SỐ 192
PHẬT SỞ HÀNH TÁN[1]
Nguyên tác: Mã Minh[2] Bồ-tát. Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, người xứ Thiên trúc.
Phẩm 10: VUA BÌNH-SA ĐẾN VIẾNG THÁI TỬ
Phẩm 11: THÁI TỬ ĐÁP LỜI VUA BÌNH-SA
Phẩm 16: VUA BÌNH-SA VÀ CÁC ĐỆ TỬ
Phẩm 20: ĐỨC PHẬT NHẬN TINH XÁ KỲ HOÀN
PHẨM 21: THỬ TÀI, ĐIỀU PHỤC VOI SAY
Phẩm 22: NÀNG AM-MA-LA GẶP ĐỨC PHẬT
Rạng ngời dòng Cam Giá
Tối thắng họ Thích-ca
Đức và tài trọn vẹn
Tiếng lành Tịnh Phạn[3]
vương
Vạn dân vui chiêm ngưỡng
Tợ vầng sáng trăng rằm.
Vương như trời Đế Thích
Hậu như nàng Xá-chi[4]
Chí bền an như đất
Lòng tịnh khác nào sen
Ma-gia[5], tên Hoàng hậu
Thắng vượt mọi luận bàn.
Chốn thanh lương Thiên hậu
Ngài giáng thần nhập thai
Hoàng hậu lìa ưu tưởng
Chẳng gợn niệm lụy trần
Rời xa vòng thế sự
An tĩnh chốn thanh lâm
Lâm-tỳ-ni viên cảnh
Suối reo, đầy hoa trái
Cảnh tịnh vui thiền vị
Nàng thỉnh vương nhàn du.
Lòng vua tường chí nguyện
Thuận ý tưởng lạ thường
Truyền nội thân ngoại quyến
Cùng hội họp Lâm viên.
Bấy giờ hoàng hậu tỏ
Nhụy nở sắp khai hoa
An tường trên nệm ấm
Vạn thị nữ kính hầu.
Tháng tư ngày mồng tám[6]
Thiên tiết tròn hòa cơ
Hoàng mẫu trì tịnh giới
Khai hông hữu Bồ-tát
Xuất thai Độ Thế Sư
Chẳng khiến mẹ khổ sầu.
Ưu-lưu[7] sinh từ đùi
Tý-thâu[8] xuất từ tay.
Man-đà[9] hiện từ đầu
Già-xoa[10] khai từ nách
Cũng thế Đấng Thắng Uy
Đản sinh nơi hông hữu
Từ Thánh thai dần xuất
Hào quang chói thế gian
Như từ trời hóa hiện
Chẳng duyên với tục trần
Đức lành tu muôn kiếp
Chánh niệm xuất thai nhi
An định, không rung chuyển
Rạng ngời tướng đoan nghiêm
Từ thai vầng sáng hiện
Tợ ánh dương buổi hồng.
Thân chói lòa yến sáng
Nào hại đến nhãn căn
Cái nhìn không hoa đốm
Như ngắm trăng trên không
Từ thân bừng chói sáng
Như mặt trời che đèn.
Cũng thế thân kim tướng
Sáng soi khắp cõi trần
Trực tâm, lòng tỉnh giác
Nhẹ nhàng bảy bước chân
An lạc trong từng bước
Rõ ràng dấu Thánh nhân[11]
Bước hùng Sư tử chúa
Dõi mắt nhìn muôn phương
Thông đạt chân thật nghĩa
Tuyên bố giữa trần gian:
Đây là đời sau chót
Thị hiện chốn nhân gian
Tu hành thành Phật vị
Độ thoát khắp trần gian.
Đúng thời từ thiên xuất
Đôi dòng cùng tuôn chảy
Một ấm, mọt thanh lương
Thấm nhuần thân Bồ-tát.
Cung trời ngài an trú
Thân ngọa giữa ngọc sàng
Bốn góc giường vâng giữ
Tay vàng của Thiên vương
Khắp trời trùm bảo cái
Chư Thiên đồng tán dương
Khuyến đạt ngôi tối thượng
Long vương lòng vui sướng
Khát ngưỡng cam lộ dược
Từng hầu Phật quá khứ
Nay được gặp Bồ-tát
Tung hoa Mạn-đà-la[12]
Chí thành vui cúng dường.
Phật đản, trần hưng thạnh
Trời Tịnh cư hỷ hoan
Khô niềm vui ái dục
Vì pháp nên hân hoan
Chúng sinh trầm bể khổ
Do vậy được giải thoát
Như Tu-di núi báu
Giữ vững chốn quan san
Bồ-tát giáng trần lạc
Đức phong thổi khắp thế
Trời người đồng rung chuyển
Tợ sóng vỗ, trống vang.
Thơm ngát hương chiên-đàn
Rực rỡ đài sen báu
Theo gió tràn hư không
Nhẹ rơi đầy mặt đất
Thiên y từ không xuống
Vận y lạc muôn phần.
Thường nhiên vầng nhật nguyệt
Bỗng rực sáng muôn lần
Hỏa quang toàn thế giới
Không củi vụt bừng nhanh.
Giếng thanh lương dịu mát
Mạch nước tự tràn dâng
Thể nữ nơi cung cấm
Khâm khen chuyện lạ lùng
Vội nhuần thân trong nước
Đều khởi an lạc tưởng.
Thiên chúng nhiều vô lượng
Ưa pháp đồng vân tập
Chốn vườn Lâm u nhã
Khắp nơi bóng cây rừng
Diệu hoa khoe sắc thắm
Trái mùa cũng nảy nhanh.
Kẻ hung tàn trong chúng
Đồng khởi đại Từ tâm
Bệnh tật vòng nhân thế
Không trị, tự nhiên lành.
Loạn âm, giống cầm thú
Bỗng nhiên vụt vô thanh
Vạn sông đều ngưng chảy
Lắng đục, dòng chảy trong.
Bầu trời xanh quang đãng
Trống trời tự trổi thanh
Muôn loài toàn cõi thế
Đồng an lạc thân tâm.
Như quốc gia ly loạn
Bỗng gặp đấng minh quân
Nhân duyên Bồ-tát hiện
Độ khổ cho chúng sinh
Chỉ Thiên, Ma, Quỉ chúa
Phiền não, động tâm thần.
Vương phụ vui hớn hở
Nhưng thấy việc lạ lùng
Trong lòng dù an lạc
Vẫn biến sắc kinh tâm
Tư lự, suy hai mối
Hoan hỷ cùng hãi kinh.
Mẫu thân nhìn con trẻ
Khác thường khi hạ sinh
Yếu mềm, tánh nữ giới
Lo sợ, lòng giá băng
Kiết hung chưa được rõ
Lại sinh niềm sầu kinh.
Vương triều các lão mẫu
Hoảng hốt cầu Thần minh
Mọi người đều thiết lễ
Cầu Thái tử an bình.
Chốn rừng sâu lúc ấy
Có Phạm chí đa văn
Đủ oai nghi tề chỉnh
Luận bàn vốn nổi danh
Xem tướng mạo vui mừng
Thân tâm đều rung động
Biết lòng vua kinh hãi
Thật ngữ kính tâu dâng:
“Nhân loại trên trần thế
Chỉ mong con Thánh nhân
Nay vua như nguyệt mãn
Phải vui sướng vô cùng
Nay sinh con bậc Thánh
Ắt tông tộc hiển vinh.
Nên an vui tự niệm
Chớ lo nghĩ, nghi tâm
Điềm vui cho toàn quốc
Từ nay đặng hưng bình
Sinh Thánh tử thù thắng
Hẳn vì đời đô sinh.
Ta nghĩ Thân Thượng sĩ
Sắc vàng diệu quang minh
Tướng hảo vượt nhân thế
Sẽ thành bậc Giác nhân
Nếu trụ cõi thế lạc
Chuyển luân vương ắt thành
Cai quản toàn mặt đất
Dùng chánh pháp an dân
Bốn châu đều nhiếp phục
Lãnh đạo mọi quốc quân.
Như quang minh cõi thế
Ánh dương là đứng đầu
Nếu Ngài trú non sâu
Chuyên tâm cầu giải thoát
Thật trí nhất định thành
Chiếu soi toàn thế giới
Như đỉnh núi Tu-di
Lớn nhất vùng sơn thổ
Báu vật, vàng tối thắng
Biển rộng vượt mọi dòng
Trăng đứng đầu tinh tú
Sáng nhất vầng thái dương
Như Lai hiện trần thế
Tối kính giữa thế nhân
Mắt thanh tú lại tròn
Hàng mi dài gợn cong
Sắc xanh thoáng ẩn hiện
Tợ như vầng bán nguyệt
Tướng này nào khác lạ
Bình đẳng, mắt Thánh nhân”.
Vua truyền hỏi Phạm chí:
“Như ngài vừa tuyên nói
Thái tử tướng lạ thường
Do nhân duyên nào thế
Chẳng hiện đời cựu vương
Sao đời ta ứng hợp?”
Phạm chí tâu vua rõ:
“Lời ấy thật chẳng nên
Đa văn và trí tuệ
Cùng sự nghiệp, tiếng tăm
Cả bốn việc như thế
Không thể luận trước sau.
Linh tánh vật ở đời
Mỗi mỗi theo duyên khởi.
Nay, vì vua dụ dẫn
Nên lắng nghe tỏ tường
Tỳ-cầu, Ương-kỳ-la
Vốn Tiên nhân dòng tộc
Trải thế đã lâu xa
Mỗi người sinh Thánh tử
Tỳ-lê-ha-bát-đê
Hợp với Du-ca-la
Cùng tạo Đế vương luận
Chẳng vì duyên họ tộc.
Tiên nhân Tát-la-tát
Sinh thời không kinh luận
Mà sinh Bà-la-ta
Kinh luận đều thông suốt
Hiện tại sinh tri kiến
Nào phải nối truyền tông.
Phạm chí Tỳ-gia-sa
Tạo luận kinh vô số
Truyền hậu học Bạt-di
Kết tập thành văn kệ.
Ẩn sĩ A-đê-lỵ
Y phương luận, chẳng tường
A-đê-lỵ kế nghiệp
Y thuật trị trăm căn.
Câu-thi trọn một đời
Ngoại luận không thông sáng.
Tiếp vua Già-đề-na
Thông giải ngoại đạo pháp
Cam Giá dòng vương tổ
Biển tràn chẳng thể ngăn
Vua Bà-già tiếp nối
Sinh dưỡng ngàn vương tôn
Sóng biển đều chế ngự
Chẳng vượt tràn đất sâu.
Xà-na-câu Tiên nhân
Tĩnh lự chẳng nhờ thầy.
Bậc Tối tôn danh vị
Đều tự lực thành danh
Trước thắng, sau thất bại
Hoặc bại trước, thắng sau
Đế vương hay Thánh sĩ
Không nương tựa tổ tông
Do vậy tại thế gian
Không luận đời sau trước.
Đại vương nay được thế
Nên sinh hoan hỷ tâm
Niệm niệm vì hoan hỷ
Vĩnh viễn thoát nghi tâm”.
Nghe xong lời hiền sĩ
Thêm vui, vương hiến cúng:
“Thánh tử nay ta sinh
Sẽ nối ngôi Chuyển luân
Ta tuổi cao già lão
Quyết chẳng để con hiền
Xuất gia, tu phạm hạnh
Rời thế, trụ sơn lâm”.
Lúc ấy, gần lâm viên
Có nhà tu khổ hạnh
Tên gọi A-tư-đà
Tướng thuật thật tinh thông
Thẳng đến cửa cung vua
Vua ngỡ Phạm thiên hình
Khổ hạnh vui chánh pháp
Hai tướng đều hiện bày
Tướng đầy đủ phạm hạnh
Thoáng trông vua hoan hỷ
Liền thỉnh vào nội cung
Kính cẩn dâng hiến cúng.
Chốn nội cung vừa bước
Chỉ vui ngắm Thánh nhân
Thái tử ngự cung cấm
An tịnh giữa phàm nhân
Ngự pháp tòa tĩnh niệm
Tư-đà thêm tôn kính
Như vua An-đê-điệp
Tôn phụng Ba-thi-tra.
Tịnh Phạn vương thưa bạch:
“Trẫm nay thật phúc báo
Được hiền giả khổ công
Tìm đến đây giúp đỡ
Thái tử ứng điềm gì
Cúi mong trên chỉ giáo”.
Vua thành tâm khuyến thỉnh
Tiên Tư-đà hỷ tâm:
“Lành thay! Vua Thường Thắng
Đức hạnh đều kiêm ưu
Tìm cầu nguồn thọ lạc
Ưa trí tuệ, mộ pháp
Nhân trí thật thắng tông
Khiêm hạ khéo tùy thuận
Quả thật do hảo nhân
Nay quả lành tự hiện.
Đại vương nghe ta nói
Nhân duyên, ta đến đây
Trên đường ta du hóa
Bỗng nghe tiếng hư không
Bảo: “Vua sinh Thái tử
Chánh giác nhân sẽ thành”
Diện kiến thân nghiêm tướng
Ao ước ta lên đường
Chỉ mong nhìn Thái tử
Kiến lập chánh pháp tràng
Vừa nghe Tư-đà nói
Ly trần, vua ngại nghi
Truyền đưa Thái tử tới
Để Tiên nhân ngắm định.
Tư-đà ngắm Thái tử
Tướng luân xa dưới gót
Chân tay chỉ xoáy hoa
Giữa đôi mày mi trắng
Âm tàng tướng Phật gia
Rực rỡ dung nhan hiện
Xem xong lòng cảm khái
Lệ chảy buồn bả than.
Vua thấy Tiên sầu muộn
Tâm niệm chợt run run
Nỗi lo vì con trẻ
Nghi sợ lòng chẳng an
Từ tòa vua bật dậy
Cúi đầu trước Tiên nhân
Lễ xong vua thưa hỏi:
“Con trẻ sinh lạ thường
Dung mạo rất nghiêm chánh
Tợ như đấng Thiên vương
Bảo: Thái tử tối thượng
Vì sao lại khổ sầu?
Nếu là con thọ yểu
Trẫm hẳn sinh khổ sầu
Như khát được cam lộ
Cầm lòng chịu mất sao
Đâu như mất tài bảo
Đó là quốc bất an.
Thái tử nếu trường thọ
Kế nghiệp nước nhà yên
Trẫm băng hà hoan hi
An lạc sinh cõi khác.
Ví như đôi long nhãn
Một nhắm, một mắt mở
Chẳng thể như hoa thu
Có không như huyễn mông.
Tất cả dòng hoàng tộc
Yêu Thái tử trọn lòng
Nên mau mau bày tỏ
Cho ta vơi tưởng sầu”.
Tư-đà tiên hiểu rõ
Lòng vua đầy ưu tư
Cất lời hiền giả thưa:
“Đại vương chớ lo sợ
Việc trước tôi đã bày
Cẩn trọng đừng sinh nghi
Trước sau đều một lý
Chớ nên khởi ý lạ.
Tôi tuổi già xế bóng
Tủi phận mình lão suy
Nay gần khi khuất núi
Thái tử nay đản sinh
Hiện thế đời sau chót
Bậc ấy thật khó gặp
Sẽ xa lìa vương vị
Năm dục chẳng đoái suy
Tinh cần tu khổ hạnh
Giác ngộ, thông chân lý
Vì chúng sinh thế gian
Diệt trừ màn si ám
Đuốc sáng mãi trần đời
Trí tuệ như nhật nguyệt
Chúng sinh đang khổ bệnh
Như bọt nổi biển khơi
Già suy là cơn sóng
Chết tợ biển sóng cồn
Thuyền trí tuệ nhẹ lướt
Vớt người khỏi bến mê
Nương theo dòng nước tuệ
Tịnh giới là bờ đê
Thanh lương ao Tam-muội
Chánh định như chim bằng
Rộng, sâu thật vi diệu
Dòng chánh pháp tràn dâng
Quần sinh đang khát ái
Uống vào nhẹ hồi sinh.
Chìm ngập trong năm dục
Chúng sinh bị bức bách
Chốn sinh tử mênh mông
Đường về không thông tỏ
Bồ-tát hiện trần thế
Vì mở đường giải thoát
Thế gian tràn lửa dục
Ngát trời thêm cháy đỏ
Đại bi, mây trùm khắp
Mưa pháp tuôn tắt nhanh.
Cửa si mê nặng khép
Ải tham dục kín ngăn
Chúng sinh đời tù ngục
Giải thoát đang ngưỡng trông
Kẹp kim cang trí tuệ
Dùi phá vòng ái ân
Lưới vô minh tự trói
Lạc lõng nơi khổ cùng
Nay pháp vương xuất thế
Giải triền phược chúng sinh.
Cúi xin đừng lo sợ
Vì Thái tử sầu ưu
Nên xót thương quần chúng
Nghịch chánh pháp, theo dục.
Tôi già ắt sẽ chết
Phải lìa xa Thánh nhân
Dẫu tôi được thiền định
Nhưng chẳng được lợi phần
Cùng Bồ-tát thân gần
Trọn không nghe chánh pháp
Vóc hình khi tan hoại
Thác sinh Bát nạn Thiên”.
Vua cùng các hàng tộc
Nghe hiền sĩ tỏ thông
Biết mình tự lo lắng
Ưu sầu tan biến nhanh
Nghĩ: “Thái tử đản sinh
Lòng ta thật an ổn
Nhưng lìa thế xuất gia
Tu tập tìm đạo Thánh
Ngôi vương vị vắng không
Bởi thế vui chưa trọn”.
A-tu-đà hiền sĩ
Nhìn vua thành thật phân:
“Sẽ như thế, Thái tử
Xuất trần đắc đạo chân”.
Hiền sĩ nhẹ khuyên bảo
Vua và cả hoàng thân
Rồi vận sức thần biến
Lướt gió rời vương cung.
Bấy giờ vua Bạch Tịnh
Nhìn con tướng lạ thường
Lại nghe A-tư dạy
Quyết định, chẳng còn nghi
Đối với con kính trọng
Thường giữ như bảo châu
Kỳ đặc trên cõi thế
Liền thả mọi tội nhân
Pháp lễ cho Thái tử
Tùy tục vương giữ, bỏ
Theo luận kinh ban bố
Dân chúng đều thuận quy.
Sau mười ngày con sinh
Vua an tâm định trí
Lập đàn lễ Thiên thần
Rộng thí bậc Đạo nhân
Bà-la-môn, Sa-môn
Nguyện cầu con phước báo
Thân tộc lẫn quần thần
Và bần dân khắp nước
Thể nữ toàn phố thị
Ngựa, trâu, voi, tiền của
Mỗi người đều hưởng ân
Tất cả đều nhận thí.
Giờ lành thật an ổn
Rước Thái tử về cung
Gia đình dòng nội, ngoại
Kiệu trang nghiêm bảy báu
Lấp lánh muôn sắc màu
Chói chang thật sáng rực.
Hoàng mẫu nâng Thái tử
Nhiễu quanh lễ Thiên thần
Rồi nhẹ nhàng lên kiệu
Thể nữ cùng tùy hành
Quốc vương và thần dân
Đều theo sau kiệu báu
Thật như trời Đế Thích
Được Thiên chúng vây quanh
Như Ma-hê-thủ-la
Bỗng sinh con sáu mặt
Sắp đầy đủ trân lễ
Cầu phước nên hiến dâng
Nay Thái tử đản sinh
Cũng thế, vua thiết lễ.
Tỳ-sa-môn Thiên vương
Sinh Na-la-cưu-bà
Tất cả chúng Thiên giới
Đều khởi đại hoan hỷ
Thái tử nay giáng sinh
Nước Ca-tỳ náo nhiệt
Nhân dân từ khắp chốn
Cũng vậy đều hỷ hoan.
Hoàng tộc Bạch Tịnh vương
Do sinh đấng Thánh tử
Trong thân tộc hiếu hòa
Quần thần đều trung nghĩa
Ngựa, xe báu, voi, kiệu
Vương khố chứa tài bảo
Mỗi ngày đều tăng nhanh
Sinh trưởng đầy theo ý.
Bảo tạng nơi lòng đất
Tự lộ nơi địa hình
Từ Tuyết sơn thanh tịnh
Cuồng bạo, bầy voi trắng
Không gọi tự về thành
Không điều tự điều phục.
Loài ngựa lông tạp sắc
Tướng nghiêm trang hùng dũng
Đuôi dài bờm đỏ rực
Nước kiệu tợ tên bắn
Vốn sinh vùng hoang dã
Bỗng dưng tụ hoàng thành.
Bò quý lông thuần sắc
Mập đầy vóc uy nghi
Sữa thơm, đi vững chải
Vân tập chốn hoàng cung.
Kẻ hờn giận bình tâm
Người thường càng nhân hậu
Bậc thuần phác càng thân
Nghịch loạn thảy tiêu trừ.
Gió mưa điều hòa nhẹ
Vắng bặt dòng sấm chớp
Giống gieo chẳng đến mùa
Thu hoạch bội thường canh
Tươi thơm loại ngũ cốc
Mềm dẻo dễ tiêu nhanh
Sản phụ chờ sinh hạ
Thân thể bỗng an hòa.
Ngoài các bậc Tứ thánh
Mọi người tại thế gian
Tư tài riêng tự có
Chẳng tham của tha nhân
Không kiêu mạn, ganh ghét
Không keo kiệt, hận sân
Nam thanh cùng nữ tú
Đồng sống đời tịnh thanh.
Tinh xá, nơi thiên miếu
Vườn, ao, giếng, suối, rừng
Bỗng như thành Thiên cảnh
Đúng thời tự nhiên sinh.
Đói khổ liền vắng bóng
Dịch bệnh, chiến tranh ngừng.
Thần dân thành La-vệ
Thân tộc đều tướng kính
Thọ lạc đều theo pháp
Không vướng dục nhiễm trần
Lấy nghĩa cầu tài vật
Không vì tham lợi dưỡng
Theo pháp nên bố thí
Chẳng niệm cầu báo ân
Nương Tứ phạm[13] tu trì
Tiêu trừ tâm sân hận.
Quá khứ vua Ma-nu
Sinh Nhật quang Thái tử
Toàn quốc hiện điềm lành
Điều ác đều vắng bóng
Phạn vương sinh Thái tử
Đức ấy cũng tương đồng
Do nghĩa ban đức lớn
Tất-đạt-đa gọi tên
Ma-da hoàng mẫu lạc
Ngắm mãi đấng hoàng nhi
Đoan nghiêm như Thiên đồng
Bao vẻ đẹp gồm thâu
Với nỗi vui tột cùng
Thác sinh miền Thiên giới.
Đại Ái Đạo di mẫu
Thấy Thái tử đẹp xinh
Đức cả, diện tuyệt trần
Xuất thế mẹ lìa đời
Thương lo như con ruột
Như mẹ hiền, Ngài kính.
Như vầng sáng nhật nguyệt
Đều chiếu tỏa muôn phương
Cũng thế, Ngài càng lớn
Dung đức vẫn như vậy
Hương chiên-đàn vô giá
Báu vật cõi Ta-bà
Diệu dược miền Tiên giới
Ngọc anh lạc điểm thân.
Chư hầu nước lân cận
Biết Thái tử xuất trần
Đồng hiến dâng bảo vật
Bò, dê, nai, xe, ngựa
Đầy bảo khí trang nghiêm
Làm vui lòng Thái tử.
Tuy trú cảnh cực mỹ
Giữa vật báu đùa chơi
Tánh Ngài vẫn an nhiên
Thân nhỏ nhưng tâm tịnh
Lòng định cảnh cao minh
Chẳng gợn niệm vinh hoa
Tu học văn võ thuật
Trí tài vượt hơn thầy.
Biết Thái tử thông tuệ
Vua lo Ngài rời thế
Tìm khắp chốn hoàng tộc
Dòng lễ giáo nết na
Thấy Da-du-đà-la
Tư dung thật thuần bạch
Xứng ngôi vị vương phi
Buộc ràng lòng Thái tử.
Nhưng chí Ngài cao khiết
Đức thịnh, diện đoan chính
Dường Trưởng tử Phạm thiên
Xá-na Cưu-ma-la.
Hiền phi thân hương sắc
Yểu điệu dáng thướt tha
Yêu kiều như thiên hậu
Vui vầy duyên hảo hợp.
Vua truyền dựng thanh cung
Trang nghiêm thật tráng lệ
Cao vút vượt tầng không
Rời xa cảnh trần thế.
Bốn thời cung đều mát
Tùy mùa chọn cảnh cư
Quay quần đoàn mỹ nữ
Thanh âm trổi nhạc thiều
Ngài chẳng màng thanh sắc
Càng sinh niệm chán buồn
Như trời Càn-thát-bà
Nơi cung báu tự nhiên
Nữ nhạc tấu Thiên âm
Bồ-tát nơi biệt điện
Lòng không màng thanh sắc
Tâm tịnh giữa nhạc âm.
Vương phụ vì Thái tử
Tịnh tu hạnh phước sự
Nhân từ, mộ chánh pháp
Gần hiền, xa ác hữu
Ái ân chẳng nhiễm lòng
Khi dục tâm khởi phát
Giữ niệm, phòng hộ căn
Tịnh trừ ý loạn động,
Diệu hiền, tâm liêm chánh
Đức từ khuyến dân tâm
Cải hóa ngoại đạo giáo
Phá nghịch thuật mê lòng
Mở giáo dục khắp nước
Vạn dân lạc muôn phần
Thái tử được yên ổn
Cũng thế toàn dân an.
Cúng kính lửa, thờ thần
Vòng tay đón nguyệt quang
Sông Hằng thân trầm tẩy
Nước thiêng tịnh hóa lòng.
Vua chẳng riêng cầu phước
Chỉ cho con và dân.
Lời thương đầy nhân nghĩa
Dạy nghĩa nặng thi ân
Lời thương vốn chân thật
Trách phạt vì thương dân.
Do giữ niệm tàm quý
Nên không nói thật lòng
Yêu thương nhưng vô nhiễm
Nào khởi tưởng tham sân
Trầm mặc là chí hướng
Bình ổn mọi tranh phân,
Không sát tế cúng thần
Có con nương cầu phước
Thấy bần dân nỗi trôi
Rộng thí hơn kỳ vọng,
Chiến họa không trông ngóng
Đem đức báo oán thù
Điều hòa giúp tất cả
Lần lượt đều cứu tế
Được ba hiểu rõ ba
Biết hai rồi bỏ cả
Ham cầu chỉ vướng tội
Đáng chết đều thứ tha.
Miệng không xuất ác ngôn
Nhẹ khuyên lời dạy bảo
Chuyên tâm thí tài sản
Tạo phương cách sinh nhai.
Vua theo đạo cầu học
Trừ diệt lòng sân si
Tiếng thơm lừng cõi thế
Lụy đời đều sạch không
Chúa hiền tu đức sáng
Toàn sĩ, quân hạnh đồng
Lòng dân đều an tịnh
Như bốn chi theo căn.
Lúc ấy Tất-đạt-đa
Cùng vợ hiền Da-đà
Tháng năm duyên son sắc
Sinh hạ La-hầu-la
Vua Bạch Tịnh tự nghĩ:
Hoàng tử có con ngoan
Sẽ tiếp ngôi vương vị
Kế truyền cho hậu thế
Thái tử sinh hài nhi
Hẳn yêu con như trẫm
Chẳng còn tâm rời thế
Chỉ duy tu thiện niệm.
Lòng ta thật an hòa
Khác nào hưởng Thiên lạc.
Cũng giống thuở kiếp sơ
Tổ phụ trụ đạo mầu
Ưa làm việc thanh tịnh
Không sát tế cúng thần
Tinh cần tu thiện nghiệp
Vua đạt hạnh thù thắng
Tộc vĩnh, bảo khố tăng
Tài nghệ vượt trần thế
Rạng ngời chiếu nhân quần
Như vầng hồng sáng tỏ.
Vua tịnh tu Phạm hạnh
Chỉ để con hiển vinh
Con sáng, tổ tông sáng
Tông rạng, danh tiếng lừng
Hạnh cao sinh Thiên giới
Cảnh trời lạc muôn phần
Hưởng vui tăng trí tuệ
Ngộ đạo, hoằng đạo chân
Trước thành bậc đa văn
Tu tập theo diệu đạo
Ngưỡng cầu cho Thái tử
Yêu con chẳng ly trần.
Bậc quốc chúa xưa nay
Con thiếu thời sinh hại
Nối nghiệp chẳng bận lòng
Vẫn vui việc du hí
Cuồng phóng theo thế nhân
Khỏi lo người kế vị.
Thái tử nay ta sinh
Năm dục tùy tâm hưởng
Mong rằng ưa vương vị
Không khởi niệm rời cung.
Vương tổ Bồ-tát hạnh
Giữ vững niệm đạo tâm
Còn ngự trên ngôi báu
Để sinh con nối dòng
Sau vào miền sơn dã
Tịnh tu đạo tịch không.
Khu lâm viên ngoại thành
Suối reo, ao dịu mát
Hoa trái nở trĩu cành
Thướt tha tàng rủ bóng
Chim lạ cất thanh âm
Khoảng không từng đàn lượn
Kỳ hoa toàn viên cảnh
Muôn sắc, hương thơm lừng
Thị nữ hầu Thái tử
Thánh thót giọng nhạc âm
Ngài nghe lòng lạc thú
“Thật đẹp chốn viên lâm”
Ngập tâm niềm hỷ lạc
Xuất du, lòng quyết chí
Như tượng vương cầm cố
Thường ưa chốn sơn lâm.
Vua nghe ý Thái tử
Quyết ra thành ngoạn du
Lập tức truyền văn võ
Cung thiết lễ nghiêm trang
Vương lộ thật thanh nhã
Dẹp trừ mọi uế kinh
Người bệnh, già nghèo đói
Kẻ gầy suy, khổ hình
Không được để Thái tử
Thấy sinh tâm chán trần.
Trang hoàng đã viên mãn
Tâu bạch, bá quan trình
Vua thấy con trẻ đến
Xoa đầu, ngắm diện dung
Vui, buồn dạ trăm mối
Thuận hứa, lòng chẳng ưng.
Đầy xe phủ vật báu
Bốn ngựa nhẹ đều chân
Chọn phu xa hiền khéo
Trẻ người, đẹp tư dung
Sáng láng, y tề chỉnh
Khiển cương mã, đi cùng.
Hoa tung ngập phố thị
Bên đường đầy báu vật
Đôi bờ cây thẳng tắp
Treo bảo khí trang nghiêm
Tràng phan cùng bảo cái
Theo gió thổi tung bay.
Người xem đông lũ lượt
Nghiêng thân, nhìn ngắm mãi
Ngưng thần chẳng khép mi
Thật như sen diệu kỳ
Thần dân theo lũ lượt
Tợ sao hầu tinh chủ
Đều cất lời tán dương
Vui mừng việc khó có.
Nghèo khổ hay giàu sang
Trung tuần hoặc già, trẻ
Đều kính lễ cúi đầu
Cầu mong ban ân phước.
Khắp nơi vùng thôn, thị
Biết Ngài sắp quang lâm
Mọi người không mời gọi
Kẻ ngủ chẳng cần báo
Cầm súc nào kịp thâu
Của tiền chưa vội tính
Cửa không cài, then mở
Ven đường bỗng hội vân.
Trên lầu gác, cây xanh
Bờ đê, ngõ quanh tắt
Người chen chúc tranh xen
Ngắm mãi mê không nhàm
Từ trên cao muốn xuống
Trên đất lại mong gần
Tự nhiên lòng chuyên nhất
Thân tâm như vút cao
Mãi ngắm trong cung kính
Không khởi niệm buông lung.
Toàn thân Ngài rạng tỏ
Sắc như đóa sen hồng
Nay rời khu viên lâm
Nguyện thành ngôi Chánh Giác.
Thái tử nhìn đường phố
Chúng dân nghiêm bước theo
Phục trang thuần sáng đẹp
Lòng sướng vui lạ thường.
Thần dân ngắm Thái tử
Uy vũ vượt phàm nhân
Cũng như các vị trời
Gặp Thiên vương Thái tử.
Bỗng nhiên trời Tịnh cư
Hóa hiện đứng bên đường
Biến thân thành già nua
Khuyến phát tâm ly trần.
Thấy người già, Thái tử
Kinh sợ hỏi ngự nhân:
“Người ấy làm sao thế
Tóc bạc, lưng lại cong
Mắt mờ, vóc run rẩy
Chống gậy lê bước chân
Phải chăng hình thay đổi
Hay bởi vốn tự thân”.
Xa phu lòng do dự
Không dám thật phân trần
Tịnh cư hiển thần lực
Khiến ngự xa thật phân:
“Sắc biến đổi, khí suy
Thật buồn, vui hiếm lắm
Lầm vui khi căn hoại
Tướng lão suy hiện hình.
Xưa người vốn hài nhi
Nhờ sữa mẹ dần lớn
Cùng trẻ thơ đùa giỡn
Thanh tráng theo năm dục
Tháng ngày trôi thân đổi
Nay vóc thể già suy”
Thở dài lo, Thái tử
Gặn hỏi người đánh xe:
“Chỉ người ấy già cả
Hay chúng ta cũng suy?”
Ngự phu thật lòng đáp:
“Ngài rồi cũng lão suy
Thời chuyển, hình tự biến
Già đến không cần nghi
Thanh tráng phải già lão
Người người biết, cầu chi!”
Lâu xa, Bồ-tát tu
Đạt trí nghiệp thanh tịnh
Đức hạnh đã viên mãn
Hoa nguyện nay kết quả
Nghe nói khổ suy già
Sợ hãi thân nổi ốc.
Tiếng sấm chớp nổ vang
Các thú sợ bỏ chạy
Bồ-tát cũng như thế
Lo sợ mà thở dài
Tâm chỉ nghĩ khổ già
Cúi đầu nhìn chăm chú
Nghĩ khổ suy già này
Người đời nào yêu thích
Tướng già làm hư hoại
Tùy loại không thể chọn
Tuy có nhiều sức mạnh
Nhưng thảy đều biến đổi
Hiện giờ được chứng tướng
Không nhàm chán sao được!
Bồ-tát bảo người hầu:
“Mau quay xe trở về
Niệm niệm suy già đến
Vườn rừng nào đáng vui
Mạng sống như gió thoảng”.
Quay xe về hoàng cung
Tâm nhớ cảnh chiều tàn
Như về chốn gò mả
Gặp việc không nhớ nghĩ
Nơi ở không tạm yên.
Vua nghe con không vui
Khuyên du ngoạn lần hai
Liền ra lệnh các quan
Trang nghiêm hơn lần trước
Trời lại hóa người bệnh
Nằm ở bên vệ đường
Thân gầy, bụng lại to
Thở từng hơi hổn hển
Tay chân gầy co quắp
Buồn khóc, cất tiếng rên.
Thái tử hỏi người hầu:
“Người này bị gì vậy?”
Thưa: “Người này bị bệnh
Bốn đại đều rối loạn
Yếu đuối không dậy nổi
Xoay trở phải nhờ người”.
Thái tử nghe nói vậy
Liền sinh tâm thương xót
Hỏi chỉ người này bệnh
Hay ai rồi cũng thế
Đáp rằng cả thế gian
Mọi người đều như thế
Có thân thì có bệnh
Người ngu thích hoan lạc.
Thái tử nghe nói vậy
Liền sinh tâm sợ hãi
Thân tâm đều rúng động
Thí như trăng gợn sóng
Ở đây rất khổ não
Làm sao tự an được
Than ôi! Người thế gian
Bị ngu si ngăn che
Giặc bệnh đến không hẹn
Lại sinh tâm vui thích.
Rồi liền quay xe về
Lo buồn nghĩ khổ bệnh
Như người bị đòn đau
Nằm co chờ gậy đánh
Ngồi nghỉ chốn vắng vẻ
Chỉ cầu vui xuất thế.
Vua lại nghe con về
Hỏi du ngoạn thế nào
Đáp rằng thấy người bệnh
Vua sợ hết cả hồn
Quở trách người dọn đường
Lòng lo, không nói được
Lại cho các kỹ nữ
Đàn ca vui hơn trước
Để Thái tử xem nghe
Ưa tục, chẳng chán nhàm,
Thêm tiếng hay, sắc đẹp
Thái tử vẫn không vui.
Vua tự thân du ngoạn
Cho lập vườn đẹp hơn
Tuyển lựa các thể nữ
Nhan sắc rất xinh đẹp
Lại ra sức hầu hạ
Sắc đẹp say mê người.
Sửa sang lại đường đi
Dẹp bỏ vật bất tịnh
Lệnh cho người đánh xe
Chọn xét đường sẽ đi.
Bấy giờ trời Tịnh cư
Lại hóa thành người chết
Bốn người cùng khiêng cáng
Hiện trước mặt Bồ-tát
Người khác đều không thấy
Ngoài Ngài, người đánh xe.
Ngài hỏi đây xe gì
Mà phướn hoa trang nghiêm
Người theo đều buồn bã
Tóc xõa đi theo khóc.
Trời bảo người đánh xe
Trả lời là người chết
Các căn hoại, mạng dứt
Tâm đã lìa hẳn thân
Hồn đi, hình tan rã
Giống như khúc củi khô
Bà con các bạn bè
Ân ái vẫn ràng buộc
Nhưng nay không muốn thấy
Đem bỏ ngoài gò mả.
Thái tử nghe nói chết
Tâm cảm thấy đau buồn
Hỏi: Chỉ người này chết
Hay mọi người đều thế.
Đáp: mọi người đều thế
Có sinh thì có chết
Còn bé hay lớn khôn
Có thân đều tan hoại.
Tâm Thái tử kinh hãi
Thân rũ xuống trước xe
Hơi thở sắp dứt, than:
Người đời có gì vui
Thân rốt cuộc cũng chết
Nhưng vẫn còn buông lung
Tâm chẳng phải gỗ đá
Không hề nghĩ vô thường.
Liền bảo quay xe về
Không phải lúc vui chơi
Thân mạng chết không hẹn
Vì sao lại buông lung?
Đánh xe vâng lệnh vua
Sợ không dám quay lại
Liền dong xe đi thẳng
Đến một khu vườn kia
Rừng suối chảy thanh tịnh
Cây tốt hoa nở tươi
Chim chóc và các thú
Bay lượn ca hót vang
Rực rỡ vui tươi mắt
Như vườn trời Nan-đà.
Thái tử vào vườn ấy
Các cô gái ra đón
Đều nghĩ rằng ít gặp
Tranh nhau dâng lòng thành
Đều phô trương vẻ đẹp
Hầu mọi thứ cần dùng.
Có nàng xoa tay chân
Có nàng xoa khắp thân
Lại có nàng cười nói
Có nàng lộ vẻ buồn
Đều làm vui Thái tử
Khiến sinh tâm ưa thích.
Các nàng thấy Thái tử
Sắc vui như vị trời
Không cần các trang sức
Thân thể vẫn trang nghiêm
Tất cả đều chiêm ngưỡng
Rằng vua mặt trăng đến
Bày mọi thứ vui chơi
Không động tâm Bồ-tát
Các cô nhìn ngó nhau
Xấu hổ, chẳng nói được.
Có con Bà-la-môn
Tên là Ưu-đà-di
Nói với các thể nữ:
“Các cô đều xinh đẹp
Thông minh nhiều tài năng
Nhan sắc chẳng tầm thường
Hiểu biết việc thế gian
Che giấu cách theo dục
Nhan sắc đời ít có
Dáng vẻ như con vua
Trời thấy còn bỏ vợ
Thần tiên còn nghiêng nhìn
Sao đối với Thái tử
Không chiếm được cảm tình.
Nay vị Thái tử này
Tuy giữ tâm bền chắc
Đức thanh tịnh đầy đủ
Nhưng không thắng người nữ.
Thuở xưa, Tôn-đà-lợi
Mê hoặc được Đại tiên
Làm mê mẫn ái dục
Dùng chân đạp trên đầu.
Cù-đàm tu khổ hạnh
Cũng bị Thiên hậu phá.
Vị tiên tên Thắng Cừ
Mê dục trôi theo dòng.
Vị tiên Tỳ-thi-bà
Tu đạo mười ngàn năm
Mê đắm nàng Thiên hậu
Một hôm chợt tiêu đời.
Các cô gái đẹp ấy
Thắng được các phạm hạnh
Huống tài năng các cô
Không cảm được Thái tử.
Phải cố gắng tìm cách
Đừng để vua tuyệt tự
Tánh nữ tuy yếu hèn
Tôn vinh sẽ thắng trời
Sao không dùng hết sức
Làm Thái tử đắm nhiễm”
Bấy giờ các thể nữ
Mừng nghe Ưu-đà nói
Tâm càng thêm hớn hở
Như roi quất ngựa hay
Liền đến trước Thái tử
Mỗi cô dùng mọi cách
Ca múa hoặc nói cười
Nhướng mày, lộ răng trắng
Mắt đẹp liếc đưa duyên
Áo mỏng lộ thân trắng
Bước đi thật yểu điệu
Dối thân dần đến gần
Dục tình nhén trong tâm
Lại vâng lời nhà vua
Dáng đẹp nào ngại che
Quên mất tâm hổ thẹn
Tâm Thái tử vững chắc
Thản nhiên không biến sắc
Giống như thớt voi mạnh
Các voi vây xung quanh
Không thể làm loạn tâm
Giữa bầy như chỗ vắng.
Giống như trời Đế Thích
Các Thiên nữ vây quanh
Thái tử ở trong vườn
Vây quanh cũng như thế.
