Hoặc lặn xuống đáy
Hồi lâu trồi lên
Hoặc ở trong nước
Hiện các thứ hoa
Hoặc lặn dưới nước
Chỉ đưa tay lên.
Thể nữ trong ao
Các hoa sáng rỡ
Khiến các hoa sen
Mất đi ánh sáng.
Hoặc có nàng vịn
Tay chân Thái tử
Như đủ loại hoa
Quấn quanh cột vàng.
Các cô xoa hương
Bị nước rửa trôi
Chiên-đàn mộc mật
Nước thành ao thơm
Đùa giỡn như vậy
Khó kể cho cùng.
Sáu muôn thể nữ
Vây quanh cạnh Ngài
Thái tử ở giữa
Như trời Đế Thích
Ở ao trời tắm
Cùng với Thiên nữ
Ở đó đều ngồi
Thuyền báu vàng bạc
Trong ao dạo chơi.
Như trời nương mây
Thái tử lại ngự

Trên thuyền bảy báu
Phi ở cạnh bên
Cùng nhau xuống ao.
Màu thân vàng chiếu
Soi xa một trượng
Như trời trên thuyền
Ai cũng kinh ngạc
Cho mặt trời mọc
Các hoa nở ra
Ánh càng sáng chói
Như vua mặt trời.
Thái tử rời ao
Thể nữ lại theo
Tấu ca kỹ nhạc
Làm nước giải lao
Thể nữ uống rồi
Nhảy múa vui chơi.
Khi ngày vừa tối
Ánh trăng sáng soi
Muốn mê Thái tử
Ý Ngài chẳng chao!
Muốn khiến Ngài tham
Ý Ngài chẳng đắm
Đèn tuệ rất sáng
Không thể diệt tan
Như đèn ngọc sáng
Chẳng hại thiêu thân.
Chốc đà tối hẳn
Thể nữ ngủ say
Vợ Thái tử ngủ
Mơ thấy lo biến
Thấy Ngài xuất gia
Bỏ cung thể nữ
Đi vào núi rừng
Các phi đuổi theo
Buồn bã cầu khẩn:
“Chớ ruồng bỏ nhau
Đã thành chồng vợ
Nay bỏ cho ai.
Tôi nay tự xét
Không lỗi lầm gì
Xin Ngài cân nhắc
Chớ bỏ nhau đi!
Một mình vào núi
Siêng tu các đức
Sao lại bỏ thiếp
Thật là nhẫn tâm.
Người xưa xuất gia
Cũng có phi đẹp
Xin rủ lòng thương
Hãy đợi chờ nhau.”
Hơi thở dồn dập
Thái tử vào rừng
Lòng dạ cuồng loạn
Lần từng cây rừng
Gào với cây cối
Rằng: “Ngươi không lo
Riêng ta sầu não
Hãy chỉ Thái tử.”
Ngước nhìn lên cây
Thấy chim mỏ đỏ
Nhìn chim than khổ:
“Ta mất chỗ nương
Tiếng ngươi giống người
Để tiếng cho Ngài.
Xin đem tiếng hót
Dứt não lòng tôi.”
Lại nhìn cây nói:
“Sao ngươi không thương
Ta mất chỗ dựa
Quờ quạng mê man
Chồng ta bỏ đi
Nên sinh thương xót
Cười làm sao được?
”Hoa đều nở hết
Thấy chim hai đầu
Cùng bay song song
Càng thêm sầu khổ
Rơi lệ nói rằng:
“Xin chỉ cho ta
Người ôm nặng hờn
Để ta thấy chàng
Mất chàng ta chết!
Hoa rơi trên mình
Càng phiền lòng ta
Chỉ ngươi chim tốt
Chớ ghen ghét ta
Tâm ta tán loạn
Ưa thích kỹ nhạc
Không hề xúc phạm
Vì sao như thế?
Bị gió lay động
Cành cây lắc lư
Giống như dùng tay
Đấm vào thân ta.
Chim thú cho thấy
Chúng chẳng bỏ chồng
Tiếng nước như mắng
Ta chẳng đành lòng.”
Ngài không trở lại
Liền buồn than rằng:
“Để lại mắt biếc
Để lại ý hợp
Để lại nụ cười
Để dáng hoa vàng
Để lại bím tóc
Ta thấy hoang mang.”
Miệng nói chưa dừng
Bỗng thấy Thái tử
Ở trong rừng cây
Liền đến nói rằng:
“Vì sao bỏ nhau?”
Nói xong bất giác
Ôm chầm Thái tử
Thẹn thùng hồi lâu.
Thái tử hỏi rằng:
“Vì sao như thế?”
Liền kể điềm mộng
Thái tử bảo rằng:
“Đó không phải nàng
Ta không hề đi
Ai đi, ai lại
Không có người đi
Cũng không chỗ đến.
Nàng hãy hiểu kỹ:
Sắc như chùm bọt
Ý như bong bóng
Tưởng như lửa sáng
Hành như cây chuối
Thức như huyễn hóa
Các căn vô lực
Hình thể nhân nhau
Giống như hoa hợp.
Biết đời vô thường
Thí như ngựa hoang
Tôi, ta không có
Cũng không bền chắc
Hợp thì có ly
Nàng nên biết rõ.”
Thái tử tự nghĩ:
“Nên ta ra đời.”

Phẩm 9: BIỂU HIỆN LO SỢ

Vua thương Thái tử buồn
Khuyên nên đi du ngoạn
Mới ra khỏi cửa thành
Mặt trời mọc mây tan
Ngài ngự xe bảy báu
Các đức tướng trang nghiêm.
Tướng theo hầu sang trọng
Như trăng và các sao
Công đức thật đầy đủ
Hình dung rất nhiệm mầu.
Vua truyền khắp trong nước
Dẹp đi già, bệnh, chết
Kẻ nghèo cùng khốn khó
Chớ để bày bên đường,
Nơi nơi phải trang hoàng
Nhiều lọng báu, cờ phướn
Lầu gác, các phụ nữ
Giống như thành Thiên cung
Trang hoàng thật lộng lẫy
Không ai không vui mừng.
Nhân dân đều ca vịnh
Cả nước tiếng vọng vang
Như nước thu về biển
Người chen lấn để xem
Điểm trang và ăn mặc
Chưa xong đã vội đi
Hoặc chưa kịp sửa soạn
Nghe tiếng đã chạy đi.
Các lầu gác, lan can
Đầy nghẹt người và người
Hoặc đầu thân lơ lửng
Giống như các hoa rũ
Hoặc khom mình lễ bái
Người người khen ngợi rằng:
“Sẽ làm Thầy dẫn đường.”
Tung các hoa hương, chuỗi
Thấy vậy đều kinh ngạc
Họ truyền bảo nhau là:
“Đây là thần gì vậy?”
Hoặc nói: Từ trời xuống
Hoặc rằng: Chính Đế Thích!
Hoặc: Ma vương, Phạm vương!
Hoài nghi, mừng hớn hở
Ca ngợi đủ mọi cách.
Các trời thấy Thái tử
Cùng tùy tùng ra đi
Giống như trời Đế Thích
Khi đi ra dạo chơi.
Khi đó trời Tịnh cư
Muốn giáng xuống điềm lành
Như Phật xưa hiện điềm
Khuyên xuất gia học đạo
Trời liền hóa người bệnh
Nằm thở bên lề đường
Mắt vàng, sắc nhợt nhạt
Khí thể, miệng khô khan
Thân sưng, bụng phình trướng
Rịn ra chất bất tịnh
Trây trét khắp thân thể.
Bồ-tát mắt nhìn qua
Hỏi rằng: “Vật gì thế?
Gớm ghiếc khó thể nhìn!”
Người hầu liền đáp lại:
“Uống ăn không giờ giấc
Bốn đại không hòa thuận
Đó gọi là người bệnh!”
Bồ-tát lại hỏi rằng:
“Xét ra chẳng chừa phần!”
Kẻ hầu liền đáp lại:
“Đúng vậy không chừa ai!
Ở đời không ai khỏi
Nguy ách về bệnh tật
Bốn trăm lẻ bốn bệnh
Là đại hoạn thế gian
Ngài cũng không tránh khỏi
Chỗ đại biến khổ nàn.”
Thái tử dừng xa giá
Lo rầu thảm thương than
Nghe “bệnh” lòng đau đớn
Như voi bị trúng tên
Gặp bệnh lòng xúc động
Lệnh người hầu quay xe.
Lòng dạ đầy hoảng sợ
Như trâu sợ sấm to
Nghe tiếng sấm sợ hãi
Hoảng hốt thân chẳng yên.
Sau đó lại đi dạo
Trời hóa làm người già
Đầu như tơ trắng toát
Da thịt khô nhăn nheo
Run như cành trong nước
Thân còng như cung trương.
Thái tử thấy liền hỏi:
“Đó gọi là người gì?
Sinh ra là như vậy
Hay có biến đổi chăng?”
Người hầu nhân đó đáp:
“Từ đầu thân thọ thai
Khởi lên như chùm bọt
Duyên khởi năm thể hiện
Phân hiện thành sáu căn
Sau đó mới sinh ra,
Nhỏ uống sữa mẹ sống
Lớn dần ăn ngũ cốc
Lần theo đất mà đi
Ban đầu nói như chim
Thế rồi đứng, đi, chạy
Thể mạo hình dung thành
Các căn dần thành thục
Cho nên gọi là già.
Đó là sứ trời gọi
Bày thức tỉnh chúng sinh
Thân suy hết mừng, thảm!
Như hoa bị sương độc
Mặt như trăng bị khuyết
Tâm như trời bị che
Sức tráng niên khô kiệt
Như nước rỉ cát khô
Trộm chí, tư, tài, người.
Vô hình đến như giặc
Tâm não mất nghe biết
Giống lửa đồng đốt đầm
Đè nén như ép dầu
Uống tinh khí của thân
Hủy hoại thân đổi khác
Đó được gọi là già.”
Thái tử nhìn hồi lâu
Bèn buồn bã than dài:
“Ngọn núi lớn già, bệnh
Nghiền mạnh nát chúng sinh
Khắp đời gặp khổ nạn
Ý thỏa thích sao đành
Phải tìm cách thoát khỏi
Như tránh bọn cướp hại.”
Sau đó, lại du ngoạn
Trời hóa thành người chết
Họ hàng theo xe tang
Xõa tóc kêu khóc vang
Hỏi rằng: “Đây là gì?
Trình ta cho thật lòng.”
Bấy giờ những người hầu
Tâu Ngài đầy đủ rằng:
“Ngày qua đến già suy
Đau đớn tinh cạn vơi
Chiếc cửa bén tám tiết
Cắt cứa cây sống đời.
Chiếc búa sắc ngày tháng
Ngày đêm thường đốn chặt
Gặp gỡ gió vô thường
Lướt theo lật ngã nghiêng
Chia lìa với mẹ cha
Riêng mình đi đường mê,
Vợ con và anh em
Không người thân nương cậy
Không còn phương cách cứu
Vây quanh mà than khóc
Mến mộ buồn tiếc thương
Khen đức lúc còn sống.
“Ta cũng sẽ như thế!”
Đều chết, Ngài đừng nghi
“Ta cũng lìa người thân”
Ngài chắc sẽ chia lìa!
Cuộc đời bị chết buộc
Làm sao yên nói cười?
Vì không biết hổ thẹn
Nên sống chết bao lần.
Con đường dài đêm ngày
Ngày tháng trôi không dừng
Già, bệnh, chết rất độc
Hàm răng, sắc lo buồn
Bị lưỡi bốn mùa liếm
Đi đêm chốn hiểm nguy
Tất cả không ai khỏi.
Chết như rồng nuốt chửng
Làm tan nát khắp nơi
Hủy diệt đến tận cùng
Đều được như mong muốn
Nuốt hết, thiêu cháy cùng
Đuổi hết, bẻ gãy hết
Không có gì ngăn chận
Ngài nên hiểu là chết!”
Nghe rồi sợ hãi nói:
“Ở đời vui cười được
Vàng đá cười đó chăng?”
Thái tử lo âu bước
Nhớ chết như nước sôi
Giống như sư tử mạnh
Ở rừng gặp lửa đồng
Nghĩ muốn được lìa khỏi
Lửa già, bệnh, chết hừng
Thuận đạo niệm không quên
Tìm cách để thoát khỏi.
Trời hóa làm Phạm chí
Hình tiều tụy hiện ra
Mày râu dài, tóc rối
Mặc áo da nai thô
Tay cầm bình nước rửa
Lại cầm gậy dò đường.
Bồ-tát nhân đó hỏi:
“Ngài tu pháp thuật gì?”
Liền đáp lời Thái tử
“Xin nghe điều tôi nguyện
Không lo già, bệnh, chết
Nơi đó gọi là trời!
Nay ở đây gieo mầm
Sinh thiên: Hoa to lớn
Cầu an vui khoái lạc
Sinh cõi trời manh nha.”
Thái tử khen cho rằng:
“Người này thấy kế sáng
Bảo rằng trời khỏi hoạn
Cũng là điều ta thích
Tâm còn nghi một điều
Là thường hằng mãi chăng?
Nếu ắt thường an vui
Nên nguyện sinh cõi trời.”
Trời ở trên gọi lành
Khen Thái tử tâm tịnh
Trên trời tuy vui sướng
Nhưng chết sẽ bị đọa
Hưởng phước lành an vui
Nhưng không còn dài mãi
Phước hết liền bị đọa
Phải chịu khổ ba đường.
Mặt trời ngàn ánh sáng
Phước hết đọa tối tăm
Trăng tròn chiếu sáng rỡ
Trăng lặn không còn sáng
Phạm, Thích, vô số trời
Tuy thật ngôi trời vinh
Lại là vật đáng thương
Thân quỉ đói ăn xin.
Xưa vì Phật Bảo Đảnh
Thắp đèn suốt bảy ngày
Mới phát tâm cầu Phật
Lập nguyện rất vững chắc
Tức thời ma run rẩy
Giống như là cây chuối
Cũng làm cung điện chúng
Chấn động không được an
Được ba cõi tôn kính
Nay không nên bỏ quên.
Đối với vô số Phật
Tu biết bao nhọc nhằn
Xưa vì Thí An Phật
Xây tháp lớn bảy báu
Giống như núi Tu-di
Đứng sững trên mặt đất,
Dâng Định Quang bảy hoa
Thọ ký sẽ thành Phật,
Tung hoa vàng cúng Phật
Suốt đời nguyện Đại thừa.
Lại xây cất chùa miếu
Dâng hoa sen cúng Phật
Và vô số Phật khác
Bày các báu, hoa hương
Dùng hoa trời cúng dường
Vô số Phật Năng Nhân,
Lại cùng Phật Hiện Nghĩa
Trọn đời dâng hoa hương.
Ca ngợi Phật Phương Diện
Cho đến trong bảy ngày
Cúng dường Phật Vô Hiện
Trọn cả cuộc đời mình.
Lại cúng Phật Đảnh Vương
Y phục bằng bảy báu
Bố thí Phật Vô Lậu
Mong muốn làm Sa-môn.
Vào thời Phật Lý Quang
Vào đạo, giữ pháp tịnh,
Lại thời Phật Vô Hạn
Cạo tóc làm Sa-môn,
Đối mấy ngàn Đức Phật
Giữ siêng năng cung kính.
Có đời gặp hổ đói
Bố thí, cho vợ con
Bỏ mắt, thân, da, thịt
Tay, chân, lòng vẫn an
Như thế không kể xiết
Thí đầu có hàng ngàn
Khi đang bố thí đó
Ba ngàn cõi rung chuyển.
Khoảng thời gian nói thế
Hiện chết cõi trời đọa
Người sau buồn luyến tiếc
Xoay vần mến thương nhau,
Dưới hiện tám địa ngục
Đều có mười sáu ngục
Bỗng vang lên tiếng lớn:
“Khắp đời đều sẽ chết!”
Theo đó lần tiến lên…
Thích nữ tên là Nai
Thấy Thái tử như trời
Nói tiếng lớn như vầy:
“Là cha, chẳng lo lắng
Là mẹ rất an vui
Chồng được như người ấy
Vợ như được vô vi.”
Như mây sấm từ trời
Tiếng vào tai Thái tử
Mới nghe tiếng vô vi
Như mệt được nghỉ ngơi
Các căn đã đầy đủ
Như hiểu được trong lòng
Lấy chuỗi báu của mình
Xa ném vào cổ nàng.
Vì nghe vui vô vi
Không tà dục trong lòng.
Tâm vui hướng vô vi
Bỗng thấy hóa Sa-môn
Uy nghi giới vắng lặng
Cầm bát, mặc ca-sa
Thái tử bảo người hầu
Quay xe đến gặp nhau.
Thái tử hỏi Sa-môn
Liền lên tiếng tâu rằng:
“Sáu căn không các lậu
Lìa nhà, xa lìa nạn
Núi rừng sống nhàn nhã
Chỗ tịnh nghỉ qua đêm
Xin ăn tự nuôi sống
Ngài muốn học điều này.
Tôi, được gọi Sa-môn
Vì mong cầu giải thoát
Ý yêu, ghét dứt hết
Điều các căn, tâm tịnh
Xả tôi, ta không chấp
Bỏ tất cả các việc,
Ngồi xe cộ của mình
Tay cầm cung trí tuệ
Lập nhiều các phương tiện
Muốn trừ diệt ma binh.
Nguyện không lửa, không đất
Không nước, không gió mây
Không trời, trăng, các sao
Không hư vô, hết hoạn
Không già, chết, lo buồn
Cũng không buồn chia ly
Cam lộ dứt trừ hẳn
Tôi nguyện được chỗ này!”
Nói lời này vừa dứt
Trước Thái tử biến mất.
Thái tử bước khoan thai
Ánh sáng chói ngời đất
Trở lại vườn du ngoạn
Tâm vắng lặng an định
Ý suy nghĩ bao điều
Phương tiện các việc thiện.

Phẩm 10: DƯỚI BÓNG CÂY DIÊM-PHÙ-ĐỀ

Vào lúc ấy, Bồ-tát
Tâm buồn thảm trở về
Về đến vườn du ngoạn
Đức sáng như vua trời
Đứng đầu các Tiên thánh
Không bị nữ sắc mê.
Bấy giờ thấy nông phu
Đang ra công cày bừa
Xén chết bao trùng đất
Liền sinh tâm thương xót
Như thương yêu con đỏ
Bùi ngùi mà than dài.
Cách cây đó không xa
Kho tàng bỗng hiện ra
Một do-tuần vuông vức
Ánh bảy báu sáng lòa.
Tướng hầu vui hớn hở
Lấy vật báu, sách, vàng
Trên khắc tên vua xưa
Vật ấy, vua ấy làm
Thái tử xem chữ khắc
Biết vua Chuyển luân xưa
Tám muôn bốn ngàn đời
Xoay vần nhau truyền thừa.
Ngài nhìn đống bảy báu
Như nhìn thấy rắn độc
Ngoái nhìn dáng hoa sáng
Cúi mình lễ người xưa.
Lệ tuôn rèm mi biếc
Rơi đầy dáng mặt hoa
Đưa mắt lành nhìn khắp
Ngước nhìn trời bao la
Tiếng Phạm âm buồn bã
Bảo người đứng chung quanh:
“Những người họ Thích xưa
Kiêu mạn một đời hùng
Bỏ nước ngôi báu trời
Một mình đến phương nào?
Thân nhọc nhằn khắp nơi
Chứa nhóm nhiều vô số
Kho báu trong đất nước
Chữ xưa, không có chủ.”
Tâm nghĩ đến vô thường
Đến dưới gốc Diêm-phù
Liền đưa tay vàng chói
Đặt lên đùi sắc vàng
Ngồi tư duy không động
Gồm ý chuyên nhất định
Quán sinh diệt hợp tan
Đợi chứng nhất định trụ
Như số cát các sông
Chư Phật ý bất cộng.
Sông chín não chảy đục
Nhờ ngọc mà lắng trong
Đối tất cả chúng sinh
Tâm Từ trong khoảnh khắc
Phước vô hạn vô lượng
Tâm Từ thương chúng sinh
Lại khởi tâm thương xót
Muốn an các khổ nàn
Xét kỹ thấy tất cả
Bình đẳng đạt Sơ thiền.
Bỏ các pháp ác dục
Liền được niềm hân hoan
Cho đến Thiền thứ tư
Được vô lượng thanh tịnh.
Khi ngày đã xế chiều
Cây cối bóng ngã dài
Chỉ bóng cây Diêm-phù
Như lọng che Thái tử
Như người biết ân dưỡng
Theo báo đáp không màng
Bóng chẳng lìa Thái tử
Như báo đáp không rời.
Vua họ Thích nghe vậy
Vội đến như sư tử
Thấy Thái tử dưới cây
Như mặt trời trong mây
Tình vui mừng hớn hở
Ngạc nhiên không kể xiết
Mắt lành nhìn rơi lệ
Lễ chân, tiếng buồn than
Dùng vô lượng ý kính
Như thế, giờ lại lễ
Nguyện đất nước có đức
Đừng sinh tâm bỏ đi
Khắp nơi mừng hớn hở
Giống như cầu phước trời
Mong chớ bỏ ngu mê
Mất phước rơi tối tăm.
Con là đức thế gian
Làm rạng rỡ người trước
Chỗ dựa của tất cả
Người hùng trong họ Thích,
Là thân mạng của ta
Các Thiên nữ cõi dục
Chúng sinh cõi Phạm thiên
Tự tại ban lệnh khắp
Đừng đoạt mạng chúng ta
Giống như vua địch mạnh.”
Vua yêu con bất giác
Buồn thảm trở về cung
Vua trở về không lâu
Thái tử liền xuất định
Nghe trên không có tiếng
Trời thứ nhất thưa rằng:
“Đạo Sư của trời, người
Xin nghe chúng tôi nói:
Xin Ngài hãy ra đời!
Từ vô số kiếp nay
Danh, sắc chia hai chi
Trùm khắp trong năm đường
Mầm gốc đến ba cõi
Rất lớn và vững chắc
Nay đem cày trí tuệ
Lật gốc cây sinh tử
Ái sâu: Ao, vực rộng
Loạn tưởng như cá lội
Mê che lấp kéo lôi
Sóng ganh giận cuồn cuộn.”
Trời thứ hai lại tâu:
“Với ý kính thanh tịnh
Thuyền nổi hãy nương tiến
Vượt bờ biển trần lao.”
Trời thứ ba tiếp lời:
“Gieo giống núi kiêu mạn
Hầm tà kiến sâu thẳm
Ganh giận không có bờ
Sông và hang bệnh, chết
Chênh vênh và khúc khuỷu
Dùng chày Kim cang tuệ
Đập tan các núi khổ.”
Nghe xong Ngài đứng dậy
Như núi vàng sáng rực
Bước hùng thật ung dung
Tiếng vang như sấm động
Mắt như lá sen xanh
Khuôn mặt như trăng đầy
Chán nhà ưa vô vi.
Ý chỉ muốn lìa dục
Như sư tử bị tên
Đau đớn trở về cung
Đến thẳng cung vương phụ.
Trước điện vua Bạch Tịnh
Quỳ chấp tay tự tâu:
“Xin nghe con trình tấu
Con muốn được xuất gia
Tu theo hạnh Thánh xưa!
Có hợp ắt có tan
Đâu ai còn mãi được”.
Vua nghe lời tâu lên
Lòng như trăng nước động
Nghẹn ngào không nói được
Hồi lâu mới nói rằng:
“Con chớ có ý này!
Ra đi chưa phải lúc
Tuổi trẻ sức sung mãn
Không nên ở núi rừng
Mà chính là lúc ta
Bỏ ngôi vào đạo pháp.
Con là người có đức
Xứng đáng ngồi trên ngai
Đất nước hy vọng con
Làm vua Thánh chuyển luân
Họ Thích vinh nhờ con
Con không nên thiền vị.”
Ngài dùng lời tha thiết
Mà đáp lời vua cha:
“Con xin cha bốn điều
Bảo đảm cho con được:
Khiến thân không tật bệnh,
Già không đoạt tuổi trẻ,
Chết là nạn cuộc đời
Khiến không cướp mạng sống,
Việc thành không hư hoại.
Bốn sự việc như thế
Nếu bảo đảm chắc chắn
Con ở không lo lắng
Không đi vào núi rừng
Thảnh thơi cai trị nước!”
Vua rằng: “Bốn việc này
Không thể bảo đảm được
Nhưng con phải ở ngôi
Không thì, không thuận lý.
Ở ngôi vẫn tu pháp
Đến được đạo vô vi
Mũ bảy báu đội đầu
Y phục quý sáng thân
Các vẻ đẹp tự nhiên
Như vua trời cõi Dục
Đều ngồi trên ngôi vua
Đều đến chỗ giải thoát.
Có vua tên Lực Thắng
Có vua tên Bất Mê
Có vua tên Thức Tri
Có vua tên Vũ Lực
Các ngài đều ở ngôi
Đều được giải thoát diệt.
Như thế nên ở lại
Được cả hai không mất
Được tự tại trong lòng
Và đối với đất nước
Không thể bị bỏ phế
Ắt sẽ mau thành tựu.
Ta nguyện đem ngự xa
Ngũ phục trao cho con
Tắm con, lọng báu che
Rồi ta vào núi rừng.”
Thái tử giữ khiêm kính
Mà đáp lời vua cha:
“Nếu không thể bảo đảm
Xin cha chớ cản ngăn
Dù nhà là vàng ròng
Lửa cháy cũng phải tránh
Kẻ trí không nên ngăn
Gặp kiếp tai tránh lửa.
Nên biết nhà vàng ròng
Ở chung với tự tại
Tuy ba lửa cháy nhanh
Mà sao không bỏ chạy?
Lại có ao tắm trong
Hoa sen nở đầy khắp
Có nhiều quả túc trùng
Không thể bỏ đi sao?
Tay cầm chiếc cung cũ
Dùng sức mạnh lợi ích
Bắn bằng tên bệnh khổ
Phát ra trọn không mất,
Rơi vào vòng túc đối
Diêm vương thường săn bắt
Ai ngu mà đứng chờ?
Có thể nhằm bắn ta!
Nếu có kẻ sợ không
Tìm phương tiện trốn chạy
Đến chỗ thấy hư không
Sợ, không biết nẻo về.
Như thế trong năm đường
Vô thường khắp tất cả
Muốn đến nơi Vô úy
Vậy chẳng nên cản ngăn.”
Đến đây vua họ Thích
Im lặng không đáp nữa
Tự thân dắt tay con
Dẫn dụ muốn rời khỏi
Liền ra lệnh các quan
Thêm kỹ nhạc giữ chân.
Lúc bấy giờ Thái tử
Vào cung tự nghỉ ngơi.

Phẩm 11: XUẤT GIA

Vào lúc này Thái tử
Tâm sầu lo tiều tụy
Lại đến chỗ vua cha
Hết lòng xin xuất gia.
“Nếu cha thấy thương xót
Xin xem đời nhiễu động
Có hợp nào chẳng tan
Khó giữ được lâu dài,
Xin cha cho con đến
Chỗ núi rừng Tiên nhân
Ở đó tu khổ hạnh
Mở rộng đường giải thoát.
Không còn nguyện nào khác
Vượt lên trên nguyện này
Nếu xét thấy thương xót
Xin cha cho phép con.”
Bấy giờ vua Bạch Tịnh
Đưa tay màu cánh sen
Cầm lấy tay Thái tử
Giọng buồn gọi ngài đến
Lệ rơi nhìn chăm chăm
Hồi lâu rồi than dài
Sau đó mới thốt lên
Lời chua cay đau khổ:
“Xin con hãy buông bỏ
Chớ giữ mãi ý định
Nay con chưa nên vậy,
Núi rừng hãy chờ lúc
Tâm hãy hưởng vinh hoa.
Chưa từng trải cần khổ
Bị các dục cướp đoạt
Như xe không người lái
Nay chính là ta đó.
Núi rừng hãy chờ lúc
Nên đem ngôi vua báu
Đến lượt trao con rồi
Nước thơm con tắm rửa
Đem mũ báu tiến trao
Ta mừng không lo lắng
Vào núi rừng không lo
Mong con nhận quán đảnh
Tiến bước lên ngôi vua
Trao cho, ngắm nhìn con
Lòng ta thật hãnh diện.”
Từ ân ái sinh ra
Nước mắt chứa lâu ngày
Lệ tràn mi thấm ướt
Để lấp van người trước.

Thái tử nghe lệnh vua như thế
Dùng lời sâu sắc đáp vua rằng:
“Con xét biết lòng vua thương xót
Con cũng kính yêu quý trọng người
Nếu muốn chạy khỏi ngôi nhà cháy
Có người thân nào không cho ra
Vì thân ái nên đều bị đốt
Điều nào tốt đẹp? Nghĩ đi cha!
Nay con muốn tránh lửa vô thường
Kẻ trí không nên để bị thiêu
Chỉ mong muốn cho khỏi bị đốt
Xin cha cho con vào núi rừng.
Ai không muốn ở gần thân thuộc
Ở mãi bên nhau chẳng biệt ly
Cùng những người thân thương mến nhau
Thần chết không thắng thần chia lìa
Vậy xin Thích vương hãy tha thứ
Không phải là con không luyến thương
Mà do vô thường không tự tại
Cho nên ý quyết cầu Nê-hoàn.
Tất cả các người thân đời trước
Con có mặt, cha đều có mặt
Nay con có ích gì cho họ
Oan đối xưa như gió thoảng mây.”
Vua sắc rằng: “Chưa phải lúc đi
Nếu khi chết đến có thể tránh
Lửa tuy chưa rực, có chỗ cháy
Phải diệt sớm cho sau khỏi bi.”

“Vương vị người đem ủy thác trao
Kia không chỗ nhờ, không chỗ cầu
Như mang đá nặng lội qua sông
Vì vậy chẳng nên nhận ngôi vua.”

Vua nghe Thái tử nói
Lời lẽ rất thẳng ngay
Lời con không thể đáp
Không còn lý ngăn được
Liền ra lệnh các quan
Giữ Thái tử trong cung
Tăng thêm các kỹ nhạc
Chớ để ngài sầu thương.

Sau đó không lâu
Ngày đã về chiều
Thái tử vào cung
Như trăng vào mây
Ngồi xem kỹ nhạc
Như voi bị giam
Nhàm chán kỹ nhạc
Khước từ không xem
Trong lòng phiền muộn
Bèn bỏ đi nghỉ.
Tỉnh giấc thức dậy
Thấy thể nữ ngủ
Chuỗi ngọc vung vãi
Bỏ rơi nhạc khí
Áo quần xốc xếch
Bao điều bày phơi
Nước miếng chảy ra
Cổ ngực dơ bẩn
Sấp ngửa, há miệng
Trông thật khó coi.
Hoặc có thể nữ
Ôm nhạc khí ngủ
Hoặc gối đầu nhau
Hoặc riêng cúi mình,
Hoặc có thể nữ
Đứng thẳng mà ngủ
Kẹp rơi tóc xõa
Giống như đuôi công
Hoặc có thể nữ
Ngửa mặt mà ngủ
Giống như vị quan
Ngước nhìn các sao.
Thấy như vậy rồi
Thái tử không vui
Nhìn kỹ thể nữ
Rồi tự suy nghĩ
Bùi ngùi thở than
Rúng động trong lòng
Trong cung mà tưởng
Như gò mộ hoang.
Các cô gái đẹp
Tư dung mỹ miều
Thái tử lo sợ
Như voi gặp lửa.
Dáng đẹp thể nữ
Bị giặc ngủ trộm
Quên mất ý tứ
Nhạc khí lẫn lộn.
Tánh người nữ yếu
Thường hay mắc cỡ
Bị con voi ngủ
Chà đạp dày vò
Như cây hoa đẹp
Cành lá sum suê
Chợt gặp voi đói
Nhổ dập nát tan.
Sinh tử nguy hại
Xem thường phá khuấy
Hiểm nguy dối trá
Không bạn thân cũ.
Họ hiện còn sống
Hình thể như vậy
Hoặc với thân ấy
Không biết thẹn thùng
Bỗng té xuống đất
Vẻ đẹp mất tan
Cái nạn ngủ nghỉ
Mắt kia ngang tàng
Khi đang ngủ nghỉ
Hình thể khó coi
Nếu phải chết đi
Thân giống cái gì?
Chính thân thể đó
Chính các căn này
Bị lọng ngủ che
Đến nổi đổi thay
Như mất cơ quan
Không thể tìm lại,
Thất thế thì nằm
Như đống đất cỏ
Từ lâu xa nay
Si lực rất mạnh
Phủ che tai mắt
Khiến cho điếc, đui.
Thân thể dơ bẩn
Hiển bày thấy được
Che lớp da mỏng
Không thể hay biết.
Tất cả thế gian
Gặp đầy khốn ách
Không nơi nương cậy
Như bánh xe quay
Duyên cấu trần lao
Bị chìm đắm mãi,
Như con voi lớn
Chìm xuống vực sâu
Ta nay không thể
Liên lụy vào đó
Mành lưới trần lao
Tự đem buộc vây
Cho nên ghét chúng
Dục dơ năm ái
Bỏ nơi hỗn tạp
Riêng vào núi vắng.
Vì gốc lành xưa
Thôi thúc tỉnh giấc
Thái tử quyết tâm
Muốn ra sinh tử:
Giờ Ta xuất gia
Nay đã đến rồi
Chẳng nên ở lâu
Sinh tử đáng sợ
Cho nên hôm nay
Phải vào núi rừng.
Dù biết sinh tử
Khi cháy lửa bừng
Ta tự quán sát
Có thể kham nhận
Bốn đại chưa rã
Phải sớm trốn đi.
Các trời, người biết
Tâm Thái tử tịnh
Khi đó Tịnh cư
Liền xuống nhân gian
Làm các thị vệ
Ngủ say mê man
Tức thời mở hết
Các cửa cung thành.
Mỗi khi mở cửa
Như lúc bình thường
Tiếng mở vang vọng
Cách một do-diên
Trời mở các cửa
Vắng lặng không tiếng.
Trời khuyên Thái tử
Các thứ công đức
Các trời hớn hở
Tâm rất vui mừng
Vì Thái tử hiện
Các thứ điềm lành.
Trời tung hoa thơm
Liên tục không ngừng
Trổi nhạc, ca vịnh
Vang lừng hư không.
Thấy điềm tốt lành
Các trời khuyên giúp
Tâm rất vui mừng
Nhân đó nghĩ rằng:
Người yêu dòng họ
Không thể lìa bỏ
Trâu mao quý đuôi
Bị lửa thiêu đốt.
Ngài liền ngồi dậy
Ý đã quyết định
Đối thể nữ đẹp
Cung báu, ao tắm
Giống như nhạn chúa
Bỏ ao hoa sen,
Thái tử cũng vậy
Không hề đắm luyến.
Lần này cuối cùng
Ta cùng nữ nhân
Lần này cuối cùng
Ta ngủ lại cung.
Hư không có thể
Phá làm trăm phần
Ta không hề đắm
Ái dục cõi trần.
Liền ra khỏi cung
Như sư tử chúa
Xé tan lưới chắc
Một mình riêng bước
Ngài xé lưới chắc
Cũng giống như vậy.
Ngài liền tìm cách
Gọi Xa-nặc ra
Dùng lời dịu ngọt
Bảo Xa-nặc rằng:
“Mau dẫn ngựa giỏi,
Kiền-trắc lại đây!”
Các trời mê hoặc
Tâm ý Xa-nặc
Nên chọn ngựa trắng
Như ngựa đầu đàn
Yên cương giá ngự
Chuẩn bị trang nghiêm
Giống như hạc trắng
Lẫn trong mây chớp.
Bấy giờ Thái tử
Tay xoa đầu ngựa
Dùng lời êm dịu
Nói với ngựa rằng:
“Ta có nguyện lớn
Nhờ vả đến người.
Đã sống cùng nhau
Như bạn hiền thiện
Chắc thích điều lành
Khiến ta chẳng ngại.
Muốn xông vào trận
Vượt đến bờ kia
Đây là lần cuối
Phụng sự cho ta,
Đêm nay nhờ ngươi
Mang nặng lần cuối
Sau này ta chẳng
Nhọc nhằn đến ngươi
Ta đây lần cuối
Nhờ ngươi đưa thôi.”
Thái tử nói rồi
Liền lên lưng ngựa
Như trời mới mọc
Ở trên sườn núi
Ngài trên ngựa trắng
Uy đức vòi vọi
Như trăng mùa thu
Nương mây trắng bay.
Bốn thứ quỉ thần
Muốn cho chóng mau
Tiếp nâng chân ngựa
Khiến rất khéo léo
Bốn vua tự cúi
Đi trước dẫn đường
Các trời tiếp bước
Sáng như ban ngày.
Trời, Rồng, Quỉ, Thần
Và các Tiên thánh
Đồng thanh khen rằng:
“Hạnh nguyện vô ngại
Sở dĩ xả bỏ
Thiên hạ bốn phương
Cung báu, thân thuộc
Để nguyện chóng thành.”
Thái tử liền ra
Bên ngoài cung thành
Chấn động rỡ ràng
Vui tuyên nói rằng:
“Tu-di núi chúa
Còn có thể tan
Miệng có thể thổi
Làm cho sụp đổ
Nếu ta không thể
Chứng thành Phật đạo
Quyết không về lại
Thành nhuốm máu tanh.”
Như luồng gió mạnh
Thổi đùa mây nổi
Chỉ trong giây lát
Ra khỏi cõi Thích,
Một thoáng nghĩ ngợi
Tức thời đến nơi
Như mặt trời chếch
Núi Nhạc, non Tây
Ngài liền xuống ngựa
Vào trong núi rừng
Lòng đầy mừng vui
Việc lớn đã làm.

Phẩm 12: XA-NẶC

Bồ-tát lòng Từ khắp
Rèm mi màu xanh biếc
Vừa rơi lệ vừa nói
Hết lòng với Xa-nặc
“Bỏ bao vàng, chuỗi ngọc
Rút kiếm như rắn vung
Tự cắt tóc trên đầu
Trời kính mang tóc đi.

Cỡi anh lạc báu trao Xa-nặc”
Ý kính quỳ xa và bảo rằng:
“Đem bảo châu này dâng chúa thượng
Lòng thành khải tấu chớ lo lắng
Có tâm sợ chết thật khổ lắm
Mới làm Vương phụ mất chỗ nhờ
Chưa về dưới gối đền ân dưỡng
Đã khiến Mẹ hiền sinh cõi trời.

Chưa tròn cha con
Trả ân nuôi dưỡng
Sợ chết đau khổ
Vào non diệt ý
Biết sinh tử ác
Rất nhiều sự việc.
Tính ta vốn điều
Buộc lòng trái lệnh
Như cha từ ái
Mà thương xót ta
Ta cũng từ kính
Tôn trọng cha già.
Nay ngươi, Xa-nặc
Nên hiểu nghĩa này
Sao còn phiền lụy,
Giải bày rộng rãi
Thong thả dồi dào
Những lúc vui sướng
Bạn lành, họ hàng
Rất là dễ được,
Gặp khi hoạn nạn
Bạn lành khó gặp
Hay đem điều lành
Giúp người gian nan,
Hoặc có tôi tớ
Chẳng mong ân ái
Khổ nhọc phục dịch
Không thể kham chịu.
Như ngươi Xa-nặc
Có thể chịu ân
Hoạn nạn có khanh
Cũng khó gặp được.
Phàm người ở đời
Trong lúc vui sướng
Xa lánh người ngoài
Về đấy làm bạn,
Người gặp khốn đốn
Trong lúc khổ nàn
Cốt nhục sâu dày
Cũng chẳng ngó ngàng.
Ta xét trước đây
Dòng họ Thích này
Tiếng vang bốn cõi
Phong tục nhà riêng
Những người trước ta
Vào núi rừng tu
Các Thích tử cũng
Không nên cười ta.
Đem tài bố thí
Rất nhiều người làm
Không ai có thể
Pháp lành thí khắp,
Hay đem pháp lành
Thí, cho rộng rãi
Trong vô số kiếp
Thật khó gặp gỡ.
Như khanh, Xa-nặc
Nay trở về nhà
Tâu với vua cha
Quyết đoán của ta:
Người đời nhờ biết
Dứt bỏ ái đắm
Ái đắm đã dứt
Thì không còn lo.
Ta thấy khắp đời
Đều chìm đắm cả
Khổ não lo lắng
Vực sâu, biển khơi,
Sở dĩ bỏ nhà
Muốn dứt già, bệnh
Chẳng nên não nhau
Thêm nhiều lo khổ.
Người sống trên đất
Thường theo đuổi người
Khổ già, bệnh, chết
Rất là tệ hại,
Ai mở tâm được
Tin chẳng lo sợ
Vung dao ác tặc
Đuổi người chạy đi.
Nếu chẳng tự khuyên
Mở ý xa lìa
Gia đình thân tộc
Ân ái đắm nhiễm
Ắt sẽ gặp phải
Hoạn nạn chia ly
Chết không hề lựa
Sang hèn, hiền ngu.

