SỐ 198
PHẬT NÓI KINH NGHĨA TÚC[1]

Hán dịch: Đời Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt chi.

QUYỂN THƯỢNG

1- KINH VUA KIỆT THAM

2- KINH VUA ƯU-ĐIỀN

3- KINH TU-ĐÀ-LỢI

4- KINH PHẠM CHÍ MA-KIỆT

5- KINH VUA KÍNH DIỆN

6- KINH GIÀ TRẺ ĐỀU CHẾT

7- KINH DI-LẶC THƯA HỎI

8- KINH PHẠM CHÍ DŨNG TỪ

9- KINH MA-NHÂN-ĐỀ NỮ

10- KINH DỊ HỌC GIÁC PHI

QUYỂN HẠ

2- KINH PHẠM CHÍ MÃNH QUÁN

3- KINH PHẠM CHÍ PHÁP QUÁN

4- KINH PHẠM CHÍ ĐÂU-LẶC

5- KINH LIÊN HOA SẮC TỲ-KHEO-NI

6- KINH cha con cùng HỘI

7- KINH Vua DUY-LÂU-LẶC


QUYỂN THƯỢNG

1- KINH VUA KIỆT THAM

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có một vị Phạm chí sở hữu một miếng đất rộng lớn, nằm giữa rừng cây của thái tử Kỳ-đà, lúa đã chín vàng sắp gặt nay mai. Sáng sớm thức dậy, vị Phạm chí đã ra ruộng, đứng trên bờ, từ xa nhìn thấy lúa trĩu hạt đầy đồng nên trong lòng sung sướng, tự nghĩ mong ước đã thành, cứ ngắm mãi không sao dời bước được.

Đức Phật cùng các vị Tỳ-kheo vào thành khất thực, từ xa trông thấy vị Phạm chí vui sướng như vậy liền bảo các vị Tỳ-kheo:

–Các ông có thấy vị Phạm chí kia chăng?

Các vị Tỳ-kheo đều thưa:

–Dạ thấy.

Đức Phật im lặng đi vào thành. Sau khi khất thực xong, mỗi vị đều trở về tinh xá. Ngay trong đêm đó trời đổ một cơn mưa đá rất lớn làm cho cả ruộng lúa hư sạch. Vị Phạm chí có một người con gái cũng bị chết đúng vào đêm ấy. Do vậy, vị Phạm chí trong lòng đầy nổi đau đớn, ưu sầu, phiền muộn, kêu gào khóc mãi.

Hôm sau, các vị Tỳ-kheo lại ôm bát vào thành khất thực, nghe thấy vị Phạm chí bị tai họa ấy gào khóc rất bi thảm mà chẳng có vị Sa-môn, Phạm chí hay người nào trong nước có thể khuyên giải làm vơi đi nỗi đau sầu của ông ta. Sau khi khất thực, các vị Tỳ-kheo, trở về, đến nơi Đức Phật ngự, đảnh lễ bạch thưa lại tâm trạng của vị Phạm chí như thế. Các Tỳ-kheo vừa thưa xong thì vị Phạm chí khóc la đi đến nơi Đức Phật, đảnh lễ thưa hỏi xong liền ngồi một bên Ngài. Đức Phật biết nguồn gốc ưu sầu trong tâm ông nên bảo với vị Phạm chí:

–Thế gian này có năm việc không sao tránh khỏi được, cũng không thể giải tỏa được. Năm việc ấy là gì?

1.     Mọi sự vật đều phải bị hao tổn suy giảm. Muốn làm cho không hao tổn, không suy giảm, điều đó không thể được.

2.     Mọi sự vật đều phải bị mất mát. Muốn làm cho không mất mát, điều ấy không thể được.

3.     Mọi sự vật đều phải bị ốm đau. Muốn làm cho không ốm đau, điều ấy không thể được.

4.     Mọi sự vật đều phải bị già yếu, suy hoại. Muốn làm cho không già yếu, không suy hoại, điều ấy không thể được.

5.     Mọi sự vật đều phải bị chết, mất đi. Muốn làm không bị chết, không bị mất đi, điều ấy không thể được.

Đối với người không có đạo hạnh, không có trí tuệ thẩm suy, hễ thấy việc hao tổn, suy giảm, mất mát, già, bệnh, chết chóc đến với mình lập tức sinh lòng sầu khổ, bi thương, bức rức, phiền muộn. Điều ấy chỉ làm tổn hại thân thể, chẳng ích lợi gì. Vì sao vậy? Vì không được nghe, không tỏ tường chân lý nên mới bị như vậy. Này Phạm chí, Ta biết rằng người hiểu chân lý, khi gặp sự hao tổn, suy giảm, sự mất mát, già bệnh, chết đến với mình, họ chẳng vì thế lo buồn. Vì sao vậy? Vì họ đã được nghe, đã tỏ tường sự thật nên mới được như vậy. Không phải chỉ có gia đình ông mới bị hao tổn, tất cả mọi gia đình trên thế gian đều như thế. Đã là đời thì phải có hao tổn, làm sao một mình ông tránh khỏi? Người có trí hiểu rõ sự thật biết thẩm suy nên tự nghĩ: “Ta nay bị hao tổn, lòng ta đau buồn, ngồi mãi mệt mỏi, không ăn uống, mặt mày tiều tụy, kẻ thù ta thấy vậy vui mừng, họ hàng ta lo lắng, gia đình ta buồn rầu chỉ vì ta chẳng suy nghĩ, tìm cách khắc phục sự hao tổn ấy nên không thể phục hồi được”. Nếu người nào đã thấy rõ chân lý ấy là như vậy nên lúc chứng kiến sự hao tổn suy giảm, mất mát, già, bệnh, chết đến thì người ấy hoàn toàn chẳng còn gì để ưu buồn nữa.

Nhân đó, Đức Phật vì Phạm chí nói bài kệ:

Không nên cất tiếng ưu sầu
Tài sản ít, nhiều đã mất
Đau đớn cũng chẳng ích gì
Kẻ thù trong lòng sung sướng.
Bậc trí hiểu rõ chân lý
Không sầu trước già, bệnh, chết
Kẻ tham sinh khởi phiền não.
Hãy nhìn sắc hoa tươi đẹp
Vô thường như thể tiếng vang
Trân bảo làm sao khỏi chết?
Hiểu rồi không còn ưu não
Niệm hành vượt cả châu báu
Rõ chân lý không theo đuổi.
Người thế gian ai cũng vậy
Lìa ưu sầu, giữ chánh hạnh
Đời này sầu tưởng ích gì?

Đức Phật lại giảng rộng kinh pháp cho vị Phạm chí, tuần tự giảng về bố thí, trì giới, người làm điều thiện sẽ được sinh lên cõi trời ngay trong hiện tại, người làm ác sẽ không an ổn. Đức Phật biết tâm ý của vị Phạm chí nhu nhuyến, hướng về chánh đạo liền giảng cho ông về pháp Tứ đế. Tâm Phạm chí được thông suốt, chứng quả Câu Hạng[2] thứ nhất, như tấm lụa sạch được nhuộm màu sắc rất đẹp. Vị Phạm chí đứng dậy cúi đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật, chắp tay thưa:

–Nay con thấy được sự thật như tự soi bóng trong gương. Từ nay về sau, con xin quy y Phật, quy y chư Tỳ-kheo Tăng. Xin Thế Tôn nhận con làm Thanh tín sĩ[3], vâng giữ năm giới, suốt đời sống tinh khiết, không phạm giới.

Ông đi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi ra về.

Các vị Tỳ-kheo liền bạch Đức Phật:

–Vui thay! Đức Thế Tôn đã khai mở, tẩy sạch tâm ý của vị Phạm chí, mới khiến ông ta hoan hỷ mà ra về như vậy.

Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

–Không phải chỉ lần này Ta mới giải thoát nổi lo buồn của vị Phạm chí ấy. Trong thời quá khứ lâu xa, ở đất Diêm-phù-lợi có năm vị quân vương. Vị vua thứ nhất tên là Kiệt Tham cai trị đất nước một cách bất chánh. Các vị đại thần và nhân dân đều oán trách việc làm của nhà vua nên cùng nhau tập hợp bàn luận:

–Tất cả gia đình chúng ta đều đem gia binh đến truất phế vua, bảo cho vua phải tự biết các chính sách bất chánh của ông ta đem ra thi hành, đã gây thương hại cho muôn dân. Nếu vua không cấp tốc ra khỏi nước ắt phải bị sát hại.