Có nàng sửa y phục
Có nàng rửa tay chân
Có nàng hương xoa thân
Có nàng trang điểm hoa
Có nàng xỏ anh lạc
Có nàng dìu đỡ thân
Hoặc sửa soạn chỗ nghỉ
Hoặc nghiêng mình nói thầm
Hoặc là kể chuyện vui
Hoặc nói các việc dục
Hoặc làm các tướng dục
Cốt để động tâm Ngài.
Tâm Bồ-tát thanh tịnh
Vững chắc khó lay chuyển
Nghe các thể nữ nói
Không buồn cũng không vui
Càng sinh tâm chán ngán
Cho đây là việc lạ
Mới biết các cô gái
Tâm dục lừng lẫy thế
Không biết sắc trẻ đẹp
Chẳng lâu sẽ già chết
Than ôi! Lầm lớn này
Ngu si che phủ tâm
Nên nghĩ già bệnh chết
Ngày đêm cần cố gắng
Dao nhọn đến bên cổ
Làm sao vẫn vui cười?
Thấy người già bệnh chết
Không biết tự quan sát
Nên người bằng gỗ, bùn
Đâu có tâm suy nghĩ
Như đôi cây giữa đồng
Hoa lá đều sum suê
Một cây bị đốn chặt
Cây kia không biết sợ
Các cô gái ở đây
Vô tâm cũng như thế.
Bấy giờ, Ưu-đà-di
Đi đến chỗ Thái tử
Thấy Ngài ngồi thiền tư
Tâm không nghĩ năm dục
Liền thưa Thái tử rằng:
Nhà vua trước ban lệnh
Tôi làm bạn với Ngài
Giờ nên kính vâng lời.
Bạn lành có ba loại
Người dứt việc không lợi
Người làm việc có lợi
Gặp nạn không bỏ nhau.
Ta đã là bạn lành
Mà bỏ nghĩa trượng phu
Lời không hết ý mình
Đâu gọi là ba ích.
Cho nên nói lời thật
Nói lên tâm thành mình
Khi tuổi còn trẻ trung
Nhan sắc còn đầy đặn
Không coi trọng người nữ
Vì thân họ không bền
Dù cho không thật tâm
Phải phương tiện mà nhận
Nên sinh tâm mềm mỏng
Tùy thuận lấy lòng họ.
Ái dục thêm kiêu mạn
Không ai hơn người nữ
Dù nay tâm tuy trái
Pháp nên theo phương tiện
Thuận tâm họ làm vui
Thuận là vật trang nghiêm
Nếu người tùy thuận theo
Như cây không hoa trái.
Vì sao phải thuận theo?
Vì tiếp nhận việc ấy.
Đã được cảnh khó được
Chớ sinh tâm xem thường
Ái dục là bậc nhất
Trời còn không quên được
Đế Thích còn tư thông
Với vợ tiên Cù-đàm.
Vị tiên A-già-đà
Ngày đêm tu khổ hạnh
Vì để cầu Thiên hậu
Nhưng không được toại nguyện.
Vị tiên Bà-la-đọa
Và vị trời mặt trăng
Vị tiên Bà-la-xá
Và Ca-tân-đà-la
Rất nhiều vị như thế
Đều bị sắc đẹp hại
Huống nay cảnh giới mình
Mà không thể vui sướng.
Đời trước gieo cội đức
Được bao thứ đẹp xinh
Thế gian đều say đắm
Nhưng tâm không coi trọng”.
Lúc bấy giờ Thái tử
Nghe bạn Ưu-đà nói
Vừa hay vừa lanh lợi
Khéo nêu tướng thế gian
Bèn đáp: “Này Ưu-đà,
Cảm ân anh thành tâm
Bây giờ tôi xin nói
Xin anh lắng nghe cho.
Không bỏ cảnh giới mầu
Cũng biết vui người đời
Chỉ thấy sự vô thường
Nên sinh tâm khổ lụy
Nếu pháp này thường còn
Không khổ già, bệnh, chết
Tôi cũng nên thọ vui
Không có tâm nhàm lìa.
Nếu làm cho mỹ nữ
Và cảnh không suy biến
Thì dục tuy là lỗi
Nhưng có thể để tâm.
Người có già, bệnh, chết
Kia nên tự không vui
Huống gì đối người khác
Mà sinh tâm đắm nhiễm
Cảnh năm dục vô thường
Tự thân đều cũng thế
Nếu sinh tâm yêu thích
Thì đồng với cầm thú.
Các tiên anh nói trên
Là người đắm năm dục
Nếu họ sinh nhàm chán
Ái dục tự nhiên mất
Được gọi là Thắng sĩ.
Mê đắm cảnh năm dục
Cũng lại đồng tan mất
Nên biết họ chẳng hơn
Nếu nói nhờ phương tiện
Tùy thuận mà tập gần
Tập là đắm nhiễm thật
Đâu được gọi phương tiện.
Thuận theo sự luống dối
Việc ấy tôi không làm
Nếu thật sự thuận theo
Thì đó là phi pháp
Tâm này khó đè nén
Gặp việc liền sinh đắm
Đắm rồi, không thấy lỗi
Sao gọi tùy phương tiện?
Ở thuận mà tâm trái
Lý này tôi không thấy
Già, bệnh, chết như thế
Chứa nhóm sự khổ lớn
Khiến tôi rơi vào đó
Tri thức không nói thế.
Này bạn Ưu-đà-di,
Bạn thật can đảm lắm
Khổ sinh, già, bệnh, chết
Khổ này rất đáng sợ
Mắt thấy đều mục nát
Nhưng vẫn thích chạy theo.
Giờ, tôi rất yếu hèn
Tâm cũng lại nhỏ hẹp
Suy nghĩ già, bệnh, chết
Chợt đến không báo trước
Ngày đêm quên ngủ nghỉ
Vì sao đắm năm dục?
Lửa già, bệnh, chết hừng
Chắc chắn đến không nghi
Vẫn không biết lo lắng
Thật là tâm gỗ đá”.
Thái tử vì Ưu-đà
Dùng các phương tiện khéo
Nói dục là họa lớn
Bất giác đến một chiều…
Bấy giờ, các thể nữ
Kỹ nhạc, vật trang nghiêm
Tất cả đều vô dụng
Hổ thẹn trở vào thành.
Thái tử thấy khu vườn
Trang nghiêm bị bỏ phế
Kỹ nữ đều ra về
Bèn trở nên vắng lặng
Càng thấy rõ vô thường
Cúi đầu trở về cung
Vua cha nghe Thái tử
Tâm dứt bỏ năm dục
Sinh tâm rất lo buồn
Như gai đâm vào tim
Liền cho vời các quan
Hỏi phải làm cách nào
Đều đáp rằng năm dục
Chẳng giữ được Thái tử.
Vua lại cho bày thêm
Đồ năm dục hấp dẫn
Để ngày đêm vui chơi
Mong vui lòng Thái tử.
Thái tử rất chán ngán
Hoàn toàn không ưa thích
Chỉ nghĩ khổ sống, chết
Như sư tử trúng tên.
Vua sai các quan lớn
Con, em hàng quý tộc
Tuổi trẻ, nhan sắc đẹp
Thông minh giữ lễ nghi
Ngày du ngoạn đêm nghỉ
Để lấy lòng Thái tử.
Vui chơi không bao lâu
Lại xin vua du ngoạn
Thái tử ngồi xe ngựa
Vật trang nghiêm các báu
Cùng những người quý tộc
Vây quanh ra khỏi thành.
Thí như bốn thứ hoa
Nắng lên đều hé nở
Thái tử xem cảnh đẹp
Người hầu cũng nương theo
Rời thành dạo vườn rừng
Đường sửa rộng lại bằng
Cây cối hoa quả tốt
Tâm vui nên quên về
Thấy người cày bên đường
Xới đất giết sâu trùng
Tâm Ngài sinh buồn thương
Đau hơn gai đâm tim,
Lại thấy nông phu kia
Cực khổ thân gầy ốm
Tóc rối, mồ hôi chảy
Mình dính đầy đất bùn
Trâu cày cũng khốn khổ
Lè lưỡi thở dập dồn
Tánh Thái tử từ bi
Sinh tâm rất thương xót
Buồn thương Ngài than dài.
Ngài nhẹ ngồi xuống đất
Quán sát các khổ này
Suy nghĩ pháp sinh diệt:
Than ôi! Các chúng sinh
Ngu si không giác ngộ.
Ngài an ủi mọi người
Mọi người tìm chỗ nghỉ.
Dưới bóng cây Diêm-phù
Ngài ngồi thẳng, suy nghĩ
Quán sát các sinh tử
Khởi diệt biến vô thường
Tâm định yên bất động
Mây năm dục tan bay
Có giác và có quán
Nhập sơ vô lậu thiền
Lìa dục sinh vui mừng
Chánh thọ tam-ma-đề.
Thế gian rất cay đắng
Già, bệnh, chết phá hoại
Rốt cuộc thân chịu khổ
Mà không tự hay biết
Chán già, bệnh, chết kia
Vì nó là khổ lớn.
Nay Ta cầu thắng pháp
Không nên đồng thế gian
Từ nhỏ, già, bệnh, chết
Mà trở lại ghét người
Quán chân thật như vậy.
Tuổi trẻ, đầy sức lực
Luôn đổi thay không dừng
Rốt cuộc rồi cũng chết
Không vui cũng không buồn
Không nghi cũng không loạn
Không ngủ không đắm dục
Không hại, không ghét người
Vắng lặng lìa năm cái
Ánh trí tuệ càng sáng.
Bấy giờ trời Tịnh cư
Hóa thành vị Tỳ-kheo
Đi đến chỗ Thái tử
Thái tử đứng dậy đón
Hỏi rằng Người là ai?
Đáp: “Tôi là Sa-môn
Chán sợ già, bệnh, chết
Xuất gia cầu giải thoát.
Chúng sinh già, bệnh, chết
Biến hoại không tạm dừng
Nên tôi cầu thường vui
Không diệt cũng không sinh
Tâm oán, thân bình đẳng
Không vì cầu tài sắc
Chỉ ở nơi núi rừng
Vắng lặng, không mưu cầu
Trần tưởng đã dứt bặt
Sống nổi chốn vắng lặng
Không lựa chọn tinh thôi
Khất thực để nuôi thân”.
Liền ở trước Thái tử
Bay thẳng lên hư không.
Tâm Thái tử vui mừng
Chỉ nghĩ Phật quá khứ
Đặt ra oai nghi này
Tướng ấy nay vẫn còn
Ngồi thẳng suy nghĩ đúng
Liền được niệm chánh pháp
Vậy phải làm cách nào
Được toại ý xuất gia
Giữ tâm, gìn các căn.
Đứng dậy, trở vào thành
Quyến thuộc đều đi theo
Bảo thôi, đừng đi xa
Trong thầm khởi thương xót
Phương tiện vượt thế gian
Thân tuy theo đường về
Nhưng tâm ở núi rừng
Như voi điên bị xích
Thường nghĩ dạo đồng trống.
Khi Thái tử vào thành
Gái trai ra đón rước
Người già muốn làm con
Trẻ muốn làm chồng vợ
Hoặc mong làm anh em
Các bà con quyến thuộc
Hoặc sẽ được như nguyện
Mong dứt bỏ các tập.
Tâm Thái tử vui mừng
Chợt nghe nói dứt tập
Lời này Ta thích nghe
Nguyện này chắc sẽ thành
Nghĩ kỹ vui dứt tập
Tâm Niết-bàn thêm lớn
Thân như ngọn núi vàng
Tay tròn như vòi voi
Tiếng nói như sấm xuân
Mắt xanh như trâu chúa.
Tâm là vô tận pháp
Mặt như vầng trăng tròn
Sư tử đầu đàn bước
Từ từ vào hoàng cung
Như con trời Đế Thích
Tâm kính thân cũng kính
Đi đến chỗ vua cha
Cúi đầu và thăm hỏi,
Nói việc sợ sinh tử
Tha thiết xin xuất gia
Tất cả các thế gian
Muốn cầu chân giải thoát.
Vua cha nghe xuất gia
Tâm liền rất sợ hãi
Giống như voi điên lớn
Quấn giựt cành cây con,
Liền cầm tay Thái tử
Rơi lệ bảo con rằng:
Hãy thôi, đừng nói vậy
Chưa phải lúc y pháp
Tuổi trẻ tâm dao động
Hành pháp thường sinh lỗi
Cảnh năm dục lạ thường
Tâm vẫn chưa chán lìa,
Xuất gia tu khổ hạnh
Tâm chưa thể quyết định
Trong rừng núi vắng vẻ
Tâm chưa được vắng lặng,
Tâm con tuy ưa pháp
Chưa đúng lúc như ta
Con nên nhận việc nước
Nhường ta xuất gia trước.
Bỏ cha, dứt nối dòng
Đó là không đúng pháp
Nên bỏ ý xuất gia
Thọ học pháp thế gian
An vui được danh tiếng
Thái tử khéo chối từ
Rồi sau sẽ xuất gia.
Lại tâu xin vua cha
Thực hiện cho bốn việc
Sẽ bỏ ý xuất gia:
Giữ mạng con còn mãi
Không bệnh, không suy già
Các vật không tổn giảm
Vâng lệnh không xuất gia.
Vua cha bảo Thái tử:
“Con đừng nói như thế
Bốn việc như thế ấy
Ai có thể giữ được
Con xin bốn việc ấy
Sẽ bị người cười chê
Hãy bỏ tâm xuất gia
Hưởng thụ vui năm dục”.
Thái tử lại tâu vua:
“Bốn việc không giữ được
Hãy cho con xuất gia
Xin đừng cố giữ lại
Con ở trong nhà cháy
Sao cha không cho ra?
Phân tích về lý thường
Ai nỡ không chấp nhận
Nếu phải tự chết đi
Chẳng bằng lìa đúng pháp
Nếu không lìa đúng pháp
Chết đến ai giữ được”.
Vua cha biết tâm con
Nhất quyết không lay chuyển
Chỉ nên ra sức giữ
Cần gì phải nhiều lời
Chọn thêm các thể nữ
Vui năm dục hấp dẫn
Ngày đêm luôn canh chừng
Không cho đi xuất gia.
Các vị quan trong nước
Đi đến chỗ Thái tử
Dẫn nhiều các lễ luật
Khuyên nghe lời vua cha.
Thái tử thấy vua cha
Buồn thương khóc rơi lệ
Lại trở về trong cung
Ngồi lặng im suy nghĩ.
Các thể nữ trong cung
Gần gũi vây quanh Ngài
Hầu hạ nhìn dung mạo
Mắt không hề tạm rời
Như nai rừng mùa thu
Mắt nhìn thẳng thợ săn.
Dung mạo của Thái tử
Giống như núi vàng ròng
Kỹ nữ cùng chiêm ngưỡng
Nghe dạy, hầu tôn nhan
Kính sợ, xét tâm Ngài
Như nai trong rừng kia
Dần dần đến chiều tối.
Thái tử ngồi trong đêm
Nhưng ánh sáng rực rỡ
Như trời chiếu Tu-di
Ngồi trên tòa bảy báu
Xông ướp hương chiên-đàn.
Các thể nữ vây quanh
Trổi tiếng Càn-thát-bà
Như con Tỳ-sa-môn
Các tiếng nhạc trời hay.
Tâm Thái tử nhớ nghĩ
Vua xa lìa bậc nhất
Tuy trổi các tiếng hay
Cũng không vào tâm Ngài.
Bấy giờ trời Tịnh cư
Biết đến giờ Thái tử
Quyết định nên xuất gia
Trời chợt hóa hiện đến
Che mắt các kỹ nữ
Khiến họ đều ngủ say
Xiêm y đều xốc xếch
Hở hang lộ thân hình
Mê man nằm nghiêng ngả
Nhạc cụ nằm ngổn ngang,
Dật dựa hoặc nằm sấp
Hoặc giống lao xuống vực
Anh lạc như xiềng xích
Xiêm y quấn vào thân
Ôm đàn nằm ngã ngửa
Giống như người thọ khổ.
Thị nữ nằm loạn khắp
Như hoa Ca-ni rụng
Ngặt nghẽo dựa tường ngủ
Hình dạng như sừng treo,
Hoặc tay vịn cửa sổ
Như thây chết thắt cổ
Luôn há mồm ngáy vang.
Ôi thôi! Nước dãi chảy
Tóc rối, lộ thân hình
Trông như người điên cuồng
Vòng hoa rũ che mặt
Hoặc úp mặt xuống đất
Hoặc toàn thân cựa động
Như chim riêng vùng vẫy
Hoặc thân gối lên nhau
Tay chân gác lên nhau
Hoặc mặt mày nhăn nhó
Hoặc nhắm mắt mở miệng
Nhiều thân nằm ngổn ngang
Bừa bãi như xác chết.
Lúc ấy Thái tử ngồi
Quán sát các thể nữ
Lúc nãy thật xinh đẹp
Nói cười tâm ranh mãnh
Yểu điệu dáng thướt tha
Sau giờ đây xấu bẩn.
Tánh người nữ như thế
Làm sao dám gần gũi
Tắm gội, giả trang sức
Mê hoặc tâm người nam
Nay Ta đã biết rồi
Quyết định đi, không nghi.
Bấy giờ trời Tịnh cư
Bay xuống mở cửa thành
Ngài từ từ đứng dậy
Ra khỏi đám thể nữ
Ngập ngừng vào phòng trong
Mà bảo Xa-nặc rằng:
Giờ tâm Ta khát ngưỡng
Muốn uống nước cam lộ
Mau dẫn ngựa kia đến
Muốn đến nơi bất tử.
Tự biết tâm quyết định
Vững chắc thể trang nghiêm
Thể nữ vốn xinh đẹp
Nay đều lộ tướng xấu.
Lúc nãy cửa còn đóng
Giờ đây đã tự mở
Những điều kiện tốt này
Là phương tiện bậc nhất.
Xa-nặc thầm suy nghĩ:
Nếu vâng lời Thái tử
Trốn đi, vua cha biết
Bị phạt, mang tội nặng.
Chư Thiên gia sức thần
Bất giác dẫn ngựa đến
Ngựa hay, yên ngồi phẳng
Làm bằng các thứ báu;
Ngựa cao, đuôi lại dài
Lưng hẹp, lông tai ngắn
Bụng nai, cổ ngỗng chúa
Trán rộng, mũi bầu tròn
Cổ rồng và ngực vuông
Đầy đủ tướng ngựa quý.
Thái tử vỗ đầu ngựa
Xoa thân mà bảo rằng:
Vua cha thường cỡi ngựa
Xông trận đánh thắng giặc
Nay Ta muốn nhờ ngươi
Đi đến bến cam lộ
Chiến đấu nhiều binh lữ
Vinh hoa lắm bạn cùng.
Người đi buôn tìm báu
Kẻ theo buôn cũng đông
Gặp khổ, khó thấy bạn
Cầu pháp, càng ít bạn
Nếu được hai bạn này
Chắc chắn được an lành.
Giờ Ta muốn vượt thành
Hóa độ chúng sinh khổ
Nay ngươi muốn tự lợi
Và giúp các chúng sinh
Thì phải nên cố gắng
Đường dài chớ mỏi mệt.
Khuyên rồi, Ngài lên yên
Giật dây cương lên đường
Dáng người in điện các
Bóng ngựa như mây trắng
Giữ thân, chẳng buông lơi
Nén thở, không dám động
Bốn thần nâng vó câu
Vắng lặng không tiếng động
Nhiều lớp cửa khóa chặt
Thiên thần làm chúng mở.
Kính trọng ai bằng cha
Thương ai hơn thương mẹ
Các quyến thuộc trong ngoài
Ái ân cũng buộc ràng
Có tình nhưng không nghĩ
Nhẹ nhàng ra khỏi thành
Mắt hoa sen thanh tịnh
Mọc lên từ bùn nhơ
Quay nhìn cung phụ vương
Mà nói lời ly biệt:
Không vượt sinh già chết
Không có cuộc đi này.
Tất cả các Thiên chúng
Rồng, Quỉ thần trên không
Vui theo, khen lành thay
Chỉ lời này chân đế.
Các Trời, Rồng, Quỉ thần
Vui được tâm khó được
Đều đem ánh sáng mình
Dẫn dắt giúp sáng thêm
Người ngựa lòng nôn nóng
Đi nhanh như sao rơi
Phía đông trời chưa sáng
Đã vượt ba do-tuần.
❑
Không lâu đêm đã qua
Ánh thái dương dần hiện
Nhìn lại khoảng cây rừng
Chỗ vị tiên Bạt-già
Cánh rừng già bát ngát
Cầm thú gần gũi người
Thái tử thấy, tâm vui
Thân mệt tự nhiên hết
Đây là các điều lành
Ắt được lợi chưa từng
Lại thấy vị tiên kia
Là người đáng cúng dường
Tự giữ gìn oai nghi
Dứt bỏ tâm cao mạn
Xuống ngựa, tay xoa đầu:
“Nay, ngươi đã giúp Ta”
Mắt Từ nhìn Xa-nặc
Như rửa nước mát thấm nhuần
Rằng ngựa chạy như bay
Ngươi vẫn bám đuôi ngựa,
Cảm ân sâu của ngươi
Siêng năng không lười biếng
Việc khác không đáng kể
Chỉ nhận tâm ngươi thành
Tâm kính, dáng cần mẫn
Nay thấy hai việc này
Người có tâm chí thành
Sức mạnh khó đảm đương
Sức kham, tâm không thành
Ngươi đầy đủ cả hai
Bỏ danh lợi thế gian
Theo Ta từng bước chân.
Ai mà không ham lợi
Không lợi, người thân lìa
Hôm nay, ngươi theo Ta
Không mong báo hiện đời
Phu nhân sinh, nuôi con
Mục đích là nối dòng
Cho nên thờ kính vua
Là để báo ân nuôi
Tất cả đều cầu lợi.
Ngươi bỏ lợi theo Ta
Chí ngôn không cầu nhiều
Giờ sẽ lược bảo ngươi:
Người hầu Ta đã xong
Giờ hãy cỡi ngựa về
Ta từ đêm dài đến
Giờ được điều mong cầu.
Liền cởi chuỗi anh lạc
Và trao cho Xa nặc:
An ủi nỗi buồn ngươi
Cởi mũ báu, ma ni
Ánh sáng soi thân Ngài
Trao trên tay Xa nặc
Như trời chiếu Tu di.
Ngươi hãy cầm châu báu
Trở về chỗ vua cha
Cầm châu lễ chân vua
Để tỏ tâm thành Ta
Tâu vua cha giùm Ta
Xin bỏ tâm ái luyến
Vì thoát sinh, già, chết
Nên vào rừng khổ hạnh
Cũng không cầu sinh Thiên
Không có tâm ái luyến
Cũng không tâm kết hận
Chỉ muốn bỏ lo buồn,
Đêm dài nhóm ân ái
Phải có lúc biệt ly
Vì có sự chia ly
Nên tìm nhân giải thoát.
Nếu người được giải thoát
Không lúc nào lìa thân
Vì dứt ái, xuất gia
Chớ vì con lo buồn
Năm dục là gốc khổ
Nên lo người đắm dục
Không ai hơn các vua
Tâm vững chắc không dời.
Nay Ta đem tài sản
Vì pháp mà xả bỏ.
Khi phu nhân qua đời
Tài sản để lại con
Phần nhiều tham tài lợi
Nhưng ta ưa pháp tài.
Nếu nói người tuổi trẻ
Chẳng phải lúc tìm học
Phải biết cầu chánh pháp
Lúc nào cũng là lúc.
Vô thường không hẹn kỳ
Thần chết thường rình rập
Cho nên hôm nay Ta
Quyết định phải cầu pháp
Những lời tâu như trên
Thưa vua cha giùm Ta.
Nay cúi xin vua cha
Không ái luyến Ta nữa
Nếu vì ta hủy hình
Mà giúp vua cắt ái
Người đừng nên tiếc lời
Khiến vua nhớ không thôi.
Xa-nặc vâng lời dạy
Trong lòng buồn u uất
Quỳ xuống chắp hai tay
Đáp lời Thái tử rằng:
Thần sẽ về thưa lại
Sợ vua càng buồn khổ
Buồn khổ càng thêm nặng
Như voi bị sa lầy
Nhất định lìa ân ái
Có tâm, ai không buồn
Vàng, đá còn bị vỡ
Huống gì đắm tình ái
Thái tử sống trong cung
Ít vui, thân yếu đuối
Nay dấn thân rừng núi
Khổ hạnh sao kham nổi.
Lúc Ngài bảo đem ngựa
Trong tâm thần không yên
Thiên thần thấy thúc giục
Bảo thần mau sửa soạn.
Vì sao khiến Thái tử
Quyết định bỏ thâm cung
Cả nước Ca-tỳ-la
Đều sinh tâm đau buồn
Vua cha tuổi đã già
Lòng thương con cũng sâu
Quyết định bỏ xuất gia
Là việc không nên làm.
Tà kiến không cha mẹ
Điều ấy không cần bàn
Cù-đàm-di nuôi lớn
Bú sữa thân khó gầy
Tình thương khó thể quên
Đừng làm người bội ân.
Còn nhỏ nhờ ân dì
Phải thờ phụng dòng họ
Khôn lớn lại bỏ đi
Đó là người không tốt.
Con nàng Da-du-đà
Giữ chánh pháp trị nước
Nhưng tuổi còn quá nhỏ
Ngài cũng không nên bỏ.
Đã trái bỏ vua cha
Và bà con quyến thuộc
Xin Ngài đừng bỏ thần
Thần không thể xa Ngài
Tâm thần như lửa nóng
Không thể về một mình
Giờ đây chốn hiu quạnh
Bỏ Thái tử mà về
Cũng giống Tu-mạn-đề
Nỡ xả bỏ La-ma
Giờ nếu về một mình
Biết tâu vua làm sao?
Cả cung đều quở trách
Biết trả lời thế nào?
Thái tử bảo thần là
Tùy phương tiện hủy hình
Chỗ công đức Mâu-ni,
Làm sao nói dối được?
Thần rất là xấu hổ
Miệng không thể nói được
Dù cho có nói được
Thì mọi người ai tin?
Nếu nói ánh trăng nóng
Thế gian có người tin
Nếu có tin Thái tử
Việc làm cũng phi pháp
Tâm Thái tử hiền hòa
Từ bi với tất cả
Rất thương mà lìa bỏ
Thì trái với tâm xưa
Xin hãy trở về cung
Để an ủi lòng thần.
Thái tử nghe nói vậy
Lòng buồn khổ, can rằng:
Ngươi hãy yên lòng đi.
Lại bảo Xa-nặc rằng:
Giờ ngươi đã vì ta
Mà chịu khổ chia ly
Hãy bỏ tâm buồn ấy
Tự an ủi tâm mình
Chúng sinh đều khác đường
Trái lý, cho là thường
Dù ngày hôm nay ta
Không bỏ các thân tộc
Khi chết tâm lìa thân
Làm sao giữ lại được?
Mẹ hiền mang thai ta
Thương con thường chịu khổ
Sinh rồi liền qua đời
Không mong con nuôi mình
Người còn, mất khác đường
Giờ biết tìm ở đâu?
Cây cao tốt giữa đồng
Các bầy chim bu đậu
Chiều tụ, sáng bay đi
Sự chia ly cũng thế.
Mây nổi trên núi cao
Tụ đầy khắp hư không
Khoảnh khắc lại tan biến
Lý con người cũng thế
Thế gian vốn tự trái
Tạm hội, ân ái buộc
Như hợp tan trong mộng
Không nên chấp của ta
Như cây mọc mùa xuân
Lớn dần, cành lá tốt
Sương thu làm rơi rụng
Cùng cây còn chia lìa
Huống người tạm hội họp
Thân thích đâu gần mãi.
Ngươi hãy dứt buồn khổ
Nghe lời ta trở về
Ta vẫn nghĩ ngày về
Hãy về, sau ta về.
Người Ca-tỳ-la-vệ
Nghe tâm ta quyết định
Vẫn còn nghĩ đến ta
Ngươi hãy nói với họ
Khi vượt biển sinh tử
Thì ta sẽ trở về
Nếu không được như vậy
Thì bỏ thân núi rừng.
Ngựa trắng nghe Thái tử
Nói lời chân thật ấy
Quỳ xuống liếm chân Ngài
Thở dài, lệ tuôn rơi
Đưa tay có bánh xe
Vuốt xuôi đầu ngựa trắng:
Ngươi chớ có buồn thương
Nay ta cảm ân ngươi
Công lao khó nhọc của
Ngựa giỏi nay đã xong
Khổ đường ác dứt hẳn
Quả mầu nay sẽ hiện.
Thanh kiếm báu trang nghiêm
Xa-nặc thường mang theo
Thái tử rút kiếm bén
Lóe sáng như ánh rồng
Mũ báu phủ tóc đen
Gom cắt, vung lên không
Bay lên không rồi dừng
Bềnh bồng như chim liệng.
Các trời Đao-lợi xuống
Đem tóc về cõi trời
Họ thường muốn lễ chân
Huống nay được tóc Ngài
Đều hết lòng cúng dường
Đến khi chánh pháp diệt.
Lúc ấy Thái tử nghĩ:
Đã bỏ vật trang nghiêm
Chỉ còn áo lụa trắng
Chưa phải tướng xuất gia.
Bấy giờ trời Tịnh cư
Biết ý nghĩ Thái tử
Hóa thành người thợ săn
Cầm cung, đeo tên bén
Thân mặc y ca-sa
Đi đến trước Thái tử.
Thái tử nghĩ y này
Là y phục thanh tịnh
Màu nhuộm, các tiên mặc
Thợ săn không nên đắp,
Liền gọi thợ săn lại
Nói lời nhỏ nhẹ rằng:
Anh đổi y phục này
Dường như không thích lắm
Vậy xin anh hãy đổi
Với áo tôi đang mặc.
Thợ săn bảo Thái tử:
“Tôi chẳng tiếc áo này
Nhưng để dụ bầy nai
Rồi sau đó giết chúng
Nhưng nếu Ngài cần dùng
Thì ta đổi với nhau”
Thợ săn đổi y rồi
Bèn hiện lại thân trời.
Thái tử và Xa-nặc
Thấy vậy cho rằng lạ
Đây hẳn y vô sự
Chẳng phải áo người đời
Trong tâm rất vui mừng
Càng kính y này hơn,
Liền chia tay Xa-nặc
Mặc vào y ca-sa
Giống như áng mây xanh
Vờn quanh vòng nhật nguyệt
Khoan thai nhẹ bước đi
Vào trong hang vị tiên.
Xa-nặc dõi mắt theo
Khuất dần, không thấy nữa
Thái tử bỏ vua cha
Quyến thuộc và bản thân
Yêu quý y ca-sa
Vào trong rừng khổ hạnh,
Ngửa mặt lên kêu trời
Ngất xỉu té xuống đất
Gượng dậy ôm cổ ngựa
Tuyệt vọng theo đường về
Bồi hồi thường quay nhìn
Thân đi, tâm trở lại
Hoặc trầm tư thất thần
Hoặc rũ rượi toàn thân
Hoặc ngã rồi gượng dậy
Buồn khóc theo đường về.
Thái tử rời Xa-nặc
Đi vào chỗ vị tiên
Thân trang nghiêm rực sáng
Chiếu khắp rừng khổ hạnh
Đầy đủ tất cả nghĩa
Nghĩa nào cũng đến được.
Như sư tử đầu đàn
Đi vào trong bầy thú
Dáng tục đều đã bỏ
Chỉ thấy tướng đạo nhân.
Những người học đạo tiên
Thấy bậc chưa từng thấy
Tâm vừa sợ vừa mừng
Chắp tay đưa mắt nhìn.
Gái, trai đang làm việc
Liền đứng yên mà nhìn
Như trời thấy Đế Thích
Nhìn sững mắt không chớp.
Các tiên không dời chân
Chăm chú nhìn cũng thế
Mang nặng, tay làm việc
Kính nhìn không bỏ việc.
Như trâu bị buộc ách
Thân đi, tâm ở lại
Những người học thần tiên
Đều nói chưa từng thấy.
Các chim công vân vân
Bay liệng kêu ríu rít.
Phạm chí giữ giới nai
Theo nai vào rừng núi
Tánh nai nhát hay nhìn
Thấy Thái tử nhìn thẳng
Các Phạm chí theo nai
Cũng nhìn thẳng như the.
Đèn Cam Giá thêm sáng
Như mặt trời mới mọc
Cảm được đàn bò sữa
Cho thêm nhiều sữa ngọt.
Các vị Phạm chí ấy
Sợ lẫn mừng bảo nhau
Trời Bà-tẩu thứ tám
A-thấp-ba thứ hai
Hay Ma vương thứ sáu
Hay trời Phạm-ca-di
Hay là trời Nhật nguyệt
Giáng hạ xuống trần gian?
Chính là Bậc đáng kính
Đua nhau đến cúng dường
Thái tử cũng khiêm nhường
Kính dùng lời hỏi han.
Bồ-tát quán sát khắp
Các Phạm chí trong rừng
Tu các thứ phước nghiệp
Đều cầu sinh cõi trời
Hỏi Phạm chí trưởng túc
Thực hành đạo chân thật:
“Nay tôi mới đến đây
Chưa biết hành pháp gì
Việc nào cũng thưa hỏi
Xin giải thích giùm tôi”.
Bấy giờ hai vị ấy
Đều đem các khổ hạnh
Lần lượt tùy việc đáp:
“Không được vào xóm làng
Nước sạch sinh ra vật
Hoặc ăn rễ, cành, lá
Hoặc lại ăn hoa quả.
Các thứ đạo khác nhau
Uống ăn cũng không đồng
Hoặc tu giống như chim
Hai chân kẹp thức ăn,
Người ăn cỏ như nai
Tiên Mãng-đà hút gió
Cây, đá giã không ăn
Hai răng cắn thành vết,
Hoặc xin ăn đem cho
Còn dư tự mình ăn
Hoặc đầu thường xối nước
Hoặc lại kính thờ lửa,
Trầm mình, tu tiên cá
Các hạnh tu như thế
Phạm chí tu khổ hạnh
Sẽ được quả an vui”.
Bậc Hiền lưỡng túc tôn
Nghe các khổ hạnh này
Không thấy nghĩa chân thật
Trong tâm không hân hoan
Suy nghĩ thương xót họ
Tâm, miệng tự bảo nhau:
“Buồn thay! Các khổ hạnh
Chỉ cầu báu trời, người
Xoay vòng trong sinh tử
Khổ nhiều mà quả ít.
Bỏ cha mẹ, năm dục
Quyết định cầu sinh Thiên
Tuy tránh khỏi khổ nhỏ
Nhưng lại mắc khổ lớn.
Tự làm thân khô gầy
Tu hành các khổ hạnh
Để cầu được thọ sinh
Nuôi lớn nhân năm dục
Không quán sát sinh tử
Dùng khổ để cầu khổ.
Tất cả loài chúng sinh
Tâm thường hay sợ chết
Siêng năng cầu thọ sinh
Hết sinh lại gặp tử
Tuy là sợ các khổ
Nhưng mãi chìm biển khổ.
Sinh ấy rất nhọc nhằn
Đời sau lại không dứt
Theo khổ cầu hiện vui
Cầu sinh Thiên cũng nhọc
Tâm cầu vui thấp hèn
Đều rơi vào phi nghĩa
Cho nên rất hèn kém
Tinh tấn thì tốt hơn
Chẳng bằng tu trí tuệ
Cả hai bỏ, vô vi.
Khổ thân là đúng pháp
An vui là phi pháp
Trước hành pháp, sau vui
Nhân đúng pháp, quả phi.
Thân thực hành sinh diệt
Đều do sức tâm ý
Nếu xa lìa tâm ý
Thân này như cây khô.
Cho nên phải điều tâm
Tâm điều, thân tự đúng
Nếu ăn sạch có phước
Thì cầm thú, người nghèo
Thường hay ăn rau trái
Thì họ có phước sao?
Nếu nói tâm lành khởi
Khổ hạnh là nhân phước
Các hạnh an vui kia
Sao không tâm lành khởi?
Vui chẳng tâm lành khởi
Lành chẳng phải nhân kho.
Nếu các ngoại đạo kia
Cho nước là thanh tịnh
Chúng sinh sống dưới nước
Nghiệp ác nên thường tịnh.
Kia vốn là nơi chốn
Tiên Công đức nương ở
Nơi tiên Công đức ở
Nên khắp thế tôn trọng
Nên trọng công đức kia
Không nên trọng nơi chỗ”.
Như thế rộng nói pháp
Mãi cho đến chiều tối
Thấy có người thờ lửa
Hoặc dùi, hoặc thổi cháy
Hoặc người tưới dầu tô
Người cất tiếng chú nguyện
Như thế trọn ngày đêm
Quán sát việc họ làm
Không thấy nghĩa chân thật
Cho nên muốn bỏ đi.
Bấy giờ các Phạm chí
Đều đến khuyên ở lại
Kính ngưỡng đức Bồ-tát
Ai cũng đều khuyên mời
Ngài từ chỗ phi pháp
Đến rừng chánh pháp này
Mà lại muốn bỏ đi
Cho nên khuyên ở lại.
Các Phạm chí tôn túc
Tóc rối, mặc y cỏ
Đi theo sau Bồ-tát
Xin thỉnh Ngài ở lại.
Bồ-tát thấy họ già
Đi theo thân mệt nhọc
Dừng nghỉ dưới gốc cây
An ủi khuyên họ về.
Các Phạm chí lớn trẻ
Vây quanh chắp tay thỉnh:
“Ngài chợt đến nơi này
Làm vườn rừng sung mãn
Mà nay bỏ ra đi
Khiến trở thành gò hoang
Như người thích sống lâu
Không muốn bỏ thân mình
Chúng ta cũng như thế
Xin Ngài hãy ở lại.
Các Phạm chí chốn này
Tiên vua và Tiên trời
Đều nương ở nơi này
Lại gần bên núi Tuyết
Thêm nhiều các khổ hạnh
Chỗ ấy không hơn đây.
Rất nhiều các học sĩ
Nhờ đường này sinh Thiên
Người cầu phước học tiên
Đều từ đây lên Bắc
Nhiếp thọ các chánh pháp
Kẻ trí không về Nam.
Nếu Ngài thấy chúng tôi
Biếng nhác không tinh tấn
Hành các pháp bất tịnh
Mà không thích ở thì
Chúng tôi đều sẽ đi
Ngài hãy ở lại đây.
Các vị Phạm chí này
Thường tìm bạn khổ hạnh
Ngài vì khổ hạnh dài
Vì sao lại bỏ nhau
Nếu Ngài ở lại đây
Được thờ như Đế Thích
Cũng như các trời thờ
Tỳ-lê-ha-bát-để.”
Bồ-tát nói với các
Phạm chí rồi, tâm hẹn:
“Ta tu phương tiện đúng
Chỉ muốn dứt ba cõi.
Tâm các vị ngay thẳng
Hành pháp cũng vắng lặng
Quý mến người đến tu
Tâm tôi thật ưa thích
Nói hay cảm lòng người
Người nghe đều tắm gội.
Nghe lời các vị nói
Lòng ưa pháp tôi tăng
Các vị hướng về tôi
Cho là người bạn pháp
Mà nay bỏ các vị
Tâm tôi rất buồn bã.
Trước rời xa quyến thuộc
Nay chia tay các vị
Khổ hội họp, chia ly
Không khác với khổ này
Không phải tôi không thích
Cũng không thấy lỗi người
Nhưng các vị khổ hạnh
Đều cầu sinh cõi trời
Tôi cầu dứt ba cõi
Thân trái, tâm cũng trái.
Pháp các vị thực hành
Tu theo nghiệp thầy trước
Còn tôi dứt các tập
Để cầu pháp vô tập
Cho nên ở rừng này
Không nên dừng ở lâu.”
Bấy giờ các Phạm chí
Nghe Bồ-tát nói ra
Lời chân thật có nghĩa
Ngôn từ lý cao sâu
Nên tâm rất vui mừng
Càng thêm tôn kính hơn.
Lúc đó có Phạm chí
Thường nằm trên bụi cát
Tóc quấn, áo vỏ cây
Mắt vàng, mũi cao dài
Thưa với Bồ-tát rằng:
“Ngài chí bền, trí sáng
Quyết định rõ lỗi sinh
Biết lìa sinh thì an
Cúng tế cầu Thiên thần
Và các thứ khổ hạnh
Đều cầu sinh cõi trời
Chưa lìa cảnh tham dục
Tranh đấu với tham dục
Chí cầu chân giải thoát
Đó chính là Trượng phu
Bậc Chánh Giác quyết định.
Nơi này không đáng ở
Hãy đến núi Tần-đà
Nơi ấy có vị tiên
Tên là A-la-lam
Chỉ tiên được rốt ráo
Mắt cao siêu bậc nhất
Vậy Ngài hãy đến đó
Được nghe đạo chân thật
Khiến cho tâm vui mừng
Ắt sẽ hành pháp ấy.
Tôi thấy chí Ngài cao
E cũng không vừa lòng
Sẽ lại bỏ nơi ấy
Mà tìm nơi khác hơn.
Ngài mũi cao, mắt rộng
Môi đỏ, răng trắng sạch
Da mỏng, mặt sáng sủa
Lưỡi dài mềm đỏ mỏng
Các tướng đẹp như thế
Đều uống nước nóng ấy
Thước đo không lường sâu
Thế gian không ai sánh
Các vị Tiên kỳ cựu
Điều chưa được sẽ được.”