Bà con ân ái hợp
Ắt sẽ phải chia lìa
Sau chẳng sớm cầu độ?
Không còn chết chia lìa
Nếu vua mang ý này:
Con chưa đến lúc tu
Làm lành đâu đợi lúc
Mạng như đuốc gặp gió.
Cạn tình với vua cha
Xa quỳ, chắp tay tâu:
“Thế gian gặp khổ lớn
Không người nghĩ thoát khổ
Con đã thoát già, bệnh
Đạt được sự vui nhất
Đế Thích hưởng năm dục
Không bằng con thọ vui.
Sở dĩ lìa thân tộc
Mong sau được lợi lớn
Muốn khiến mọi chúng sinh
Diệt hẳn ghét, lìa yêu.
Khanh biết ta vốn hiền
Vua cha yêu ta lắm
Xa-nặc hãy tìm cách
Can vua, giải lo buồn.”
Xa-nặc nghe lời dạy
Ngạc nhiên, lòng buồn bã
Sợ hãi run bần bật
Tim như bị tên độc
Mưa lệ rơi lả chả
Quỳ thẳng, khóc than nói:
“Vì sao dòng Chuyển luân
Nay tiêu hết bởi Ngài
Miệng Ngài thường hay nói:
Cho đi, cho nữa đi!
Nay lại đi ăn xin
Sao chẳng thẹn với đời?
Ngài tính nhu, thân đẹp
Nay lại ăn mặc xấu
Vốn như hoa sen nở
Nay lại tướng lửa thui
Giờ Ngài hãy mau bỏ
Tâm kỳ lạ đó thôi!
Rắn độc vào ở nhà
Phải tìm đuổi nó ra!
Nay không xét ý vua
Chẳng nghĩ lòng vua buồn
Chẳng lo vua phiền não
Như ngày mất ánh dương,
Chẳng nghĩ sẽ có việc
Con đức hạnh dịu dàng
Mong đúng thời mưa thấm
Lại đổ lửa dòng Thích.
Cha hiền từ như thế
Đem lòng tốt nuôi Ngài
Bỗng rời bỏ vua cha
Như khinh thường, mất thiện.
Dì nuôi dưỡng như mẹ
Quan hệ như thân sinh
Xin Ngài chớ bỏ quên
Như tâm kẻ phản phúc.
Các thân tộc như thế
Và anh em, xóm làng
Xin chớ bỏ hội ấy
Như kẻ tiếc tài sản.
Ngài giã biệt thành rồi
Người trong nước buồn lo
Như rồng gặp chim vàng
Cả nước động như thế.
Khi Ngài sinh khắp nước
Tốt lành như cõi trời
Nay Ngài bỏ vào núi
Đau khổ như đọa ngục.
Trước ban đức cho nước
Như ngày đông trời ấm
Sau ban lửa lo buồn
Như lửa hạ lan ra.
Ôi! Khổ thay! Vô đức
Xét là trời làm mê
Đem ngựa lại cho Ngài
Khiến cả nước buồn lo;
Đem nước mắt cho dân
Lòng lo, miệng khẩn cầu
Từ vua đến trai gái
Mây lo sầu che phủ.
Tiên sư dạy lễ nghi
Phải thương khắp chúng sinh
Buồn cha mẹ, nòi giống
Mình giữ đạo gì đây?
Voi ngựa cúng cả ngàn
Nếu thương xót chúng sinh
Ví như lường hai đức
Phước lành nặng muôn ức.
Nay vua cầu con quý
Thân già nặng lo buồn
Làm liều không suy nghĩ
Như voi hoang mất con,
Khóc thương mắt mờ đỏ
Mất ngủ đổi dung nhan
Nay vua buồn than thở
Như chim núi mất con:
“Ta còn sống làm gì
Mất đi con thần đức
Do con, bị phiền não.”
Vua sẽ nói như vậy.
Mặt vua đầy u thảm
Nay sao nỡ trái đường
Khi ngủ nghỉ tại cung
Trướng báu nệm êm dịu
Bao gối quý thêu đẹp
Năm âm dỗ giấc nồng
Nay gối tay, trải cỏ
Chim hót ngủ sao yên?
Nếu người nghe hỏi thế
Dù tâm bằng kim cang
Lòng họ cũng phải xé
Huống bà con, người quen.”
“Ngươi chớ bỏ chí ta
Ngươi hầu ta lao nhọc
Về đi! Ngựa Kiền-trắc!
Ta ở lại núi rừng.”
Ngựa nghe Thái tử nói
Mắt rơi lệ như mưa
Quỳ xuống đất hí thảm
Lưỡi liếm chân thiết tha.
Dùng tay, tướng trăm phước
Thái tử xoa đầu ngựa
Giống như hiểu bạn tốt
Rằng: “Biết ngươi siêng mà!”
Xa-nặc tâu Thái tử:
“Đã quyết ý bỏ nước
Chớ bắt tôi trở lại
Xa Ngài sống làm gì,
Nhớ Ngài tâm nóng bức
Lòng nào trở về nhà?
Bỏ Ngài chốn hoang vắng
Làm sao tự vui riêng?”
“Ngươi hãy dẫn ngựa về
Có thể còn gặp Ta
Việc thành sẽ về nước
Không thành, nguyện chết khô.”
Xa-nặc khóc trở về
Dắt ngựa theo ven đường
Ngoảnh nhìn không biết chán
Dẫm đất cứng trở về.
Ngài bỏ nhà xuất gia
Nguyện đến chỗ bất động
Muốn tất cả chúng sinh
Đều kịp về nơi đó.

Phẩm 13: VUA BÌNH-SA THƯA HỎI

Bấy giờ Xa-nặc
Dẫn ngựa đi rồi
Tâm ngài vắng lặng
Bước đi khoan thai
Như Sư tử chúa
Xé tan các lưới
Chuyên tâm một hướng
Vui sống núi rừng.
Thân hình vòi vọi
Mắt sáng nhìn khắp
Vào trong rừng cây
Như trời vào mây
Tuy bước một mình
Đức như đại chúng
Trong mang đầy lành
Phước hiện ra ngoài.
Vừa đi vừa tự nghĩ:

Không nên mặc lụa là.
Bỗng thấy Đế Thích hóa
Thợ săn mặc ca-sa.
Thái tử nhân đó nói:
“Ngươi chớ mặc đồ này
Áo lụa vàng ta đổi
Lấy ca-sa của ngươi.”
Thợ săn liền cởi trao
Chân ca-sa mộc lan
Đổi xong, hiện Đế Thích
Bỗng nhiên bay lên trời.
Thái tử mặc ca-sa
Thân hình tươi sáng ra
Như trăng thu tròn sáng
Mây tía vây chung quanh.
Rừng rậm có Phạm chí
Ở ẩn học Thần tiên
Thấy Thái tử đi đến
Trong lòng đều ngạc nhiên,
Ngắm nhìn kỹ Thái tử
Không thể vẽ lại Ngài
Hoài nghi một hồi lâu
Tụ lại cùng bàn tán
“Phải chăng là Bắc đẩu
Thứ tám, ngoài bảy sao”
Hoặc nói: “Ngủ trên ngựa
Xuống đi xem thế gian.”
Hoặc nói: “Nhìn thân Ngài
Nhất định là đức thần
Hoặc là vua mặt trời
Hoặc vua mặt trăng xuống.”
Trong số đó có một
Phạm chí thông đạt nói:
“Chắc không phải trời Phạm
Tự xuống đến rừng này.
Do Phạm chí chúng ta
Giữ hành thuần thục nên
Muốn nguyện cầu ta thỏa
Nên đi đến rừng này.”
Đã bàn luận như thế
Đồng thanh bảo nhau xong
Thân nặng nề Phạm chí
Bỗng nhiên liền nhẹ tênh.
Bồ-tát hỏi Phạm chí:
Họ tu đạo thuật gì?
Nên học hay không nên?
Có một Phạm chí đáp:
“Hay thay! Ngài đức mầu
Ý quyết rất sâu xa
Sức trai tráng trẻ đẹp
Biết sinh tử dục nhơ
Xin phải xem xét kỹ
Đạo Nê-hoàn sinh Thiên
Người ưa thích diệt độ
Đó đáng gọi là người.
Nếu lòng đã quyết định
Bậc ưa thích vô vi
Hãy mau mau đi đến
Chốn rừng núi thanh tịnh
Ở đó có vị tiên
Tên là Vô Bất Đạt
Ông được mắt nhìn kỹ
Quán thấy gốc Nê-hoàn.
Như nay ta quán sát
Xét kỹ ý của Ngài
Điều ông ấy tu học
Phải chăng hợp ý Ngài?
Mặt như vầng trăng tròn
Lưỡi như cánh hoa sen,
Chắc chắn sẽ uống hết
Biển trí tuệ sâu xa.”
Nhìn Bồ-tát cất bước
Như vua trăng xuống trần
Bấy giờ các Phạm chí
Đều khen: “Chưa từng có!”
Tâm đều sinh hớn hở
Như biển sâu dậy sóng
Trong lòng vui hớn hở
Như đêm tối, trăng soi.
Thái tử thấy bọn họ
Sở học nhiều vô ngần
Bộc lộ các thân hình
Lòng thương xót mới than:
“Sao ác thật quá lắm
Bị ngu si mê hoặc
Thế gian đáng thương xót
Mê lầm buộc vào khổ.”
Tâm nghĩ không tôi, ta
Giống như voi đầu đàn
Bỗng nhiên thấy sợ hãi.
Ra khỏi rừng lửa hừng
Ánh sáng màu vàng chói
Chiếu ngời mé cây rừng
Như mặt trời mùa thu
Lướt đi trên mây xanh.
Nhìn sông Hằng cuồn cuộn
Chảy về biển mênh mông
Dùng bầy ngỗng trời trắng
Làm chuỗi ngọc trắng trong.
Dùng thế sóng nhồi lớn
Làm vòng xuyến ngọc báu
Đến bên cạnh sông Hằng
Giống như vua thần biển
Dùng trăm phước đức tướng
Trang nghiêm khắp thân Ngài.
Vào ở trong sông Hằng
Các dòng đều lắng trong
Tất cả thần dưới sông
Theo xuống nghinh tiếp Ngài.
Trải qua trong chốc lát
Như bầy nhạn đầu đàn
Khi qua khỏi sông Hằng
Biết nên đi đúng thời
Bỏ đi ý cống cao
Vào cung vua khất thực,
Mặc y phục Sa-môn
Ca-sa màu mộc lan
Giữ các căn vắng lặng
Bước đi đúng oai nghi.
Thấy thể tướng Thái tử
Công đức cao vời vợi
Y vắng lặng đang mặc
Màu hợp hạnh sạch trong,
Nhân dân đều ngạc nhiên
Trổi lên niềm vui mừng
Ngắm kỹ thân Bồ-tát
Đôi mắt nhìn không rời
Nhóm lại xem Bồ-tát
Tâm họ không nhàm chán.
Công đức đời trước đủ
Các tướng đều cụ túc
Giống như hoa sen mầu
Đủ màu ngàn loại bông
Mọi người đều thưởng ngoạn
Như ong nhóm hoa sen
Chỗ đã do đích đến.
Mọi người đều đi theo
Như các căn của người
Theo tâm chạy xoay vòng,
Nhân đó truyền gọi nhau
Khen ngợi công đức Ngài
Lời rằng: Xem người ấy
Của báu trong loài người.
Ngắm kỹ đôi mắt Ngài
Vẻ mặt đẹp tuyệt vời
Ví như đống vàng báu
Trong đó có báu xanh.
Được ánh sáng bao quanh
Tướng đức gom nhóm thành
Dung mạo rất hòa hợp
Tướng tốt đều đầy đủ
Như thu hút mọi người
Mọi mắt hướng theo Ngài
Chăm chăm nhìn ngắm mãi
Mà không thấy thỏa mãn,
Giống như gặp bão tuyết
Lạnh cóng như cắt da
Mọi người tranh tới trước
Như được sưởi lửa ấm.
Các cô gái quý tộc
Đều vội ra khỏi nhà
Như trong đám mây nổi
Rực rỡ phát ánh chớp
Thí như cây Vô ưu
Cành hoa lá sum suê
Bị gió thổi oằn xuống
Cúi lễ Đức Thích-ca.
Đứa bé trên tay mẹ
Miệng liền rời vú mẹ
Mãi mê nhìn Bồ-tát
Quên cả việc đòi bú.
Người dân trong toàn thành
Đều tranh nhau khen ngợi,
Đều nói rằng đẹp quá
Tốt quá, xinh xắn quá.
Khi ấy có người nói
Lại có người vội nói
Như ăn bánh ngào mật
Người ngon, kẻ không ngon
Nhưng hình tướng Thái tử
Nếu khen riêng một việc
Một lời không nói đủ.
Các đức khéo chứa nhóm
Xét kỹ các biểu hiện
Các lành đều hiển lộ
Dùng trang điểm thân thể
Người sướng mắt, thỏa lòng.
Các hoa làm đẹp Ngài
Thơm dịu cảm tâm người
Giống như tiết dương xuân
Rực rỡ và sáng ngời.
Hạnh quả thời xa xưa
Mà sao không lòng Từ!
Dáng vẻ trời đầy đủ
Không làm vua mặt đất
Tài năng ai cũng rõ
Mà đi xin người khác.
Ai bố thí người đó?
Tính ra không thể bàn.
Bấy giờ vua nước ấy
Hiệu là vua Bình-sa
Ở trên cao quan sát
Xa thấy Thái tử đi
Ngài liền hỏi các quan:
“Người đi kia là ai?”
Dung mạo rất tươi sáng
Mà mặc y màu xấu.”
Quan theo hầu liền tâu
Nói rõ dòng họ người
Vua truyền quan hầu cận:
“Xem đi về nơi nào?”
Ăn xong, ở ngoài thành
Lên núi Bàn tháp cao
Ánh sáng chiếu rực rỡ
Như mặt trời lên non.
Bấy giờ vua Bình-sa
Cùng tùy tùng theo lên
Vua đến núi Bàn tháp
Phục sức, hình dung đẹp
Người hầu cầm lọng quý
Bước sư tử khoan thai,
Vua bèn xuống xe báu
Bước từng bước lên núi
Thấy Ngài ngồi một mình
Các căn đều vắng lặng
Ví như vầng trăng tròn
Vằng vặc giữa vầng mây
Như sắc tượng các pháp
Bỗng nhiên hóa hiện ra,
Ý rất đổi kinh ngạc
Bèn bảo các quan rằng:
“Người có hình mạo đó
Dáng dấp rất dễ thương”
Nay đây phải giữ gìn
Trở thành đức lành lớn.
Nay xem các lành đó
Mềm mại mà dịu dàng
Nhìn qua tướng tốt ấy
Chỉ Phật mới có thôi!”
Dứt bỏ tâm kiêu mạn
Khiêm cung làm lễ Ngài
Nhà vua nhân lúc đó
Bèn hỏi han Bồ-tát
Vua với ý thanh tịnh
Ngồi lên tảng đá xanh
Liền thưa hỏi Bồ-tát
Nhân đó nói kệ rằng:
“Tổ tiên của Thái tử
Xuất từ vua mặt trời
Đang lúc tuổi trai trẻ
Hình dung chiếu sáng ngời
Chẳng rõ duyên cớ gì
Mà khởi phát ý này:
Khất thực để tự cứu
Chẳng chịu ngồi ngôi vua.
Dáng đẹp rất rực rỡ
Đã chứa lành nhiều rồi
Giống như cây Diêm-phù
Hoa lá đẹp sum suê
Mặc áo ca-sa này
Giống như dùng cỏ bọc
Như hoa cây sợ tuyết
Không dám phô vẻ đẹp.
Thái tử nên phục sức
Các vật báu cõi trời
Nay y màu xấu này
Lạ thường chẳng xứng đâu!
Nếu có vật thanh khiết
Có chút dơ bám vào
Thì hiện ra lồ lộ
Không cách gì bôi bỏ.
Cánh tay dài rất đẹp
Giống như cột vàng tía
Nên trang sức bảy báu
Nên cầm chiếc cung đẹp
Có đôi tay như thế
Chỉ dùng để bố thí
Chẳng nên dùng tay ấy
Theo người để xin ăn.
Nếu Ngài giữ khiêm kính
Chẳng nhận ngôi vua cha
Nay ta rất yêu kính
Mời Ngài đến nước hèn
Hưởng của nước Ma-kiệt
Có tất cả vinh hoa
Nếu muốn khắp đất đai
Kẻ hèn sẽ đỡ đần.
Như đức tướng của Ngài
Nhận cõi trời xứng hơn
Chỉ dùng tay nắm giữ
Cõi trời đâu nhọc gì?
Như nay trời Đế Thích
Còn ra làm tôi người
Huống chi trên đất này
Như các vua chúng ta.
Ta không chán pháp lành
Cũng không lo giữ nghĩa
Chưa phải lúc bỏ nhà
Lòng ta có ngờ này:
Như mới đầu trai trẻ
Qua rồi chí yếu kém
Đã điều phục các căn
Như dàm ngựa dễ vần
Tu tuệ, tự giữ giới
Mặt mũi các hạnh lành
Phát hiện hạnh đời trước
Kịp gặp gốc thiện xưa,
Qua thời gian lớn khôn
Đó là Pháp đáng kính
Tuổi cao ý đã điều
Không đuổi theo các dục
Vì vậy nên không thể
Làm khổ cực thân thể.
Nay đã được phước lành
Nên thuận lý an hưởng
Sáu căn nên hưởng dục
Như nước đầy phải thoát,
Sau đó mới đi tìm
Pháp giải thoát cam lộ.
Dung mạo Ngài sáng ngời
Vượt qua ánh mặt trời
Đức Ngài đã vượt khỏi
Người đời và các trời
Từ xưa chưa từng nghe
Và cũng chưa từng thấy.
Hình mạo Ngài như vậy
Người xem đều ngạc nhiên
Như nay thấy phong cách,
Hành động của Thái tử
Lại xét ý chí Ngài
Mạnh mẽ và vững chắc
Giống như đáy vực sâu
Bầy cá lội dưới ấy
Ở trên tuy không hiện
Xem xao động biết ngay.
Nay thấy các khuôn phép
Tiềm ẩn trong thân này
Quyết định soi sáng rỡ
Chỉ bày ngôi Thánh vương.
Sự nhiệm mầu như thế
Người phước mỏng không có
Danh hiệu thật tốt đẹp
Không về, không là con.
Dù khiến tâm nghi ngại
Trở về thẹn tông môn
Đã mặc áo Sa-môn
Vì sao lại bỏ đi?
Các đời vua trước kia
Đến các vua sau này
Tuổi trẻ chuộng ngôi vị
Đến già đều bỏ nhà”
Bình-sa nói việc đó.
Dẫn nhiều việc so sánh
Chua cay lại không thiếu
Thân khiêm, lời kính bày
Xem ra ý Bồ-tát
Như núi Thái không lay
Giữ lành nhìn lặng lẽ
Tịnh tâm nghe đáp lời.

QUYỂN 3

Phẩm 14: THUYẾT PHÁP CHO VUA BÌNH- SA

Ý như mây tốt lành
Sắp mưa xuống cam lộ
Dùng lời lẽ sâu xa
Tiếng trời Phạm trong trẻo
Lại còn dùng tám thứ
Âm hưởng rất dịu ngọt
Và từ ngữ đẹp đẽ
Thấm đượm vua Bình-sa
Biết rõ đủ ý vua
Chánh trực nên trong sạch
Tâm Từ ái cung kính
Đầy ắp ở trong lòng.
Nay vua tuy đang ở
Đời trược loạn, mạt suy
Dùng thiện tự chế ngự
Vượt trên vua cõi trời
Thấy tịnh ý của con
Trong lòng ý suốt trong
Như ngày sương u ám
Hoa nở biết trời mọc.
Tuy làm ân cho người ngu

Thì ân ấy cũng như không
Thí chút lành cho người hiền
Ân đó ngày càng thêm dày
Nay thấy vua rất lạ lùng
Chẳng hề mê đắm vương vị
Phong tư kiêu ngạo che lấp
Chủ đất kia đều mê hoặc
Nếu người trí được tài sản
Không cho của cải là trọng
Thân tầm thường như hoa lửa
Người trí từ thân chọn yếu.

Chúng sinh lên trời
Rất được lợi lớn
Các chủ cõi đất
Dùng chánh pháp trị.
Vua của chánh pháp
Thuận lý trị đời
Tất cả dân chúng
Đều theo chánh chân.
Nếu có của báu
Trước xét chỗ cần
Nếu lại rời bỏ
Sau không tâm hờn
Giống như từ lạc
Vớt lấy bỏ đi
Nước còn đổ bỏ
Cũng không tâm hận.
Nghinh tiếp lẫn nhau
Dùng lễ đối khách
Ra ân trọng hậu
Dùng nghĩa bạn lành
Nay tôi sẽ lấy.
Ân bạn đáp đền
Ý muốn can ngăn
Mở lòng khéo nghe:
“Tất cả chúng sinh
Mạng như sương mai
Nay tôi tất cả
Đều vì đời sau
Giống như lửa mạnh
Được bơ càng nhiều
Và đốt cây cỏ
Không hề thỏa mãn.
Tâm thương và ghét
Bởi do ngu si
Đều còn mê lầm
Dẫu uống thuốc hay
Bệnh tật già nua
Ngọn lửa chết chóc
Năm đường thiêu đốt
Đắm không thoát lậu.
Nay tôi đã biết
Sức mạnh lửa hừng
Nay muốn tìm cách
Thoát khỏi họa này
Cho nên rời bỏ
Họ hàng, người quen.
Ái dục như độc
Vì sao không lìa?
Tôi đã không sợ
Các rắn độc này
Mưa đá lửa dữ
Bệnh nặng gió mạnh,
Cũng lại chẳng sợ
Giặc cướp vung đao
Chỉ sợ ân ái
Thường chịu sinh tử.
Mê theo ái dục
Không hề thỏa mãn
Các trời cũng vậy
Huống người thế gian.
Tất cả thế gian
Mong cầu không chán
Như lửa đã cháy
Cũng lại nhàm chán
Đất đai được khắp
Ngang bằng biển lớn
Lại tham muốn vượt
Muốn đến bờ kia
Tất cả mong cầu
Không hề thỏa mãn
Giống như các dòng
Trở về biển cả.
Bảy ngày mưa báu
Cho đến đầu gối
Hàng phục khắp nơi
Trên đến cõi trời,
Tuổi thọ cõi trời
Lâu bảy kiếp rưỡi
Vua thánh Đảnh Sinh
Dục không thỏa mãn
Lại có vua thánh
Hưởng phước lộc trời
Khi ngôi trời thoái
Sợ A-tu-luân
Kiêu mạn liền thạnh.
Tiên nhân đảm đương
Trụ tà không chán
Từ trời đọa xuống.
Có vua Mãn Duy
Lên đến cõi trời
Được thể nữ trời
Đem thân hình đến
Phạm đến Thần tiên
Tinh xá Kim bảo
Vì tham diệt vong
Liền hóa thành tro.
Có vua Trọng Đảm
Đem binh lên trời
Lại từ cõi trời
Đem Thiên nữ về
Do Thiên nữ đó
Tự phải chết đi.
Chúng sinh như thế
Không nhàm nên chết
Nổi tiếng tệ ác
Cung mạnh tên nhanh.
Xả bỏ ngôi vua
Vào rừng học Tiên
Tâm không thích ứng
Thân phải làm việc
Giết hại kẻ khác
Thân cũng chết đi.
Cô gái tên Hiền
Các vua tranh nhau
Dấy các thứ binh
Đối trận chiến đấu
Do vì ái dục
Sinh khởi tranh chấp
Phải bỏ ái dục
Như bỏ kẻ thù.
Các dòng họ vua
Ganh tị tàn hại
Giết hết Sát-lợi
Hai trăm mười người
Liệt sĩ thuở trước
Tâm sân làm hại
Nên bỏ tâm ác
Như rắn lột vỏ.
Nói nhạn nói hạc
Do đó tranh chấp
Đi đến giết hại
Cho đến số ức
Ngu si tranh chấp
Khởi đầu việc nhỏ
Phải bỏ ngu si
Tự bỏ bệnh tối.
Hai vua thuở trước
Tranh chấp ao thơm
Cống cao ôm giữ
Giết hại lẫn nhau
Dùng gậy sắt đập
Bể nát cả đầu
Phải bỏ kiêu mạn
Như mây che phủ.
Lại như liệt sĩ
Có sức mạnh nhanh
Do vì tham ái
Đoạt thể nữ người
Vì do yếu đắm
Đến nỗi phải chết
Như sợ chết nên
Phải bỏ yêu đắm.
Hai A-tu-luân
Do nữ sắc chết
Vì tham nữ sắc
Nghe tiếng phải chết.
Trên không bay liệng
Vương tử Tân Đầu
Ham hai mùi ấy
Đều phải tán mạng.
Xưa vua Y Tương
Vì mũi tham hương
Phạm trời Cát tường
Đến nỗi tiêu mạng,
Xưa vua Ân Đầu
Thân ưa mềm mại
Tham đắm không chán
Đầu vỡ mà chết,
Họ đều do dục
Sáu căn buông lung
Như biển chứa dòng
Không bao giờ chán.
Miệng cá Ma-kiệt
Còn có thể đầy
Sáu căn thọ dục
Khó mà đầy đủ
Tham lam như vậy
Còn dư khó kể
Sáu căn chưa đủ
Gặp nhiều gian nan
Như vua đã nói
Trước mặt sáu căn
Đâu ai thỏa mãn
Nên xét điều ấy.
Vua đem lòng kính
Các nước mời nhau
Xét ra ngôi vua
Cũng không thuần vui
Toàn việc khiến người
Được rất vui sướng
Nhưng sau vui đó
Chịu nhiều gian nan.
Chiếc áo dày ấm
Hợp rét mùa đông
Đến khi hè nóng
Trở lại thành nạn
Người đói được ăn
Cho là no vui
Nếu buộc ăn nữa
Ắt thành rất khổ;
Như ao sen tốt
Trong có túc trùng
Như rừng cây hoa
Sư tử ở trong
Nhà bằng vàng báu
Lửa cháy tơi bời
Ngôi vua cũng vậy
Mời nhau làm chi?
Cá thấy đớp mồi
Chẳng biết lưỡi câu
Giống như dùng mật
Bôi lên dao kiếm
Chiếc ngai vua này
Như cùm bảy báu
Nhìn tuy vui mắt
Thân tâm rất khổ
Dáng dấp vương giả
Ăn mặc như trời
Cỡi xe đất nước
Như lao ngục thôi.
Làm vua trọng trách
Nặng hơn núi Thái
Khổ như ngựa đấu
Người xem rất vui.
Nước lửa, gió mưa
Dịch bệnh, đói nghèo
Trộm cắp, giặc cướp
Nước địch xâm lăng
Biên giới đồn thủ
Xâm đoạt tổn hao
Các gian nan ấy
Riêng lòng vua đau
Đêm ngày lo lắng
Ngủ chẳng được an
Nghĩ tìm phương cách
Trừ hoạn nước non,
Tâm ôm lòng nghi
Chẳng tin thần dân
Như đến nơi độc
Được người cho ăn.
Dù cho vua ấy
Chủ vô số thành
Nơi vua ấy ở
Chỉ trong một thành
Ngủ trong một cung
Ngồi chỉ một ghế
Vinh nhục vô kể
Lo nhọc rất nhiều,
Áo che một thân
Ăn nuôi một thân
Ra đi dạo chơi
Chỉ ngồi một xe
Vật vua ăn uống
Tốn chẳng là bao
Kỳ dư tạo vẻ
Giúp cho kiêu sa
Nhà vua chỉ dùng
Tự tại làm vui.
Vui đó cũng lại
Lẫn nhiều khổ nguy
Giống như ở chỗ
Kiếm nhọn là xe
Xử sự bất minh
Tổn thương mình thôi!
Ví như nhà đẹp
Trang hoàng lộng lẫy
Chứa nhiều rắn độc
Đầy dẫy trong đó
Ngắm thì khoái mắt
Chạm vào độc hại.
Tôi vì cớ đó
Chẳng thích ngôi vua
Cũng vì cớ đó
Không nên thọ nhận.
Sinh tử khó giữ
Giống như huyễn hóa
Đâu hay việc trước
Rong ruổi về đâu?
Tôi vì cớ đó
Không nghe vua can
Vua bảo “Bỏ nhà”
Chưa phải là lúc
Giờ nghe cho kỹ
Tôi trả lời vua:
Tha hồ uống ăn
Chẳng chút lo toan
Cái chết ập đến
Bằng rất nhiều cách.
Thuộc dòng Cam Giá
Hiệu là Bạch Tịnh
Vua nên biết đó
Chính là vua cha
Tôi muốn thoát khổ
Nên bỏ ngôi vua
Muốn tìm ra cách
Lập ra pháp lành
Không sợ diệt độ
Mãi cầu bậc nhất
Thường ra rời mãi
Sinh già bệnh chết
Muốn cầu cam lộ
Chỗ giữ gìn được
Cho nên chẳng nỡ
Gặp gỡ các dục.
Giống như thú hoang
Khát nước đi tìm
Nỗi khát mệt nhọc
Chạy trong mê man
Bỗng gặp thợ săn
Đuổi theo bắn giết
Chẳng thương thú khát
Liền giết chết nó.
Thế gian cũng vậy
Tình cảnh đói nghèo
Mê hoặc muôn mối
Chẳng lo chết đến
Tự vui, khoái ý
Mặc tình uống ăn
Không nghĩ làm việc
Sẽ có bại hoại.
Già đến bức mình
Như cung giương mạnh
Bệnh tật hại người
Mau hơn tên nhanh
Chết đến bức mạng
Như thợ săn vậy,
Ý ngu mê lầm
Làm sao đợi lúc
Hoặc đêm, hoặc ngày
Khi thức, khi ngủ
Dưới nước, trên khô
Tất cả mọi người
Chết không sống lại
Vùn vụt rất mau.
Giống như tánh nước
Vào miệng Ma-kiệt
Ánh sáng đèn pháp
Sáng rực tuyệt vời
Thêm lòng tinh tấn
Cho thêm dầu mỡ.
Người làm việc lành
Vui vẻ qua đi
Hành trang khi chết
Đều đã đầy đủ
Như dâng hoa đẹp
Màu sắc tươi sáng
Kẻ chí ưa lành
Dâng lên tháp tượng.
Nếu ngày sau thấy
Hoa bị héo khô
Đã được hoa mới
Lòng tràn sướng vui
Như người minh đạt
Đi lại ít thôi.
Điều hòa thân mạng
Hợp với pháp lành
Tự thấy thân mình
Mục nát đến nơi
Tự điều lo nghĩ
Thường lấy làm vui
Giống như giặc ác
Phá ngục trốn đi
Đến nơi hoang vắng.
Trong cái đầm lớn
Trong rừng lau sậy
Hổ sói nhởn nhơ
Mê lầm rong ruổi
Bị nóng khát bức
Theo sau năm kẻ
Vác đao đuổi theo
Kinh hoàng, sợ hãi
Trốn chạy hiểm nghèo
Trước bỗng lại có
Voi say hung dữ
Băng lên phía trước
Muốn giày xéo chết,
Người kia không có
Chiến cụ, gậy đao
Không mang lương thực
Không giày dép bao
Nhìn quanh bốn phía
Không nơi cậy nhờ
Lòng dạ rối loạn
Không còn biết chi.
Giờ ta cố vì
Nhà vua dẫn dụ
Muốn ngài hiểu rõ
Con đường tử sinh.
Đại vương nên hiểu
Sinh tử như thế
Phải rõ chúng sinh
Như giặc vượt ngục,
Biết rõ đầm rộng
Dụ cho ba đường
Cọp, sói, thú dữ
Biết là trần lao.
Ruổi theo cực nhọc
Nóng khát tiều tụy
Thì nên biết đó:
Ngu si, ghét, yêu.
Kiếm bén trí tuệ
Rộng “Thí” tư lương
Lọng chánh pháp lớn
Mang giày giới cấm
Như sĩ phu ấy
Nghèo thiếu hạnh này
Chẳng gieo đức ấy
Dụ này như thế
Trước có voi say
Cuồng bạo hung ác
Phải biết như vậy.
Cái chết ở đời
Vào lúc bấy giờ
Không có chỗ nương
Chỉ biết cậy trông
Giữ giới, làm lành.
Vua nên hồi ý
Che chở nhân dân
Cứu giúp nguy ách
Giống như con đỏ
Lòng Từ ban khắp
Xem dân như con.
Vua phải giữ nước
Giống như giữ cung
Như có sâu bọ
Tìm cách diệt thôi
Thân mau chóng trốn
Không gặp mưa rơi
Đại vương cũng phải
Như vậy tránh đi
Không gặp tướng ác
Để tự cứu mình.”

Phẩm 15: KHÔNG ĐỒNG Ý A-LAN

Bồ-tát như thế
Mày rộng tay dài
Khoan thai điềm đạm
Như sư tử đi
Đến A-lan hỏi
Xuất ly tử sinh
Ý muốn dứt bỏ
Cửa ải tử sinh.
Xa thấy A-lan
Cùng với môn đồ
Đang ngồi nhóm họp
Giảng nói sách Phạm
Bồ-tát đức trọng
Ví như vua trời
Nghinh tiếp thăm hỏi
Cùng ngồi đàm luận.
Ngồi trong chốc lát
Nhìn nhau ý lành
Lòng Từ Bồ-tát
An ủi A-lan.
A-lan đáp rằng:
“Đức hóa đã lâu
Sở dĩ xuất gia
Vì không tôn vinh
Xé toang lưới ái
Mê đắm trói buộc
Cường tráng mạnh mẽ
Giống như voi lớn,
Vất bỏ tôn hiệu
Ngôi vua chuyển luân
Ví như người trí
Vất bỏ cơm độc
Xưa vua Chuyển luân
Không phải là lạ.
Trẻ qua, già suy
Bỏ nhà vào rừng
Bèn trao ngôi vua
Lại cho Thái tử
Giống như hoa héo
Chuyển trao cho người.
Giờ ta còn nghi
Ngài khỏe đẹp xinh
Sáu căn ham muốn
Chưa được đầy đủ
Nên nhận rộng rãi
Tự nhiên vinh lạc
Bỏ hiệu đẹp này
Ai chẳng nghi ngờ?
Muốn biết Thái tử
Xác thật việc này
Ắt sẽ trở thành
Pháp khí to lớn
Dùng đức tinh tấn
Tìm thuyền trí tuệ
Sẽ mau vượt qua
Biển lớn sinh tử”.
Bấy giờ, Bồ-tát
Nghe A-lan nói
Mỉm cười hoan hỷ
Mà trả lời rằng:
“Việc ta chưa thành
Nên ta đến đây
Giờ ông tự giữ
Việc chắc sẽ thành
Giống như trong tối
Bỗng thấy ánh sáng
Như kẻ lạc lối
Được người dẫn đường
Như muốn qua sông
Gặp người đưa đò
Nên ta đến xin
Tôn người làm thầy
Rủ lòng đoái tưởng
Xin được chỉ dạy
Nhận làm đệ tử
Xin thờ làm thầy.
Khổ, già, bệnh, chết
Phải độ từ đâu?
Xin dùng lý đó
Mà chỉ dạy cho”.
Bấy giờ A-lan
Là người dẫn đường
Rằng: “Nghe cho kỹ
Pháp Phạm chí ta:
Sinh tử xoay vần
Quanh quẩn trở lại
Trên dưới đảo lộn
Như bánh xe quay
Có tám việc riêng
Gọi là nội pháp
Lại có mười sáu
Các việc nghi loạn
Do đó phải biết
Người ấy ý mạnh
Tất cả thế gian
Nhân đây sinh diệt.
Năm tính như vậy
Thức đắm thứ sáu
Ý là thứ bảy
Do dự thứ tám
Hễ có năm căn
Lại có năm dục
Lại còn phải biết
Có sáu lầm loạn
Nếu hiểu điều ấy
Gọi là biết nghiệp.
Xích tiên cho ngôi
Đều cùng hay biết
Phạm thiên hiệu là
Nhất Thiết Phổ Tri
Nếu xét biết thế
Gọi nghiệp Nê-hoàn
Gốc sinh tử thục
Lôi kéo trói buộc
Chỉ biết rõ đó
Còn lại bất định.
Bọn ta ở đây
Tìm cách cầu giác
Là Nê-hoàn ta
Ngài muốn được giác
Hoặc có người trí
Gọi là Nê-hoàn
Hoặc gọi Thiền báo
Gọi đó Nê-hoàn
Nay bảo nhau xong
Ra nẻo sinh tử
Hợp ý phải siêng
Như bệnh tìm thuốc.
Tiên xưa thù thắng
Vị tên Tri Túc
Vị tên Định Hành
Bạo lâu lộ hình
Bọn họ đều từ
Đạo hành hằng ngày
Lại nữa còn có
Người cầu giải thoát.”
Bấy giờ Bồ-tát
Nghe lời ấy rồi
Trong lòng ngẫm nghĩ
Xét đầu mối việc
Bồ-tát nhiều kiếp
Trí tuệ giác được
Biết lỗi ấy rồi
Liền bảo Phạm chí:
‘Đã nghe ông nói
Trí tuệ sâu xa
Gọi là “nghiệp giác”
Ra khỏi sinh tử
Như ta đã biết
Việc này không thế
Như có hạt giống
Ắt phải sinh sôi
Các căn khác nhau
Gọi đó giải thoát
Nếu gặp được duyên
Trở lại buộc ràng,
Đất, nước, thời tiết
Lại không hạt giống
Làm sao sinh được
Nhân duyên lẫn lộn
Giống cùng duyên đối
Gặp gỡ nhau rồi
Ắt sẽ sinh lại.
Ta biết như vậy
Làm sạch nhơ bớt
Tuổi thọ kéo dài
Ý gọi giải thoát
Bảo đó Nê-hoàn.”
Bồ-tát không chịu
Pháp của A-lan
Bấy giờ lại đến
Hỏi pháp Ca-lan
Nói nghe tám ý
Bồ-tát hiểu ngay
Vi thức cố đắm
Biết có lầm này
Hiểu được ý kia
Đó ắt trái pháp
Vì vậy Bồ-tát
Bỏ pháp Ca-lan.
Khi ấy Ngài đến
Sông Ni-liên-thiền
Tu trì tịnh hạnh
Tìm chỗ ngồi thiền
Thân màu vàng ròng
Ánh sáng chiếu soi
Giống như hoa sen
Sáng đến tận ngày.
Ngày ăn hạt mè
Nửa hạt gạo thô
Ngày ngày càng giảm
Thân thể khô gầy
Máu trong thân cạn
Mỡ thịt khô khan
Khí lực suy yếu
Hình thể mòn mỏi
Chúng sinh khắp đời
Không thể chịu đựng
Khốn khổ như vậy.
Suốt trong sáu năm
Bồ-tát phơi lòng
Thân hình như thế
Mà chưa uống được
Thuốc pháp cam lộ
Tâm chợt lui sụt
Đạo đức không thế
Xưa, cõi Diêm-phù
Nhớ lại ý lành
Cũng không thể dùng
Thân thể ốm gầy
Và những việc ấy
Mà tự thành đạo!
Các trời trên không
Khuyên nên ăn uống
Sức khỏe đầy đủ
Mới đắc đạo được
Ý luôn tôn trọng
Như núi Tu-di
Ý mong cầu Phật
Việc rất quan trọng
Ý tuy vững chắc
Cứng như kim cang
Ăn uống không đủ
Thân khó đảm đương.
Hiểu như vậy rồi
Bồ-tát đứng lên
Ăn uống trở lại
Nuôi dưỡng bản thân.
Năm người hầu hạ
Thấy Bồ-tát ăn
Bèn bỏ ra đi
Nơi khác cầu nhàn.
Bấy giờ bèn nhận
Cháo sữa cam lộ
Của hai cô gái
Hoan hỷ cúng dường
Sau đó liền đến
Cây đạo nhiệm mầu
Khoan thai cất bước
Quyết thoát sinh tử
Nghiêm sức lồng lộng
Công đức chứa nhóm
Lấy chân chạm đất
Liền rung chuyển mạnh.
Bấy giờ Đại-lê
Là Rồng đầu đàn
Nghe tiếng chân chạm
Làm đất rung chuyển
Tâm sinh ngờ vực
Tự suy nghĩ kỹ
Lâu mới nghe được
Tiếng rung chuyển này.
Là người dẫn đường
Thầy của các thầy
Khi chân chạm đất
Mới rung chuyển thế
Thần đất vui mừng
Nhún nhảy như múa
Tiếng động êm êm
Như là buông xả
Bậc Thầy dẫn dường
Sắp xuất hiện ra
Đất rung ì ầm
Hớn hở như cười.
Vì tiếng rung chuyển
Từ nước hiện lên
Thân thể to lớn
Như ngọn núi đen
Các thứ châu báu
Chuỗi ngọc nghiêm thân
Giống như mây đen
Có ánh chớp lóe
Biến hóa nhiều đầu
Trùm khắp không trung
Thân phát ánh sáng
Như khói lửa bừng
Giống như mây nước
Đến gần mặt trời.
Rồng dùng thân ấy
Lạy chân Bồ-tát
Đứng lên cung kính
Chắp tay khen rằng:
“Con thấy Phật trước
Lúc sắp ra đời
Điềm lành ngày nay
Như Phật thuở xưa
Từ Phật Duy Vệ
Cho đến Ca-diếp
Mắt thấy sáu Phật
Điềm Phật ra đời
Nay vị thứ bảy
Hiện điềm lành này
Như xem tướng sáng
Sáng tỏ cõi đời
Hôm nay chắc chắn
Được uống cam lộ.
Nay thấy Ngài đi
Bước đi từng bước
Khi đất này ứng
Chấn động nhẹ nhàng
Ánh sáng khác thường
Vượt hơn mặt trời
Hôm nay điều nguyện
Chắc được đầy đủ,
Nhìn bầy chim xanh
Bay vờn lấy nhau
Như trong mây biếc
Hiện ánh mặt trời
Đem tiếng từ ái
Kính thân Bồ-tát
Hôm nay chắc chắn
Sẽ thành Phật đạo.
Hôm nay nhìn thấy
Khí thuận gió lành
Các dòng nước trong
Trên không trong sáng
Chim hòa điệu hót
Tiếng hót dịu dàng
Hôm nay Thập Lực
Thành Nhất Thiết Trí.
Xem thân Bồ-tát
Như núi vàng chói
Các thứ vật báu
Dùng để trang điểm
Nhìn thân Bồ-tát
Tướng tốt tự nhiên
Hôm nay chắc chắn
Sẽ thành Phật đạo.
Vầng viên quang tròn
Ở ngay chính giữa
Chói lòa như nhật
Năm màu rực rỡ
Như nay dứt bỏ
U ám cõi đời
Còn không lâu nữa
Mặt trời Phật hiện.
Rừng cây lay động
Tung khắp hoa đẹp
Tất cả các hoa
Đồng thời nở ra
Cây vô tâm cũng
Nghiêng như có lòng
Oằn xuống cúi chào
Hôm nay ắt được
Tất cả làm lễ
Như ngó sen trắng
Nở lúc không trăng
Ánh mặt trời chiếu
Thì hoa nở sen
Nay Bồ-tát hiện.
Ánh mặt trời Phật
Lòng trời, người mở
Như hoa mừng vui
Như nay quan sát
Tướng đã hiện rồi
Rất khó gặp được
Hoa Ưu-đàm nở
Hoa đã khó gặp
Phật càng khó hơn
Hai điều khó gặp
Nay hiện thế gian
Bây giờ sẽ lấy
Tên bén trí tuệ
Làm trần lao sợ
Vua, tướng, quân sĩ
Đã truy đuổi kịp
Đến chỗ Phật xưa
Hôm nay chắc chắn
Được uống cam lộ
Như nay quán sát
Quyết định giới răn
Nghiêm thân đẹp đẽ
Tám mươi vẻ đẹp
Đều soi các trời
Hiện trong thân Ngài
Hôm nay sẽ được
Người, trời lễ bái”.
Rồng Lê cứ thế
Khen Bồ-tát rồi
Qua suối vượt lên
Đi đến cây đạo
Xa thấy cây đẹp
Như ở cõi trời
Trang nghiêm không khác
Cây trời ngày xưa.
Mang cỏ Cát tường
Đến để hiến dâng
Bồ-tát liền hỏi:
“Tên ngươi là gì?”
Người thấy nói rằng:
“Tên là Cát Tường!”
Bồ-tát tự nghĩ:
“Ta ắt cát tường.”
Ngài liền theo đó
Nhận cỏ dịu mềm
Trải tòa Kim cang
Cỏ đều ngay ngắn
Ngồi kiết già phu
Ý chí vững vàng
Trong dùng tâm thức
Xét kỹ quyết định:
Không vượt cõi ma
Các dục trần nhọc
Ngồi đây không dậy
Cũng chẳng uống ăn
Dù cho bản tánh
Bốn đại mất đi
Trời, trăng rơi xuống
Tu-di bay lên
Các việc như thế
Có thể đổi thay
Chứ ta chẳng trái
Bỏ thệ nguyện này.
Phát thệ nguyện xong
Các trời rất mừng.
Bồ-tát nảy ý
Muốn hàng Ma vương
Như chẳng vừa ý
Ngoại đạo, dị học
Như làm trời, người
Các Rồng khen ngợi
Nguyện khiến chúng sinh
Được sự khen ngợi
Chúng sinh mười phương
Được như mình nguyện.