Nhà vua nghe được tin ấy, lòng vô cùng sợ hãi, toàn thân run lập cập, lông tóc đều dựng đứng vội lên xe đào tẩu ra khỏi nước. Trong cảnh cùng khốn, vua phải làm nghề cắt cỏ bán để sống. Các vị đại thần và nhân dân tôn vị vương đệ lên làm vua để việc chính trị trong nước không làm rối loạn muôn dân.

Cựu vương Kiệt Tham nghe em mình lên ngôi vua, trong lòng vui sướng, trù tính, rằng:

–Ta có thể đến chỗ em ta cầu xin có thể tìm được cách sinh sống.

Ông liền dâng thơ trình bày đầy đủ mọi việc, xin vua ban cho một ấp để có thể tự nuôi sống. Thương xót ông đang bị tai họa, đức vua liền ban cho. Khi đã cai trị dược một ấp ông lại xin hai ấp, rồi bốn, năm cho đến mười ấp; từ hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi cho đến một trăm ấp; từ hai trăm cho đến năm trăm ấp rồi ông lại xin phân nửa vương thổ, nhà vua vẫn giao cho ông cai trị. Sau khi cai trị một thời gian dài, Kiệt Tham nảy sinh ý nghĩ: “Ta hãy đem quân đội nửa nước này công phạt nước của vương đệ” và ông chiến thắng, chiếm lại toàn vẹn lãnh thổ trước đây. Nhà vua lại nghĩ: “Nay vì sao ta lại không đem binh sĩ toàn quốc chinh phạt hai nước, ba nước, bốn nước”.

Vua liền đem quân chinh phạt và đều đại thắng nên thống trị thêm bốn nước. Vua vẫn nghĩ: “Nay tại sao ta không đem quân của bốn nước đánh nước thứ năm?” Nghĩ xong, vua liền đem quân chinh phạt và lại chiến thắng. Lúc đó tất cả đất đai và bốn biển đều thuộc về vua. Nhà vua liền đổi hiệu, tự phong là Đại Thắng Vương.

Trời Đế Thích muốn thử xem vua đã biết nhàm chán chưa, nên hiện thân làm một cậu bé Phạm chí, họ là Cù-di muốn được yết kiến nhà vua. Ngài búi tóc, chống gậy vàng, ôm bát vàng đứng trước cung điện. Người giữ cửa vào tâu đức vua:

–Bên ngoài có một vị Phạm chí, họ là Cù-di, mong được yết kiến bệ hạ.

Vua nói:

–Rất hay!

Vua liền mời vị Phạm chí ngồi ở trước. Cùng nhau thăm hỏi xong, Phạm chí tâu với vua:

–Tôi từ vùng duyên hải đến đây thấy có một nước lớn giàu có, sung sướng, nhân dân phồn thịnh, có nhiều châu báu, ngài có thể đến đó để chinh phạt không?

Nhà vua tuy đã đầy đủ nhưng vẫn muốn chiếm lấy nước ấy nên nói:

–Ta rất muốn chiếm được nước ấy. Vua trời Đế Thích bảo:

–Xin vua hãy trang bị thật nhiều thuyền bè, chuẩn bị quân đội chờ tôi. Sau bảy ngày, tôi sẽ dẫn vua đến đó.

Nói xong, trời Đế Thích liền biến mất. Đến ngày hẹn, nhà vua liền khởi đại binh, chuẩn bị nhiều thuyền bè nhưng không thấy vị Phạm chí đến. Nhà vua buồn rầu không vui, vỗ đùi nói:

–Tức thay, ta nay đã mất vương quốc rộng lớn ấy! Nếu gặp Cù-di, lo gì không lấy được nước ấy. Đã đến ngày hẹn, mà sao chẳng thấy cậu ta đâu cả! Khi ấy nhân dân cả nước ngồi quay về hướng vua, vua khóc họ cũng khóc, vua buồn họ cũng buồn. Nhà vua cứ lo buồn mãi không sao vơi được, chợt nhớ lời bài kệ trong kinh nên khởi lên một ý tưởng, đọc:

Niệm tăng theo dục
Đã có lại mong
Tri túc là vui
Mới được tự tại

Nhà vua hướng về chúng dân truyền lệnh muốn biết ý của bài kệ, nếu người nào có thể giải thích được ý nghĩa của bài kệ trên sẽ được trọng thưởng một ngàn đồng tiền. Trong những người ngồi tại đó có một chàng thiếu niên tên Uất-đa. Uất-đa liền tâu với vua:

–Thần có thể giải thích được ý nghĩa bài kệ đó. Xin vua cho phép đúng bảy ngày sau, thần sẽ trả lời.

Đến ngày thứ bảy, chàng thưa với mẹ:

–Nay con muốn đến chỗ vua để giải tỏa sự ưu sầu của vua.

Người mẹ bảo con:

–Con chớ nên đi. Việc nan giải của nhà vua như lửa cháy, sắc lệnh của ngài như dao nhọn, khó có thể gần gũi.

Người con thưa:

–Xin mẹ chớ buồn lo. Sức của con có thể giải thích ý nghĩa bài kệ của vua, chắc chắn sẽ được thưởng hậu, có thể làm được việc này con thật là vui sướng.

Uất-đa liền đến chỗ vua tâu:

–Nay thần đến đây để giải thích ý nghĩa bài kệ hôm trước.

Chàng liền nói bài kệ:

Niệm tăng theo dục
Đã có lại mong
Phóng tâm không giữ
Như khát tìm nước,
Gồm thâu vương thổ
Đầy ngựa, bạc vàng
Trọn không nhàm chán,
Có tuệ, chánh hạnh
Như sừng, cựa sinh
Mỗi ngày thêm lớn.
Người đời cũng vậy
Không biết dục tăng
Khát ái không ngừng
Ngày ngày càng lớn,
Núi vàng cao ngất
Như núi Tu-di
Cũng không hề chán.
Có tuệ chánh hạnh
“Dục là khổ đau”
Chưa từng được nghe.
Muốn nghe lìa dục
Nhờ trí yểm ly
Chán dục, đáng kính.
Dục lậu khó lìa
Bậc trí biết khổ
Không theo ái dục.
Như tạo bánh xe
Phải làm kiên cố
Dần dần xa dục
Ý lần được an
Mong được định tĩnh
Hoàn toàn ly dục.

Nhà vua nói:

–Làm chủ tâm ý thì dù thống trị tất cả đất đai và bốn biển ở thế gian, vẫn có thể nhàm chán chúng, mới thật lìa xa được lòng ham muốn đánh chiếm quốc gia ở vùng hải ngoại kia.

Vua Đại Thắng liền bảo Uất-đa:

Đồng tử thật giỏi
Lời vàng cho đời
Nói dục rất khổ
Quả là trí nhân.
Ngươi thuyết tám kệ
Mỗi kệ ngàn tiền
Mong trên Đại đức
Thương nói tận nghĩa.

Uất-đa dùng kệ đáp:

Không dùng báu này
Giữ riêng sinh sống
Kệ thuyết sau cùng
Ý xa dục lạc.
Đại vương, mẹ tôi
Tuổi già, thân ốm
Muốn báo mẫu ân
Cấp ngàn đồng tiền
Để cung dưỡng mẹ.

Vua Đại Thắng thưởng một ngàn đồng tiền để đồng tử nuôi dưỡng mẹ già.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Vua Đại Thắng lúc ấy nay chính là vị Phạm chí trồng lúa kia. Đồng tử Uất-đa lúc ấy nay chính là thân Ta. Lúc đó Ta cũng đã giảng rõ, giải tỏa sự đau buồn của Phạm chí. Nay Ta cũng đoạn trừ tất cả khổ đau cho Phạm chí, khiến ông ta từ nay về sau không còn bị khổ nữa.