Bồ-tát hiểu lời ấy
Chia tay với các Tiên.
Các vị Tiên nhân ấy
Nhiễu bên phải rồi đi.
Xa-nặc dẫn ngựa về
Tuyệt vọng tâm buồn thương
Chân bước lệ tuôn rơi
Không thể tự mở dứt.
Hôm qua cùng Thái tử
Một đêm vượt đường dài
Giờ bỏ Thái tử về
Mất đi bóng mát trời
Bồi hồi tâm luyến tiếc
Tám ngày mới đến thành.
Ngựa giỏi thân mạnh mẽ
Chạy mau, tướng uy nghiêm
Quẩn quanh ngóng lại nhìn
Không thấy dạng Thái tử
Rơi lệ, thân ủ rũ
Tiều tụy, mất oai phong
Quay đầu, tiếng hí vang
Ngày đêm quên nước cỏ.
Bỏ mất Đấng cứu thế
Trở về Ca-tỳ-la
Đất nước đều trống vắng
Như vào xóm làng hoang
Mặt trời khuất Tu-di
Cả thế gian tăm tối
Ao suối không còn trong
Hoa trái không sum suê
Các trai gái trong xóm
Buồn bã mất vẻ vui.
Xa-nặc và ngựa trắng
Buồn bã lê từng bước
Người hỏi không thiết đáp
Bước chậm như người chết.
Chúng thấy Xa-nặc về
Nhưng không thấy Thái tử
Đồng cất tiếng than khóc
Như bỏ La-ma về.
Có người đến bên đường
Đến gần hỏi Xa-nặc:
“Thái tử người mến yêu
Mạng sống của cả nước
Ông lấy trộm đem đi
Bây giờ đâu mất rồi?”
Xa-nặc nén buồn thương
Trả lời mọi người rằng:
“Tôi quyến luyến đi theo
Không nỡ bỏ Thái tử
Thái tử lìa bỏ tôi
Bỏ cả y phục đời
Cắt tóc, mặc pháp phục
Vào trong rừng khổ hạnh.”
Mọi người nghe xuất gia
Tâm kinh hãi khác thường
Liền vật vã khóc than
Nước mắt cứ tuôn chảy.
Mọi người cùng bảo nhau
Chúng ta phải làm sao
Tất cả đều bàn rằng
Phải cùng nhau đuổi theo.
Như người mạng sống dứt
Thân chết, thần thức lìa
Thái tử là mạng ta
Ngài mất, ta đâu sống
Thành thị biến rừng núi
Rừng núi biến thành thị
Thành này mất oai đức
Như giết Tỳ-lê-đa.
Các gái, trai trong thành
Nói dối Thái tử về
Mọi người đổ ra đường
Chỉ thấy mình ngựa về
Không biết Ngài sống chết
Buồn khóc thật thê lương.
Xa-nặc bước dẫn ngựa
Sụt sùi rơi lệ về
Mất Thái tử buồn thương
Tâm càng thêm sợ sệt
Như chiến sĩ giết giặc
Dẫn giặc đến trước vua
Vào cửa lệ như mưa
Mắt nhòa không thấy gì
Nhìn trời mà kêu khóc
Ngựa cũng buồn, hí vang.
Các chim thú trong cung
Các bầy ngựa trong chuồng
Nghe tiếng ngựa buồn hí
Cũng kêu, hót đáp lại
Rằng ồ! Thái tử về
Không thấy bèn dứt bặt.
Các thể nữ hậu cung
Nghe ngựa, chim thú kêu
Tóc rối, mặt võ vàng
Thân xấu, môi miệng khô
Áo nhàu, không giặt giũ
Thân dơ bẩn không tắm
Bỏ các vật trang nghiêm
Tiều tụy, không tươi tắn
Khắp mình không rực rỡ
Giống như ngôi sao mờ
Xiêm y nhàu hoen ố
Giống như bị cướp hại,
Thấy Xa-nặc và ngựa
Rơi lệ, hết mong về
Đều cùng nhau than khóc
Như mới mất người thân
Tâm cuồng loạn bối rối
Như bò mất đường về.
Đại Ái Cù-đàm-di
Nghe Thái tử không về
Liền ngã nhào xuống đất
Khắp mình đều thương tích
Như cơn gió mạnh thổi
Trốc gốc cây chuối vàng
Lại nghe Ngài xuất gia
Than dài thêm buồn cảm:
“Tóc mịn xoay bên phải
Mỗi chân tóc một sợi
Đen tuyền sạch bóng mượt
Thả dài chấm tận đất
Vì sao bỏ mũ trời
Cạo tóc, mặt y cỏ?
Tay thon, sư tử bước
Mắt trâu chúa dài rộng
Thân có ánh sáng vàng
Ngực vuông, tiếng Phạm âm
Tướng nhiệm mầu như thế
Mà vào rừng khổ hạnh
Thế gian sao phước mỏng
Mất đi vị Thánh này.
Chân mềm có màng mỏng
Màu hoa sen thanh tịnh
Rừng đất đá, gai chông
Làm sao mà bước đi?
Sinh trưởng trong cung sâu
Y phục ấm, mịn màng
Tắm gội bằng nước thơm
Xoa thân bằng hương thơm
Giờ sống đời gió sương
Lạnh, nóng sao chịu nổi?
Trượng phu dòng cao quý
Học rộng, tài hơn người
Đức hạnh, được tiếng khen
Thường thí, không mong cầu
Vì sao bỗng một hôm
Khất thực để nuôi thân?
Nằm giường báu thanh tịnh
Thức giấc bẵng tiếng nhạc
Vì sao lại nương thân
Chốn núi rừng cây cỏ?”
Nhớ Ngài, tâm đau buồn
Mê ngất té xuống đất
Người hầu đỡ đứng dậy
Lau nước mắt cho bà
Còn các phu nhân khác
Buồn khổ thân dã dượi
Trong tâm rất buồn thảm
Bất động như người vẽ.
Nàng Da-du-đà-la
Trách cứ Xa-nặc rằng:
“Người bạn lòng của ta
Hiện giờ chàng ở đâu?
Người ngựa cả ba đi
Giờ còn hai trở về
Tâm ta rất kinh hãi
Run sợ không yên lòng
Ngươi là kẻ bất chánh
Không phải là bạn lành
Hạng cường bạo không tốt
Nên cười, khóc làm chi?
Dẫn đi rồi về khóc
Phản ứng không tương ưng.
Vì lòng thương mến bạn
Tâm mặc làm theo dục
Nên làm cho Thái tử
Một đi không về nữa.
Giờ ngươi nên mừng vui
Làm ác rồi quả thành
Thà gần kẻ oán trí
Còn hơn gần bạn ngu
Giả danh là bạn lành
Trong tâm thật oán kết.
Nay vương triều hùng mạnh
Một sớm bị phá hoại
Các vị phu nhân này
Ưa sầu không trang điểm
Lệ rơi, nấc nhiều phen
Nước mắt hai dòng chảy.
Khi chồng ta còn đây
Nương tựa như núi Tuyết
Tâm an như mặt đất
Lo buồn gần như chết
Huống bên song cửa này
Buồn khóc mãi kêu gào
Ngày chàng còn hay mất
Khổ ấy sao chịu nổi!
Ngựa ơi mày vô nghĩa
Đoạt người tâm ta trọng
Giống như trong đêm tối
Kẻ trộm cướp châu báu.
Khi cỡi ngươi ra trận
Đao kiếm bén tên nhọn
Tất cả chịu đựng được
Giờ sao không cố chịu.
Bậc nhất của dòng họ
Đoạt tâm ta đem đi
Người súc sinh tệ ác
Gây các nghiệp bất chánh
Hôm nay ngươi hí vang
Rung động khắp cung vua
Trước cướp người ta thương
Sao bấy giờ câm lặng.
Nếu lúc ấy người hí
Cả cung đều thức dậy
Nếu bấy giờ thức dậy
Thì đâu có khổ này.”
Xa-nặc nghe trách mắng
Nuốt nghẹn ngào khỏi cổ
Lau lệ, chắp tay thưa:
Xin cho thần giải bày
Đừng quở trách ngựa trắng
Cũng chớ tức giận thần
Chúng thần đều không lỗi
Do Thiên thần làm ra.
Thần rất sợ phép vua
Do Thiên thần ép ngặt
Mau đem ngựa cho Ngài
Rồi vượt thành như bay
Nén thở, không gây động
Vó câu không chạm đất
Cửa thành tự nhiên mở
Hư không tự nhiên sáng
Đều do sức Thiên thần
Đâu phải thần gây ra.”
Da-du-đà nghe nói
Tâm nghĩ là chuyện lạ
Việc do Thiên thần làm
Chẳng phải lỗi của họ
Tâm hờn trách tan biến
Dứt nỗi khổ dằn vặt
Quỵ xuống đất oán than:
“Đôi uyên ương chia lìa
Giờ ta mất chỗ nương
Đồng hành mà sinh ly
Ưa pháp, bỏ đồng hành
Đến nơi nào cầu pháp?
Xưa, những người cao quý
Vua Đại Khoái Kiến thảy
Họ đều đủ vợ chồng
Học đạo đến núi rừng
Nay Ngài nỡ bỏ thiếp
Để cầu được pháp gì?
Sách cúng tế Phạm chí
Vợ chồng đều đồng hành
Pháp đồng hành là nhân
Cuối cùng đồng thọ báo
Sao chàng riêng xẻn pháp
Bỏ thiếp đi một mình?
Hay thấy thiếp ganh tị
Chàng tìm người không ganh?
Hay chàng khinh bạc thiếp
Nên tìm Thiên nữ đẹp?
Vì đức sắc tốt nào
Tu tập các khổ hạnh?
Bởi vì thiếp bạc mệnh
Nên vợ chồng chia ly
Vì sao La-hầu la
Không được quỳ bên gối?
Than ôi! Ngài không tốt
Dáng hiền, tâm sắt đá
Dòng họ đang hưng thạnh
Kẻ thù cũng tôn sùng
Lại con sinh còn nhỏ
Mà chàng bỏ vĩnh viễn
Thiếp cũng không lòng dạ
Chồng bỏ, vào núi rừng
Không thể tự dứt bỏ
Đó là người gỗ đá.”
Nói xong, tâm mê loạn
Hoặc khóc, hoặc nói cuồng
Hoặc chăm chú, trầm tư
Nghẹn ngào không kềm được
Sức mòn, hơi gần kiệt
Ngã quỵ thân lấm bụi.
Các chúng thể nữ khác
Thấy vậy tâm đau xót
Giống như đóa sen nở
Bị gió mưa dập vùi.
Vua cha mất Thái tử
Đêm ngày tâm buồn khổ
Trai giới cầu Thiên thần
Mong con chóng trở về.
Phát nguyện cúng tế xong
Vua ra cửa đền thờ
Liền nghe tiếng khóc than
Kinh sợ tâm mê loạn
Như trời nổi sấm sét
Bầy voi chạy tán loạn,
Thấy Xa-nặc và ngựa
Liền hỏi, biết xuất gia
Toàn thân ngã xuống đất
Như cờ Đế Thích ngã
Các quan dìu vua dậy
Dùng đạo pháp trấn an
Hồi lâu mới tỉnh táo.
Vua bảo ngựa trắng rằng:
“Thường cỡi ngươi đánh giặc
Ta nghĩ ngươi có công
Nay ta căm ghét ngươi
Còn hơn lúc thương ngươi.
Con công đức ta thương
Ngươi lại chở nó đi
Vào bỏ trong núi rừng
Rồi trở về mình không
Ngươi mau chở ta đi
Bằng không, đi chớ về,
Không làm hai việc này
Chắc ta sẽ chết mất
Không còn cách nào trị
Chỉ đợi con là thuốc.
Như Phạm chí San-xà
Vì con chết, tự sát
Ta mất con hành pháp
Tự sát khiến không thân.
Đấng tạo sinh Ma-nâu
Cũng vì con ưu sầu
Huống chi ta người thường
Mất con mà an được.
Ngày xưa, vua A-xà
Thương con, dạo núi rừng
Bị cảm nên qua đời
Liền được sinh cõi trời
Nay ta không chết được
Đêm dài chịu khổ đau
Cả cung nhớ con ta
Khát khao như quỉ đói.
Như người khát tìm nước
Muốn uống mà bị giựt
Chịu khát mà chết đi.
Sẽ đọa vào ngạ quỉ
Giờ ta rất khát khao
Được nước con lại mất.
Ta chưa chết thì ngươi
Mau nói chỗ con ta
Đừng để ta chết khát
Đọa vào loài ngạ quỉ.
Ta vốn chí lực mạnh
Khó động như mặt đất
Mất con tâm mê loạn
Như vua Thập Xa xưa.”
Vua là người học rộng
Các quan trí thông đạt
Hai vị khuyên can vua
Từ từ tâu vua rằng:
“Xin ngài hãy khuây khỏa
Chớ để tổn mình rồng
Thuở xưa, các vị vua
Bỏ nước như ném hoa
Nay Thái tử học đạo
Đâu đáng khổ, lo buồn.
Xin nhớ lời A-tư
Lý số tự như thế
Chuyển luân có vui trời
Thản nhiên không bi lụy
Đâu phải vua thế giới
Dời được tâm vàng ngọc
Nay khiến cho chúng thần
Sẽ tìm đến chỗ Ngài.”
Dùng mọi cách can ngăn
Nói lên lòng chí thành
Mong hàng phục chí ngài
An ủi nỗi buồn vua.
Vua vui mừng liền đáp:
“Mong các khanh mau đi
Như chim Xá-quân-đà
Vì con không kể thân
Giờ ta nhớ Thái tử
Dạ luyến thương cũng thế.”
Hai vị vâng vương lệnh
Vua và các quyến thuộc
Tâm mát mẻ đôi phần
Sức lực dần hồi phục.
Vua vì nỗi đau buồn
Cấp sai hai vị quan
Ra roi đánh ngựa giỏi
Phi nhanh như nước cuộn
Thân nhọc không từ nan
Thẳng đến rừng khổ hạnh
Bỏ năm dục thế tục
Khéo nhiếp giữ các căn
Vào am thanh Phạm chí
Kính lễ các tiên kia.
Các tiên mời an tọa
Nói pháp an ủi họ.
Liền thưa vị tiên rằng:
“Tôi có việc muốn hỏi
Vua Tịnh Phạn tiếng tăm
Dòng Cam Giá rạng danh
Chúng tôi là bề tôi
Trong giáo điển các vị
Vua như trời Đế Thích
Con như Xà-diên-đa
Vì thoát già, bệnh, chết
Xuất gia ở đây chăng?
Chúng tôi đến vì Ngài
Chỉ các vị mới biết”
Đáp rằng: “Có người này
Tướng đại nhân, tay dài
Cho rằng pháp tôi tu
Còn thuận theo sinh tử
Đến chỗ A-la-lam
Để tìm giải thoát hơn.”
Đã được định thật rồi
Tuân lệnh vua mau đến
Chẳng quản nỗi nhọc nhằn
Tìm đường mà thẳng tiến
Thấy Thái tử trong rừng
Bỏ phục sức thế gian
Hình dung vẫn sáng ngời
Mặt trời giữa mây đen
Nước tôn thầy Thiên thần.
Đại thần giữ chánh pháp
Bỏ lễ nghi thế tục
Xuống xe đi bộ đến
Như vua Bà-ma-điệp
Vị tiên Bà tư-tra
Cùng nhau vào rừng núi
Thấy Thái tử La-ma
Theo lễ nghi của đạo
Cung kính lễ, thăm hỏi
Giống như Tu-ca-la
Cùng với Ương-kỳ-la
Đem hết lòng cung kính
Thờ phụng trời Đế Thích.
Thái tử cũng kính theo
Quốc sư và đại thần
Như Đế Thích an ủi
Tu-ca, Ương-kỳ-la,
Liền mời hai vị ấy
Ngồi trước mặt Thái tử
Như Phú-na-bà-tẩu
Hai sao hầu bên trăng.
Quốc sư và đại thần
Khải tâu lên Thái tử
Như Tỳ-lợi-bà-đê
Nói với Xà-diên-đa:
“Vua cha nhớ Thái tử
Như gai nhọn đâm tim
Hôn mê phát cuồng loạn
Ngất xỉu, mình lấm bụi
Ngày đêm thêm buồn nhớ
Lệ rơi thường như mưa.
Ban sắc cho chúng tôi
Cúi xin lắng nghe cho
Rằng biết Ngài ưa pháp
Quyết định không nghi ngờ
Chưa phải lúc vào rừng
Lửa nhớ đốt tâm vua
Nếu Ngài nghĩ đến pháp
Thì nên thương xót vua.
Mong Ngài đừng đi xa
Để an ủi lòng vua
Đừng để nước buồn thương
Xói mòn bờ tâm vua.
Như mây, nước, cỏ, núi
Gió nắng và lửa mưa
Lo buồn bị bốn họa
Thổi làm khô cháy tâm
Hãy về hưởng bổng lộc
Thời đến sẽ tu Tiên
Không đoái hoài bà con
Cha mẹ cũng lìa bỏ
Đó gọi từ bi sao?
Cứu giúp tất cả sao?
Pháp không cần rừng núi
Tại gia cũng tu nhàn
Giác ngộ cần phương tiện
Cho nên gọi xuất gia
Cạo tóc mặc y nhuộm
Tự vào trong rừng núi
Đó chính là sợ hãi
Đâu đáng gọi tu Tiên.
Mong ôm Ngài một lần
Dùng nước rưới lên đầu
Đội mũ trời cho Ngài
Đặt Ngài dưới lọng báu
Được một lần nhìn Ngài
Sau đó vua xuất gia.
Tiên vương Đầu-lưu-ma
A-nâu-xà-a-sa
Bạt-xà-la-bà-hưu
Tỳ-bạt-la-an-đề
Tỳ-đề-ha-xà-na
Na-la-thấp-ba-la
Các vị vua như thế
Thảy đều đội mũ trời
Trang sức bằng anh lạc
Tay chân đeo châu báu
Chúng thể nữ vui chơi
Không trái nhân giải thoát.
Giờ Ngài hãy về nhà
Tu tập hai việc này
Tâm tu pháp tăng thượng
Trở thành đấng Tăng thượng
Rơi lệ khuyên bảo Ngài
Lệnh tuyên lời như thế.
Đã có sắc chỉ này
Ngài nên tuân lệnh về
Vua cha chỉ vì Ngài
Chìm trong biển buồn khổ
Không ai cứu, nương ai
Không nhờ đâu khai mở
Ngài chính là thuyền trưởng
Đưa vua đến chỗ an.
Thái tử Tỳ-sum-ma
Nhị-la-di-bạt-đề
Nghe cha dạy kính vâng
Nay Ngài cũng nên biết
Ân mẹ hiền nuôi nấng
Suốt đời báo không cùng
Như bò mẹ mất con
Vì buồn quên ăn ngủ
Giờ Ngài nên mau về
Để cứu sống mạng vua.
Chim xa đàn buồn nhớ
Voi mạnh một mình khổ
Người nương tựa mất bóng
Thường mong được cứu giúp.
Một đứa con cô độc
Gặp khổ biết nhờ ai
Khỏi khổ đơn độc kia
Như người cứu nguyệt thực.
Trai gái trong cả nước
Chia ly khổ vô cùng
Khói thở than xông trời
Xông làm mờ mắt tuệ
Chỉ cầu thấy nước Ngài
Tắt lửa mắt mờ sáng.”
Bồ-tát nghe vua cha
Thiết tha dạy bảo vậy
Liền ngồi thẳng suy nghĩ
Mà đáp thuận theo rằng:
“Ta cũng biết vua cha
Tâm từ niệm quá dày.
Sợ sinh, già, bệnh, chết
Nên trái ân khó với
Ai không trọng mẹ cha
Nhưng rồi cũng chia ly
Dù cho giữ tướng sinh
Nhưng chết đến khó giữ.
Cho nên biết rằng trọng
Cũng từ biệt xuất gia
Nghe vua cha lo buồn
Thêm luyến tiếc tâm Ta
Chỉ như mộng tạm hội
Thoắt cái, đã vô thường.
Vua cha nên biết rõ
Tánh chúng sinh bất đồng
Điều sinh ra buồn khổ
Chẳng phải chỉ cha con
Cho nên khổ sinh ly
Đều từ nghi hoặc sinh.
Như người đi trên đường
Giữa đường tạm gặp nhau
Giây lát đã chia tay
Trái lý vốn tự nhiên
Hội họp tạm thành thân
Tùy duyên lý tự phân
Hiểu rõ thân giả hợp
Không nên sinh đau buồn.
Đời này trái tình thân
Đời khác là thân tình.
Tạm thân lại chia lìa
Nơi nơi đều là thân
Thường hợp lại thường tan
Tan tan đâu đáng buồn
Trong thai dần biến đổi
Lăng xăng tử lại sinh
Lúc nào cũng có tử
Núi rừng đâu không có
Thường luôn hưởng năm dục
Cầu tài thì cũng thế.
Tất cả thời có tử
Ngoài pháp tử không thời
Muốn cho ta làm vua
Pháp từ ái khó trói
Như bệnh uống chẳng thuốc
Cho nên ta không kham.
Chỗ vị cao ngu si
Mặc tình theo thương ghét
Suốt đời thường sợ hãi
Suy nghĩ thân tâm mệt
Theo tâm chúng trái pháp
Việc người trí không làm.
Cung điện bằng bảy báu
Trong đó lửa cháy hừng
Bếp trời, cơm trăm vị
Trong đó có chất độc
Ao sen nước trong mát
Trong đó nhiều rắn độc
Ngôi cao: Nhà tai họa
Nơi người trí không ở.
Xưa các vua cao quý
Thấy làm vua nhiều họa
Chúng sinh thêm khổ sở
Chán ngán nên xuất gia
Nên biết vua còn khổ
Chẳng bằng hành pháp an
Thà ở trong rừng núi
Ăn cỏ như cầm thú
Không kham ở trong cung
Sống chung hang rắn đen
Bỏ ngôi vị năm dục
Chịu khổ sống núi rừng
Đó chính là thuận theo
Ưa pháp, dần thêm sáng.
Giờ bỏ rừng thanh vắng
Về nhà hưởng năm dục
Ngày đêm pháp khổ tăng
Đó là việc không nên.
Bậc trượng phu vọng tộc
Vì ưa pháp xuất gia
Bỏ hẳn dù vọng tộc
Lập chí Đại trượng phu
Cắt tóc, mặt pháp phục
Ưa pháp, sống núi rừng
Giờ lại bỏ pháp phục
Trong tâm rất hổ thẹn
Vua trời còn không đoái
Huống nhà đẹp thế gian
Đã nhổ tham, sân, si
Mà ăn trở lại sao?
Nếu người ăn trở lại
Khổ ấy đâu thể kham
Như nhà người bị cháy
Phải tìm cách chạy ra
Khoảnh khắc lại trở vào
Người ấy thông minh sao?
Thấy khổ sinh, già, chết
Chán khổ mà xuất gia
Bây giờ trở lại tục
Người ấy thật ngu si.
Trong cung tu giải thoát.
Thì không có việc ấy
Vắng lặng sinh giải thoát
Làm vua như bị phạt
Vắng lặng bỏ uy vua
Làm vua trái giải thoát
Động, tĩnh như nước, lửa
Hai thứ đâu ở chung
Quyết định tu giải thoát
Cũng không ngồi ngôi vua.
Nếu nói ngồi ngôi vua
Mà tu giải thoát được
Việc ấy quyết không thể
Quyết giải thoát cũng thế
Đã không tâm quyết định
Hoặc ra lại trở vào
Giờ ta đã quyết định
Cắt mồi câu thân thuộc
Theo đường chính xuất gia
Vì sao lại quay về?”
Tâm đại thần tự nghĩ
Thái tử chí trượng phu
Biết sâu nên thuận theo
Lời nói có nhân duyên
Bèn tâu Thái tử rằng:
“Như lời Thái tử dạy
Cách cầu pháp nên thế
Nhưng giờ chưa phải lúc
Vua cha tuổi đã cao
Nhớ con thêm buồn khổ
Tuy nói ưa giải thoát
Nhưng lại không đúng pháp
Tuy xuất nhưng không tuệ
Không nghĩ lý sâu xa
Không thấy nhân cầu quả
Luống bỏ hiện pháp vui.
Người nói có đời sau
Người thì nói không có
Có, không chưa quyết định
Sao bỏ vui hiện đời?
Nếu nói có đời sau
Thì nên cần chứng đắc
Nếu nói không đời sau
Thì không là giải thoát
Nếu nói có đời sau
Không nói nhân giải thoát
Như đất chắc, lửa ấm
Nước ẩm, gió xao động
Đời sau cũng như thế
Đó là tánh tự nhiên.
Người nói tịnh, bất tịnh
Đều từ tự tánh khởi
Nói hãy tìm cách đổi
Đó là lời ngu si.
Cảnh giới các căn hành
Tự tánh đều quyết định
Nhớ thương và không nhớ
Tự tánh định cũng vậy.
Khổ già, bệnh, chết thảy
Ai mà sai khiến được
Cho nước dập tắt lửa
Lửa làm nước sôi trào
Tự tánh căn, tướng hoại
Tánh hòa thành chúng sinh.
Như người ở trong thai
Có các phần chân tay
Thần thức tự nhiên thành
Ai có khả năng làm?
Gai góc ai làm nhọn
Đó là tánh tự nhiên
Và các loại cầm thú
Không ai muốn như thế.
Có những người sinh Thiên
Do trời Tự tại làm
Và đấng tạo hóa khác
Không hề có tự lực.
Nếu có chỗ sinh ra
Chỗ này cũng phải diệt
Cần gì tự tìm cách
Mong cầu sự giải thoát.
Người nói do ngã sinh
Rồi cũng do ngã diệt
Người nói không ai sinh
Rồi do phương tiện diệt
Như người sinh nuôi con
Không phụ ân tổ tông
Học sách của vị Tiên
Cúng tế miếu thờ trời
Ba điều này không phụ
Thì gọi là giải thoát.
Từ xưa nay truyền lại
Ba câu giải thoát này
Nếu dùng phương tiện khác
Luống nhọc mà không thật.
Ngài muốn cầu giải thoát
Chỉ tu phương tiện trên
Vua cha hết đau buồn
Đạo giải thoát mau được.
Bỏ nhà vào núi rừng
Trở về cũng không lỗi
Xưa vua Am-bà-lê
Ở lâu rừng khổ hạnh
Bỏ đồ chúng quyến thuộc
Về nhà lên ngôi vua.
Có Thái tử La-ma
Bỏ nước vào núi rừng
Nghe phong tục nước thiếu
Bèn trở về giáo hóa.
Vua nước Sa-lâu-bà
Tên là Đầu-lâu-ma
Cha con vào núi rừng
Rốt cuộc đều trở về.
Bà-tư-trú-mâu-ni
Và vua An-đê-điệp
Tu phạm hạnh núi rừng
Ít lâu cũng trở về.
Những bậc tài giỏi ấy
Được vang danh chánh pháp
Về lên ngôi trị nước
Như đèn soi thế gian
Cho nên bỏ núi rừng
Pháp trị dân, không lỗi.”
Thái tử nghe đại thần
Lời dịu, nói việc lợi
Bèn dùng lý không loạn
Vô ngại và thứ lớp
Vững chí, nói an ổn
Mà đáp lời đại thần:
“Do dự có, không thảy
Hai tâm nghi hoặc tăng
Mà nói lời có, không
Ta không quyết định lấy.
Tịnh trí, tu khổ hạnh
Quyết định ta tự biết
Luận do dự thế gian
Xoay vần truyền nhau tu
Nghĩa chân thật có, không
Điều này ta chẳng an.
Người sáng phân chân ngụy
Tín không do người sinh
Như người mù bẩm sinh
Được người mù dẫn đường
Ở trong đêm trời tối
Thì biết đi đường nào!
Đối pháp tịnh, bất tịnh
Người đời sinh thắc mắc
Nếu không thấy chân thật
Nên hành đạo chân thật
Thà thực hành pháp tịnh
Không thích hành bất tịnh.
Xét thuyết tương thừa kia
Không một tướng quyết định
Lời thật tâm lắng thọ
Lìa hẳn các lỗi lầm
Nói quá thành hư ngụy
Lời người trí không nói.
Như nói chuyện La-ma
Bỏ nhà tu phạm hạnh
Cuối cùng cũng trở về
Thọ hưởng năm thứ dục
Đó là hành vi xấu
Việc người trí không theo.
Nay ta sẽ vì ông
Nói lược yếu nghĩa ấy
Trời, trăng rơi xuống đất
Tu-di, núi Tuyết chuyển
Thân ta không hề đổi
Rơi vào chỗ không đúng.
Thà nhảy vào lửa hừng
Không theo nghĩa không trọn
Trở về nhà của mình
Lao vào lửa năm dục.”
Bày tỏ yếu thệ xong
Ngài đứng dậy, giã từ.
Lời Thái tử sáng sủa
Như ánh sáng mặt trời
Quốc sư và đại thần
Luận bàn không hơn được
Bảo nhau: đã hết cách
Chỉ còn từ giã về
Rất kính khen Thái tử
Không dám bắt Ngài về
Vì kính vâng lệnh vua
Nên không dám về vội,
Giữa đường chợt bồi hồi
Đi xa, ngoái đầu lại
Lựa chọn người thông minh
Xét kỹ người cơ ngộ
Âm thầm hầu Thái tử
Rồi sau mới ra về.
❑
Ngài từ giã Quốc sư
Và Đại thần chánh pháp
Vượt qua sóng sông Hằng
Thẳng đường đến Linh thứu
Giấu căn trong năm núi
Tài năng dừng trong non
Rừng hoa trái sum suê
Suối chảy chia nóng, lạnh
Vào thành Ngũ sơn kia
Vắng lặng như lên trời.
Người dân thấy Thái tử
Dung mạo quá sáng ngời
Tuổi trẻ, thân rực rỡ
Tướng trượng phu ai bì
Đều cho là khác lạ
Như thấy cờ tự tại.
Người đi thì dừng chân
Bước mau theo sau Ngài
Người đi trước quay nhìn
Chiêm ngưỡng Ngài không chán.
Các tướng tốt trên thân
Ai nhìn mắt không rời
Cung kính đến chiêm ngưỡng
Chắp tay lễ, thăm hỏi
Thảy đều rất vui mừng
Tùy nghi mà cúng dường
Chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài
Hổ thẹn các hình tướng
Có oai nghi thô tháo
Vắng lặng lại cung kính
Tâm kết hận mở rồi
Tâm từ hòa lớn thêm
Nghiệp chung riêng nam nữ
Đều tiêu tan tất cả.
Kính tướng, tôn trọng đức
Ai thấy đều quên về
Sợi lông trắng giữa mày
Đôi mắt xanh rộng dài
Toàn thân sắc vàng chói
Tay có màng thanh tịnh
Tuy thân là xuất gia
Nhưng có tướng Thánh vương.
Gái, trai thành Vương xá
Lớn nhỏ đều không yên:
Người này còn xuất gia
Sao chúng ta vui tục?
Khi ấy, vua Bình-sa
Ở trên cao nhìn xuống
Thấy các nam nữ ấy
Vẻ bàng hoàng khác thường
Cho gọi một người đến
Hỏi vì lý do gì.
Kính quỳ dưới lầu vua
Nói rõ việc thấy nghe
Xưa nghe dòng họ Thích
Người tốt đẹp khác thường
Trí tuệ hơn người đời
Làm vua cả tám phương
Nay xuất gia ở đây
Mọi người đều đón rước.
Vua nghe, vui lẫn sợ
Thân đây, tâm đi rồi
Truyền sứ giả mau đến
Dò xét mọi hành động
Vâng lời, thầm theo chân
Xem xét mọi việc làm.
Vắng lặng, mắt nhìn thẳng
Khoan thai bày dung nghi
Vào làng hành khất thực
Đi trước các khất sĩ
Giữ thân tâm không loạn
Tốt, xấu đều an vui
Ngon, dở đều thọ nhận
Ôm bát trở về rừng
Ăn xong, súc nước trong
Ưa vắng, sống trên núi.
Rừng xanh, riêng non cao
Hoa đỏ trồng xen kẽ
Các chim như công thảy
Bay liệng kêu hót vang
Pháp phục mầu tươi sáng
Như nhật chiếu Phù tang
Ai thấy chẳng muốn rời
Thứ lớp đã trình tâu.
Vua nghe tâm thêm kính
Cho sửa soạn xa giá
Đội mũ, mặc áo đẹp
Sư tử đầu đàn bước
Chọn các bậc tôn túc
Người vắng lặng sáng suốt
Dẫn theo trăm ngàn người
Lướt mây lên Bạch sơn
Thấy Bồ-tát uy nghiêm
Các căn đều vắng lặng
Ngồi thẳng trong hang núi
Như trăng giữa trời trong
Sắc mầu nhiệm trang nghiêm
Như hóa thân của pháp,
Phát tâm thành cung kính
Dần bước nhẹ đến gần
Giống như trời Đế Thích
Đến Ma-hê-thủ-la
Khép nép giữ lễ nghi
Kính hỏi Ngài an vui.
Bồ-tát xem xét kỹ
Thuận theo mà trả lời.
Khi vua nhọc hỏi rồi
Ngồi trên tảng đá sạch
Mắt nhìn ngắm dung nghi
Sắc mặt vui, tâm hỷ
Kính nghe dòng vọng tộc
Đức thạnh nối truyền nhau
Điều từ lâu chất chứa
Nay muốn giải thắc mắc:
“Nguồn sáng của mặt trời
Phước thạnh đã muôn đời
Khiến đức cả nối nhau
Ngày nay được mở rộng
Đấng hiền minh tuổi trẻ
Vì sao đi xuất gia?
Ngài là Thánh hơn đời
Khất thực, bỏ vinh hoa
Thân quý đáng xoa hương
Vì sao mặc ca-sa
Tay nên nắm thiên hạ
Lại cầm thức ăn dở
Nếu không thay vua cha
Mà trị vì đất nước
Nay ta chia nửa nước
Hầu mong Ngài ở lại
Tôi khỏi mang tiếng đuổi
Thời gian sẽ thuận theo
Xin nể lời tôi thật
Muốn được làm bạn tốt.
Hay cậy dòng vọng tộc
Có tài đức, dung mạo
Mà không muốn hạ mình
Cúi mình thọ ân người?
Sẽ cấp ban dũng sĩ
Gươm giáo và quân lính
Để tự lực thâu tóm
Thiên hạ ai không tôn
Người sáng biết đúng lúc
Pháp tài năm dục tăng
Nếu không giữ ba lợi
Rốt cuộc chỉ luống nhọc
Chuộng pháp, bỏ tài sắc
Tài được mọi người thích
Giàu tài bỏ pháp dục
Đó là giữ tài vật
Nghèo nàn mà quên pháp
Năm dục ai vui được?
Cho nên đủ ba việc
Đức truyền, đạo tuyên dương
Pháp tài năm dục đủ
Gọi trượng phu ở đời
Không khiến thân viên tướng
Luống nhọc và vô công.
Vua chuyển luân Man-đà
Thống lãnh bốn thiên hạ
Đế Thích chia nửa tòa
Sức không làm vua trời
Nay Ngài tay thon dài
Chân đi khắp trời người
Ta không cậy sức vua
Mà muốn giữ Ngài lại.
Thấy Ngài đổi hình tướng
Thích mặc y xuất gia
Đã kính trọng đức ấy
Còn thương tiếc lẫn người.
Nay Ngài hành khất thực
Tôi xin dâng đất nước
Tuổi trẻ thọ năm dục
Trung niên tập dụng tài
Tuổi già thuần các căn
Đó là thuận theo pháp.
Tuổi trẻ giữ pháp tài
Sẽ bị dục phá hoại
Già thì khí lực yếu
Thuận theo cầu vắng lặng
Tuổi già thẹn tài dục
Hành pháp mọi người tôn
Tuổi trẻ tâm lao chao
Ruổi theo cảnh năm dục
Bị mọi thứ ràng buộc
Tình cảm giao kết sâu
Về già ít bận bịu
Người thuận pháp y cứ
Năm dục đều dứt bỏ
Tâm ưa pháp thêm lớn.
Lại, chuộng pháp vương giả
Đại hội thờ Thiên thần
Nên cỡi lưng Rồng thần
Thọ vui bay lên trời
Các vua Thánh tài giỏi
Nghiêm thân anh lạc báu
Cúng tế lập đại hội
Cuối cùng được phước trời.”
Như thế vua Bình-sa
Dùng mọi cách thuyết phục
Chí Thái tử vững chắc
Không động như Tu-di.
Vua Bình-sa thuận theo
An ủi mời thỉnh rồi
Thái tử kính đáp tạ
Cảm sâu lời vua nói
Khéo hợp pháp thế gian
Lời nói không trái lý:
“Dòng vọng tộc Ha-lê
Là tri thức mọi người
Nghĩa mang, tâm vướng bận
Pháp nên nói như thế.
Các phàm phu thế gian
Không thể hành nhân nghĩa
Đức mỏng nương tình gần
Đâu được gọi việc tốt.
Noi theo dòng cao quý
Sùng lễ tu kính nhường
Đối với sự khổ nạn
Cứu giúp không lìa bỏ
Cho nên là tướng chân
Thiện tri thức thế gian
Bạn lành cứu giúp tài
Nên gọi kho vững chắc
Giữ gìn tiếc lợi mình
Đó sẽ mau quên mất.
Báu vô thượng của nước
Bố thí làm việc phước
Và thí thiện tri thức
Tuy tán sau không hối
Đã biết Ngài tình sâu
Không nói lời trái ngược
Những điều ngày nay thấy
Tâm thành nói nhau biết.
Sợ sinh, già, bệnh, chết
Muốn tìm chân giải thoát
Bỏ cha, lìa ái ân
Há về hưởng năm dục
Không sợ rắn cực độc
Giá rét với lửa hồng
Chỉ sợ cảnh năm dục
Trôi lăn nhọc tâm tôi.
Giặc vô thường năm dục
Cướp báu lành của người
Luống dối trá chẳng thật
Giống như người huyễn hóa
Thoáng trông khiến người mê
Huống thường sống gần gũi.
Năm dục là ngại lớn
Ngăn che pháp vắng lặng
Vui trời còn không thể
Huống dục ở nhân gian.
Năm dục sinh thèm khát
Rốt cuộc không đầy đu.
Như gió mạnh lửa hừng
Ném củi vào không đủ
Các phi nghĩa thế gian
Không gì hơn năm dục
Chúng sinh vì ngu tham
Ưa thích nên không giác
Người trí sợ năm dục
Không rơi vào phi nghĩa
Vua thống lãnh bốn biển
Vẫn mong cầu bên ngoài.
Ái dục như biển cả
Không bao giờ dừng đủ
Vua Chuyển luân Man-đà
Khắp trời mưa vàng ròng
Vua trị bốn thiên hạ
Lại mong sinh Đao-lợi
Đế Thích chia nửa tòa
Vì tham muốn phải chết.
Nông-sa tu khổ hạnh
Làm vua trời băm ba
Buông dục tâm cao mạn
Vị tiên kéo xe bộ
Do việc buông lung này
Nên đọa làm mãng xà.
Vua Chuyển luân Yên-la
Dạo chơi trời Đao-lợi
Lấy Thiên nữ làm vợ
Đánh thuế vàng vị tiên
Tiên tức giận đọc chú
Nước diệt, vua qua đời.
Trời Đế Thích Ba-la
Trời Đế Thích Nông-sa
Nông-sa thuộc Đế Thích
Vua trời đâu có thường
Cõi nước chẳng bền chắc
Chỉ người sức mạnh ở
Thường mặc lớp áo cỏ
Ăn trái, uống nước suối
Tóc dài xõa tận đất
Vắng lặng không mong cầu
Tu khổ hạnh như thế
Rồi cũng bị dục hại.
Nên biết cảnh năm dục
Là kẻ thù người tu
Vua Thiên Tý Đại Lực
Mạnh mẽ khó ai địch
Bị tiên La-ma giết
Cũng bởi do tham dục.
Huống Ta dòng Sát-lợi
Không bị dục kéo lôi
Nhỏ nếm cảnh giới dục
Nhỏ dứt, lớn càng thêm
Người trí rất chán ghét
Dục độc ai uống ăn
Cầu lợi bằng mọi cách
Đều do tham sai khiến.
Nếu người không tham dục
Siêng năng thì không sinh
Người trí thấy lỗi khổ
Dứt bỏ các tham dục.
Thế gian cho là thiện
Tức đều là pháp ác
Chúng sinh vì ham vui
Sinh ra các buông lung
Buông lung trở hại mình
Chết sẽ đọa đường ác,
Siêng tìm cách đạt được
Phải tìm cách giữ gìn
Không siêng tự đánh mất
Không cách nào giữ được.
Giống như vật giả mượn
Người trí không tham đắm
Siêng năng tìm năm dục
Được thì thêm yêu đắm
Khi vô thường ly tán
Lại càng thêm khổ não
Cầm đuốc tự cháy tay
Người trí không yêu đắm.
Người ngu si thắp hèn
Lửa sẻn tham đốt thân
Suốt đời mãi chịu khổ
Không hề được an vui.
Tham giận như rắn độc
Người trí không dám gần
Khổ nhọc gặm xương khô
Không mùi vị, không no
Luống tự mỏi răng miệng
Người trí không dám nếm.
Vua giặc, lửa nước phân
Của chung, con ác thảy
Cũng như cục thịt thối
Cả bầy chim tranh giành
Tham tài cũng như vậy
Người trí không ưa thích.