Phẩm 16: HÀNG MA

Bấy giờ Bồ-tát ngồi
Trên chiếc tòa Kim cang
Xây dựng tâm vững chắc
Thế giới Tam thiên rung
Địa thần mừng hớn hở
Từng hồi rung chuyển mạnh
Ma trời thấy đất rung
Thắc mắc vì sao thế.
Quan đứng đầu của ma
Tên gọi là Ngôn Từ
Tâm cung kính cúi mình
Tâu với chúa ma rằng:
“Xin nghe điều thần biết:
Chứa công đức nhiều đời
Thái tử vua Bạch Tịnh
Cõi tịnh tu hạnh lành
Nay sắp thành đại đạo
Không vua trời, cõi Dục
Muốn phá thành sở dục
Ổ khóa của các cửa
Ắt vượt trên cõi vua
Sẽ độ các chúng sinh
Mở rộng cửa Nê-hoàn
Bánh xe chuyển cam lộ.”
Vua ma nghe lời đó
Ngồi yên lòng buồn rầu.
Ba con gái đến hỏi
Con cả tên Danh Ái
Con thứ tên Chí Duyệt
Con út tên Loạn Lạc
Hỏi vua sao rầu rĩ.
Vua đáp lời ba cô:
“Kia có Tiên Đại Thánh
Mặc áo giáp quyết định
Tay cầm cung trí tuệ
Tên vô thường bắn ta
Muốn hàng cõi Dục ta.
Nếu thắng, ở trên ta
Thì cõi ta trống không
Khiến người khinh chống ta.
Như vua mạnh ở gần
Bị nước địch xâm chiếm
Nên nay các thân thuộc
Các con, nữ lực sĩ
Hãy tìm mọi cách ngăn
Hãy đến làm trở ngại
Làm chí kia tiêu tan
Như đắp đê ngăn nước.”
Bấy giờ ba ma nữ
Bèn đến chỗ cây đạo
Muốn tỏ thế lực mình
Của con gái người, trời
Phơi bày vẻ kiều diễm
Mê hoặc loạn tình người
Muốn hoại ý chí Ngài
Hiện hết sức quyến rũ
Thân biến thành nhiều tướng
Biến hóa thật mau chóng
Giống như chớp trong mây
Không phút giây nào dừng.
Bồ-tát quán xét kỹ
Da, tóc, chuỗi ngọc mang
Y phục đẹp che phủ
Giống như nhà chứa xương
Tràn đầy nước thối bẩn
Mở ra khiến người khinh
Vậy sao lừa người đời?
Bọc bằng da mỏng manh
Kẻ ngu si mê hoặc
Nhìn kỹ bọn ma nữ
Hình thể già tiều tụy
Như hoa bị sương pha.
Vua ma thấy gái già
Lòng giận như lửa bừng
Lại gọi ma bên cạnh
Bảo tập hợp đại quân
Đến cố ngăn Thích tử:
“Nay chưa động cõi ta
Chưa được mắt nhìn kỹ
Nên thường đến não loạn
Nếu hôm nay thành đạo
Thì có thể thắng ta
Mau triệu gấp binh mã
Ta sẽ tự xông pha.”
Mũ báu, mặt trời sáng
Nghiêm chỉnh đội trên đầu
Lên đến đỉnh Tu-di
Giáp kim cang mặc vào
Như ánh mặt trời sáng
Chiếu rọi đám mây thưa
Xe kim cang ngàn bánh
Mỗi bánh ngàn nan hoa
Xe dùng ngàn thớt ngựa,
Ma vương ngồi xe báu
Rất thênh thang sáng loáng
Như mặt trời trong lửa
Cung hoa một do-tuần
Tay cầm năm tên nhọn
Lọng báu như trăng sáng
Để mê hoặc thế gian;
Lọng che mấy do-tuần
Quanh treo linh bảy báu
Cờ cao mở miệng lớn.
Giống như cá Ma-kiệt
Khi muốn nuốt nước biển
Ma vương ra như vậy
Các ma chúng cùng theo
Có đến tám mươi ức
Đi đến bên cây đạo.
Bồ-tát ngồi trên hoa
Giống như vua trời Phạm
Đức vắng lặng đầy khắp
Ánh sáng chiếu rực rỡ
Như chứa vàng ngọc báu
Ma cầm cung tay trái
Từ ống vàng rút tên
Liền nói với Bồ-tát:
“Dòng Sát-lợi, đứng lên
Tại vì sao sợ chết,
Bỏ ngôi vị Đế vương?

Tướng Ngài đẹp đẽ phải cầm cung
Đáng hưởng vinh hoa ở thế gian
Đường của vua xưa danh tiếng khắp
Ngài đáng được hưởng sự khoái lạc
Nên hưởng lộc đời đất nước hiến
Khắp sai thiên hạ không chừa ai.
Bắt đầu dòng Cam Giá Thánh vương
Về hưởng vinh hoa bỏ khất cầu
Nếu không đứng dậy, tự suy nghĩ
Chớ tự trái với thệ nguyện xưa
Năm mũi tên ta không thể kháng
Phá xuyên mọi thuẫn rất bền chắc
Mê người chẳng khác hoa tiết xuân
Còn hơn cắt hoa để dưới nắng
Yêu mến đời như trời đổ mưa
Dục như chim công gặp mây mưa
Dục làm thất chí, không hổ thẹn
Giúp tăng ganh mạn, riêng lánh đời
Ngoại đạo thuật cao, làm hung chú
Được thắng nên họ riêng lánh đời,
Dục đắm cả trời lẫn người đời
Giác ngộ lời nói, bỏ ngủ nghỉ
Sức khỏe vô song, thế lực mạnh
Ái dục vô hình hoại các hình
Hoặc dùng lửa ái đốt chết giới
Vua xưa soi đó, mòn tiêu mất
Danh tiếng tài sản của vua mất
Hoặc dục trên đời huống gì nay.”
Lúc ấy Ma vương nói lời này
Không hề lay động ý Bồ-tát.
Liền phát cung ra bắn tên mau
Hiện các mê hoặc biến gái đẹp
Thấy Bồ-tát ngồi chẳng nghiêng chao
Vững bền như núi, nghi ngờ nói:
“Thiên tử an tường như núi Vua
Dùng tên nữ bắn liền rung động
Hóa hiện bốn mặt để đón rước
Hiện không tự khinh cùng gặp nhau
Tưởng nay Thái tử chẳng biết tên
Nếu con thất chí tên ta lạc
Chẳng nên lấy dục hóa làm tên
Chẳng cần lời cung kính hòa nhã
Thì nên khinh rẻ, không nên kính
Dùng thế đại quân mà khủng bố.”
Ma vương khởi ý nghĩ binh chúng
Kêu to thấu tận các cõi ma
Tập họp biết bao nhiêu số thân
Tạo nên sợ hãi động trời đất
Việc quan trọng như các núi Tuyết
Các vui tạo ra vẻ đáng yêu
A-lạc, chủ ba hai cõi trời
Làm trời Đế Thích ngồi trên voi
Hóa thân ngàn mắt, mặc giáp ngọc
Cầm chày Kim cang ngàn cạnh sắc
Hợp theo vô số làm trời sợ.
Tám ức binh voi theo nhau đến
Xe bạc rất to trang hoàng đẹp
Ngồi ngàn ngựa trắng, tướng theo trắng
Giáp ngọc trắng lòa, mây trắng che
Tự hóa thân mình có trăm đầu
Dẫn các rồng trắng binh chúng lớn
Mười hai muôn ức làm quân sĩ.
Chính thủy thần vương tên Hòa Luân
Chốn đất kéo về các núi thẳm
Các báu vàng, lưu ly cõi trời
Minh châu trang sức đầu, thân thể
Mặc giáp lưu ly hoa lúa vàng
Tay phải cầm chiếc gậy Kim cang
Ngồi ngàn sư tử các báu ròng
Cỡi xe lưu ly màu như nhật
Cùng vô số ức thần Dạ-xoa
Quân Tỳ-sa-môn như nước dữ
Vô Khốc, Uy Nộ và Tiên Thời
Vũ Lập, Nhật Nguyệt, thần Phong Hỏa
Hoa Chiếu, Diệu Mã, Kiếm Kim cang
Hiền Tài, Hậu Vụ và Chánh Hạnh
Vô số các đại Thiên thần này
Ngồi xe voi rồng và ngồi cọp
Xe giá ngàn ngựa, ngàn sư tử
Hoặc lại có chiếc xe ngàn hổ
Hoặc lại có xe ngàn chim công
Xe lừa, lạc đà, nghé, trâu, dê
Hoặc ngồi xe mây, ngồi cây núi
Hoặc ngồi trên rồng và rắn độc
Hoặc miệng phun lửa, mũi phun lửa
Mắt tai phun lửa, đầu lửa cháy
Phun nhằm vật gì đều thành lửa
Bốc cháy lẫy lừng như kiếp tận.
Hoặc hóa như trời, hoặc như trăng
Hóa như núi lớn có đôi cánh
Hoặc hóa tối tăm như mây đen
Ánh chớp, sấm rền, sáng rực rỡ
Như thế vô số đầy không gian.
Hoặc hóa voi đen như Tu-di
Ngồi voi lớn này, cầm cung lớn
Hướng về Bồ-tát muốn đốt cháy
Hoặc hóa đầu heo, chân lạc đà
Hóa đầu voi, gấu biến vô số
Hóa thân rất lớn làm đầu voi
Ngà chĩa lên trời như núi hiểm.
Hoặc hóa sư tử và đầu ngựa
Hóa ra đầu hổ, cá Ma-kiệt;
Hoặc hóa hai, ba, bốn năm đầu
Sáu, bảy, tám, chín cho đến mười.
Hoặc hóa trăm đầu, trăm cánh tay
Trăm chân, trăm mắt thật đáng sợ
Biết bao biến hóa đến ngàn đầu
Ngàn mắt, ngàn tay, phát ra lửa
Tiếng xe, tiếng ngựa, voi rống kêu.
Trống va, ngọc chạm vang trời đất
Hoặc cầm cung tên, kích, mâu, đao.
Hoặc đội núi, cây, chày Kim cang
Vũ khí trong tay chúng đều lao
Núi, cây chày cứng cùng mưa đá
Đức Bồ-tát biến hóa phát ra
Các mưa báu hoa vàng, hoa bạc.
Hóa gái đen thành như núi mây
Cầm đồ yêu chú mê Bồ-tát
Lại tự mê cuồng, không biết chi
Phá khí cụ cầm, vật cúng tan
Hoặc quỳ xuống đất, hét vang trời
Hư không sấm động rung chuyển đất,
Hoặc mang da rắn biết bao hình
Mắt, tai, mũi, miệng tuôn ra rắn
Lại cỡi lên nhau giận dữ tranh
Hoặc có ngựa hí, hoặc sói tru
Nhưng tâm Bồ-tát không tăng giảm
Giống như lửa đóm tranh mặt trời.
Có một vị trời bảo Ma vương:
“Ngươi nhìn kỹ, bậc Tiên thánh này
Trong thân soi hiện cả cung trời
Nhật, nguyệt, năm sao và các sao
Thiết vi, Tu-di, sông, biển, vực
Phạm vương, Đế Thích, bốn vua núi
Tất cả soi hiện thân Bồ-tát
Giống như khắp đời hiện trong trăng”.
Bấy giờ, vua ma càng thêm giận
Phóng ngay vũ khí, lửa ái dục
Đất trời bừng cháy không thể biết.
Bồ-tát liền phóng Cam lộ quán
Hóa ra mây mưa tắt lửa dục
Ái liền sợ uy đức Bồ-tát
Trời An tường đến, tà quỉ lui.
Vua ma liền phát giận sân độc
Như vời họa hại hóa hổ mang
Trên đất khắp nơi đầy rắn độc
Quấn quanh cây đạo bao khắp cùng
Bồ-tát liền khởi tâm đại bi
Hóa thành điềm lành, rắn thoái lui.
Vua ma lại khởi tâm ngu si
Bồ-tát tính duyên ngược đắc thắng.
Vua ma lại bắn tên ganh tị
Tên là ác khẩu hóa thành rồng
Bồ-tát lại bắn tên đại bi
Hóa làm chim vàng đuổi lui rồng.
Vua ma lại khởi tâm kiêu mạn
Phát tên Phạm thủ hóa thành voi
Bồ-tát lại buông phát Thập lực
Hóa thành sư tử, voi lui đi.
Vua ma lại phóng vọng ngôn phát
Tên là Điều hí, hóa thành gió
Bồ-tát liền buông chí thành phát
Bẻ gãy tên ma hóa thành núi.
Vua ma lại phóng xan tham phát
Phát tên Lậu ác hóa thành sương
Bồ-tát liền buông tuệ thí phát
Hóa mây mưa nhẹ thổi tan mù.
Vua ma lại phóng ấm cái phát
Tên là Thùy miên, biến thành mây
Bồ-tát liền buông ngũ tịnh phát
Hóa thành gió mạnh xua tan mây.
Vua ma liền phóng phát tà kiến
Hóa thành tăm tối che thế gian
Bồ-tát liền buông chánh kiến phát
Hóa thành mặt trời trừ tối ma.
Bồ-tát mặc áo đại nhẫn nhục
Đứng trên đất giới thật đầy đủ
Đeo tràng hoa đẹp bảy giác ý
Chuỗi châu tấn định rất nhiệm mầu!
Tay cầm cung Từ, tên Phạm tịch
Từ trong ống ý rút tên ra
Vừa buông một phát đều được thắng
Như A-tu-luân thắng người xưa.
Ma biến nhiều thứ để gây sợ
Tâm định Bồ-tát chẳng lung lay.
Bấy giờ Tịnh cư thiên trên trời
Vâng giữ pháp thành Phật quá khứ
Thương, ghét của tâm đã bỏ hết
Ở trên hư không thấy Bồ-tát
Khi ấy các trời bảo vua Ma:
“Xin ma Ba-tuần nghe cho kỹ
Bảo cho Ba-tuần sao lại nhọc?
Bỏ công uổng phí vậy sao đành!
Bỏ đi ác ý, tâm vắng lặng
Vì sao làm kinh hoàng Bồ-tát.
Người ấy không ai lay động được
Như dùng miệng thổi núi Tu-di
Nên dùng từ ái, bảo vua ma
Tự yêu, chớ xúc nhiễu Bồ-tát!
Mọi vật còn bỏ được bản tính:
Gió bỏ tánh động, lửa bỏ nóng
Đất bỏ hầm sâu, nước bỏ ướt
Tối không tránh sáng, nhật không soi
Trăng còn có thể đi trên đất
Tu-di bay bổng, biển thành bờ,
Vô số kiếp xưa tu đức nghiệp
Không bao giờ bỏ quyết tâm thề
Như quyết định ấy, như tinh tấn
Như ghét, như thương xót chúng sinh
Pháp hội đông đầy các trời, người
Được uống nước cam lộ chánh pháp
Phát tâm cầu nguyện an chúng sinh
Tự nhiên phát tâm thương thế gian
Bổn nguyện không thành không đứng dậy.
Mặt trời mọc, tìm tối sao được
Bồ-tát đại bi thương thế gian
Hoạn nạn trần lao bị xé tan
Gom nhóm thuốc hay các thứ pháp
Ba mươi bảy món chất cao thần
Dục được khắp đời hòa thuốc thần.
Này ma, ngươi làm chớ quấy ngăn
Tất cả rơi vào đường mê hoặc
Muốn dùng chánh dẫn không vững chắc
Đời ngu tối tăm, bỏ bơ dầu
Tất cả ngọn đèn sáng trí tuệ
Lửa lớn trước sân Phật đã đốt
Này ma chớ diệt, hãy lui ngay!
Thấy thế gian này chìm mất hết
Xuống biển trần lao không bến bờ
Để độ tất cả người chìm đắm
Vì sao ác trái với hạnh lành?
Ban đầu phát căn lành vững chắc
Xây dựng thân cây đại nhẫn nhục
Cành nhánh ý chí rất to lớn
Hoa giữ giới cấm rất tươi đẹp
Cây đại trí tuệ nay sắp mọc
Sẽ thành thục trái ngọt chánh pháp.
Này ma ngươi chớ làm trở ngại
Cây bền vững chắc sắp mọc lên
Trước nay giống Phật trồng nhiều lắm
Giờ đây là lúc nở bày ra
Nay ngồi tòa này là xứng đáng
Như các Phật quá khứ trước kia.
Tòa ấy đức danh là Địa Tế
Là nơi vô số ức người ưa
Khắp cõi đất này không còn chỗ
Ý rất tôn trọng, đáng vượt hơn”.
Vua ma nghe vậy buồn rầu nói:
“Bồ-tát nhìn tôi có sức mạnh
Muốn thiêu trời đất cho tiêu hết
Nuốt được Thiết vi khắp mặt đất”.
Nhân đó Bồ-tát hỏi vua ma:
“Tu tập hạnh gì được sức mạnh?”
Đáp rằng: “Nhà tôi mở cửa lớn
Danh đức vang khắp đâu cũng biết”.
Rằng: “Cúng một đời đức lớn vậy
Ba-tuần ngươi hãy nghe lời ta
Ta thờ cúng trong vô số kiếp
Khắp cõi đất này, trên hư không”.
Ma nói: “Ta làm, ngươi biết rõ
Ngươi làm ai chứng nhận cho đây?”
Bồ-tát bảo: “Ma hãy lắng nghe
Rồi ta minh chứng hạnh ta ngay!”
Bấy giờ từ tay sáng Bồ-tát
Phát ra mây đỏ chiếu sáng ngời
Từ áo ca-sa xuất tay đó
Bàn tay nhiệm mầu đã bày phơi
Sự chứa nhóm hạnh lành đời trước
Tay có bánh xe ngàn căm mầu
Bảo vua ma rồi, tay chạm đất:
“Hạnh ta ngươi biết, đất làm chứng?”
Khi ấy, thần đất liền hiện thân
Nói lớn rằng: “Tôi chứng, tôi chứng!”
Bấy giờ, đất mở cửa cúng lớn
Tiếng tăm bậc nhất đâu cũng nghe
Lại được gọi là “Đa kim thí”
Lại đem cho ngựa số vô vàn
Thường được no đủ đầy đất này
Lại mưa bảy báu no thế gian.
Nơi đây đầu thí hàng ngàn cái
Có chỗ cho: non nước, vợ con...
Đây lột da cho, đây thí thịt
Chỗ này cho máu, chẻ xương tủy
Ở đất này thí vô số thân
Cho đời các thân không trái nghịch”.
Mặt đất làm chứng hiện trở lại
Đất liền rung chuyển tiếng ầm vang
Thế giới Tam thiên rung sáu cách
Đánh tan ma chúa cùng ma quân
Ngả nghiêng lẫn trốn, ngã đầy đất.
Khắp cõi không trung lớn tiếng rằng:
“Thái tử họ Thích đều thắng oán
Đã thắng ma oán, các trần lao.
Cờ lớn vua ma liền gãy đổ
Ma lui, ma bại tiếng vang khắp”.
Đã thắng vua ma, chứng định ý
Định ý nghĩ sâu các Phật sự
Đức nặng, thần đất không hơn được
Tâm vui hớn hở, đất rung chuyển.
Bồ-tát liền bảo thần đất rằng:
“Động hay không động đều do ngươi
Hãy định, chớ động trong giây lát
Ta làm chỗ nương người không nương
Lâu rồi ngươi gánh chịu vô số
Người hại mẹ cha, kẻ dối vua
Vượt mức khuynh tà, theo tội lỗi.
Đào hết căn lành, làm việc ác
Uống độc đảo kiến, rơi chỗ tối
Khổ nguy gánh nặng, địa ngục phần
Đã thắng việc này, lại nhẫn nhục
Ta mới bỏ ngay khổ gánh nặng.”
Bấy giờ, hiện quán các thiền na
Đối với các thiền được tự tại
Nhớ nghĩ lâu xa, việc mới làm
Trải xem đời trước như hôm qua.
Đến nửa đêm dùng mặt trời quán
Nhìn rõ tất cả như gương sáng
Soi sáng rõ chúng sinh năm đường
Không hề chắc thật như cây chuối.
Ngay trong đêm ấy đến canh ba
Tư duy quán chiếu ý nhiệm mầu:
Tất cả thế gian các khổ nhóm
Sinh, già, bệnh, chết phải chia lìa
Tối tăm che khuất đường xuất ly
Không tránh hầm hố, cũng như mù?
Bồ-tát suy tìm nguồn sinh tử
Xét sự sinh diệt đều rõ ràng
Tâm lại sinh niệm lại suy nghĩ:
Già từ đâu đến, từ đâu chết?
Lại sinh chánh niệm duyên theo sinh
Nhân già có bệnh, do bệnh chết
Hễ ai có đầu thì có khổ
Như cây đã mọc tất phải đổ,
Lại nghĩ nguồn gốc từ đâu có
Biết các thứ lành, thọ duyên đối
Thọ từ đâu sinh, từ ái có
Xét nguyên nhân ái, từ giác biết
Giác biết nguyên nhân từ xúc sinh
Duyên theo xúc ấy có các căn
Bởi do sáu nhập duyên danh sắc
Duyên của danh sắc là nhân duyên
Duyên như vậy từ dưới đến trên
Do si sinh khởi nguồn sống chết.
Si diệt rồi thì tất cả diệt
Si, nguồn sinh tử đã tiêu rồi
Biết rõ gốc khởi mười hai duyên
Điều nên giác biết, giác biết kỹ
Đường tám Hiền thánh là bậc nhất
Trước đó chánh kiến như nhận xét
Thấy không tôi, ta, hết ba cõi.
Lửa tuệ đốt khô đầm trần lao
Phân tách việc này rồi tự bảo
Rằng: “Điều nên giác đã giác biết
Ta đã bằng kịp Tiên thánh trước
Chư Phật Thế Tôn thực hành đạo.”
Đến đêm hôm ấy vào canh ba
Mặt trời soi khắp đạo tràng bày
Chúng sinh nghỉ ngơi, cảnh vắng lặng
Nhất Thiết Trí thành Phật đạo trên
“Ta đã bằng kịp Tiên thánh trước
Chư Phật Thế Tôn thực hành đạo.”
Chứng xong cõi Phật cao nhất rồi
Thế giới Tam thiên rung sáu cách
Các trời chen chật đầy hư không
Vui mừng tung hoa khắp mặt đất
Vàng bạc, chiên-đàn vung khắp nơi
Ý trời tạo hóa khắp nơi nơi.
Tràn đầy khắp đất, không trung chật
Từ không kết ái, mưa hoa trời
Kỹ nhạc không trổi tự nhiên vang
Các trời trổi nhạc khắp hư không
Trời ứng vui mừng đời được hưởng.
Thần đất, thần không đều hớn hở
Thần lửa vui mừng tự nhiên cháy
Sóng biển, vực sâu vang tiếng mầu,
Các vị thần cây đều dâng hoa
Tu-di, các núi đều làm lễ
Khổ địa ngục ngừng, ngạ quỉ no
Chúng sinh thương nhau hết thù hận.
Thân Phật phát ánh sáng chánh pháp
Bốn bên, trên, dưới khắp mười phương
Biến hiện ra các thứ hình tượng
Nên trước làm cho giác ngộ khắp
Đường tám Hiền thánh bắt đầu hiện
Như cờ không người dẫn các đường
Đó có hoa mầu tên Chư giác
Nói các giác lại hiện cây rừng
Ba mươi bảy phẩm số khác nhau
Đều tự hiện hình như nói nghĩa
Hoặc rất nhiều mầu trắng, xanh, vàng
Ánh sáng như vậy, nói pháp âm
Mặt trời Phật soi sáng thế gian
Ánh sáng đó được xem xét kỹ.
Phật liền thâu lại ánh sáng thần
Không ăn bảy ngày, ngồi vui pháp
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ này:
“Vui thay: Phước báo diệu nguyện thành
Mau chóng chứng thành Tối thượng tịch
An vui mãi mãi không còn khổ.
Vua ma thấy vậy cùng tụ đến
Mỗi mỗi hiện hình muốn phá ta
Không bao giờ động tâm ta được
Dùng sức công đức hàng phục ma”.

QUYỂN 4

Phẩm 17: ĐỘ NĂM TỲ-KHEO

Kính thuận Đức Phật
Ý không sai biệt
Ta thương các thầy
Khiến lìa tội lỗi.
Phật ở cõi thế
Ban rải điều lành
Tâm Từ bình đẳng
Giống như con đỏ
Kia có khinh mạn
Những người hầu thầy
Người ấy chịu tội
Như trái lời cha.
Bấy giờ, năm người
Đồng thanh nói rằng:
“Tu hành khổ nhọc
Còn không chế lòng
Tìm an, lui sụt
Buông lung các căn
Do đâu đắc đạo?
Xin giải tỏ tường
Cũng như có kẻ
Ép cát tìm dầu
Không bao giờ được
Tốn sức uổng công,
Như vắt sữa trâu
Bỏ vú, vắt sừng
Hành động lạ đó
Chẳng được sữa đâu!
Nhân ánh đèn sáng
Xua tan tối tăm
Chẳng dùng nước mài
Làm sao dao bén
Ngu si tăm tối
Quá dày như thế
Dùng đèn trí tuệ
Sao trừ được đây!
Giống như lửa mạnh
Được gió thổi lên
Đốt cháy củi khô
Không bao giờ tắt”.
Người tâm buông lung
Mê đắm sáu dục
Hạnh nhơ trần lao
Không thể tổn diệt
Lửa hừng tuy tắt
Còn lại chút tàn
Cũng không hề bỏ
Tánh cháy của nó
Ý tuy tinh vi
Còn có dư thức
Biết hữu, biết khổ
Mới rõ đế này
Nên cầu vô sinh
Không già, không bệnh
Lại không có chết
Đất, nước, gió, lửa
Không trước, không sau
Không giữa, không lay
Nghĩ tìm chỗ này
Biết diệt, vượt khổ
Tám đường Hiền thánh
Có thể đến được
Cho nên đạo giác
Và các phương tiện,
Không thể biết rõ
Tám đường Thánh hiền
Nên mê cõi thế
Điên đảo xoay vần.
Phải biết khổ đó
Tuần tự tu hành
Trước dứt gốc khổ
Dục ân ái buộc
Thêm siêng tu tập
Tám đường Hiền thánh,
Phải dùng Nê-hoàn
Vắng lặng làm chứng
Nên giác ngộ khổ
Dứt đắm ái dục
Lấy diệt làm chứng.
Người tu đường Thánh
Nhân đó lập hạnh
Việc ấy đủ thành
Bấy giờ Ta sẽ
Mắt nhìn suốt thông
Thấu đạt bốn Đế
Đem bốn Đế này
Vì năm người ấy
Tâm minh mở bày
Dùng chày Kim cang
Trí tuệ chánh pháp
Đập núi trần lao
Của năm vị ấy.
Ước tính lúc mới
Rõ chánh pháp đế
Tám muôn vị trời
Liền được giải thoát
Trời, Rồng, Thần, Quỉ
Trên đất đều khen
Quay bánh xe pháp
Sao quá nhanh thế
Khéo tu giới cấm
Các căn quá dày
Điều khiến vắng lặng
Vòng khắp không chừa
Siêng năng chí niệm
Tụ tại trung ương
Vì trời, người quay
Bánh xe chưa quay
Tiếng quỉ thần khen
Lên đến cõi trời
Khắp cùng cõi trời
Cho đến cung Phạm
Chư Thiên đều được
Nghe âm thanh ấy
Nhân đó phát tâm
Đi đến chỗ Phật.
Lúc sắp bắt đầu
Quay bánh xe pháp
Trời, Rồng, Người, Quỉ
Thần biển đều mừng
Liền mưa hoa trời
Không thể kể xiết
Chúng sinh được nhờ
Từ khổ được an.
Trời Phạm thỉnh Phật
Quay bánh xe pháp
Chúng sinh được độ
Đến nay không dứt
Các phước báo ấy
Đều quy Phạm thiên
Nên đã được hiệu
“Phước Phạm” bậc nhất.
Lúc bắt đầu quay
Bánh xe chánh pháp
Phật dùng cam lộ
Cho năm người uống
Nguyện cho chúng sinh
Mau quay bánh xe
Như Phật Thế Tôn
Nói pháp độ người.

PHẨM 18: ĐỘ BẢO XƯNG

Đã lâu vô số kiếp
Chứa nhóm được gốc lành
Điều nguyện xưa được thành
Trước trao cho năm người
Giống như việc thờ lửa
Được dầu càng cháy mạnh
Lửa Phật còn vượt hơn
Ánh sáng soi cùng khắp.
Ra khỏi vực năm đường
Liền hóa độ năm người
Trước cùng năm Sa-môn
Đức lực thắng năm căn
Phật như trăng tròn hiện
Cùng với các đệ tử
Như năm ngôi sao sáng
Cùng vầng trăng ngao du.
Ở thành Ba-la-nại
Có con Đại trưởng giả
Tánh nhân từ thương xót
Tên gọi là Bảo Xưng
Nhà ở như cung trời
Người hầu như Thiên nữ
Kỹ nhạc ngừng giây lát
Xưng và các cô ngủ
Phước đời trước theo đến
Được uống thuốc cam lộ,
Đời trước thấy thây chết
Từ bi trong khoảnh khắc
Việc thiện xưa theo đến
Buồn bã, tỉnh ngủ ra
Thấy các cô như chết
Nhà ở như gò mả
Lòng chàng buồn thê thảm
Giơ tay buồn than rằng:
“Nay ta gặp ách nạn
Sống trong khổ hoạn lớn
Tự nhiên sinh tâm lành
Chỉ an vui vô vi
Dục lạc khó giữ lâu
Vui mừng tan phút chốc
Theo đường nào chạy trốn
Tự náu thân ở đâu?
Không gặp lửa vô thường
Nơi không có sợ hãi
Ở đời, ai đáng nương?
Ta phải nương vào đâu
Ai sẽ được cứu vớt
Từ bùn sâu ái dục?”
Bấy giờ bỏ ái dục
Từ từ rời giường báu
Rồi mang giầy báu sang
Giá trị trăm ngàn lượng
Cửa nhà và cửa thành
Nửa đêm tự nhiên mở
Sáng tỏ như ban ngày.
Lòng kia thấy ngờ vực
Các trời ở trên không
Từ ái nói khuyến khích:
“Ngài mạnh dạn đến mau
Chớ chậm chạp trễ nải
Cách nay không xa đâu
Phật, Bậc Thầy thế gian
Đang đứng đợi chờ nhau
Như trâu mẹ tìm nghé
Nay Ngài sẽ xây dựng
Được lợi lớn vô cực.
Dâm dục như bầy cá
Lướt trong sóng mê hoặc
Để vượt lên tinh tấn
Lên bè cây bậc nhất
Vượt qua các biển khổ
Ắt hẹn ở hôm nay.”
Lúc ấy chàng Bảo Xưng
Bùi ngùi khóc cất bước
Xa đưa tay hướng Phật
Cất tiếng buồn than rằng:
“Thưa Ngài con hôm nay,
Khốn khổ già, bệnh, chết
Xin cho con quy y
Giúp con khỏi khổ ấy.”
Phật dùng tiếng Phạm âm
Mềm dịu từ xa gọi:
“Ở nơi này có chỗ
An tĩnh không khổ hoạn
Có tám đường Hiền thánh
Vắng lặng rất thanh tịnh
Hãy mau đến chỗ Ta
Ta làm chỗ quy y”.
Bảo Xưng nghe lời này
Lòng tràn đầy mừng rỡ
Như gặp nắng sớm mai
Đắm mình trong ao sạch
Theo tiếng đến chỗ Phật
Cúi lạy dưới chân Phật,
Ví như cây hoa mầu
Bị gió mạnh thổi ngã
Thân trang sức anh lạc
Tâm thản nhiên không đắm
Túc phước nay đến rồi
Rốt ráo chứng La-hán.
Phật biết lòng Bảo Xưng
Trong thẹn thân anh lạc
Việc Sa-môn đều thành
Nhân đó bảo ông ấy:
“Trang sức trong thuần thiện
Bậc nhất thắng các căn
Đó gọi thành pháp Ta
Chẳng cần nhờ ngoại phục
Có nội tâm ngay thẳng
Trong ngoài thuận tương ứng
Cửa đạo đã mở rộng
Không thể cậy ăn mặc”.
Nhờ công đức Bảo Xưng
Bốn người bạn được độ
Mãn Thành cùng Vô Cơ
Ngưu Tư và Thiện Dữ
Giúp năm mươi đồng tử
Được độ thoát các khổ.
Đầu tiên bên Thế Tôn
Có sáu mươi La-hán.
Phật dùng tiếng Phạm thiên
Bảo các đệ tử rằng:
“Các ngươi đã thoát khổ
Được yên ổn mát mẻ
Chúng sinh chìm ái dục
Chịu khổ đáng thương xót
Các ngươi phải thương xót
Đi các nơi hóa độ.”
Phân bố, sai môn đồ
Rồi một mình bước đi
Bèn đến đầm Dã tượng
Nhân đó tìm chỗ nghỉ
Hiện thần quang sáng ngời
Hàng phục rồng độc hại
Hiện thần túc biến hóa
Các thứ đẹp kỳ lạ.
Phật đã hết kiêu mạn
Lại hóa các kiêu mạn
Đầu tiên độ Ca-diếp
Người ở đầm Dã tượng,
Sau đó thứ lớp độ
Độ hai em Ca-diếp
Môn đồ ba vị đây
Ngàn người thành Vô trước.
Phật cùng ba vị ấy
Công đức thật vòi vọi
Phép tắc và tuệ thí
Cấm giới, oai nghi tốt
Ngàn đệ tử theo chân
Gọi Thầy trong các thầy,
Thương xót vua Ma-kiệt
Đi đến thành Vương xá
Có người túc đức đang
Thống lĩnh nước Ma-kiệt
Dùng thiện ngự ngôi vua
Đức lành hơn chúng sinh
Nghe Phật, Bậc Đại Thánh
Đến trong đất nước này
Nghe liền sinh vui mừng
Nghiêm chỉnh đi đón Phật
Vua đích thân tự ra
Cùng rất đông quân lính.
Dung nghi vua Bình-sa
Khác hơn trong các vua
Như Đế Thích, các trời
Đều ra khỏi cung trời
Nghiêm oai nghi dẫn đường
Khi đến gặp trời Phạm,
Cùng các vị trọng thần
Mới vừa ra khỏi thành
Giữ đúng theo oai nghi
Vua Chuyển luân ra ngoài
Cùng bề tôi ra đi
Trước sau đều dẫn đường
Nghiêm sức hơn thế gian
Nhiệm mầu không gì sánh
Voi, ngựa, xe, tùy tùng
Tiếng vang đến tận mây.
Phụ nữ ra đường xem
Phục sức như chói sáng
Ra khỏi các cửa thành
Ngã tư đường tắc nghẽn
Như các hang trên non
Nước mưa thu tuôn chảy.
Bậc hùng trong các vua
Đi gần đến chỗ Phật
Phật phóng ánh sáng vàng
Chiếu sáng giữa các cây
Bằng oai thần Thế Tôn
Khiến đầm sáng sắc vàng
Vua ngạc nhiên vui mừng
Quay bảo vị quan hầu:
“Nghe tiếng, nhìn sắc vàng
Nghi lễ rất tương ứng
Ta nhìn ngắm kỹ càng
Quả thật vật báu mầu
Là biển cả trí tuệ
Kho báu các điềm lành
Xa ngắm trông hình dung
Phật hiện bày tướng lành”
Vua không kiềm vui mừng
Liền bước xuống xe báu
Như nhật ra khỏi mây
Lặn xuống ở non Tây
Năm uy nghi bỏ hết;
Vua bước đến chỗ Phật
Năm vóc lễ dưới chân
Thật hết lòng cung kính
Chắp tay ngước nhìn Phật
Ý nhiệm mầu không chán
Tâm mừng kính vô lượng
Toàn thân đều nổi ốc
Lễ xong về chỗ ngồi
Nhất tâm nhìn kỹ Phật
Hình dung càng đẹp hơn
Giống như núi Tu-di
Ba lần tự xưng hiệu
Nhân đó bạch Phật rằng:
“Nay chiêm ngưỡng thân Phật
Lòng không hề biết chán
Phật ra đời kỳ lạ
Làm chỗ nương ba cõi
Nay vui mừng hớn hở
Tâm tình trụ an nhàn
Mau bỏ ngôi Thánh vương
Sớm tìm lấy chân đế
Được trời, người kính trọng
Thật đáng tuyên giáo pháp
Độ mình đến an tịnh
Chúng sinh nguyện tròn đầy
Nay lễ dưới chân Phật
Thân quy mạng Thế Tôn!”
Vua ngồi ở trước Phật
Lại tự kìm chế hơn
Dán mắt nhìn Đức Phật
Như ong hướng cây hoa
Chăm chăm không động nổi
Khao khát muốn nghe kinh.
Phật dùng tám thứ tiếng
Nói pháp rộng vua nghe:
“Các căn và tâm ý
Sáu tình duyên khởi sắc
Sinh diệt, không ngừng nghỉ
Giống như chùm bọt nước
Sự sinh diệt các căn
Vua nên biết cho kỹ.
Như gieo giống xuống đất
Chắc chắn sẽ nảy mầm
Mầm nào sinh giống ấy
Vua nên biết xét mầm
Bóng nào thì hình ấy
Các tình ý như thế
Sự điên đảo sinh tử
Tướng nhân duyên sinh diệt.”
Vua nghe pháp sâu ấy
Tâm liền sinh sợ hãi
Thoát khỏi vực sinh tử
Được mắt tuệ thanh tịnh.
Mười hai ngàn thị vệ
Đều mong được giải thoát
Trên tám vạn vị trời
Đều được thuốc cam lộ.
Bấy giờ Phật Thánh Sư
Dừng nghỉ khu vườn Trúc
Lòng thương xót chúng sinh
Ngày đêm phát ánh sáng.
Tỳ-kheo tên Mã Sư
Thuận oai nghi đứng dậy
Lên tiếng bạch Đức Phật
Muốn vào thành khất thực
Phật cho phép ra đi
Nếu chợt gặp dị học
Phải dùng kệ Tứ đế
Thứ lớp mà giải thích.
Nghe lời Thánh Sư dạy
Cung kính mà thực hành
Vì thân bốn đại này
Đi đến thành Vương xá
Tâm vắng lặng mà đi
Mắt nhìn không lìa trước.
Ngoại học rất thông minh
Tên gọi là Thọ Huấn
Thấy oai nghi đẹp lạ
Tâm cung kính đến hỏi:
“Qua oai nghi vắng lăng
Chỉ nêu bày ý ấy
Núi báu lạ nào đây?
Vì vị thầy trên hết
Ngài là viên ngọc gì
Từ núi nào mà ra?
Từ cây trí tuệ nào?
Chỉ hoa tươi xinh đẹp
Nhờ mặt trời nào đó
Nơi ánh sáng chiếu ra
Ao tuệ trong nào vậy
Bèn sinh phù dung ấy?
Thầy ngài dạy gì vậy
Là ai được chỉ bày?”.
“Có vua dòng Cam Giá
Con vua dòng họ Thích
Bỏ nhà tu thành Phật
Là Bậc Thầy thế gian
Ngài nên biết thầy tôi
Thầy trời, người, Thánh hiền
Tôi mới bắt đầu học
Tuổi đạo còn rất trẻ
Phật pháp thì sâu rộng
Nói ra rất tinh vi
Nay sẽ xin nói lại
Lời dạy của Bậc Thầy:
Hiểu khổ, biết gốc khổ
Lại biết khổ diệt trừ
Đó là đạo diệt khổ
Thánh Sư thường giảng nói.”
Ngài nghe bốn câu ấy
Tâm liền ngừng dứt ngay
Ưu-bà-thế lập tức
Được mắt tuệ thanh tịnh,
Nhân vì Mục-kiền-liên
Lại nói khắp bốn câu
Liền đó thấy dấu đạo
Đều đi đến chỗ Phật
Với năm trăm đồ chúng
Cúi đầu kính lễ Phật
Cất tiếng khen Sa-môn
Oai nghi liền đầy đủ.
Hai vị trước thấy đạo
Đều chứng quả La-hán
Một vị trí bậc nhất
Một vị giỏi thần thông
Hai vị hầu Thế Tôn
Như tả, hữu hai tay
Chung sức giúp Đức Phật
Như vua giỏi, tôi hay.
Có một người quý tộc
Tên là Lạc Thọ Sinh
Bỏ màu vàng đẹp đẽ
Cạo tóc mặc ca-sa
Nơi đồng hoang Đa tử
Thấy Phật bày bổn hạnh
Mới đầu được thấy Phật
Bậc Thầy Nhất Thiết Trí
Chắp tay để trên đỉnh
Xa cúi đầu lễ Phật:
“Phật là Thầy của ta
Ta là đệ tử Phật.”
Phật dùng tiếng trời Phạm
Từ tâm bảo ông rằng:
“Làng thay! Hiền minh sĩ
Vừa lúc gặp tốt lành”
Phật thuận theo bổn hạnh
Giảng nói pháp sâu mầu
Tiêu diệt nhóm trần lao
Tức thời được chứng quả.
Cùng ba đệ tử Thánh
Nhất thiết trí sáng ngời
Như đêm rằm trăng tỏ
Cùng ba sao sáng trời.
Vừa từ nước Xá-vệ
Phụng sứ đến Vương xá
Của báu ưa bố thí
Tên gọi là Tu-đạt
Vừa nghe đến danh Phật
Vui hớn hở vô cùng
Toàn thân đều nổi ốc
Đêm dài không ngủ được
Nửa đêm đến chỗ Phật
Liền đến được gặp Phật
Năm vóc lễ chân Phật
Lòng tràn đầy hân hoan.
“Ngươi vì ưa đạo pháp
Bỏ đi ngủ nghỉ ư?
Đêm vui đến chỗ Ta
Chắc chắn được báo tốt
Giữ giới và trí tuệ
Vinh dự sinh lên trời
Vết nhơ của dâm dục
Nói rộng ngần ấy pháp
Như tấm nỉ sạch đẹp
Nhuộm màu vào rất tươi”.
Khi trưởng giả Tu-đạt
Chịu vào ao Nê-hoàn
Phát nguyện lâu cầu Phật
Muốn Ngài sinh ra đời
Độ thoát chúng sinh khổ
Lời thệ nay đã trọn
Từ sinh tử khổ ách
Độ vô số chúng sinh
Dẫn đi đường bằng phẳng
Đến tận thành Nê-hoàn
Như điều sở nguyện ấy
Mỗi mỗi được theo ý.
Người được độ từ xưa
Đều uống vị cam lộ
Thảy đều được yên ổn
Chẳng rơi chốn nguy nan
Người nghe xong tu học
Sẽ vào thành Nê-hoàn.