Đức Phật dùng nhân duyên xưa diễn nói quyển kinh Nghĩa Túc này, để tôi, kẻ hậu học[4] nghe lời dạy trên. Đức Phật muốn làm bài kệ để hậu thế hiểu rõ và truyền tôi giữ gìn kho tàng kinh pháp, trụ thế dài lâu có kinh Nghĩa Túc:

Niệm tăng theo dục
Có rồi vẫn mong
Biết đủ là vui
Nên được tự tại.
Người đời tham dục
Thành kẻ ngu si
Mê mờ trong dục
Tên độc hại thân,
Tránh xa dục ấy
Như tránh rắn độc
Tránh vui thế gian
Cần hành thiền định.
Ruộng gieo, báu vật
Nuôi dưỡng trâu, ngựa
Bị nữ trói buộc
Hạnh si hại thân.
Tham dục thân gầy
Càng gần thêm oán
Si mê chịu đau
Như hải thuyền vỡ.
Nên nói nhiếp ý
Lìa dục chớ phạm
Tinh cần cầu vượt
Đưa thuyền đến bờ.

Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

2- KINH VUA ƯU-ĐIỀN

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ tại nước Cú tham (Kosambī) có một vị Tỳ-kheo cư ngụ trong ngôi nhà bằng đất, giữa các tảng đá, để tóc, râu và móng tay chân rất dài, vận y phục rách nát.

Khi ấy vua Ưu-điền muốn ra ngoài, đến hòn núi Ngã tích du ngoạn. Quan hầu cận liền cho người sửa sang đường, cầu. Sau khi hoàn tất, vị ấy trở về tâu vua đã sửa đường xong, vua có thể du ngoạn. Nhà vua chỉ đem các cung nhân mỹ nữ theo hầu, cỡi xe ngựa đến núi Ngã Tích rồi xuống xe đi bộ lên núi. Có một mỹ nữ đi dạo trong núi, từ hẻm núi này sang đường núi nọ, bỗng nhìn thấy trong ngôi nhà đất giữa các tảng đá, có một vị Tỳ-kheo râu, tóc, móng rất dài, lại vận y phục rách nát, vóc dáng tựa như quỉ liền kêu lớn:

–Bệ hạ, trong chỗ này có quỉ, trong chỗ này có quỉ.

Nhà vua từ xa hỏi:

–Nó ở chỗ nào? Nàng mỹ nữ nói:

–Gần giữa các tảng đá, trong ngôi nhà đất. Nhà vua liền rút kiếm đi đến đó, thấy một vị

Tỳ-kheo có tướng như thế liền hỏi:

–Ngươi là ai?

Vị Tỳ-kheo đáp:

–Tôi là Sa-môn. Vua hỏi:

–Ngươi là Sa-môn của đạo nào? Vị Tỳ-kheo trả lời:

–Tôi là Sa-môn dòng họ Thích-ca. Vua hỏi:

–Ngươi là La-hán chăng?

Vị Tỳ-kheo thưa:

–Tôi chưa đạt quả La-hán. Vua lại hỏi:

–Đã đạt Tứ Thiền chưa?

Vị Tỳ-kheo đáp:

–Chưa đạt. Vua hỏi tiếp:

–Vậy đã được Tam thiền, Nhị thiền chưa?

Vị Tỳ-kheo đáp:

–Chưa được. Vua gặng hỏi:

–Vậy đã đến Sơ thiền chưa?

Vị Tỳ-kheo trả lời:

–Quả thật tôi đang tu tập Sơ thiền.

Nhà vua trong lòng tức giận bừng bừng, quay lại bảo quan thái giám theo hầu:

–Người này có ý niệm dâm dật, chỉ là hạng Sa- môn phàm tục, không có chánh hạnh, sao lại dám ngắm mỹ nhân của ta?

Nhà vua truyền lệnh cho thị vệ lập tức cắt đứt dây đàn đem lại trói vị Tỳ-kheo. Người hầu liền y lệnh. Lúc ấy vị Sơn thần nghĩ: “Vị Tỳ-kheo này không có lỗi, nay phải bị chết oan. Ta cần bảo vệ, giúp cho vị ấy thoát khỏi nạn này”. Vị Sơn thần hóa thành một con heo lớn, từ từ chạy ngang gần chỗ nhà vua. Người hầu liền tâu:

–Có một con heo lớn đang đến gần bên bệ hạ.

Nhà vua bỏ vị Tỳ-kheo ở đó, rút kiếm đuổi theo con heo. Vị Tỳ-kheo thấy nhà vua đã đi xa, lập tức bỏ chạy ra khỏi núi, thẳng đến khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc ở Xá-vệ, thuật lại toàn bộ câu chuyện cho các vị Tỳ-kheo. Các vị Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật. Đức Thế Tôn nhân câu chuyện này nói rõ ý nghĩa nhân duyên quá khứ sinh khởi. Ngài dạy tôi, Tỳ-kheo A-nan phải biết rõ, tóm lược lời Ngài dạy vào trong Kinh, để cho kẻ học đạo đời sau hiểu rõ. Đức Phật truyền tôi phải giữ gìn để kinh sách và Phật đạo được trụ thế lâu dài. Khi ấy Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc:

Bởi Xá-đa đã nguyện
Nên bị tà ngăn che
Mê mờ xa chánh đạo
Niệm dục, tuệ khó thành.
Buộc ràng trong bào thai
Sắc trói chặt tuy hiểu
Nhưng không quán khứ lai
Chính tuệ đoạn tận gốc.
Tham dục do si ám
Không rõ tà tăng nhanh
Dục tham gây khổ đau
Biết vậy, sao nương tựa?
Thế nhân nên tường tỏ
Tà thế khó tựa nương
Bỏ chánh, không giữ niệm
Mạng ngắn chết rất gần,
Xoay vần theo thế khổ
Sinh tử dục trào dâng
Khi chết vẫn oán hận
Theo dục thọ thai hình
Tự thân nhận đau khổ
Như cá nhốt đầm sâu.
Nên biết mạng sắp đoạn
Ba đời nào có tăng
Sức dục vây khắp phía
Nên hiểu rõ, chớ lầm.
Không làm theo tâm oán
Thấy nghe đừng ô nhiễm
Tỉnh thức vượt biển khơi
Không chấp ngã, ngã sở
Siêng tu trừ mê dục
Đến đó mới không nghi.

Phật nói kinh Nghĩa Túc này, các Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

3- KINH TU-ĐÀ-LỢI

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, tại nước Xá-vệ được quốc vương, các vị đại thần và các nhà quyền quý cung kính, luôn hộ trì cúng dường phạn thực, y phục, sàng tọa, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh.

Bấy giờ các vị Phạm chí ngồi tại giảng đường của mình, cùng nhau bàn luận:

–Xưa nay chúng ta được quốc vương, các vị đại thần, các nhà quyền quý và nhân dân, đón tiếp, hầu hạ. Nay họ bỏ, không cấp dưỡng cho chúng ta, mà quay lại thờ phụng Sa-môn Cù-đàm và các vị đệ tử của ông ta. Chúng ta phải cùng nhau lập mưu kế gì để đánh bại ông ta.

Họ cùng bàn với nhau:

–Nay cần phải tìm chọn trong hàng ngũ của chúng ta một cô gái có nhan sắc tuyệt đẹp rồi giết cô ta, chôn thi thể cô ta trong rừng cây Kỳ-đà. Như vậy mới có thể phá hoại, làm tổn thương Sa-môn Cù-đàm và các đệ tử của ông ta. Khi tiếng xấu của họ lan truyền khắp nơi, những người ủng hộ sẽ phải lánh xa, không còn cung kính Cù-đàm, tất cả đệ tử theo học với ông ta sẽ không còn được cung cấp y thực nữa. Mọi người sẽ quay lại tôn thờ chúng ta. Chúng ta sẽ lại được người đời tôn kính. Phá hoại được Cù-đàm thì ở đời này sẽ không ai hơn chúng ta được.

Họ lập tức cùng nhau đến nhà, gọi nàng Hảo Thủ (Sundari) ra bảo:

–Chắc nàng cũng biết hiện nay chúng ta đang bị mọi người xa rời, không được ủng hộ, cấp dưỡng nữa. Trái lại dân chúng đang tôn kính Sa-môn Cù- đàm làm thầy. Hẳn nàng có thể vì mối căm giận này mà làm một việc có lợi cho chúng ta phải không?

Nàng Hảo Thủ hỏi:

–Làm một việc có lợi là thế nào? Các Phạm chí bảo:

–Chỉ có một cách là nàng hy sinh mạng sống, chịu chết mà thôi!