Chỗ tài sản nhóm họp
Thường sinh khởi thù oán
Ngày đêm tự giữ gìn
Như người sợ oán nặng
Nêu giết chợ đông hạ
Bị lòng người oán ghét
Nêu tham, sân, si cao
Người trí thường xa lìa.
Vào rừng núi, sông biển
Thất bại nhiều, ít an
Như hái quả cây cao
Do tham thường té chết
Cảnh tham dục cũng thế
Tuy thấy nhưng khó lấy
Tìm mọi cách cầu tài
Khó gom mà dễ tan
Như cái được trong mộng
Người trí đâu giữ gìn.
Như hố lửa ngụy trang
Ai đạp thì chết cháy
Lửa tham dục cũng thế
Người trí không đạp lên.
Như Cưu-la bộ kia
Bật-sắt-phú-nan-đà
Di-hy-lợi-đàn-trà
Như con dao hàng thịt
Hình ái dục cũng thế
Người trí không dám làm
Gieo mình vào nước, lửa
Hoặc nhảy xuống sườn núi
Cầu được sinh cõi trời
Luống khổ, chẳng được lợi.
Tôn Đào, Bát Tôn Đào
Anh em A-tu-luân
Đều có tâm thương nhau
Vì dục, tàn hại nhau
Thân chết, tiếng tăm mất
Đều là do tham dục.
Tham ái làm người hèn
Roi gậy đánh đập khổ
Ái dục hy vọng hèn
Đêm dài thân tâm nhọc
Nai vì tham tiếng chết
Chim tham sắc mạng vong
Cá tham mồi bỏ xác
Đều bị dục làm khổ.
Quán sát vật nuôi sống
Chẳng phải pháp tự tại
Ăn để chữa bệnh đói
Uống nước để hết khát
Y phục để ngăn lạnh
Nằm để trị ngủ nghỉ
Đi mệt nên ngồi xe
Đứng mỏi chân tìm ghế
Tắm gội để trừ dơ
Đều là dứt bỏ khổ.
Vì thế phải nên biết
Năm dục chẳng tự tại
Như người bị sốt cao
Tìm nước mát để trị
Tham cầu dứt khổ hoạn
Người ngu cho tự tại
Nhưng vật nuôi sống kia
Cũng chẳng phải dứt khổ
Lại làm pháp khổ tăng
Nên chẳng phải tự tại.
Áo ấm chẳng thường vui
Hết lạnh cũng sinh khổ
Ánh trăng mùa hạ mát
Mùa đông thêm khổ hạnh.
Đến tám pháp thế gian
Đều chẳng tướng quyết định
Tướng khổ vui bất định
Tớ và vua đâu phân.
Vua ra lệnh, chúng vâng
Vì vua là trên hết
Ra lệnh chính là khổ
Còn mang nhiệm vụ nặng
Đều cân nhắc nặng nhẹ
Các khổ nhóm vào thân
Làm vua nhiều kẻ ghét
Dù thân cũng thành đọa
Không thân ở một mình
Như thế có gì vui?
Vua trị bốn thiên hạ
Nhưng dùng không quá một
Tìm cầu cả muôn việc
Luống khổ, ích gì thân?
Chưa khổ, dứt tham cầu
Dứt việc là an vui
Làm vua vui năm dục
Không làm, vui vắng lặng
An vui đã bình đẳng
Thì làm vua mà chi?
Ngài chớ tìm mọi cách
Dẫn tôi vào năm dục
Điều mà tôi mong muốn
Là con đường thoáng mát.
Ngài muốn lợi ích tôi
Xin giúp điều tôi cầu
Tôi không sợ kẻ thù
Không cầu sinh cõi trời
Tâm không nghĩ danh lợi
Nên cởi bỏ mũ trời
Vì thế trái ý ngài
Không tuân theo ý chỉ.
Như thoát miệng rắn độc
Đâu trở lại nắm giữ
Cầm đuốc tự cháy tay
Vì sao không bỏ ngay?
Người có mắt muốn mù
Đã mở lại muốn buộc
Người giàu lại muốn nghèo
Người trí muốn ngu si
Đời có người như thế
Thì tôi nên làm vua.
Muốn vượt sinh, già, chết
Tiết chế, hành khất thực
Ít muốn, giữ vắng lặng
Đời sau khỏi đường ác
Nên hai đời an vui.
Nay Ngài đừng thương tôi
Nên thương người làm vua
Tâm ấy thường khao khát
Đời nay không được an
Đời sau chịu khổ báo.
Ngài dùng dòng họ quý
Lễ nghĩa đại trượng phu
Đối đãi tôi trọng hậu
Vui đồng vui thế gian
Tôi cũng nên báo ân
Khuyên ngài lợi như tôi.
Nếu tu ba phẩm vui
Đó gọi Đại trượng phu.
Đây cũng là phi nghĩa
Thường cầu không biết đủ
Nếu không sinh, già, chết
Mới gọi Đại trượng phu
Ngài nói trẻ lao chao
Già mới nên xuất gia
Tôi thấy người tuổi già
Sức yếu không kham nổi
Không bằng lúc còn trẻ
Chí vững tâm quyết định
Thần chết cầm kiếm theo
Thường rình dịp giết hại
Đâu chờ đến lúc già
Toại chí đi xuất gia.
Vô thường là thợ săn
Già: cung, bệnh: tên bén
Trong cánh đồng sinh tử
Thường rình nai: chúng sinh
Được dịp liền giết hại
Ai cho sống suốt đời.
Việc làm của con người
Việc sinh hoặc việc diệt
Nhỏ, lớn và trung niên
Đều nên siêng tìm cách.
Cúng tế tu đại hội
Đó đều là ngu si
Phải nên chuộng chánh pháp
Lại giết để tế trời
Giết chúng sinh cầu phước
Là người không tâm Từ
Hại sinh, quả hữu thường
Vẫn còn không nên giết
Huống là cầu vô thường
Giết chúng sinh cúng tế
Nếu người không giới, văn,
Tuệ, tu thiền vắng lặng
Không nên theo thế gian
Cúng tế lập đại hội
Sát sinh được hiện vui.
Người trí không nên giết
Huống là giết chúng sinh
Mà cầu phước đời sau.
Quả hữu vi ba cõi
Chẳng phải điều tôi ưa
Pháp trôi lăn các nẻo
Như gió thổi lục bình
Cho nên tôi viễn du
Vì cầu chân giải thoát.
Nghe nói A-la-lam
Khéo giảng đạo giải thoát
Giờ sẽ đến chỗ vị
Đại tiên Mâu-ni kia.
Lời thật xin nén lại
Giờ, tôi xin lỗi vua
Nguyện nước Ngài an ổn
Khéo giữ như Đế Thích
Ánh tuệ soi thiên hạ
Giống như ánh mặt trời.
Một vị vua tối thắng
Hộ mạng bằng giữ tâm
Chánh hóa giữ con mình
Cai trị bằng chánh pháp
Băng tuyết, lửa là thù
Nương cờ khói lửa sinh
Cờ khói thành mây nổi
Mây nổi tuôn mưa lớn
Có con chim trong không
Uống mưa, không ướt thân
Giết oán nặng là nhà
Ở nhà oán nặng giết.
Có người giết oán nặng
Nay ngài nên tha họ
Để họ được giải thoát
Như uống không ướt mình.”
Nhà vua liền chắp tay
Kính đức, tâm vui mừng:
“Như điều Ngài mong cầu
Mong cho quả mau thành
Khi thành tựu quả rồi
Xin Ngài về độ tôi.”
Bồ-tát hứa trong tâm
Sẽ khiến vua toại nguyện
Giã từ, Ngài lên đường
Đến chỗ A-la-lam.
Vua và các quyến thuộc
Cùng chắp tay đưa tiễn
Đều cho là kỳ lạ
Trở về thành Vương xá.
Dòng Nhật quang Cam giá
Đến rừng vắng lặng kia
Tới chỗ vị Mâu-ni
Đại tiên A-la-lam.
Ca-lam dòng quý tộc
Xa thấy Bồ-tát đến
Lớn tiếng xa khen ngợi
An ủi rằng lành thay
Chắp tay lẫn cung kính
Hỏi thăm an lành không.
Hỏi thăm sức khỏe rồi
Khoan thai cùng ngồi xuống
Phạm chí thấy Thái tử
Dung mạo rất uy nghi
Gội nhuần, kính đức hạnh
Như khát uống cam lộ
Đưa tay bảo Thái tử:
“Biết Ngài xuất gia lâu
Bỏ cha, mở khóa ái
Giống như voi thoát nài
Trí sâu, tuệ giác sáng
Khỏi ăn quả độc này.
Thuở xưa, vua Minh Thắng
Nhường ngôi lại cho con
Như người đeo tràng hoa
Khô héo nên vất bỏ
Chẳng bằng Ngài tuổi trẻ
Không lên ngôi Thánh vương.
Xét chí vững của Ngài
Xứng đáng là pháp khí
Nên ngồi thuyền trí tuệ
Vượt qua biển sinh tử.
Hễ có người đến học
Xét tài rồi mới dạy
Nay tôi đã biết Ngài
Chí vững chắc, quyết định
Hãy nên hết lòng học
Tôi không giấu điều chi.”
Thái tử nghe dạy bảo
Vui mừng mà đáp rằng:
“Ngài có tâm bình đẳng
Khéo dạy, không thương ghét
Chỉ nên hết lòng nhận
Việc mong cầu đã được.
Đi đêm được đuốc sáng
Lạc lối được người dẫn
Qua biển được thuyền nan
Nay tôi cũng như vậy
Đã được Ngài thương xót
Dám hỏi điều tâm nghi:
Khổ sinh, già, bệnh, chết
Làm thế nào được khỏi?”
Bấy giờ A-la-lam
Vừa nghe Thái tử hỏi
Liền đem các kinh luận
Để giải thích sơ lược:
“Ngài là bậc cơ ngộ
Người thông minh bậc nhất
Giờ xin nghe tôi nói
Nghĩa sống chết, sinh diệt.
Tánh, biến, sinh, già, chết
Năm thứ là chúng sinh
Tánh nghĩa là thuần tịnh
Chuyển biến là năm đại
Ngã, giác cùng với kiến
Căn theo cảnh là biến
Sắc, thanh, hương, vị, xúc
Đều gọi là cảnh giới
Tay chân, ngữ hai đường
Đó gọi năm nghiệp căn.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Đó gọi là Giác căn
Ý căn gồm hai nghĩa
Vừa nghiệp vừa gọi giác
Tánh chuyển biến là nhân
Người biết nhân là Ngã.
Vị tiên Ca-tỳ-la
Và đệ tử quyến thuộc
Đối yếu nghĩa tôi đây
Tu học được giải thoát.
Tiên Ca-tỳ-la kia
Nay Ba-xà-ba-đề
Giác biết sinh, già, chết
Thuyết này gọi là kiến
Trái với thuyết nói trên
Thuyết gọi là Bất kiến
Nghiệp ngu si ái dục.
Thuyết ấy là luân chuyển
Nếu vướng ba thứ này
Chúng sinh ấy không lìa
Bất tín, ngã, nghi, lạm
Bất biệt, không phương tiện
Cảnh giới sâu chấp trước
Mãi nằm trong ngã sở.
Bất tín, điên đảo chuyển
Làm khác cũng hiểu khác
Ngã nói, ngã hay biết
Ngã đến đi, ngã trụ
Các chấp ngã như thế
Đó gọi ngã tác chuyển.
Đối các tánh do dự
Phải quấy không phải thật
Không quyết định như thế
Thuyết ấy gọi là Nghi.
Nếu nói pháp là Ngã
Nói đó tức là ý
Cũng như Giác và Nghiệp
Nói số lại nói Ngã
Không phân biệt như thế
Thuyết ấy gọi chung Lạm.
Ngu, trí tánh biến đổi
Không rõ gọi Bất biệt
Lễ bái, tụng các sách
Sát sinh tế miếu trời
Nước lửa thảy là tịnh
Mà sinh tưởng giải thoát
Các thứ kiến như thế
Đó gọi không phương tiện.
Kẻ ngu si chấp đắm
Ý, lời nói, giác nghiệp
Và cảnh giới chấp đắm
Thuyết ấy gọi là trước.
Các vật đều ngã sở
Đó gọi là nhiếp thọ
Tám thứ hoặc như thế
Càng chìm trong sinh tử.
Những kẻ ngu ở đời
Nhiếp thọ lấy năm tiết:
Ám si và đại si
Tức giận và sợ sệt
Biếng nhác gọi là Ám
Sống chết gọi là Si
Ái dục gọi đại si
Người lớn sinh mê lầm
Ôm hận gọi tức giận
Tâm hãi gọi sợ sệt.
Phàm phu ngu si ấy
Chấp đắm năm dục lạc
Sống chết là gốc khổ
Xoay lăn trong năm đường
Chuyển sinh ngã thấy nghe
Ngã biết, ngã làm ra
Do vì chấp ngã này
Thuận theo dòng sinh tử.
Nhân này không có tánh
Quả cũng chẳng có tánh
Gọi đó suy nghĩ đúng
Bốn pháp hướng giải thoát.
Thông minh và ngu tối
Hiển bày, không hiển bày
Nếu biết bốn pháp này
Lìa được sinh, già, chết.
Sinh, già, chết đã hết
Mau được chỗ vô tận
Bà-la-môn thế gian
Thảy đều nương nghĩa này
Tu hành các phạm hạnh
Cũng nói rộng người nghe.’
Thái tử nghe lời ấy
Lại hỏi A-la-lam:
“Thế nào là phương tiện
Rốt ráo đến chỗ nào?
Thực hành phạm hạnh nào?
Lại nên vào lúc nào?
Vì sao tu phạm hạnh?
Pháp nên đến chỗ nào?
Các yếu nghĩa như thế
Xin nói đủ tôi nghe.”
Bấy giờ, A-la-lam
Nói như kinh luận kia
Tự dùng tuệ phương tiện
Lại giải thích sơ lược:
“Trước lìa tục xuất gia
Y theo hạnh khất thực
Tu tập các oai nghi
Vâng giữ các chánh giới
Ít muốn và biết đủ
Ngon dở đều thọ nhận
Một mình tu vắng lặng
Siêng tu các kinh luận
Thấy tham dục sợ sệt
Lìa dục được thanh tịnh,
Giữ các căn vào làng
Tâm sống trong vắng lặng
Lìa dục ác bất thiện
Các phiền não cõi Dục
Xa lìa sinh vui mừng
Được thiền sơ giác quán.
Đã được vui Sơ thiền
Cùng với tâm giác quán
Cho đó là đặc biệt
Tâm ngu si ưa đắm
Tâm nương xa lìa vui
Qua đời sinh Phạm thiên.
Người trí tự biết được
Phương tiện dùng giác quán
Tinh tấn cầu tiến lên
Tương ưng Thiền thứ hai
Mê đắm vui mừng kia
Được sinh trời Quang âm,
Phương tiện lìa vui mừng
Tu lên Thiền thứ ba
An vui không cầu thắng
Sinh lên trời Biến tịnh,
Xả bỏ ý vui ấy
Chứng được thiền thứ tư
Khổ vui đều đã dứt
Hoặc nghĩ rằng giải thoát
Nhờ phước Tứ thiền kia
Được sinh trời Quảng quả.
Chư Thiên này sống lâu
Nên gọi là Quảng quả
Ở đó thiền định khởi
Thấy có thân là lỗi
Tăng tiến tu trí tuệ
Chán lìa Thiền thứ tư
Quyết định cầu tiến thêm
Tìm cách trừ sắc dục
Trước các lỗ trên thân
Dần dần tu cởi mở
Cuối cùng phần vững chắc
Đều thành tựu không quán
Tiến quán vô lượng thức
Khéo léo trong vắng lặng
Lìa ngã và ngã sở
Quán sát vô sở hữu.
Vô sở hữu xứ này
Văn-xà da xương lìa
Chim hoang thoát khỏi lồng
Xa lìa khỏi cảnh giới
Giải thoát cũng như vậy.
Bà-la-môn trên đây
Lìa thân thường bất tận
Người trí phải nên biết
Đó là chân giải thoát.
Phương tiện mà Ngài hỏi
Và người cầu giải thoát
Như lời tôi nói trên
Người tin sâu nên học.
Vị tiên Lân-kỳ-sa
Cùng với Xà-na-già
Tỳ-đà-ba-la-sa
Và người cầu đạo khác
Đều từ nơi đạo này
Mà được chân giải thoát.”
Thái tử nghe Tiên nói
Suy nghĩ nghĩa thú ấy
Phát khởi duyên đời trước
Rồi lại thưa hỏi nữa:
“Nghe Ngài trí tuệ cao
Nghĩa nhiệm mầu sâu xa
Biết nhân mà không bỏ
Chẳng phải đạo rốt ráo.
Tánh chuyển biến biết nhân
Nói rằng người giải thoát
Tôi quán sinh pháp này
Cũng là pháp chủng tử.
Ngài cho ngã thanh tịnh
Đó là chân giải thoát
Nếu gặp nhân duyên hội
Thì trở lại buộc ràng
Giống như chủng tử kia
Giờ, đất nước lửa gió
Lìa tan sinh trái lý
Gặp duyên chủng lại sinh
Nghiệp nhân ái vô tri
Bỏ thì gọi giải thoát.
Các chúng sinh còn ngã
Không giải thoát rốt ráo
Nơi nơi bỏ ba chủng
Mà lại được ba thắng
Vì ngã thường có nên
Kia phải theo nhỏ nhiệm
Vì theo lỗi nhỏ nhiệm
Nên tâm lìa phương tiện
Tuổi thọ được lâu dài.
Ngài cho chân giải thoát
Ngài nói lìa ngã sở
Nếu lìa thì không có
Các số đã không lìa
Làm sao lìa Cầu-na?
Cho nên có Cầu-na
Nên biết chẳng giải thoát.
Cầu-ni và Cầu-na
Nghĩa khác mà thể một
Nếu nói lìa nhau thì
Không hề có việc ấy.
Sắc nóng xa lìa lửa
Lửa khác không thể được
Như trước khi có thân
Thì không hề có thân
Như thế trước Cầu-na
Cũng không có Cầu-ni
Cho nên trước giải thoát
Sau mới bị thân buộc
Lại biết do lìa thân
Hoặc biết hoặc không biết
Nếu nói là có biết
Thì nên có chỗ biết
Nếu như có chỗ biết
Thì chẳng phải giải thoát
Còn nếu nói không biết
Thì ngã không dùng được.
Lìa ngã mà có biết
Thì ngã đồng gỗ đá
Biết đủ cả tinh thô
Bỏ thô mà trọng tinh
Nếu bỏ được tất cả
Thì việc làm rốt ráo.”
Lời A-la-lam nói
Không vui lòng Thái tử
Biết chẳng Nhất thiết trí
Nên đi tìm vị khác
Đến chỗ tiên Uất-đà.
Kia cũng chấp có ngã
Tuy quán cảnh nhỏ nhiệm
Thấy lỗi tưởng, bất tưởng
Lìa trụ tưởng phi tưởng
Lại không có đường ra
Vì chúng sinh đến đó
Sẽ lại bị lui sụt.
Vì Bồ-tát mong thoát
Lại bỏ tiên Uất-đà
Để cầu đạo mầu hơn
Bèn lên núi Già-xà
Thành tên Khổ hạnh lâm
Năm Tỳ-kheo trước ở.
Thấy năm Tỳ-kheo ấy
Khéo thu nhiếp các căn
Giữ giới tu khổ hạnh
Ở rừng khổ hạnh kia
Cạnh sông Ni-liên-thiền
Vắng lặng rất an vui,
Bồ-tát liền đến đó
Ngồi một chỗ suy nghĩ.
Năm Tỳ-kheo biết Ngài
Chuyên tâm cầu giải thoát
Nên hết lòng cúng dường
Như kính trời Tự tại,
Nhún mình thờ làm thầy
Mỗi bước thường không rời
Giống như người tu hành
Các căn tùy tâm chuyển.
Bồ-tát siêng tìm cách
Để vượt già, bệnh, chết
Chuyên tâm tu khổ hạnh
Tiết chế thân quên ăn
Tịnh tâm giữ trai giới
Người tu khác không kham.
Thiền tư trong vắng lặng
Ròng rã suốt sáu năm
Ngày ăn một hạt mè
Thân thể rất ốm gầy
Mong độ người chưa độ.
Hoặc nặng lại càng chìm
Đạo nhờ tuệ giải thoát
Không ăn, chẳng phải nhân
Thân thể tuy suy yếu
Nhưng tâm tuệ càng sáng
Tâm rỗng, thân nhẹ nhàng
Tiếng khen vang khắp nơi
Như vầng trăng mới mọc
Hoa Cưu-mâu-đầu nở
Tiếng thơm vang khắp nước
Gái, trai đua đến xem.
Thân hình như cây khô
Qua thời gian sáu năm
Chán sợ khổ sinh tử
Chuyên cần nhân Chánh giác
Tự nghĩ chẳng nhờ đó
Lìa dục, tịch quán sinh
Chẳng như Ta lúc trước
Ở dưới cây Diêm-phù
Được pháp chưa từng có.
Nên biết đó là Đạo
Đạo chẳng do thân gầy
Thân cần phải có sức
Uống ăn nuôi các căn
Căn vui giúp tâm an
Tâm an thuận vắng lặng.
Lặng là nhân thiền định
Nhờ thiền biết thánh pháp
Sức pháp được khó được
Vắng lặng lìa già chết
Lìa các cấu bậc nhất
Các pháp mầu như thế
Đều nhờ uống ăn sinh.
Suy nghĩ nghĩa ấy rồi
Tắm gội sông Ni-liên
Tắm xong, định bước lên
Sức yếu, không lên được
Thiên thần uốn cành cây
Đưa tay vịn bước lên.
Bấy giờ, cạnh rừng ấy
Có một cô gái nọ
Chăn bò tên Nan-đà,
Trời Tịnh cư đến bảo:
“Bồ-tát ở trong rừng
Cô nên đến cúng dường.”
Nan-đà-bà-la-xà
Vui mừng đến chỗ Ngài
Tay đeo xuyến ngọc trắng
Thân mặc áo màu xanh
Màu trắng, xanh ánh nhau
Như nước thấy bóng chìm
Tâm kính tin hớn hở
Cúi lễ chân Bồ-tát
Kính dâng cháo sữa thơm
Cúi xin thương xót nhận.
Bồ-tát nhận và dùng
Nàng được quả hiện pháp
Dùng xong, các căn vui
Kham thọ nhận Bồ-đề
Cả thân thể sáng ngời
Đức hạnh càng thêm cao
Như trăm sông đổ biển
Trời, trăng càng thêm sáng.
Năm Tỳ-kheo thấy Ngài
Kinh ngạc, lấy làm lạ
Cho Ngài tâm đạo lùi
Bỏ đi, tìm chỗ tốt
Nếu người được giải thoát
Năm đại đều xa lìa.
Bồ-tát đi một mình
Đến dưới cội Cát tường
Ngay dưới cội cây ấy
Thành đạo Đẳng chánh giác.
Nơi ấy đất rộng bằng
Cỏ mềm mơn mởn mọc
Sư tử khoan thai bước
Mỗi bước, đất rung chuyển
Đất cảm động rồng mù
Vui mừng, mắt được sáng
Nói từng thấy Phật trước
Tướng đất rung như nay.
Đấng Mâu-ni tôn quý
Mặt đất không ai hơn
Mỗi bước chân đạp đất
Tiếng rung chuyển ầm ầm
Ánh sáng màu chiếu khắp
Như mặt trời sáng hôm.
Năm trăm con chim xanh
Trên không nhiễu bên phải
Làn gió mát nhẹ nhàng
Thuận theo mà cuốn tròn
Các điều lành như thế
Đều đồng Phật quá khứ
Cho nên biết Bồ-tát
Sẽ thành đạo Chánh giác.
Được người cắt cỏ kia
Cho cỏ mềm thanh tịnh
Bèn trải dưới gốc cây
Chánh thân mà an tọa
Ngồi kiết già, không động
Như rồng buộc lấy thân
Quyết không rời chỗ này
Tu tập đến rốt ráo.
Khi Ngài phát thệ này
Trời, rồng đều mừng vui
Gió mát nhè nhẹ thổi
Cỏ cây không xào xạc
Tất cả các cầm thú
Im bặt không tiếng kêu
Đó là tướng nói lên
Bồ-tát sẽ thành đạo.
Đại Tiên vương tộc tiên
Ở dưới cội Bồ đề
Lập lời nguyện vững chắc
Phải thành đạo giải thoát
Quỉ, Rồng, các Thiên chúng
Thảy đều rất vui mừng.
Vua Thiên ma Pháp Oán
Chỉ buồn mà không vui
Vua năm dục tự tại
Có các thuật chiến đấu
Ganh ghét người giải thoát
Nên gọi là Ba-tuần.
Ma vương có ba gái
Dung nghi đẹp mỹ miều
Có mọi cách mê người
Bậc nhất trong Thiên nữ
Cô cả tên Dục Nhiễm
Cô kế Năng Duyệt Nhân
Cô út Khả Ái Lạc.
Ba cô đồng thời đến
Thưa cha Ba tuần rằng:
“Chẳng hay có việc gì
Mà cha lo việc ấy?”
Cạn tình bảo các con:
“Đại Mâu-ni ra đời
Thân mặc giáp đại thệ
Tay cầm cung đại ngã
Tên cứng bén trí tuệ
Muốn hàng phục chúng sinh
Phá hủy cảnh giới ta.
Một khi ta không bằng
Chúng sinh tin theo kia
Trở về đạo giải thoát
Cõi nước ta trống rỗng.
Thí như người phạm giới
Thân họ còn trống không
Mắt tuệ chưa mở thông
Nước ta còn yên ổn
Phải đến phá chí kia
Phá sập cầu cứu nàn.”
Cầm cung, mang năm tên
Cùng nam nữ thân quyến
Đến rừng Cát tường kia
Cầu chúng sinh chẳng yên.
Thấy Mâu-ni vắng lặng
Muốn vượt biển ba cõi
Tay trái cầm cung mạnh
Tay phải cầm tên nhọn
Mà bảo Bồ tát rằng:
“Ông Sát-lợi mau dậy
Chết rất đáng sợ hãi
Phá mà ông đang tu
Lìa bỏ pháp giải thoát!
Tu tập hội “thí phước”
Điều phục các thế gian
Chết được sinh cõi trời
Đạo này được khen ngợi
Việc làm tốt trước kia
Vua tiên dòng dõi quý
Điều khất sĩ không nên.
Giờ, nếu không đứng lên
Ông hãy nên yên chí
Chớ xả bỏ yếu thệ
Ta bắn một mũi tên
Cháu Yên-la Nguyệt Quang
Cũng do mũi tên ta
Chạm nhẹ như gió thổi
Mà tâm nó phát điên.
Tiên khổ hạnh vắng lặng
Nghe tiếng tên ta bắn
Tâm liền rất sợ hãi
Hôn mê mất bản tánh
Huống ông trong đời mạt
Mong thoát mũi tên ta
Giờ ông mau đứng dậy
May ra được an toàn.
Tên này rất độc hại
Khẳng khái mà chống lại
Người đủ sức chịu tên
Tự an còn rất khó
Huống ông không kham nỗi
Làm sao không kinh hãi?”
Ma nói những điều trên
Để bức hiếp Bồ-tát
Nhưng lòng Ngài thản nhiên
Không nghi, không sợ sệt.
Ma vương liền bắn tên
Ba ngọc nữ tiến lên
Bồ-tát chẳng ngó tên
Cũng chẳng nhìn ba cô.
Ma vừa sợ vừa ngờ
Trong lòng ma tự hỏi
“Từng vì Tuyết sơn nữ
Bắn Ma-hê thủ-la
Làm biến loạn lòng người
Nhưng không động Bồ-tát.
Không dùng tên này nữa
Và ba ngọc nữ đây
Có thể đổi tâm kia
Khiến sinh ra thương giận
Phải hợp quân chúng lại
Dùng sức mạnh ép bức.”
Khi ma nghĩ như thế
Ma quân bỗng tụ lại
Nhiều hình thù quái dị
Cầm kích, cầm đao kiếm
Nâng cây, cầm chày vàng
Đầu heo, cá, lừa, ngựa
Hình lạc đà, trâu, hổ
Đầu sư tử, voi, rồng...
Và loài cầm thú khác
Hoặc một thân nhiều đầu
Hoặc mỗi mặt một mắt
Hoặc lại rất nhiều mắt
Bụng lớn, thân cao nghều
Hoặc gầy nhom, không bụng
Hoặc chân dài, gối lớn
Hoặc chân lớn, vế mập
Hoặc móng sắc, nanh dài
Hoặc không đầu, mắt, mặt
Hoặc hai chân, nhiều thân
Hoặc mặt lớn, mặt bên
Hoặc có màu tro đất
Hoặc như ánh sao sáng
Hoặc thân tuôn khói lửa
Hoặc tai voi, vác núi
Hoặc khỏa thân, tóc phủ
Hoặc là mặc áo da
Mặt nửa đỏ nửa trắng
Hoặc mặc áo da cọp
Hoặc mặc áo da rắn
Hoặc lưng vác linh lớn
Hoặc tóc quấn trôn ốc
Hoặc tóc xõa che thân
Hoặc hút tinh khí người
Hoặc cướp mạng sống người
Hoặc nhảy liệng, kêu lớn
Hoặc chạy đuổi bắt nhau
Hoặc tự giết hại nhau
Hoặc xoay chuyển trong không
Hoặc bay dưới tàng cây
Hoặc kêu la, hét, rống
Tiếng dữ động đất trời
Các thứ ác như vậy
Bao quanh cây Bồ-đề.
Hoặc muốn xé nát thân
Hoặc lại muốn ăn nuốt
Bốn bề dậy lửa đỏ
Khói lửa bốc trời xanh
Gió mạnh dậy tứ phía
Núi rừng đều rung chuyển
Gió lửa lẫn khói bụi
Mờ tối không thấy gì.
Các trời người ái pháp
Và các rồng, quỉ thảy
Đều căm ghét chúng ma
Tức giận máu lệ tuôn.
Các vị trời Tịnh cư
Thấy ma loạn Bồ-tát
Lìa dục, tâm không sân
Thương sợ chúng hại Ngài
Đều đến thấy Bồ-tát
Ngồi ngay không khuynh động
Vô lượng ma bao vây
Tiếng dữ động trời đất
Bồ-tát vẫn an nhiên
Sắc mặt không biến đổi
Như sư tử đầu đàn
Ở giữa một bầy thú
Đều khen ngợi: “Ô hô!
Lạ lùng chưa từng có”
Các ma sách đuổi nhau
Đều dùng hết uy lực
Chúng thay nhau tấn công
Giây lát khiến tiêu diệt
Nghiến răng mà trợn mắt
Loạn bay mà níu kéo
Bồ-tát im lặng quán
Như xem trẻ đùa giỡn.
Các ma càng nổi giận
Càng ra sức chiến đấu
Ôm đá không dỡ nổi
Dỡ nổi không ném được,
Phóng giáo, kích sắc bén
Ngưng giữa không, không rơi,
Mưa đá, sấm chớp vang
Hóa thành hoa năm màu,
Hơi độc rắn, rồng dữ
Hóa thành hơi gió thơm.
Các loại các hình tướng
Muốn làm hại Bồ-tát
Không thể làm khuynh động
Gây hại, tự tổn thương.
Ma vương có anh em
Tên Di-đà Ca-lợi
Cầm vũ khí đầu lâu
Đứng trước mặt Bồ-tát
Làm nhiều trò quái dị
Để hoặc loạn Bồ-tát.
Các thứ ma như thế
Nhiều loại thân xấu xa
Gây các tiếng ghê rợn
Muốn làm Bồ-tát sợ
Nhưng không động mảy may
Các ma đều lo sầu.
Không trung, nhiều thần giúp
Ẩn thân phát ra tiếng:
“Ta thấy Đại Mâu-ni
Tâm không hề oán hận
Các ma lòng ác độc
Người không oán, sinh oán
Các ác ma ngu si
Luống nhọc, làm được gì.
Nên bỏ tâm sân hại
Sống vắng lặng an nhiên
Ngươi không thể dùng miệng
Thổi động núi Tu-di
Lửa lạnh, nước hừng cháy
Tính đất phẳng mềm mại
Không thể phá Bồ-tát
Nhiều kiếp tu quả lành.
Bồ-tát chánh tư duy
Tinh tấn hành phương tiện
Trí tuệ tịnh soi sáng
Từ bi với mọi loài
Bốn công đức mầu này
Không dứt đoạn giữa chừng
Khó mà cản Bồ-tát
Không thành đạo Chánh giác.
Như ngàn ánh nhật quang
Tất xua tối cõi thế
Dùi gỗ mà được lửa
Đào đất được nước tràn
Tinh tấn hành phương tiện
Không cầu gì chẳng được.
Thế gian không ai cứu
Trúng độc tham, sân, si
Vì thương xót chúng sinh
Tìm thuốc hay trí tuệ
Để trừ khổ cho đời
Vì sao ngươi não loạn?
Thế gian các si hoặc
Đều do đắm đường tà
Bồ-tát tu đường chánh
Muốn dẫn dắt chúng sinh
Não loạn Bậc Đạo Sư
Cho nên tuyệt không thể!
Như trong cánh đồng rộng
Dẫn đường lừa người buôn
Chúng sinh lạc đường tối
Không biết nơi sẽ đến
Thắp đèn trí tuệ cho
Vì sao lại muốn tắt?
Chúng sinh bị nổi chìm
Trong biển lớn tử sinh
Làm con thuyền trí tuệ
Sao muốn dìm cho chìm?
Nhẫn nhục là mầm pháp
Chí vững là gốc pháp
Tâm giác là thân cành
Hoa là luật nghi giới
Cây đại thọ trí tuệ
Pháp vô lượng là trái
Bóng che chở chúng sinh
Vì sao lại muốn chặt?
Gông cùm, tham, sân, si
Trói buộc các chúng sinh
Nhiều kiếp tu khổ hạnh
Vì giải thoát chúng sinh
Hôm nay quyết định thành
Chính thức ngồi tại đây
Như các Phật quá khứ.
Đài kim cang vững chắc
Các phương đều nghiêng động
Chỉ nơi đây yên ổn
Kham nhẫn được diệu định
Ngươi không phá được đâu!
Phải nên hạ thấp tâm
Dứt bỏ tâm kiêu mạn
Phải tu “tâm tri thức”
Nhẫn nhục mà thờ phụng!”
Ma nghe tiếng trên không
Thấy Bồ-tát an tịnh
Xấu hổ bỏ kiêu mạn
Lại trở về cõi trời.
Các ma đều lo lắng
Mất hết các uy vũ
Các khí trượng chiến đấu
Bỏ ngổn ngang trong rừng
Như người giết kẻ oán
Bè đảng đều tiêu tan.
Các ma đã tan tác
Tâm Bồ-tát vắng lặng
Ánh mặt trời thêm sáng
Bụi mù đều lắng chìm
Trăng sáng các sao hiện
Không còn bóng tối phủ
Không trung mưa hoa trời.
Để cúng dường Bồ-tát.
Bồ-tát hàng ma rồi
Lòng vững chắc an tĩnh
Cầu chứng nghĩa đệ nhất
Vào sâu trong diệu thiền
Các Tam-muội tự tại
Lần lượt hiện trước mặt.
Đầu hôm nhập chánh định
Nhớ lại đời quá khứ
Từ nơi đâu tên gì
Mà sinh đến nơi này
Như vậy trăm, ngàn, vạn
Sinh tử đều biết rõ.
Chịu sinh tử vô lượng
Tất cả loài chúng sinh
Đều từng là thân thuộc
Nên khởi tâm đại bi.
Tâm đại bi nghĩ rồi
Lại quán chúng sinh ấy
Luân hồi trong sáu nẻo
Sinh tử không cùng tận
Luống dối không vững chắc
Như cây chuối mộng huyễn.
Vào ngay lúc nửa đêm
Chứng được tịnh Thiên nhãn
Thấy tất cả chúng sinh
Như xem hình trong kính
Chúng sinh chết rồi sống
Sang hèn và nghèo giàu
Tịnh nghiệp, bất tịnh nghiệp
Tùy thọ báo khổ vui,
Quán sát người làm ác
Sẽ sinh vào đường ác
Người tu tập nghiệp lành
Sinh lên cõi trời, người,
Nếu người đọa địa ngục
Thọ vô lượng thứ khổ
Phải uống nước đồng sôi
Giáo sắt xuyên thân thể,
Xô vào vạc nước sôi
Ném vào đống lửa đỏ
Bầy chó nanh dài xơi
Chim mỏ nhọn mổ não,
Sợ lửa chạy vào rừng
Lá kiếm cắt đứt thân
Dao bén chặt thân thể
Hoặc búa bén chém chặt
Chịu biết bao đau khổ
Nghiệp hành, không chết được.
Thích làm việc bất tịnh
Chịu quả báo đau khổ
Vị đắm trong giây lát
Khổ báo rất lâu dài
Trồng nhân khổ cười vui
Mà chịu tội kêu khóc.
Các chúng sinh nghiệp ác
Nếu thấy tự chịu báo
Thì khí mạch đứt liền
Sợ hãi băng huyết chết.
Tạo các nghiệp súc sinh
Các nghiệp đều sai khác
Chết đọa vào súc sinh
Chịu nhiều thân khác nhau,
Hoặc là thân da thịt
Lông, sừng, xương, đuôi, cánh
Lại tàn hại lẫn nhau
Thân thích ăn thịt nhau
Vác nặng mà mang ách
Câu, dùi đâm, roi đánh
Bị thương, chảy máu mủ
Đói khát nhưng không thoát,
Xoay vần giết hại nhau
Không có sức tự tại
Trên đất, nước, không trung
Không có chỗ trốn chết.
Người tham lam keo kiệt
Sinh vào đường ngạ quỉ
Thân cao lớn như núi
Cổ họng tựa mũi kim
Lửa đói khát bùng lên
Trở lại tự đốt thân.
Người xin tiếc không cho
Hoặc cản người bố thí
Sinh vào ngạ quỉ kia
Muốn ăn chẳng thể được
Đồ thừa người đổ bỏ
Muốn ăn cũng biến mất.
Những người nghe xan tham
Bị khổ báo như thế
Cắt thịt bố thí người
Như vua Thi-tỳ kia.
Hoặc sinh vào loài người
Thân ở trong nhà xí
Chuyển động rất khổ cực
Ra thai sinh sợ hãi
Thân mềm chạm vật ngoài
Như đao kiếm cắt xẻ,
An phận theo túc nghiệp
Không lúc nào không chết
Cần khổ não mà sinh sống
Được sống mãi chịu khổ.
Nhờ phước sinh cõi trời
Lửa khát ái đốt thân
Lúc phước hết qua đời
Năm tướng suy chết đến
Giống như hoa, cây héo.
Tiều tụy mất ánh sáng
Quyến thuộc người còn mất
Buồn khổ không lưu được,
Cung điện chợt rỗng không
Ngọc nữ đều xa lìa
Ngồi nằm trên bụi đất
Buồn khóc luyến mến nhau.
Người sống thường đọa lạc
Kẻ chết buồn luyến tiếc
Tinh tấn tu khổ hạnh
Tham cầu sinh cõi trời
Đã có khổ như vậy
Hèn thay! Gì đáng tham!
Đại phương tiện có được
Không khỏi khổ chia lìa.
Than ôi! Các trời người
Dài ngắn không khác nhau
Nhiều kiếp tu khổ hạnh
Xa lìa hẳn ái dục
Rằng quyết định còn mãi
Mà nay đều đọa lạc
Địa ngục chịu các khổ!
Súc sinh tàn sát nhau
Ngạ quỉ đói khát ngặt
Làm người nhọc khao khát
Tuy nói: sinh Thiên vui
Chia lìa khổ lớn nhất
Mê lầm sinh cõi thế
Không một chỗ nghỉ ngơi!
Than ôi! Biển sinh tử
Lăn lộn không cùng tận
Chúng sinh mãi chìm đắm
Trôi dạt không chỗ nương
“Tịnh Thiên nhãn” như thế
Quán sát trong năm đường
Luống dối không vững chắc
Như cây chuối, chùm bọt!
Vào canh ba đêm ấy
Nhập vào chánh thọ sâu
Quan sát các thế gian
Luân chuyển khổ tự tánh
Luôn luôn sinh, già, chết
Số đó không hạn lượng
Tham dục, si ám che
Không biết do đâu xuất.
Suy nghĩ trong chánh niệm
Sinh tử từ đâu khởi?
Quyết định biết già, chết
Ắt do sinh mà ra
Thí như người có thân
Thì theo thân có khổ
Lại xét sinh do đâu
Thấy từ các nghiệp hữu
Mắt trời quán nghiệp hữu
Chẳng trời Tự tại sinh
Chẳng tự tánh, chẳng ngã
Cũng không phải không nhân.
Đốt tre đều đã chẻ
Các đốt khác không khó
Đã thấy nhân sinh tử
Dần dần thấy chân thật
Nghiệp hữu từ thủ sinh
Giống như lửa thêm củi.
Thủ lấy ái làm nhân
Như lửa nhỏ đốt núi.
Biết ái từ thọ sinh
Biết khổ vui cầu an
Đói khát cầu ăn uống
Thọ sinh ái cũng vậy.