Phẩm 19: QUẢNG ĐỘ

Một mình độ tất cả
Riêng là Thầy thế gian
Dẫn dắt cả trời, người
Hiệu Phật trời trong trời
Đêm dài trong trần lao
Sống lâu với người ngủ
Đánh lên trống chánh pháp
Để độ người đáng độ,
Năm gò đã vun đắp
Trong thành La-duyệt-kỳ
Độ vương đệ Lê Hắc
Cùng với tám muôn người
Trưởng giả hiệu Dũng Mãnh
Bỏn xẻn che mắt kia.
Trước hóa độ Viêm Quang
Và độ ông Kỳ-vực
Ở trong thành Vương xá
Thuộc nhà Ca-la-vệ
Thế Tôn sáng hơn nhật
Dùng lửa định đốt Phật
Mưa pháp rửa sạch tâm
Lửa ba cấu lẫy lừng
Cơm độc và bụi tối
Cùng lúc đều tiêu tan.
Trong nước lớn Tỳ-đề
Đạt sĩ như Phạm thiên
Độ Phạm chí nổi tiếng
Tên là Phạm Ma Du,
Vua nước lớn Hương Trì
Mắt như cánh sen xanh
Giải thích cho sáu pháp
Giác ngộ Chánh kiến đế.
Có núi tên Đạo thuật
Hiển bày như núi vàng
Tâm tịnh có trí tuệ
Tắm gội giải thoát tục
Có mười sáu Phạm chí
Tên là Độ Bỉ Ngạn
Và hơn sáu muôn người
Đồng thời đều chứng đạo.
Bấy giờ các ruộng phước
Kéo đến ở trong nhóm.
Lúc ấy, trong nhóm kia
Có Phạm chí cao sang
Danh lừng tên Hắc Xỉ
Muốn làm lễ tế trời
Xé lưới nghi cúng tế
Đứng giữa con đường chính
Bấy giờ núi Tùy-đề
Trong hang động Đế Thích
Phật ở trong động ấy
Bất động như Thái sơn
Nhạc trời vang vọng khắp
Ca tụng Phật giác ngộ
Đem cam lộ thanh tịnh
Cho vua Đế Thích uống.
Ôm hại nhiều tức giận
Cơn gió nhanh dữ dội
Trán bằng ngón tay nhỏ
Mê hoặc chạy như điên
Hại như vua Diêm-ma
Phạm chí Ương-quật-ma
Dùng thần túc điều hóa
Kẻ hung bạo khó điều.
Lại ở cõi An cư
Phạm chí tên Giới Thận
Bị dây nghi trói buộc
Dứt bỏ sự nghi ngờ
Cùng ba trăm đệ tử
Từ khổ được giải thoát
Cắt bỏ mọi trần lao
Khiến cho không còn sót.
Trên đầu lửa cháy bừng
Trong miệng cũng phun lửa
Dưới môi ngậm giận tức
Ném vào lửa bừng cháy
Toàn thân lửa hừng hực
Giống như kiếp thiêu tận
Dùng lời dập tắt lửa
Quỉ thần A-lạp kia.
Thân lớn như mây xanh
Chớp sáng lòa loang lổ
Thân cũng lớn như thế
Trang sức chuỗi ngọc vàng
Muốn hại phun khí độc
Sấm chớp mưa đá dày
Hiện thần lực phút chốc
Diệt rồng độc không mầm.
Ở trong thôn Đại trạch
Hóa đồng tử Bang Thủ
Trước độ Thiện Hôn Miên
Dã thành hóa Thủ Thụ.

Câu-thiểm-ni đã giúp
Vô Úy và Linh Giả.
Ở trong thành La-duyệt
Hóa Phạm chí Vô Hiền
Duy-da-ly đã độ
La sát ăn thịt ác
Quỉ thần dữ Diệp Nhĩ
Đều hóa độ giải thoát.
Sức sư tử đã xuống
Hóa độ bốn ngàn người
Hóa độ Kiếp-tân-nâu
Và bốn ngàn đồng tử.
Núi Súc phồn hoang vu
Độ thái tử Đạo Đức
Địa thời độ Bạch Chuyển
Sở Sinh độ Tế Sứ
Lui lại ở Song lâm
Đến nghe ở Xá-vệ
Độ Phạm chí Vô Úy
Và vô số đại chúng
Lại độ Ưu-ba-tiên
Năm trăm tướng theo hầu
Lại độ Thính Thọ thảy
Và năm trăm Phạm chí.
Hóa đệ tử Bất Lan
Có năm trăm người buôn.
Độ họ Thích năm trăm
Đều cho làm Sa-môn
Ở tại thôn Thanh lâm
Hóa độ hai trăm người
Vô Trì độ hai trăm
Hội Đồng độ năm trăm,
Lại ở thôn Ức truyền
Hóa độ tám mươi người
Ở Tử Mãn sáu trăm
Tùy-đề năm mươi người.
Các trời, bốn vua trời
Sức mạnh giúp thế gian
Thế lực như nước cuốn
Sân hận như sóng tràn
Do đó vượt chú giáo
Nói cho bốn Thánh đế
Cuối cùng được giải thoát.
Đường Bát chánh lập ra
Cho bậc Hiền sĩ thảy
Hai mươi tám quỉ thần
Tướng quân hung tệ ác
Quấy nhiễm hồn phách người
Quỉ thần ở núi Tuyết
Thụ Mao nhiều tức giận
Thích Mao rất tệ ác
Phật dứt sự sân hại.
Nữ thần mẹ các quỉ
Tên gọi là Thủ Khứ

Ăn trẻ con còn ẵm
Rất nhiều của thế gian
Lại rất yêu con út
Phật bắt nhốt trong bát
Quỉ mẹ tìm mọi cách
Cuống cuồng đến chỗ Phật
Phật hỏi: “Ngươi thương con?
Người đời cũng thương con!
Nếu ngươi không giết hại
Ta sẽ chỉ ngươi con!”
Liền vâng dạy, thọ giới
Không giết, giữ lòng Từ
Cùng con quy y Phật
Như sóng về biển sâu
Dẫn rất nhiều nam nữ
Quỉ nam, nữ cũng đông
Các nam, nữ cháu, chắt
Vô số đầy đầm hoang.
Trong vườn cây Kỳ-đà
Hóa độ mẹ con quỉ
Và vô số chúng theo.
Phật trao cho chánh pháp
Sa-môn nước Tùy-đề
Độ thoát bốn mươi người
Sa-môn ở khắp nơi
Lại độ ba trăm người.
Độ Phạm chí Thốc Phát
Và bốn ngàn đồ chúng
Có Phạm chí Dũng Tiến
Lại độ cả ngàn người.
Như độ Xá-lợi-phất
Vô số người tinh tấn
Dùng cách độ Bàn-đặc
Dịu ngọt dạy cũng nhiều.
Lại như pháp An tường
Độ vô số người lành,
Cách độ La-tuần-nhu
Độ những người bạc phước,
Như cách độ Hiền Lương
Độ vô số người sang,
Như cách độ Xí Phương
Độ vô số kẻ hèn,
Như cách độ Ca-diếp
Độ nhiều kẻ điều lương,
Như độ Ca-lâu-đà
Độ nhiều người buông lung,
Như cách độ Thiện Trừ
Hóa độ vô số người,
Dùng cách độ quý tánh
Cũng độ vô số người,
Như cách độ Chiêm-ba
Độ những người xem tướng,
So sánh như Ca-diếp
Hóa kẻ biết tiếp lời.
Trong cửa thành Xá-vệ
Gặp năm trăm dị học
Phương tiện độ thoát chúng
Bằng lửa bao chung quanh.
Hiện thần túc biến hóa
Độ Uất-trì Ca-diếp,
Dùng uy thần hàng phục
Phạm chí tên Khoái Đế
Thẩm Đế cùng An Tiện
Cả vua rồng Vô Miêu
Cùng trưởng giả Ngôn Đàm
Đều hóa độ nhanh chóng.
Hoặc như Ương-quật-ma
Buông dao được hóa độ
Như độ vua Hương Trì
Đón rước độ Phiền Ý.
Dùng ngần ấy cách thức
Tiếp độ Kỳ-đệ-nan
Độ Phạm chí Nhân Đầu,
Phật từ nhân hóa ra
Biến hóa làm thân nai
Tế độ người thợ săn.
Năm trăm người họ Thích
Hóa tên họ thành hoa.
Hóa say như Úc-già
Độ nghiêm sức như lụa
Để độ người kiêu mạn
Cứu những kẻ kiêu sa
Độ Ca-diếp khó động
Nghịch chẳng chịu thí kia.
Dùng ngần ấy cách thức
Đi điều độ chúng sinh
Trường Xỉ cùng Hắc Tử
Và tạo tác Kết Bình
Quỉ thần ác các nước
Phật đã giáo hóa rồi.
Thượng thăng cùng Thâm Áo
Và hình tượng Giang Thy
Đến thần quỉ Lao Sơn
Hóa độ Phổ Quảng sơn
Độ quỉ Minh Châu Xỉ
Quỉ Hoa Xỉ thứ hai
Ngàn mắt và mắt xanh
Pháp Độ cùng Xích Sắc
Anh Nhĩ và Hoa Nhĩ
Đại lực rất cống cao
Ở trong hang núi sâu
Hóa độ các quỉ thần.
Phật đến nước Đại hống
Độ các Ưu-bà-tắc
Lập ra Bất hoàn đạo,
Trăm năm mươi người phàm
Có hai trăm năm mươi
Chứng được Bất hoàn đạo
Có cả năm trăm người
Được đạo Tu-đà-hoàn
Sở Hướng và Hỷ Thán
Thân giả, Lạc Hoa Môn
Thính Thiện Tính và Vụ
Kết Thiện Lai, Sung Dật
Xứng Mãn và Thiện Giác
Trọng Ấn Quang mỉm cười
Ngưu Thắng, Khiết Tường Cảnh
Vị Phát, cùng Tuyền Tác
Các La-hán như thế
Năm trăm vị cùng hàng
Nói lược mối manh ấy
Đã độ nhiều không lường.
Hoặc dạy lời mềm mỏng
Hoặc dùng lời thô thiển
Hoặc dùng cương nhu điều
Phật hết lòng giáo hóa.
Ông Điều-đạt buông lung
Voi say ở Vương xá
Phật giáo hóa người mê
Voi say tên Tài thủ.
Bấy giờ ngoài cửa thành
Phật hiện sư tử mãnh
Voi mắt lành nhìn Phật
Được thọ ký thành Phật.
Trong hang động Đế Thích
Hàng phục trâu đực dữ
Loài nhạn chốn hoang vắng
Vì hạ sinh giống trời.

Trong thành Bất cụ kia
Hai cọp con mới sinh
Được từ tâm của Phật
Cùng hàng ngàn chim bay.
Anh vũ và chim công
Sói, beo cùng Duy-la
Rắn độc, rùa, ba ba
Chim sáo và Xa lập
Bồ câu cùng chim quạ
Và đến cả ễnh ương
Bọn chúng được nương nhờ
Đều được sinh cõi trời.
Lõa hình xuống sông biển
Bơi được đến bờ kia
Mặt trời ngàn ánh sáng
Có thể dùng tay che
Các kinh Phật nghĩa sâu
Câu nhiệm mầu rông lớn
Tất cả các Thánh sư
Không có người hiểu hết!
Vô số chư Thiên vui
Vô lượng các Thánh thần
Vô biên thần hư không
Thần đất, núi vô vàn
Vô số thần cây, nước
Vô số trời và người
Hóa độ vô số biên
Nguyện đời trước đã đủ.
Như Phật được đủ nguyện
Thầy của Thánh, người, trời
Người, trời cũng sung mãn
Nguyện lành đã mong cầu.
Cũng nguyện khiến tất cả
Loài chúng sinh hữu hình
Người tu học kinh này
Giúp vào thành Nê-hoàn.
Các trời, thần chấp nhạc
Rồng, Quỉ, A-tu-luân
Tất cả nghe kinh Phật
Được uống thuốc cam lộ.
Người gặp Phật được độ
Thế gian nay vẫn có
Các vị ấy giữ nước
Tai họa tiêu trừ hẳn.

Phẩm 20: HIỆN ĐẠI THẦN BIẾN

Vua trong các trời
Cùng với các trời
Thắng kẻ thù mạnh
Các A-tu luân
Tiếng tăm, thế lực
Đồn vang khắp nơi
Ngồi giường yên ổn
Lòng vui vô lượng
Đem pháp nhiệm mầu
Thuốc thần cam lộ
Người trời tôn kính
Rất tự no đủ
Giống như Thiên đế
Ngồi trên giường an,
Phạm chí thấy Phật
Ngồi yên như thế
Tâm không hoan hỷ
Không được nghỉ ngơi
Nên sinh ganh ghét
Trong lòng phiền não
Nhân cùng nhóm họp
Ở trong rừng cây
Cùng bàn nghĩa rộng
Luận thuyết với Phật.
Vì sao người ấy
Riêng hiển trên đời
Danh đức vang xa
Vượt trên chúng ta
Và đem người đời
Vào đường Thánh hiền
Khiến pháp Phạm chí
Thành bị coi thường.
Nếu danh đức ấy
Càng lâu càng thêm
Danh tiếng chúng ta
Sẽ bị tiêu tan,
Danh tiếng chúng ta
Nếu bị tiêu vong
Thì làm sao được
Cúng dường an vui.
Nên phải cố gắng
Suy nghĩ tìm cách
Chỉ dòng họ Thích
Được kính cúng dường
Nếu xô ngã được
Chống được việc trên
Thì sẽ mất hết
Cúng dường, tiếng khen.
Tất cả suy nghĩ
Tìm lỗi xấu Phật
Có người lên tiếng
Chê bai dung nhan
Có người khen ngợi
Lời lẽ thanh tịnh
Hoặc lại thán vịnh
Tướng tốt của Ngài
Những lời như thế
Lẫn lộn không đồng
Để mà xưng dương
Công đức Thế Tôn.
Bấy giờ, trong ấy
Có vị Phạm chí
Bảo mọi người rằng:
“Nghe lời của ta:
Lúc mẹ sinh Phật
Từ hông phải ra
Mẹ không còn nữa
Vết thương vỡ da
Khó động đại địa
Rung chuyển sáu cách
Nhạc trời nhiệm mầu
Tự nhiên tấu vang
Tự nhiên không trung
Mưa các hoa trời
Lúa vàng, lúa bạc
Các thứ hương thơm
Lúc đó mặt trời
Sáng hơn ngày thường
Hoa rơi giống như
Màn trướng nhiều màu
Các trời khua đánh
Chuông báu, trống vàng
Mây lành nhuần thấm
Như rủ ân trạch
Trời, trăng, đèn, đuốc
Đều mất ánh sáng
Khắp đời mừng rỡ
Như được chỗ nương.
Sinh ra ở giữa
Rừng cây nhiệm mầu
Lúc từ hông sinh
Như trời ra mây
Trong khoảng thời gian
Rơi chưa tới đất
Tay Thiên đế đỡ
Cung kính đứng hầu
Lúc Thái tử sinh
Hiển bày những điềm
Kỳ lạ như thế
Không thể nghĩ bàn
Trời đất vì đó
Cảm động chứng tri.
Từ đấy khắp đời
Vang danh độ thế
Cần cầu chút ít
Giải thoát cho đời
Khỏi bẩn trần lao
Rắn độc hại người
Đúng ra xứng với
Ngôi vua chuyển luân
Bỏ vui chẳng đoái
Siêng cầu Nê-hoàn
Chẳng bị mê hoặc
Cái mà trẻ mê
Nghĩ già, bệnh, chết
Thương tổn tình ấy
Bỏ nhà vào rừng
Hạnh sạch, lòng dừng
Tiếng tốt khen ngợi
Người ấy ai hơn
Đệ tử người ấy
Theo tốt, làm lành
Vì thế cho nên
Được đời cúng dường
Ca-diếp, Mục-liên
Và Xá-lợi-phất
Mà còn khuất phục
Ai dám chẳng theo
Ba vương xả bỏ
Ngôi vua tốt đẹp
Giữ oai nghi mầu
Của vị Sa-môn.
Ngoài ra vô số
Người hiền lành tốt
Theo về họ Thích
Dạy bảo khuyên răn
Phật ở cõi thế
Đã được hài hòa
Hoặc nhân đệ tử
Hoặc dùng đức mình
Nên tìm mọi cách
Sớm khuất phục người
Như “vua bệnh nặng”
Nghĩ cách dứt trừ.
Nay bọn tà kiến
Vết xấu chưa hiện
Người chưa giác ngộ
Tóc để bù xù
Cũng chưa khỏi cười
Thân hình bôi tro
Năm thể lõa lồ
Lễ tiết như thế
Hiện việc trẻ làm
Không thể thắng được,
Dùng lời khẩu biện
Trao đổi luận đàm
Tinh tế khéo léo
Thì không sợ gì
Hiền thiện đông đảo
Cùng với Ca-diếp
Trực tình chất trực
Tên là Thẩm Đế
Thân thể cường tráng
Vòi vọi đáng sợ
Sở học thông suốt
Minh đạt hơn thầy
Coi người thế học
Khác gì cỏ hôi
Lại tự kiêu căng
Ý thường tìm địch
Lời lẽ phục chúng
Như vị khách say
Được đến với Phật
Đều lạy dưới đất
Khác nào như voi
Gặp sư tử mạnh.
Ta còn một cách
Có thể thắng Phật
May ra dùng nó
Hàng phục được Phật
Nếu giờ có thể
Chắc sẽ thắng nó
Thì danh đáng nể
Lại thêm lợi dưỡng
Chỉ việc thỉnh Phật
Xin hiện thần thông.

Tính không háo thắng
Lại ưa thẹn thùng
Thường dạy đệ tử
Không hiện thần túc
Nếu không hiện biến
Thì thua chúng ta”.
Nghe vậy mừng rỡ,
Lại cùng nhau khen
Sau đó giải tán
Trở về lều hang.
Đêm ấy ma trời
Đến với dị học
Muốn dùng oai thần
Khiến ý vui mừng
Tất cả mọi người
Đều đến hang kia
Tự biến hình dáng
Như đệ tử kia
Tự gieo thân thể
Dưới chân Bất Lan:
“Con đây chính thật
Đệ tử Thánh Sư”
Lại còn đi đến
Chỗ năm người khác
Đi đến khắp cả
Dối gạt sáu người.
Dùng thần túc ấy
Khiến họ ngạc nhiên
Phạm chí vui mừng
Cho chắc chắn thắng.
Các Phạm chí thảy
Vào lúc sáng sớm
Nhóm họp nhau lại
Đến cửa cung vua
Tới trước mặt vua
Là quan Minh ti
Bày tỏ đầy đủ
Sứ vào tâu vua:
“Các vị Phạm chí
Đại Bà-la-môn
Đều đã nuôi lớn
Trí tuệ nhiều đời
Nay đến ngoài cửa
Xin gặp đại vương
Như bậc Thiên tiên
Đến cửa Đế Thích.”
Vua nói: “Ta nghe!
Các Phạm chí này
Muốn tranh với Phật
Bày công đức mình
Ganh ghét với Phật
Tướng tốt, đức lành
Như A-tu-luân
Ganh sáng mặt trăng.”
Các quan tâu vua
Bọn ấy nhóm họp
Lớn tiếng reo hò
Muốn cùng đối địch
Giống như bầy gấu
Trâu đực, hổ, voi
Như bị sư tử
Chận dưới hang rồi.
Vua liền cho phép
Các Phạm chí hiện
Ngồi đó chờ đợi
Kính lễ dung nhan
Ý lành chiêm ngưỡng
Từ tốn nói rằng:
“Các thầy sao lại
Khổ thân, nhọc lòng?”
Các Phạm chí thảy
Đưa tay phải lên
Cùng lúc nói rằng:
“Khải bạch Thiên vương
Người trí tuệ đạt
Ứng hầu đức vua
Như bậc Thiên tiên
Yết kiến Phạm thiên
Phạm thiên lập vua
Chỉ dùng một phép
Ở tại thế gian
Chứng minh việc người
Chỉ việc lượng định
Đúng pháp hay không?
Lập nên ngôi vua
Thì đã lo lường
Từ xưa đến nay
Chưa từng nghe thấy
Thuở đời trước đây
Còn chẳng như vậy.
Nhìn các Phạm chí
Các công đức lành
Như đối nước vua
Được phước cúng dường
Nguyện theo ý ấy
Có ý đến đây
Giờ có nguyện nhỏ
Tấu bạch vua trời:
Xin muốn cùng với
Sa-môn Cù-đàm
Đều ở trước vua
Sánh lực thần thông
Ngài thân xem xét
Người trí tuệ lớn
Có thần lực lớn
Công đức vượt hơn
Sau đó có thể
Hiểu biết rõ ràng
Người được đắc thắng
Vua thỉnh làm thầy”.

Hồi lâu vua bèn
Bảo các Phạm chí:
“Hiền minh cạnh tranh
Lý chẳng yên lòng
Vàng còn trong quặng
Tranh với vàng ròng
Cho nên kẻ sáng
Không nên cạnh tranh”.
Bấy giờ Phạm chí
Lại tâu vua rằng:
“Xin vua soi xét
Đối các nhân ấy
Không còn phải tránh
Những con đường ấy
Đối pháp lành mình
Siêng năng suy nghĩ
Xả bỏ sách xưa
Hang động đã ở
Lại còn xả bỏ
Phạm chí tiên sư
Đột nhiên trở về
Pháp luật Cù-đàm
Giống như nước biển
Vào miệng Ma-kiệt”.
Nói sự lý ấy
Và còn vô số
Những lời lẽ hay
Bức thiết trình tấu.
Vua do đó nhìn
Các quan đứng hầu
Bèn giao việc này
Cho Lê Sư Đạt
Nhưng Lê Sư Đạt
Từ tốn nói rằng:
“Nay có một việc
Xin đều lắng nghe
Hiền dùng ý lành
Cào gãi vết ghẻ
Thì dùng lược mềm
Dứt hết gốc bệnh,
Sư tử hổ lang
Hổ mang độc hại
Lại cùng ngủ chung.
Người trí phải tỉnh
Nay Phật ngồi thiền
Nhập thiền vắng lặng
Các Ngài không nên
Vô sự giác ngộ
Giống như chim thước
Tranh với chim vàng,
Nước dấu chân trâu
Sánh với biển xanh,
Lửa con đom đóm
Tranh sáng mặt trời,
Đống tro bón ruộng
Muốn sánh Tu-di,
Muốn cùng ánh sáng
Mặt trời cạnh tranh,
Lại muốn sánh tròn
Cùng với mặt trăng,
Muốn cùng Đế Thích
Cùng nhau chiếu sáng.
Lại mời trời Phạm
Hiển bày thần túc
Các loài thấp kém
Như quỉ đói đến
Cùng với các ngài
Muốn đấu thần lực.
Các ngài thỉnh Phật
Cũng giống như thế
Người thông đạt nào
Mà tin việc này
Nay đây các ngài
Có các đệ tử
Khéo tự giữ gìn
Đối dòng họ Thích
Như cá Ma-kiệt
Khi đã ngủ say
Chớ nên gọi thức
Dậy nuốt tôi đi!”
Nhà vua cho phép
Điều Phạm chí tâu
Vua cho kỳ hạn
Hẹn bảy ngày sau.
Vua liền vội vã
Đến gặp Như Lai
Hướng về Đức Phật
Thưa rõ việc này:
“Con với pháp Phật
Không hề nhàm chán
Nghe nhận chánh điển
Nhiệm mầu của Ngài
Lòng ham các lành
Không có dứt bặt.
Nay suy xét kỹ
Thế Tôn đức lành
Ngài vô số kiếp
Hạnh chứa như sông
Công đức đời này
Tràn đầy như biển
Giống như ngày đêm
Nổi mây mưa lớn
Nước mới vào biển
Càng dấy tràn thêm.
Đức Phật, Thế Tôn
Biển lớn vô lượng
Các Phạm chí thấy
To lớn tràn đầy
Liền muốn dùng tay
Tiếp lấy đổ hết.
Tát nước biển đầy
Muốn cho khô cạn.
Các Phạm chí hẹn
Ở vườn Kỳ thọ
Vào bảy ngày sau
Đấu lực thần thông
Vua đã hứa khả
Những điều họ tâu
Bọn họ cùng con
Đã kết thề sâu
Thoái chí không mất
Kính bạch Thế Tôn”.
Ngu tình có lỗi
Tội lớn như non
Thể vua vốn trắng
Người to lạ thường
Khen oai đức Phật
Bỗng nhiên nhỏ nhắn.
Một đệ tử Phật
Tên gọi Mục-liên
Quỳ thẳng chắp tay
Đến bạch Phật rằng:
“Phật, trời trong trời
Thầy các Thánh chúng
Xin hãy vắng lặng
Việc này giao phó
Kẻ hèn khuất phục
Bọn dị học này”.
Như chim cánh vàng
Đến các rồng biển
Phật dùng Phạm âm
Mà bảo họ rằng:
“Vì họ mời Ta
Nên Ta phải đến.”
Vua nghe Phật hứa
Vui mừng hớn hở
Nhân đó lên tiếng
Mà nói lời rằng:
“Mọi người trên đất
Và trên hư không
Trời, Rồng, Thần, Quỉ
Nghe lệnh ta truyền
Các loài đắp đổi
Phải bảo với nhau
Núi to, biển lớn
Không trung, trên trời
Mời nhau hội lại
Xem đức danh xưng
Phải đến chớ nghi
Các hội khắp đời!”
Bấy giờ hội ấy
Đã đến bảy ngày
Nơi vườn Kỳ thọ
Điềm lành ứng hiện
Đem các nước hương
Tưới vẫy, tắm gội
Hoa màu đủ loại
Rải khắp trên đất.
Loài trông thấy được
Hiện trong hư không
Các trời lũ lượt
Cùng các Thiên nữ
Các cây báu mầu
Hiện trong không trung
Các cờ phướn báu
Đầy khắp hư không
Lọng phất, châu rủ
Đủ các loại hương
Anh lạc các trời
Tràng hoa rợp mắt
Các báu chứa nhóm
Hiển hiện khắp nơi
Của báu các trời
Chất đầy không trung.
Trên trời, dưới đất
Ai cũng hớn hở
Nên nhóm họp lại
Xem thần biến hiện
Người, trời tụ lại
Như biển mênh mông
Ví như nước thu
Xuôi về biển Đông.

Bấy giờ, có vị
Trời tên Xứng Linh
Xem hết các chỗ
Đâu cũng vui mừng
Từ trời đáp xuống
Đầu lễ chân Phật
Có tâm cung kính
Bạch Đức Phật rằng:
“Hôm nay con sẽ
Khác hơn mọi khi
Siêng năng thờ phụng
Đức Phật, Thế Tôn
Như có thuở trước
Cho người điều lành
Thì kia thêm báo
Dùng lành đón họ
Thế Tôn thương khắp
Thêm cho thế gian
Lần lượt vì họ
Chúng sinh nương tựa.
Như nay quan sát
Phật trời trong trời
Đức Phật ra đời
Riêng chỉ vì con
Tự nghĩ thân con
Làm vua nước lớn
Thân mình đời trước
Làm việc lành, dữ
Duyên này lại trải
Trong gian nan nhiều
Như từ cõi trời
Đọa xuống địa ngục
Chặt đến tận khuỷu
Cả hai tay con
Tiện đến đầu gối
Của cả hai chân.
Giống như hàng thịt
Dùng cách mổ dê
Ra từng chi thể
Khiến đều tan rã.
Khi ấy Thế Tôn
Đến làm thầy con
Nhờ Phật, Thế Tôn
Lại thọ sinh mạng
Khi Phật vì con
Nói pháp nhiệm mầu
Liền đó kiến lập
Chứng A-na-hàm
Riêng một mình con
Thắng được dị học
Dùng sức thần thông
Hàng phục ngoại đạo.”
Đích thân Thế Tôn
Khen đệ tử ấy
Dùng trí Nhất thiết
Tiên liệu rõ ràng
Nay phải phụng thờ
Thêm chút nhọc nhằn
Để cho đời sau
Lấy làm việc nhớ
Phạm chí về sau
Nghe lời bàn này
Không còn dám nữa
Đòi đấu thần thông.
Phật dùng thần túc
Bỗng bay lên không
Rồi trong khoảnh khắc
Đến tận núi Tuyết
Trong khe núi sâu
Thấy cây đẹp kia
Hương trời các báu
Nhiệm mầu trang nghiêm
Nhổ lấy cây lớn
Tàng rộng do-diên
Dùng tay nâng bổng
Giống như lọng báu.
Bấy giờ Đức Phật
Ngồi trên tòa báu
Thì các trời lấy
Các thứ lụa trời
Trang hoàng cây báu
Thật rất đáng ưa
Bấy giờ phát ra
Vô lượng ánh sáng,
Ví như mây tan
Nhật bỗng hiện rõ
Màu vàng rực rỡ
Sáng màu bạch ngân
Ánh sáng chói lọi
Sáng khắp thế gian
Tự nhiên hoa sen
Từ đất hiện lên
Hoa sen ngàn cánh
Bằng các báu trời
Cành hoa bằng chất
Lưu ly xanh biếc
Tòa cao ngà voi
Trên đài hoa sen
Bằng vàng cõi trời
Lưới ngọc sáng lòa
Là thí chủ Phật
Đẹp không gì bằng.
Phật bước khoan thai
Lên tòa báu trời
Ở trên hoa sen
Như vua Phạm thiên
Ánh sáng thân Phật
Còn vượt hơn nhiều
Trời, trăng, châu sáng
Không thể so sánh.
Tay phát ánh sáng
Chiếu sáng thế gian
Đèn trí Nhất thiết
Sáng soi thế gian
Giống như hoa sen
Chẳng dính nước bụi.
Chúng sinh nhìn Phật
Vây nhiễu chung quanh
Như ong vờn hoa
Để mà hút mật
Nhìn mãi mặt Phật
Mà không thấy đủ,
Sai sứ đến mời
Các sư ngoại đạo
Tâm trí chẳng muốn
Đến trong chúng hội
Thời Phật mới bảo
Với trời và người
Rằng: “Họ không chịu
Đến trong hội này”.
Bấy giờ thần thông
Tất cả Thánh trí
Duyên chúng sinh rốt
Người đáng được độ
Liền dùng mắt Phật
Quán sát mười phương
Muốn từ sinh tử
Độ khắp chúng sinh
Đất liền nứt ra
Ngục khổ đều hiện
Như há miệng lớn
Muốn nuốt thế gian.
Chúng sinh sợ hãi
Trong tâm run rẩy
Như thuyền khách buôn
Gặp miệng Ma-kiệt
Đức Phật liền gọi:
“Đại Mục-kiền-liên
Nói cho chúng sinh
Các địa ngục này!
Đau này như thế!
Khổ ấy như vầy!
Phạm các tội ấy
Thì đọa ngục này!”

Mục-liên trên không
Lớn tiếng giãi bày
Biến mười tám ngục
Nói về tội báo
Thời, chúng sinh đều
Biết việc đã làm
Phải đọa nơi ấy
Hoặc sinh chỗ này.
Tất cả chúng sinh
Tâm đều hướng Phật
Không nương nơi khác
Chỉ quy Tam tôn.
Chúng sinh chuyên tâm
Một bề không động
Bỗng dứt trói buộc
Thế rồi biến hiện
Nơi tòa báu Phật
Bốn góc hóa hiện
Mỗi góc bốn Phật
Ngồi hoa sen báu
Nhân đó chuyển biến
Vô số chư Phật
Ngồi hoa sen báu
Đầy khắp hư không.
Ánh sáng chư Phật
Chiếu sáng mười phương
Thân hoặc ra nước
Như mưa trong mây
Hoặc lại biến hiện
Nước, lửa đều tuôn
Tràn khắp không gian
Hóa hiện như vậy.
Bấy giờ Phật hiện
Thần biến như vậy
Đến trời hai tám
Trời Vô kết ái
Chư Phật đầy khắp
Tam thiên thế giới
Chúng sinh xa gần
Thấy Phật tại chỗ
Chư Phật Thế Tôn
Ngồi trên hoa sen
Sáng ngời thần đức
Tất cả đầy đủ
Công đức lồng lộng
Giống như núi báu
Bốn núi trang nghiêm
Sáng rỡ ở đời.
Như vua trời Phạm
Khi từ hoa ra
Ngồi trên hoa sen
Oai nghi đầy đủ
Chỉ Phật Thế Tôn
Hàng phục ma binh
Ngồi trên hoa sen
Đức hơn trời Phạm.
Tất cả chúng sinh
Xoay vần bảo nhau:
Từng ấy số kiếp
Trăm ngàn muôn ức
Vô số lượng kiếp
Chứa nhóm công đức
Kho Nhất thiết trí
Hôm nay phát ra
Giống như thuở xưa
Vào lúc kiếp sơ
Bốn loài chúng sinh
Từ miệng Phạm ra
Nay Phật xuất hiện
Như trời Phạm xưa
Từ miệng Phật ra
Vô lượng Đức Phật.
Từ xưa đến nay
Chúng sinh nhớ nghĩ
Cho thế giới này
Chỉ có một Phật
Nhờ ánh sáng Phật
Nuôi dưỡng các lành.
Vô số Đức Phật
Là chỗ đời nương
Đèn lớn của Phật
Thắp sáng thế gian
Ánh sáng soi suốt
Chúng sinh ba cõi
Thế gian không còn
Ngu si tối tăm.
Nhất thiết trí sáng
Ngu si diệt hết
Ánh sáng màu xanh
Sáng rỡ hư không
Ngồi ở trên hoa
Sen báu ngàn cánh
Phật hiện phước báo
Đầy thế giới này
Giống như biển lớn
Bảy báu tràn đầy.
Phật hiện chúng hội
Đều mang tâm lành
Liền dùng âm thanh
Tiếng Phạm thanh tịnh
Dịu dàng sâu xa
Và các âm thanh
Rộng vì chúng sinh
Nói pháp mầu nhiệm:
“Ba cõi như thế
Vô thường mong manh
Vô ngã, khổ, không
Diệt, vô vi an”.
Khi Phật nói pháp
Sâu xa như thế
Tiếng vang khắp cả
Tam thiên thế giới
Hàng ức chúng sinh
Phát tâm đại đạo,
Lại còn vô số
Phát Duyên giác thừa
Hàng ức chúng sinh
Đạo tích được thành
Ngoại đạo dị học
Bỏ các tà kiến.
Khi ấy Phật liền
Thu lại uy thần
Ở trước chúng hội
Hiển nhiên lên trời
Ở cung Đao-lợi
Nói pháp mẹ nghe
Đem thuốc cam lộ
Cho người, trời uống.
Sở dĩ Phật thắng
Được các Phạm chí
Thần thông biến hóa
Oai đức tướng tốt
Đầy khắp tất cả
Các loài chúng sinh
Đều uống thuốc pháp
Cam lộ trong lành.
Hôm nay ở đây
Ông hiện thần thông
Hóa độ vô lượng
Vô số chúng sinh.
Các Thiên thần ấy
Nghe được danh Phật
Nghĩ ân Đức Phật
Giúp đỡ thế gian
Kia nghe điều đó
Tăng thêm công đức
Duyên giống lành ấy
Đối ruộng phước Phật
Thoát được oan đối
Khổ não sinh tử
Nhân đó vào thành
Nê-hoàn an vui.

Phẩm (17*): CHUYỂN PHÁP LUÂN

(Phẩm này là một dị bản dùng để tham chiếu với phẩm 17: Độ Năm Tỳ-kheo ở đầu quyển IV)

Nguyện thành, lòng vui mừng
Hân hoan dưới cây chúa
Ngồi nhìn cây bảy ngày
Không ăn, đầy vui mừng
Như vua mới lên ngôi
Tuần xét kho báu mầu
Kho mầu Phật cũng vậy.
Trước xem xét các pháp
Dùng mắt Phật nhìn khắp
Thấy rõ hết thế gian
Biết đời theo tà đạo
Thuyết mê của Lục sư
Pháp mầu nhiệm khó hiểu
Người ngu hiểu Nê-hoàn
Giác các giác bậc nhất
Ý muốn vào vắng lặng.
Trời Phạm thần diệu nhất
Phương tiện thấy thẳng ngay
Biết Phật đời trước thệ
Phát tâm muốn xuống trần
Dùng thiện làm ích đời
Lời mầu thỉnh mưa pháp
Mền dạ như mặt nhật
Hiển hiện xuống cõi trần
Liền đến trước Đức Phật
Cúi đầu lễ chân Phật
Đứng bên Phật rất sáng
Như gió thổi cây vàng
Mắt lành nhìn không chán
Cung kính bạch Phật rằng:
“Xin nhớ thệ quả cảm
Thí cam lộ cho đời.

Người đời như sen
Hoa đẹp tuyệt trần
Nở ngang mặt nước
Hoặc khỏi mặt nước
Chúng sinh kính ngưỡng
Mặt trời Phật xuất
Mong ngày tâm mở
Như hoa trong ao
Ngoài Phật Thế Tôn
Không ai có thể
Từ ngục sinh tử
Vớt chúng sinh lên
Cũng giống như vua
Chuyển luân thuở xưa
Cứu chúng sinh khổ
Dùng mười hạnh lành
Đã khuấy lên được
Biển sâu trí tuệ
Được loại thuốc pháp
Cam lộ thần kỳ
Muốn dùng trị dứt
Bệnh khổ chúng sinh.
Nên mở tuệ thí
Chia thuốc cam lộ
Ngài đã qua được
Các biển khổ sâu
Xin dùng thuyền pháp
Độ các chúng sinh
Như người đi buôn
Chìm đắm biển khơi
Tìm cách cứu giúp
Như thuyền trưởng tài
Bệnh khổ trần lao
Rất là tệ ác
Chúng sinh bệnh lâu
Không gặp thầy giỏi
Y Vương tối thượng
Xuất hiện ra đời
Nay nên trao cho
Thuốc hay, pháp thần.
“Tưởng khói” như mây
Lọng che rất dày
Lửa dâm hừng hực
Đốt cháy trời, người
Ngài đã no đủ
Nên thương chúng sinh
Xin dùng nước pháp
Cho tất cả no.
Ngài đã trừ diệt
Tất cả ngu tối
Lòng sáng trí tuệ
Như cây đèn lớn
Ngu tối che lấp
Con mắt thế gian
Xin ban đèn pháp
Soi sáng tâm ngu.
Ngài đã được uống
Phật trước có dạy
Dòng sông lời nói
Như bậc Tiên xưa
Xin từ miệng mầu
Thương xót ban ra
Lời nói thanh tịnh.

Như nước sông Hằng
Núi cống cao mạn
Rất cao hiểm trở
Dùng chày tuệ cứng
Đập nát không còn
Xin lại nguyện dùng
Chày pháp tuệ này
Đem cho chúng sinh
Đập núi mạn nát.
Tâm tính nhiễu động
Nay đã điều phục
Trói dùng dây tuệ
Xem xét rõ ràng
Nguyện ban cõi thế
Ý điều thanh tịnh.
Trí tuệ vững chắc
Sợi dây trói buộc
Người tâm nhân từ
Ban cho lòng Từ
Chúng sinh từ lâu
Rơi vào đường tà
Bậc thầy dẫn đường
Nay đã ra đời
Xin dẫn đời khỏi
Đồng rộng sinh tử.
Sau Phật Ca-diếp
Đời đều tối tăm
Chìm đắm mê hoặc
Đêm dài trần lao
Cúi xin Thế Tôn
Đánh chuông trống lớn
Chánh pháp vang lên
Thức tỉnh giấc nồng”.
Bậc Phạm thế gian
Nhận lời Phạm thiên
Âm tịnh nhiệm mầu
Sẽ nói giáo pháp.
Phạm thiên được nghe
Hết sức vui mừng
Lễ dưới chân Phật
Rồi bay lên không.