Hảo Thủ trả lời:

–Tôi không thể làm được. Đoàn Phạm chí liền nói:

–Nếu cô không làm như vậy thì từ nay về sau cô sẽ không còn ở trong hàng ngũ của chúng ta nữa.

Cô gái nghe lời ấy, trong lòng rất đau buồn nên lập tức nói:

–Xin vâng, đó là nhiệm vụ của tôi. Các Phạm chí đều cất tiếng:

–Lành thay!

Họ cùng nhau dạy cho Hảo Thủ:

–Từ nay về sau, sáng chiều, cô đều tới chỗ Phật, thường qua lại trong rừng cây Kỳ-đà để mọi người đều thấy và biết cô. Sau đó, chúng ta sẽ giết cô, chôn xác giữa rừng cây Kỳ-đà, chắc chắn sẽ làm cho Cù-đàm bị hủy nhục.

Cô gái theo lời dạy, thường xuyên lui tới chỗ các vị Sa-môn. Khi mọi người đều biết việc ấy, các Phạm chí bèn bắt cô gái giết chết, rồi chôn xác trong rừng cây Kỳ-đà. Sau đó, họ cùng tập họp đến trước cửa hoàng cung kêu gào, oán trách:

–Trong các học trò của chúng tôi, có một cô gái tánh tình nết na, nhan sắc diễm lệ tuyệt trần. Hiện nay không biết cô ấy sống hay chết ở chỗ nào?

Đức vua hỏi:

–Cô ta thường đến chỗ nào? Bọn họ đều trả lời:

–Nàng ấy vẫn hay đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Nhà vua nói:

–Vậy thì hãy đến chỗ đó tìm xem.

Thừa dịp ấy, họ bèn tâu xin vua cho quan, lính cùng đi. Nhà vua chấp thuận. Đoàn người tìm kiếm khắp nơi, lần lần tiến vào khu vực rừng cây Kỳ-đà, thì đào thấy tử thi. Các Phạm chí đặt xác cô gái trên một chiếc giường, cùng nhau khiêng đi khắp nơi trong thành Xá-vệ, đến tất cả đường phố lớn nhỏ kêu gào, than oán:

–Mọi người hãy xem Sa-môn Cù-đàm, con nhà họ Thích thường được ca tụng là Bậc có giới đức, tối thượng nhất trên đời sao nay lại tư thông với cô gái này, rồi giết chết, lén chôn giấu xác cô ta. Như vậy thì còn gì là phép tắc? Còn gì là đạo đức? Còn gì là giới hạnh nữa?

Đúng giờ thọ thực, các vị Tỳ-kheo đều ôm bát vào thành khất thực. Các nhà quyền quý và nhân dân từ xa trông thấy liền cất lời xúc xiểm:

–Bọn Sa-môn này tự xưng là có phép tắc, đạo đức, giới hạnh mà lại phạm một tội ác như thế. Bọn chúng còn điều gì tốt lành đâu; làm sao còn được cúng dường y thực như trước nữa!

Các vị Tỳ-kheo nghe thế, đều ôm bình bát không ra khỏi thành trở về. Sau khi rửa sạch tay chân, cất bình bát, các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ rồi đều đứng trình bày lại đầy đủ sự việc trên.

Bấy giờ Đức Phật nói bài kệ:

Không loạn ý theo vọng ngữ
Ra trận bị tên nhẫn chịu
Nghe đời buông lời thiện, ác
Tỳ-kheo nhẫn, không loạn ý.

Đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:

–Ta bị sự hủy báng dối trá này không quá bảy ngày mà thôi.

Có một Thanh tín nữ[5] tên Duy Diêm ở trong thành nghe các vị Tỳ-kheo khất thực đều ôm bát không trở về nên rất thương xót. Nghĩ đến Đức Phật và các vị Tỳ-kheo Tăng, cô liền đi gấp đến khu lâm viên, đến chỗ Phật ngự cúi đầu mặt đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật giảng rộng kinh pháp cho Duy Diêm. Nghe giảng xong, cô đứng dậy chắp tay bạch Đức Phật:

–Mong Đức Thế Tôn và chư vị Tỳ-kheo Tăng đến nhà con thọ thực trong bảy ngày.

Đức Phật im lặng nhận lời. Duy Diêm nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi trở về. Đến ngày thứ bảy, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Ông và chúng Tỳ-kheo vào thành đến các ngã tư đường làng đều đọc bài kệ này:

Thường lừa đảo, u tà
Vu khống người vô tội
Vô minh thêm lừa dối
Oán thù hại tự thân.
Tu-địa-lợi phân tranh
Mãi hận nên tự bại
Lời ác, làm đứt đầu
Phải thường giữ nghiệp khẩu.
Đáng kính lại chê bai
Khen người không giới hạnh
Do miệng sinh sầu muộn
Đố kỵ tâm bất an
Che giấu tài lợi người
Cũng từ dối gạt sinh
Mọi sự đều nhẫn được
Thật vì quên vật báu.
Oán hận bậc Chân chánh
Sáu người hết cả năm
Kẻ đó theo đường ác
Tâm, hạnh luôn bất chánh
Dối lừa mười vạn dân.

Tôn giả A-nan liền vâng lời, cùng các vị Tỳ- kheo vào thành đến các ngã tư đường làng, đọc đúng như bài kệ Phật dạy. Các vị hào tộc và nhân dân thành Xá-vệ đều phát sinh ý nghĩ: “Các vị Thích tử thật không có điều ác. Các đệ tử của Đức Phật Thích-ca, hoàn toàn không có tà hạnh”. Bấy giờ các Phạm chí ngoại đạo ở giảng đường tự tranh cãi với nhau. Trong nhóm có một người nói lộ việc làm của bọn họ với người ngoài:

–Chúng ta cùng nhau tự giết Hảo Thủ lại để oan cho Đức Phật và đệ tử của Ngài sao?

Một vị đại thần nghe được lời ấy liền vào trình tâu lên vua. Đức vua lập tức triệu tập các Phạm chí đến hỏi:

–Có phải chính các ngươi đã giết Hảo Thủ không?

Bọn họ trả lời:

–Tâu vâng, quả đúng như vậy. Đức vua nổi giận bảo:

–Ta phải xử tội bọn ngươi thật nặng. Tại sao bọn ngươi ở trong cương thổ nước của ta, tự xưng là người tu đạo mà còn có tâm giết hại?

Vua lập tức truyền lệnh cho quan hầu cận:

–Hãy bắt hết bọn người này, giải chúng đi khắp nơi, đường phố lớn nhỏ trong thành Xá-vệ để mọi người rõ tội ác của chúng, rồi trục xuất chúng ra khỏi nước.

Đúng giờ thọ thực, Đức Phật cùng các vị Tỳ- kheo đều ôm bát vào thành. Bấy giờ có một vị Thanh tín sĩ tên A-tu-lợi từ xa trông thấy Đức Phật liền đến đảnh lễ, cất tiếng bạch Phật:

–Con nghe việc ấy, không còn biết bốn phương ở đâu, trong lòng hết sức đau xót. Những kinh pháp con đã nghe không sao đọc tụng được nữa. Con nghe Đức Phật và chư Tỳ-kheo Tăng bị oán hờn, phải mang tiếng ác.

Đức Phật bảo A-tu-lợi:

–Sự việc không thích thú này là do nhân duyên báo ứng từ đời quá khứ. Ngài bèn nói bài kệ:

Nói ít cũng bị chê
Nói nhiều cũng bị trách
Lời ngay thẳng cũng chê
Đời ác, chê tất cả.
Quá, hiện hay tương lai
Không bị chê, không có
Ai suốt đời bị chê
Trước nạn, tâm vẫn kính.

Đức Phật tuyên giảng rộng kinh pháp cho A- tu-lợi nghe. Sau đó, Ngài đến nhà của Tu-đạt, thẳng thân ngồi trên chánh tòa. Tu-đạt đảnh lễ Đức Phật, chắp tay bạch:

–Gia quyến của con đều buồn rầu, bản thân con không còn biết phương hướng nào nữa. Kinh pháp con được nghe không thể nào đọc tụng được. Con nghe Đức Phật và các vị Tỳ-kheo Tăng bị oán hận, bị mang tiếng xấu.