Các thọ, xúc là nhân
Cả ba, khổ vui sinh
Người gia công dùi lửa
Thì được lửa mà dùng.
Xúc từ lục nhập sinh
Vì tối không minh giác.
Lục nhập, danh sắc khởi
Như mầm nảy lá cành.
Danh sắc từ thức sinh
Như ươm mầm, lá sinh.
Thức lại từ danh sắc
Xoay vần không còn thừa.
Duyên thức sinh danh sắc
Duyên danh sắc sinh thức
Như người, thuyền tiến lên
Đất, nước lại liền nhau.
Như thức sinh danh sắc
Danh sắc sinh các căn
Các căn sinh ra xúc
Xúc lại sinh ra thọ
Thọ sinh ra ái dục
Ái dục sinh ra thủ
Thủ sinh ra nghiệp hữu
Hữu thì sinh ra sinh
Sinh sinh ra già, chết
Luân hồi mãi không cùng.
Nhân duyên chúng sinh khởi
Chánh Giác đều giác tri
Chánh Giác đã chứng ngộ
Sinh hết, già chết dứt
Hữu diệt thì sinh diệt
Thủ diệt thì hữu diệt
Ái diệt thì thủ diệt
Thọ diệt thì ái diệt
Xúc diệt thì thọ diệt
Lục nhập diệt, xúc diệt
Tất cả nhập diệt hết
Bởi do danh sắc diệt
Thức diệt, danh sắc diệt
Hành diệt thì thức diệt
Si diệt thì hành diệt
Đại tiên thành Chánh giác.
Thành Chánh giác như thế
Phật hưng thịnh thế gian
Tám chánh: Chánh kiến thảy
Đường bằng phẳng thản nhiên
Rốt ráo vô ngã sở
Như củi hết lửa tắt
Việc phải làm đã làm
Đã thành đạo Chánh giác
Rốt ráo nghĩa đệ nhất
Vào nhà bậc Đại tiên.
Tối hết, tướng sáng sinh
Động, tĩnh đều vắng lặng
Chứng được vô tận pháp
Nhất thiết trí sáng ngời.
Đại tiên đức thuần hậu
Rung chuyển khắp mặt đất
Vũ trụ đều sáng rỡ
Thần, Rồng, Trời nhóm họp
Trên không tấu nhạc trời
Để cúng dường chánh pháp.
Gió mát nhè nhẹ thổi
Mây trời rưới mưa thơm
Hoa mầu nở trái lúc
Trái ngọt chín trước mùa
Các hoa báu cõi trời
Như Đại Mạn-đà-la
Từ trên không rơi khắp
Cúng dường Đấng Thích-ca.
Các chúng sinh dị loại
Lòng lành đến với nhau
Sợ hãi đều dứt hết
Không còn tâm sân mạn.
Tất cả các thế gian
Đều như bậc lậu tận
Chư Thiên ưa giải thoát
Đường ác được tạm an
Phiền não tạm ngưng đọng
Trăng tuệ dần thêm sáng.
Vị tiên dòng Cam Giá
Có những người sinh Thiên
Thấy Đức Phật ra đời
Vui mừng đầy khắp thân
Liền từ cung điện trời
Mưa hoa xuống cúng dường.
Các Trời, Thần, Quỉ, Rồng
Cùng khen công đức Phật.
Người đời thấy cúng dường
Và nghe tiếng khen ngợi
Tất cả đều vui theo
Hớn hở không kềm được
Chỉ có Ma thiên vương
Trong tâm rất lo buồn.
Phật trong bảy ngày ấy
Thiền tư tâm thanh tịnh
Quán sát cây Bồ-đề
Chăm chú không chớp mắt:
“Ta nương tựa chỗ này
Được toại tâm nguyện xưa
An trụ pháp vô ngã
Mắt Phật nhìn chúng sinh
Phát tâm rất thương xót
Muốn họ được thanh tịnh
Tham, sân , si, tà kiến
Trôi chìm mất bản tâm
Giải thoát rất nhiệm sâu
Nhờ đâu giảng nói được?
Nếu lìa phương tiện cần
An trụ trong im lặng
Nhớ lại bản thệ nguyện
Lại sinh tâm nói pháp
Quán sát các chúng sinh
Ai phiền não tăng giảm?”
Phạm thiên biết Phật nghĩ
Nên thỉnh Ngài chuyển pháp
Phát ánh sáng Phạm khắp
Vì độ chúng sinh khổ
Đến thấy Đấng Mâu-ni
Tướng đại nhân nói pháp
Nghĩa mầu đều hiện rõ
An trụ trong thật trí
Lìa lỗi gây khó dễ
Không có tâm dối luống
Tâm cung kính vui mừng
Chắp tay khuyên mời rằng:
“Nhờ phước gì thế gian
Gặp được Đấng Đại Bi?
Tất cả loài chúng sinh
Tâm cặn bã nhơ uế
Hoặc phiền não nặng nề
Hoặc phiền não nhỏ nhiệm
Thế Tôn đã hóa độ
Biển khổ lớn sinh tử
Nguyện sẽ cứu giúp họ
Các chúng sinh chìm đắm.
Như nghĩa sĩ ở đời
Được lợi đồng chúng sinh
Thế Tôn được pháp lợi
Nên cứu giúp chúng sinh
Con người thường tự lợi
Ta, người thêm lợi, nạn
Xin rủ lòng Từ bi
Vì nạn trong các nạn.”
Khuyên mời như thế rồi
Giã từ trở về trời
Phật do Phạm thiên thỉnh
Với tâm vui chí thành
Nuôi lớn tâm đại bi
Ý nói pháp tăng thêm,
Nghĩ sẽ đi khất thực
Bốn vua trời dâng bát
Như Lai vì pháp nên
Nhận bốn hợp thành một
Bấy giờ có người buôn
Được Thiên thần mách rằng:
“Đấng Đại Tiên Mâu-ni
Ở trong khu rừng kia
Ruộng phước tốt thế gian
Người nên đến cúng dường”.
Nghe nói rất vui mừng
Dâng cúng bữa cơm đầu.
Dùng xong, Phật lại nghĩ:
“Khai pháp cho ai trước?
Chỉ có A-la-lam
Và Uất-đầu-la-ma
Có thể thọ chánh pháp
Nhưng nay đã qua đời
Còn năm Tỳ-kheo thôi
Nên nghe pháp đầu tiên.”
Muốn nói pháp vắng lặng
Như ánh nắng xua tối
Liền đến Ba-la-nại
Chỗ ở vị Tiên xưa
Khoan thai bước sư tử
Bình thản mắt ngưu vương
Vì độ chúng sinh nên
Thành Ca-thi thẳng đến
Vua thú bước thanh thản
Ngoái nhìn rừng Bồ-đề.
Như Lai khéo vắng lặng
Ánh sáng soi chiếu khắp
Oai nghiêm đi một mình
Giống như đông người theo
Trên đường gặp Phạm chí
Tên là Ưu-ba-ca
Giữ gìn Tỳ-kheo nghi
Cung kính đứng bên đường
Mừng gặp chưa từng có
Chắp tay mà hỏi rằng:
“Chúng sinh đều đắm nhiễm
Dung nhan Ngài không đắm
Tâm người đời dao động
Riêng Ngài các căn lặng
Vẻ sáng như trăng rằm
Tựa như vị cam lộ
Dung mạo tướng đại nhân
Vua sức tuệ tự tại
Điều phải làm đã làm
Học hỏi với thầy nào?”
Đáp rằng: “Ta không thầy
Không nương, không gì hơn
Tự ngộ pháp sâu xa
Được điều người không được
Điều mà người phải giác
Thế gian không ai giác
Ta nay đã tự giác
Nên gọi là Chánh Giác.
Phiền não như kẻ thù
Dùng kiếm tuệ chiết phục
Cho nên đời khen ngợi
Được gọi là Tối Thắng,
Sẽ đến Ba-la-nại.
Đánh trống pháp cam lộ!
Không mạn, không còn tên
Cũng không cầu lợi lạc
Chỉ vì tuyên chánh pháp
Cứu vớt khổ chúng sinh.
Do xưa phát thệ rộng
Độ người chưa được độ
Kết quả thệ nay thành
Sẽ toại bổn nguyện này.
Giàu có tự cung cấp
Chẳng gọi là Nghĩa sĩ
Lợi ích cho mọi người
Được gọi Đại Trượng Phu.
Gặp nguy không cứu vớt
Đâu gọi dũng sĩ được,
Thấy bệnh không chữa trị
Đâu gọi thầy thuốc hay,
Thấy lạc không chỉ lối
Ai gọi người dẫn đường?
Như đèn soi chỗ tối
Vô tâm mà tự sáng
Như Lai thắp đèn tuệ
Không cầu các dục tình
Dùi gỗ sẽ có lửa
Không trung gió tự nhiên
Đào đất sẽ được nước
Lẽ tự nhiên như vậy.
Tất cả các Mâu-ni
Thành đạo là Già-gia
Cũng đồng nước Ca-thi
Quay bánh xe chánh pháp”.
Phạm chí Ưu-ba-ca
Kêu lên: Lạ lùng quá!
Theo tâm trước đã hẹn
Theo đường riêng khác nhau
Nghĩ rằng chưa từng có
Bước từng bước ngập ngừng.
Như Lai dần tiến bước
Đi đến thành Ca-thi
Đất này rất trang nghiêm
Như cung trời Đế Thích
Sông Hằng, Ba-la-nại
Nằm giữa hai con sông
Rừng cây, hoa quả mượt
Cầm thú đến nhởn nhơ
Vắng lặng, không ồn náo
Nơi các tiên xưa ở.
Ánh Như Lai chiếu sáng
Càng thêm vẻ sáng ngời
Kiều-trần-như tộc tánh
Kế Thập lực Ca-diếp
Ba tên Bà-sáp-ba
Bốn A-thấp-ba-thệ
Năm tên Bạt-đà-la
Tu khổ hạnh núi rừng
Xa thấy Như Lai đến
Họ ngồi lại cùng bàn:
“Cù-đàm đắm vui đời
Xả bỏ các khổ hạnh
Nay lại trở về đây
Ta chớ đứng dậy đón
Cũng đừng lễ, thăm hỏi
Cung cấp đồ cần dùng.
Đã quên lời thề xưa
Không nên thọ cúng dường.
Hễ người thấy khách đến
Nên sửa soạn trước sau
Như chuẩn bị chiếu giường
Để mời họ yên nghỉ”.
Giao ước như thế rồi
Thì ai về chỗ nấy
Mỗi người đều ngồi yên
Như Lai dần bước đến
Họ chợt quên giao ước
Có người nhường chỗ ngồi
Có người đỡ y bát
Có người rửa chân Phật
Có người hỏi việc cần
Làm mọi việc như vậy
Tôn kính như bậc Thầy
Chỉ không bỏ dòng tộc
Vẫn gọi tên Cù-đàm.
Thế Tôn bảo họ rằng:
“Chớ gọi dòng họ ta
Đối với A-la-ha
Mà sinh lời ngạo mạn
Dù kính trọng hay không
Tâm ta đều bình đẳng.
Tâm các ông bất kính
Tự vời lấy tội lỗi
Phật độ được thế gian
Cho nên gọi là Phật
Với tất cả chúng sinh
Bình đẳng xem như con
Mà gọi tên họ Ta
Phạm tội như khinh cha!”
Phật dùng tâm đại bi
Thương xót mà bảo họ
Tâm họ vẫn ngu si
Không tin Ngài thật ngộ
Cho rằng trước khổ hạnh
Mà còn không chứng đắc
Nay thân, miệng hưởng lạc
Làm sao mà thành Phật?
Cứ như vậy nghi hoặc
Không tin Ngài thành Phật
Được thật nghĩa cứu cánh
Tất cả trí đầy đủ.
Như Lai liền vì họ
Nói lược về yếu đạo:
“Người ngu tu khổ hạnh
Thích làm vui các căn
Thấy hai khác biệt ấy
Thì đó là lỗi lớn
Không phải đạo chánh chân
Vì trái với giải thoát.
Nhọc thân tu khổ hạnh
Tâm ý vẫn rong ruổi
Thế trí còn chẳng sinh
Huống siêu vượt các căn
Như thắp đèn bằng nước
Không bao giờ hết tối.
Nhọc thân tu đèn tuệ
Không thể dứt ngu si
Dùi củi mục tìm lửa
Tốn công chẳng được gì?
Theo cách người lấy lửa
Liền được lửa dùng ngay.
Cầu đạo không khổ thân
Mà được pháp cam lộ
Đắm dục là phi nghĩa
Ngu si ngăn tuệ sáng
Kinh luận còn không rõ,
Huống được đạo lìa dục!
Như người bị bệnh nặng
Ăn thức không tùy bệnh
Không biết đó bệnh nặng
Đắm dục làm sao dứt?
Đốt lửa nơi đồng trống
Cỏ khô thêm gió mạnh
Lửa tham ái cũng vậy
Ai dập được cháy to?
Ta đã rời “nhị biên”
Tâm sống với “Trung đạo”
Các khổ rốt ráo dứt
Vắng lặng lìa các lỗi
Chánh kiến hơn ánh dương
Xe bình đẳng giác quán,
Chánh ngữ là nhà ở
Rừng chánh nghiệp dạo chơi
Chánh mạng tư cách đẹp
Phương tiện là đường chánh
Chánh niệm là thành quách
Chánh định là giường ghế
Tám đường chánh bằng phẳng,
Thoát khỏi khổ sinh tử
Từ đường ấy thoát ra
Việc làm đã rốt ráo
Không rơi vào kia đây.
Hai đời là thường khổ
Ba cõi thuần nhóm khổ
Chỉ tám đường dứt được
Vốn chưa từng được nghe
Mắt thanh tịnh chánh pháp
Thấy được đạo giải thoát.
Nay chỉ Ta bắt đầu
Khổ sinh, già, bệnh, chết
Yêu chia ly, oán gặp
Việc mong cầu chẳng được
Và các thứ khổ khác
Lìa dục, chưa lìa dục
Có thân và không thân
Lìa công đức thanh tịnh
Nói lược đó đều khổ.
Giống như lửa cháy ngưng
Tuy đóm nhỏ vẫn nóng
Vắng lặng còn chút ngã
Tính khổ lớn vẫn còn,
Các phiền não: tham, sân…
Và các lỗi của nghiệp
Đó chính là nhân khổ.
Lìa bỏ thì khổ dứt
Như các hạt giống kia
Không gặp đất, nước… thảy
Các duyên chẳng hòa hợp
Thì mầm lá không sinh
Có tánh, hữu nối tiếp
Từ trời đến đường ác
Luân hồi mãi không dừng.
Đó do tham dục sinh
Thấp, vừa, cao khác nhau
Các thứ nghiệp là nhân.
Nếu dứt được tham thảy
Thì không có nối nhau
Nếu các thứ nghiệp hết
Khổ sai biệt dứt hẳn.
Đây có thì kia có
Đây không thì kia không
Không sinh, già, bệnh, chết
Không đất, nước, lửa, gió
Cũng không đầu, giữa, cuối
Không phải pháp dối gạt
Chỗ trụ của Thánh hiền
Thật vắng lặng vô tận.
Tám đường chánh đã nói
Là phương tiện không thừa
Thế gian không thấy được
Mọi người mãi lầm mê
Ta biết khổ, dứt tập
Chứng diệt, tu chánh đạo
Quán bốn chân đế này
Liền thành Đẳng Chánh Giác.
Rằng Ta đã biết khổ
Đã dứt nhân hữu lậu
Đã chứng đắc Diệt tận,
Đã tu tám đường chánh
Đã biết bốn chân đế
Thành mắt pháp thanh tịnh
Với bốn chân đế này
Chưa sinh mắt bình đẳng
Chẳng gọi được giải thoát.
Không nói: làm, đã làm
Cũng không nói: tất cả
Thành trí giác chân thật
Vì biết bốn chân đế
Tự biết được giải thoát
Tự biết làm, đã làm
Tự biết Đẳng Chánh Giác.”
Khi nói lời thật này
Dòng họ quý Kiều-trần
Tám vạn các Thiên chúng
Thấu triệt nghĩa chân thật
Xa lìa các bụi nhơ
Chứng pháp nhãn thanh tịnh.
Thiên Nhân Sư biết ngài
Việc phải làm đã làm
Tiếng sư tử vui mừng
Hỏi Kiều-trần: “Hiểu chưa?”
Kiều-trần liền bạch Phật:
“Đã hiểu pháp Đại Sư”
Vì ngài hiểu pháp nên
Gọi A-nhã Kiều-trần
Trong các đệ tử Phật
Là người ngộ đầu tiên.
Ngài biết tiếng chánh pháp
Nghe được các thần đất
Đều cùng cất tiếng nói:
“Hay thay! pháp sâu xa
Đức Như Lai hôm nay
Chuyển pháp chưa từng chuyển
Khắp vì các trời, người
Mở rộng cửa cam lộ
Tịnh giới là nan hoa
Giúp điều phục vắng lặng
Trí vững là vành bánh,
Hổ thẹn cầu nối thành
Chánh niệm vỏ bọc quanh
Thành pháp Luân chân thật
Chánh chân rời ba cõi
Chẳng lui, theo tà sư.”
Thần đất nói như vậy
Thần hư không ca tụng
Các trời lại khen ngợi
Thấu đến cõi trời Phạm
Các Thiên thần ba cõi
Vừa nghe Đại Tiên giảng
Kinh hãi bảo nhau rằng:
“Khắp nghe Phật ra đời,
Vì muôn loài chúng sinh
Chuyển pháp luân vắng lặng.”
Mây mù tan, gió tạnh
Không trung hoa trời rơi
Chư Thiên tấu nhạc trời.
Mừng khen: Chưa từng có!
❑
Khi năm Tỳ-kheo kia
A-thấp-ba-thệ thảy
Nghe tiếng Ngài biết pháp
Bùi ngùi tự hổ thẹn
Chắp tay cung kính Ngài
Cùng chiêm ngưỡng tôn nhan
Như Lai dùng phương tiện
Giúp họ vào chánh pháp
Năm Tỳ-kheo trước sau
Đắc đạo, điều các căn
Như năm ngôi sao sáng
Thành hàng đứng hầu trăng.
Khi ấy thành Cưu-di
Con trưởng giả Da-xá
Đêm ngủ chợt giác ngộ
Tự thấy cả quyến thuộc
Nam nữ ngủ khỏa thân
Liền sinh lòng chán chê
Nghĩ đây gốc phiền não
Lừa dối những kẻ ngu
Mặc đồ, đeo anh lạc
Rời nhà vào núi rừng
Dọc đường kêu lên rằng:
“Não loạn! Ôi não loạn!’
Phật kinh hành đêm vắng
Nghe tiếng kêu “não loạn”
Ngài gọi: “Ông lại đây
Đây có chỗ yên ổn
Niết-bàn rất mát mẻ
Vắng lặng lìa phiền não”.
Da-xá nghe Phật dạy
Trong tâm rất vui mừng
Trái tâm vốn chán lìa
Thánh tuệ chợt mở bày
Như xuống ao mát mẻ
Tiến dần đến chỗ Phật
Thân chàng còn dáng tục
Mà tâm sạch lậu rồi
Sức căn lành đời trước
Mau chứng quả La-hán
Trí tịnh, lý dần sáng
Nghe pháp liền giác ngộ
Như tơ lụa trắng tinh
Nhuộm rất dễ ăn màu.
Chàng đã tự giác tri
Điều nên làm đã làm
Thấy thân vẫn trang nghiêm
Mà sinh tâm hổ thẹn.
Như Lai biết ý ấy
Nên vì chàng nói kệ:
“Dùng anh lạc điểm trang
Tâm điều phục các căn
Quán chúng sinh bình đẳng
Hành pháp chẳng kể thân.
Thân mặc y xuất gia
Mà lòng lụy chưa quên
Ở rừng, lợi còn nghĩ
Thì khác chi người đời.
Tuy thân là người tục
Lòng ở cảnh cao xa
Tại gia đồng rừng núi
Thì xa lìa ngã sở.
Buộc mở ở nơi tâm
Thân đâu có định tướng
Mặc giáp, áo bào trọng
Có thể ngăn kẻ thù
Cạo tóc mặc y nhuộm
Là phục giặc phiền não”
Phật gọi: “Tỳ-kheo lại!”
Liền đó đổi dáng tục
Đầy đủ tướng xuất gia
Đều trở thành Sa-môn.
Chàng trước có nhiều bạn
Đến năm mươi bốn người
Theo bạn lành xuất gia
Lần lượt vào chánh pháp.
Đó do nghiệp lành xưa
Quả mầu hôm nay thành
Đá vôi thấm lâu ngày
Qua nước mau tươi sáng.
Các Thanh văn thượng hạnh
Sáu mươi vị La-hán
Đều như pháp La-hán
Thuận theo lời dạy bảo:
“Nay thầy đã được độ
Qua bờ sông tử sinh
Việc làm đã rốt ráo
Đáng thọ mọi cúng dường,
Đều nên đến các nước
Độ người chưa giải thoát
Chúng sinh khổ lẫy lừng
Lâu không người cứu giúp
Các thầy đều riêng đến
Thương xót mà dắt dìu.
Giờ Ta cũng một mình
Trở lại núi Già-xà
Ở đó có vị tiên
Vua Tiên và Phạm tiên
Thảy đều ở tại đó
Cả nước đều tôn kính.
Tiên khổ hạnh Ca-diếp
Nhân dân đều kính thờ
Người theo học rất đông
Ta nay đến độ ông”.
Sáu mươi Tỳ-kheo ấy
Vâng lời, giảng rộng pháp
Mỗi vị theo duyên xưa
Tùy ý đến các nước.
Thế Tôn riêng mình bước
Đến thẳng núi Già-xà
Vào rừng pháp vắng lặng
Đến chỗ tiên Ca-diếp.
Ông có hang thờ lửa
Nơi ở của rồng độc
Núi rừng thật sáng trong
Nơi nơi đều yên cả.
Thế Tôn vì hóa độ
Xin ông ở lại đêm
Ca-diếp bạch Phật rằng:
“Không có chỗ nghỉ ngơi
Chỉ có hang thờ lửa
Khéo thanh tịnh ở được
Nhưng có rồng độc ở
Sẽ làm thương tổn Ngài”.
Phật nói: “Ông cứ cho
Chỉ ở một đêm thôi”
Ca-diếp cứ can ngăn
Thế Tôn cứ xin mãi
Ca-diếp lại bạch Phật:
“Lòng chẳng muốn cho Ngài
Thì tôi là bỏn xẻn
Thôi thì tùy sở thích”.
Phật liền vào hang lửa
Ngồi thẳng, suy nghĩ đúng
Rồng độc trông thấy Phật
Nổi giận phun lửa độc
Cả động lửa đỏ rực
Mà chẳng chạm thân Phật.
Hang cháy rồi lửa tàn
Thế Tôn vẫn ngồi yên
Giống như kiếp lửa dậy
Cung Phạm thiên cháy tàn
Vua Phạm vẫn ngồi yên
Không lo cũng không sợ.
Rồng độc thấy Thế Tôn
Sắc mặt không biến đổi
Độc dứt, tâm lành sinh
Cúi đầu xin quy y
Đêm, Ca-diếp thấy sáng
Than rằng: “Ôi lạ quá!
Như người đạo đức này
Mà bị lửa rồng đốt!”
Ca-diếp và quyến thuộc
Sáng sớm đều đến xem
Phật đã hàng rồng độc
Đựng ở trong bình bát
Mới biết công đức Phật.
Dù họ lấy làm lạ
Nhưng kiêu mạn lâu ngày
Vẫn nói: “Đạo ta cao!”
Phật bèn tùy thời nghi
Hiện các thứ thần biến
Quán sát điều họ nghĩ
Biến hóa mà ứng hiện
Khiến tâm họ mềm dịu
Xứng đáng thành pháp khí
Tự thấy đạo mình thấp
Không bì kịp Thế Tôn
Mà quyết định hạ mình
Thuận theo thọ pháp chánh.
Uất-tỳ-la Ca-diếp
Có năm trăm đệ tử
Theo thầy khéo điều phục
Thứ lớp thọ chánh pháp
Ca-diếp và đồ chúng.
Sau khi được hóa độ
Vật nuôi sống của tiên
Và các đồ thờ lửa
Đều ném hết xuống sông
Mặc chìm trôi theo nước.
Na-đề và Già-xà
Hai em ở dưới dòng
Thấy y phục, các vật
Theo dòng nước trôi xuống
Tưởng anh gặp nạn to
Nên vừa sợ vừa lo
Cùng năm trăm đệ tử
Lên ngược dòng tìm anh
Thì thấy anh xuất gia
Các đệ tử cũng thế
Biết được pháp chưa từng
Mà cho là lạ lùng
Nay, anh đã vào đạo
Chúng ta cũng phải theo
Ba người anh em đó
Và đệ tử, dòng họ
Phật nói pháp cho nghe
Bằng thí dụ thờ lửa:
Khói đen ngu si bốc
Dùi lửa loạn tưởng sinh
Lửa tham dục, giận tức
Thiêu đốt các chúng sinh.
Lửa phiền não như thế
Cháy hừng không dập tắt
Càng đắm trong sinh tử
Lửa khổ cũng thường chóng
Thấy được hai thứ lửa
Rực cháy không chỗ nương
Làm sao người có tâm
Mà không sinh chán lìa.
Chán lìa dứt tham dục
Tham hết, được giải thoát
Nếu đã được giải thoát
Giải thoát tri kiến sinh
Quan sát dòng sinh tử
Mà nêu lên phạm hạnh
Việc phải làm đã làm
Không chịu thân hậu hữu.
Ngàn Tỳ-kheo như thế
Nghe Thế Tôn nói pháp
Các lậu không hề khởi
Tất cả tâm giải thoát.
Phật bèn nói pháp cho
Ca-diếp, ngàn Tỳ-kheo
Việc phải làm đã làm
Tuệ tịnh diệu trang nghiêm
Các quyến thuộc công đức
Giữ giới, các căn tịnh
Tiên đại đức theo đạo
Rừng khổ hạnh hoang vắng
Như người bỏ giới đức
Thì thân không còn gì.
Thế Tôn cùng môn đồ
Đi đến thành Vương xá
Ngài nhớ vua Ma-kiệt
Có lời thề lúc trước
Thế Tôn đã đến nơi
Dừng nghỉ trong rừng gậy.
Vua Bình-sa nghe tin
Bèn cùng đại quyến thuộc
Gái trai cả nước theo
Đi đến chỗ Như Lai
Xa thấy Như Lai ngồi
Hàng tâm, phục các căn
Không còn tướng trần tục,
Xuống xe, đi bộ đến
Giống như trời Đế Thích
Đến chỗ Phạm Thiên vương
Trước lễ dưới chân Phật
Thăm hỏi: Được an vui.
Phật an ủi xong rồi
Mời vua ngồi một bên.
Vua nghĩ thầm trong lòng
Phật có uy lực lớn
Ca-diếp đức tốt thảy
Nay đều làm đệ tử.
Phật biết ý mọi người
Bèn hỏi Ca-diếp rằng:
“Thầy thấy phước lợi gì
Mà bỏ phép thờ lửa?”
Ca-diếp nghe Phật hỏi:
Vội ra trước đại chúng
Quỳ gối mà chắp tay
Lớn tiếng bạch Phật rằng:
“Tu phước thờ thần lửa
Quả báo đều luân hồi
Phiền não sinh tử tăng
Cho nên con xả bỏ.
Siêng năng thờ thần lửa
Là mong hưởng năm dục
Ái dục tăng vô cùng
Cho nên con xả bỏ
Thờ lửa tu chú thuật
Lìa giải thoát, thọ sinh
Thọ sinh là gốc khổ
Nên bỏ lại cầu an.
Con vốn cho khổ hạnh
Cúng tế, lập đại hội
Là tốt nhất trên đời
Nhưng trái với chánh đạo
Cho nên nay xả bỏ
Cầu vắng lặng vượt hơn
Lìa sinh, già, bệnh, chết
Chỗ mát mẻ vô tận
Vì biết nghĩa này nên
Xả bỏ phép thờ lửa”
Thế Tôn nghe Ca-diếp
Nói việc mình thấy biết
Phật muốn các chúng sinh
Đều sinh tâm tịnh tín
Nên bảo Ca-diếp rằng:
“Này Bồ-tát! Lành thay
Phân biệt rõ các pháp
Để theo đạo vượt hơn
Giờ ở trước đại chúng
Hiển rõ công đức thầy
Như trưởng lão giàu có
Còn tìm được kho báu
Khiến chúng sinh nghèo khổ
Càng sinh tâm chán lìa.”
Lành thay! Vâng lời Phật
Liền ở trước đại chúng
Nhiếp thân vào chánh thọ
Bay vọt lên hư không
Kinh hành, nằm, ngồi, đứng
Hoặc khắp thân tự nhiên
Hai bên phun lửa, nước
Không cháy, cũng không ướt
Từ thân ra mây mưa
Sấm chớp rung đất trời
Thế gian đều chiêm ngưỡng
Thỏa mắt nhìn không chán
Khác miệng mà đồng lời
Khen ngợi: chưa từng có.
Sau đó thu thần thông
Lễ dưới chân Thế Tôn:
“Phật là thầy của con
Con là đệ tử Phật
Vâng lời nghe hạnh này
Việc làm đã xong xuôi”
Cả thế gian đều thấy
Ca-diếp là đệ tử
Quyết định biết Thế Tôn
Thật là Nhất Thiết Trí.
Phật biết các hội chúng
Kham thọ được pháp giáo
Nên bảo vua Bình-sa:
“Đại vương hãy lắng nghe
Tâm ý và các căn
Đều là pháp sinh diệt
Biết rõ lỗi sinh diệt
Cho nên thấy bình đẳng.
Thấy bình đẳng như thế
Đó chính là biết thân
Biết thân, pháp sinh diệt
Không lấy cũng không nhận
Biết thân là căn giác
Không ngã và ngã sở
Chỉ chứa các nhóm khổ
Khổ sinh rồi khổ diệt
Đã biết tướng các thân
Không ngã và ngã sở
Đó chính là bậc nhất
Nơi thanh tịnh vô cùng.
Phiền não, ngã kiến thảy
Trói buộc các chúng sinh
Đã thấy không ngã sở
Các phược đều giải thoát
Thấy không thật trói buộc
Thấy chân thật, giải thoát
Chúng sinh nhiếp thọ giới
Thì bị tà nhiếp thọ.
Nếu như họ có ngã
Hoặc “thường” hoặc “vô thường”
Hai biên kiến sinh tử
Có lỗi lầm nặng nhất.
Nếu cho là vô thường
Thì tu hành không quả
Cũng không thọ thân sau
Không công mà giải thoát.
Nếu cho là có thường
Không khoảng giữa sinh tử
Thì nên đồng hư không
Không sinh cũng không diệt.
Nếu cho là có ngã
Thì nên tất cả đồng
Tất cả đều có “ngã”
Không nghiệp, quả tự thành.
Nếu có ngã làm ra
Không nên gắng tu hành
Kia có chủ tự tại
Thì đâu cần tạo tác.
Nếu “ngã” thì có thường
Lẽ ra không đổi khác
Thấy có sự khổ, vui
Thì sao nói có “thường”?
Biết sinh thì giải thoát
Xa lìa các bụi nhơ
Tất cả đều có thường
Thì cần gì giải thoát?
Vô ngã không chỉ nói
Lý thật, vô thật tánh
Không thấy việc “ngã” làm
Vì sao nói “ngã” làm
Mà ngã đã không làm
Cũng không ai làm ngã
Vì không hai việc này
Nên thật không có ngã.
Không người làm, người biết
Không chủ, mà thường đổi
Sinh tử ngày đêm trôi.
Nay vua nghe ta nói
Sáu căn, sáu cảnh giới
Nhân duyên lục thức sinh
Ba thứ hội sinh xúc
Nghiệp tâm niệm chuyển theo
Mặt trời gặp cỏ khô
Có mặt trời, lửa sinh
Các căn, cảnh giới, thức
Sĩ phu sinh cũng thế.
Mầm từ hạt giống sinh
Hạt giống chẳng phải mầm
Không tức, cũng không khác
Chúng sinh sinh cũng vậy!”
Thế Tôn nói chân thật
Nghĩa bình đẳng bậc nhất
Vua Bình-sa vui mừng
Ly cấu, mắt pháp sinh
Quyến thuộc vua, nhân dân
Trăm ngàn các thần quỉ
Nghe nói pháp cam lộ
Cũng theo đó ly trần.
Bấy giờ vua Bình-sa
Cúi đầu thỉnh Thế Tôn
Đến trụ trong rừng trúc
Thương xót, Phật nhận lời.
Vua đã thấy chân đế
Bái tạ trở về cung
Thế Tôn và đại chúng
Dời đến ở vườn trúc
Vì độ chúng sinh nên
Thắp lên đèn tuệ sáng
Vì Phạm trụ, Thiên trụ
Hiền thánh trụ mà trụ.
Lúc ấy A-thấp-bà
Điều tâm chế ngự căn
Đến giờ đi khất thực
Vào trong thành Vương xá
Dung mạo đời khó hơn
Oai nghi rất khoan thai.
Các gái trai trong thành
Ai thấy cũng vui mừng
Người đang đi dừng bước
Trước đón, sau lấn tới.
Vị tiên Ca-tỳ-la
Độ khắp các đệ tử
Người học rộng bậc nhất
Tên là Xá-lợi-phất
Thấy Tỳ-kheo khoan thai
Nhàn nhã, các căn lặng
Ngập ngừng chờ đến gần
Đưa tay xin thưa hỏi:
“Tuổi trẻ dung nghi đẹp
Người tôi chưa từng thấy
Đắc pháp nhiệm mầu gì?
Kính thờ vị thầy nào?
Thầy dạy bảo điều gì?
Xin giải đáp thắc mắc”
Tỳ-kheo được hỏi mừng
Vui vẻ từ tốn đáp:
“Nhất Thiết Trí đầy đủ
Sinh từ dòng Cam Giá
Trên hết trong trời, người
Đó là thầy của tôi.
Tôi chẳng những tuổi trẻ
Sức tu học lại cạn
Đâu nói hết lời Thầy
Nghĩa nhiệm mầu sâu xa
Giờ sẽ dùng trí cạn
Nói lược lời Thầy dạy:
Tất cả pháp hữu vi
Đều từ nhân duyên khởi
Pháp sinh diệt đều diệt
Nói đạo là phương tiện”.
Bậc thánh Xá-lợi-phất
Nghe xong tâm liền thông
Xa lìa các trần cấu
Mắt pháp thanh tịnh sinh.
Trước kia tâm khẳng định
Biết nhân và không nhân
Tất cả không ai làm
Đều do trời Tự tại
Được nghe pháp nhân duyên
Trí vô ngã mở sáng
Các phiền não tăng nhẹ
Không thể dứt rốt ráo
Chỉ có lời Phật dạy
Dứt hẳn không còn thừa
Đã lìa được ngã sở
Mà bỏ được tôi ta,
Sáng do đèn, mặt trời
Ai làm cho không sáng
Như bẻ cành hoa sen
Tơ mảnh vẫn còn vướng
Phật dạy trừ phiền não
Như chẻ đá không vương,
Kính lễ chư Tỳ-kheo
Từ giã trở về nhà
Tỳ-kheo khất thực xong
Cũng trở về vườn trúc.
Xá-lợi-phất về nhà
Sắc mặt rất hân hoan
Bạn lành Đại Mục-liên
Đều tài giỏi như nhau
Xa thấy Xá-lợi-phất
Dáng vẻ rất hớn hở
Bảo rằng: “Nay thấy bạn
Có vẻ hơi khác thường
Vốn tính rất kỹ càng
Mà nay vui hiện rõ
Chắc được pháp cam lộ
Đây không phải không nhân!”
Đáp rằng: “Nghe lời Phật
Được pháp chưa từng có!”
Liền xin vì mình nói
Nghe xong tâm khai mở
Các bụi nhơ cũng dứt
Liền sinh mắt chánh pháp,
Lâu trồng nhân quả mầu
Như xem đèn trong tay
Đối Phật tin bất động
Cùng nhau đến chỗ Phật
Dẫn theo các đệ tử
Hai trăm năm mươi người.
Phật xa thấy hai vị
Liền bảo với chúng hội:
“Hai vị đang đến kia
Đệ tử giỏi của Ta
Một, trí tuệ vô song
Hai, thần thông bậc nhất”.
Dùng Phạm âm thanh tịnh
Gọi: “Các vị đến đây!
Đây có pháp thanh tịnh
Đạo xuất gia rốt ráo.”
Tay cầm gậy Tam kỳ
Tóc cạo, mang bình rửa
Nghe tiếng Phật gọi mình
Liền biến thành Sa-môn
Hai vị và đê tử
Đều trở thành Tỳ-kheo
Cúi lạy chân Thế Tôn
Rồi lui ngồi một bên.
Phật thuận theo nói pháp
Đều chứng A-la-hán.
Khi ấy có bậc Thánh
Ca-diếp dòng quý tộc
Hiểu rộng, thân trọn vẹn
Giàu có, vợ hiền thục
Chán bỏ đi xuất gia
Chí cầu đạo giải thoát
Đi ngang tháp Đa tử
Bỗng gặp Đức Thích-ca
Dung nghi chiếu sáng rỡ
Giống như cờ tế trời
Thân trang nghiêm cung kính
Cúi đầu lễ chân Ngài:
Ngài là Thầy của con
Con là đệ tử Ngài
Lâu xa chứa si ám
Xin làm đèn giúp con”
Phật biết bậc Thánh kia
Tâm ưa thích giải thoát
Bèn dùng lời thanh tịnh
Bảo rằng: “Hãy lại đây”,
Nghe gọi tâm thư thái
Thân tâm hết mệt nhọc
Lòng an trụ giải thoát
Vắng lặng lìa bụi trần.
Đại bi tùy thích ứng
Liền giải thích sơ lược
Hiểu thấu các pháp sâu
Được “Bốn vô ngại biện”
Đại đức nổi tiếng khắp
Nên gọi Đại Ca-diếp.
Vốn chấp thân, ngã khác
Hoặc chấp ngã tức thân
Có ngã và ngã sở
Chấp này đã dứt hẳn
Chỉ thấy các khổ nhóm
Lìa khổ thì không còn
Giữ giới, tu khổ hạnh
Không nhân, mà chấp nhân
Bình đẳng thấy tánh khổ
Không còn có chấp tâm
Chấp có hoặc chấp không
Hai chấp sinh do dự
Bình đẳng thấy chân đế
Quyết định không còn nghi,
Đắm nhiễm các tài sắc
Mê say tham dục sinh
Nghĩ vô thường, bất tịnh
Tham ái đã dứt hẳn
Nhớ tâm Từ bình đẳng
Nghĩ oán, thân không khác
Thương xót với tất cả
Thì tiêu độc tức giận
Nương sắc đối các “hữu”
Các thứ tạp tưởng sinh
Suy nghĩ dứt sắc tưởng
Thì dứt được sắc ái
Dù sinh cõi Vô sắc
Thì mạng cũng phải hết
Ngu đối “Bốn chánh thọ”
Mà tưởng là giải thoát
Vắng lặng lìa các tưởng
Tham Vô sắc dứt hẳn
Tâm loạn động biến đổi
Như gió mạnh nổi sóng,
Thâm nhập định vững chắc
Tịch, dừng tâm động loạn
Quán pháp không ngã sở
Sinh diệt chẳng vững bền
Không chấp nê dưới, trên
Tâm ngã mạn tự mất,
Đèn trí tuệ rực sáng
Lìa các tối ngu si
Thấy pháp tận, vô tận
Vô minh đều không còn,
Tư duy mười công đức
Mười thứ phiền não diệt
Lại dứt làm, đã làm
Cảm sâu, nhìn tôn nhan
Lìa ba mà được ba
Ba đệ tử trừ ba
Như ba sao bày ra
Ở trời Ba mươi ba
Đứng hầu với ba lăm
Ba hầu Phật cũng vậy.
Có vị Đại trưởng giả
Tên là Cấp Cô Độc
Rất giàu có vô lượng
Rộng thí kẻ nghèo khổ
Xa từ ở phương Bắc
Nước Kiều-tát-la đến
Nghỉ nhờ nhà người quen
Người chủ tên Thủ-la
Nghe có Phật ra đời
An trụ trong rừng trúc
Nghe danh, trọng đức Ngài
Đêm đó đến rừng kia.
Như Lai đã biết ông
Căn thuần, tâm tịnh tín
Tùy nghi khen chỗ Phật
Nói pháp ông nghe rằng:
“Ông ưa thích chánh pháp
Tâm tịnh tín khao khát
Giảm bớt việc ngủ nghỉ
Đến đây kính lễ Ta
Giờ Ta sẽ vì ông
Bầy cách đón khách mới.
Ông trước trồng cội đức
Giữ vững nguyện thanh tịnh
Nghe hiệu Phật vui mừng
Xứng đáng làm pháp khí
Vô tư hành thí khắp
Cung cấp kẻ khổ nghèo
Tiếng khen vang khắp nơi
Do nhân trước, quả thành
Nay sẽ hành pháp thí
Dốc lòng chân thành thí
Khi thí, vắng lặng thí
Thọ trì cả tịnh giới.
Giới là vật trang nghiêm
Chuyển đổi được đường ác
Khiến người được sinh Thiên
Hưởng năm lạc cõi trời.
Đa cầu là khổ lớn
Ái dục nhóm các tôi
Nên phải lìa điều ác
Lìa dục vui vắng lặng.