Bấy giờ các lành
Pháp khí bậc nhất
Hiệu là Phước điền
Công đức thế gian
Phật nhận tất cả
Chúng sinh cúng dường.
Bốn vua liền đến
Hiến dâng bốn bát
Đức Phật liền dùng
Năng lực thần thông
Hai tay ép lại
Hợp thành một bát
Bấy giờ liền nhận.
Hai người đi buôn
Trước thọ năm giới
Làm Thanh tín sĩ
Nhân đó phát tâm
Sẽ nói pháp rộng.
Mắt Phật mới nhìn
Người đáng được độ
Thì A-lan mất
Đã qua bảy ngày
Thấy Uất-đầu-la
Đã chết đêm qua
Nhân đó lại nhớ
Năm người thị giả
Nay muốn vì họ
Dứt tối đêm dài.
Phật đến thành lớn
Nước Ba-la-nại
Uy nghi, khoan thai
Như sư tử bước
Việc làm đã xong
Tướng tốt hiện rõ
Tuy đi một mình
Đức như đông đảo.
Có một đạt sĩ
Tên là Ni-kiền
Giữa đường gặp gỡ
Hết sức ngạc nhiên,
Xem tướng đoán mộng
Biết được lành dữ
Tám thứ sách đời
Mình ông nổi tiếng
Thấy đức tướng Phật
Xem xét kỹ càng
Khiêm tốn, cung kính
Mềm mỏng bạch Phật:
“Trong các đắm nhiễm
Mà không đắm nhiễm
Trong các căn động
Vắng lặng không lay
Nhìn thấy tướng mặt
Trong tâm nghi ngờ
Có lẽ không trí
Minh đạt đầy đủ
Nhìn kỹ tướng mặt
Sáng đẹp trong suốt
Chế ngự các căn
Việc làm tự tại
Quan sát nghi dung
Việc làm đã xong
Ai là thầy đó
Xin nói thật lòng!”
Bấy giờ Phật dùng
Âm thanh thanh tịnh:
“Trên trời, dưới thế
Ta không có thầy
Ta chẳng đến thầy
Tự nhiên giác ngộ
Ta chứng Phật đạo
Ông sẽ biết được.

Tự xưng là Phật
Đã thắng được tà
Ni-kiền như thế
Nên giác đã giác
Tất cả điều thắng
Đều đã thắng xong
Do điều thắng đó
Thành Nhất thiết trí.
Nay trước đi đến
Thành Ba-la-nại
Ta muốn ở đó
Đánh trống pháp lớn
Vì đời khổ não
Xây dựng pháp lành
Khắp mời nhóm hội
Làm thượng khách pháp”.
Chỉ an thân mình
Đó không là lạ
Cứu giúp khổ nhọc
Một thân mình khổ
Rộng vì chúng sinh
Mà cầu điều lành
Công đức người ấy
Không thể tính lường.
Nếu dùng một thân
Vớt đưa đến bờ
Nếu lại thấy kẻ
Bị nước cuốn đi
Không khởi tâm Từ
Cứu người đang trôi
Bọn đó không thể
Xưng là đạo sĩ.
Nếu lại có được
Kho tàng trân báu
Không giúp người nghèo
Vậy là không được.
Tay cầm thuốc hay
Người săn sóc bệnh
Không cứu giúp bệnh
Cho quà ích gì?
Nếu thấy người mê
Bị đi lạc đường
Không chỉ đường chánh
Không gọi Đạo sư.
Nếu lại thấy người
Bị rắn độc cắn
Không cho họ chú
Dùng người làm gì.
Như tự đốt đèn
Có chỗ soi thấy
Do đó không thể
Đặt ân ở đây!
Phật dùng từ lành
Giáo hóa mọi loài
Nói pháp người nghe
Không sinh cống cao
Trong cây bảo đảm
Chắc chắn có lửa
Trong không có gió
Trong đất có nước
Chư Phật cũng vậy
Ắt có đạo thánh
Chứng được dưới cây.
Ba-la-nại nói
Tức thời khen lớn:
“Sâu xa không bì.”
Ni-kiền khen xong
Thuận đường ra đi
Tâm vui mừng bước
Chốc chốc quay nhìn
Mắt lành nhìn Phật
Mà không thỏa mãn
Phật thuận đường đi
Đến Ba-la-nại
Chim bay vui vẻ,
Ở trong vườn nai
Ánh sáng rực rỡ
Sáng chói thế gian
Như vua mặt trời
Vào vườn Mê hoặc.
Ức Bảo, Ý Hảo
Biên Phương thứ ba
Thứ tư Mã Thị
Hiền Cư thứ năm
Lúc ấy năm người
Xa thấy Phật đến
Cùng nhau bàn luận
Nói với nhau là:
“Người ưa nghĩa đến
Chính ông Cù-đàm
Lui mất chí gốc
Đạo thuật không thành
Không đáng đón rước
Cũng không lễ bái
Thệ gốc đã mất
Không nên cung kính”.
Giao kết thế rồi
Ngồi yên không động.
Nói xong khoảnh khắc
Phật liền đi đến
Bỗng nhiên bất giác
Làm trái giao kết
Giống như thần đất
Nâng cho đứng dậy
Có người đón rước
Người tiếp lấy y
Người đỡ bình bát
Người xếp chỗ ngồi
Bằng hình thức ấy
Phụng kính Thế Tôn
Vẫn không bỏ được
Lời đùa thế tục
Nhân đó Phật bảo:
“Đạo sĩ không thế
Trước Phật không nên
Kiêu mạn bất kính”.

QUYỂN 5

Phẩm 21: PHẬT LÊN CUNG TRỜI ĐAO-LỢI VÌ MẪU THÂN THUYẾT PHÁP

Đem cam lộ chánh pháp
Làm người đời no lòng
Gieo hạt giống giải thoát
Đều được hưởng quả báo.
Công đức Phật như nhật
Chánh pháp như ánh sáng
Giới phẩm như nước trong
Có ra từ suối trời
Mẹ như sen báu mầu
Và hoa rừng cây trời
Sắp đến kỳ nở rộ
Nên Phật lên Đao-lợi.
Ánh mặt trời chiếu sáng
Đêm trăng tỏ ngời ngời
Phật soi trời thế gian
Ngần ấy trang nghiêm đẹp
Vua mặt trời nghĩ rằng:
Vua mặt trời đến nơi
Vì đời kính ý trời
Cúi đầu lễ chân Phật.
Vua mặt trăng nghi ngờ
Bỏ chỗ thấy thật sáng
Ánh sáng trăng tốt đẹp
Quy về trăng tuệ người
Vắng lặng hơn trời Phạm
Chiếu dịu như Thiên đế
Sâu xa hơn biển cả
Bất động núi Tu-di.
Cây các báu vua trời
Tên là Thể trú độ
Ngồi dưới vầng ánh sáng
Núi vàng bóng cây báu
Thấy mẹ hoàng hậu mầu
Trồng quả phước thành thục
Hoặc có nơi nên trồng
Hoặc có nơi nên bỏ
Dùng đức thanh tịnh Phật
Mặt chiếu như châu sáng
Người thấy tâm thanh tịnh
Nước báu dưới nước trong.
Khi ấy Phật Thế Tôn
Dùng tiếng Phạm trong trẻo
Mưa thuốc pháp cam lộ
Đối Từ mẫu thuyết pháp:
“Rơi vào khổ chia lìa
Sinh thiên có họa ấy
Tham cầu nhiều cũng chết
Đó là khổ thế gian.
Địa ngục nấu, thiêu đốt
Quỉ đói khát cháy khô
Súc sinh ăn nuốt nhau
Năm căn khổ không yên
Ở nơi chỗ thọ thân
Các khổ thường theo đó,
Muốn rời các khổ não.
Chỉ có diệt, vô vi
Nên biết khổ ba cõi
Như vết thương nhiễm trùng
Còn hơn nung sắt áp
Không thể trị vết thương
Thế gian khổ như vậy.
Biết nhân duyên khổ sinh
Biết chỗ khổ kia diệt
Biết lý do khổ tan
Biết khổ năm ấm thạnh
Biết lý do trần lao
Biết chỗ trần lao diệt
Diệt đó gọi vô vi.
Cho nên đường diệt ấy
Gọi là Bát Thánh hiền
Các độc trần lao đó
Đều cháy tiêu không còn
Sinh tử rất đáng sợ
Tiến lui không đáng nương,
Như mặt nạ con hát
Cởi ra rồi đeo vào.
Hoặc uống cam lộ trời
Lại uống nước đồng sôi
Hoặc ăn cam lộ trời
Lại ăn hòn sắt nóng
Hoặc lại đến nhà trời
Hoặc kéo xe sắt đốt
Hoặc vua hoặc hành khất
Quỉ đói rồi súc sinh
Duyên trước đã chỉ định
Chạy nhảy như đánh cầu
Lên xuống khắp ba cõi
Chọn từ có đến không.”
Nghe nói pháp ấy rồi
Người mẹ diệu vua trời
Tám mươi tám lao kết
Tâm người đều diệt hết
Ý an trụ pháp mầu
Lại khiến ba cấu sạch
Đốt tan trần lao mạnh
Hoàng hậu chứng tam đạo.
Trong đại hội vô số
Hoa sen cõi trời, người
Đều nở ra cùng lúc
Như hoa gặp mặt trời.
Bấy giờ hoàng hậu dậy
Với lòng đầy vui mừng
Như vầng dương qua núi
Ánh sáng càng sáng trưng
Với lòng thương kính Phật
Lễ chân rồi bạch rằng:
“Xưa nay mẹ chưa từng
Được con dâng trọng cống
Vô số kiếp nhờ dắt
Lòng chưa từng thỏa mãn
Thiên dục chẳng đầy đủ
Không như nay đầy đủ
Biết đủ khiến ta đủ
Dứt đắm không còn mê
Nhất thiết trí Ta ngộ
Không mầm dứt giống ngã.
Bấy giờ vô số trời
Nghe đại pháp nhiệm mầu
Liền gieo giống đức lành
Gieo giống Phật thanh khiết.

Phẩm 22: NHỚ XƯA

Bấy giờ, Thiên Trung Thiên
Thầy các trời, người đời
Trong cõi nước Đại vương
Quốc độ Ma-kiệt-đà
Dừng chân ở vườn Trúc
Nhớ lại đời xa xưa
Ánh sáng càng tỏa đẹp
Giống như đền lửa mạnh.
Em Phật tánh nhân từ
Tên gọi là A-nan
Thấy ánh Phật rực rỡ
Liền đi đến chỗ Phật
Chắp tay quỳ gối phải
Cung kính bạch Phật rằng:
“Xin Đấng trời trong trời
Giải quyết tâm con nghi
Chưa từng thấy ánh sáng
Như ánh sáng hôm nay
Xin Đấng Nhất Thiết Trí
Nói nguyên nhân sáng này”.
Bấy giờ Đức Phật dùng
Tám tiếng mầu bảo rằng:
“Nay lắng nghe Ta nói
Nhân duyên ánh sáng này
Ta tự nhớ đời trước
Thí vô số chúng sinh
Cúng dường hàng ngàn Phật
Đủ mọi thứ cần dùng
Học vô số thánh điển
Cúng tế nhiều vô vàn
Đại thí nhiều vô kể
Người thí khó kể hơn.
Nhớ lại thời quá khứ
Voi lớn như núi trắng
Thế lực hơn kẻ địch
Ta dùng để bố thí
Hai con lòng yêu mến
Dùng ban bố cho người
Chân lông đều ra máu.
Thời, Ta tên Thậm Ái
Voi, ngựa, xe, con gái
Các thứ đều bố thí,
Thí tám muôn bốn ngàn
Trâu đực vàng, sừng vàng
Thúng vàng đựng lúa bạc
Đã thỏa mãn bao dung.
Ta tên là Tri Thời
Đại thí mười hai năm
Bà-la-môn tệ ác
Đến xin đầu của ta
Bấy giờ các vị trời
Muốn cố ngăn Phạm chí
Ta hiểu dụ các trời
Chớ trái với bổn nguyện.
Thời, vua tên Nguyệt Quang
Ta tràn đầy sở nguyện
Lại có Bà-la-môn
Đến xin mắt của Ta
Ta liền cho không trái
Đôi mắt ta mến yêu
Vì vua tên Thiện Mục
Nhân đó phát nguyện lớn
Nay đem mắt thí cho
Nguyện sau thành tuệ sáng.
Lại vào thời điểm khác
Bồ câu bay đến Ta
Bị chim ưng đuổi bắt
Bay đáp trên gối Ta
Ta cắt thịt trong thân
Thỏa mãn theo ý chim
Để đổi bồ câu khỏi
Bị chim ưng ăn thịt.
Ta đã vì người bệnh
Cắt thịt trên thân mình
Hăm mốt ngày ăn thịt
Bệnh nặng kia đã lành.
Lại vì vua Phổ Thí
Tên là Đại Lực Sĩ
Xưa, trừ bệnh chúng sinh
Nay diệt tan trần lao.
Lại, thuở đời quá khứ
Ta đem thân cho người
Cho cả con yêu dấu
Cho luôn người bạn đời
Giao cho Ta người ác
Bảo Ta phải sát hại
Thời Ta tên Diễm Nguyệt
Không giết chết mạng mình
Còn lột da bố thí
Quấn thân làm bấc đèn
Đồng thời đốt bấc đèn
Toàn thân đều bốc cháy.
Vua tên Kiên Kim Cang
Chịu đau không ai bằng
Chỉ vì cầu một nguyện:
Giở chân liền thành Phật
Đem thân cho cọp sói
Đất rung chuyển sáu cách
Nhờ tâm mạnh mẽ ấy
Nên vượt qua chín kiếp.
Từng một lần khéo thí
Chúa bốn biển, thế gian.
Xưa làm vua Chuyển luân
Danh hiệu là Đại Thiên
Kiến lập phong giáo vua
Trị bằng mười hạnh lành
Xả bỏ cả bốn cõi
Xuất gia tu tịnh hạnh.
Lại vị vua Phổ Địa
Danh hiệu là Tôn Đế
Bấy giờ, trên đất lập
Tám muôn bốn ngàn thành
Vì các ngôi thành ấy
Đặt để cảnh giới rồi
Tám muôn bốn ngàn vua
Đều cạo đầu bỏ ngôi.
Từng vì vua Đa Cầu
Ham muốn mê cuồng loạn
Vượt qua cả biển lớn
Tìm đất đai nhân dân,
Thời, Ta làm Phạm chí
Đại trí tên Thượng Độ
Đem thuận lý dạy vua
Khiến vua chánh ý chí.
Từng làm voi đầu đàn
Như mặt trời xinh đẹp
Sáu ngà, rất đáng yêu
Bóng loáng có ánh sáng
Thợ săn tham ngà đẹp
Bắn tên trúng vào tim
Voi tự nhổ ngà cho
Lòng không chút giận hờn.
Vua Tịnh Thí săn bắn
Nhân đến trong rừng sâu
Chận hai con nai chúa
Giấu ở trong hang sâu
Vì nai mẹ có thai
Nai chúa xin chết thay
Súc sinh nơi hoang dã
Lại không sợ tai nạn.
Có nước bỗng giết hại
Cha mẹ và người già
Ta tuân phụng hiếu dưỡng
Đào hang cứu mẹ cha
Trời trên không hỏi nghĩa
Cha dạy Ta đáp lời:
Dứt đảo kiến chúng sinh
Giúp không đọa địa ngục.
Trăn lớn ngăn người buôn
Vây bọn họ vào trong
Túc duyên Ta khi ấy
Sinh làm sư tử chúa
Sai voi dùng sức mạnh
Đạp cho trăn chết ngay
Cứu năm trăm người khách
Yên ổn trở về nhà.”
Lúc bấy giờ, Phật nói:

“Kinh Sinh năm trăm chương
Cõi Tam thiên đại thiên
Đều rung chuyển sáu cách
Có ức loài chúng sinh
Đều phát tâm đại đạo,
Lại có ức chúng sinh
Đều chứng bốn đạo quả
Kẻ hiền trí trên đời
Không thể nói rằng lạ.
Bồ-tát phát mạnh mẽ
Thí xả thân mạng mình
Theo ý người cầu xin
Không bao giờ trái ý,
Công đức được tự tại
Muôn vật và thân mạng
Gom thọ mạng ngắn ngủi
Đó mới là điều lạ.
Bị trần lao trói buộc
Tâm ác đầy mê hoặc
Dùng năng lực từ bi
Ngăn cản tâm ác kia
Bỏ được điều yêu thích
Của báu và thân mạng.
Chúng sinh có tài giỏi
Đời có người tự tại
Ngay khi ta làm ác
Phải tự chế không làm,
Ngày đêm làm các lành
Để lòng mình nghỉ ngơi
Nhờ đó tự khuyến tấn
Chí nguyện trong Phật đạo.

Phẩm 23: ĐI ĐẾN DUY-DA-LY

Đời thông suốt hết cả
Sở nguyện đều thành tựu
Thương xót các chúng sinh
Như người thương con một
Giống như vua Chuyển luân
Dạy bảo ai chẳng theo
Chán ngán năm thứ dục
Muốn vào hang pháp tuệ,
Thế Tôn cũng như thế
Mở bày làm Phật sự
Siêng nhọc rộng hóa độ
Mọi việc đều rốt ráo
Vào đời ác sinh tử
Thuận theo sinh diệt kia
Muốn vào Đại vô vi
Dứt ý định, vắng lặng.
Thời, thành Duy-da-ly
Có quỉ hút tinh người
Vào thành gây dịch bệnh
Bức bách nhiễu hại đời.
Bấy giờ Duy-da-ly
Dịch mạnh như lửa hừng
Vua, đại thần trong nước
Nhóm họp, cùng luận bàn
Lửa lớn của dịch khí
Đang thiêu đốt muôn dân
Đều cùng nhau nghĩ cách
Làm sao trừ nạn này.
Có trưởng giả Tài Minh
Thanh tín bậc nhất thưa:
“Thấy đời không còn ai
Chỉ Phật đáng nương cậy.”
Vua sai Thanh tín sĩ
Tài Minh làm người sứ.
Trưởng giả, Thanh tín sĩ
Đều chắp tay hướng về
Gieo năm vóc sát đất
Cùng xa vọng bạch Phật:
“Xin cứu giúp thế gian
Nguyện cứu giúp đất nước
Như người lạnh cần lửa
Bệnh nặng xin thuốc hay
Như tối mong ánh sáng
Lạc lối được dẫn đường
Chúng con cầu Thế Tôn
Muốn xem vui người, trời”.
Sứ đến chỗ Đức Phật
Phật liền nhận lời mời
Nay bỏ nhà giác biết
Trời người nghĩ rối động
Ở trên không trời bảo:
“Với vua Vị Sinh Oán
Vì sao không lo lắng
Nay phải rời Đức Phật.”
Vua nghe trời dạy bảo
Trong lòng chợt kinh hãi
Ý buồn rầu lên tiếng:
“Tâm chúng sinh tối tăm
Ai đem đá mài tuệ
Đến mài tâm u tối?
Tội lỗi của trần lao
Oan trái ở đời trước
Chúng sinh tội lỗi nhiều
Ai sẽ cứu nhẹ được?
Chúng ta bế tắc lâu
Trong ngục tù sinh tử
Ai sẽ đem chìa khóa
Mở ngục cho chúng ta?
Chúng ta lâu bộc lộ
Lòng khát ái ánh dương
Ai sẽ thí chánh pháp
Trăng trong, ngọc giải khát?”
Nhân đó vua ra lệnh
Mau đến gặp Đức Phật
Nhân thỉnh Phật ngày mai
Vào cung thọ trai tăng
Lệnh nhà bếp chuẩn bị
Trăm món ăn thịnh soạn.
Phật hứa ở trong cung
Nhận vua thỉnh một tháng.
Sửa sang bảy con đường
Cho đến tận sông Hằng
Đường bài trí màn trướng
Trang sức như cõi trời
Các hoa thơm nhiều màu
Tung rải khắp mặt đất,
Người nhóm như nước dâng
Tràn đầy như biển cả
Ngọc sáng dùng trang sức
Màu sáng như trăng tròn.
Vua phục sức ngồi xe
Cung kính đến thỉnh Phật
Không bao lâu Phật đã
Đến bên bờ sông Hằng.
Vua lại dâng lên Phật
Năm trăm lọng bảy báu
Vua người dâng năm trăm
Vua rồng dâng một ngàn
Vua trời dâng năm trăm
Duy-da-ly năm trăm
Vì che chở khắp trần
Nên nhận dâng lọng báu
Nhận hết các lọng báu
Chỉ để một che dùng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Cùng với chúng đệ tử
Hai ngàn năm trăm vị
Liền vượt qua sông Hằng
Các vua Duy-da-ly
Hết lòng yêu kính Phật
Cung cấp mọi cần dùng
Theo thứ lớp đến nước.
Đức Phật liền đi vào
Thành lớn Duy-da-ly
Dùng tám âm thanh Phạm
Thanh tịnh rất nhiệm mầu
Phật nói một bài kệ:
“Này, các loài chúng sinh
Ở trên không, dưới đất
Hãy thương xót chúng sinh
Dùng nước từ thanh tịnh
Mà vẩy tưới đất đai
Bị nóng khát ép ngặt
Được nước mát đủ đầy.”
Từ mây lành của Phật
Mưa xuống lời ngọt ngon
Cả thành đều no đủ
Dứt trừ nạn độc hại.
Bấy giờ Đức Phật liền
Đi ra ngoài cửa thành
Phật cùng các Sa-môn
Từ từ đi quanh thành
Che chở hiện điềm lành
Chú nguyện mãi an ổn
Cả nước được che chở
An vui không thể lường.
Thời, trưởng giả Tài Minh
Thỉnh Phật và đệ tử
Thọ bữa cơm thịnh soạn
Kính yêu hết mọi bề,
Đức Phật giảng nói rộn
Chánh pháp rất sâu xa
Tiếng sư tử ban xuống
Bốn ngàn người đắc đạo.
Phật cùng chúng đệ tử
Đi đến rừng Nại nữ
Nại nữ vừa nghe tin
Vội đến gặp Như Lai
Đến cửa liền xuống xe,
Anh lạc như mây sấm
Mới vào vườn cây đẹp
Giống như trời Cát tường
Đi bộ khoan thai đến
Như sông chảy theo dòng
Dung nhan như ánh xuân
Như khóm hoa phù dung
Đem theo các Thiên nữ
Dáng điểm tô ngời ngời
Đi trong rừng cây ấy
Làm động mắt trời, đất.

Đức Thế Tôn nhìn thấy
Mành lưới của vua ma
Mắt nhìn sắc đẹp kia
Phá hoại giới hạnh người
Phật dùng âm thanh Phạm
Bảo các thầy Sa-môn:
“Giờ Nại nữ đến đây
Các thầy hãy nhiếp tâm
Chí các thầy giữ chặt
Cung tinh tấn trong tay
Dùng mũi tên chánh trực
Dây cung tuệ căng ngay
Đều mặc giáp định ý
Tự cỡi xe giữ giới
Đều đem ý từ quán
Vào mắt chống sắc tà.
Các thầy hãy xét kỹ
Con gái thế nào đây?
Người nữ đâu chính đáng
Mượn bề ngoài mê hoặc
Như đồng sắt mạ vàng
Da mỏng như cánh ruồi
Nếu không dùng phủ lên
Đó chỉ là bị thịt.
Nên phải biết rõ hơn
Ghèn, nước mắt, nước mũi
Nếu chẳng lau sạch đi
Và chất bẩn trên thân
Chẳng lấy nước rửa đi
Máu mủ và phân dãi
Dồn lại ở một nơi
Nhìn đó mà suy gẫm
Ý dục diệt không sinh.
Các thầy tự quán sát
Nhà xương đó đáng ghê!
Dùng gân quấn ràng rịt
Ngoài dùng thịt tô bồi.
Quần áo phục sức che
Như người vẽ tranh tường
Hãy tự quán sát đó
Chớ để nó mê hoặc.
Thận trọng giữ tâm ý
Về sau được lợi ích
Trước không điều phục tâm
Sau không thể điều phục,
Theo tà mất đường chánh
Mê hoặc lạc xoay vần
Giống như ngựa quan huyện
Luyện chạy vòng cuối cùng.
Mắt ưa nhìn sắc đẹp
Tâm theo mắt mê say
Ngắm nhìn trong lẫn ngoài
Ngu nhiễm, tuệ xa rời.”
Thời, Phật đem lời này
Răn các đệ tử trẻ
Họ liền tự nhiếp tâm
Một lòng nhìn Như Lai.
Nại nữ xa thấy Phật
Tướng đẹp đẽ sáng chói
Vòi vọi giữa rừng cây
Như nhật ra khỏi mây
Tâm cung kính nhìn Phật
Tâm thanh tịnh nhiệm mầu
Như cây nhiều hoa quả
Bị gió thổi quằn nghiêng
Như thế lễ chân Phật
Chắp tay tâm cung kính
Lui về chỗ ngồi xuống
Đức Phật bảo nàng ngay:
“Tâm cô ham buông lung
Cô tâm lành đến Ta
Tin ưa pháp chân chánh
Lợi này rất khó gặp.
Người nam tin ưa pháp
Đó không phải điều lạ
Ý nam tuy sâu nặng
Trần lao còn bớt nhẹ,
Người nữ thường quanh quẩn
Trong trần lao ái dục
Ý hẹp hòi, khinh tháo
Mê đắm sáu thứ dục.
Tâm người nghĩ đến đạo
Đó là đáng quý nhất
Tất cả đời vô thường
Không nên cậy ta đây!
Bệnh tật lấn yên ổn
Già hủy hoại dung nhan
Cướp đoạt mạng sống người
Ưa pháp không hoạn nạn
Người nữ nhiều tham ganh
Gặp không mừng, oán ghét
Tâm người nữ mê đắm
Không thích rời mình thích.
Để chịu thân người nữ
Ắt có hai não trên
Vì những ý nghĩa đó
Ngươi phải siêng thờ pháp.”
Tính Nại nữ yếu mềm
Trong tâm rất hổ thẹn
Được khuyên theo chánh pháp
Hết dạ kính Thế Tôn
Liền quỳ thẳng chắp tay
Bước ra bạch Phật rằng:
“Xin Phật rủ lòng thương
Mai nhận con cúng dường.”
Phật biết tâm nàng ấy
Rất thanh tịnh vui mừng
Nên im lặng nhận thỉnh.
Cô bèn từ giã về
Gieo năm vóc sát đất
Cúi đầu lễ chân Phật
Chán ghét thân người nữ
Hổ thẹn quay trở về.
Sau khi Phật nhận lời
Nàng Nại nữ mời thỉnh
Người dân Duy-da-la
Đều đi đến chỗ Phật
Ngựa trắng, lọng xe trắng
Y phục đều lụa trắng
Các trang sức đều trắng
Uy nghi thật đáng nhìn
Màu xanh, vàng, đỏ, đen
Đủ loại khác biệt nhau
Nghiêm sức đến chỗ Phật,
Như các trời Đao-lợi
Họ cũng đều thỉnh Phật
Phật nói đã thọ thỉnh
Phật nhận Nại nữ thỉnh
Họ đành phải ôm hận.
Bấy giờ Phật vì họ
Nói rộng pháp nhiệm mầu
Cam lộ không tổn giảm
Diệt trừ các khổ hoạn
Vì họ lược giải bày
Pháp bốn Đế chân thật
Vô số các Ly-kiền
Đều uống thuốc cam lộ.
Bấy giờ Phật sẽ đến
Độ vô số Ly-kiền
Và rồi từ giã họ
Tâm đều mang chánh pháp
Như độ người mạnh mẽ
Khổ địa ngục thoát rồi
Và vô số chúng sinh
Đều gieo giống sinh Thiên.

Phẩm 24: TÁN THÁN PHẬT ĐỊNH QUANG

Trồng trăm phước đời trước
Ngàn núi cao không cùng
Dòng sông của trí tuệ
Rất sâu khó đo lường,
Lời nói người gió thoảng
Không thể làm chao động
Ngồi định như núi Thái
Nhưng không thể chuyển dời
Giống như đám mây đen
Chớp lóe sáng rạng ngời
Cầm lọng đẹp bằng báu
Xoay vần trên không trung.
Thời, A-nan thấy vậy
Điềm lành chưa từng thấy
Tâm vui mừng hớn hở
Quỳ thẳng bạch Phật rằng:

“Các thứ hoa trời
Rất đẹp nhiệm mầu
Nếu như có tâm
Đến cúng dường Phật
Giống như rừng cây
Gặp bầy ngựa hoang
Như trên núi tuyết
Nhiều cây hoa thơm.
Mặt như màu hoa
Sen có ngàn cánh
Nước bẩn thế tục
Không làm nhiễm dơ.
Rất khó thấy nghe
Như hoa Ưu bát
Xin Phật giảng nói
Điềm lành hoa này.”
Phật dùng tiếng Phạm
Thanh tịnh nhiệm mầu
Làm cho chúng sinh
Giác ngộ đầy đủ
Mở khắp Tam thiên
Đại thiên thế giới
Dùng tâm Từ hòa
Bảo A-nan rằng:
“Về thuở quá khứ
Vô số kiếp xưa
Vô lượng đức lành
Trang nghiêm tướng tốt
Giống như đuốc sáng
Xua tan tối tăm
Dùng chánh pháp sáng
Dứt tối ngu si,
Thuở ấy có Phật
Hiệu là Định Quang
Thầy của các Thánh
Tam thiên thế giới,
Tất cả trí tuệ
Giống như biển lớn
Tâm như hư không
Không gì chướng ngại.
Cội gốc “sáu độ”
Sâu xa vững chắc,
Thân cây “mười lực”
Rất là cứng chắc
Bốn điều không sợ
Là bốn phía cây
Có ba mươi hai
Nhánh cây tướng tốt,
Ba trí đạt khắp
Chồi đốt nhiệm mầu
Tám mươi tướng tốt
Lá đẹp mềm mại
Từ bi che bóng
Rất là mát mẻ.

Cành hoa giác ý
Giới cấm đức thơm
Lời nói nở hoa
Hiện đài bốn đế
Chứng bốn thứ đạo
Quả rất thơm ngon.
Trời người ưa pháp
Giống như ong nhóm
Để hút tinh túy
Vị hoa cây Phật;
Họ nghe hoa thơm
Ăn quả cây ấy
Vì vị giải thoát
No đủ tràn đầy.
Bởi đời quá khứ
Nguyện cầu việc Phật
Siêng tu chẳng trễ
Hiện báo đời sau
Hiện ra báo ứng
Được uống thuốc pháp
No đủ tất cả
Nước mật cam lộ
Đói khát lùi xa.
Phát nguyện muốn tìm
Ý từ bi lớn
Nhân do muốn đến
Thành lớn Hoa nghiêm,
Lúc vừa dở chân
Đạp cửa cổng thành
Bấy giờ thần đất
Cung kính gánh vác
Tam thiên đại thiên
Thế giới của Phật
Rung chuyển sáu lần
Chấn động cả lên.
Mưa hoa lấp đất
Chấn động cả lên
Chư Thiên đầy trời
Trên không tấu nhạc
Rền như tiếng sấm,
Thiên nữ trên không
Tấu nhạc đàn ca
Khen Phật nhiều kiếp
Tướng đẹp, công đức.
Chim thú vui mừng
Cùng nhau hót vang
Chén bát chạm nhau
Thành tiếng ca vang
Phật cùng đệ tử
Uy nghi khoan thai
Như vầng trăng rằm
Các sao vây quanh
Trăm tướng phước đức
Rực rỡ như tranh
Luân tướng nhiệm mầu
Ngàn nan hoa thành
Chân đạp xuống đất
Dấu vết như ấn
Bánh xe ngàn căm
Nhiệm mầu sáng rực.

Điều ngự ngựa sáu căn
Ngồi trên xe sáu độ
Kiệu bố thí, giữ giới
Rương từ nhà hoan hỷ
Dùng định ý điều ngự
Ngọn cờ lớn Bát chánh
Bánh xe tuệ vắng lặng
Lọng Tứ đẳng đại Từ
Đội mũ Nhất thiết trí
Chuỗi ngọc Giác ý ngời
Đại bi rất mau chóng
Thành ấp bày vô vi.
Giảng nói pháp nhiệm mầu
Để điều hòa chúng sinh
Hành đạo rất tốt đẹp
Ngàn mặt trời cùng mọc.
Trời mới mọc sườn núi
Trong ao hoa sen nở
Thời, Phật Định Quang cũng
Ngộ hoa tâm chúng sinh.
Lúc ấy Phật nghĩ rằng:
Chúng sinh không thấy suốt
Hóa thành thể lưu ly
Giúp chúng sinh thấy suốt;
Mọi người xa thấy Phật
Mỗi mỗi như nhìn gương
Người nhóm họp đầy đường
Động nước, rung bốn biển.
Bấy giờ, có Phạm chí
Người thông minh trí tuệ
Dòng họ quý cao sang
Danh hiệu là Thiện Tư
Vừa nghe nói hiệu Phật
Hớn hở mình nổi ốc
Như bị móc giữ lại
Đều lìa tục xuất gia
Nhiều kiếp chứa công đức
Gốc lành khiến đến nơi
Giác ngộ Nhất thiết trí.
Như hoa thấy ánh dương
Khi gặp được ánh sáng
Như trời ra khỏi mây
Vua Kim Cang dòng Thánh
Ngắm nhìn không thỏa mãn!
Thấy Phật vui hớn hở
Đức lực liền thanh tịnh.
Nghĩ gặp Phật ra đời
Lấy gì cúng dường Ngài
Khi thấy người con gái
Xách một bình nước thơm
Có bảy cành sen xanh
Như Thất giác tuệ đủ
Nhờ phước đức đời trước
Bình hóa thành lưu ly
Thấy hoa mừng chắp tay
Đến gặp nàng hỏi rằng:
“Chỉ nhìn núi phước đức
Đồ châu báu lạ lùng
Riêng vì khắp chúng sinh
Khổ ách độ trở về
Kính, nhờn dứt cả hai
Nguyện ta trở lại không.
Đời trước đã cúng dường
Nay ta cũng nên cúng
Xin cô cho ta hoa
Để ta dâng lên Phật,
Giá bao nhiêu tùy ý
Với Phật nay chưa tròn
Xin cô giúp làm phước.
Phát tâm tịnh hướng Phật
Theo ý thỏa cầu xin
Phật tựa ngọc Như ý
Nguyện gì được tùy ý”.
Cô gái bán bảy bông
Mỉm cười đáp lại rằng:
“Giá hoa này đắt lắm
Liệu ngài mua được chăng?”
Đáp rằng: “Tùy cô bán!”
Rằng: “Mỗi hoa một trăm!”
Rằng: “Cho ta hoa ấy
Còn giá tùy ý cô!”
Nhân nhìn bên trái nói
E thẹn mà đáp rằng:
“Tôi cũng muốn dâng hoa
Lên cúng dường Đức Phật!”
Ta khiêm tốn đáp lại:
“Cô tự ra giá hoa
Phật không nhận hư dưỡng
Cô thành thật không dối!”
Nàng đáp: “Sẽ cho hoa
Nếu hứa làm chồng ta”.
Đáp rằng: “Cô thói xấu
Trái tâm nguyện cầu đạo”.
Nàng chắp tay đáp rằng:
“Không dám trái lòng ngài
Nay sẽ lập thệ nguyện
Bố thí chẳng dám trái?”

Liền lấy giá ấy
Cho năm cành hoa
Giữ lại hai cành
Để kết thệ nguyện.
Bấy giờ Bồ-tát
Được bảy cành hoa
Rồi liền lập lên
Quyết định nguyện là:
“Như nay Đức Phật
Cứu giúp thế gian
Nguyện con đời sau
Được đạo như Phật.”
Phát xong nguyện lớn
Liền tung hoa lên
Hóa thành lọng hoa
Ở trên hư không,
Ánh sáng Đức Phật
Chói như mặt trời
Lọng hoa sen xanh
Như mây lành nổi.
Phật vừa đi tới
Lọng cũng theo Ngài
Phật sáng như nhật
Lọng như mây xanh.
Bồ-tát thấy biến
Hớn hở vui mừng
Năm vóc sát đất
Tự lễ chân Phật,
Tức thời xõa tóc
Trải ra trên đất
Phật dùng tâm Từ
Bước đi trên tóc.
Tướng chân chiếu sáng
Như hoa sen hồng
Ở trên tóc ấy
Chân tóc sáng bừng
Như trên sen xanh
Nở hoa sen hồng.
Đức Phật thương xót
Dừng chân trên tóc
Phật dùng Thánh đạt
Tất cả tâm ý
Biết rõ Bồ-tát
Sức tâm mạnh mẽ,
Thời Phật mỉm cười
Ánh sáng năm mầu
Từ trong miệng ra
Biết bao màu sắc.
Thị giả Đức Phật
Quỳ thẳng chắp tay
Bước đến bạch Phật:
“Khi không nhân duyên
Các Phật không cười
Vì sao Phật vui?
Cúi xin Thế Tôn
Nói rõ việc ấy”.
Phật dùng Phạm âm
Âm vang như tiếng
Sóng biển thanh tịnh
Bảo thị giả rằng:
“Như Ta ở đời
Ra đời làm Phật
Từ che muôn loài
Giúp chúng sinh khổ,
Người cũng sẽ thành
Người dẫn thế gian
Ở trong cõi khổ
Trần lao lẫy lừng.
Khi trăm tuổi thọ
Trong họ Thích-ca
Sẽ thành Phật đạo
Hiệu là Năng Nhu”.
Nhận xong lời quyết
Vui mừng vô lượng
Được sức vui mừng
Bay bổng lên không
Thân nhẹ, tâm mạnh
Xuống lên như sóng.
Như trăng tròn sáng
Sóng biển lớn dậy
Hư không có thể
Hiện hình xuống đất
Hoặc đất có thể
Bay bổng lên không
Bốn đại có thể
Bỏ đi bản tính
Lời quyết của Phật
Không bao giờ đổi.
Diện mạo Đức Phật
Như trăng tròn đầy
Miệng nói những lời
Mát mẻ sáng suốt
Diệt mất thế gian
Cháy tiêu rất nóng
Giống như mùa hạ
Gặp đêm trăng rằm.
Kinh sách ngoại đạo
Trong rỗng, ngoài lừa
Ngu mê lừa gạt
Tất cả thế gian,
Phật nói pháp sáng
Thanh tịnh thái bình
Vào thành Nê-hoàn
Giống như về nhà.
Vì các điều ấy
Khen tặng hoa đẹp
Tung rải khen ngợi
Thân được ngợi ca,
Hoa diệu ý trời
Lúa thóc bạc vàng
Tung rải trên Phật
Phủ khắp mặt đất
Chưa rơi xuống đất
Hóa thành lọng hoa
Che ở trên Phật
Tới lui đều theo
Như mặt trời sáng
Hai mặt trời soi
Sen xanh khắp nơi
Như mây xanh nổi.

Từ không trung xuống
Niềm vui càng thêm
Lại tự gieo mình
Quy mạng Như Lai
Tóc kia vẫn ở
Dưới chân Thế Tôn
Tự nhiên tung rải
Phủ khắp mặt đất.
Các ông nên biết
Đâu phải ai khác
Lúc ấy Thiện Tư
Chính là Ta đây.
Dùng tâm Từ kính
Rải hoa cúng Phật
Nay thành Phật rồi
Làm Thầy mọi người
Bởi nhờ Phật ấy
Lọng hoa che Ta
Phát khởi ý Ta
Nhớ lại hạnh xưa
Làm các điều lành
Được báo như thế
Không bao giờ mất
Phải biết việc ấy!
Bấy giờ ai nấy
Chia phần tóc Ta
Giành nhau nhận lấy
Kẻ ít, người nhiều
Bọn họ đều được
Phật độ cho trước
Vào thành vô vi
Nê-hoàn vắng lặng.
Thời, người được tóc
Hơn bốn mươi người.
Người nước Tùy-đề
Sa-môn giữ giới
Đều thành La-hán
Đầy đủ sáu thông
Lập nên pháp lành
Nhiệm mầu bậc nhất.
Như Phật quá khứ
Hiệu là Định Quang
Đầy đủ lời nguyện
Phạm chí Thiện Tư
Như kia mừng rỡ
Bay lên hư không
Thời Phật lại ban
Cho trí tuệ lớn
Chúng sinh nghe rồi
Đều dốc lòng tin
Tìm mọi phương cách
Ban rải đức lành
Bố thí giữ giới
Trí tuệ siêng tu
Di-lặc ra đời
Hiển phước báo ấy.

Phẩm 25: HÀNG VOI

Khi ấy Thế Tôn
Đến thành Vương xá
Làm phước chúng sinh
Mặt đất chuyển động
Chư Phật điềm lành
Cảm biến lạ lùng
Khi sắp vào thành
Đều hiển hiện lên.
Bấy giờ Điều-đạt
Có tâm độc hại
Biết Phật vào thành
Liền hiện điềm lành
Vội vàng tìm đến
Vua A-xà-thế
Dối trá dụ dỗ
Xúi bảo ác nghịch:
“Tôi sẽ giết Phật
Ngài soán ngôi cha
Cả hai huy hoàng
Giống như trời, trăng.”

Vua nghe theo lời ngụy
Cho voi uống rượu say
Voi điên vì say rượu
Kêu rống như sấm rền
Tức thời thả voi say
Chạy nhanh về phía Phật,
Như một cơn gió dữ
Muốn dập tắt đèn Phật
Giống như gió kiếp tận
Muốn hoại diệt thế gian
Khỏe như chim cánh vàng
Giận như vua Diêm-la
Tâm Phật vững không lay
Không bị voi làm động
Giống như núi Ma-la
Chẳng bị gió biển lay.
Xông đến trước mặt Phật
Quỳ xuống lễ chân Ngài
Nhiếp phục tâm sát đất
Như bụi gặp mưa lớn
Như từ trong mây đỏ
Mặt trời chiếu sáng rỡ
Rực rỡ như sao rơi
Rớt xuống đỉnh núi lạ,
Từ trong mây ca-sa
Tay phải phóng ánh sáng
Rọi sáng ngời voi lớn
Như nhật chiếu núi đen
Tay đức tướng sờ voi
Voi tức thời tỉnh ngộ
Giống như đuốc sáng hiện
Đêm tối càng rút ngắn.
Voi bàng hoàng tỉnh ngộ
Ý liền được yên ổn
Giống như chú thần tiên
Trừ nọc rắn hổ mang
Voi tức thời khắc phục
Quỳ dưới chân Thế Tôn.
Phật hiển hiện ánh sáng
Như mặt trời ló dạng
Thời, điều hóa voi say
Dạy bảo gieo gốc lành
Kẻ nên độ đã độ
Liền trở về tinh xá.
Bấy giờ, trong thành ấy
Có một kẻ danh gia
Tuổi trẻ tính mềm mỏng
Chí thông minh lanh lợi
Dốc tín, làm điều lành
Yêu kính pháp giới luật
Tôn trọng thầy, thờ Phật
Tên gọi là Cao Độ.
Điều-đạt tìm đến gặp
Dụ bằng những ngôn từ:
“Hãy chịu nghe lời ta
Ắt hậu tướng sẽ chờ
Tước vị cao hiển hách
Vinh lộc tăng thêm nhiều
Nếu nghe theo lời ta
Về sau sẽ làm vua”.