Đức Phật liền nói bài kệ:

Ta như voi ra trận
Bị thương không oán tưởng
Vì lòng Ta nhu nhẫn
Người đời, khởi niệm ác.
Tay Ta không tổn hại
Dùng tay chuyển ác hành
Độc hại chẳng thể xâm
Làm thiện, ác không thành.

Đức Phật vì Tu-đạt giảng kinh rồi Ngài đến nhà của Duy Diêm, thân đoan nghiêm ngự trên tòa ngồi ở giữa. Sau khi đảnh lễ xong, Duy Diêm chắp tay bạch:

–Quyến thuộc của con đều buồn rầu, bản thân con không còn biết phương hướng nào nữa. Những kinh pháp con được nghe, không thể nào đọc tụng được. Con nghe Đức Phật và các vị Tỳ-kheo Tăng bị hờn oán, phải mang tiếng xấu.

Đức Phật vì Duy Diêm nói bài kệ:

Không bị dục não loạn
Tâm tịnh, ngoài sao dơ
Kẻ ngu oán tự hại
Ngược gió tung bụi mù.

Duy Diêm vui mừng hiến cúng trai soạn. Sau khi Đức Phật và các vị Tỳ-kheo Tăng thọ trai xong, nàng dâng nước rửa tay, rồi ngồi phía dưới lắng nghe Đức Phật giảng kinh. Đức Phật giảng về việc giữ giới và các hạnh thanh tịnh cho toàn gia của Duy Diêm, làm cho mọi người đều thấy đạo, rồi Ngài trở về tinh xá.

Quốc vương Ba-tư-nặc cùng đông đảo quan quân, xa mã tùy tùng trang nghiêm theo đúng uy pháp của bậc quân vương rời thành đến rừng cây Kỳ-đà. Vì muốn đến diện kiến Đức Phật nên vua xuống xe đi bộ vào. Từ xa trông thấy Đức Phật, vua liền cất lọng, mũ, để các người hầu ở bên ngoài, cởi hài vàng, rồi mới đến phía trước đảnh lễ Đức Phật, ngồi xuống, chắp tay bạch:

–Vương quyến của con rất đau lòng, bản thân con không còn biết phương hướng nào nữa. Những kinh pháp mà con được nghe, con không còn tụng nữa. Con nghe Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng bị oán hờn, phải mang tiếng xấu.

Đức Phật liền vì vua nói bài kệ:

Niệm tà, nói lỗi người
Ý chánh, nói lời thiện
Miệng chê xấu, khen tốt
Thiện, ác không sầu ưu.
Có làm phải có bỏ
Lìa thế, cầu giải thoát
Không loạn, giữ tâm đức
Chế dục còn ai nghi?

Toàn dân nước Xá-vệ đều khởi niệm nghi ngờ Đức Phật và các vị Tỳ-kheo Tăng do nhân duyên gì mà bị tiếng xấu nguy hiểm như vậy. Vì thấy uy thần Phạm tướng vĩ đại, cao tột của Đức Phật tợ như mặt trăng giữa các vì sao nên không ai dám thưa hỏi. Đức Phật biết rõ ý nghĩ của họ, nên nói kinh Nghĩa Túc:

Với bậc khéo giữ giới hạnh
Người hỏi không tiện bày tỏ
Niệm nghi tà đạo hay chánh
Muốn học, ý phải tự tinh.
Hãy thôi! Chớ chấp việc đời
Thường tự nhủ giữ giới vững
Trọn tin giáo pháp quang minh
Dạy đời không nên thêu dệt.
Pháp không tà không nói quấy
Hủy báng Ta, Ta không ngại
Tự thấy hạnh không tà lậu
Không chấp tưởng, đâu giận, vui.
Mọi sở hữu cần xả bỏ
Giáo pháp sáng, phải giữ gìn
Cầu giải thoát ắt được “Không”
Niệm “Không” nên đắc pháp “Không”.
Không chấp nên chẳng gì có
Hạnh chẳng nguyện, ba cõi sinh
Cần đoạn hẳn vòng si ám
Hành thế nào có sở y?
Sở hữu pháp phải vất bỏ
Với giáo thuyết cũng không chấp
Không đắm trước, cũng không lìa
Nhờ quán thế, ly tất cả.

Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

4- KINH PHẠM CHÍ MA-KIỆT

Nghe như vầy:

Đức Phật trú ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc tại nước Xá-vệ. Khi ấy có một vị Phạm chí tên Ma- kiệt bỗng nhiên chết tại giảng đường. Các vị đồng học đặt ông lên trên giường, khiêng đến các ngã tư đường làng của thành Xá-vệ, cất lời rao truyền:

–Người nào thấy Ma-kiệt thì đều được giải thoát. Bây giờ ai thấy thi thể của ông cũng được giải thoát, sau này có ai nghe tên ông cũng được giải thoát.

Đúng giờ thọ trai, các vị Tỳ-kheo, ôm bình bát vào thành khất thực, đều nghe thấy các Phạm chí truyền rao công đức của Ma-kiệt như vậy. Thọ thực xong, các vị rửa bình bát, trở về nơi Phật ngự, đảnh lễ xong, về chỗ ngồi, thưa lại toàn bộ câu chuyện trên cho Đức Phật. Nhân đó, Đức Phật diễn nói thành kinh này, truyền tôi, đệ tử Ngài phải lắng nghe đầy đủ để rộng giảng cho đời sau được hiểu rõ. Đức Thế Tôn dạy tôi phải giữ gìn để kinh pháp được trụ thế dài lâu. Ngài nói kinh Nghĩa Túc này:

Giữ tâm tịnh, không bệnh suy
Tự tịnh, tín, tỏ chân lý
Biết như thế đều được độ,
Muốn đoạn khổ, trừ tập trước
Nhờ tâm tịnh thành phước nhân.
Có tuệ hạnh, niệm lìa khổ
Tận trừ ác, rõ pháp thanh
Đoạn sở kiến thật toàn tịnh
Theo dị đạo, không thể thoát.
Học giữ giới, độ thế nhân
Không nhiễm tội là phước báo
Trừ tất cả, chớ khen thân
Trước đoạn trừ, sau nhớ nghĩ.
Đạt hạnh này, vượt bốn biển
Cứ thẳng tiến đừng lo khổ
Niệm khổ mãi, tâm bị trói
Ý tỉnh giác, trì giới hạnh
Hành tịnh hạnh tưởng khổ hành
Xả niệm ấy liền nhập hạnh.
Không nói kiêu, dùng tuệ quán
Với mọi pháp, không còn nghi
Cả thấy, nghe đều niệm xả
Rõ kiến văn gốc của hành.
Người theo trần bị sáu suy
Không niệm thân, không niệm kính
Cũng không nguyện hạnh chí tịnh
Ân oán xả, không chấp trước
Bỏ dục cầu, không mong ước
Vô sở hữu là Phạm chí.
Thấy nghe pháp, tâm thu nhiếp
Dâm, không dâm, chấp dâm ô
Rời tâm tà, lòng sẽ tịnh.

Đức Phật giảng kinh Nghĩa Túc xong, các vị

Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

5- KINH VUA KÍNH DIỆN

Nghe như vầy:

Đức Phật trú ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc tại nước Xá-vệ. Đến giờ thọ trai, các vị Tỳ- kheo, ôm bát vào thành khất thực. Các vị tự nghĩ và nói với nhau:

–Nay vào thành thì quá sớm, chúng ta nên đến giảng đường của các vị Phạm chí ngoại đạo.

Khi đến nơi, các vị Tỳ-kheo và các chúng Phạm chí chào hỏi nhau rồi đồng ngồi xuống. Lúc đó các vị Phạm chí đang tự tranh luận với nhau, câu chuyện càng lúc càng gay gắt không thể giải quyết được, đến độ họ tức giận, hủy báng nhau:

–Ta biết pháp này, còn ông biết pháp nào? Điều ta hiểu biết hợp với đạo, còn điều ông hiểu biết thì hợp với đạo gì? Pháp ta nói có thể thực hành rất dễ, còn pháp của ông nói khó có thể thực hành được. Điều phải nói trước ông lại nói sau, điều nên nói sau ông lại nói trước. Pháp của ông phần nhiều là sai lầm, chỉ như giao gánh nặng làm người nghe không thể nâng được, bởi vì họ không thể hiểu được nghĩa lý của lời ông nói. Ông chắc biết điểm cao nhất của pháp là vô sở hữu chứ? Ông hiểu thế nào, mau trả lời?