Biết khổ, già, bệnh, chết
Là khổ lớn thế gian
Chánh quan sát chúng sinh
Lìa sinh, già, bệnh, chết
Đã thấy ở nhân gian
Có khổ, già, bệnh, chết
Sinh Thiên cũng như thế
Không có gì thường còn
Vô thường chính là khổ
Khổ thì không có ngã
Vô thường, khổ, vô ngã
Đâu có ngã, ngã sở.
Biết khổ chính là khổ
Nhóm họp chính là tập
Khổ dứt là vắng lặng
Đạo là nơi yên ổn.
Chúng sinh tính lưu động
Nên biết là gốc khổ
Chỉ chưa lấp được nguồn
Chẳng mong “hữu, phi hữu”
Lửa hừng sinh, già, chết
Cháy rực khắp thế gian
Thấy sinh tử dao động
Phải tu theo vô tưởng
Tam-ma-đề rốt ráo
Chỗ vắng lặng cam lộ
Không ngã cùng ngã sở
Thế gian đều như huyễn
Nên quán sát thân này
Các đại chúng đến nhóm.”
Trưởng giả nghe nói pháp
Liền chứng được Sơ quả
Biển sinh tử cạn khô
Chỉ còn một giọt thừa
Thảnh thơi tu lìa dục
Hữu vô thân bậc nhất,
Chẳng như người tục nay
Thấy đế, chân giải thoát
Không lìa các khổ hạnh
Các thứ lưới dị kiến
Tuy đến “Hữu bậc nhất”
Không thấy nghĩa chân thật
Nghĩ tà, đắm phước trời
Hữu ái buộc càng chặt.
Trưởng giả nghe nói pháp
Ấm cái chợt lìa bỏ
Bèn có được Chánh kiến
Các tà kiến dứt hẳn
Như gió thu mạnh mẽ
Thổi tan hết mây đùn
Chẳng chấp nhân tự tại
Cũng chẳng sinh tà nhân
Cũng chẳng phải không nhân
Mà sinh ra thế gian.
Nếu trời Tự tại sinh
Không lớn, nhỏ, trước, sau
Không lên xuống năm đường
Nếu sinh không phải diệt
Cũng không có tai họa
Làm ác cũng không tội
Nghiệp tịnh, nghiệp bất tịnh
Đều do trời Tự tại!
Nếu trời Tự tại sinh
Thế gian chẳng nên nghi
Như con từ cha sinh
Ai chẳng biết trời quý.
Khi người bị nghèo khổ
Không nên lại oán trời
Đều phải tôn Tự tại
Không nên thờ thần khác.
Tự tại được làm ra
Thì không gọi Tự tại
Vì trời được làm ra
Thì trời phải thường làm
Thường làm thì tự nhọc
Sao gọi Tự tại được?
Nếu vô tâm mà tạo
Như trẻ con đã làm
Nếu có tâm mà làm
Có tâm chẳng Tự tại.
Khổ vui do chúng sinh
Thì chẳng Tự tại làm
Tự tại tạo khổ, vui
Thì trời có yêu, ghét
Mà đã có yêu ghét
Không nên gọi Tự tại.
Lại nếu Tự tại làm
Chúng sinh nên yên lặng
Mặc sức Tự tại kia
Nghiệp lành cần gì tu?
Dù làm ác, tu thiện
Không nên có nghiệp báo!
Nếu Tự tại nghiệp sinh
Thì tất cả nghiệp chung
Nếu là nghiệp chung thì
Đều nên gọi Tự tại!
Nếu Tự tại vô nhân
Tất cả cũng nên không
Nếu do Tự tại khác
Tự tại phải vô cùng
Cho nên các chúng sinh
Đều không có người tạo.
Nên biết nghĩa Tự tại
Do lý này bị phá
Tất cả nghĩa trái nhau
Không nói thì có lỗi
Nếu cho tự tánh sinh
Thì lỗi cũng như thế.
Các luận giả Nhân minh
Không hề nói như vậy
Không chỗ nương, không nhân
Mà có chỗ tạo tác!
Các thứ đều do nhân
Giống như nương hạt giống
Cho nên biết tất cả
Thì chẳng tự tánh sinh
Tất cả mọi tạo tác
Không chỉ một nhân sinh
Mà nói: Nhất tự tánh
Cho nên chẳng phải nhân.
Nếu nói tự tánh kia
Trùm khắp ở mọi nơi
Nếu trùm khắp mọi nơi
Cũng không thể tạo tác
Đã không thể tạo tác
Thì chẳng phải là nhân.
Nếu ở khắp mọi nơi
Tất cả có tạo tác
Thế thì tất cả thời
Thường nên có tạo tác.
Nếu nói thường tạo tác
Không đợi thời tạo vật
Vậy cho nên phải biết
Tự tánh chẳng phải nhân.
Lại nói tự tánh kia
Lìa tất cả tâm đó
Tất cả việc tạo tác
Cũng nên lìa các tâm.
Tất cả các chúng sinh
Đều thấy có nhiều tâm
Cho nên biết tự tánh
Cũng chẳng phải là nhân.
Nếu nói: Tự tánh kia
Khác với tâm đó thì
Cho thường chính là nhân
Tánh ấy không nên khác.
Chúng sinh, tâm khác biệt
Tự tánh chẳng phải nhân
Nếu tự tánh là thường
Việc cũng không nên hoại
Cho tự tánh là nhân
Lý nhân quả phải đồng.
Vì chúng sinh thấy hoại
Nên biết có nhân riêng.
Nếu tự tánh là nhân
Không nên cầu giải thoát
Bởi vì có tự tánh
Nên mặc sinh diệt kia
Dù cho được giải thoát
Tự tánh lại sinh buộc
Nếu tự tánh không thấy
Mà thấy được nhân pháp
Đây cũng không phải nhân
Lý nhân quả sai khác.
Các việc thấy ở đời
Nhân quả thảy đều thấy
Nếu tự tánh vô tâm
Không nên có nhân tâm!
Như thấy khói biết lửa
Loại nhân quả cùng tìm
Ngoài nhân kia không thấy
Mà sinh ra việc thấy.
Như vàng làm trang sức
Trước sau không rời vàng
Tự tánh là việc “nhân”
Trước sau đâu có khác.
Nếu cho “thời” tạo tác
Không phải cầu giải thoát
Vì thời kia là thường
Nên mặc thời tiết kia.
Thế gian là vô biên
Thời tiết cũng như thế,
Cho nên người tu hành
Không nên phương tiện cầu.
Đà-la-phiêu tâm kia
Một dị luận thế gian
Tuy có rất nhiều thuyết
Nên biết chẳng một nhân.
Nếu nói ngã tạo tác
Nên tùy ý muốn sinh
Mà nay không tùy ý
Thì sao nói ngã tạo?
Không muốn mà lại được
Muốn ấy lại trái ngược
Khổ vui không tự tại
Vì sao nói ngã tạo?
Nếu cho ngã tạo tác
Thì không nghiệp đường ác!
Các thứ nghiệp quả sinh
Nên biết chẳng ngã tạo
Nói ngã tùy thời tạo
Thì chỉ nên làm thiện
Thiện, ác tùy duyên sinh
Nên biết chẳng ngã tạo.
Nếu cho vô nhân tạo
Không cần tu phương tiện
Tất cả tự nhiên định
Tu nhân để làm gì?
Các thứ nghiệp thế gian
Đạt được các thứ quả
Cho nên biết tất cả
Chẳng phải vô nhân tạo!
Hữu tâm và vô tâm
Đều từ nhân duyên khởi!
Tất cả pháp thế gian
Chẳng phải vô nhân sinh”
Trưởng giả tâm mở tỏ
Thông đạt nghĩa nhiệm mầu
“Thật trí nhất tướng” sinh
Quyết định rõ chân đế
Kính lễ chân Thế Tôn
Chắp tay khải thỉnh rằng:
“Ở tại Xá-bà-đề
Vùng đất giàu, an vui
Đức vua Ba-tư-nặc
Sư tử dòng vọng tộc
Phước đức tiếng đồn vang
Xa gần đều tôn kính
Muốn xây dựng tinh xá
Cúi mong thương xót nhận
Biết tâm Phật bình đẳng
Chỗ ở chẳng cầu an!
Thương các chúng sinh ấy
Không từ chối con thỉnh.”
Phật biết tâm trưởng giả
Nay phát tâm đại thí
Không nhiễm, không mê đắm
Khéo hộ tâm chúng sinh
Ông đã thấy chân đế
Muốn hành thí hết lòng
Tâm thành thích bố thí
Của vô thường không quý
Tiền tài, báu vô thường
Phải nên mau bố thí
Như kho tàng bị cháy
Lấy được nhiều tốt nhiều
Người trí biết vô thường
Xuất tiền bố thí khắp
Người xan tham tiếc giữ
Sợ hết, không dám xài
Cũng không sợ vô thường
Luống mất, thêm âu lo.
Nên bố thí kịp lúc
Như kẻ mạnh gặp địch
Có khả năng chiến đấu
Đó mới là người mạnh.
Bố thí được người mến
Tiếng lành vang khắp chốn
Người lành thích làm bạn
Khi chết tâm thường vui
Không hối cũng không sợ
Không đọa vào ngạ quỉ
Đó chính là hoa báo
Quả này khó nghĩ bàn
Luân hồi trong sáu nẻo.
Bạn lành không hơn thí
Nếu sinh lên trời, người
Được mọi người hầu hạ
Nếu đọa vào súc sinh
Nhờ thí cũng được vui.
Người trí tu thiền định
Không toan tính, không nương
Dù được đạo cam lộ
Còn nhờ thí mà thành
Nhờ việc bố thí kia
Tu tám việc đại nhân
Tùy niệm tâm vui mừng
Quyết định Tam-ma-đề
Tam-muội tăng trí tuệ
Quán sát được sinh diệt.
Quán sát sinh diệt rồi
Lần lượt được giải thoát
Người xả của bố thí
Dứt bỏ được tham đắm
Từ bi, cung kính cho
Dứt cả ganh, tức, mạn.
Thấy rõ quả bố thí
Dứt si kiến không thí
Các phiền não kết tan
Đó là do bố thí!
Nên biết việc bố thí
Chính là nhân giải thoát
Giống như người trồng cây
Vì để được hoa trái
Bố thí cũng như thế
Để được Niết-bàn vui.
Thí của không bền chắc
Thu được quả bền chắc
Thí thực được sức khỏe
Cho áo được sắc đẹp
Nếu xây dựng tinh xá
Các quả được đầy đủ
Hoặc thí cầu năm dục
Hoặc tham cầu tài vật
Hoặc thí vì tiếng khen
Hay cầu sinh cõi trời
Hoặc vì thoát nghèo khổ
Chỉ ông thí vô tâm
Trên hết trong các thí
Không lợi nào không được
Tâm ông rộng mở ra
Giúp cho mau thành tựu
Tâm si ái dứt mất
Mắt thanh tịnh mở sáng”.
Trưởng giả vâng lời Phật
Tâm bố thí thêm sáng
Mời Ưu-ba-đê-xá
Bạn hiền cùng trở về
Nước Kiều-tát-la kia
Đi khắp chọn chỗ tốt
Thấy vườn cây Thái tử
Rừng suối rất thanh vắng
Đi đến chỗ Thái tử
Xin mua một khoảnh vườn.
Thái tử tiếc vườn báu
Không ý bán nên bảo:
“Dù trải khắp vàng ròng
Ta vẫn còn không bán
”. Tâm trưởng giả vui
mừng Đem vàng ròng trải
khắp Kỳ nói: “Ta không
bán Sao ngươi trải vàng
vào?” Trưởng giả đáp: “Không
bán Sao bảo vàng trải
khắp?” Hai người tranh cãi
nhau Kéo đến quan xử
kiện Mọi người lấy làm
lạ Kỳ biết ông tâm
thành Bèn hỏi rõ lý
do Đáp: “Rằng cất tinh
xá Cúng dường Đức Như
Lai Và các Tỳ-kheo
Tăng. Thái tử nghe nói
Phật Tâm ông liền tỏ
ngộ Chỉ lấy nửa số
vàng Xin được cùng xây
dựng Ông đất, ta rừng
cây Hợp chung cúng dường
Phật. Trưởng giả đất, Kỳ
rừng Giao cho Xá-lợi
phất Bắt đầu xây tinh
xá Ngày đêm cho mau
xong Trang nghiêm, cao lồng
lộng Như cung bốn vua
trời Thuận theo nghi đạo
pháp Khen Như Lai ứng
hiện. Thế gian chưa từng
có Thêm sáng thành Xá
vệ Như Lai hiện ân
thần Các Thánh nhóm an
cư Không kẻ hầu bận
rộn Có hầu giúp đạo
nghi Trưởng giả nhờ phước
này Chết được sinh cõi
trời Con cháu nối nghiệp
ông Nhiều đời gieo ruộng
phước.
Phật ngự nước Ma-kiệt
Hóa độ các dị đạo
Đều theo pháp một vị
Như nhật soi các sao
Ra khỏi thành ngũ sơn
Cùng với ngàn đệ tử
Quyến thuộc theo vây quanh
Đi đến núi Ni-kim
Gần Ca-duy-la-vệ
Để sinh tâm báo ân
Phải tu pháp cúng dường
Vì phụng sự vua cha
Quốc vương và các quan
Trước cho người hầu hạ
Đang theo ở bên cạnh
Quan sát mọi hành động
Biết Phật muốn về nước
Vội về trước tâu qua:
“Thái tử tu học xa
Nguyện mãn nay về nước”.
Vua nghe, rất vui mừng
Xa giá ra đón rước
Mọi hạng người cả nước
Thảy đều đi theo vua
Dần đến xa thấy Phật
Dáng xưa sáng rỡ hơn
Đang ngự giữa đại chúng
Giống như vua trời Phạm
Xuống xe, đi bộ đến
Sợ pháp Phật khó khăn
Ngắm dung nham, vui mừng
Miệng không biết nói gì:
“Ta tham ở trần thế
Con siêu việt lên tiên
Tuy con, đạo cao tột
Chưa biết gọi thế nào?
Tự mình khao khát lâu
Hôm nay biết nói sao?
Con nay ngồi im lặng
An nhiên không biến sắc
Xa lâu không tình cảm
Khiến tâm ta riêng buồn.
Như người khát lâu ngày
Giữa đường gặp suối mát
Chạy mau đến định uống
Đến nơi suối khô cạn
Giờ ta gặp Thái tử
Vẫn là dung mạo xưa
Tâm thông, khí cao vời
Đều không bóng lưu tâm
Nén tình, hy vọng dứt
Như khát gặp suối cạn,
Chưa gặp nghĩ vội vàng
Đối mặt chẳng vui lòng
Như nhớ người cách biệt
Bỗng thấy hình tượng vẽ.
Đáng là vua thiên hạ
Giống như vua Mạn-đà
Nay con đi khất thực
Đạo này đâu đáng vinh?”
An tĩnh như Tu-di
Tướng sáng như mặt trời
Khoan thai như trâu bước
Không sợ sư tử rống
Không nhận bốn trời phong
Đi khất thực nuôi thân
Phật biết tâm vua cha
Vẫn xem mình là con
Vì mở tâm cho cha
Và thương tất cả chúng
Dùng thần túc bay lên
Hai tay nâng nhật nguyệt
Dạo đi trong hư không
Hiện các thứ thần biến
Hoặc phân thân vô lượng
Rồi hợp lại thành một
Hoặc vào nước như đất
Hoặc vào đất như nước
Thân đi qua vách đá
Hai bên tuôn nước, lửa
Vua cha rất vui mừng
Không còn nghĩ cha con.
Ngồi đài sen trên không
Nói pháp cho vua nghe
Biết tâm vua thương con
Vì con thêm buồn rầu
Thương nhớ con ray rứt
Phải mau mau dứt hẳn
Dứt ái, lòng an tịnh
Thọ pháp của con mình.
Cái mà con chưa dâng
Giờ dâng lên vua cha
Cha chưa từ con được
Nay sẽ từ con được
Cái lạ của vua người
Vua trời cũng ít có
Đạo cam lộ thiêng liêng
Nay dâng lên đại vương:
“Tự nghiệp nghiệp thọ sinh
Nghiệp nương quả báo nghiệp
Nên biết nhân quả nghiệp
Siêng tu “nghiệp độ đời”
Xét kỹ cõi thế gian
Chỉ nghiệp là bạn lành
Bản thân và họ hàng
Tình sâu, luyến mến nhau
Khi chết chỉ còn thức
Chỉ nghiệp bạn lành theo
Luân hồi trong năm đường
Ba nghiệp, ba thứ sinh.
Ái dục là nhân ấy
Các thứ loại khác nhau
Nay dùng hết sức lực
Tịnh tu nghiệp, thân, miệng
Ngày đêm siêng tu tập
Dứt loạn, tâm vắng lặng
Chỉ vậy mới lợi mình
Lìa đó chẳng phải Ngã.
Nên biết ba cõi hữu
Giống như sóng trên biển
Khó vui, khó tập gần
Nên tu nghiệp thứ tư
Vòng năm đường sinh tử
Như các sao xoay chuyển
Các trời cũng dời đổi
Cõi người đâu được thường
Niết-bàn là an nhất
Hơn hết trong thiền định.
Năm dục lạc vua người
Nguy hiểm nhiều sợ hãi
Như ở chung rắn độc
Đâu có chút vui mừng!
Người sáng thấy thế gian
Như lửa hừng vây quanh
Sợ sệt, chẳng tạm an
Mong xa sinh, già, chết
Chỗ vắng lặng vô tân.
Nơi người trí nương ở
Chẳng cần gươm giáo bén
Voi ngựa và binh sĩ
Điều phục tham, sân, si
Thiên hạ không địch nổi,
Biết khổ, dứt nhân khổ
Chứng diệt, tu phương tiện
Giác ngộ bốn Chân đế
Hết sợ hãi đường ác.”
Trước hiện thần thông mầu
Khiến tâm vua vui mừng
Tâm tin ưa đã sâu
Xứng đáng là pháp khí
Liền chắp tay khen ngợi:
“Lạ thay! Lời thệ thành
Lạ thay! Lìa khổ lớn
Lạ thay! Lợi ích ta
Tuy trước thêm lo buồn
Nhờ buồn nên được lợi.
Lạ thay! Ngày hôm nay
Quả báo sinh con thành
Nên bỏ vui nhiệm mầu
Nên siêng năng khổ hạnh
Nên lìa các bà con
Nên cắt tình ân ái
Ngày xưa các vua tiên
Luống khổ chẳng được gì
Chỗ mát mẻ an ổn
Nay Ngài đều đã được
Tự an, an mọi người
Đại bi cứu chúng sinh.
Xưa nếu ở thế tục
Làm vị vua Chuyển luân
Không thần thông tự tại
Khiến tâm ta mở tỏ
Cũng không pháp mầu này
Khiến ta hôm nay vui
Như làm vua Chuyển luân
Mối sinh tử chẳng dứt
Nay sinh tử đã dứt
Khổ lớn luân hồi diệt
Vì các loài chúng sinh
Nói rộng pháp cam lộ.
Thần thông mầu như thế
Trí tuệ rất rộng sâu
Dứt hẳn khổ sinh tử
Trên hết trong người, trời
Tuy địa vị vua Thánh
Không hề được lợi này”
Khen ngợi như vậy rồi
Ưa pháp, thêm cung kính
Ở ngôi vị vua cha
Mà hạ mình lễ bái.
Các nhân dân trong nước
Thấy sức thần thông Phật
Nghe nói pháp sâu mầu
Và thấy vua cung kính
Đều chắp tay đảnh lễ
Cùng cho là kỳ lạ
Nhàm chán ở tục khổ
Đều phát tâm xuất gia.
Các vương tử học Thích
Tâm ngộ đạo, chứng quả
Đều chán vui thế gian
Bỏ cha mẹ xuất gia
A-nan-đà, Nan-đà
Kim-tỳ, A-na-luật
Nan-đà, Bạt-nan-đà
Và Quân-đồ-đà-na
Các vị thượng thủ ấy
Và những người họ Thích
Đều vâng lời Phật dạy
Thọ pháp, làm đệ tử.
Con đại thần giúp nước
Ưu-đà-di làm đầu
Cùng với các Thái tử
Theo thứ lớp xuất gia,
Lại con A-đê-lê
Tên là Ưu-ba-ly
Thấy các Thái tử kia
Con đại thần xuất gia
Tâm cảm tình mở tỏ
Cũng thọ pháp xuất gia.
Đức vua thấy thần lực
Các công đức của con
Tự cũng vào trong dòng
Chánh pháp môn cam lộ
Bỏ dân chúng vương vị
Ăn cơm ngon thiền định
Thảnh thơi tu vắng lặng
Học tiên ở cung tu.
Phật tùy cơ nhiếp hóa
Dòng họ, người quen rồi
Trên đường sắc mặt vui
Thân thích mừng đi theo
Đến giờ phải khất thực
Vào thành Ca-duy-la
Các gái trai trong thành
Sợ lẫn vui nói rằng:
Tất-đạt-a-la-đà
Học đạo thành trở về
Trong ngoài nói chuyền nhau
Lớn nhỏ chạy ra xem
Trong song, ngoài cửa cái
Chen nhau ghé mắt nhìn
Thấy thân Phật tướng hảo
Ánh sáng chiếu rực rỡ
Ngoài đắp y ca-sa
Trong ánh sáng chiếu suốt
Như vầng mặt trời tròn
Trong ngoài soi chiếu nhau.
Người xem tâm vui mừng
Chắp tay mà rơi lệ
Thấy Phật khoan thai bước
Giữ thân, nhiếp các căn
Thân mầu bày pháp nghi
Kính tiếc thêm buồn than:
“Cạo tóc hủy tướng tốt
Thân mặc y hoại sắc
Oai nghiêm, dáng khác tục
Giữ thân, mắt nhìn thẳng
Lẽ ra lọng báu che
Tay nắm cương rồng bay
Vì sao chân dẫm đất
Ôm bát đi khất thực
Tài đủ phục kẻ thù
Dung mạo mê thể nữ
Áo đẹp, đội mũ trời
Nhân dân đều tôn kính
Mà sao bỏ dáng đẹp?
Buộc tâm, giữ hình tướng
Bỏ năm dục, áo đẹp
Để thân mặc y nhuộm
Thấy tướng gì? Cần gì?
Bỏ năm dục thế gian
Bỏ vợ hiền con yêu
Thân một mình một bóng.
Khổ thay người vợ hiền
Đêm dài ôm thương nhớ
Mà nay nghe xuất gia
Tính mạng vẫn bảo toàn
Không biết vua Tịnh Phạn
Có gặp con mình chưa?
Thấy Ngài thân tướng đẹp
Thân không màng, xuất gia
Người ghét còn đau tiếc
Cha thấy đâu yên được?
Con yêu La-hầu-la
Rơi lệ thường thương nhớ
Gặp nhau không vỗ về
Học đạo ấy làm chi?
Các thầy tướng thông thái
Đều nói thân Thái tử
Đầy đủ tướng Đại nhân
Hưởng lộc khắp bốn biển
Hôm nay thấy việc này
Đó đều là nói dối.”
Cứ thế hùa nhau dồn
Phân vân mà loạn thuyết
Tâm Như Lai không đắm
Chẳng mừng cũng chẳng lo
Từ bi thương chúng sinh
Muốn họ thoát nghèo khổ
Làm căn lành thêm lớn
Và vì đời tương lai
Bày nếp sống ít muốn
Và dứt đời chê bai
Vào xóm nghèo khất thực
Ngon dở đều thọ dụng
Giàu nghèo không chọn nhà
Đầy bát thì về rừng.
Thế Tôn đã khai hóa
Nhân dân Ca-tỳ-la
Tùy duyên độ đã xong
Cùng đại chúng lên đường
Đến nước Kiều-tát-la
Chỗ vua Ba-tư-nặc.
Kỳ hoàn đã xây xong
Phòng xá đều hoàn tất
Các suối chảy róc rách
Hoa trái phô màu tươi
Chim lạ đầy khắp nơi
Tùy loại đua nhau hót
Đẹp, đời không gì sánh
Như cung núi Thủ-la.
Trưởng giả Cấp Cô Độc
Quyến thuộc ra đường đón
Tung hoa, đốt hương quý
Kính thỉnh vào Kỳ hoàn
Tay cầm bình Kim long
Cúi quỳ rót nước rửa
Đem tinh xá Kỳ hoàn
Cúng dường Tăng mười phương
Thế Tôn nhận chú nguyện
Khiến đất nước mãi yên
Trưởng giả Cấp Cô Độc
Phước vui chảy vô cùng.
Khi vua Ba-tư-nặc
Nghe tin Thế Tôn đến
Xa giá tới Kỳ hoàn
Kính lễ chân Thế Tôn
Lui về ngồi một bên
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Chẳng ngờ nước yếu nhỏ
Bỗng được tốt lành lớn
Ác nghịch nhiều tai ương
Đâu cảm được đại nhân
Nay được thấy tôn nhan
Tắm gội, uống pháp trong
Cõi tuy vốn tầm thường
Nhờ Thánh vào dòng thắng
Như gió thoảng rừng hương
Khí hợp gió từng cơn
Các chim về Tu-di
Sắc lạ như ánh vàng
Được gặp người sáng suốt
Nhờ ân trạch cùng vinh.”
Dân dã cúng vị Tiên
Thành ngôi sao ba chân
Lợi đời có lúc hết
Lợi Thánh mãi vô cùng
Vua người nhiều lầm lỗi
Gặp lợi Thánh thường an.
Phật biết tâm vua thành
Ưa pháp như Đế Thích
Chỉ còn hai thứ đắm
Không thể quên tài, sắc
Biết thời, biết tâm hạnh
Mà nói pháp vua nghe:
“Kẻ thấp hèn nghiệp ác
Còn biết kính người lành
Huống gì vua Tự tại
Nhóm đức, nhờ nhân xưa
Gặp Phật càng cung kính
Việc ấy không phải khó.
Đất nước yên, dân an
Chẳng do Phật làm tăng
Nay sẽ lược nói pháp
Đại vương hãy lắng nghe
Thọ trì lời Ta nói
Thấy Ta thành công đức
Khi chết thức lìa thân
Thân thích đều chia ly
Chỉ có nghiệp thiện, ác
Trước sau như hình bóng
Phải kính nghiệp Pháp vương
Thương muôn dân như con
Hiện đời được tiếng khen
Qua đời sinh cõi trời
Buông lung, không theo pháp
Giờ khổ, sau không vui.
Thuở xưa, vua Luy-mã
Thuận pháp, hưởng phước trời
Vua Kim Bộ làm ác
Khi chết đọa đường ác
Nay Ta vì đức vua
Nói lược pháp thiện, ác:
Quan trọng là tâm Từ
Xem dân như con một
Không ra tay bức hại
Khéo giữ gìn các căn
Bỏ tà, theo đường chánh,
Không nâng ta hạ người
Kết bạn với khổ hạnh
Chớ theo bạn tà kiến
Không cậy uy thế vua
Chớ nghe lời nịnh tà
Chớ não người khổ hạnh
Chớ vượt luật pháp vua
Niệm Phật giữ pháp chân
Điều phục kẻ phi pháp
Hiện ở trên mọi người
Đức làm hưng thịnh đạo.
Nghĩ sâu lẽ vô thường
Thân đổi dời rất mau
Tâm nương cảnh cao siêu
Chí cầu bến thanh tịnh
Giữ gìn vui tự tại
Đời sau càng thêm vui
Danh truyền qua nhiều kiếp
Đó đền ân Như Lai.
Như người ưa quả ngọt
Phải trồng loại cây tốt
Có người sáng vào tối
Có người tối ra sáng
Có người tối vào tối
Có người sáng ra sáng
Người trí bỏ ba thứ
Phải học loại thứ tư.
Lời ác nhiều hưởng ứng
Nói thiện, khó kẻ theo
Không có chẳng kết trái
Kẻ làm thì không mất
Sáng nghiệp chẳng siêng tu
Cuối cùng không làm được!
Vốn chẳng tu nhân lành
Sau sẽ không hưởng vui
Đã không có lúc dứt
Cho nên phải tu thiện
Tự xét không làm ác
Mình làm, tự mình chịu
Như bốn núi đá ép
Chúng sinh không chỗ trốn
Núi sinh già, bệnh, chết
Chúng sinh không lối thoát
Chỉ có hành chánh pháp
Mới thoát núi khổ đau.
Thế gian đều vô thường
Cảnh năm dục như chớp
Chày nhọn già lão chết
Sao còn theo phi pháp?
Xưa các vua vĩ đại
Giống như trời Tự tại
Chí mạnh mẽ tuyệt vời
Tạm hiển rồi tan thôi
Kiếp hỏa chảy Tu-di
Nước biển còn khô cạn
Huống thân như chùm bọt
Mong còn mãi trên đời!
Gió mạnh dừng Tùy-lam
Ánh dương che Tu-di
Lửa, nước mạnh đã tan
Vật chất đều tiêu tan
Thân là vật vô thường
Đăm dài khổ giữ gìn
Do có nhiều tài sắc
Buông lung sinh kiêu mạn
Cái chết bỗng chợt đến
Cứng đờ như cây khô
Người sáng thấy việc này
Siêng tu, há ngủ nghỉ?
Máy sinh tử riêng động
Không dừng sẽ rơi rớt
Không tu, không hằng vui
Việc khổ báo không làm
Không gần bạn không tốt
Không học, không dứt tập
Học, không thọ hữu trí
Thọ sẽ khiến không thân
Có thân không đắm cảnh
Đắm cảnh là lỗi lớn
Dù sinh cõi Vô sắc
Không khỏi lúc đổi dời
Nên học thân bất biến
Bất biến thì không lỗi.
Do có thân này nên
Là gốc của các khổ
Cho nên những người trí
Nhổ gốc để không thân.
Tất cả loài chúng sinh
Đều do dục sinh khổ
Cho nên đối cõi Dục
Phải sinh tâm chán lìa
Đã chán lìa cõi Dục
Thì không bị các khổ
Dù sinh Sắc, Vô sắc
Biến đổi là khổ lớn
Vì chúng chưa vắng lặng
Huống không lìa cõi Dục
Như thế quán ba cõi.
Vô thường không có chủ
Các khổ thường lẫy lừng
Kẻ trí đâu vui mừng
Như cây bị lửa đốt
Chim chóc đâu còn đậu
Giác ngộ là người sáng
Không biết là vô minh
Hiểu được là Bồ-tát.
Không hiểu chẳng phải giác
Điều này phải nên làm
Không phải thế không làm
Điều này là gần tông
Không như thế trái lý
Cho pháp cao quý này
Tại gia không nên hành
Đó là lời phi pháp.
Pháp do người mở rộng
Nước nóng đổ vào lạnh
Tất cả được mát mẻ
Nhà tối được đèn sáng
Được thấy cả năm màu
Tu đạo cũng như thế
Đạo, tục không khác nhau
Người ở núi bị đọa
Kẻ tại gia lên tiên.
Si ám là biển lớn
Tà kiến là sóng mòi
Chúng sinh theo dòng ái
Trôi dạt khó vớt được
Trí tuệ là thuyền nan
Giữ vững Chánh tam-muội
Làm mái chèo phương tiện
Chèo qua biển vô tri.”
Nhà vua chuyên tâm nghe
Lời Nhất Thiết Trí nói
Chán lìa vinh hiển đời
Biết vua không vui dục
Như voi say điên cuồng
Hết say lại thuần thục.
Bấy giờ các ngoại đạo
Thấy vua kính tin Phật
Đều cầu xin nhà vua
Đấu thần thông với Phật
Vua bạch Đức Phật rằng:
“Xin theo ý họ muốn.”
Phật im lặng chấp nhận.
Các dị kiến khác nhau
Các tiên năm thần thông
Đều kéo đến chỗ Phật
Phật liền hiện thần lực
Ngồi vững giữa hư không
Phát ánh sáng rực rỡ
Như ánh dương buổi sáng
Ngoại đạo được hàng phục
Quốc dân đều quy y.
Vì nói pháp độ mẹ
Ngài lên trời Đao-lợi
Ba tháng ở cõi trời
Hóa độ khắp chư Thiên
Độ mẹ, báo ân rồi
An cư xong trở về
Các Thiên chúng cùng theo
Xuống thềm bằng bảy báu
Về lại Diêm-phù-đề
Nơi chư Phật thường hạ
Vô lượng các trời, người
Nương cung điện tiễn chân
Dân chúng ở Diêm-phù
Chắp tay mà chiêm ngưỡng.
Trên trời hóa độ mẹ
Và các vị trời khác
Về lại trong nhân gian
Tùy duyên mà hành hóa;
Thọ-đê-ca-kỳ-bà
Thủ-la-thâu-lư-na
Ương-già con Trưởng giả
Và Thái tử Vô úy
Ni-cù-lũ-đà thảy
Thi-lợi-quật-đa-ca
Ni-kiền Ưu-ba-ly
Giúp họ đều giải thoát.
Vua nước Càn-đà-la
Tên là Phất-ca-la
Nghe nói pháp nhiệm mầu
Bỏ nước đi xuất gia,
Quỉ Hê-mậu-bát-để
Và Bà-đa-kỳ-lợi
Tại núi Tỳ-phú-la
Được hàng phục hóa độ,
Phạm chí Ba-la-diên
Trong núi Ba-sa-na
Nửa kệ nghĩa sâu kín
Điều phục khiến tin ưa,
Thôn Tha-na-ma-đế
Có Cưu-tra-đàn-đam
Đứng đầu các bậc Thánh
Sát sinh nhiều, cúng tế
Phật dùng phương tiện độ
Khiến được vào chánh đạo,
Núi Tỳ-đề-ha có
Thiên thần oai đức lớn
Tên Ban-già-thi-khư
Thọ pháp được quyết định,
Thôn Tỳ-nữu-sắt-tra
Hóa độ mẹ Nan-đà
Thành Ương-già-phú-lê
Hàng phục thần sức mạnh
Phú-na Bạt-đà-la,
Thâu-lũ-na-đàn-đà
Rồng sức mạnh hung dữ
Quốc vương và hậu cung
Đều lãnh thọ chánh pháp.
Để mở cửa cam lộ
Ở thôn Chu-nho kia
Khể-na và Thi-lư
Chí cầu sinh cõi trời
Giáo hóa vào chánh đạo,
Ương-cù-lợi-ma-na
Ở thôn Tu-mâu kia
Đã hiện sức thần thông
Hóa độ liền điều phục.
Có con Trưởng giả tên
Phù-lê-kỳ-bà-nam
Giàu có nhiều tiền của
Như Phú-na-bạt-đà
Liền ở trước Như Lai
Được độ, rộng bố thí.
Ở thôn Bạt-đề nọ
Hóa độ Bạt-đề-lê
Và cả Bạt-đa-la
Hai quỉ thần anh em,
Tỳ-hề-ha-phú-lê
Có hai Bà-la-môn
Một tên là Đại Thọ
Hai tên là Phạm Thọ
Luận nghị để hàng phục
Giúp được vào chánh pháp.
Đến thành Tỳ-xá-ly
Độ các quỉ La-sát
Cùng Ly-xa sư tử
Và các chúng Ly-xa
Ni-kiền-tử Tát-già
Đều giúp vào chánh pháp.
A-ma-lặc-ca-ba
Có quỉ Bạt-đà-la
Và Bạt-đà-la-ca
Bạt-đà-la-kiếp-ma,
Lại đến núi A-lạp
Độ quỉ A-lạp-bà
Và quỉ Cưu-ma-la
Quỉ Ha-tất-đa-ca
Trở lại núi Già-xà
Độ quỉ Hằng-ca-na
Và Dạ-xoa lông kim
Cùng anh em, con nó
Lại đến Ba-la-nại
Hóa độ Ca-chiên-diên
Sau đó nương thần thông
Đến Thâu-lô-ba-la
Hóa độ những người buôn
Đa-ba-kiền-ni-kiếm
Nhận ngôi nhà chiên-đàn
Đến nay còn hương thơm.
Đến Ma-hê-ba-đê
Độ tiên Ca-tỳ-la
Mâu-ni trụ ở đó
Chân đạp lên trên đá
In dấu hai bánh xe
Đến nay vẫn chưa mòn.
Đến xứ Ba-la-na
Độ quỉ Bà-la-na,
Đến nước Ma-thâu-na
Độ quỉ Kiệt-đàm-ma,
Thâu-la-câu-sắt-tra
Độ Lại-tra-ba-la,
Đến thôn Tỳ-lan-nhã
Độ các Bà-la-môn,
Thôn Ca-lợi-ma-sa
Độ Tát-tỳ-tát-thâm
Ở đó cũng hóa độ
A-kỳ-ni-tỳ-xá,
Trở về nước Xá-vệ
Hóa độ Cù-đàm-ma
Xà-đế-thâu-lư-na
Đạo Ca-a-đê-lê.
Về nước Kiều-tát-la
Độ giáo chủ ngoại đạo
Phất-ca-la-bà-lị
Và các chúng Phạm chí.
Đến Thi-đa-tỳ-ca
Chốn vắng lặng thảnh thơi
Độ các tiên ngoại đạo
Giúp họ vào Phật đạo,
Đến nước A-thâu-xà
Đô các chúng quỉ, rồng,
Đến nước Kim-tỳ-la
Độ hai vua rồng dữ
Một tên Kim-tỳ-la
Hai tên Ca-la-ca.
Lại đến nước Bạt-trí
Hóa độ quỉ Dạ-xoa
Tên gọi là Tỳ-sa
Cha mẹ Na-cưu la
Và cùng Đại Trưởng giả
Khiến tin ưa chánh pháp.
Đến nước Câu-xá ni
Hóa độ Cù-sư la
Và hai Ưu-bà di
Ba-xà, Uất-đa la
Cùng bạn bè họ nữa.
Lần lượt độ rất nhiều
Đến nước Kiền-đà la
Độ rồng A-bà la...
Cứ lần lượt như thế
Loài trên không, đất, nước
Ngài đều đến hóa độ
Như trời soi chỗ tối.
Bấy giờ, Đề-đà đạt
Thấy Phật đức thù thắng
Nên trong tâm ganh ghét
Các thiền định mất hết
Tìm mọi cách hiểm độc
Phá hoại chánh pháp tăng;
Lên núi Kỳ-xà quật
Xô đá để hại Phật
Đá vỡ ra hai phần
Tránh Phật rơi hai bên,
Tại con đường bằng phẳng
Thả voi say hung dữ
Rống lên như sấm vang
Dũng khí bốc thành mây
Ào ào mà rông chạy
Xông xáo như gió mạnh
Vòi, ngà, đuôi, bốn chân
Đụng gì cũng vỡ tan
Đường phố thành Vương xá
Người chết vô tội vạ
Thây chết nằm ngổn ngang
Tủy não, máu chảy ròng.
Tất cả các gái trai
Sợ hãi không ra cửa
Cả thành đều lo sợ
Chỉ nghe tiếng kêu la
Kẻ bỏ chạy khỏi thành
Có người trốn trong hang.
Năm trăm chúng của Phật
Đến giờ phải vào thành
Người ở trên lầu cao
Bạch Phật xin đừng đi
Tâm Như Lai an nhiên
Thản nhiên không vẻ sợ
Chỉ nghĩ khổ tham ganh
Tâm Từ muốn khiến an,
Chúng trời, rồng đi theo
Lần đến chỗ voi cuồng
Các Tỳ-kheo bỏ chạy
Chỉ A-nan với Phật
Còn đủ các Tướng pháp
Tự tính không đổi dời.
Voi hung hăng cuồng say
Thấy Phật tâm liền tỉnh
Quỳ lạy dưới chân Phật
Như núi Thái sụp đổ
Phật đưa tay xoa đầu
Như trăng dọi mây đen
Voi quỳ dưới chân Phật
Phật nói pháp voi rằng:
“Voi chớ hại rồng lớn
Voi khó đánh với rồng
Voi muốn hại rồng lớn
Thì không sinh chỗ lành
Tham, sân, si mê say
Khó hàng, Phật đã hàng
Cho nên hôm nay ngươi
Phải bỏ tham, sân, si
Đã chìm trong lầy khổ
Không bỏ, lún càng sâu.”
Voi kia nghe Phật dạy
Tâm say cuồng liền ngộ
Thân tâm được an vui
Như khát uống cam lộ.
Voi đã được Phật độ
Người trong nước vui mừng
Đều khen rằng ít có
Sắm các thức cúng dường
Hạ thiện chuyển thành trung
Trung thiện, chuyển cao hơn
Người chưa tin sinh tin
Người đã tin càng sâu.
Đại vương A-xà-thế
Thấy Phật hàng voi say
Tâm nghĩ thật lạ kỳ
Vui mừng càng kính mến.
Như Lai khéo phương tiện
Hiện các thứ thần lực
Điều phục các chúng sinh
Tùy sức vào chánh pháp
Cả nước tu nghiệp lành
Như người thuở kiếp sơ.
Đề-bà-đạt-đâu kia
Làm ác tự trói buộc
Thần lực trước mất hết
Nay đọa ngục Vô gián.
Thế Tôn độ khắp xong
Ngài nhập định Niết-bàn
Giã từ thành Vương xá
Đến ấp Ba-liên-phất
Đến nơi trú tại vùng
Ta-tra-lị-chi-đề
Thuộc nước Ma-kiệt-đà
Cạnh nước Ấp-phụ-dung.