Thời, Hiền sĩ Cao Độ
Nghe Điều-đạt nói càn
Liền dùng lời chánh pháp
Đáp lời Điều-đạt rằng:
“Hãy lắng nghe ta nói
Khen ngợi đức thờ Thầy!”
Tức thời quay lưng lại
Hướng về phía Đức Phật
Gối bên phải sát đất
Chắp tay, tâm cung kính
Cúi mình, đầu mặt lễ
Cao Độ bèn khen rằng:
“Đã độ đến cùng cực
Vực biển các khổ não
Đã được Thập Lực độ
Cứu chúng sinh không mệt
Ngày đêm không dừng nghỉ
Dẫn người lập căn lành
Bậc Thầy ta phụng thờ
Hiệu là Phật Thế Tôn.
Ta chẳng thờ Thầy khác
Chỗ khác không nương được
Nên không nghe lời khác
Ông nên biết rõ đó”.
Khi ấy Điều-đạt ác
Trong tâm rất giận tức
Hai bàn tay nắm chặt
Cúi đầu bỏ ra về
Tâu vua lời siểm mị
Để gièm pha Cao Độ.
Vua ra lệnh quan hầu
Người có tâm hung ác
Trao hắn chuỗi ngọc báu
Giá mấy ngàn lượng vàng
Rằng: “Ngươi phải bí mật
Đem chuỗi báu này sang
Ném vào nhà Cao Độ
Chớ để người khác biết.”
Đêm tối, tên đó đến
Làm theo đúng lời vua.
Người nhà ấy sáng sớm
Được chuỗi ngọc báu kia
Liền trao cho gia chủ.
Gia chủ rất vui mừng
Sai người mời chồng đến
Đem chuỗi báu khoe chồng
Cao Độ thấy chuỗi báu
Rất sợ và than dài
Dùng những lời chua xót
Mà bảo vợ mình rằng:
“Của được không này độc
Đem ác gia hại người
Điều-đạt tìm mọi cách
Muốn hoại diệt ta thôi!
Đêm qua ném chuỗi báu
Vào trong nhà của ta.”
Ông ngồi buồn giây lát
Quan đến cửa rồi kia
Chúng lấy chuỗi báu ấy
Đeo vào cổ Cao Độ
Lập tức tâu vua rằng
Rằng: “Cao Độ trộm đây!”
Vua ra lệnh các quan:
“Xử phân theo phép nước”.

Sai quan là tên ác
Như sứ giả Thái sơn
Mắt đỏ cầm binh trượng
Hình dung như ngục tốt
Đều mặc áo màu đen
Máu tô đỏ thân mình.
Tội chém đầu bị kết
Sắp đến nơi hành hình
Trống đánh vang như sấm
Tiếng thổi ốc chấn động
Buộc chuông trên búi tóc
Ngựa, lừa đưa khỏi thành.
Đến nơi ban thức ăn
Cho người sắp hành hình
Thời, Điều-đạt sai người
Cho người nhà kia hay:
“Hãy đến quy phục ta
Sẽ giúp cho được sống.”
Thân thuộc vây chung quanh
Đều cất tiếng kêu gào
Tiếng vang xa khắp chốn
Khiến nơi xử Cao Độ
Người tụ lại vô số
Vang vọng đến thành kia.
Đến nhà Nhất thiết trí
An trụ tâm Đại từ
Đi bằng giầy Đại bi
Ngày đêm đi tìm kiếm
Mê hoặc trong năm đường
Lạc lối trong suối hang
Như bà mẹ thương con
Muốn cứu nghé đơn côi.
Thời, Phật bảo A-nan:
“Ông hãy đi vào thành
Rao khắp mọi đường phố
Lớn tiếng nói kệ này:
Ngày hôm nay Cao Độ
Xuất gia ra khỏi ngục!
Làm Sa-môn bậc nhất
Uống nước thuốc cam lộ”.
Khi ấy, có Phạm chí
Nghe được lời A-nan
Về nói bạn đồng tu:
“Cớ sao lại nói dối?”
Người đạt trong Phạm chí
Liền cất tiếng đáp rằng:
“Lửa có thể thành nước
Cam lộ thành thuốc độc
Bốn đại lại có thể
Bỏ bản tính của nó
Lời dạy của Đức Phật
Không bao giờ đổi thay!”
Bấy giờ con Cao Độ
Còn thơ dại đáng thương
Níu cổ cha mình xuống
Kêu khóc mãi không ngừng:
“Xin cha rủ lòng thương
Tự nguyện theo cọp sói!

Điều chúng sinh quý trọng
Chỉ mạng người khó được
Nếu lệnh quan phải giết
Xin chết thay cho cha!
Không nên quy thú về
Với Điều-đạt hung tàn.”
Cao Độ chí mạnh mẽ
Bảo với con mình rằng:
“Nguyện bỏ thân mạng mình
Không bao giờ lìa Phật.”
Vợ ông vội chạy đến
Xõa tóc buồn kêu khóc
Máu lệ rơi lã chã
Thấm ướt áo ngực nàng
Kêu than khổ sở rằng:
“Chồng tôi người nhân từ
Đã cùng nhau ăn ở
Vì sao bỗng chia lìa
Xưa có thệ nguyện rằng
Không bao giờ lìa nhau
Nay hiện như xa lạ
Giống như khách qua đường?
Tại sao không thương tưởng.
Thiếp chỉ có một con
Xin đoái hoài tiện thiếp
Thương xót con mồ côi
Ngoài mặt giả vờ hướng
Về Điều-đạt cứu mạng
Trong lòng luôn dốc lòng
Lén tôn Phật làm Thầy!”
Hồi lâu Cao Độ nói
Đáp lời vợ mình rằng:
“Hãy nghe ta sẽ nói
Quyết định trong tâm ta
Cõi Tam thiên đại thiên
Tối Tôn đáng nương cậy
Ta đã tự quy Phật
Vì sao lại sợ chết?
Ta đã tự quy Phật
Núi Tu-di các báu
Sao lại quy thấp kém
Nương tựa đống phân hôi?
Ta đã tự quy Phật
Ngửa đội ánh thái dương
Thì sao lại phải bỏ
Để theo lửa đóm thường?
Ta đã tự quy Phật
Loài vua chim cánh vàng
Thì sao lại phải bỏ
Về theo con quạ nhỏ?
Ta vốn phát thệ nguyện
Muốn uống nước biển cả
Nay nước chân trâu này
Ta sao hết khát được?
Ta nay tự quy Phật
Đức tướng tốt các pháp
Làm sao đi đến với
Kẻ làm ác thấp kém?”
Vợ đáp lời chồng rằng:
“Phải cứu giúp mạng sống
Hiện chàng với Điều-đạt
Hãy nhớ lại tình xưa”.
Ông liền đáp lời vợ:
“Thà gặp độc hại như
Kiếm, mãng xà, rắn độc…
Lửa oán đốt cháy rụi
Nhưng vẫn còn tìm cách
Thuốc hay trí tuệ trừ
Không bao giờ gần gũi
Bọn ác, tâm dơ bẩn
Cùng bọn xấu ô nhiễm
Hoại ý lành của người
Phật dạy không theo chúng
Kéo đến ngục Vô trạch”.
Liền đem Cao Độ đến
Nơi gò mộ rừng cây
Liền phát tâm Từ bi
Cấm giới ân cần Phật
Ngục tốt bèn rút kiếm
Định hành hình Cao Độ
Kiếm bén không hại được
Thân hiền sĩ Cao Độ.
Lính về tâu vua rằng:
“Kiến bén không đả thương
Thân hiền sĩ Cao Độ”.

Vua lệnh tìm cách khác
Điều-đạt bèn thêm rằng:
“Hãy xỏ vào chiếc gậy
Trói lại bằng da sống
Rồi dựng ở ven đường
Hành hình theo lời bàn”
Cao Độ lòng niệm Phật
Phật như chim cánh vàng
Bay đến bên gò mộ
Phật dùng tám thứ tiếng
Mà bảo Cao Độ rằng:
“Nay Ta cứu ông khỏi
Độc hại khổ ách này”.
Lòng Từ bi của Phật
Pháp cam lộ thanh tịnh
Thứ lớp vì Cao Độ
Giảng nói bốn Thánh đế
Cao Độ liền chứng được
Đạo quả A-la-hán
Lập tức dùng sáu thông
Nhẹ nhàng bay lên trời
Trước mặt A-xà-thế
Ở giữa cõi hư không
Hiện các thứ thần biến
Cả đại chúng đều thấy,
Nói pháp mầu vua nghe
Nói cho vua biết là:
“Ta chính là Cao Độ
Vua nên hối việc mình.”
Vua nghe Cao Độ nói
Lăn ra đất mê man
Người đứng quanh vẩy nước
Hồi lâu tỉnh dậy nghĩ:
Đều chẳng đáng sợ hãi
Kẻ thù, lửa dữ hừng
Cũng không sợ quỉ mị
Và rồng dữ hung ác
Tâm như gươm kiếm bén
Miệng nói lời như mật
Lời cùng việc trái nhau
Phải thuận bạn ác này!
Điều-đạt vẻ ngoài thân
Chính là kẻ thù ta
Hiện như cờ chánh pháp
Dẫn ta vào đường ác
Tự thiêu khiến không còn
Dùng hư vọng đốt ta.
Chao ôi! Sao khổ quá
Gặp phải bạn xấu ác!
Ta làm bạn với nó
Gạt cha soán đoạt ngôi
Cho voi uống rượu say
Thả ra hại Như Lai.
Dạy ta điều ác nghịch
Lăn đá hại thân Phật
Nghe lời bạn xấu ác
Trái nghịch Phật, Thánh Sư.
Nhà vua liền buồn thảm
Cúi dưới chân Cao Độ
Xin dứt trừ tội nặng
“Vì nương tựa bạn ác
Ta từ nay về sau
Sẽ làm đệ tử Phật
Kính Phật làm bậc Thầy
Xa lìa bạn xấu ác!”
Phật dùng sức thần thông
Điều phục voi say cuồng
Hóa đô vào đường chánh
Gieo trồng gốc căn lành
Như cứu hiền Cao Độ
Khỏi nạn khổ cọc cây
Uống thuốc hay cam lộ
Các khổ độc dứt hết
Vua nghe vậy vâng làm
Dốc lòng hướng về Phật
Vâng làm nhân duyên lành
Đều khiến các khổ dứt.

Phẩm 26: MA KHUYÊN XẢ THỌ MẠNG

Như nhật mới mọc
Lộ ở sườn non
Bóng tối tiêu tan
Phóng ánh rực rỡ
Chánh pháp chói lọi
Phật, trời trong trời
Sáng sạch không nhơ
Ban dạy lời nói.

Tâm ngu si tối tăm
Như khe động thâm u
Mặt trời sáng rực rỡ
Xua hết nguồn tối mù
Như trời trong không mây
Ánh mặt trời chiếu khắp
Chỗ Phật đến giáo hóa
Ai cũng được cứu độ.
Giống như núi vàng lớn
Cúng tế đốt lửa lớn
Như cá ghét ánh sáng
Làm nước cạn trần lao,
Vua trần lao cõi Dục
Tên gọi là Tệ Ma
Kéo đến chỗ Đức Phật
Liền nói những lời này:
‘Xưa, Phật ngồi tĩnh tọa
Bên sông Ni liên-thiền
Lúc ấy, Ta nói rằng:
Những lời đầu tiên nhất
Việc có thể làm được
Việc ấy đã làm xong
Đã có thể giác ngộ
Đạt “Vô hữu dư” rồi.
Sở nguyện đã đầy đủ
Nay xả bỏ tuổi thọ.
Khi ấy đáp lại ma
Phật quyết định dạy rằng:
“Vì nay Ta chưa có
Bốn bộ đại đệ tử
Vả lại chưa thông suốt
Mắt trí tuệ mở mang
Xây dựng bày Phật sự
Chỗ đáng được tôn trọng
Chẳng phải ít phương tiện
Nên vôi vàng đuổi kịp
Tối tăm, chưa sáng sủa
Ánh quang chưa chiếu sáng.
Mặt trời chưa qua trọn
Không thể lại lặn mất,
Biển khơi, vũng nước chứa
Rồng và A tu-luân,
Như người dùng mình trần
Muốn vượt qua biển lớn,
Như muốn dùng cánh muỗi
Che mười phương hư không,
Hoặc như con kiến nhỏ
Muốn đấu cùng sư tử,
Nếu lại có ý muốn
Một lúc uống hết đi
Vô lượng vũng nước lớn
Cạn hết không còn dư;
Hoặc muốn dùng hơi miệng
Thổi núi báu Tu-di
Cho tơi bời tan nát
Đều trở thành bụi nhỏ,
Vũng ao nước tràn đầy
Núi Tu-di báu lớn
Sư tử, biển, hư không
Việc ấy có thể làm
Ao công đức của Phật
Tu-di, biển, hư không
Mười phương trời, người đời
Không có thể đo lường.
Cho nên, lúc ấy Ta
Nói với ma như thế.

Nay chẳng cần khuyên Ta
Khi quyết nói diệt độ
Như nay tiện bày tỏ
Chí sở nguyện tâm ngươi”.
Nên theo đó mà nói
Ma liền bạch Phật rằng:
Các đệ tử của Phật
Nay đều thành hiền lương
Giữ giới cấm tinh tấn
Sáng ngời thành La-hán
Thân đứng ở trên đất
Đưa tay bắt mặt trời
Biến hiện thân to lớn
Lớn đến trời Vô kết
Từ trong sinh tử lớn
Đoạt chúng sinh của ta.
Ta ra khỏi giới, nhập
Vô vi như về nhà
Thế Tôn Nhất Thiết Trí
Việc làm nào cũng xong
Tiếng tăm như biển cả
Vang đồn khắp mười phương
Thế Tôn, Thánh không sánh
Dùng mười lực của Phật
Ngồi ở dưới cây đạo
Mặc giáp nhẫn vững bền
Dùng tay giữ vững chắc
Chiếc cung cứng đại Từ
Bắn ra tên trí tuệ
Sắc bén thật nhanh chóng.
Ta và mười tám ức
Các tướng quân vua ma
Vừa bắn một phát tuệ
Đánh bại binh chúng ta
Như liệt sĩ đời xưa
Một mình đấu đại quân
Vừa bắn một phát nhọn
Thắng Bàn Đạp đại quân,
Ghét, yêu hai nhỏ lớn
Đều diệt hết không còn.
Voi say hàng phục tâm
Khiến được điều phục hẳn
Dùng lọng lớn đại pháp
Che những người đáng độ
Khiến tất cả chúng sinh
Tránh được mưa trần lao,
Hủy bỏ miệng tham ăn
Tâm lấp đầy không chán
Tính lăng xăng điên đảo
Như đánh A-tu-luân,
Dùng cày tuệ cứng chắc
Trên hết và bậc nhất
Cày những mảnh đất rộng
Lật ra gốc ngu si
Rồi đem cây đại pháp
Chân chánh và nhiệm mầu
Xuống trồng ở cõi thế.
Hương hoa ngát chúng sinh
Giáng hiện ở trong biển
Sinh tử rộng mênh mông
Dùng ý thân không vô
Ngọc chánh pháp kêu vang
Ở tại trong cõi Dục
Bị buộc ràng trong ái
Là bờ lũy sinh tử
Rất vững chắc khó qua.
Thế Tôn như lực sĩ
Mở cửa cho thoát ra
Được an trụ cồn bãi
Quý báu và vô lậu.

Thế Tôn nằm nghỉ ở
Ao trí tuệ rộng lớn
Trong ao mọc đóa hoa
Sen chánh pháp nhiệm mầu
Hương thơm ngọt không sánh
Cảm động tâm trời người
Nhóm đến nhận dạy bảo
Như ong hút mật hoa.
Dùng hình tướng sư tử
Mạnh mẽ của Phật-đà
Nguyện điều phục khó phục
Trần lao A-tu-luân
Đã diệt hết thế gian
Lực sĩ của sinh tử
Hơn khắp cả ba cõi.
Thế Tôn là bậc nhất
Có người dùng bú sữa
Lớn lên của thế gian
Có người dùng biến hóa
Thần biến rất khéo léo
Đối các trời, người đời
Được tốt đẹp bậc nhất.
Dùng hạnh lành của mình
Riêng bày ở trên đời
Nay chính là đúng lúc
Xả thọ mạng thế gian.”
Khi Phật nghe những lời
Khuyến khích của vua ma
Phật liền dùng tiếng Phạm
Mà bảo vua ma rằng:
“Nay ma sẽ vui mừng
Ắt không còn lo âu
Sau đây, chẳng bao lâu
Ba tháng Ta xả thọ
Nên bỏ lòng nôn nóng
Nguyện ngươi đã thỏa rồi”.
Nghe Phật nói thế ấy
Vua ma rất mừng vui
Tức thời ở trước Phật
Liền lập tức biến mất.
Bấy giờ Thế Tôn liền
Định ý trong giây lát
Giác ý cùng trí tuệ
Sau đó liền tán ý
Phóng xả thần thông trước
Tuổi thọ dài vô hạn;
Thánh dùng sức thần thông
Tuổi thọ còn ba tháng
Thế Tôn đã phóng xả
Trường thọ dài vô hạn.
Thần đất liền kinh hãi
Rung chuyển mạnh sáu lần
Bốn phương đều mưa rơi
Sét đánh, lửa khắp nơi
Giống như lúc kiếp tận,
Tu-di mưa lửa đuốc
Sét đánh mau liên tục
Đầy khắp cả hư không
Giống như lúc kiếp tận
Mắt đất lửa thiêu đốt.
Đức Phật trời trong trời
Liền nói bài kệ rằng:
“Như xe bị gãy trục
Gằn sức chở thân này.”
Bấy giờ A-nan thấy
Điềm xấu ác lạ lùng
Tâm hoài nghi rúng động
Đến Phật hỏi duyên ấy.
Thời, Phật bảo A-nan
Rằng: “Ta xả thọ mạng
Cho nên đất rung chuyển
Nên hiện điềm xấu này.”
Khi A-nan nghe Phật
Dạy những lời như vậy
Liền gieo mình xuống đất
Như cây chiên-đàn đổ,
Lỗ chân lông toàn thân
Tất cả đều ra máu
Lòng mang nặng đớn đau
Mặt đầy máu nghẹn ngào
Một là tôn làm thầy
Hai là tình anh em
Tình nghĩa nặng chưa hết,
Đau đớn tâm mê man
Trìu mến nhìn Đức Phật
Hồi lâu mới nói được
Lời chua cay khổ sở
Luyến mến đầy buồn bã:
“Than ôi! Sao ác khổ?
Vô thường quá mau chóng
Ngọn đèn ánh sáng Phật
Bỗng nhiên sắp hoại diệt
Như trời lạnh được lửa
Lúc nóng hạn gặp mưa
Mệt được dù che nắng
Ai chẳng mong nương tựa.
Chúng sinh đáng thương xót
Đang mê hoặc lạc đường
Ở trong sinh tử lớn
Ruộng hoang rộng vô biên
Chỉ người con đường lành
Xét kỹ biết đường chân.

Thầy dẫn đường ba cõi
Sao bỏ đời nhanh chóng?
Thấy chúng sinh khắp đời
Bị lửa ái thiêu đốt
Quanh đường dài mỏi nhọc
Hạn khát đã lâu rồi
Ao ngọt làm nước giải
Vị nước rất ngon mát
Ao mát mẻ trên hết
Bỗng nhiên sắp khô cạn.
Ba đời quá khứ, lai
Hiện tại đều thấu suốt
Tâm vào pháp nhiệm mầu
Khuôn mặt của trí tuệ
Cõi Tam thiên thế giới
Như nhìn gương sáng sạch
Mắt đời bỗng mờ tối
Còn nỗi đau nào hơn!
Chúng sinh dốc lòng tin
Rễ mầm mới sinh được
Như có cái dần lớn
Hay có cái đã thành
Các giống loại như thế
Khát cầu mây mưa Phật
Những chồi vừa thành ấy
Bỗng gặp hạn thiêu đốt.
Thế Tôn bốn mươi thứ
Lửa trí tuệ sáng làu
Đỉnh lớn Nhất thiết trí
Chiếu khắp cõi Tam thiên
Chiếu hiện sáng rực rỡ
Mắt tất cả chúng sinh
Chúng sinh sao đáng thương
Sẽ lại rơi vào tối?
Biển sâu của tuệ giác
Rộng lớn và sâu xa
Phật riêng trước hóa độ
Đoái thương xót chúng sinh
Nay sắp bỏ thế gian
Chúng con nương cạy ai?
Như cha nghiêm, mẹ hiền
Xa con vạn dặm trường
Thương khắp mọi chúng sinh
Bầu sữa lành rất đầy
Nước sữa của chánh pháp
Rất đầy đủ ngọt ngon,
Đức Thế Tôn đại từ
Như trâu mới sinh con
Nay bỏ nghé cô độc
Chúng con sắp hạn khô.
Mê hoặc lâu lạc đường
Trong năm hang âm u
Chúng sinh đáng được độ
Như nghé con cô đơn.
Thế Tôn tìm khắp nơi
Như mẹ hiền tìm con
Nay ai sẽ tìm kiếm?
Chúng con sao đáng thương
Sầu này bỗng nhiên gặp
Sau tiếp tục lại đến?
Ngày đêm cùng đun đẩy
Xoay vòng như bánh xe
Ngày đêm như hai tay
Phương tiện không dừng nghỉ
Múc nước mạng vô thường
Uống vào chẳng thỏa mãn.
Tâm con mê man lắm
Không hề hay biết gì!
Lòng là nhóm kim cang
Nhẫn được, không tan hoại
Thường theo hầu Đức Phật
Cũng như bóng với hình
Hình bỗng nhiên sắp diệt
Bóng sẽ nương vào đâu?
Con nay sẽ lìa bỏ
Đức Phật, trời trong trời
Như thân lìa thọ mạng
Tên mình cũng chẳng còn
Oán đối vô thường trước
Sao không theo đuổi con?
Thọ đã rời thân ấy
Sao khoảnh khắc còn đây?
Ngài ở giữa chúng hội
Từng lời nói như sau:
Có ai chứng Đạo đế
Bốn Thần túc đầy đủ
Tuổi thọ đến một kiếp
Hoặc có thể vượt hơn.
Thần lực đạo của Phật
Tự tại không chướng ngại
Đời chỉ nương vào Phật
Nay xin Phật trụ thế
Vì thương xót chúng sinh.
Mong sống lâu hơn kiếp
Nguyện Ngài rủ lòng thương
Thương xót các chúng sinh
Mà kéo dài thọ mạng
Người chưa độ còn nhiều.”
Bấy giờ Phật Thế Tôn
Thấy A-nan buồn khổ
Quá tiều tụy như thế,
Ngài rủ lòng an ủi
Phật Thế Tôn đại Từ
Nói lời thương tràn trề:
“Ông quán kỹ tự nhiên
Đời động, quy diệt tận
Tất cả việc thế gian
Nhất định phải như thế
Cái gì có thành lập
Nhất định phải hoại thôi
Cái gì có thành lập
Thì phải có đầu đuôi
Không bao giờ phát tâm
Cầu về thành Nê-hoàn.
Ta trước vì các ông
Giảng nói các giáo pháp
Lời dạy người làm thầy
Không còn giấu điều gì.
Thân Ta như trụ lại
Và sau khi độ đời
Các ông siêng thờ pháp
Dùng thân Ta làm gì!
Cần nỗ lực tinh tấn
Suốt đời giữ giới cấm
Phương tiện cầu tuệ giác
Gấp như cứu cháy đầu.

Đạo phẩm để tu hành
Gồm có ba mươi bảy
Phải mau lập phương tiện
Khiến tâm được giải thông,
Cội gốc các điều lành
Đều sẽ từ đó sinh
Dùng diệt định giữ gìn
Ràng buộc lòng voi say
Dùng móc sắt trí tuệ
Chế ngự khiến trở về,
Dùng chánh đế quán kỹ
Trói không cho buông lung
Diệt tâm khiến định tĩnh
Mắt từ bi trí tuệ
Các ông phải nhờ đó
Nhìn thấy pháp thân Ta.
Kia có thấy được Ta
Chính là thân chánh pháp
Ta hiện tại ở đời
Thường thấy Ta không rời
Nay Ta vì các ông
Cho đến đời tương lai
Nguyện biến cây khổ độc
Thành ra quả ngọt ngon.
Trước phải siêng uống ăn
Tinh túy hoa giác ý
Chứng thành bốn đạo quả
No đủ cõi thế gian
Ngoài tục học Thánh hiền
Đều không đợi giác rõ.
Hậu Vân và Thượng Thể
Khiết Trì cùng Ái Sinh
Trời Ngã khiết an tường
Lực Lự và vua trời
Họ đều không đạt đạo
Ta giúp các ông giác
Họ đều không thể biết.
Đầu mối ra khỏi đời
Chỗ ngoại sư ngừng nghỉ
Gặp mê hoặc lại rơi
Chỉ có Phật Thế Tôn
Vô ngại rất linh tuệ.
Cho nên ở trong hữu
Dứt sạch gốc trần lao
Giống như thầy thuốc giỏi
Có tám phương thuốc hay
Ta đã riêng phân biệt
Các loại thuốc hay này
Người nặng về tham dâm
“Quán ác lộ” là thuốc
Dùng “từ” dứt tức giận
Đem “tuệ” bỏ ngu si.
Như trước kia A-nan
Những điều ông bày tỏ
Xin Phật thọ một kiếp
Hoặc lâu hơn một kiếp
Hãy quán Phật quá khứ
Tùy theo hạnh đời trước
Không trọn đời thượng thọ
Thọ bốn trong năm phần
Ta làm gì ở với
Vỏ rắn này lâu hơn?
Kéo mạnh không trở lại
Duyên cừu oán hết rồi
Nhà hư mục nghiêng ngả
Hổ mang rất đáng sợ!
A-nan chẳng nên vội
Bỏ thân này trốn lánh?
Người tìm nước trong lửa
Tìm vàng ở trong sắt
Từ cành hoa sen hồng
Muốn được gậy Kim cang!
Từ trong đồ xấu độc
Muốn tìm thuốc cam lộ
Cùng kẻ điên tìm kế
Từ kẻ oán tìm thương
Trong địa ngục tìm thuốc
Trong nhà xí tìm thơm
Muốn giáo huấn khỉ vượn
Làm cho không lăng xăng
Nhà mục nát, tường rêu
Xây thành bằng cát ướt.
Chùm bọt trên mặt nước
Đèn trước gió đâu bền
Như chén nung gặp nước
Khó thể giữ lâu bền,
Mỏng manh còn hơn thế
Không mạnh chóng tiêu tan
Phải giác biết như thế
Sẽ được thân bốn đại.
Sao thấy được chánh đế
Mặc tình cho thân này
Vì chúng sinh ngu si
Thỏa mãn không lo buồn?
Thấy người khác bị chết
Chẳng nghĩ mình sẽ vậy
Buông lung không cần thiết
Hao tổn thọ mạng này.
Không hề lập phương tiện
Cầu gốc lành cho mình
Nên giác biết như thế
Thế gian đều vô thường
Trời, đất, báu, đá núi
Đều sẽ trở về diệt,
Biển cả, vũng, ao nước
Chẳng lâu đều khô cạn
Núi Tu-di châu báu
Cũng ắt sẽ sụp đổ.

QUYỂN 6

Phẩm 27: ĐIỀU-ĐẠT VÀO ĐỊA NGỤC

Phật, Bậc Thầy trời người
Thân tâm đều thanh tịnh
Thương người xuống sông tắm
Mặc áo tắm đứng trông.
Bấy giờ, Phật Thế Tôn
Bèn xuống dòng sông trong
Giống như vua mặt trời
Tắm ở ao Thiên hoa,
Cũng như cột kim cang
Dùng báu mầu trang hoàng,
Như Thiên sư điêu khắc
Các tướng đều sáng đủ
Thân hình Phật Thế Tôn
Cũng xinh đẹp như thế.
Do hạnh lành đời trước
Thợ giỏi đã tạo thành
Trăm tướng phước đức đủ
Thiện đời trước in rõ,
Hoặc như ngón tay đẹp
Hoặc như phát âm thanh
Để nói hạnh lành xưa.
Hình tướng Phật như thế
Trùng trên không, dưới nước...
Nhìn đều sinh ngạc nhiên
Đều tự bỏ hờn oán
Đối nhau bằng tâm Từ
Chẳng ăn thịt nhau nữa
Mắt đắm nhìn Thế Tôn
Ngắm ngài không thỏa mãn.
Thời, Phật bảo A-nan:
“Xem các loài vật ấy
Đều cùng nhìn tướng Phật
Tuy trùng thú không tuệ
Không phân biệt lành, dữ
Quán thân tướng Phật đẹp
Như nhìn ảnh trong gương
Đã gieo giống gốc lành”.
A-nan bạch Phật rằng:
“Thưa hãy xem Điều-đạt
Đốt cháy bản thân mình
Người họ Thích siêng tu
Học pháp nương hư không
Được vua A-xà-thế
Thờ làm thầy trên hết
Thọ ân sủng vô cùng
Cung kính như hiền tài
Không xét nhân do đâu
Muốn biến thành kẻ ác?”
Thời, Phật bảo A-nan:
“Bố thí khắp, học rộng
Tịnh hạnh, siêng tự giữ
Tâm luôn nghĩ việc ác
Chắc chắn không thể giữ.
Tâm ác, quen các ác
Quên mất hạnh lành ấy
Tự nhơ cội gốc lành
Người ngu được vinh lộc
Tự rất lấy làm mừng
Chỉ chuốc lấy tự sát
Như con la có mang
Do đó tự tiêu diệt,
Cội gốc các điều lành
Không còn mảy may thiện
Cứu ra bỏ không đành
Có thể giúp ra khỏi.
Lòng ta thương chúng sinh
Lòng Từ đối tất cả
Lên núi, vào hỏa ngục
Cứu những người khổ ách
Không tiếc thân mạng mình.
La-vân là con Ta
Điều-đạt lăn đá hại
Thương cả hai như nhau.
Không lâu ở Vương xá
Hạnh ác đã dẫy đầy
Điều-đạt bị bệnh nặng
Chữa trị bằng mọi cách
Rồi lại bảo đệ tử:
“Nay nên đem ta sang
Chỗ vua nước Ma-kiệt
Là bạn thân của ta.”
Bấy giờ, các đệ tử
Tìm cách cáng đưa ông
Kiệu ba bậc ấy gãy
Té rơi gối bị thương
Lại thay kiệu ngồi khác.
Kiệu đến cửa cung vua
Đi đường gặp nhiều thứ
Các điềm hiện chẳng lành;
Trâu đực rống lên đón
Vừa húc đất vừa đi
Chân sau hất tung đất
Bốc bụi bẩn lên người,
Đàn quạ gọi ở trên
Giống như tiếng nói người
Rằng: “Mưu đồ của ông
Chẳng làm người hài lòng”.
Đến cửa liền tâu vua
Vua ra lệnh cho quan:
“Người ác gần cửa tử
Lại đến mê hoặc nhau
Hắn dùng ác đốt ta
Trở lại tự thiêu đốt
Như mưa đá hại vật
Làm tiêu mất tất cả
Trở lại tội chúng sinh
Chúng ta không nên thấy.
Người thân không màng đến
Mọi người đã bỏ rơi
Chống báng Phật Thế Tôn
Vì tế trời Cát tường
Nếu vào ngục Vô trạch
Sợ liên lụy chúng ta.
Có người kính trọng ta
Các khanh tự yêu mạng
Thì mau phải ra khỏi
Ác lại gặp đây rồi.

Ta thường khen Phật đức
Theo cầu nguyện thầy trời
Thề rằng nơi sinh ra
Không ở chung bạn ác,
Quan hầu lệnh thị vệ
Mau đuổi những người tội.”
Tâm Điều-đạt dua nịnh
Khoe với các đệ tử:
“Như ta tự suy nghĩ
Chỉ Phật với ta thân
Có thể cứu nạn vậy
Ngoài ra không nhờ ai
Mau đem ta đến Phật.”
Lá rụng trở về cội
Như hạt rơi đất mọc
Đất nuôi dưỡng, cưu mang
Các đệ tử cho rằng
Thầy lầm lẫn vô cùng
Có ác ý đối Phật
Phạm các thứ tội lỗi.
Điều-đạt nghi sợ nói:
“Ta tuy trái phạm Phật
Không hề bỏ người ác
Vì người lành không nhờ.”
Bấy giờ đệ tử hắn
Thấy thầy như vậy thì
Vì sợ Điều-đạt nên
Vội lên kiệu ra đi.
Chấn động thành Vương xá
Mọi người tụ lại xem
Thời, đuổi theo Điều-đạt
Mới giải được hoài nghi
Thấy Điều-đạt gặp nạn
Nhan sắc rất tiều tụy
Thường làm ác bất kể
Nên nay gặp họa thôi.
Như tàu biển sắp lật
Vào miệng cá Ma-kiệt,
Giống như cờ lớn đổ
Sắp rơi trên mặt đất,
Thí như mổ dê nhà
Dụ phước trời đều ứng
Điều-đạt nguy như thế
Đi vào miệng cửa tử.
Như nhật trùm bóng núi
Mau dần che mặt đất
Điều-đạt hành ấm xấu
Theo đuổi phủ không khắp,
Các người xem trong thành
Thấy điềm ứng như thế
Mọi người chuyền nhau nói:
“Trên đất nặng oán thù
Thường làm ác với Phật
Mặt dày không thẹn ư?
Làm sao mà gặp Phật?
Trong có tráo trở đây
Chứa nhóm sự hao tổn
Vậy không nên nhìn coi.”
Có người rất kinh sợ
Hoặc có người xót thương
Có người rơi nước mắt
Có người đứng lặng nhìn
Có người khen ngợi Phật
Công đức tâm Từ bi
Nên mới dung thọ được
Kẻ độc ác như vầy.
Đệ tử hắn mệt nhọc
Dừng lại nghỉ, thở than
Sự mang nặng đất ấy
Làm sao kham nổi được.
Vừa dừng lại giây lát
Mọi người đã bao quanh
Màu vẻ chết đã ứng
Dần dần vì đó hiện
Phút chốc đất chấn động
Tiếng vang khắp cõi nước:
“Ta chẳng thắng người ác
Như giác ngộ cõi đời.”
Bấy giờ, trong hư không
Có tiếng sấm chấn động
Lại có biết bao thứ
Âm hưởng ác đáng sợ
Các trời bảo thần đất:
“Hạnh ác đã đến gần
Nên đất động lên tiếng
Bày duyên đối xấu ác
Không thắng ác hạnh kia.”
A-nan bạch Phật rằng:
“Điều-đạt đã đến rồi
Xin được gặp Thế Tôn!”
Thời, Phật dùng tiếng Phạm
Mà bảo A-nan là:
“Điều-đạt tội rất nặng
Không thể đến gặp Ta
Dù gió tỳ-lam thổi
Cũng không thể lay động
Dù cho rồng dắt dẫn
Rồng tuyệt nhiên không lay.”
Phật nói lời quyết định:
“Điều-đạt không gặp Ta”
Tức thời run xuất hạn
Nhan sắc liền biến xấu
Giống như chim cánh vàng
Muốn bắt rồng chúa ăn
Vì chết đã tìm bắt
Run rẩy không tự dừng
Gặp sứ Diêm vương triệu
Sợ hãi không biết gì,
Đất nứt như miệng cá
Trong đó lửa đỏ ngời
Há miệng rất đáng sợ
Như muốn nuốt Điều-đạt.
Lửa cháy bốc như lửa
Hừng hực liếm thiêu thân
Bị lửa nóng trói buộc
Lôi cuốn đến đường ác
Giơ cao cả hai tay
Lớn tiếng xưng danh Phật
Gọi rằng: “Trời trong trời
Chỗ chúng sinh cậy nương
Thường có tâm thương xót
Đối tất cả chúng sinh.
Con tuy ngu, nhiều lỗi
Nhân từ chẳng biến đổi
Như núi chúa Tu-di
Gió không thể thổi ngã
Lòng Từ ái vô lượng
Soi sáng đời xưng hô.
Nếu được Ngài soi chiếu
Mong đợi chút dừng nghỉ
Để ngộ cõi Tam thiên.

Lên tiếng Phạm âm vang
Duyên tiếng mầu sâu này
Được thoát khổ địa ngục
Nguyện được Phật Thế Tôn
Đất bụi bám chân Ngài
Đem đội trên đỉnh đầu
Hoặc sẽ được cứu giúp.
Thế Tôn không tự đến
Xin sai đệ tử khác
Ca-diếp, A-na-luật
Xá-lợi-phất, Mục-liên
Cầu được các vị ấy.
Còn hiền đệ A-nan
Tình cốt nhục dòng họ
Làm sao bỏ nhau được
Anh em cùng khổ não
Chúng Tăng cũng như vậy
Từ vua đến các quan
Người quen và họ hàng
Chỉ trừ có kẻ ác
Không bao giờ bỏ con
Không ai rời một chút
Như bóng mãi theo hình.”
Người đông đầy mặt đất
Các trời chật hư không
Đều đứng xem Điều-đạt
Lăn lóc trong khổ đau
Giống như hai lực sĩ
Cùng giao đấu với nhau
Lực sĩ đối duyên trước
Trong chúng bắt Điều-đạt
Trời, người đồng thanh kêu:
“Vinh Lộc nay ở đâu?
Báo lành dữ rõ ràng
Bị lửa kéo dắt đi.”
Bấy giờ vô số người
Bỗng sợ ác đối này
Phật còn không cứu được
Huống chi là người khác
Xưng Phật cúi mình lễ
Hết lòng tự quy y
Chưa kịp nói nửa lời
Liền bị lửa bủa vây
Lửa như dáng Anh lạc
Lan khắp cả thân thể
Bỗng nhiên liền biến mất
Như cá đói nuốt mồi
Chợt đến ngục Vô-trạch.
Bấy giờ quỉ ngục tốt
Đầu cháy rất đáng sợ
Sức mạnh, thân như núi
Tâm độc, rất tức giận
Vôi vã liền tìm đến
Lùng bắt mang đi mất,
Như chim vàng bắt rồng
Dùng dây sắt cháy nóng
Trói ngược cả hai tay
Lôi đi chửi thậm tệ
Đem đến tâu Diêm-la
Rằng: “Đây vật tệ ác
Hung bạo ở thế gian
Mang hờn ghen, nịnh hót
Nghịch chánh lý, ác hung
Nhớ ác, không phản tỉnh
Không từ, chuyên làm ác
Chủ tâm tìm hay dở
Không thẹn, kết oán thù
Độc chuyên quyền, cậy thế.
Thác loạn vượt chân lý
Chánh pháp nói phi pháp.
Phi pháp nói chánh pháp
Sông hay vắng lặng kia
Thể báu tuệ tràn đầy
Phật như núi Tu-di
Y lăn đá muốn giết.
Nước định ý thanh tịnh
Các biển, vực Thánh hiền
Vốn lặng trong lại sâu
Hắn quậy dơ bẩn lên.
Vô tội sinh oán sát
Tỳ-kheo-ni Liên Hoa
Nhổ hết cội gốc lành
Đều khiến không còn sót.
Tối như đồng sương phủ
Các lành ngày một tổn
Ví như trăng lặn mất
Tan chuyển vận tối tăm
Chứa tội đất đã nuốt
Nay đến miệng ác đối
Vua nên xử tội ấy
Tội nặng không thể tha”.
Vua nghe ngục tốt tâu
Phải dùng pháp xử đoán
Vua nổi giận nhiếc mắng
Cùng dạy bảo rõ ràng:
“Ôi! Người dòng giàu sang
Làm những việc thấp kém
Con cháu vua Cam Giá
Ngươi đã làm tan hoang.