Họ dùng miệng lưỡi như kiếm nhọn để công kích nhau. Người này công kích một lời thì người kia phản ứng lại ba lời. Các vị Tỳ-kheo nghe họ oán trách nhau, người này nói: “Như vậy cũng chưa đúng”; người kia bảo: “Lời ông nói cũng không có bằng chứng”. Các vị đều đứng dậy vào thành Xá-vệ khất thực. Thọ trai xong các Tỳ-kheo, cất bát rồi quay lại khu lâm viên Kỳ-đà, vào đảnh lễ Đức Phật, ngồi qua một bên, trình bày đầy đủ những việc trên cho Đức Phật. Các Tỳ-kheo bạch:

–Chúng con nghĩ các vị học giả Phạm chí ấy tự làm khổ bản thân. Đến khi nào mới được giải thoát?

Đức Phật dạy:

–Chúng Phạm chí này chẳng phải chỉ ngu si một đời thôi đâu. Lâu xa trong quá khứ, ở cõi Diêm-phù-lợi này có một vị vua tên là Kính Diện. Nhà vua truyền lệnh cho sứ thần đi khắp nơi tập trung tất cả những người mù trong nước lại, đưa đến dưới cung điện. Sứ giả theo lệnh vua lập tức đi khắp nơi triệu tập tất cả người mù đưa đến trước điện, rồi tâu lên vua. Nhà vua lệnh cho vị đại thần dẫn bọn họ đến để xem con voi của ngài.

Vị đại thần dẫn họ đến chuồng voi, rồi chỉ cho họ từng bộ phận con voi để họ tự sờ mó. Có người thì sờ chân voi, người sờ đuôi voi, người sờ phần trong của đuôi voi, người sờ bụng voi, người sờ hông voi, lưng voi, tai voi, đầu voi, ngà voi, vòi voi. Sau khi các người mù đã sờ xong, vị đại thần bèn dẫn họ trở về chỗ vua. Nhà vua hỏi tất cả bọn họ:

–Các ngươi đều sờ thấy con voi rồi phải không?

Các người mù thưa:

–Chúng tôi đều thấy. Vua hỏi:

–Nó giống như cái gì?

Có một người trong nhóm sờ trúng chân voi tâu:

–Thần thấy con voi của đức vua giống như cây cột.

Người sờ trúng đuôi voi tâu:

–Nó giống như cây chổi quét nhà.

Người sờ trúng phần trong của đuôi voi tâu:

–Nó giống như cây gậy. Người sờ trúng phần bụng tâu:

–Nó giống cái trống.

Người sờ trúng hông voi tâu:

–Nó giống như vách tường. Người sờ trúng lưng voi tâu:

–Nó như cái bờ cao.

Người sờ trúng lỗ tai voi tâu:

–Nó giống như cái sàng lớn. Người sờ trúng đầu voi thì nói:

–Nó giống như cái cối giã gạo.

Người sờ trúng ngà voi thì nói:

–Nó giống như cái sừng. Người sờ trúng cái vòi thì nói:

–Nó giống như cây lụa.

Họ ở trước đức vua cùng nhau tranh cãi về con voi. Ai cũng cho lời của mình là đúng. Bấy giờ đức vua nói bài kệ:

Nay chúng những người mù
Không thật, cho là thật
Thấy một, bác tất cả
Vì voi mãi oán tranh.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Vua Kính Diện lúc ấy chính là thân của Ta. Còn những người mù lúc đó chính là bọn Phạm chí ở giảng đường đó. Khi xưa bọn họ không có trí tuệ, ngồi tranh luận suông với nhau. Bây giờ bọn họ cũng u tối, tranh cãi suông, không có chút ích lợi nào!

Khi đó Đức Phật muốn pháp nghĩa này được ghi chép đầy đủ trong kinh nên truyền các đệ tử phải hiểu rõ tất cả để soi sáng cho người đời sau, và dạy tôi giữ gìn kinh văn và giáo pháp được trụ thế lâu dài. Ngài nói kinh Nghĩa Túc này:

Tự mình tối, bảo người si ám
Mê lậu mãi, biết bao giờ sáng
Thân vô đạo tự xưng hiểu đạo
Lý luận, không hành, sao giải thoát?
Thường tự tỉnh, được tôn kính

Điều thấy nghe, hành tối thượng.
Bị trói trong năm cõi thế
Tự cho lạ, vượt hơn người
Sống si mê, mong đạt thiện
Học tà đạo, muốn vượt thoát
Nghe điều gì khéo suy tư
Tuy trì giới, chớ cho đủ.
Gặp việc đời đừng cuốn theo
Tâm luôn niệm, không bằng hành
Tu bình đẳng, luôn tôn kính
Chớ nghĩ tưởng: “Không bì kịp”
Tưởng ấy đoạn, sau mới hết.
Đừng khởi ý: “Một mình được”
Không tự nghĩ mình thắng trí
Có kiến thức, nên quán hạnh
Không tìm cầu hai cực đoan.
Cần xa lìa trong sơ niệm
Cũng không trụ ở hai bên
Nên quán pháp, được chánh định,
Ý lãnh thọ các kiến văn
Đừng suy tưởng theo tà niệm.
Tuệ quán pháp để hiểu tâm
Được tâm đó mãi ly trần.
Không tâm đạo, hành pháp nào?
Cầu thật nghĩa nên hành pháp
Chỉ giữ giới, tìm lý chân
Đến bờ kia không thoái chuyển.

Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, tất cả các Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

6- KINH GIÀ TRẺ ĐỀU CHẾT

Nghe như vầy:

Đức Phật ngự dưới cội cây An diên ở ngoại thành nước Sa-tảo. Khi ấy có một người đánh xe rời thành, chưa đến cội cây An diên thì xe bỗng rơi xuống chiếc hố trên đường bị hỏng. Người ấy liền xuống xe, ngồi bên vệ đường, lòng rất buồn lo.

Đức Phật ôm bình bát cùng Tôn giả A-nan vào thành khất thực. Trên đường đi, thấy chiếc xe bị rơi xuống hố hư hại, người chủ xe đang buồn bã, âu lo ngồi bên lề đường, Ngài nói bài kinh Ưu-đàn này:

Như khiển xe trên đường
Bỏ phẳng sa lộ hiểm
Sai đường nên buồn rầu
Bánh xe hư hỏng nặng.
Xa chánh pháp cũng vậy
Ý theo tà hạnh khổ
Ngu chết sinh đọa xứ
Thêm đau đớn, sầu ưu.

Thuyết xong, Đức Phật đi vào thành. Trong thành có một vị Phạm chí mới chết, hưởng thọ một trăm hai mươi tuổi và một cậu con trai nhà trưởng giả bảy tuổi cũng vừa chết. Cả hai gia đình cùng đưa thi hài đi an táng, mọi người đều cầm phướn năm màu, các phụ nữ thương xót xõa hết tóc, họ hàng thân quyến kêu la khóc lóc bi thảm!

Đức Phật thấy thế hỏi ngài A-nan:

–Đám đông kia vì sao tụ hội khóc than, giọng rất bi ai, đau đớn đến như vậy?

Ngài A-nan liền thưa rõ sự việc. Đức Phật nhân duyên này giảng rõ ý nghĩa. Ngài dạy tôi, đệ tử Ngài phải hiểu rõ đầy đủ để kiểm lại kinh này và để soi sáng cho người đời sau. Ngài truyền tôi phải giữ gìn kinh điển và giáo pháp trụ thế lâu dài. Khi ấy, Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc này:

Thân này mạng thật ngắn
Dưới trăm tuổi cũng vong
Dù người vượt bách tuế
Tránh già chết được không?
Khoái ý sinh ưu não
Người đời thường ái ân
Thương, ghét đều ly biệt
Biết rồi không vui trông.