Bà-la-môn quốc chủ
Hiểu rộng, thông kinh điển
Xem vận nước an nguy
Chiêm tinh gia cả nước
Vua Ma-kiệt sai sứ
Đến thưa chiêm tinh gia
Xây hào thành vững chắc
Đề phòng nước láng giềng.
Phật chọn vùng đất đó
Được Thiên thần giữ gìn
Xây thành quách trong đó
Vững bền mãi, không hoại.
Tâm chiêm gia vui mừng
Cúng dường Phật, Pháp, Tăng
Phật ra khỏi thành ấy
Đi đến bến sông Hằng
Chiêm ngưỡng rất kính Phật
Gọi là Cù-đàm môn
Dân chúng bên bờ sông
Đều ra đón Thế Tôn
Sắm các thứ cúng dường
Lo thuyền rước sang sông.
Phật thấy nhiều thuyền quá
Nhận một, mất lòng cả
Liền dùng sức thần thông
Cùng đại chúng ẩn thân
Bỗng ẩn bờ bên này
Hiện ra bờ bên kia,
Ngài nương thuyền trí tuệ
Độ khắp các chúng sinh
Nhờ năng lực công đức
Qua sông không ngồi thuyền.
Dân chúng bên bờ sông
Đều nói rằng lạ quá
Đều đặt cho bến ấy
Tên là bến Cù-đàm
Cửa thành cửa Cù-đàm
Bến tên bến Cù-đàm
Tên này lưu ở đời
Muôn đời sau còn gọi.
Như Lai lại lên đường
Đến thôn Cưu-lê kia
Nói pháp hóa độ nhiều
Lại đến thôn Na-đề
Dân bệnh dịch chết nhiều
Người thân đều đến hỏi:
“Người thân tôi bệnh dịch
Chết rồi sinh về đâu?”
Phật biết rõ nghiệp báo
Nên tùy hỏi trả lời.
Đến nước Tỳ-xá-ly
Trụ trong rừng Am-la
Có nàng Am-ma-la
Nhân Phật đến vườn kia
Cùng với các nàng hầu
Lần lượt ra đón rước
Khéo giữ gìn các căn
Thân mặc áo trắng nhẹ
Bỏ hết đồ trang sức
Không tắm nước hương thơm
Như các gái trinh hiền
Thanh khiết để tế trời
Dung nhan rất xinh đẹp
Như ngọc nữ cõi trời.
Phật xa thấy nàng đến
Bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nàng này rất xinh đẹp
Làm người tu mê đắm
Các thầy phải chánh niệm
Dùng tuệ giữ tâm mình
Thà chết trong miệng cọp
Dưới kiếm bén kẻ cuồng
Chớ không đối người nữ
Mà sinh tâm ái dục.
Người nữ bày tư thái
Như đi, đứng, nằm, ngồi
Cho đến hình tượng vẽ
Đều lộ vẻ yêu kiều
Cướp đoạt thiện tâm người
Sao không tự đề phòng?
Khi khóc, cười, buồn, vui
Thân yểu điệu rũ vai
Hoặc xõa tóc nghiêng đầu
Vẫn còn loạn tâm người
Huống dung nhan tô điểm
Bày vẻ đẹp yêu kiều
Trang nghiêm che thân xấu
Lừa dối những kẻ ngu
Mê loạn sinh ý xấu.
Không biết thân nhơ xấu
Phải quán khổ vô thường
Bất tịnh, không ngã sở
Thấy rõ sự chân thật
Dứt bỏ thân tham dục
Chánh quán đối tự cảnh
Thiên nữ còn không thích
Huống là dục nhân gian
Mà mê đắm tâm người.
Phải cầm cung tinh tấn
Tên trí tuệ bén nhọn
Mang áo giáp chánh niệm
Quyết chiến với năm dục
Thà dùng dùi nóng sắt
Đâm thủng cả đôi mắt
Không dùng tâm ái dục
Mà ngắm nhìn nữ sắc.
Ái dục mê tâm người
Huyễn hoặc đối nữ sắc
Loạn tưởng mà chết đi
Sẽ đọa ba đường ác.
Sợ khổ ba đường ác
Đừng để người nữ gạt
Căn chẳng buộc cảnh giới
Cảnh giới chẳng buộc căn
Bấy giờ, ý tham dục
Do căn buộc cảnh giới
Giống như hai trâu cày
Cùng một ách, một nài
Trâu không chuyển, buộc nhau
Căn, cảnh giới cũng vậy
Cho nên phải giữ tâm
Chớ để tâm buông lung.”
Phật vì các Tỳ-kheo
Nói pháp bằng mọi cách.
Nàng Am-ma-la kia
Dần đến trước Thế Tôn
Thấy Phật ngồi dưới cây
Đang thiền định, suy nghĩ
Nghĩ Phật tâm đại từ
Thương nhận rừng cây ta
Giữ tâm, vững dung nghi
Không diêm dúa lẳng lơ
Thân kính, tâm thuần nhất
Cúi đầu lễ dưới chân.
Thế Tôn bảo an tọa
Tùy tâm mà nói pháp
Rằng: “Tâm ngươi thuần tịnh
Hiện rõ ra bên ngoài
Tuổi trẻ, nhiều của báu
Đủ đức và dung mạo
Kính tin, ưa chánh pháp
Quả hiếm có thế gian.
Trượng phu trí đời trước
Ưa pháp không phải lạ
Người nữ chí yếu mềm
Trí cạn, ái dục sâu
Mà tin ưa chánh pháp
Việc này cũng rất khó.
Con người sinh ở đời
Chỉ lấy pháp làm vui
Sắc, tài chẳng giữ thường
Chỉ chánh pháp là quý
Khỏe mạnh, bệnh cũng chết
Tuổi trẻ, già đổi dời
Mạng bị chết làm khốn
Hạnh pháp không xâm đoạt
Vật yêu rồi cũng lìa
Không yêu mà phải gần
Mong cầu chẳng vừa lòng
Chỉ pháp vừa lòng người
Tha lực là khổ lớn
Tự lực mới là vui.
Người nữ nương kẻ khác
Và mang khổ giùm người
Vậy nên phải suy nghĩ
Chán lìa thân người nữ.”
Nàng Am-ma-la ấy
Nghe pháp tâm vui mừng
Trí vững chắc thêm sáng
Dứt bỏ được ái dục
Liền tự chán thân nữ
Không đắm nhiễm cảnh giới
Tuy thẹn thân xấu xí
Pháp khuyến khích tâm kia
Cúi đầu bạch Phật rằng:
“Đã được Phật nhiếp thọ
Thương nhận mọi cúng dường
Giúp chí nguyện thỏa lòng.”
Phật biết nàng tâm thành
Lợi ích cho chúng sinh
Ngài im lặng nhận lời
Làm cho họ mừng vui
Thấy, nghe dần thêm sáng
Làm lễ và ra về.
❑
Khi ấy Tỳ-xá-ly
Các Trưởng giả, Ly-xá
Nghe Thế Tôn đến nước
Ngự vườn Am-ma-la
Họ ngồi xe lụa trắng
Lọng báu, y phục đẹp
Xanh, đỏ, vàng... tươi thắm
Mỗi đoàn một hình thức
Dẫn tùy tùng trước sau
Tranh nhau để tới trước,
Mũ báu, y phục đẹp
Trang sức toàn châu báu
Uy dung thật rạng rỡ
Khu vườn kia thêm sáng
Xả bỏ năm uy nghi
Xuống xe đi bộ đến
Thân kính, dứt kiêu mạn
Đảnh lễ dưới chân Phật.
Đại chúng vây quanh Phật
Như mặt trời thêm sáng
Ly-xa tên Sư Tử
Đứng đầu các Ly-xa
Dáng mạo như sư tử
Là tôi trung sư tử
Bỏ kiêu mạn sư tử
Thọ giáo Thích Sư tử
Rằng: “Oai đức các vị
Vọng tộc, hình dung đẹp
Bỏ kiêu mạn thế gian
Thọ pháp càng thêm sáng.
Trang sức bằng hương hoa
Không bằng giới trang nghiêm
Đất nước giàu, an vui
Thì các vị vinh hiển.
Vinh thân mà an dân
Là do điều phục tâm
Lại thêm tâm ưa pháp
Khiến công đức càng cao
Không phải bọn hẹp hòi
Nhóm được các hiền tài
Phải ngày tu công đức
Biết vỗ về muôn dân
Trị dân bằng chánh pháp
Như trâu chúa lội sông.
Nếu người tự suy nghĩ
Đời nay và đời sau
Phải nên tu chánh giới
Phước lợi hai đời an
Được mọi người kính trọng
Tiếng khen khắp gần xa
Người hiền thích làm bạn
Tiếng thơm lưu truyền mãi.
Ngọc đá quý núi rừng
Đều có từ đất ấy
Giới đức cũng như đất
Các thiện từ đó sinh.
Muốn bay mà không cánh
Qua sông không có thuyền
Người không có giới hạnh
Cứu khổ là thật khó.
Như cây hoa quả ngon
Gai góc khó vịn leo
Học rộng bị nữ sắc
Người phá giới cũng thế.
Ngồi thẳng lầu gác đẹp
Tâm vua tự trang nghiêm
Đủ tịnh giới công đức
Được Đại tiên hóa độ
Vận y phục lông chim
Đầu cạo sạch râu tóc
Không tu trì giới đức
Mới chịu các khổ nạn.
Ngày đêm tắm ba lần
Thờ lửa tu khổ hạnh
Thân có mùi dã thú
Vào nước, lửa, nhảy vực
Ăn củ, quả, rau xanh
Uống nước sông, gió mát
Tuyệt lương, thở khí trời
Và lìa bỏ chánh giới
Tu đạo cầm thú này
Không phải là pháp khí.
Phá giới còn bài báng
Người nhân chẳng gần gũi
Trong tâm thường sợ hãi
Tiếng xấu như hình bóng
Đời này không lợi ích
Đời sau đâu được yên.
Vì thế người trí tuệ
Phải tu trì tịnh giới
Cánh đồng rộng sinh tử
Giới là người dẫn đường
Trì giới do sức mình
Việc này chẳng phải khó.
Tịnh giới là thềm thang
Giúp người sinh cõi trời
Người giữ vững tịnh giới
Là do phiền não nhẹ
Tội lỗi phá tâm đạo
Làm mất công đức lành
Phải nên bỏ ngã sở
Ngã sở che điều lành
Như tro phủ than hồng
Chân đạp liền bị phỏng
Kiêu mạn che phủ tâm
Như trời ẩn trong mây.
Hổ thẹn diệt biếng nhác
Chí mạnh lo buồn yếu
Già bệnh phá thân trẻ
Ngã mạn diệt các thiện.
Các trời, A-tu-la
Tham ganh nên đánh nhau
Đánh mất các công đức
Đều do kiêu mạn phá:
Ta hơn hết tất cả
Công đức ta cũng hơn
Ta thắng kẻ yếu hơn
Đó chính là người ngu.
Dòng họ đều vô thường
Dao động chẳng tạm an
Rốt cuộc cũng tiêu tan
Sao kiêu mạn làm gì?
Tham dục là họa lớn
Dối thân mà oán ngầm
Lửa mạnh từ trong phát
Lửa tham cũng như vậy.
Tâm tham dục lẫy lừng
Còn hơn lửa thế gian
Lửa hừng, nước dập tắt
Tham ái khó tiêu được.
Lửa hừng đốt đồng cỏ
Cỏ cháy mọc cỏ khác
Lửa tham dục đốt tâm
Thì chánh pháp sinh khó.
Tham dục muốn vui đời
Vui thêm nghiệp bất tịnh
Nghiệp ác đọa đường ác
Oán không hơn tham dục.
Tham thì sinh ra ái
Ái thì theo các dục
Theo dục với các khổ
Tội ác, tham lớn nhất.
Tham là căn bệnh nặng
Thuốc trí trị người ngu
Tà giác, nghĩ bất chánh
Làm tăng thêm tham dục.
Vô thường, khổ, bất tịnh
Vô ngã, vô ngã sở
Trí tuệ quán chân thật
Diệt được tà tham ấy.
Cho nên đối cảnh giới
Phải tu quán chân thật
Quán chân thật đã sinh
Thì dứt được tham dục.
Thấy đức sinh tham dục
Thấy lỗi sinh tức giận
Đức, lỗi quên cả hai
Tham sân được dứt bỏ.
Tức giận đổi hình dung
Mất đi vẻ xinh đẹp
Tức giận mờ mắt sáng
Hại pháp nghĩa muốn nghe.
Cắt đứt nghĩa thân ái
Bị người đời khinh thường
Cho nên phải bỏ giận
Đừng để cho tâm giận.
Dứt được tâm giận cuồng
Là người khéo điều phục
Đời gọi khiển ngựa giỏi
Đó là người nắm dây
Giận dữ không kềm lại
Lửa hối hận liền cháy.
Nếu người sinh tức giận
Trước tự đốt tâm mình
Sau đó hại cả kia
Hoặc đốt hoặc không đốt.
Khổ, sinh, già, bệnh, chết
Ép bức các chúng sinh
Lại thêm tâm giận tức
Đã oán lại thêm oán
Thấy đời các khổ ngặt
Nên sinh tâm Từ bi.”
Chúng sinh khởi phiền não
Thêm lắm điều trái đạo
Như Lai khéo phương tiện
Tùy bệnh mà nói lược
Thí như thầy thuốc hay
Tùy bệnh mà bốc thuốc.
Khi ấy các Ly-xa
Nghe pháp do Phật nói
Liền dậy lễ chân Phật
Vui mừng mà lãnh thọ
Thỉnh Phật và chúng Tăng
Ngày mai thiết lễ cúng
Phật bảo các Ly-xa:
“Am-ma-la đã thỉnh.”
Ly-xa lòng hổ thẹn
Sao nàng đoạt lợi Ta?
Biết tâm Phật bình đẳng
Nên sinh tâm vui theo.
Như Lai khéo tùy nghi
An ủi khiến họ vui
Điều phục khiến trở về
Như rắn bị thần chú.
Hết đêm, rạng sáng ra
Phật và cả đại chúng
Đến nhà Am-ma-la
Thọ nàng dâng cúng xong,
Đi đến thôn Tỳ-nữu
Để kiết hạ an cư.
Ba tháng an cư xong
Về nước Tỳ-xá-ly
Trú bên ao Di-hầu
Ngồi ở dưới cội cây
Phát ánh sáng rực rỡ
Cảm đến ma Ba-tuần
Họ liền đến chỗ Phật
Chắp tay khuyến thỉnh rằng:
“Xưa bên sông Ni-liên
Đã phát thệ chân thật
Nếu việc hoàn thành xong
Ta sẽ vào Niết-bàn
Nay việc đã hoàn thành
Đã toại với bản tâm”.
Phật bảo ma Ba-tuần:
“Ngày diệt độ không xa
Chỉ sau ba tháng nữa
Ta sẽ vào Niết-bàn.”
Thiên ma biết Như Lai
Sắp đến ngày diệt độ
Ý muốn đã thỏa mãn
Vui mừng trở về trời.
Như Lai ngồi dưới cây
Chánh thọ “Tam-ma-đề”
Xả tuổi thọ nghiệp báo
Dùng sức thần trụ mạng.
Vì Như Lai xả thọ
Khắp mặt đất rung chuyển
Hư không trong mười phương
Lửa hừng cháy đầy khắp
Đỉnh Tu-di lở ngã
Trời mưa đá sỏi bay
Bốn bề gió bão dậy
Cây cối đều đổ gãy.
Nhạc trời trổi bi ai
Tâm người, trời hết vui.
Đức Phật liền xuất định
Bảo khắp các chúng sinh:
“Nay Ta đã xả thọ
Dùng định lực sống thôi
Thân như xe cũ mục
Không còn tới lui được
Đã thoát ra ba cõi
Như chim phá trứng ra.”
Tôn giả A-nan-đà
Thấy trời đất rung chuyển
Tâm hãi, mình nổi ốc
Hỏi Phật: “Vì cớ gì?”
Phật bảo A-nan-đà:
“Ta sống ba tháng nữa
Mạng thừa này bỏ đi
Nên trời đất rung chuyển.”
A-nan nghe Phật dạy
Thương cảm lệ chứa chan
Giống như con voi khỏe
Lay động cây chiên-đàn,
Nhiễu động rung chuyển khắp
Dòng lệ thơm tuôn chảy
Gần gũi Bậc Đại Sư
Ân sâu, chưa lìa dục
Chỉ lo hầu tứ sự
Buồn khổ không kềm được:
“Nay con nghe Thế Tôn
Nói quyết định Niết-bàn
Toàn thân đều rũ riệt
Lầm phương, mất thường âm
Pháp đã nghe quên hết
Mê man quên trời đất.
Lạ thay! Đấng Cứu Thế
Mà sao mau diệt độ!
Gặp băng lạnh rũ chết
Lửa đỏ lại bỗng diệt.
Trong cánh đồng phiền não
Mê loạn mất phương hướng
Bỗng gặp thầy dẫn đường
Chưa độ đã mất đi,
Như người đi đường xa
Nóng khát lại thiếu nước
Bỗng gặp ao nước trong
Chạy đến thì khô cạn.
Mày xanh, đôi mắt sáng
Gương sáng cho ba đời
Trí tuệ soi chỗ tối
Tối tăm liền tan biến
Như mạ trên đất khô
Mây đùn mong mưa xuống
Gió mạnh thổi mây tan
Hết mong ruộng khô cằn
Vô trí thật tối tăm
Chúng sinh đều lạc đường
Như Lai đốt đèn tuệ
Bỗng tắt, đường nào ra”.
Phật nghe A-nan nói
Tình bi thiết xót thương
Ngài nhẹ nhàng an ủi:
“Ta nói pháp chân thật
Nếu người biết tự tánh
Thì không nên buồn thương.
Tất cả pháp hữu vi
Đều là pháp hoại diệt
Ta đã nói với ông
Lý ân ái vô thường
Hội họp ắt ly biệt[14]
Nên bỏ tâm buồn nhớ.
Pháp hữu vi biến đổi
Sinh diệt không tự tại
Muốn làm cho còn mãi
Thì không bao giờ có.
Nếu hữu vi thường còn
Và không có biến đổi
Đó là giải thoát rồi
Cần gì mà cầu nữa?
Ông và các chúng sinh
Nay cầu gì ở Ta
Điều các thầy phải được
Ta đã nói xong rồi
Cần gì thân này nữa?
Pháp thân mới lâu dài
Ta trụ “ngã vắng lặng”
Cốt yếu ở chỗ đó
Nhưng Ta đối chúng sinh
Chưa hề có mỏi mệt[15]
Phải nghĩ tưởng chán lìa
Khéo trụ nơi chính mình.
Phải biết nơi chính mình
Chuyên tinh hành phương tiện
Ở một mình chỗ vắng
Không tin, nơi người khác
Phải biết nơi có pháp
Quyết đốt sáng đèn tuệ
Xua tan được si ám
Quán sát bốn cảnh giới
Chứng được các thắng pháp
Lìa ngã, lìa ngã sở.
Da thịt phủ bộ xương
Máu chảy, gân ràng rịt
Xét kỹ đều bất tịnh
Sao lại ưa thân này?
Các thọ từ duyên sinh
Như bọt trên mặt nước
Khổ sinh diệt, vô thường
Dứt bỏ các lạc tưởng
Tâm thức sinh, trụ, diệt
Đổi mới không tạm ngừng
Suy nghĩ sự vắng lặng
Cho thường còn là sai.
Các hành nhân duyên khởi
Tụ, tán không thường mãi
Ngu si tưởng có ngã
Người trí không ngã sở
Đối bốn cảnh giới này
Suy nghĩ, quán sát đúng
Đó là đạo nhất thừa
Các khổ đều dứt hết
Nếu làm được như vậy
Là chân thật chánh quán
Thân Phật còn hay mất
Pháp này thường vô tận.”
Phật nói pháp mầu này
Khi an ủi A-nan
Các Ly-xa nghe vậy
Hoang mang cùng nhóm họp
Bỏ phép tắc thế gian
Vội vàng đến chỗ Phật
Lễ xong, ngồi một bên
Muốn hỏi, không nên lời
Phật đã biết tâm họ
Trước dùng phương tiện nói:
“Nay Ta thấy các vị
Tâm nghĩ tưởng khác thường
Xả bỏ việc thế tục
Chỉ nhớ giáo pháp Phật.
Các ông muốn theo Ta
Điều đã nghe đã biết
Với việc Ta còn, mất
Chớ sinh tâm buồn lo
Tánh hữu vi vô thường
Pháp xao động biến đổi
Chẳng bền chắc, lợi ích
Không có tướng còn mãi.
Thuở xưa, các vua Tiên
Chư tiên Bà-tư-tra
Vua chuyển luân Mạn-đà
Sánh bằng cũng nhiều vị
Các vua tài như thế
Sức như trời Tự tại
Đều qua đời từ lâu
Không ai còn đến nay?
Trời Đế Thích, Nhật, Nguyệt
Số ấy cũng rất nhiều
Thảy đều đã qua đời
Không có ai sống mãi.
Các Phật đời quá khứ
Nhiều như cát sông Hằng
Trí tuệ soi thế gian
Thảy đều như đèn tắt
Các Phật đời vị lai
Cũng sẽ diệt như thế.
Nay Ta đâu riêng khác
Sẽ nhập vào Niết-bàn
Những người cần được độ
Nay phải đi tới trước.
Tỳ-xá-ly vui sướng
Các ông đã được an
Chúng sinh không chỗ nương
Ba cõi không đáng vui
Phải dứt khổ lo buồn
Mà sinh tâm lìa dục.”
Quyết định chia tay rồi
Ngài đi về phương Bắc
Khoan thai bước đường dài
Như nhật cạnh núi Tây.
Bấy giờ các Ly-xa
Buồn than theo bên đường
Ngửa mặt mà than thở:
“Than ôi! Sao lạ thay!
Thân như núi vàng ròng
Đủ các tướng trang nghiêm
Không lâu sẽ tan rã
Vô thường sao không thương?
Sinh tử lâu khao khát
Mẹ trí tuệ Như Lai
Mà nay vội xả bỏ
Vì sao không cứu khổ?
Chúng sinh mãi tối tăm
Nhờ tuệ sáng dẫn đường
Vì sao mặt trời tuệ
Bỗng nhiên bị mất sáng?
Vô trí lại trôi nhanh
Các chúng sinh nổi trôi
Vì sao cầu chánh pháp
Lại bỗng nhiên gãy đổ?
Vị thầy thuốc từ bi
Thuốc hay trí vô thượng
Trị bệnh khổ chúng sinh
Sao bỗng nhiên đi xa?
Ngọn cờ mầu từ bi
Trang nghiêm bằng trí tuệ
Treo bằng tâm kim cang
Thế gian ngắm không nhàm
Ngọn cờ đẹp thờ phụng
Sao bỗng nhiên gãy đổ?
Chúng sinh sao phước mỏng
Dòng luân hồi sinh dứt
Cửa giải thoát chợt đóng
Khổ mãi không lúc dứt.”
Như Lai khéo an ủi
Dứt tình mà từ giã
Luyến thương nén trong dạ
Như hoa Nuy-ca-ni
Bồi hồi bước chầm chậm
Buồn bã đi theo đường
Như kẻ mất người thân
An táng xong trở về.
Phật đến nơi Niết-bàn
Tỳ-xá-ly vắng lặng
Giống như đêm mây mờ
Trăng sao không phát sáng
Đất nước trước an vui
Mà giờ chóng điêu tàn.
Buồn như chôn cha hiền
Cô nữ buồn một mình
Như xinh đẹp, thất học
Thông minh mà phước mỏng
Tâm thông mà nói lắp
Trí sáng mà thiếu tài
Thần thông, không oai nghi
Từ bi nhưng luống dối
Cao quý, không thế lực
Uy nghi nhưng không pháp
Tỳ-xá-ly cũng vậy
Trước sung, nay tiêu điều.
Như ruộng lúa mùa thu
Mất nước đều khô héo
Như lửa tắt hết khói
Hoặc quên cả uống ăn
Việc công tư phế bỏ
Không làm các việc đời
Nhớ Phật, cảm ân sâu
Im lặng đều không nói.
Giờ, Ly-xa Sư tử
Ráng nén nỗi đau buồn
Tiếng khóc thương ủ rũ
Bày tỏ tâm luyến lưu:
“Phá bỏ các nẻo tà
Hiển bày nền chánh pháp
Đã hàng các ngoại đạo
Ra đi không quay về
Đời mất đạo xuất thế
Vô thường là bệnh lớn.
Thế Tôn vào vắng lặng
Không nương, không cứu giúp
Bậc phương tiện trên hết
Nơi rốt ráo vắng bặt
Chúng ta mất chí mạnh
Như lửa không có củi.
Thế Tôn bỏ ấm thân
Chúng sinh thật đau buồn
Như người mất sức thần
Cả thế gian buồn bã.
Xuống ao mát tránh nóng
Gặp lạnh, phải hơ lửa
Bỗng nhiên đều trống rỗng
Chúng sinh nương tựa ai?
Thông đạt pháp thù thắng
Người thợ nắn thế gian
Thế gian mất chủ rồi
Người mất thì đạo diệt
Già, bệnh, chết cùng khắp
Đạo mất, phi đạo thạnh
Thế gian giờ còn ai?
Phá tan máy đại khổ
Lửa hừng hực thiêu đốt
Mưa lớn làm dập tắt
Lửa tham dục cháy hừng
Ai người dập tắt được?
Người gánh vác vững vàng
Đã bỏ nhiệm vụ rồi
Lại dùng sức tuệ gì
Làm người bạn không mời?
Như người bị xử tù
Sắp chết nên mê mẩn
Chúng sinh thức mê lầm
Chỉ vì chết, thọ sinh.
Xẻ gỗ bằng cưa bén
Vô thường xẻ thế gian
Si ám là nước sâu
Ái dục là sóng lớn
Phiền não là bọt nổi
Tà kiến cá Ma-kiệt
Chỉ có thuyền trí tuệ
Mới qua biển lớn ấy.
Các bệnh là cây, hoa
Suy già là cành, nhánh
Chết là gốc rễ sâu
Nghiệp chính là mầm chồi
Dao bén trí tuệ cứng
Chặt được “cây ba cõi”.
Vô minh vật mồi lửa
Tham dục là lửa bừng
Năm dục: củi cảnh giới
Dập tắt bằng nước trí
Đầy đủ pháp thù thắng
Thì diệt bỏ si ám.
Thấy đường chánh yên ổn
Dứt hết các não phiền
Từ bi hóa độ chúng
Oán, thân không tướng khác
Nhất thiết trí thông đạt
Mà nay đều xả bỏ.
Lời thanh tịnh dịu dàng
Thân vuông, tay thon dài
Đại tiên còn phải chết
Người nào sống vô cùng?
Phải biết thời đổi nhanh
Nên siêng cầu chánh pháp
Như đường hiểm gặp nước
Thì uống mau, lên đường.
Vô thường rất bạo ngược
Giết không kể sang hèn
Trong tâm có chánh quán
Tuy ngủ nhưng thường giác.”
Bấy giờ chúng Ly-xa
Thường nghĩ trí tuệ Phật
Nhàm chán lìa sinh tử
Kính mến thân Sư tử
Không còn ân ái đời
Rất kính đức ly dục
Chiết phục tâm lăng xăng
Tâm an nơi vắng lặng
Siêng thực hành bố thí
Xả bỏ thói kiêu mạn
Một mình tu thảnh thơi
Suy nghĩ pháp chân thật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn
Thân mình như Sư tử
Ngắm trông thành Tỳ-xá
Mà nói kệ giã từ:
“Lần cuối cùng của Ta
Đến thành Tỳ-xá-ly
Đến đất nước Lực sĩ
Sẽ nhập vào Niết-bàn”.
Ngài dần dần đi đến
Thành phố Bồ-da kia
Nghỉ lại rừng Kiên cố
Dạy các Tỳ-kheo rằng:
“Nay vào lúc nửa đêm
Ta sẽ nhập Niết-bàn
Các ông phải y pháp
Chính là chỗ cao quý
Cái gì không Khế kinh
Cũng không thuận giới luật,
Trái với nghĩa chân thật
Thì không nên tu tập.
Trái pháp, cũng trái luật
Lại chẳng phải Ta nói
Đó là lời nói sai
Các ông nên mau bỏ
Thọ trì lời nói đúng
Đó là không điên đảo
Đó là lời Ta nói
Như pháp, như luật dạy.
Thọ trì pháp luật Ta
Thì đó là đáng tin
Ai nói pháp Ta sai
Đó là không đáng tin,
Không hiểu nghĩa sâu nhiệm
Tin xằng theo văn tự
Thì đó là người ngu.
Không đúng pháp nói bậy
Không phân biệt chân ngụy
Không thấy nên nhận lầm
Như vàng thau lẫn lộn.
Lừa dối người thế gian
Người ngu, trí cạn cợt
Không hiểu nghĩa chân thật
Thọ trì pháp tương tợ
Cho là pháp chân thật
Vậy nên phải xét kỹ
Quán sát pháp luật chân
Như người thợ luyện vàng
Đốt, đập lấy vàng ròng.
Không hiểu các kinh luận
Thì không phải trí tuệ
Chẳng nên nói “sở ưng”
Nên làm, chẳng nên thấy
Phải thọ trì bình đẳng
Nghĩa lý như thuyết hành.
Cầm kiếm không biết cách
Thì trở lại đứt tay
Từ ngữ không khéo léo
Ý nghĩa khó biết rõ.
Như đi đêm tìm nhà
Nhà rộng đâu biết chỗ
Mất nghĩa thì quên pháp
Quên pháp tâm rong ruổi
Cho nên người trí tuệ
Không trái nghĩa chân thật.”
Nói lời dạy này rồi
Ngài đến thành Ba-bà
Các chúng lực sĩ kia
Bày các thứ cúng dường,
Có con vị Trưởng giả
Tên gọi là Thuần-đà
Thỉnh Phật đến nhà mình
Cúng bữa cơm sau rốt.
Thọ trai, nói pháp xong
Ngài đến thành Cưu-di,
Qua hai sông Quyết quyết
Và với sông Hi-liên.
Kia có rừng Kiên cố
Chỗ an ổn vắng lặng
Xuống sông Kim tắm gội
Thân như núi vàng ròng.
Phật bảo A-nan-đà:
“Trong rừng Song thọ kia
Quét dọn cho sạch sẽ
Mắc võng Ta nằm nghỉ
Ta vào nửa đêm nay
Sẽ nhập vào Niết-bàn!”
A-nan nghe Phật dạy
Nghẹn ngào lòng tê tái
Rơi lệ mà vâng làm
Mắc võng xong, bạch Phật.
Như Lai đến nằm võng
Nghiêng phải, đầu hướng Bắc
Chân chồng, tay gối đầu
Như Sư tử đầu đàn
Thân sau cùng hết khổ
Nằm rồi không dậy nữa.
Các đệ tử vây quanh
Ôi mắt thế gian nhắm
Gió dừng, rừng lạnh ngắt
Tiếng chim thú ngừng bặt
Cây ứa lệ nhựa trào
Hoa, lá rụng lao xao,
Người, trời chưa lìa dục
Thảy đều rất hoảng hốt
Như người đi đồng rộng
Đường hiểm, chưa đến làng
Chỉ sợ đi không tới
Tâm sợ, thân luống cuống.
Như Lai đã nằm xong
Ngài bảo A-nan rằng:
“Đến bảo các Lực sĩ
Đến giờ Ta Niết-bàn
Nếu họ không gặp Ta
Mãi hận, sinh khổ lớn!”
A-nan vâng lời Phật
Đi dọc đường than khóc
Bảo các Lực sĩ rằng:
“Thế Tôn sắp Niết-bàn”.
Các Lực sĩ nghe tin
Sinh tâm rất sợ hãi
Trai, gái đều chạy vội
Đến chỗ Phật khóc thương
Tóc bù, áo xốc xếch
Thân mồ hôi nhễ nhại
Gào khóc kéo đến rừng
Giống như phước trời hết.
Rơi lệ, lễ chân Phật
Thân buồn rầu, héo hắt.
Như Lai an ủi rằng:
“Các ngươi chớ buồn thương
Lúc này nên tùy hỷ
Không nên sinh buồn bã.
Ta tu hành nhiều kiếp
Đến nay mới đạt được
Đã độ xong căn, cảnh
Chỗ mát mẻ vô tận
Lìa đất, nước, lửa, gió
Vắng lặng, không sinh diệt
Dứt hẳn sự buồn khổ
Sao vì Ta đau đớn?
Trước ở núi Già-xà
Ta muốn bỏ thân này
Vì nhân duyên đời trước
Nên tại thế đến nay.
Giữ thân mong manh này
Như ở chung rắn độc
Nay vào cõi vắng lặng
Các duyên khổ đã hết
Chẳng còn thọ thân nữa
Khổ vị lai dứt hẳn
Các ngươi cũng đừng nên
Vì Ta mà sợ hãi”.
Lực sĩ nghe Phật nói
Ngài sẽ nhập Niết-bàn
Tâm rối loạn, mắt mờ
Thấy cả trời tối tăm
Chắp tay, bạch Phật rằng:
“Phật dứt khổ sinh tử
Mãi vui với vắng lặng
Chúng con thật vui mừng
Như ngôi nhà bị cháy
Tự chạy ra khỏi lửa.
Các trời còn vui mừng
Huống chi người thế gian
Sau khi Phật Niết-bàn
Chúng sinh không còn thấy
Không còn được cứu giúp
Cho nên sinh buồn khổ.
Như những người đi buôn
Đi trên đồng rộng xa
Chỉ một người dẫn đường
Bỗng nhiên chết giữa đường
Mọi người mất chỗ nương
Làm sao không buồn lo.
Hiện đời tự chứng biết
Được tất cả tri kiến
Mà không được lợi ích
Bị thế gian chê cười
Thí như qua núi báu
Người ngu vẫn nghèo khổ!”
Các vị Lực sĩ này
Hướng về Phật buồn thương
Giống như người một con
Buồn thương nhớ cha hiền.
Phật dùng lời khéo léo
Nêu bày nghĩa bậc nhất
Bảo các Lực sĩ rằng:
“Thật như lời ngươi nói
Cầu đạo phải tinh tấn
Không chỉ thấy Ta được
Mà hành theo lời Ta
Thoát ra lưới các khổ
Hành đạo ở trong lòng
Cần gì phải có Ta
Cũng như người bị bệnh
Theo toa thuốc uống hay
Thì bệnh tự nhiên hết
Không cần thấy thầy thuốc.
Không làm theo lời Ta
Thấy Ta cũng chẳng lợi
Tuy rằng xa cách Ta
Hành pháp vẫn gần Ta
Ở chung, không hành pháp
Nên biết vẫn xa Ta.
Giữ tâm, chớ buông lung
Tinh tấn tu chánh nghiệp
Người sống ở thế gian
Các khổ mãi bức bách
Dao động không yên được
Cũng như đèn trước gió”.
Bấy giờ các Lực sĩ
Nghe Phật từ bi dạy
Cảm động, nhưng không khóc
Gắng nén lòng ra về.
Bấy giờ, có Phạm chí
Tên Tu-bạt-đà-la
Có đầy đủ đức tốt
Tịnh giới, giúp chúng sinh
Lúc nhỏ theo tà kiến
Xuất gia theo ngoại đạo
Muốn đến gặp Thế Tôn
Bảo ngài A-nan-đà:
Rằng: “Ta nghe đạo Phật
Nghĩa sâu, khó đo lường
Vô Thượng Giác thế gian
Điều Ngự Sư bậc nhất
Nay sắp nhập Niết-bàn
Khó có thể gặp lại.
Người khó thấy, khó gặp
Khó thấy, thấy được, khó
Cũng như trăng trong gương
Nay ta muốn được thấy
Bậc Đạo Sư vô thượng
Vì cầu dứt các khổ
Qua bờ sinh tử kia
Mặt trời Phật sắp lặn
Tôi mong được tạm thấy!”
Lòng A-nan thương cảm
E rằng việc thưa hỏi
Làm bận rộn Thế Tôn
Nên chẳng cho gặp Phật.
Biết vị ấy mong mỏi
Xứng đáng là pháp khí
Phật bảo A-nan rằng:
“Cho phép ngoại đạo kia
Ta vì độ chúng sinh
Thầy chớ làm khó người!”
Tu-bạt-đà nghe vậy
Sinh tâm rất vui mừng
Tâm ưa pháp càng sâu
Cung kính đến trước Phật
Lúc ấy tùy thuận nói
Lời êm dịu thăm hỏi
Vui vẻ chắp tay thưa:
“Nay có điều muốn hỏi
Đời có người biết pháp
Bằng như con rất nhiều
Chỉ nghe Phật chứng được
Đạo giải thoát lạ thường
Xin nói lược con nghe
Thấm nhuần tâm khao khát
Không vì tranh luận nhau
Cũng không tâm thắng thua!”
Phật vì Phạm chí kia
Nói lược tám chánh đạo
Nghe liền hết lòng nhận
Như lạc gặp đường chánh
Hiểu được điều trước học
Không phải đạo rốt ráo
Liền được chưa từng được
Lìa bỏ con đường tà
Hết cả chướng si ám
Suy nghĩ điều trước tu
Toàn sân nhuế, ngu si
Nuôi lớn nghiệp bất thiện
Các ái, nhuế, si thảy
Sinh khởi các nghiệp lành
Tuệ học rộng tinh tấn
Cũng do có ái sinh
Nếu dứt bỏ nhuế si
Thì lìa được các nghiệp.
Các nghiệp đã dứt bỏ
Gọi là Giải thoát nghiệp
Người giải thoát các nghiệp
Không tương ứng với nghĩa
Thế gian nói tất cả
Thảy đều có tự tánh.
Người có ái, sân, nhuế
Si mà có tự tánh
Thì phải nên thường còn
Làm sao mà giải thoát?
Dù cho nhuế, si hết
Có ái lại sinh nữa
Như tự tánh nước lạnh
Nhờ lửa nên thành nóng
Hết nóng trở lại lạnh
Do tự tánh là thường.
Nên biết tánh hữu ái
Văn, tuệ tiến không thêm
Không tăng cũng không giảm
Làm sao mà giải thoát?
Trước cho sinh tử kia
Vốn từ trong tánh sinh
Nay xem ra nghĩa ấy
Là không được giải thoát
Tánh thì phải thường trụ
Làm sao có rốt ráo?
Thí như đèn thắp sáng
Làm sao có tối được
Đạo Phật nghĩa chân thật
Duyên ái sinh thế gian.
Ái hết thì Niết-bàn
Nhân diệt thì quả mất.
Vốn cho ngã khác thân
Chẳng thấy, không tác giả
Nay nghe chánh giáo Phật
Thế gian không có “ta”
Các pháp do duyên sinh
Không hề có Tự tại!
Nhân duyên sinh nên khổ
Nhân duyên diệt cũng thế.
Quán đời nhân duyên sinh
Thì dứt được đoạn kiến
Duyên lìa, thế gian diệt
Thì xa lìa thường kiến.
Bỏ hết cái đã thấy
Hiểu sâu chánh pháp Phật
Đời trước trồng nhân lành
Nghe pháp liền giác ngộ
Được vắng lặng hoàn toàn
Chỗ mát mẻ vô tận
Lòng thông, tịnh tính tăng
Tâm mở tin thêm vững.
Chiêm ngưỡng Như Lai nằm
Chẳng nỡ thấy Như Lai
Bỏ đời vào Niết-bàn
Và Phật chưa diệt độ
Ta phải diệt độ trước.
Chắp tay lễ từ Phật
Rồi ngồi ngay một bên
Xả thọ vào Niết-bàn
Như mưa tắt lửa nhỏ.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Đệ tử cuối của Ta
Giờ đây đã Niết-bàn
Các thầy phải cúng dường.”
Trời đầu hôm đã qua
Trăng sáng, sao lung linh
Cả khu rừng vắng lặng.
Phật khởi tâm đại bi
Dạy đệ tử lần chót
Rằng: “Ta Niết-bàn rồi
Các thầy phải cung kính
Ba-la-đề-mộc-xoa
Đó là thầy các vị
Đèn sáng trong đêm dài
Của báu cho người nghèo.
Những điều đã dạy bảo
Các thầy phải thuận theo
Không khác thờ phụng Ta
Phải giữ gìn thân, miệng
Bỏ các nghề sinh sống
Ruộng, nhà, nuôi gia súc,
Chứa tiền của, ngũ cốc
Phải lìa xa tất cả
Như tránh hố lửa lớn.
Đào đất, trồng cây cỏ
Chế thuốc, trị các bệnh
Ngước xem các lịch số
Tìm vận hạn lành dữ
Xem tướng coi tốt xấu
Tất cả không nên làm.
Tiết chế, ăn đúng giờ
Không nhận làm sứ giả
Không hòa hợp chế thuốc
Cũng không được nịnh hót
Vật nuôi sống đúng pháp
Thọ nhận, nên biết lượng,
Vừa đủ, không chứa để.
Đó là lược nói giới
Là gốc của các giới
Cũng là gốc giải thoát
Nương pháp này sẽ sinh
Tất cả các chánh thọ.
Tất cả trí chân thật
Nhờ đó được rốt ráo
Cho nên phải giữ gìn
Chớ để cho đoạn diệt.
Tịnh giới không đoạn diệt
Nên có các pháp lành
Nếu không, không pháp lành
Nhờ giới được xây dựng.