Phải chăng ngươi điên dại
Gây ra tội lớn lao
Không uống pháp cam lộ
Tự nuốt độc hại kia
Làm việc hung ác ấy
Muốn cắn gậy ta ư?
Muốn nuốt chày Thiên đế
Hay muốn nắm hư không?
Ngươi bị dục trói buộc
Tính tháo lộng như gió
Đem dục làm việc ấy
Nên hết lòng làm ác.
Ngươi muốn dùng bàn tay
Mà che ánh dương Phật
Lại muốn dùng ngón tay
Nâng Tu-di của Phật
Ngươi muốn uống biển cả
Khiến cạn hết không còn
Việc đến tự cột chặt.”
Nói rồi sai ngục tốt
Bèn làm việc đáng làm
Quỉ tốt lớn tiếng thét
Người tội đều kinh hãi
Tự nói chuyền với nhau:
“Nay kẻ làm ác đến
Nhờ duyên vật ác này
Sẽ lợi ích chúng ta
Bao nhiêu thứ khổ đau
Đều đến trong hội này
Cùng trị vật ác độc,
Lột da, đâm mài giã
Thái thịt bỏ cối nghiền
Tiêu tan thân thể ấy.”
Quỉ tốt như nói trên
Độc trị khiến đầy đủ
Ép ngặt các khổ đau
Quỉ ngục dùng lửa đốt
Cây sắt banh miệng ra
Đồng sôi rót vào miệng
Phải nuốt hòn sắt nóng.
Các địa ngục Đô hợp
Ở trong đó khổ sở
Đi đến ngục Vô trạch
Gia hại Điều-đạt kia.
Ngục Vô trạch thiêu đốt
Cùng người tội phải chịu
Tội riêng của Điều-đạt
Tranh nhau mà hiện ra.
Núi Kim cang đảo lộn
Lửa trào càng nóng hơn
Rớt trên đầu Điều-đạt
Khiến thân nát như bụi,
Núi như biết giận dữ
Thường tự đứng, tự ngã
Âm thanh như xướng họa
Đập nát xương cốt kia.
Người tội nghe tiếng ấy
Đều sợ hãi kinh hoàng
Bốn phía chạy tứ tán
Không còn đất lánh thân
Che mặt mày, vỗ đất
La lớn, bảo nhau rằng:
“Làm ác sao quá đổi!
Khiến đều chịu khổ đau
Điều ác nay đã đến
Vác nặng rất ương đối
Do chúng sinh ác này
Làm chúng ta thêm đau.”
Điều-đạt đau đớn quá
Bảo các người tội rằng:
“Đau đớn ở cùng khắp
Đâu riêng một mình ta?”
Các quỉ coi giữ ngục
Đều mắng Điều-đạt là:
“Hãy nghe tội ác ngươi
Kẻ bạo ngược tàn độc
Thuốc của Nhất Thiết Trí
Tuệ pháp báu rất nhiều.
Mười tám hang núi Phật
Ao vực của từ bi
Núi Phật mầu như thế
Người dùng núi mà ném
Vì thế mắc tội lỗi
Các núi mưa trên ngươi.”
Tự nhiên núi Kim cang
Mưa trên đầu Điều-đạt
Núi cao, chày cháy bỏng
Rơi như mưa không dứt
Làm thân hắn nát vụn
Rồi sống lại như cũ
Bấy giờ lại kêu la
Kinh động trong địa ngục.
Voi đá có trăm chân
Như núi một do-diên
Đen như mây mù tối
Nhanh hơn gió kiếp tận
Kêu thét như sấm động
Điều-đạt thấy kinh hoàng
Gào thét lớn thất thanh
Liền nói lên lời này:
“Các ngươi sao ác quá
Dùng voi ép bức ta!
Đến muốn khủng bố chết
Nay đến dày xéo nhau”.
Quỉ địa ngục hỏi hắn:
“Biết đạp ngươi hay không?
Ngươi dùng voi khủng bố
Nên bị tội voi dày.”
Trong giây lát lại có
Quỉ ngục thân bằng sắt
Hình dáng lớn như núi
Mang chày sắt cháy hồng
Một do-tuần vuông vức
Đi đến chỗ Điều-đạt
Dỡ năm trăm chày sắt
Giáng xuống đầu Điều-đạt
Giã nát thân Điều-đạt
Giống như kiến con nhỏ.
Quỉ ngục, giận mắng rằng:
“Nói sao hết tội này
Ngươi phá người đắc đạo
Cô Liên Hoa là đầu
Đã phạm tội lỗi này
Nay chày giã đầu ngươi
Lại có xe sắt cháy
Trâu kéo thân than đỏ
Tay chân buộc xe sắt
Phân ra làm hai phần
Đánh xe đi hai ngã
Xé tan thân Điều-đạt
Mỗi xe chia thân ấy
Đau đớn không nói được.
Quỉ địa ngục lại mắng:
“Nay xe mới xé ngươi
Phân ra làm hai mảnh
Đúng ra xé thân ngươi
Tám mươi sáu ngàn muôn
Thánh chúng ngươi chê bai
Chia rẽ làm hai bộ
Nên nay xẻ thân ngươi.”
Tiếng Điều-đạt vọng đến
Ngục Hồng hoa xa xôi
Cù-hòa-ly nghe tiếng
Liền tìm đến mắng rằng:
“Thà gặp lửa dữ đốt
Kiếm bén độc bên trong
Hổ mang, trăn, ác độc
Đừng gặp bạn ác tà.
Tìm phương tiện cứu giúp
Có thể thoát tội này
Bạn ác không phương tiện
Nên địa ngục đành chịu
Bị quỉ giữ ngục kia
Không đợi đường giải thoát.
Có bốn thứ phương tiện
Thuật ấy lại không làm

Tổn hại danh xưng
Như ngày cạn nước
Tiêu các hạnh lành
Như lửa cháy đồng
Hại trí tuệ sáng
Như hoa gặp sương
Bẩn hoại mùi hương
Giới cấm tâm tịnh

Che lấp ánh sáng tâm
Như trăng lúc nguyệt thực.
Điều-đạt gốc là bạn
Đối ta bằng oán độc
Ngục tốt gia độc trị
Cất tiếng kêu đau đớn”
Điều-đạt nghe tiếng hỏi:
“Tiếng Cù-hòa ly ư?”
Ngục tốt mắng ngược lại:
“Đó là lửa địa ngục
Đã vào trong tội lỗi
Lại phải hỏi làm gì?
Do ngươi người bạn ác
Cuồng đặt ngục Hồng hoa
Vì tà đạo, phản nghịch
Hầm gian nan phải sa.
Ngươi là lái tàu ác
Dắt vào dòng nước ngược
Trước, sau quanh quẩn mãi
Vĩnh viễn không lối ra”.
Điều-đạt đau đớn nói:
“Cù-hòa-ly đã đến
Còn các bạn thân khác
Đều đến địa ngục chăng?
Bạn ác sao quá vậy?
Dẫn ta vào đường ác
Đến ở trong địa ngục
Mà cũng dẫn ta theo.”
Mục-liên, đệ tử Phật
Thần thông được tự tại
Xót thương ba đường ác
Nhân đi gặp Điều-đạt
Thấy vua A xà-thế
Vua cúi đầu cung kính
Lễ chân Mục kiền-liên
Sau đó bèn hỏi rằng:
“Được đi xem đường ác
Nguyện xin thầy nói cho
Việc thấy Điều đạt ác
Chịu thứ khổ đau nào?”
Mục-liên đáp vua rằng:
“Khổ đau Điều đạt chịu
Nỗi đau khổ đầy đủ
Không thể nói hết đâu!
Có tám địa ngục lớn
Ngục có mười sáu thành
Trăm hai mươi tám ngục
Hợp chung các khổ ấy,
Chỉ riêng ngục A-tỳ
Dụ khổ các ngục này
Khổ không an giây lát
Nên gọi ngục Vô-trạch
Chịu khổ rất tệ ác
Thống khổ chồng chất lên
Lụi đền trả tội khác
Không bao giờ ngừng nghỉ.
Mười sáu ngục lửa cháy
Vây đốt thân người tội
Bị các tên đau khổ
Bắn trúng đích không chừa.
Lúc ấy, vua Diêm-ma
Trách Điều-đạt đủ điều
Ngục tốt lại mắng nhiếc
Thảy đều tâu với vua.”
Vua nghe lòng bỗng sợ
Toàn thân đều nổi ốc
Kinh sợ hướng Mục-liên
Chắp tay và cúi mình,
Lòng vua liền héo rũ
Như hoa gặp lửa hừng
Mặt nước mắt ràn rụa
Như hoa sen gặp mưa
Vừa bi thương vừa sợ
Hướng về Mục kiền-liên
Tự trách mình từ trước
Làm nhiều việc bất thiện
Nếu lòng biết hổ thẹn
Tránh xa bạn ác rồi
Nay ăn năn ngàn muôn
Như roi thúc ngựa hay.
Ý giống như dầu mè
Gặp thơm thì bèn thơm
Gặp hôi thì chịu hôi
Tâm ông cũng như thế.
Mục-liên tâu vua rằng:
“Biết hối hận bậc nhất
Hối trách bệnh đã thấm
Thuốc hay Phật chữa khỏi.”
Vua nghe ngài dạy bảo
Rất sợ hãi địa ngục
Xin nương nhờ Đức Phật
Như bệnh theo thầy hay
Lệnh lập lầu quán báu
Trang hoàng bằng ngọc quý
Như điện Thiện pháp trời
Bốn bên có lan can
Bốn phía thềm thang báu
Bốn phía bốn ao tắm
Hoa bằng bốn chất báu
Các thứ đẹp nhiệm mầu.
Ở trên có cây báu
Các vua đều kỹ xảo
Cung Đế Thích, Đao-lợi
Như cây Trú độ trời
Lập tòa cao bên dưới
Như vua trời Đao-lợi
Ở dưới cây Trú độ
Tòa đại ngự Đế Thích
Vua thỉnh Phật vào cung
Phật ra như mặt trời
Phát ngàn ánh sáng mầu
Vua đích thân ra đón
Cờ, phướn, lọng bốn báu
Hoa hương các kỹ nhạc
Đủ thứ báu nhiệm mầu
Thành kính dâng lên Phật,
Tức thời đánh tất cả
Hai mươi ức cái trống
Các trời đều tung hoa
Như mưa che khắp đất.
Phật tức thời đi đến
Lên điện ngồi tòa cao
Giống như vua trời Phạm
Ngồi cung Phạm bậc nhất.
Vua vô vàn ý kính
Hình dung rất đẹp lành
Như mặt cung điện trời
Ở bên núi Tu-di
Tay cầm bình nước vàng
Rót rửa tay Như Lai
Tay ngó sen của Phật
Tướng bánh xe sáng ngời.
Vua tự dâng thức ăn
Món ăn ngon trăm vị
Rất thơm ngon, thanh tịnh
Như món ăn trời dâng.
Phật cùng các đệ tử
Sau khi thọ trai xong
Súc miệng, rửa bình bát
Thanh tịnh như ý Phật.
Lầu quán, điện cao vời
Chúng sinh nhiều vô số
Như các trời ngắm Phật.
Ở cung Trú độ thọ
Vua trời lòng sầu thảm
Cùng các trời đi đến
Tự quán sẽ bị đọa
Thọ thân trong thai lừa
Vua sầu thảm như vậy
Nhìn kỹ khổ địa ngục.
Đại Quốc vương Ma-kiệt
Cùng các vị thể nữ
Phục sức rất đẹp đẽ
Sáng chói như ánh chớp
Theo bên vua mà đến
Cung kính lễ Thế Tôn
Hoặc cầm các hoa báu
Hoặc cầm hoa vàng bạc
Lúa vàng hoặc lúa bạc
Đủ các thứ châu báu;
Lại có các thể nữ
Tay cầm đồ vàng bạc
Đều đựng đầy nước thơm
Và bình báu cát tường
Chứa nước thơm danh tiếng
Vẩy sạch đất bụi bặm
Biết bao hoa nhiều màu
Tung rải khắp mặt đất
Đem y phục nổi tiếng
Chuỗi ngọc báu đủ loại
Đều cởi ra dâng cúng
Chất gom đầy mặt đất.
Vua cùng với đại chúng
Gieo mình trước Như Lai:
“Phật từ giúp chúng sinh
Xin rủ thương loài ác.”
Phật thấy các trời người
Lòng đều sinh lo sợ
Đại chúng số ngàn ức
Đều mong muốn được độ
Tức thời nói họ nghe
Pháp yếu rất sâu nhiệm
Nước cam lộ bốn đế
Pháp quyết định giải thoát.
Có sáu ức chúng sinh
Hiểu đế thấy dấu đạo
Vô số chúng sinh khác
Đều phát tâm đại đạo.

Phẩm 28: HIỆN NHŨ BỘ LỰC

Phật nhập vào Vô dư
Diệt đau đớn của thân
Cùng đệ tử La-hán
Rời thành Duy-da-ly
Đi qua các làng xóm
Khoan thai theo thứ lớp
Giác ngộ các chúng sinh
Khiến trồng gốc đức lành
Vì vô số chúng sinh
Hiển bày hạnh lành xưa
Độ thoát vô lượng số
Khiến uống vị cam lộ.
Lần đến thành Thành hữu
Nơi Lực sĩ sinh ra
Cùng với các đệ tử
Dừng nghỉ tại xứ ấy.
Cách nơi ấy không xa
Thành Câu-di-na-kiệt
Trong cửa thành có núi
Năm trăm Lực sĩ nhóm
Cùng họp lại bàn luận:
“Núi này chướng ra thành
Nên cùng họp sức dời
Tỏ chúng ta mạnh hơn
Để tiếng tăm đời sau
Trùm khắp cả bốn phương
Sức tinh tấn đầy đủ
Không lúc nào đứt đoạn”.
Bàn rồi bèn ra thành
Đem voi, ngựa, trâu xanh
Mang dây thừng, cây gỗ
Cùng nhau đến dưới núi
Lập ra đủ mọi cách
Cột núi vào con vật
Tay thì nắm dây kéo
Dùng cây gỗ đẩy bồi
Cùng nhau lớn tiếng hô
Đồng thời xuất toàn lực
Tiếng lớn vang cả nước
Không thể lay động núi.
Phật dẫn các đệ tử
Thứ lớp đến chỗ này
Các Lực sĩ thấy Phật
Tỏa ánh sáng màu vàng
Như ngàn mặt trời mọc
Ba mươi hai tướng mầu,
Thấy Phật họ mừng rỡ
Bỏ núi, đến chỗ Phật
Cung kính làm lễ Phật
Đi quanh phải ba vòng
Phật nhân đó hỏi họ:
“Vì sao các tráng sĩ
Nhóm họp ở đây thế?”
Họ cùng bạch Phật rằng:
“Chúng con sống ở đây
Thuộc dòng họ Lực sĩ
Núi này cản cửa thành
Chúng con cùng họp bàn
Muốn dời ngọn núi ấy
Khiến đường vào thành phẳng.
Hầu để tiếng mai hậu
Hiển bày sức Lực sĩ
Nên dùng voi, gia súc
Và hết sức lực mình
Đã tận dụng phương tiện
Mà núi vẫn không lay”.
Phật cùng với đại chúng
Đi đến chân núi này
Thu gọn lại y phục
Dùng tay trái nhấc núi
Để vào bàn tay phải
Rồi ném lên hư không
Lên mãi tận trời Phạm.
Trong núi phát tiếng nói:
“Thế gian đều vô thường
Các pháp đều vô ngã
Chỉ vô vi diệt khổ.”
Núi từ trên hạ xuống
Trở về tay phải Phật
Phật dùng miệng thổi tan
Nát vụn ra thành bụi
Rồi lại gom nhóm lại
Trở lại ngọn núi cũ
Đem dời đến chỗ khác
Bấy giờ các Lực sĩ
Thấy Thế Tôn Đại sĩ
Lòng vô vàn mừng rỡ
Toàn thân đều nổi ốc
Lòng thêm cung kính Phật
Đến làm lễ chân Phật
Quỳ xuống, chắp tay bạch:
“Thưa Đấng Trời trong trời
Sức lực dùng vừa rồi
Là năng lực Nhũ bộ
Là năng lực thần thông
Hay định lực của đạo?”
Phật bảo các tráng sĩ:
“Lắng nghe lời Ta nói
Tay trái Ta nhấc núi
Đặt trong bàn tay phải
Ném lên hư không ấy
Là năng lực Nhũ bộ
Lên đến tận trời Phạm
Trong núi phát tiếng nói
Thế gian đều vô thường
Tất cả đều vô ngã
Riêng vô vi diệt khổ.”
Lại chắp tay bạch rằng:
“Xin Đấng Trời trong trời
Hoan hỷ giảng nói lại
Sức bú mớm cha mẹ
Thì có hạn lượng thôi.”

Phật bảo các Lực sĩ:
“Các ngươi có muốn nghe
Sức Nhũ bộ Phật chăng?”
Đáp rằng: “Dạ muốn nghe!
Sức Nhũ bộ Thế Tôn”.
Phật dạy: “Hãy nghe đây!
Sức mười con trâu thường
Bằng một con trâu xanh,
Sức mười con trâu xanh
Bằng một con trâu mao,
Sức mười con trâu mao
Bằng một con độc giác,
Sức mười con độc giác
Bằng một con voi thường,
Sức mười con voi thường
Bằng một voi sổ sinh,
Sức mười voi sổ sinh
Bằng một con tả tượng,
Sức mười con tả tượng
Bằng một con hương tượng,
Sức mười con hương tượng
Bằng một đại đức tượng,
Sức mười đại đức tượng
Bằng một voi ngà chày,
Sức mười voi ngà chày
Bằng sức một long tượng,
Như sức mười long tượng
Bằng lực sĩ vai rộng,
Mười lực sĩ vai rộng
Bằng sức một Thiên tiết,
Mười lực sĩ Thiên tiết
Bằng một trời Sĩ thừa,
Ba trăm hai mươi sĩ
Bằng một lóng tay Phật.
Sức bú mớm cha mẹ
Sức bú mớm của Phật
Trạng thái giống như vậy.
Các Đức Phật quá khứ
Và các Phật vị lai
Và hiện nay như Ta
Tất cả đều bình đẳng;
Bình đẳng âm thanh xưng
Bình đẳng lượng tướng tốt
Bình đẳng phước báo ứng
Bình đẳng giác trí tuệ
Bình đẳng giới định ý
Chỉ hai việc không bình
Hình tướng và tuổi thọ”.
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Nay thấy sức bú mớm
Cha mẹ của Thế Tôn
Nguyện rủ lòng xót thương
Giảng nói chúng con nghe
Phước lực công đức Phật”.
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người muốn nghe, lắng tai!”
“Thưa chúng con muốn nghe”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Khắp cả Diêm-phù-đề
Sức phước đức chúng sinh
Sánh với một phía thành,
Sức Chuyển luân thánh vương
Sức phước đức gốc lành
Gấp thêm trăm, gấp ngàn
Không được so sánh nhau.
Vua Chuyển luân hai phương
Vua Chuyển luân ba phương
Vua Chuyển luân bốn phương,
Thiết luân một phương hiện
Đồng luân hai phương hiện
Ngân luân ba phương hiện
Kim luân bốn phương hiện
Bánh xe có ngàn căm
Bảy báu xen lẫn nhau
Chiếu sáng như mặt trời.
Sức phước đức hai phương
Ví như trước đã bồi
Vua phước lực ba phương
Cũng dụ kiến hiểu vậy
Phước lực vua bốn phương
Dụ để chúng sinh hiểu,
Sức phước đức chúng sinh
Trăm lần, ngàn muôn lần
Kể sức công đức ấy
Không bao giờ ví được.
Giả sử khiến bốn cõi
Tất cả loài chúng sinh
Đều là vua Chuyển luân
Hợp sức phước đức này
Tất cả sức công đức
Của bốn vị vua trời
Trăm ngàn, hàng ức muôn
Không bao giờ ví được.
Người khắp bốn vua trời
Đều làm bốn vua trời
So sánh sức phước đức
Của vua trời Đế Thích
Trăm ngàn, hàng ức muôn
Không thể ví dụ được.
Các vị trời Đao-lợi
Đức như trời Đế Thích
Không sánh vua trời Diệm
Tất cả sức công đức
Trăm ngàn muôn ức lần
Không thể ví dụ được.
Giả sử các trời Diệm
Phước như vua trời Diệm
Không sánh sức phước đức
Của vị vua trời Gia.
Nếu có sức phước đức
Khiến các trời Đâu-thuật
Đức như vua trời này
Không sánh sức công đức
Của vua trời Hóa lạc.
Đức của vua Hóa lạc
Không sánh sức phước đức
Vua trời Ứng hóa thanh.

Các trời Ứng hóa thanh
Phước lực như vua trời
Không sánh sức công đức
Của Phạm thiên bậc nhất.
Giả sử các trời Phạm
Như Phạm lực bậc nhất
Sức công đức không bằng
Với vị trời Đại Phạm.
Vô số không thể kể
Không bằng sức công đức
Của một vị Duyên giác
Trăm ngàn muôn vạn ức
Không thể nào ví dụ.
Tam thiên đại thiên giới
Tất cả loài chúng sinh
Đức lực như Duyên giác
Không bằng một Bồ-tát.
Tất cả sức phước đức
Loài chúng sinh mười phương
Đều khiến thành Bồ-tát
Sức phước đức đầy đủ
Không được sức công đức
Của một tướng Đức Phật
Trăm ngàn muôn ức ức
Không thể nào ví dụ.
Chư Phật ở quá khứ
Cùng chư Phật vị lai
Và Ta trong hiện tại
Đức lực đều bình đẳng
Âm bằng, xưng lượng bằng
Tướng bằng, phước đức bằng
Các pháp báo ứng bằng
Chỉ tuổi thọ không đồng.”
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Quỳ thẳng, chắp tay bạch:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Nghe đủ sức phước đức
Cúi xin được nghe lại
Sức trí tuệ của Phật.”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng tâm
Nay Ta sẽ nói đủ
Sức trí tuệ của Phật.
Cõi Diêm-phù-đề này
Rộng bảy ngàn do-diên
Hình đất có ba góc:
Phương Tây Cù-da-ni
Rộng tám ngàn do-diên
Hình đất là vuông vức.
Phương Đông Phất-vu-đãi
Rộng chín ngàn do-diên
Hình đất như trăng khuyết.
Phương Bắc Uất-đơn-việt
Rộng một muôn do-tuần
Địa hình như trăng tròn.
Địa vực bốn phương ấy
Các cỏ cây, tre trúc
Đều dùng để làm bút,
Nước tất cả biển lớn
Sâu rộng dài ba trăm
Ba mươi sáu muôn dặm
Dùng nước hòa làm mực.
Núi Tu-di vào đất
Dưới đến mé kim cang
Cũng lại có ba trăm
Ba mươi sáu muôn dặm
Ngang mặt nước trở lên
Cũng lại có ba trăm.
Ba mươi sáu muôn dặm
Bốn phương bốn báu thành
Phương Bắc bằng vàng ròng
Phương Đông bằng bạc trắng
Phương Nam lưu ly xanh
Phương Tây bằng thủy tinh
Giống như núi Tu-di
Đều khiến thành lụa trắng
Viết hết bút cây cối
Cạn hết nước các biển
Ghi hết lụa trắng này
Không tả hết trí tuệ
Đệ tử Xá-lợi-phất
Nhật nguyệt sáng soi chiếu.
Ngàn cõi nước như thế
Ngàn mặt trời, mặt trăng
Bốn ngàn các địa vực
Ngàn Đông, Tây, Nam, Bắc
Ngàn núi chúa Tu-di
Và bốn ngàn vua trời
Ngàn Đế Thích Đao-lợi
Ngàn vua trời Đâu-thuật
Ngàn vua trời cõi Diệm
Ngàn vua trời Hóa lạc
Ngàn trời Hóa tự tại
Và ngàn các vua trời
Gọi là ngàn thế giới
Ngàn thế giới như vậy
Đó gọi là tiểu thiên,
Ngàn ngàn tiểu thiên giới
Gọi đệ nhị trung thiên,
Đệ nhị trung thiên ấy
Đủ số một ngàn ngàn
Thì đó gọi tên là
Cõi Tam thiên đại thiên.
Giả sử cõi Tam thiên
Đại thiên thế giới ấy
Tất cả loài chúng sinh
Tuệ như Xá-lợi-phất
Đem sánh trí tuệ Phật
Gấp trăm và gấp ngàn
Muôn muôn ức ức lần
Không thể tính, thí dụ
Sức tuệ Phật như thế.

Các Phật thời quá khứ
Và các Phật vị lai
Như Ta là hiện tại
Tất cả đều bình đẳng
Bằng âm, bằng danh xưng
Bằng đức, bằng tướng hảo
Bình đẳng các báo ứng.”
Bấy giờ các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay, bạch Phật rằng:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Nghe sức tuệ công đức.
Cúi xin Ngài giải thích
Sức thần túc của Phật.”
Phật bảo các lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng lòng.”
“Thưa vâng, xin muốn nghe.”
Phật bảo các tráng sĩ:
“Xưa lương thực thiếu thốn
Người dân đều nghèo đói
Các đệ tử khất thực
Không thể tự nuôi thân
Ngồi thiền ý không định
Không thể tu pháp lành,
Thời đệ tử Mục-liên
Bèn tìm đến chỗ Ta
Cúi đầu lễ chân Phật
Rồi lui sang một bên
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Nhớ xưa nghe Phật dạy
Đất này đều ăn được
Vì chúng sinh bạc phước
Đất màu mỡ chìm xuống
Sỏi, đá, cát nổi lên
Như con nay biết rõ
Đất màu mỡ ở dưới
Chúng sinh đáng thương xót!
Nay muốn lấy đất này
Đảo trên đem xuống dưới
Đảo dưới đem lên trên.”
Ta liền quở Mục-liên:
“Chớ nhọc làm việc ấy
Chúng sinh này đời trước
Không tu các gốc lành
Không có công đức kia
Xứng ăn đất màu mỡ.”
Đệ tử Mục-kiền-liên
Dùng tay trái nâng lên
Đất Tam thiên thế giới
Đặt trong bàn tay phải
Mang để ở cõi khác
Tất cả loài chúng sinh
Không loài nào hay biết
Cũng không tâm sợ hãi.
Cõi Tam thiên đại thiên
Thế giới như thế ấy
Tam thiên thế giới này
Đầy các loại chúng sinh
Thần lực như Mục-liên
So thần lực Phật thân
Thì trăm ngàn muôn ức
Không thể ví dụ được.
Dù chúng sinh mười phương
Thần lực như Duyên giác
Thần lực các đệ tử
Và thần lực Phật thân
So sánh ý lực Phật
Trăm, ngàn muôn ức lần
Vô lượng không tính kể
Không thể ví dụ được.”
Bấy giờ, các Lực sĩ
Cúi đầu lễ chân Phật
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch Đấng Trời trong trời
Đã thấy sức bú mớm
Sức thần túc phước tuệ
Xin nói sức định ý
Giải thích cảnh giới ấy”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Người thích nghe, lắng tâm.”
“Thưa, chúng con xin nghe!”
Phật bảo các Lực sĩ:
“Bốn phía núi Tu-di
Các rồng bay lên không
Đồng thời tuôn mưa lớn.
Khắp cùng bốn thiên hạ
Nước ở bốn phương ấy
Đều chảy vào biển cả
Phật đều phân biệt biết
Các giọt nước mưa này:
Trước rơi xuống nơi nào
Vùng nào, làng xóm nào
Nhà nào, vườn ruộng nào
Cây nào, cành nhánh nào
Hoa nào và trái nào?
Vì chảy vào biển cả
Của bốn phương vực này
Tất cả nước đã có
Sức định ý của Phật
Đều phân biệt biết được
Nguồn gốc các giọt nước
Từ nơi nó đã sa.
Đó là định ý Phật
Sức thần rất nhiệm mầu.
Các Phật đời quá khứ
Các Phật đời vị lai
Như nay Ta nói pháp
Tất cả đều bình đẳng
Bằng âm, bằng xưng lượng
Bằng đức, bằng tướng tốt
Bình đẳng pháp báo ứng
Chỉ hai việc không bằng
Hình thể và tuổi thọ.
Tại sao lại không bằng?
Lúc người đời sống lâu
Vì thân người cao lớn
Phật cũng tùy thế tục
Sống lâu, thân cao lớn.
Người đời mạt chết yểu
Thân hình xấu, nhỏ con
Nên các Phật ra đời
Có hai điều không bằng.”
Phật bảo các lực sĩ:
“Ta đã vì các ông
Giảng nói giải thích đủ
Sức bú mớm của Phật
Sức phước đức, trí tuệ
Sức thần thông định ý
Các năng lực đã nói
Vào chiều tối hôm nay
Bị sức mạnh vô thường
Sẽ kích phá hoại diệt.
Những người như vậy thảy
Thế gian là vô thường
Tất cả loại có hình
Đều là pháp chia lìa
Diệt vong và tan hoại
Có thành ắt có hoại
Có sinh phải có chết
Có nhóm phải có tan
Có đứng phải có rơi.”
Phật vì các Lực sĩ
Nhân đó nói yếu kệ:
“Hữu vi là vô thường
Sinh khởi là diệt tận
Các hưng suy tự nhiên
Siêng cầu an vắng lặng.
Hữu vi là vô thường
Sinh khởi là diệt tận
Phật là Bậc Tối Tôn
Tuổi thọ cũng chung tân.
Đời sống ngắn ngủi ấy
Như mộng bỗng trôi qua
Buông lung không siêng tu
Ngu này đáng thương xót.
Như nước trên núi cao
Chảy nhanh không trở lại.
Mạng người cũng như thế
Đã qua không trở lại.

Như cung bắn tên rồi
Đã đi không quay về
Mạng người cũng như thế
Đã đi không trở lại.
Nguồn gốc của các khổ
Phải siêng cầu diệt khổ
Biết tám đường Hiền thánh,
Uống cam lộ ngọt ngon.”
Lúc Phật nói kệ xong
Cõi Tam thiên đại thiên
Đất rung chuyển sáu cách
Vô số các vị trời
Bỗng rời cung điện mình
Đến đầy lấp không gian
Mưa các hương hoa trời
Bột vàng, bạc, chiên-đàn
Chư Thiên trổi kỹ nhạc.
Phạm thiên lễ chân Phật
Chắp tay ở trước Phật
Nhân đó nói kệ rằng:
“Các Phật khó gặp gỡ
Ý Chánh Giác khó có
Như hoa Ưu-đàm-bát
Phật lại còn khó hơn.
Thích Sư Tử trên người
Khỏe mạnh càng khó gặp
Cùng các chúng trời người
Nay chắp tay kính lễ.”
Trời Đế Thích khi ấy
Bước đến lễ chân Phật
Quỳ thẳng ở trước Phật
Nhân nói bài tụng này:
“Khiến con được mắt tịnh
Sáng soi đuốc pháp đây
Đóng kín cửa đường tà
Không sợ rơi đường ác,
Thầy Đại Bi cõi thế
Vì thương xót chúng sinh
Nên cùng các chúng trời
Ở trước chắp tay lễ.”
Thời, sáu muôn vị trời
Thấy đế được dấu đạo
Lễ Phật, nhiễu ba vòng
Rồi trở về cõi trời.
Lúc ấy người trong hội
Quy mạng Đấng Tam Tôn
Phật pháp các Hiền thánh
Từ đây đến cuối đời
Giữ giới, tu mười lành
Xuất gia, rời thế tục
Thọ giới làm Sa-môn
Thấy đế, chứng vắng lặng
Trở về đạo Bất hoàn
Hoặc thành Vô trước chân
Hoặc phát ý Duyên giác
Hoặc phát tâm Đại đạo
Vô hạn không thể lường.
Lại có loài chúng sinh
Chưa từng có gốc lành
Chỉ mới phát tâm đạo
Vô số các chúng sinh
Nhớ Phật, thầy trời người
Siêng nhiếp thân, miệng, ý
Nay sẽ về vô vi
Thấy rồi! Quá kinh sợ!
Tu hành lìa các khổ
Thân người rất khó được
Như cứu lửa trên đầu
Nhân đó làm điều lành
Siêng tu không biếng nhác
Lìa khỏi các khổ não
Được vô vi mát mẻ.

QUYỂN 7

Phẩm 29: ĐẠI DIỆT

Thời, Phật cùng đại chúng
Đi đến rừng Song thọ
Phật sai A-nan đến
Song thọ bày giường nằm
Thế Tôn liền lên võng
Nằm nghiêng hông bên phải
Mặt hướng về phương Tây
Đầu hướng Bắc, gác chân.
Thời Hiền giả Tu-bạt
Tu nhân, dứt tháo tánh
Muốn gặp Phật xin độ
Đến thưa với A-nan:
“Tôi biết Thầy trời người
Sắp đến lúc Niết-bàn
Nên nay đến khó gặp
Biết rõ tất cả pháp
Nay muốn xin làm lễ
Làm sao dứt gốc khổ?
Nếu nay không được gặp
Như mặt trời vào tối
Xin A-nan thông báo”.
Tâm A-nan buồn phiền
Liền bảo với Tu-bạt:
“Giờ không phải lúc gặp”
Phật dùng Nhất thiết trí
Chiếu suốt người đáng độ
Tướng mạo trăm phước đức
Tâm Từ nhìn Tu-bạt
Phật dùng lời êm dịu
Bảo với A-nan rằng:
“Hãy cho người đó vào
Ta ra đời vì thiện”.
Tu-bạt được thỏa nguyện
Rất vui mừng hớn hở
Liền đến chỗ Đức Phật
Nhất định được giải thoát.
Lúc bấy giờ, Tu-bạt
Khiêm kính tôn Phật đức
Cúi mình làm lễ Phật
Từ tốn bạch Thế Tôn:
“Thầy trước biết thế gian
Rằng Ngài từ đắc đạo
Mình đã được giải thoát
Lại còn độ chúng sinh
Nguyện gặp xin chỉ bày
May ra được giác ngộ
Nên đến lễ kính Ngài
Chẳng dám xưng trí lực”.
Phật thấy Tu-bạt đến
Với lòng rất kính vui
Đem đường Hiền thánh nói
Diệt khổ, bày vô vi.
Bấy giờ Tu-bạt nghe
Tức thời được giải thoát
Ý tà mê giác ngộ
Liền được đạo, giải thoát
Kiến chấp điên đảo xưa.
Vì từ sinh tử mê
Sáu mươi hai đảo kiến
Bị thế tục nhận chìm
Vị ấy hết không thừa.
Bạch y được đắc đạo
Lậu hết thành La-hán
Vượt bờ, không lại qua.
Biết Phật sắp ra đi
Sinh yêu thương khắp đời
Khát ái, cả hai diệt
Diệt ý, các khổ kết
Hiểu những điều Phật nói
Lời dạy sâu chân chánh
Để dứt tâm nhiễm đắm
Tâm định không còn lậu,
Biết sinh tử cõi thế
Tu-bạt tư duy kỹ
Cho thế gian đoạn diệt
Nhãn kiến này trừ ngay.
Đời vốn là diệt vong
Ý biết như vậy rồi
Thế gian có thường kiến
Tà nghi chợt dứt bỏ
Điều chấp giữ trước đây,
Bỏ tà kiến điên đảo
Nghe lời Phật chân thiện
Mở từ tâm thọ trì.
Nhân vì ở đời trước
Các căn lành đã tu
Nguyện vào thành Nê-hoàn
Nên mau chóng giải thoát,
Đã được lành vô vi
Trừ tối, giác chánh chân
Hiểu mãi pháp cam lộ
Trừ hết các trần lao.
Thời, thấy Phật Thế Tôn.
Muốn bỏ vào vắng lặng
Với lòng Từ nhìn Phật
Trong tâm liền nghĩ rằng:
“Đáng lẽ ta không nên
Nhìn Phật xả thọ mạng
Đuốc sáng khắp thế gian
Chỗ chúng sinh nương tựa
Ban lành cho tất cả.
Con nguyện xả thân trước
Xin Đấng Trời trong trời
Ngưng xả thọ giây lát”.
Thiện tâm phát vô lượng
Năm vóc gieo xuống đất
Cúi đầu lễ chân Phật
Sinh tâm định như núi
Tức thời liền chóng diệt
Giống như mây lớn giăng
Mưa cam lộ tuôn khắp
Tắt ngấm lửa đồng nhỏ.
Phật truyền bảo Tỳ-kheo
Cúng dường thân Tu-bạt
Đệ tử Phật sau rốt
Độ vào thành Nê-hoàn.
Nhân đó tựa hông phải
Nằm lên trên giường đây
Muốn xả bỏ thân Phật
Đã hết số tuổi thọ.
Lúc ấy vào đầu đêm
Trăng sao dần bớt sáng
Chim thú trong rừng lặng
Phật bảo các đệ tử:
“Các thầy kính trọng giới
Như ngọn đèn tôn sư
Sau khi Ta rời thế
Thuận theo chớ trái phạm
Nhiếp tịnh thân, miệng, ý
Xả lợi cầu an ổn
Ruộng vườn, chứa tôi tớ;
Không kho lẫm, làm vườn
Không trồng các cây cối
Cũng chớ gây tổn thương.
Không được vì thân mình
Xây vách cao, tường nổi
Không ngước xem lịch số
Không hòa hợp thuốc thang
Biết thời hạn, tiết thực
Sửa mình, không mong kính.
Không tự giấu lỗi xấu
Không sống bằng bùa chú
Không làm sứ cho vua
Không xem tướng, tốt xấu.
Sau các thầy sẽ đủ
Y thực và thuốc thang
Thường nhiếp tâm biết đủ
Chịu khổ, giữ tiết hạnh
Các thầy chỉ siêng năng
Vâng giữ giới cấm này
Cội gốc giới Cụ túc
Nê-hoàn đều chuyên chở.
Từ đó sinh định tuệ
Giới cấm đủ hài hòa
Giữ gìn cho đầy đủ
Trí tuệ càng tăng thêm.
Dứt bỏ các trần lao
Duyên này đến Nê-hoàn.
Lời này ấn phong giới
Vì người biết giữ giới
Giới ấy đủ không thiếu
Đầy đủ không sai sót
Thì kia lành thanh tịnh
Thoát trần lao vắng lặng.
Người không có giới cấm
Thì không phải Sa-môn
Vì lập giới cấm địa
Thành Sa-môn khéo mầu.
Đã đầy đủ tịnh giới
Tâm không theo các dục
Cố gắng giữ tâm trụ
Nhẫn nhục, không khởi sân,
Như trâu đành bỏ cỏ
Buông lung nghĩ theo tà
Sai mất giới cấm tịnh
Điên đảo rất suy hao.
Nếu gặp phải giặc dữ
Một đời thân chịu khổ
Nếu chạy theo các dục
Đời này và đời sau
Chịu đủ các khổ độc,
Cho nên chớ theo dục
Kẻ mừng khi được dục
Sau ắt gặp khổ to.
Người không nên sợ hãi
Lửa hừng hực đốt cháy
Chớ sợ hổ mang độc
Và giặc ác hung bạo
Hại đoạt mạng con người
Phải sợ ý ngu si
Như ngu thấy núi mật
Không nghĩ nạn nát thân.
Như voi say không móc
Nhảy nhót như khỉ vượn
Tâm ngày đêm theo dục
Không theo các pháp mầu
Người không dứt tâm ấy
Chân chẳng được nghỉ ngơi.
Đã điều phục được tâm
Chẳng tà lệch Nê-hoàn.
Được ăn như uống thuốc
Không nên nghĩ chán ưa
Có được thức ăn ngon
Cũng cho thân khỏi đói.
Cũng như ong hút hoa
Lấy tinh vị của hoa
Xin ăn nên vừa phải
Không để mất kính tin
Không phiền người ưa thí
Chớ nên chứa để nhiều
Kẻ cho nhiều thì chán
Chứa của nhiều thì mệt.
Các thầy ngày đêm siêng
Phương tiện nên gắng lên
Chớ buông lung ngủ nghỉ
Tổn hao mạng khó được
Khắp đời bị chết thiêu
Ai suốt đêm ngủ yên
Kẻ thù luôn vây hãm
Khủng bố đâu yên được.
Nên bỏ cấu trần lao
Được ngủ yên đêm dài
Trần lao che yên ngủ
Tỉnh ngủ diệt trần lao.
Hổ thẹn là y phục
Chuỗi ngọc móc giữ voi
Người không tâm hổ thẹn
Các đức lành bỏ đi
Người có tâm hổ thẹn
Đó mới gọi là người
Mặt dày không biết thẹn
Thì đó là súc vật.
Nếu cắt rời chi thể
Tâm cũng không rối loạn
Cũng không trái giới cấm
Miệng chửi mắng tục tằn
Thì giới là nhẫn nhục
Sức mạnh giới là đây.
Không nhịn lời thô tục
Không được rốt giải thoát
Mất tên pháp nhuế hoại
Lòng lành vui kẻ thù
Không nên thuận tâm độc
Phải dừng lại cho mau
Kẻ thù của các lành
Không gì qua tức giận
Mau mau đừng bị dụ
Hoại giới, hủy lòng nhân.
Tại gia nhiều ái đắm
Tội lỗi sân không nặng
Giữ giới sân càng nặng
Như nước lạnh ra lửa
Cạo tóc mặc pháp y
Ôm bát đi khất thực
Oai nghi gương cho đời
Không nên có tâm sân.
Mạn tăng thì lành giảm
Người tại gia còn vậy
Huống xuất gia lìa đắm
Người điều phục tâm định
Pháp trung bình chánh chân
Không hề có tà ngụy
Chánh pháp tạo việc lành
Tà ngụy là dối lừa.
Chứa của, Thánh buồn lo
Ít muốn là lìa khổ
Cho nên đệ tử Ta
Ít cầu thêm các lành.
Các thầy phải biết đủ
Đó là tâm an định
Biết đủ, nhân gian vui
Kẻ tham, sinh khổ nàn
Giàu, tham lam thành nghèo
Nghèo, biết đủ thành giàu
Tham rong ruổi không chán
Người biết đủ được thương.
Người muốn cầu giải thoát
Không nương chỗ ồn náo
Trời Đế Thích sẽ xuống
Kính lễ Bậc độc cư
Các thầy bỏ thân ái
Khổ thân ái dừng ngay
Bỏ nhà luyến thân ái
Như voi già sa lầy.
Người ý chí tinh tấn
Mọi việc không nghi nan
Tính nước tuy mềm mại
Chảy hoài xuyên thủng đá
Kéo lửa mà ngưng nghỉ
Không thể được lửa đâu!
Siêng kéo thì tìm lửa
Tinh tấn gặp lửa mau
Nên phải lập tinh tấn
Hướng về cửa Nê-hoàn.
Tà trái đạo vô vi
Các thầy chớ nên làm
Giữ chí không lầm loạn
Các tà không được vào.
Bạn Sa-môn giữ chí
Thất chí mất các lành
Chí mặc giáp trượng đủ
Địch đâu thể thắng được
Lòng chuyên mặc giáp đức
Trần lao không thể thắng.
Người chuyên tinh định ý
Hiểu rõ đời tử sinh
Cho nên phải định ý
Định ý, khổ không sinh,
Như muốn qua dòng nước
Nương cầu nổi bắc sang
Muốn qua tất cả khổ
Định ý, thuyền bậc nhất.
Nếu các thầy lìa tuệ
Nay cố bày thế pháp
Có vậy thì được độ
Pháp ngoài thì không thích
Không gọi là bỏ nhà
Giáp, thuốc hay lợi khí
Thuyền bè qua sông nước
Tuệ đưa qua sinh tử.
Cho nên thường nghe pháp
Phải theo lời dạy pháp
Bậc tuệ có chánh kiến
Người không tuệ tối tăm.
Tâm chạy theo trần lao
Sẽ không được giải thoát
Người xét muốn cầu độ
Siêng dứt bỏ trần lao
Sa-môn phải điều tâm
Dứt bỏ tâm buông lung
Tâm vua trời điều lạc
A-tu-luân thì không.
Ta dạy các thầy thiện
Các thầy phải siêng tu
Lập ra nhiều phương tiện
Để giúp đến Nê-hoàn.
Giữa núi non vắng lặng
Nhà rảnh rang rừng sâu
Ở đó tu định ý
Ta đi không hận lòng.
Thầy thuốc đem hết thuật
Hòa hợp nhiều thuốc thang
Người bệnh uống được khỏi
Thuốc không uống tại mình;
Đạo Sư dẫn đường chánh
Người theo không lo lắng
Người sai lầm bị tổn
Chẳng đoái hoài các nạn.
Ta đã vì các thầy
Giảng nói bốn Chánh đế
Kẻ còn nghi thì hỏi
Nay là lúc hỏi han.”
Lúc Phật lệnh như vậy
Đệ tử lặng không thưa
A-na-luật nghĩ biết
Ở giữa đại chúng thưa:
“Mặt trời có thể lạnh
Trăng có thể nóng lên
Bốn đế chân chánh này
Không bao giờ sai chạy.
Khổ đế, khổ bức bách
Duyên ái thì khổ sinh
Lời các Phật nói ra
Diệt tận đế, diệt ái
Tám đường chánh cam lộ
Vắng lặng là Nê-hoàn.
Biết chúng Sa-môn này
Phật cuối cùng đã độ
Người chưa độ trong hội
Trẻ già mới vào đạo
Phật nói sơ La-hán
Như đường tối sáng lòa
Họ đã được giải thoát
Ra khỏi vòng sống chết
Họ đều mang bi hận
Thầy diệt sao quá nhanh.”
Phật nghe lời chánh đế
Của Na-luật như vậy
Muốn kiên định ý chúng
Từ bi nói lời này:
“Giả sử có kiếp thọ
Rồi cũng sẽ cùng tận
Ta đem lành ban đủ
Sống lâu để làm gì?
Trên trời và dưới thế
Kẻ đáng độ đã độ
Nửa độ, nửa bày đạo
Chuyển giáo pháp được trụ.
Các thầy phải tự chế
Không cần nhớ nghĩ ta
Chỉ siêng nói phương tiện
Không gặp khổ chia lìa,
Dùng đèn tuệ trừ tối
Biết đời không bền chắc
Rũ trọn lòng vui vẻ
Giống như hết hoạn nạn.
Người trí thoát hung suy
Xa lìa kẻ tệ ác
Bỏ được hai họa ấy
Thì đâu có âu lo?
Các thầy siêng tu thiện
Tất cả rồi sẽ chết
Ta vào thành Nê-hoàn
Bây giờ đã đến lúc
Bấy giờ hành xả thọ
Là lời cuối của Ta”.
Lúc ấy Phật tư duy
Thiền ly dục bậc nhất
Xuất thiền bậc nhất rồi
Tư duy thiền đệ nhị
Trải bốn thiền như thế
Như thế trải qua khắp
Qua lại trong chín thiền
Thuận nghịch tận đầu mối.
Thế Tôn, Trời trong trời
Trở lại thiền bậc nhất
Ra khỏi thiền bậc nhất
Trở lại đến Tứ thiền
Khi Phật tư duy kỹ
Nghịch thuận trải thiền quán
Lại từ đây xuất thiền
Ý Ngài hơi chấn động
Sau đó xả thọ hành
Chợt vào thành Nê-hoàn.
Phật vừa xả thọ hành
Đất rung chuyển sáu cách
Không trung có đuốc lớn
Như kiếp tận lửa cháy
Bốn phương lửa cháy lớn
Giống như A-tu-la
Đốt trời, rừng, cây, đầm
Gọi là Ái Tận Lạc
Mưa đá to cõi ấy
Chớp sáng như phun lửa
Khắp đời như lửa lớn
Sấm rền rất đáng sợ
Gió bụi mù nổi lên
Cây gãy, núi băng đổ
Giống như gió kiếp tận
Gãy đổ nát vô hạn.
Mặt trời không ánh sáng
Trăng sao đều tối đen
Nhật nguyệt đều không sáng
Giống như bị phủ bùn
Đông, Tây không phân biệt
Không biết được ngày đêm
Thế gian tối trùm khắp
Sông nước chảy ngược dòng.
Phật nằm bên Song lâm
Buồn cảm hoa rơi rụng
Sông ngòi nước đều nóng
Giống như nồi nước sôi
Song thọ vì đó héo
Nghiêng che thân Thế Tôn.
Vua rồng năm đầu lớn
Đau buồn thân buông dài
Hoặc buồn bã nhìn Phật
Khóc lóc mắt đều đỏ
Tức thời phun hơi nóng
Xông hơi độc không lường
Đốt nóng cổ họng ấy
Như nhả hoạn trong lòng
Thấy đời đều vô thường
Tự ngăn, trở ưu sầu
Tự ý vua theo đến
Niệm Phật ngăn khóc gào.
Các vua trời Tịnh cư
Hiểu đạo, tâm điều định
Lặng yên không khóc gào
Thương đời hoặc sinh diệt
Thần Chấp lạc bậc nhất
Thần Đại lực Long vương
Thiên thần Ái trọng pháp
Bi cảm chật hư không
Khắp nơi buồn che kín
Thảm thương chướng khắp cùng
Tiếng lớn của các loại
Đầy khắp cả thế gian.
Ma đã được toại nguyện
Cùng ác binh vui mừng
Vũ điệu như sấm động
Đủ loại tiếng lớn vang
Kêu to truyền lệnh rằng:
“Cường địch chúa ta vong
Từ nay ai có thể
Vượt qua cảnh giới này.”
Cây Phật đức gãy đổ
Như voi lớn gãy ngà
Như núi cao sụp đổ
Trâu lớn sừng rơi rồi.
Nay Phật xả thọ mạng
Các trời, người thế gian
Không còn chỗ quy ngưỡng
Mất cây nương như vậy.
Như hư không không nhật
Như nước mất kho tàng
Như ao hoa phủ sương
Các hoa đều tổn thương,
Thế Tôn xả thân mạng
Lặng ẩn vào Nê-hoàn
Tất cả loài hữu hình
Không khỏi mất tinh vinh.

Phẩm 30: THÂN VÔ VI

Khi ấy từ không trung
Cung báu trời chiếu sáng
Dùng xe ngàn voi chở
Lơ lửng ở trên trời
Lòng kính chăm nhìn Phật
Thân hình xả thọ nằm
Cảm động mà buồn than
Liền nói lời giã từ
Rằng: “Ở nơi sinh tử
Tất cả đều vô thường
Mới sinh ra hưng thịnh
Rồi suy tổn diệt vong
Quanh quẩn tìm vui sướng
Các nỗi khổ liền sinh
Đều diệt hết các khổ
Vui vô vi bậc nhất
Các thứ củi sinh tử
Đốt cháy không còn dư.
Lửa tuệ, khói danh đức
Cùng khắp trời, thế gian
Nước vô thường chợt đến
Diệt ánh sáng của Phật
Giống như lửa đồng mạnh
Chợt gặp trận mưa lớn.”
Lại có đấng Thiên tiên
Tâm mẫn thiện điều lương
Cư trú cung Tịnh cư
Thanh tịnh dứt các dục
Nhìn Phật rất ái kính
Gào khóc như mây mưa
Lòng nặng như Tu-di
Liền nói lời như vầy:
“Thế gian không hề có
Người sinh mà không tử
Xưa nay chưa từng có
Người sinh mãi còn hoài
Thượng, trung, hạ thông suốt
Nhất định ai cũng hay
Ngài còn không được khỏi
Thì ai được sống hoài.
Ngài dẫn đường cõi thế
Dứt tà, bày đường chân
Mắt tuệ là bậc nhất
Nhìn đời khắp dưới trên
Đời tuệ diệt như vậy
Sẽ lại trụ đường tà
Giống như mù không mắt
Lạc mất đường bằng phẳng”.
Đệ tử có mắt trời
Tên là A-na-luật
Lòng yêu ghét đã hết
Dứt sinh tử, trần lao
Thấy Phật đã diệt độ
Thế gian sẽ tối tăm
Các căn đều vắng lặng
Liền khen lời như vầy:
“Ở trong đại sinh tử
Tuệ nghĩa không được thông
Thế gian như hơi sương
Giây lát không còn hiện
Chày vô thường cứng chắc
Đập Tu-di báu Phật
Bỗng nhiên đổ nát hết
Nay rơi xuống mặt đất.
Thế gian sao khinh bạc
Không một chỗ đáng nương
Lao xao không vững chắc
Xao động hợp lại tan
Pháp khắp đời diệt vong
Không tôi ta, như mộng.
Phật Sư Tử hàng phục
Voi trần lao tự ngã
Chưa đuổi kịp dấu đạo
Sao không sợ việc ấy?
Xem đời không chỗ nương
Như chùm bọt sương mai.
Phật hiệu Thiên Nhân Sư
Trụ lớn bằng kim cang
Bỗng nhiên ngã xuống đất
Sức lực ở tại đâu?
Sáu giống sinh năm nhánh
Một mầm năm thứ quả
Đều tưới ba cây này
Ý nhọc bền khó chặt,
Voi sức mạnh của Phật
Bỗng hủy cây trần lao
Tan nát không còn nữa
Sau đó tự đổ nhào.”
Thiên Mục cầm kim cang
Vua trời mong trời mưa
Thiết lập ra chánh pháp
Dứt khổ ấy mát mẻ
Đức xưng càng rộng lớn
Trùm khắp cả thế gian:
“Thầy các bậc Thánh hiền
Vắng lặng mà diệt ẩn
Đức danh vang cùng khắp
Thấm nhuần pháp nhiệm mầu.
Giống như mưa mùa thu
Nước sông về tràn đầy
Thiên Sư thương cứu giúp
Tự ý vua về theo
Trao cho đạo vô vi
Ẩn thân như trời lặn
Nổi mây giáng mưa ấy
Thu đông mưa tuyết sương
Cháy hừng hực lửa mạnh
Sao còn bị diệt vong?
Như tế xong lửa tắt
Nay lửa thầy các trời
Diệt tan lặng không sáng
Thế gian còn tăm tối
Dứt hy vọng giải thoát
Trái bổn nguyện mất vui
Đức lành tốt lưu truyền
Vang khắp cả mười phương.
Mang bốn tâm Đại từ
Thương chúng như con đỏ
Ai cũng được lành ấy
Vì sao vắng lặng diệt?
Được đạo mầu không đắm
Sở sinh của các Phật
Các pháp lành vô ngại
Vắng lặng mà tự giác
Dùng thân túc nhẹ nâng
Biết thân là khổ nàn
Do vậy phải mau chóng
Xả thân an vô vi
Trừ hết tâm u tối,
Như ánh sáng mặt trời
Dứt bỏ tâm dâm cấu
Như mưa bụi đất trôi
Không còn gặp các khổ
Không bị phiền não bức.
Đã độ rộng vô biên
Biển sâu không đáy bờ
Xuất hiện ra nơi đời
Dứt các khổ độc hại
Xót thương cõi thế gian
Mong cầu được vắng lặng.
Các tướng đẹp rực rỡ
Lặng như vua Phạm thiên
Trí tuệ lớn đầy đủ
Làm Thầy của trời, người
Dùng lành chuyển chúng sinh
Dứt trần lao lìa ác,
Ngày đêm thêm các lành
Như mặt trăng mới mọc
Thường nuôi lớn các lành
Đức xưng rộng khắp nơi
Khi tại gia đã hiểu
Huống gì xuất gia rồi.
Thuở xa xưa đã thệ
Sẽ chiến đấu trần lao
Xót thương kẻ nghèo hèn
Thệ nguyện đã tràn đầy
Phật dùng tâm bình đẳng
Ăn không từ vị dở
Cũng không hề tham đắm
Đối với các vị ngon.
Tuệ thí khó xả bỏ
Người không thể xả bỏ
Không nhận lấy của người
Cũng không cầu lợi ích
Tướng tốt đại danh xưng
Tự nhiên như tiếng vang
Rộng chọn các ý lành
Quyết định đối đức lành
Nên hiện tướng mạo đẹp.
Người thấy dứt ba cấu
Nói ra thành pháp luật
Nuôi lớn lành chúng sinh
Dùng tướng sáng nhịn nhục
Kẻ oán là trần lao
Chứa công đức vô lượng
Cũng không khỏi vô thường.
Nhiều đời chứa công đức
Được báo không hạn lượng
Quyết định được chánh đạo
Như củi hết lửa tắt
Chỉ chúng sinh đường lành
Chặt hết rừng trần lao
Chế ngự được tất cả
Sự trói buộc sinh tử.
Bỏ tám thắng, năm đường.
Nhìn thấy rõ ba đường
Chặt ba xét rõ ba
Nhân được ba mắt tịnh,
Ẩn một biết rõ một
Đợi một đến bảy lớp
Tan hết không còn dư
Là thệ đối vô ngại
Đem cam lộ cho đời
Lời nói dứt giận dữ
Dùng lành thấm chúng sinh
Người khó ngộ ở đời.
Thường trồng các gốc lành
Không đem ác cho người
Dựng cao cờ Chánh pháp
Đối tất cả thế gian,
Vườn Nai chuyển pháp luân
Khắp thế gian vui mừng
Thành tựu các giải thoát
Dứt bỏ các tự ái.
Thấy điều chưa từng thấy
Khắp hợp với thanh tịnh
Biết những việc khó biết
Các pháp chưa từng biết,
Dạy đời là vô thường
Nơi sinh đến có khổ
Dạy đời là vô ngã
Không mê hoặc dài kia,
Dựng cờ phướn Chánh pháp
Xô ngã núi cống cao
Giống như cột bảy báu
Đổ ngã khi cúng tế.
Mặt hủy lòng không hận.
Không vui với lời khen
Chán sinh Thiên thọ phước
Phương tiện cầu bất sinh
Tự vượt biển sinh tử
Lại độ thoát tất cả
Tự dùng tuệ để giác
Lại giác ngộ chúng sinh.
Như mây nhuần khi giác
Như hoa lá núi rừng
Kiến giải như nhật xuất
Rồi trao cho chánh kiến
Tuy sinh ở thế gian
Nhưng không nhiễm việc đời
Từng trải đường hiểm đời
Nhưng không cùng chung đường.
Tâm không hề phạm lỗi
Được đạo lành còn diệt
Khắp đời gặp gian nan
Không chỗ nương, đáng thương
Ngu si che mắt họ
Không hề được đoái hoài,
Không nghĩ lập phương tiện
Cầu ra khỏi sinh tử
Khổ sinh, già, bệnh, chết
Ép bức đời không khỏi
Chỉ Phật cứu được khổ
Trao cho uống cam lộ.
Thuở xưa binh Thiên ma
Không thể thắng Thiên sư
Tự nhiên sức vô thường
Vô thường chợt thắng sư!
Tai Thế Tôn nghe được
Tiếng Tam thiên thế giới
Sức thần túc thăng giáng
Cho đến trời Phạm cư,
Biết tâm niệm chúng sinh
Cho đến ngục Vô trạch
Các sinh tử khởi diệt
Đều xét đế thấy rõ.
Thiên Sư từ mới sinh
Xoay vần khắp các nẻo
Nhớ rõ như mắt thấy
Tận cội nguồn tử sinh
Đầy đủ tuệ sáu thông
Có đủ giác quyết định
Nay đều vứt bỏ hết
Bỏ thân còn thọ hành.
Ái đời theo sinh tử
Ai nói pháp khiến dứt?
Người đời ngu không trí
Ai sẽ đem tuệ giác?
Như xe không người lái
Thuyền bè không kẻ chèo
Bệnh nặng rời thầy thuốc
Làm sao tự giữ gìn?
Như lời không thành tín
Không giác ý cầu trí
Vương giả mất nghi vệ
Làm lành không nhẫn nhục
Đã lìa bốn việc ấy
Công kia không hiển bày.
Nay Phật bỏ cõi thế
Không giúp việc khó thành
Như tháng năm, tháng sáu
Trời trong, không gió mây
Nắng quá thiêu rụi cỏ
Cho đến các côn trùng.
Những chúng sinh đáng độ
Nay sẽ đều gặp nạn
Thế Tôn xả thọ mạng
Sao mà đau khổ quá!”
Thời, các trời buồn bã
Thương xót nói lời này
Dâm, nộ, si giảm bớt
Khen thầy dứt sinh tử
Đệ tử chưa giải thoát
Thì bi thiết khóc gào.
Người đã được giải thoát
Nghĩ kỹ sự hưng suy
Tiếng tăm vang các nước
Các lực sĩ Câu-di
Buồn bã vội vàng đến
Nhóm trong rừng Song thọ
Bi thương tự gieo mình
Khen các công đức Phật
Tiếng than rất đau buồn
Như ngỗng gặp diều hâu.
Đến thấy Phật mất sáng
Vắng lặng không biết gì
Họ đồng thanh gào khóc
Oằn oại như cá cạn.
Thấy Phật nằm yên nghỉ
Chi thể đều duỗi ngay
Như vua Chuyển luân mất
Các nước đều than khóc
Nhân dân nhiều vô số
Ra thành đến chỗ Phật;
Đủ già trẻ, bé lớn
Tâm buồn đau cuồng loạn
Hoặc xé rách y phục
Đau đớn miệng cắn răng
Hoặc tự bứt đầu tóc
Cào cấu cả mặt mày.
Lại có vô số người
Áo não tự gieo mình
Đấm ngực mà kêu trời
Khen Phật đức vô lượng:
“Than ôi! Thầy trời người
Nơi chúng sinh nương tựa
Sao bỏ đi nhanh chóng?
Dứt hẳn không còn mong!”
Đại chúng buồn than khóc
Không còn sức chịu đựng
Vua của các lực sĩ
Đau đớn gào than rằng:
“Thầy giác ngộ thế pháp
Đã nằm không còn dậy
Giống như đại quân bãi
Cờ lớn không còn hiện
Việc phải làm đã làm
Nên giác Phật đã giác
Ở đời giống như mắt
Nay bỗng chợt nhắm mãi.
Phật là cầu độ khổ
Để giúp người qua sông
Cầu lớn bỗng bị gãy
Lấy gì qua khổ đau?
Ánh tuệ Phật chiếu sáng
Lòng tỏ, tinh tấn ngời.
Xưa mặt trời Phật hiện
Làm sáng khắp đất trời
Nay ánh sáng tiềm ẩn
Ở núi lớn vô vi
Thế gian rồi lại sẽ
Chìm vào mãi tối tăm.”
Hoặc buồn bã nói sảng
Hoặc sầu muộn nhìn chăm
Hoặc khóc đến tắt tiếng
Hoặc úp mặt dưới đất
Chúng sinh ôm nhiều não
Tướng gào khóc không đồng
Nhưng ai cũng luyến mộ
Đau đớn lòng nóng bỏng,
Rồi xe kiệu trang trí
Bằng bảy báu, ngà voi
Các lực sĩ nâng Phật
Đặt lên kiệu báu này.
Hương hoa đủ thứ quý
Biết bao thức diệu kỳ
Các lực sĩ kêu khóc
Cúng dường xá-lợi Phật.
Các thiếu nữ quý tộc
Thân đẹp, tay mảnh mai
Tay cầm màn bảy báu
Đẹp đẽ như lụa trời
Lọng báu xen châu sáng
Hoặc cầm báu rủ châu
Hoặc cầm quạt bằng báu
Cúng dường xá-lợi Phật.
Các lực sĩ nâng kiệu
Kêu khóc mắt đỏ hoe
Trên không tiếng sấm vang
Vui xứng tai vừa ý.
Trời tung các hoa ý
Liên tục như mưa sa
Hoa trời rơi xuống đất
Tươi như vừa nở ra.
Các trời chật hư không
Các báu cúng dường Phật
Nói những lời buồn khổ
Khen ngợi công đức Phật.
Các thần nữ Chấp nhạc
Vẩy nước thơm chiên-đàn
Tung y báu, Anh lạc
Cúng dường xá-lợi Phật.
Các lực sĩ nâng kiệu
Rước đến tận trong thành
Trời người cung kính lễ
Theo luyến mộ, khóc than.
Cờ phướn báu bằng lụa
Trang hoàng thành quách kia
Hương hoa và kỹ nhạc
Cúng dường xá-lợi Phật.
Cúng dường nâng kiệu báu
Theo cửa Tây ra thành
Đến Tây thành liền qua
Đáy nước dòng sông báu
Lên dưới cội Cam thọ
Dùng các thứ gỗ thơm
Chất thành giàn củi lớn
Và nhiều loại hương thơm
Hoa hương biết bao loại
Và các thứ trạch hương.
Mọi người đều cầm đuốc
Châm giàn hỏa thiêu Phật
Ba lần đốt giàn hỏa
Lửa không chịu bừng lên
Mọi người đều nghi hoặc
Không biết được nguyên nhân.
Đại Ca-diếp không xa
Nhớ thương đến thăm Phật
Do vậy mà lửa đốt
Cùng thổi không bùng lên.
Khi Ca-diếp vội đến
Kính lễ Đức Phật xong
Khi ấy giàn hỏa Phật
Liền tự nhiên cháy bừng,
Trần lao không tổn Phật
Nay bị lửa cháy thiêu
Cơ thể tuy cháy hết
Xương như cũ không tiêu.
Bấy giờ các lực sĩ
Đem sữa rưới tắt lửa
Dùng nước thơm rửa xương
Bình vàng đựng xá-lợi,
Như Thiên đế ngày trước
Muốn đốt núi Kim cang
Do ông công đức lớn
Nên lửa không thể đốt
Nay dù lửa thật dữ
Không thể đốt xương Phật.
Các lực sĩ xoay vần
Nói dụ này bảo nhau:
“Bốn tâm bình đẳng sinh
Dập tắt lửa dâm dục
Xương Phật mát mẻ lặng
Lòng chúng ta cháy tiêu.
Các trời, thần, lực sĩ
Không thể thắng thân Phật
Nay bỗng gặp vô thường
Chúng ta gánh vác làm
Sức Phật mạnh không sánh
Tiếng vang khắp mười phương
Tại sao phải hoảng hốt?”
Đầy ở trong bình vàng
Phật sáng như mặt trời
Chưa từng có cống cao
Gặp phải lửa vô thường
Chỉ để lại xương thần
Dùng chày tuệ Kim cang
Đập vỡ núi trần lao
Gặp khổ không xả nhẫn,
Tâm vững chắc không động
Nhổ hết các gốc khổ
Dứt, không còn thọ thân
Thân nhiệm mầu như vậy
Mãi mãi ở trong lửa.
Nơi lực sĩ thường đến
Lực phục khiến người khóc
Người nào đến quy phục
An ủi làm người vui
Giả sử gặp gian nan
Đủ sức không than khóc
Tự nghĩ công đức Phật
Kêu khóc nhận xá-lợi.
Có sức mạnh vũ dũng
Chí tự đại tinh ròng
Kêu khóc trở vào thành
Dứt cống cao, khiêm nhượng
Phướn lọng bày đại điện
Làm tòa cao bảy báu
Đặt xá-lợi lên đó
Mọi người lễ cúng dường.

Phẩm 31: TÁM VUA CHIA XÁ-LỢI

Các lực sĩ bi cảm
Ở tại trên điện vua
Cúng dường xá-lợi Phật
Như thế qua nhiều ngày
Bảy vua các nước gần
Mỗi vua sai sứ sang
Đều cùng đồng một lúc
Đến họp nhau dưới thành.
Họ thông báo lệnh vua
Cho các lực sĩ nghe
Họ giải bày cung kính
Xin được chia xá-lợi.
Các lực sĩ đáp rằng:
“Phật diệt độ nước tôi
Tự cúng dường xá-lợi
Không thể chia người khác.”
Bấy giờ sứ các nước
Nghe rồi đến phản đối.
Lực sĩ giữ xá-lợi
Lại ỷ sức mạnh mình
Nếu sứ không chịu về
Thì sẽ dùng uy lực
Trong tâm đều cống cao
Không chịu chia xá-lợi.
Các sứ về phục mạng
Các vua đều sinh tâm
Tức thời dấy binh chúng
Đến thành kia rất mau
Dùng vô số binh chúng
Bao vây thành Lực sĩ.
Quân tiến vào thành ấy
Như mưa dồn sóng dữ.
Nhân dân vào thành chống
Ai cũng đều sợ hãi
Dân chúng rất đông đúc
Thành không thể dung chứa.
Quân lính vua bảy nước
Tiếng voi rống, ngựa hí
Chấn động cả thành quách
Dân chiến đấu như sóng.
Bấy giờ quân bảy vua
Đều ở bộ phận mình
Tinh luyện rất mạnh mẽ
Chiến sĩ và ngựa voi…
Bấy giờ vua bảy nước
Ra sức bày trận đồ
Bốn thứ binh chiến đấu
Bộ binh, voi, ngựa, xe.
Lực sĩ cũng bố trận
Trên thành để chống cự
Sửa sang lại hào rãnh
Lấp kín các cửa thành
Liền bèn đều xây dựng
Cờ quân trận đại hành
Các thường dân trong nước
Ai cũng đều sợ hãi.

Bấy giờ vua bảy nước
Bàn nhau đồng một lòng
Cùng với vô số binh
Đủ khí giới bén nhọn
Giống như bảy ngôi sao
Đồng xuất hiện trong đêm,
Binh chúng của bảy vua
Cùng lúc đến dưới thành
Người đông bụi vàng dậy
Che kín cả mắt người
Mùi thối của voi chết
Nghẹt mũi không thở được,
Tiếng trống, còi vang dậy
Điếc tai không còn nghe,
Trẻ em và phụ nữ
Đều hoảng sợ, thất sắc.
Đối hỏa công, đối địch
Nước đồng, sắt đang sôi
Đội mũ trụ, mặc giáp...
Trang bị chờ chiến đấu
Voi ngựa đều mặc giáp
Đội chiến trận chỉnh tề
Lực sĩ thà mất mạng
Không chịu chia xá-lợi
Dù thành có bị diệt
Vẫn chiến đấu ngoan cường.
Các Lực sĩ một dạ
Quyết định đánh không lui
Đều đứng ở trên thành
Từ lầu chắn cách địch
Thấy các vua ngoài thành
Quân binh nhiều vô số
Thế quân có uy thế
Đồng thời reo hò vang,
Tiếng hò reo cùng lúc
Tiếng vang cả đất trời
Rút kiếm múa sáng ngời
Lấp lánh như mặt trời
Hoặc lao đi mạnh mẽ
Nhắm thành vội đến nơi
Quân ngoài thấy lực sĩ
Chuẩn bị tự sửa soạn
Quyết định muốn chiến đấu
Không có ý thoái lui
Họ đều cùng giã biệt
Vợ con để lên đường.
Vợ con các chiến sĩ
Đều sợ hãi trong lòng
Lại có các cha mẹ
Tâm rất yêu thương con
Thấy con mặc áo giáp
Sắp sửa ra chiến trường
Đều rơi lệ kêu khóc
Chú cây, thỉnh thần kỳ.
Con thấy cha mẹ buồn
Tâm đều sinh nghi ngờ.
Hoặc có các phụ nữ
Lặng lẽ lòng buồn bã
Hoặc giữ cung tên chồng
Khóc ngăn không cho đi
Thấy vợ con kêu khóc
Lòng quả cảm hăng say
Họ giật lấy cung tên
Quyết chiến đấu không nghi.
Các Lực sĩ tự cậy
Ý quyết muốn chiến đấu
Như chứa rắn trong bình
Lòng giận dữ lẫy lừng
Tâm ý đều quyết định
Hẳn muốn đánh không nghi.

Bảy vua cùng bày bố
Đối trận sẽ đương đầu
Đều sửa soạn chiến đấu
Dùng lính bốn thứ binh
Binh voi và binh ngựa
Xa binh cùng bộ binh.
Có Phạm chí quý tộc
Tên là Hương Thảo Tánh
Tuệ rộng lớn, nhân từ
Can ngăn các vua rằng:
“Xem uy thế các vua
Kiếm bén, lợi khí đầy
Muốn hàng phục địch mạnh
Diệt hết cả thành này.
Người trong thành tự giữ
Không dễ dàng thắng được
Các Lực sĩ trong thành
Đều cùng đồng một lòng
Như nay lại vây hãm
Ý hẳn muốn chiến thắng.
Cúi xin các đại vương
Thu về lại thiên uy.
Xét trong thành ấy có
Người làm lành điều lương
Các vua đều chung nhau
Tội gì chuốc thêm phiền
Dùng sức mạnh chiến đấu
Phần thắng không riêng ai.
Như khi bị vây hãm
Phương tiện thắng địch ngoài
Rắn độc tự cứu mạng
Vào hang sâu ẩn mình
Vô cớ thọc hang sâu
Chết hoặc bị nọc độc!
Tự biết có uy thế
Có thể làm chúng sợ
Nhóm họp vào thành trốn
Vững chắc tu giữ mình
Tuy vốn sức yếu kém
Vào thành sức thành mạnh
Như đèn lửa sắp tắt
Thêm củi dầu lại cháy.
Nếu trong thành kia có
Bậc thần chân giữ giới
Dùng giới đức lớn ấy
Địch ngoài tự tiêu tan.
Như xưa vua Trọng Oán
Dốc hết sức toàn quân
Vua Thanh Minh có đức
Thắng kẻ địch bên ngoài,
Các vua đời quá khứ
Dùng sức mở cõi bờ
Tình kia muốn buông thả
Tiếng tăm mình vang xa
Vua ăn lộc chợt mất
Như trâu uống nước băng.
Các vua đều đã qua
Vậy nên phải nghĩ kỹ
Lý chân chính thế gian
Lập phương tiện hòa đồng
Được xá-lợi là quý!
Dùng sức tên thắng địch
Sinh thù nghịch lại phiền
Dùng hòa thuận dễ thắng
Không bao giờ sinh phản.
Tuy nói là ngu dại
Thật không thể nhận nạp
Các vua tuy sức mạnh
Tiêu diệt được địch yếu
Nhưng đã kính trọng Phật
Phụng pháp là trên hết.

Nay nên nhớ nghĩ Phật
Thực hành hạnh nhẫn nhục.”
Bấy giờ Phạm chí kia
Đều thể nhận biết được
Lời hòa thuận chân chánh
Tâm Từ ngăn các vua
Các vua đều hồi tâm
Tâm mạnh mẽ sôi sục.
Bấy giờ các vua bèn
Thuận đáp Phạm chí rằng:
“Lời nói thật đúng lúc
Hòa thuận biết phương tiện
Nay đã nói lý lành
Đôn hậu và trước sau
Ông nên biết chúng tôi
Sức tâm ngộ pháp lành
Trong tâm có mong cầu
Không nhọc việc thế tục
Hoặc dùng nguyện, dùng sức
Hoặc dùng tức giận hờn
Đã tranh nay chiến đấu
Cả hai sẽ đối đầu.
Nay ý của chúng ta
Chỉ cầu công đức Phật
Cầm gậy tìm xá-lợi
Không tham tài bảo nước.
Xưa kia các liệt sĩ
Cống cao tự đại gây
Chiến tranh ở rừng tiên
Tử thương khó kể xiết,
Phật dạy khắp thế gian
Diệt trần lao tự đại
Thì sao chẳng vì Phật
Yêu mạng mỏng manh chi?
Xưa kia các tiên đế
Mê đắm sắc hiền nữ
Bị hiền nữ mê hoặc
Khởi binh chinh phạt nhau
Các vua chết vô số,
Phật dạy răn thế gian
Dứt bỏ ý tham dâm
Sao ta chẳng vì Phật
Yêu mạng mỏng manh chi?
Trước đây có huynh đệ
Ngu ganh khởi tranh giành
Trở lại chém giết nhau
Chết hết không còn ai,
Phật xuất hiện ở đời
Dứt trừ tâm ngu ganh
Thì sao không vì Phật
Mà tiếc mạng không tranh?
Xưa, lực sĩ Thủ Tý
Ôm hiềm, kết sân giận
Liền dùng đến võ lực
Muốn diệt các dòng vua,
Phật xuất hiện ở đời
Dứt bỏ hết nhuế hại
Chúng ta vì Đức Phật
Yêu mạng này làm chi?
Xưa kia, Hoa Thượng Tử
Hiệu là Thập Đầu Thần
Khư khư đắm sắc dục
Duyên tan mất thân mạng,
Phật xuất hiện thế gian
Mở tất cả kết buộc
Chúng ta vì Đức Phật
Tiếc mạng này làm gì?
Xưa kia những kẻ ngu
Ngu giành nước có trùng
Vì hắn ngu si quá
Muốn trùng giết hại nhau,
Phật xuất hiện ở đời
Dứt tất cả ngu si
Chúng ta vì Đức Phật
Ngu yêu thân làm gì?
Xưa nay ngu không đạt
Giành các vật hôi nhơ
Không một chút bền chắc
Hại nhau không tính kể,
Phật ra đời trừ loạn
Chúng ta vì Đức Phật
Sẽ đấu với Diêm-la
Đâu giống đời đánh nhau
Tâm chúng ta bền vững
Không vì nghi chiến đấu!
Xin phiền ngài vào thành
Đến chỗ các lực sĩ
Hết lòng tìm cách để
Đem ý ta trần tình
Việc này xin giao ngài.
Nếu nhất định chiến đấu
Chúng ta mài tên bén
Quyết tâm sẽ giao chiến.

Nghe ngài nói pháp lành
Lời nói thật chánh chân
Nơi tâm liền hư mất
Tâm ác độc giận sân
Như rắn độc bị chú
Độc hại diệt không còn.”
Lúc bấy giờ, Phạm chí
Vâng giáo lệnh các vua
Liền đi vào trong thành
Đến chỗ các lực sĩ
Xin gặp các lực sĩ
Quý trọng người có thế
Liền dùng ý khiêm nhường
Nói giáo lệnh các vua:
“Binh các vua ngoài thành
Đều sửa soạn khí giới
Đội mũ sắt, mặc giáp
Sáng rỡ như mặt trời
Phát tâm đồng lên tiếng
Phải dùng hết võ lực!
Ý mạnh như sư tử
Giương mắt hướng nhìn thành
San sát cùng phô trương
Cung, tên mạ vàng báu
Ý mạnh không mệt mỏi
Ngày đêm không cởi giáp
Tâm bỗng chợt nhớ về
Pháp từ minh của Phật
Nên dùng nghĩa nhường nhau
Chứ không sợ đánh nhau
Không vì tranh đất đai
Kéo đến dưới thành này!
Không tham lam tự đại
Đến không vì giận hờn
Vì kính công đức Phật
Mà đến thành này vậy.
Khách vì nghĩa lành đến
Người chủ nên kính đãi
Phật là thầy tất cả
Chúng ta đồng kính thờ,
Muốn cúng dường xá-lợi
Nên họ đến thành này
Cũng vì pháp huynh đệ
May được chia xá-lợi
Khiến chúng sinh khắp nơi
Thảy đều được cúng dường.
Người sẻn tiếc tài sản
Thì không lấy làm xấu
Người sẻn tiếc pháp lành
Đó mới đáng hổ thẹn,
Nếu yêu tiếc tài vật
Sẽ bị gọi nhơ xấu
Dứt sẻn tiếc làm lành
Được Thánh hiền khen ngợi.
Nếu nhất định các ngài
Không chịu chia xá-lợi
Thì nay nên rời thành
Để cùng khách đấu tranh
Ở trong thành đóng cửa
Không xuất chiến phân tranh
Thì đó không phải vua
Không quý, không dũng sĩ.

Ý các vua ngoài thành
Đều hướng về đây nói
Bọn họ có tâm tốt
Nghĩa tình hai bên bằng,
Lại có ý riêng tư
Muốn hướng về các vua
Mong các ngài lóng nghe
Xin nói pháp chân chánh
Xin các ngài chớ nên
Nhất định chiến đấu nhau
Xưa nay trong chiến đấu
Không lợi, không nghĩa nhân.
Phật, Thầy trời thường khen
Đức nhẫn nhục bậc nhất
Nay vì sao các ngài
Giận bừng bừng đòi chiến
Vì sáu dục gây chiến
Vì của báu tranh giành?
Nếu vì vậy mà tranh
Sự lý còn thông cảm
Vì lý do phước đức
Và pháp lành ngợi khen
Nếu cùng gây oán hờn
Thì nghĩa này phải xét!
Thường dùng tâm Từ bi
Tính điều hòa yên ổn
Đạo giáo Phật, Thầy trời
Lòng Từ hộ chúng sinh
Còn giết hại chúng sinh
Mà kính thờ Thế Tôn
Thì không có nghĩa lợi
Việc này không nên vậy.
Các ngài nên mở ý
Chia xá-lợi các vua
Pháp lành nên truyền bá
Nhân kia không làm trước
Nếu có thể làm được
Thì không có chiến tranh
Sẽ được hai nghĩa lành
Phước đức và tiếng tăm.
Kia có, chỉ mình thấy
Rời chánh, theo đường tà
Người lành tìm mọi cách
Phải dắt vào đường chánh
Các vua tìm nhiều cách
Muốn xây dựng pháp lành
Muốn dẫn dắt thế gian
Đến con đường người trời.
Thế Tôn thường khen ngợi:
Các thí, thí pháp hơn
Hễ đến là làm thầy
Chỗ khen của người trời.
Xem khắp các thế gian
Không ít người thí tài
Người đem pháp bố thí
Thì khi có, khi không
Pháp thí được khen rộng
Yên ổn khắp thế gian.”
Các chúng lực sĩ ấy
Nghe lời pháp lành này
Trong lòng thấy hổ thẹn
Lặng nhìn nhau đăm đăm
Rồi dùng lời ái kính
Nói với Phạm chí rằng:
“Ngài bày phương tiện khéo
Thân yêu kính mọi người
Vì Phạm chí không dối
Siêng xây dựng pháp lành
Hàng phục được chúng tôi
Vào đường người làm lành,
Như cỡi ngựa không điều
Không cho vào chiến trường
Bèn có thể theo ý
Như thầy đã mở bày
Rất thương, rất kính tin
Chúng ta đáng theo vậy
Chợt bỏ lời khéo can
Trung thứ, chính thực ấy
Việc bại gặp gian nan
Về sau hối không kịp.”
Tức thời lấy bình vàng
Đem chia xá-lợi Phật
Làm tám phần riêng biệt
Sao cho thật đều nhau.

Bấy giờ các lực sĩ
Lấy một phần trong đó
Trao bảy phần còn lại
Cho bảy vị quốc vương.
Khi ấy các lực sĩ
Đãi các vua như khách
Các vua được xá-lợi
Buồn vui trở về nước.
Lúc đó vua bảy nước
Mỗi vị ở nước mình
Cho quân xây tháp thần
Cao đến tận chân mây.
Phạm chí Thảo Hương Tánh
Muốn xây tháp chỗ mình
Liền xin các lực sĩ
Chiếc bình đựng xá-lợi.
Các Phạm chí trong nước
Xin tro than Thế Tôn
Cùng nhau gom nhóm lại
Cung kính xây tháp thần.
Các vua ban đầu xây
Tám tháp thần xá-lợi
Ở cõi Diêm-phù-đề
Đức vòi vọi như núi,
Phạm chí đã xây dựng
Tháp bình vàng thứ chín
Là tháp tro than Phật
Đủ mười thứ nguy nga.
Vô số các vị trời
Các vua, các Phạm chí
Đều ngày đêm siêng năng
Ca ngợi lễ tháp Phật
Hoa hương, phướn lọng báu
Bày biện cúng dường tháp
Trang hoàng tháp tốt đẹp.
Như hương xông sườn núi
Các làng, nước gần bên
Vô số người nhóm họp
Hoặc vui buồn kêu khóc
Lễ bái, kính tháp thần
Họ cùng theo luyến mộ
Nhớ thương công đức Phật.
Đau khổ buồn đắng cay
Mất hẳn sao khổ quá?
Ban điều lành cho đời
Chỗ chúng sinh tựa nương
Dẫn lối người lạc đường
Bệnh nặng thầy thuốc hay.
Nắng xuân cho người lạnh
Ao mát cho người nóng
Che chở cho ba cõi
Bỗng nhiên vắng lặng rồi!
Ba cõi mất che chở
Không chỗ nương, đáng thương!
Sẽ quên mất đường chánh
Theo tà gặp gian nan
Đời mất chánh nghiêng tà
Trôi dạt ba đường ác
Đời còn ai sức mạnh
Chế ngự được khiến về?
Các chúng sinh thế gian
Bị ngu si che mắt
Lửa tham dâm, giận tức
Bị kiến chấp thiêu đốt,
Mọi chúng sinh trên đời
Bị bệnh nặng trần lao
Thế Tôn tâm Từ khắp
Thầy thuốc hay ba cõi.
Mặt trời Phật sáng chói
Khi Ngài mới xuất hiện
Phát ánh sáng rực rỡ
Soi Tam thiên thế giới
Mở bày khắp cõi đời
Hoa sen của trời, người
Giống như hoa các ao
Nhờ ánh trời mà nở.
Các trời và người đời
Cùng các đại quốc vương
Buồn khóc than, luyến tiếc
Nhìn tháp khen Phật đức:
“Ôi! Bậc che chở đời
Thầy từ bi bậc nhất!
Chợt bỏ lại chúng sinh
Ra đi sao nhanh quá!
Ánh sáng mặt trời Phật
Bỗng nhiên sao vụt tắt
Sương ngu phủ kín đời
Sẽ từ đâu thấy rõ?
Ai thương dẫn chúng sinh
Bày con đường chánh đế
Để đến thành Nê-hoàn
Vắng lặng không lo sợ?”

Khi lực sĩ Mật Tích
Rộng vì các trời người
Lần lượt nói pháp này
Tuyên dương đức hạnh Phật
Các trời nghe lời nói
Bỗng khắp mình nổi ốc
Suy nghĩ lý đã nói
Nhớ nghĩ công đức Phật.
“Chứa nhóm gốc các lành
Vô hạn, không thể lượng
Khó mà tính số kiếp
Đã chứa nhóm hạnh lành,
Hành sáu độ vô cực
Như ao sâu, biển cả
Các báu đức tướng, tuệ
Sung mãn và đầy tràn.
Nay trong hiền kiếp này
Ngàn Bồ-tát ra đời
Giả sử các La-hán
Tuệ như Xá-lợi-phất
Trọn kiếp khen Phật đức
Cũng không thể nào hết
Huống ta trí nông cạn
Bày kiến văn hạn hẹp.
Thời, người trời trong hội
Nghe ngài nói pháp xong
Trong lòng chợt tỏ ngộ
Như tận mặt thấy Phật.
Mọi người đều cảm thương
Bùi ngùi luyến nhớ Phật
Chí nguyện theo Đại thừa
Dốc lòng tâm vững chắc
Cúi đầu quy mạng Phật
Rồi bỗng nhiên bay đi.


[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20][17*][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31]


[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]


[Mục lục tổng quát]