Nên sống với tịnh giới
Khéo giữ gìn các căn
Như người chăn trâu giỏi
Không để trâu hung hăng,
Không giữ ngựa các căn
Rong ruổi theo sáu cảnh
Đời này bị tai họa
Đời sau vào đường ác.
Thí như ngựa không điều
Làm người rơi xuống hố
Cho nên người trí sáng
Chẳng nên buông các căn
Các căn rất hung dữ
Là kẻ thù của người.
Chúng sinh yêu các căn
Trở lại bị chúng hại.
Oán sâu hơn rắn độc
Cọp dữ và lửa hừng
Điều ác nhất trên đời
Mà người trí không sợ
Chỉ sợ tâm lao chao
Dẫn người vào đường ác
Vì ưa chút mật ngọt
Không thấy chỗ hiểm sâu
Voi điên mất móc bén
Khỉ, vượn vào rừng cây
Tâm lao chao như thế
Người trí phải giữ gìn.
Tâm tha hồ buông lung
Không hề được vắng lặng
Cho nên phải giữ tâm
Chóng đến nơi an tịnh.
Ăn uống biết tiết chế
Phải như cách uống thuốc
Chớ vì việc uống ăn
Mà sinh tâm tham sân,
Ăn uống dứt đói khát
Như thoa mỡ xe cũ.
Như ong hút mật hoa
Không hại hương sắc hoa
Tỳ-kheo đi khất thực
Chớ hại lòng tin tốt;
Nếu người mở tâm cho
Nên xét khả năng họ
Không lượng sức của trâu
Chở nặng bị thương tổn.
Ba thời sáng, trưa, chiều
Lần lượt tu chánh nghiệp
Đầu hôm và gần sáng
Cũng chớ ham ngủ nghỉ
Giữa đêm nhiếp tâm nằm
Buộc niệm trong tướng sáng
Chớ ngủ nghỉ trọn đêm
Để cuộc đời luống qua
Lửa thời gian đốt thân
Tại sao lại yên ngủ?
Các kẻ thù phiền não
Thừa dịp mà theo hại.
Tâm mờ mệt ngủ nghỉ
Chết đến, ai giác được?
Rắn độc trốn trong nhà
Chú hay đuổi ra được
Rắn đen ở trong tâm
Chú hay minh giác đuổi
Không đuổi mà ngủ mãi
Là người không hổ thẹn.
Thẹn là áo làm đẹp
Thẹn là móc giữ voi
Hổ thẹn giúp tâm định
Không thẹn mất căn lành
Hổ thẹn đời gọi hiền
Không thẹn, đồng cầm thú.
Nếu người dùng dao bén
Xẻ thân thành từng phần
Tâm chẳng nên tức giận
Miệng không nói lời ác.
Nghĩ ác và nói ác
Hại mình, không hại người.
Giữ thân tu khổ hạnh
Không gì hơn nhẫn nhục
Chỉ có hành nhẫn nhục
Sức vững bền khó phục
Cho nên chớ mang hờn
Dùng lời ác với người.
Giận phá hoại chánh pháp
Phá hoại vẻ xinh đẹp
Mất hết mọi tiếng khen.
Lửa sân tự đốt tâm
Kẻ thù của công đức
Yêu công đức chớ sân.
Tại gia nhiều phiền não
Nên giận hờn không lạ
Xuất gia mà tức giận
Điều đó thật trái lý.
Như khiến trong nước lạnh
Mà có lửa phát ra
Nếu sinh tâm kiêu mạn
Phải tự tay rờ đầu
Cạo tóc, mặc y nhuộm
Tâm cầm bát khất thực
Bên lề đời tự sống
Sao lại sinh kiêu mạn?
Người tục dựa dòng họ
Kiêu mạn còn có lỗi
Huống gì người xuất gia
Chí cầu đạo giải thoát
Lại sinh tâm kiêu mạn
Là điều không thể được.
Tánh cong, thẳng trái nhau
Như sương, lửa không chung
Xuất gia tu đường ngay
Thì không nên tà vạy.
Dua nịnh và luống dối
Chỉ pháp, không lường gạt
Cầu nhiều chính là khổ
Ít muốn thì an vui.
Vì an nên ít muốn
Huống cầu chân giải thoát.
Bỏn xẻn, sợ người xin
Làm hao tài sản mình
Người thích thí cũng sợ
Sợ không đủ của thí.
Cho nên phải ít muốn
Thí họ tâm không sợ
Nhờ tâm ít muốn này
Mà được đạo giải thoát
Nếu muốn cầu giải thoát
Cũng nên phải biết đủ.
Biết đủ thường vui vẻ
Vui vẻ chính là pháp.
Vật nuôi sống tuy xấu
Biết đủ nên thường an.
Người mà không biết đủ
Tuy được sinh cõi trời
Lửa khổ vẫn đốt tâm
Vì họ không biết đủ.
Giàu mà không biết đủ
Đó cũng là nghèo khổ
Dù nghèo mà biết đủ
Chính là giàu bậc nhất.
Người mà không biết đủ
Cảnh năm dục càng rộng
Càng tham cầu không chán
Đêm dài ruổi theo khổ.
Ham nhiều tâm lo lắng
Trái lại với biết đủ.
Không nhận nhiều quyến thuộc
Tâm kia thường được yên.
Vì yên ổn, vắng lặng
Người, trời đều thờ phụng
Cho nên phải xa lìa
Hai quyến thuộc thân, sơ
Như cây cối giữa đồng
Bầy chim bu đậu nhiều
Chứa chúng đông cũng thế
Đêm dài chịu các khổ.
Nhiều chúng, nhiều trói buộc
Như voi già sa lầy
Nếu người siêng tinh tấn
Không lợi gì không được.
Vậy nên ngày đêm phải
Tinh tấn không biếng nhác
Khe núi, dòng nước con
Chảy mãi đá cũng mòn.
Dùi lửa không tinh tấn
Luống nhọc, không được lửa
Vậy nên phải tinh tấn
Như người khỏe dùi lửa.
Bạn lành tuy là tốt
Cũng không bằng chánh niệm
Trong tâm có chánh niệm
Các ác chẳng xâm nhập.
Cho nên người tu hành
Thường phải niệm thân mình
Nếu mất niệm đối thân
Tất cả thiện đều quên.
Thí như viên dũng tướng
Mặc giáp ngăn địch tiến.
Chánh niệm là áo giáp
Chế ngự giặc sáu trần
Chánh định giữ tâm giác
Quán thế gian sinh diệt
Cho nên người tu hành
Phải tu “Tam-ma-đề”.
Tam-muội đã vắng lặng
Dứt trừ tất cả khổ
Trí tuệ chiếu sáng ngời
Xa lìa sự nhiếp thọ
Quán bình đẳng suy nghĩ
Tùy thuận theo chánh pháp
Tại gia và xuất gia
Đều do đường này ra.
Biển lớn sinh, già, chết
Trí tuệ là thuyền nan
Vô minh toàn tối tăm
Trí tuệ là đèn sáng.
Các bệnh cấu buộc ràng
Trí tuệ là thuốc hay
Phiền não là rừng gai
Trí tuệ là búa sắc.
Si ái dòng nước trôi
Trí tuệ là chiếc cầu
Cho nên phải siêng tu
Văn, tư, tu sinh tuệ.
Đầu đủ ba thứ tuệ
Tuy mù, mắt tuệ sáng.
Không tâm tuệ, dối luống
Nên chẳng phải xuất gia.
Vì vậy phải giác biết
Lìa các pháp hư dối
Đạt được vui nhiệm mầu
Nơi vắng lặng an ổn.
Tôn sùng không buông lung
Buông lung: Kẻ thù thiện
Nếu người không buông lung
Được sinh chỗ Đế Thích
Người phóng tâm buông lung
Thì đọa A-tu-la.
Nghiệp từ bi an ủi
Nên làm Ta đã làm
Các thầy nên tinh tấn
Khéo tự tu nghiệp ấy
Nơi rừng núi an nhàn
Tâm vắng lặng thêm lớn
Phải cố gắng siêng năng
Chớ để sau hối hận.
Như vị thầy thuốc giỏi
Tùy bệnh mà cho toa
Người bệnh không chịu uống
Chẳng phải lỗi thầy thuốc?
Ta đã nói chân thật
Chỉ con đường bằng phẳng
Nghe mà chẳng chịu đi
Chẳng phải lỗi người chỉ.
Đối nghĩa bốn chân đế
Có chỗ nào không rõ
Các thầy hãy nên hỏi
Chớ che giấu điều nghi!”
Thế Tôn thương xót dạy
Chúng hội đứng lặng yên.
Bấy giờ A-na-luật
Quán sát các đại chúng
Im lặng, không còn nghi
Chắp tay bạch Phật rằng:
“Trăng nóng, mặt trời lạnh,
Gió yên, tánh đất động
Bốn thứ lầm như vậy
Thế gian đều không có.
Khổ, tập, diệt, đạo đế
Chân thật chưa từng trái
Như lời Thế Tôn nói
Chúng hội đều không nghi
Nhưng Thế Tôn Niết-bàn
Mọi người đều tiếc thương
Đối với lời Phật dạy
Đều nghĩ là rốt ráo,
Dù cho mới xuất gia
Tâm chưa hiểu sâu xa
Nghe Phật ân cần dạy
Dứt bỏ hết thắc mắc.
Đã qua biển sinh tử
Vô dục, không mong cầu
Nay đều sinh buồn thương
Than Phật sao chóng diệt.”
Phật vì A-na-luật
Nói các thứ lo buồn
Lại dùng tâm thương xót
An ủi, mà bảo rằng:
“Dù cho sống một kiếp
Rồi cũng phải chia ly
Khác thể mà hòa hợp
Lý tự không thường chung
Tự lợi, lợi tha rồi
Trụ Không cầu làm gì?
Trời, người đáng được độ
Ta đã độ giải thoát.
Này đệ tử các thầy!
Xoay vần theo chánh pháp
Biết có sinh sẽ diệt
Chớ sinh lo buồn nữa
Phải tự siêng tìm cách
Đến chỗ không biệt ly.
Ta đã đốt đèn tuệ
Soi sáng cho thế gian
Thế gian không bền chắc
Các thầy phải tùy hỷ
Như gần người bệnh nặng,
Chữa trị hết khổ nạn
Đã dứt hết khổ rồi
Ngược dòng biển sinh tử.
Dứt hẳn các khổ nạn
Đó cũng nên tùy hỷ
Các thầy khéo tự giữ
Chớ sinh tâm buông lung
Có sinh ắt có diệt
Nay Ta vào Niết-bàn
Từ đây hết nói năng
Đây là lời dạy cuối
Vào Sơ thiền tam-muội
Thứ lớp chín chánh thọ
Ngược thứ lớp chánh thọ
Lại nhập vào Sơ thiền
Sau đó xuất Sơ thiền
Nhập vào đệ Tứ thiền
Xuất định tâm vô ký
Liền nhập vào Niết-bàn.
Vì Phật nhập Niết-bàn
Mặt đất rung chuyển khắp
Không trung mưa lửa nóng
Không củi mà tự cháy,
Lại từ đất khởi lên
Tám phương đều cháy bừng
Cho đến các cõi trời
Cũng cháy hừng như thế.
Sấm chớp vang trời đất
Sét đánh rền núi non
Như tiếng trống chiến đấu
Giữa trời và Tu-la;
Gió bão nổi khắp nơi
Núi đổ, mưa tro bụi
Mặt trời, trăng lờ mờ
Nước trong đều dậy sóng;
Rừng Kiên cố héo úa
Hoa lá rụng tả tơi
Rồng bay cỡi mây đen
Rũ năm đầu rơi lệ;
Bốn vua và quyến thuộc
Ngậm ngùi đến cúng dường.
Trời Tịnh cư xuống trần
Đứng hầu giữa hư không
Xem vô thường biến đổi
Không buồn cũng không vui
Than đời lìa Thiên sư
Mất đi sao nhanh quá!
Tám bộ, các Thiên thần
Đầy khắp trong hư không
Tung hoa để cúng dường
Tâm lo lắng không vui,
Chỉ có Ma vương vui
Tấu nhạc để tự vui.
Cõi Diêm-phù mất sáng
Như núi đổ, non lở
Voi lớn bị gãy ngà
Hai sừng trâu chúa lìa
Hư không chẳng trời trăng
Hoa sen gặp sương giá
Đời tiêu điều như thế
Khi Phật nhập Niết-bàn[16].
Khi có một vua trời
Ngồi cung ngàn ngỗng trắng
Ở trên, giữa hư không
Thấy Phật nhập Niết-bàn
Khắp vì cả chư Thiên
Rộng nói kệ vô thường:
“Tất cả tính vô thường
Chóng sinh cũng chóng diệt
Sinh ra thì đã khổ
Chỉ vắng lặng là vui
Củi hành nghiệp chất chứa
Lửa trí tự cháy bừng
Khói tiếng khen xông trời
Mưa xuống thì tiêu diệt
Giống như kiếp hỏa khởi
Thủy tai làm tắt ngấm.”
Lại có Trời Phạm tiên
Như tiên nghĩa bậc nhất
Hưởng vui mầu cõi trời
Mà không đắm báo trời
Than Như Lai Niết-bàn
Tâm định, miệng nói rằng:
“Quán sát pháp ba đời
Rồi cũng đều tiêu vong
Thông đạt nghĩa đệ nhất
Thế gian không ai sánh
Người có tuệ tri kiến
Cứu giúp các chúng sinh
Thảy đều bị vô thường
Người nào được còn mãi.
Than ôi! Cả thế gian
Chúng sinh theo đường tà.”
Bấy giờ A-na-luật
Thế gian không Luật-đà
Luật-đà đã tịch diệt
Luật-đà không sinh tử
Than: “Như Lai Niết-bàn
Chúng sinh đều mờ tối
Các hành nhóm vô thường
Giống như mây nhẹ nổi
Chóng tụ mà chóng tan
Người trí không giữ gìn.
Chày kim cang vô thường
Hoại núi tiên Tịch mặc
Than ôi! Đời lăng xăng
Phá hoại không bền chắc.
Sư tử dữ vô thường
Hại Tiên lớn voi mạnh
Cờ Kim cang Như Lai
Còn bị vô thường hoại
Huống gì chưa lìa dục
Mà chẳng sinh sợ hãi.
Sáu hạt giống một mầm
Một trận mưa rưới xuống
Bốn rễ sâu thấm xuống
Hai dĩa năm thứ trái
Ba đời đồng một thể
Cây đại thọ phiền não
Voi lớn Mâu-ni nhổ
Mà không khỏi vô thường!
Giống như chim Sức khí
Ưa nước, nuốt rắn độc
Bỗng gặp trời nắng lâu
Mất nước mà thân chết
Ngựa hay giỏi chiến đấu
Hết trận lại thuần thục,
Lửa hừng nhờ củi cháy
Hết củi thì tự tắt
Như Lai cũng như vậy
Xong việc, nhập Niết-bàn.
Giống như ánh trăng sáng
Xua bóng tối cho đời
Chúng sinh đều được soi
Và lại che Tu-di,
Ánh tuệ của Đức Phật
Soi sáng, cũng như thế
Xua bóng tối cho đời
Mà ẩn núi Niết-bàn.
Khen ngợi ánh sáng mầu
Soi khắp cả thế gian
Xua tan mọi bóng tối
Không dừng, như dòng nước.
Khéo điều bảy ngựa giỏi
Binh chúng theo cùng đi
Rực rỡ vua mặt trời
Còn vào nơi lặn mất.
Năm chướng che trời, trăng
Chúng sinh mất ánh sáng
Thờ lửa, tế trời xong
Chỉ còn là khói đen
Ánh sáng Phật đã khuất
Đời mất sáng cũng vậy.
Dứt ân ái, hy vọng
Đáp ứng chúng sinh muốn
Đã thỏa chúng sinh muốn
Việc xong, dứt ước mong
Lìa phiền não buộc thân
Mà đắc đạo chân thật.
Lìa những sự rối loạn
Nhập vào nơi vắng lặng
Thần thông bay lên không
Xả bỏ mọi nỗi khổ
Bóng tối của ngu si
Ánh trí tuệ xua tan.
Những bụi bặm phiền não
Nước trí tuệ rửa sạch
Không còn dính lại nữa
Ở mãi nơi vắng lặng
Dứt tất cả sinh tử
Tất cả đều tôn kính,
Khiến mọi người ưa pháp
Đem tuệ cho mọi loài
Đều an ủi tất cả
Các công đức đến khắp
Tiếng tăm truyền nơi nơi
Thêm sáng đến ngày nay.
Những người có đức dày
Với lòng thương của họ
Được bốn lợi chẳng mừng
Gặp bốn suy chẳng sợ
Khéo nhiếp giữ các căn
Các căn đều thông sáng
Lắng tâm quán bình đẳng
Không nhiễm trước sáu cảnh
Được điều chưa từng có
Được điều người không được.
Dùng các nước xuất yếu
Giúp người khát no lòng
Cho thứ người không cho
Không hề mong báo đền.
Thân nhiệm mầu vắng lặng
Biết hết tất cả niệm
Tốt xấu chẳng nghiêng động
Năng lực thắng mọi oán
Thuốc hay trị mọi bệnh
Mà bị vô thường hoại.
Tất cả loài chúng sinh
Ưa pháp mỗi khác nhau
Đáp ứng mọi mong cầu
Đầy đủ mọi ước nguyện.
Đại thí chủ Thánh tuệ
Hễ đi không trở lại!
Như lửa bừng thế gian
Củi hết không còn cháy.
Tám pháp không làm nhiễm
Điều năm thứ khó điều
Dùng ba để thấy ba
Lìa ba mà thành ba
Cất một để được một
Vượt bảy mà ngủ dài
Đạo rốt ráo vắng lặng
Hiền thánh đều tôn kính.
Đã dứt chướng phiền não
Người tôn thờ đã độ
Kẻ đói khát thiếu thốn
Được uống nước cam lộ,
Mặc áo giáp nhẫn nhục
Hàng phục mọi tức giận,
Thắng pháp nghĩa nhiệm mầu
Làm vui lòng mọi người
Kẻ tu thiện trên đời
Gieo trồng hạt giống Thánh
Người tu chánh, bất chánh
Đều độ không bỏ sót,
Quay pháp luân vô thượng
Đời vui mừng lãnh thọ,
Vốn gieo nhân ưa pháp
Thảy đều được giải thoát.
Đi khắp trong nhân gian
Độ những người chưa độ
Người chưa thấy chân thật
Giúp họ thấy chân thật.
Người tu theo ngoại đạo
Trao họ pháp sâu xa
Nói sinh tử vô thường:
Không chủ, không gì vui.
Dựng cờ “Được ngợi khen”
Phá hoại các ma quân
Tiến, lùi không vui buồn,
Chúng sinh than Niết-bàn
Hóa độ người chưa độ
Giải thoát người chưa thoát
Kẻ chưa tịch được tịch
Người chưa giác được giác
Đạo Mâu ni vắng lặng
Để nhiếp hóa chúng sinh.
Chúng sinh trái đạo Thánh
Làm những việc bất chánh
Giống như đại kiếp hết
Người trì pháp ngủ ngon.
Mây dày, sấm nổ vang
Mưa cam lộ phá rừng
Voi trẻ diệt gai góc
Vì người đem lợi lộc,
Mây lìa voi già suy
Điều đó không kham nổi
Phá kiến, để thành kiến
Ở đời mà độ đời,
Đã phá các tà luận
Chứng được đạo Tự tại
Nay nhập vào vắng lặng
Đời không người cứu giúp.
Binh chúng lớn Ma vương
Giương oai rung đất trời
Muốn hại Đấng Mâu-ni
Nhưng không thể nghiêng động.
Thế sao bỗng một sáng
Bị ma vô thường hại
Trời người nhóm họp đông
Đầy khắp giữa hư không
Sợ sinh tử vô cùng
Sinh tâm rất lo sợ.
Thế gian dù xa gần
Mắt trời đều soi thấy
Nghiệp báo thấy rõ ràng
Như nhìn hình trong gương,
Tai trời đều thông đạt
Dù ở xa cũng nghe,
Lên trời dạy các trời
Xuống trần độ kẻ thế
Phân thân mà hợp thể
Lội nước mà không chìm,
Nghĩ nhớ đời quá khứ
Trọn kiếp cũng không quên.
Các căn theo cảnh trần
Mỗi người nghĩ một khác
Biết trí tha tâm thông
Tất cả đều biết hết,
Trí nhiệm mầu thần thông
Quán tất cả bình đẳng
Dứt hết mọi lậu hoặc
Tất cả việc đã xong
Trí bỏ cõi Hữu dư
Bặt trí mà Niết-bàn.
Chúng sinh tâm ngang bướng
Thì được sự mềm mỏng
Các chúng sinh căn thuần
Thì được tuệ sáng suốt
Dứt vô lượng ác nghiệp
Đều được con đường thông
Một sớm bỗng Niết-bàn
Còn ai bày đức ấy?
Đời không người cứu giúp
Khí dứt, hy vọng tan
Ai đem nước mát mẻ
Vẩy lên cho sống lại!
Làm xong việc mình rồi
Đại Bi đã Niết-bàn
Lưới ngu si thế gian
Rồi ai sẽ xé tan?
Dòng sinh tử chảy mau
Ai sẽ gọi quay lại?
Chúng sinh tâm si mê
Ai nói đạo vắng lặng?
Ai chỉ chỗ an ổn?
Ai bày nghĩa chân thật
Chúng sinh chịu khổ lớn
Ai làm cha lành cứu?
Như tụng nhiều đều quên
Lạ đất, ngựa mất uy
Làm vua, mất đất nước
Đời không Phật cũng vậy!
Học rộng, không nói được
Thầy thuốc mà không tuệ
Làm vua mất uy thế
Mất Phật, đời mất sáng.
Ngựa hay mất người khiển
Đi thuyền mất người lái
Ba quân mất tướng giỏi
Người buôn mất dẫn đường
Bệnh mất thầy thuốc giỏi
Thánh vương mất bảy báu
Các sao mất ánh sáng
Thích thọ lại mất mạng
Thế gian cũng như thế
Phật diệt mất Đạo sư.”
Các La hán cũng vậy
Việc phải làm đã làm
Các lậu đều đã hết
Tri ân, báo ân Phật
Buồn thương nói triền miên
Khen đức, bày khổ đời.
Những người chưa lìa dục
Buồn khóc không kềm được
Người các lậu đã hết
Chỉ than khổ sinh diệt.
Khi ấy các Lực sĩ
Nghe Phật đã Niết-bàn
Liền buồn khóc náo động
Như ngỗng gặp chim ưng
Đều đến chỗ song thọ
Thấy Như Lai Niết-bàn
Vẻ giác ngộ không còn
Đấm ngực mà kêu trời
Như sư tử bắt nghé
Đàn bò kêu náo động.
Trong đó, có lực sĩ
Tâm đã ưa chánh pháp,
Nhìn kỹ Đấng Pháp Vương
Đã đi vào vắng lặng
Rằng: “Chúng sinh đều mê
Phật mở bày giác ngộ
Nay Ngài vào vắng lặng
Vào Niết bàn rốt ráo
Vì người dựng cờ pháp
Mà nay bỗng ngã đổ
Mặt trời tuệ Như Lai
Đại giác chiếu sáng rực
Tinh tấn là lửa nóng
Trí tuệ chiếu ánh sáng
Xua tan mọi bóng tối
Thế sao lại tối mãi?
Một tuệ chiếu ba đời
Làm mắt cho chúng sinh
Nay bỗng nhiên mù lòa
Cả đời không biết lối?
Dòng sông sinh tử chảy
Sóng lớn tham, sân, si
Cầu pháp bỗng sập đổ
Chúng sinh mãi đắm chìm.”
Các chúng kia Lực sĩ
Người buồn khóc kêu la
Người đau thầm không tiếng
Hoặc ngã lăn xuống đất
Hoặc im lặng suy nghĩ
Hoặc buồn bã than dài
Sửa soạn xe bằng vàng
Hương hoa đồ trang sức
An trí thân Như Lai
Phía trên che trướng báu
Có cờ phướn, lọng hoa
Đủ các thứ kỹ nhạc
Các nam, nữ Lực sĩ
Đi theo đó cúng dường.
Các trời rải hương hoa
Hư không trổi nhạc trời
Người, trời đều buồn than
Cùng một lời thương tiếc.
Vào thành thấy gái, trai
Già, trẻ cúng dường xong
Ra khỏi cửa Long tượng
Vượt sông Hi-liên-thiền
Đến chỗ tháp diệt độ
Của các Phật quá khứ
Chất Ngưu đầu chiên-đàn
Và các loại gỗ thơm
Đặt thân Phật lên đó
Rưới các loại dầu thơm
Rồi châm lửa ở dưới
Đốt ba lần không cháy.
Khi đó Đại Ca-diếp
Trước ở thành Vương xá
Biết Phật sắp Niết-bàn
Quyến thuộc từ đó đến
Tịnh tâm phát nguyện mầu
Muốn thấy thân Thế Tôn.
Vì nguyện họ chân thành
Nên lửa tắt không cháy
Ca-diếp cùng quyến thuộc
Đến buồn than chiêm ngưỡng
Kính lễ hai chân Phật
Sau đó lửa mới cháy.
Trong dứt lửa phiền não
Ngoài lửa không đốt được
Tuy đốt da thịt ngoài
Nhưng còn xương kim cang
Dầu thơm cháy hết xong
Gom xương vào bình vàng
Như pháp giới bất tận
Xương cũng bất tận thế.
Quả trí tuệ kim cang
Khó động như Tu-di
Chim cánh vàng sức mạnh
Không thể nào nghiêng dời
Nằm ở trong bình báu
Để cho đời lưu truyền.
Lạ thay! Thế gian lực
Chuyển được pháp vắng lặng
Đức danh lưu truyền rộng
Đầy khắp cả mười phương
Theo đời, vắng lặng mãi
Chỉ còn lại xương cốt
Ánh sáng soi đất trời
Chúng sinh đều được chiếu
Bỗng ánh sáng tắt mất
Chỉ còn xương trong bình.
Trí bén như kim cang
Phá núi khổ phiền não
Các khổ nhóm trong thân
Chí kim cang giúp an
Chúng sinh chịu khổ lớn
Đều giúp họ dứt bỏ.
Thân kim cang như thế
Nay bị lửa đốt cháy
Các chúng Lực sĩ kia
Mạnh mẽ đời không hai
Chiết phục khổ kẻ thù
Cứu giúp khổ, quy y
Thân ái gặp khổ nạn
Chí vững không lo buồn
Nay thấy Như Lai diệt
Đều buồn bã, than khóc.
Tráng sĩ sức khỏe mạnh
Kiêu mạn cao ngút trời
Buồn khổ ép ngặt tâm
Vào thành như đầm rộng
Mang xá lợi vào thành
Khắp đường phố cúng dường
Đặt trên lầu góc cao
Người, trời đều kính thờ.
Các chúng Lực sĩ kia
Kính thờ xá-lợi Phật
Dùng hương hoa tốt đẹp
Cúng dường Đấng Vô Thượng.
Bấy giờ vua bảy nước
Biết Phật đã diệt độ
Sai sứ đến Lực sĩ
Xin chia xá-lợi Phật.
Các chúng Lực sĩ kia
Vì kính trọng thân Phật
Và cậy sức mạnh mình
Nên khởi tâm kiêu mạn
Thà bỏ thân mạng mình
Không bỏ xá-lợi Phật.
Sứ trở về tay không
Bảy vua rất giận dữ
Dấy binh như mây mưa
Kéo đến thành Cưu-di.
Nhân dân ra thành thấy
Đều sợ hãi trở về
Bảo các chúng Lực sĩ:
“Binh mã các nước đến
Binh voi, ngựa, xe, bộ
Bao vây thành Cưu-di
Các khu vườn ngoài thành
Ao, suối, cây, hoa quả
Bị binh chúng dày xéo
Thảy đều bị tàn phá.”
Lực sĩ lên thành thấy
Cơ nghiệp bị phá hoại
Liền chuẩn bị chiến cụ
Để đối phó kẻ địch
Cung, nỏ và xe, đá
Đuốc bay... đều đưa đến.
Bảy vua, vây quanh thành
Binh chúng đều tinh nhuệ
Uy vũ rất rõ ràng
Trông như bảy luồng sáng
Chuông, trống như sấm nổ
Dũng khí tợ mây mù.
Lực sĩ rất giận dữ
Mở cửa thành đón giặc
Các nam nữ trưởng túc
Tâm kính tin Phật pháp
Kinh sợ phát nguyện thành:
“Kính phục họ, không hại
Thân thiện, khuyên can nhau
Chẳng muốn họ đánh nhau.”
Dũng sĩ mặc áo giáp
Huơ giáo, múa kiếm dài
Chuông trống rền bãi chiến.
Cầm giáo chưa giao tranh
Có một Bà-la-môn
Tên là Độc-lâu-na
Học rộng, trí lược giỏi
Khiêm nhường, mọi người kính
Tâm Từ, ưa chánh pháp.
Bảo các vua ấy rằng:
“Xem hình thế thành kia
Một người đủ đương đầu
Huống là cùng hợp lực
Mà không hàng phục họ.
Dù có phá diệt họ
Cũng có gì tốt đâu
Đao bén nhọn đã giao
Thế không lưỡng toàn được
Đây, đó đều tổn thất
Cả hai đều thương vong.
Chiến đấu nhiều mưu toan
Tình thế khó lường được
Có khi mạnh thắng yếu
Có khi yếu thắng mạnh
Người khỏe khinh rắn độc
Ngờ đâu thân thương tổn.
Có người tính yếu mềm
Được trai gái động viên
Vào trận thành chiến sĩ
Như lửa gặp được dầu
Chớ xem thường giặc yếu
Cho họ không kham nỗi
Sức mình không đủ cậy
Không bằng sức mạnh pháp.
Thuở xưa, có vị vua
Tên Ca-lan-đà-ma
Ngồi thẳng khởi tâm Từ
Hàng phục được kẻ thù
Tuy vua bốn thiên hạ
Tiếng tăm, tài lợi nhiều
Rốt cuộc cũng tiêu tan
Như trâu no trở về.
Nên dùng pháp, dùng nghĩa
Nên tìm cách giải hòa
Đánh, thắng tăng thêm oán
Hòa, giải rồi không họa
Nay gây hận nuốt oán[17]
Việc này rất không nên
Vì muốn cúng dường Phật
Nên nhẫn nhục theo Phật.”
Như thế Bà-la-môn
Quyết định nói lời thật
Dùng nghĩa lý hòa hợp
Mà nói lời vô úy.
Bấy giờ các vua kia
Bảo Bà-la-môn rằng:
“Nay ông khéo đúng lúc
Nghĩa trí tuệ nhiêu ích
Thân mật chí thành nói
Thuận pháp, nương lý mạnh.
Lắng nghe lời ta nói
Là pháp của nhà vua
Hoặc vì tranh năm dục
Giận ghét tranh sức mạnh
Hoặc nhân việc vui chơi
Nay chúng ta vì pháp
Chiến tranh có gì lạ!
Kiêu mạn nên trái nghĩa
Người đời còn phục tùng
Huống Phật lìa kiêu mạn
Dạy người phải khiêm nhường
Nhưng chúng ta không thể
Quên thân để cúng dường!
Thuở xưa, các vua như
Bật-sắc, Nhữu-nan-đà
Vì một cô gái đẹp
Chiến tranh tàn diệt nhau
Huống nay vì cúng dường
Thầy thanh tịch lìa dục
Mà thương thân tiếc mạng
Chẳng dùng sức đấu tranh!
Tiên vương Kiều-la-bà
Đánh với Bát-na-bà
Đánh phá nhau nhiều trận
Chính vì tham lợi lộc
Huống là thầy “Vô tham”
Mà lại tham sự sống!
Con vị tiên La-ma
Tức giận vua Thiên Tý
Phá nước, giết nhân dân
Chính là do tức giận
Huống là thầy “không sân”
Mà tham tiếc thân mạng!
Vì Tư đà nên khiến
Ma-la giết quỉ thần
Huống thầy “không nhiếp thọ”
Không hy sinh vì đó!
A-lợi và Bà-câu
Hai quỉ thường kết oán
Chính vì sự ngu si
Nên giết hại chúng sinh
Huống là thầy “Trí tuệ”
Mà lại tiếc thân mạng!
Rất nhiều kẻ như thế
Mất mình vì vô nghĩa
Huống nay Thầy trời người
Khắp thế gian tôn kính
Mà kể thân, tiếc mạng
Không siêng cầu cúng dường!
Nếu ông muốn dứt tranh
Thì vì ta vào thành
Khuyên họ nên cởi mở
Cho nguyện ta được thỏa.
Do lời pháp của ông
Giúp tâm ta tạm yên
Như loài rắn cực độc
Nhờ sức chú tạm dừng.”
Khi ấy Bà-la-môn
Nhận lời các vua ấy
Vào thành gặp Lực sĩ
Thăm hỏi, tỏ lòng thành:
“Các vua ở ngoài kia
Mang binh khí sáng ngời
Thân mặc áo giáp trận
Tinh nhuệ như ánh trời
Dũng khí như sư tử
Đều muốn phá thành này
Nhưng họ vì pháp nên
Sợ làm đều phi pháp.
Nên sai tôi đến gặp
Chỉ muốn được giải bày
Tôi không vì đất này
Cũng chẳng cầu tiền của
Không có tâm kiêu mạn
Cũng chẳng lòng oán hờn
Chỉ vì kính đại tiên
Mà đến nơi này vậy.
Xin ngài biết ý tôi
Chống trái nhau làm gì?
Kính kia, đây như nhau
Nên làm anh em pháp.
Di linh của Thế Tôn
Nhất tâm cùng cúng dường
Tâm sẻn tiếc tiền tài
Đó thật chẳng phải đạo.
Tội sẻn pháp rất nặng
Khắp thế gian xem thường
Người quyết định không thông
Cần phải chờ pháp khách.
Không có “pháp Sát-lợi”
Đóng cửa mà tự phòng
Dạy pháp lành, dữ này
Bọn họ đều như vậy.
Nay tôi đã trộm nghĩ
Cũng dạy họ thành thật
Chớ kia, đây trái nhau
Lý nên cùng hòa hợp.
Thế Tôn còn tại thế
Thường dạy pháp nhẫn nhục
Không thuận theo Thánh giáo
Làm sao gọi cúng dường?
Người đời tranh năm dục
Tài lợi và ruộng nhà
Nếu người vì chánh pháp
Nên thuận theo thánh lý
Vì pháp mà kết oán
Thì lý này trái nhau,
Phật vắng lặng từ bi
Thường muốn an tất cả
Cúng dường Đấng Đại Bi
Mà gây điều hại lớn.
Nên chia đều xá-lợi
Mọi người được cúng dường
Thuận pháp, danh tiếng vang
Nghĩa thông, lý được nói.
Nếu họ làm phi pháp
Nên dùng pháp giảng hòa
Đó gọi là ưa pháp
Giúp pháp tồn tại lâu.
Phật dạy tất cả thí
Pháp thí là trên hết
Người thường hành tài thí
Hành pháp thí mới khó.”
Lực sĩ nghe lời đó
Lòng hổ thẹn nhìn nhau
Đáp lời Phạm chí rằng:
“Cám ân ông ý tốt
Lời thân thiện thuận pháp
Nói lý hòa chánh chân
Phạm chí cần phải nên
Thuận theo công đức mình
Khéo hòa giải kia đây
Chỉ dạy ta yếu đạo
Như chế ngựa đường mê
Trở về với đường chánh.
Nay phải dùng hòa lý
Theo như ông đã nói
Lời thành thật chẳng đoái
Sau sẽ sinh ăn năn.”
Liền mở bình xá-lợi
Chia đều làm tám phần
Tự cúng dường một phần
Bảy phần trao Phạm chí.
Bảy vua được xá-lợi
Vui mừng, cung kính nhận
Thỉnh về đất nước mình
Xây tháp để cúng dường.
Phạm chí xin Lực sĩ
Chia cho bình xá-lợi
Rồi theo bảy vua kia
Xin chia phần thứ tám
Đem về xây ngôi tháp
Tên là tháp Kim bình.
Người dân Câu-di-na
Gom lại phần tro than
Mà xây một ngôi tháp
Tên là tháp Khôi thán,
Tám vua xây tám tháp
Kim bình và Khôi thán
Như thế Diêm-phù-đề
Đầu tiên có mười tháp.
Các gái trai cả nước
Đều mang lọng hoa báu
Cúng dường tháp nước mình
Trang nghiêm như núi vàng
Các thứ kỹ nhạc trổi
Ngày đêm ca ngợi mãi.
Giờ năm trăm La-hán
Mất hẳn bóng mát Thầy
Bỗng nhiên không chỗ nương
Về núi Kỳ-xà-quật
Hợp chúng hang Đế thích
Để kiết tập Kinh tạng
Tất cả đều suy tôn
Trưởng lão A-nan-đà:
“Giáo pháp do Phật nói
Lớn nhỏ ngài đều nghe
Tỳ-đề kê Mâu-ni
Hãy nói đại chúng nghe.”
A-nan giữa đại chúng
Bước lên tòa Sư tử
Nói lại lời Như Lai
Rằng “Tôi nghe như vầy”
Cả chúng đều rơi lệ.
Từ ngữ tôi nghe này
Đúng pháp, đúng thời gian
Đúng chỗ, đúng người nghe
Nói ra liền ghi chép
Rốt ráo thành Kinh tạng
Siêng tìm cách tu học
Đều đã được Niết-bàn
Nay được và sẽ được.
Niết-bàn cũng như thế
Vua Vô Ưu ra đời
Làm cho kẻ mạnh buồn
Người yếu thì hết lo
Như cây hoa Vô ưu
Đứng đầu ở Diêm-phù
Tâm thường không lo lắng
Kính tin sâu chánh pháp
Nên hiệu vua Vô Ưu
Con cháu vua Khổng Tước.
Sinh ra từ chánh tánh
Cứu giúp khắp chúng sinh
Xây dựng các tháp miếu
Tên trước Cường Vô Ưu
Nay đổi Pháp Vô Ưu
Mở tháp bảy vua kia
Lấy toàn bộ xá-lợi
Phân bố một ngày xây
Tám muôn bốn ngàn tháp.
Chỉ có tháp thứ tám
Ở tại thôn La-ma
Có Long thần giữ gìn
Vua không thể lấy được
Tuy không được xá-lợi
Biết Phật có di hài
Được Thần long cúng dường
Càng thêm tâm kính tin.
Tuy vua thống lĩnh nước
Mà chứng được Sơ quả
Khiến cho khắp thiên hạ
Cúng dường tháp Như Lai
Quá khứ, vị lai, nay
Thảy đều được giải thoát.
Như lai hiện ở đời
Niết-bàn và xá-lợi
Người cung kính cúng dường
Phước kia không khác nhau,
Tuệ sáng, tâm tăng thượng
Quán công đức Như Lai
Giữ đạo cúng dường Phật
Phước đó cũng đều tốt.
Phật được pháp cao quý
Đáng nhận mọi cúng dường
Đã đến cõi bất tử
Người tin cũng được an
Cho nên các trời, người
Đều nên thường cúng dường.
Đại từ bi bậc nhất
Thông đạt nghĩa đệ nhất
Độ tất cả chúng sinh
Ai nghe chẳng cảm động
Khổ sinh, già, bệnh, chết
Khổ thế gian không hơn
Khổ chết, là lớn nhất
Là điều các trời sợ
Lìa hẳn hai thứ khổ
Vì sao không cúng dường?
Không thọ vui thân sau
Đứng đầu vui thế gian
Thêm lớn nỗi khổ sinh
Khổ thế gian nào bằng!
Phật lìa được khổ sinh
Không thọ vui thân sau
Rộng bày rõ cho đời
Vì sao không cúng dường?
Khen các Đấng Mâu-ni
Việc đã làm trước sau
Không tự bày thấy hết
Cũng không cầu danh lợi
Thuận theo lời trong kinh
Để cứu giúp cõi thế.
❑
[1] Ba bản Tống, Nguyên, Minh đều có thêm chữ “Kinh”, Pāli: Buddha-carita. Còn gọi là Phật Bổn Hạnh Kinh.
[2] Sanskrit: Aśaghosa.
[3] Pāli và Sanskrit: Suddhodana.
[4] Xá-chi (Sanskrit: Śaśī): tên của Đế Thích phu nhân có nghĩa là đáng yêu.
[5] Pāli và Sanskrit: Māyā.
[6] Vào ngày Phật ra đời ở Ấn độ trăng tròn.
[7] Sanskrit: Aurva.
[8] Sanskrit: Phthu.
[9] Sanskrit: Māndhath.
[10] Sanskrit: Kakṛīvat.
[11] Nguyên văn: Bỉnh triệt do thất tinh 炳 徹 猶 七 星 . Theo quan niệm Trung Hoa cổ đại, tướng thất tinh (Bảy nốt ruồi dưới lòng bàn chân) là dấu hiệu của bậc Thánh vương.
[12] Pāli: Mandārava. Tên một loại hoa báu.
[13] Tứ phạm hạnh: còn gọi là Tứ phạm trụ, tức Tứ Vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
[14] Dịch đảo thứ tự câu.
[15] Câu “Vị tằng hữu sở quyền” dịch là: Đã có lòng thành tha thiết chưa từng có, nên có thể dịch gọn lại nhưng có cùng một nghĩa, tuy ý không mạnh bằng.
[16] Dịch đảo câu.
[17] Dịch thoát ý. Không cần phải chiến tranh
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]