Biển chết cuốn trôi tất cả
Xưa vì tham ái có thân
Dùng tuệ quán suy tường tận
Không bỉ thử, không phân chấp
Xem thế lạc như ảo mộng
Khi thức giấc nào thấy gì
Người đời tham đều như vậy
Thức chuyển diệt, thấy gì đâu
Việc nghe được đều đã mất
Thiện và ác, nay không gặp
Bỏ cuộc đời trú nơi đâu?
Thức rời thể, chỉ còn danh
Chuyển buồn lo thành ganh ghét
Lại chẳng trừ tâm ái tham,
Đoạn niệm ái và tự tôn
Lìa sợ sệt, được an ổn.
Này Tỳ-kheo, chớ quên niệm
Thân vô thường, xa dục nhiễm
Muốn ái dừng, luôn quán tâm
Ý làm chủ không thiền chỉ
Không thiền chỉ vẫn tinh cần
Ái, không ái không phân biệt
Không phân biệt trong buồn lo
Như cánh sen, lòng không nhiễm.
Đã không đắm cũng không mong
Thấy nghe tà, ta không mến
Lại chẳng theo cầu giải thoát
Không niệm dâm nào khởi tham?
Tợ hoa sen, không ái trước
Sinh trong nước, không nhiễm nước
Đạo và đời đều vô nhiễm
Điều thấy nghe như chưa biết.

Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

7- KINH DI-LẶC THƯA HỎI

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ ở vườn Trúc Đa điểu, nước

Vương xá.

Bấy giờ các vị Tỳ-kheo lớn tuổi ở giảng đường ngồi luận bàn các việc trong chúng rồi chuyển sang hỏi pháp nhau. Con của Bậc Long Tượng, tên Xá- lợi-phất cũng ngồi tại đó, nghe các vị ấy bàn luận việc trong chúng, nạn vấn nhau về luật và pháp, nhưng hỏi không đúng theo luật, cũng không có lễ kính.

Hiền giả Đại Câu-tư cũng ngồi trong giảng đường, nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Này Pháp đệ, không nên nghi chấp. Đối với các vị Tỳ-kheo lớn tuổi, đệ có điều nghi gì hãy cứ nói, hãy cung kính kẻ trên trước.

Hiền giả vì Ngài Xá-lợi-phất nói kinh Định Ý: “Như có bậc Hiền giả sống lâu trong đời sống gia đình nay phát tâm ý với đạo, lại ghi nhớ pháp thanh tịnh nên đã cạo bỏ râu tóc, có lòng tin, bỏ việc đời, vận pháp y làm Sa-môn, tu tập tinh tấn, theo chánh bỏ tà, vị ấy do tu tập nên chứng đạt, tự biết đã được độ thoát”. Sau đó Hiền giả Di-lặc đến nơi tịnh tu của Tôn giả Xá-lợi-phất. Ngài Xá-lợi-phất đảnh lễ Tôn giả Di-lặc, rồi ngồi xuống tòa. Ngài Di-lặc liền vấn nạn Tôn giả Xá-lợi-phất theo đúng pháp và luật. Tôn giả Xá-lợi-phất đối với vấn đề đó mờ mịt, không thể trả lời được.

Tôn giả Di-lặc liền đứng dậy ra về. Sau khi vào thành khất thực, độ trai, rửa tay, cất bình bát xong,

Tôn giả trở về chỗ Đức Phật đảnh lễ, ngồi xuống dùng kệ thưa hỏi Đức Phật:

Dâm dục, đắm nữ sắc
Đạo lớn trừ căn si
Nguyện theo Ngài giáo giới
Lìa ác, được hạnh lành.
Ý dâm đắm nữ sắc
Quên lời dạy Thế Tôn
Ngủ nghỉ mất chánh niệm,
Tu hành không thứ lớp
Độc hành cầu lý chân
Sau lại đắm loạn sắc
Đánh xe quên đường chánh
Không xả niệm chánh, tà
Mãi chấp tướng cung kính
Mất hạnh, mất thiện danh,
Thấy đó cần thẩm suy
Xa lìa mọi dâm niệm
Hãy quán sắc tốt xấu
Nếu phạm sẽ về đâu.
Nhờ văn tuệ tự chế
Rời tư tưởng tủi sầu
Thường tu theo trí tuệ
Độc trú không loạn động.
Mê sắc sinh loạn tà
Cô thế, không dũng mãnh
Phá giới lòng sợ lo
Vì nợ ấy mạng yểu.
Đã rơi vào lưới chấp
Liền cất lời miệt khinh
Thấy người phạm tội ác
Chớ để mình vướng vào
Độc trú siêng tu tập
Giữ trí, không tập Si
Viễn ly, ở một mình
Thấy rõ là Thượng hạnh.
Có hạnh, đừng tự kiêu
Lại không cậy Niết-bàn
Trí cao, tu hạnh lớn
Sắc, vô sắc không nhiễm
Khéo nói thoát khỏi khổ
Suốt đời bị dâm hại.

Đức Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

8- KINH PHẠM CHÍ DŨNG TỪ

Một thời Đức Phật trụ ở khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ, an cư ba tháng vừa xong. Bấy giờ ở nước Đọa Sa, các trưởng giả giao trách nhiệm cho chàng Phạm chí tên Dũng Từ đến tranh biện nạn vấn Đức Phật, nếu thắng sẽ thưởng năm trăm đồng tiền. Chàng Phạm chí này cũng trong suốt ba tháng đọc hơn năm trăm câu hỏi khó, trong mỗi câu hỏi còn có sự biến hóa nên tự cho là không ai có thể thắng mình nổi.

Sau ba tháng an cư, Đức Phật cùng các vị Tỳ- kheo muốn đến nước Đọa sa. Ngài du hành thuyết giảng ở các địa phương, từ từ đi dọc theo bờ suối Di-hầu đến điện Cao quán của nước Đọa sa.

Các vị Trưởng giả được nghe tin Đức Phật và chúng Tỳ-kheo đi đến nước mình, lập tức cùng tập hợp hơn năm trăm người, nói với chàng Phạm chí:

–Phật đã đến nước chúng ta, hãy mau đến vấn nạn cho tới cùng.

Chàng Phạm chí liền đi với các vị trưởng giả đến chỗ Đức Phật, cùng nhau chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên. Trong số các trưởng giả, có người đảnh lễ Đức Phật, có người hướng về Đức Phật chắp tay, có người im lặng. Tất cả đều ngồi xuống. Chàng Phạm chí nhìn uy thần Phạm tướng cao tột, tối thượng của Đức Phật, cảm thấy không thể biện luận với Ngài trong lòng lo sợ, không thể nói năng gì được. Đức Phật biết rõ chàng Phạm chí và các vị trưởng giả đã cùng nhau bàn bạc như thế nên nói kinh Nghĩa Túc này:

Tự nói Tịnh pháp tối thượng
Ai có pháp sáng bằng Ta
Chấp kiến thức thấy khoái lạc
Bởi vì mãi học theo tà.
Luôn giữa chúng muốn vượt thắng
Kẻ ngu buông lời trói nhau
Tranh biện, ý quên nghĩa lạc
Lại vấn nạn lời trí tuệ.
Trong chúng hỏi cần hợp nghĩa
Muốn hỏi, nghĩa phải trọn câu.
Giữa chúng, lý cùng sinh hận
Điều khó hiểu, chúng khen hay
Thân tự hành sinh nghi niệm
Tự nghĩ sai, sau sinh hối.
Muốn trừ nghi, quên ý tưởng
Muốn hỏi tà, sai chánh pháp.
Khi cùng lý sinh buồn lo
Ngồi không vui, nằm than thở.
Do học tà, sinh ý loạn
Biện không thắng, sinh hận tâm
Đã biết vậy, cần giữ miệng
Khẩu tranh biện nạn mới sinh
Ý muốn tranh mới có chuyện.
Lời nói lành là ánh sáng
Lời vui đẹp, lòng hỷ hoan
Vì muốn vui, thân tự hại
Kẻ tự cao vướng hạnh tà
Nếu không học, sao tăng tiến?
Bậc có học không cãi suông
Không biện suông được giải thoát.
Nương cậy nhiều cùng đau khổ
Muốn kết bọn gây khó Ta
Đến mạnh mẽ, đi khỏi thẹn
Ai là người ngươi biện tranh!
Tâm còn mê, mong nạn vấn
Ngươi tà vạy, mãi tự nghi
Ngươi trồng hoa, không có quả.
Lời nói ra phải cầu nghĩa
Chuyển tà ngụy, cầu quang minh
Đồng nghĩa pháp, cùng thương tổn
Với pháp thiện dẫu luận tranh
Không ưu sầu quả thiện ác.
Cần đến đây vì nghe pháp
Bỏ ý tranh, suy chân lý
Cùng Đại tướng, quân luận nghị
Như đốm lửa sáng cùng khắp.

Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

9- KINH MA-NHÂN-ĐỀ NỮ

Đức Phật trú tại một địa phương tên Tất-tác- pháp (Kammāsadhamma) thuộc nước Câu-lưu (Kuru). Có vị Phạm chí tên Ma-nhân-đề (Māgandiya), sinh một người con gái, nhan sắc diễm lệ tuyệt trần. Bấy lâu nay, các quốc vương, thái tử và các đại thần, trưởng giả đến cầu hôn, nhưng người cha đều từ chối tất cả. Ông nói:

–Phải gặp người nào được như con gái ta thì ta mới gả cho làm vợ.

Lúc đó Đức Phật ôm bát vào địa phương ấy khất thực. Thọ thực xong, Ngài rửa tay, cất bình bát, ra khỏi thành đến giữa rừng cây, chỗ an nhàn, yên tịnh ngồi nghỉ.

Sau khi ăn xong, Ma-nhân-đề ra ruộng vườn đi dạo. Ngang qua rừng cây, ông bỗng thấy Đức Phật, thân ánh lên sắc hoàng kim, có ba mươi hai tướng tốt, đẹp như mặt trời, mặt trăng, trong lòng ông nghĩ thầm: “Nếu đem con gái của ta so với Bậc Đại Tôn này thì người này có thể sánh với con gái ta”.

Ông vội trở về nhà gọi vợ ra bảo:

–Chắc bà cũng biết, ý nguyện của tôi rồi phải không. Nay tôi đã tìm được một chàng rể còn đẹp hơn con gái của chúng ta nữa.

Người vợ nghe xong cũng rất vui mừng, lập tức lấy các thứ ngọc báu trang điểm cho con gái. Cả hai vợ chồng cùng dẫn con gái ra khỏi thành. Người vợ thấy trên dấu chân của Đức Phật, các đường chỉ hiện rất rõ ràng nên bảo chồng:

–Tôi biết chắc chuyến đi này chỉ uổng công, chúng ta không bao giờ được người con rể này.

Người chồng hỏi:

–Vì sao vậy?

Người vợ nói bài kệ:

Người dâm đi lê gót
Kẻ sân nhón gót đi
Người si gót lê đất
Dấu này, Thầy trời người.

Người chồng bảo:

–Bà thật là người ngu si. Đừng có bàn lui làm khổ con gái chúng ta. Con ta chắc chắn có được chồng.

Nói xong, ông lập tức dẫn con gái đến chỗ Đức Phật, tay trái nắm tay con gái, tay phải cầm bình, bạch Phật:

–Nay vợ chồng tôi đưa con gái đến, mong Ngài nhận nó làm vợ.

Cô gái thấy tướng hình Đức Phật đẹp tuyệt trần, thân có ba mươi hai tướng tốt như ngọc Anh lạc, ngọc Minh nguyệt liền khởi ý tưởng tà dâm, mê đắm Đức Phật.

Đức Phật biết lòng cô ta như lửa cháy nên liền nói kinh Nghĩa Túc này:

Ta xưa gặp ba ma nữ
Còn không khởi niệm tà dâm
Nay sao lại ôm phân tiểu
Chân dẫm còn không thể nào.
Ta thường giảng không dâm dục
Không hành pháp, chẳng nội quán
Dù nghe ác không nhàm chán
Tâm mê loạn khổ không màng.
Thấy vóc đẹp là bọc da
Vì sao Ta lại nhận lấy
Luôn quán dục trong thân tâm
Với trí sáng thuyết si hạnh.
Thấy nghe cũng chưa phải trí
Đủ giới hạnh chưa phải tịnh
Không thấy nghe và không si
Không lìa hạnh mới tự tịnh.
Có tưởng ấy, bỏ chớ nhận
Đừng nên nói, giữ khẩu hạnh
Bỏ năm phiền trong kiến văn
Tuệ, giới, hạnh chớ dâm tịnh,
Thấy thế gian, đừng si ám
Không giới hạnh, sinh tưởng ấy
Có ngã sở, bị tối tăm
Ai thấy thế, được thanh tịnh.
Theo chánh lý là như thế
Giữ chánh ý hướng đạo tâm
Đến được đó, không suy tưởng.
Nay vì sao khinh Thế Tôn
Bằng, trội hơn, hay không bằng
Chấp tưởng ấy liền phân biệt
Không bằng ba, sao tranh cãi.
Đoạn trừ hết chẳng chấp Không
Bậc trí tuệ sẽ nói gì?
Đã đạt Không, ai khởi tranh
Tà và chánh đều không có
Theo cách nào dứt lỗi này?
Bỏ biển dục, đừng tưởng đến
Với gia thế, tu nhẫn, tuệ
Dục đã không, ngừng niệm tưởng
Niệm trần cấu không còn sinh.
Được ly trần, cầu hết khổ
Ta dạy rồi, chớ câu tưởng
Như sen tịnh không nhiễm bùn
Ở trên đất, chẳng nhiễm trần,
Đức Thế Tôn không tham đắm
Với thế tục, không nhiễm trước
Tâm bất động, ý không dời
Hành hóa độ, không phân biệt
Đã trọn xa ba đọa ác
Bỏ, không dạy ba việc đời
Không khởi tưởng niệm hữu, vô
Theo tuệ giải, luôn tinh tấn
Ngăn tưởng kiến, không chấp thủ
Nên tịch lặng dạo ba cõi.

Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

10- KINH DỊ HỌC GIÁC PHI

Nghe như vầy:

Đức Phật trú trong vườn Trúc Đa điểu tại nước Vương xá, được vua, đại thần, trưởng giả và nhân dân đều kính thờ, cúng dường đồ ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc trị bệnh.

Bấy giờ sáu vị Phạm chí được người đời tôn kính là: Bất-lan Ca-diếp, Câu-xá-ma-khước-lợi Tử, Tiên-quỳ Cưu-đọa-la-tri Tử, Khể-xá-kim-pha- lê, La-vị-sa-gia-giá-diên, Ni-yên-nhã-đề Tử. Sáu vị ấy cùng các Phạm chí khác, bàn luận tại giảng đường:

–Chúng ta vốn được người đời tôn kính, được Quốc vương và nhân dân tiếp đãi rất cung kính. Vì sao nay họ lại rời bỏ chúng ta, không còn cung kính nữa? Tất cả đều quay lại vâng theo Sa-môn Cù- đàm và các đệ tử của ông ta? Suy nghĩ kỹ thì người con dòng họ Thích ấy, tuổi còn nhỏ, học đạo lại chưa bao lâu, làm sao hơn chúng ta được? Chúng ta phải thử đạo lực với ông ta mới biết ai thắng ai bại. Giả sử Cù-đàm biến hóa một, chúng ta sẽ biến hóa hai; Cù-đàm biến mười sáu, chúng ta sẽ biến thành ba mươi hai, cứ gấp bội lần như vậy.

Họ liền nhờ một vị đại thần thân cận của vua Tần-sa hứa sẽ hậu tạ nếu ông ta tâu lên vua với ý nguyện thi đạo lực biến hóa mà họ đã cùng nhau bàn luận. Vị đại thần tâu trình lên nhà vua lời kiến nghị ấy. Đức vua nghe xong hết sức tức giận. Vị đại thần nhiều lần can gián vua xong, vội trở về phủ.

Các Phạm chí bỗng nhiên lại thấy chỉ một mình Đức Phật được sự kính ngưỡng đặc biệt, liền kéo tới trước cửa hoàng cung, dâng thơ lên nói rõ ý nguyện thi đạo lực. Nhà vua vừa nghe đến sáu vị ấy lập tức nổi giận, mắng chửi thậm tệ.

Đức vua đã thấy chân lý, tự thân được chứng đắc nên không bao giờ còn tin việc làm của các vị Dị học (Phạm chí) liền ra lệnh cho quan cận thần:

–Hãy mau đuổi các Phạm chí này ra khỏi lãnh thổ của ta.

Các Phạm chí bị trục xuất, cùng nhau đến nước Xá-vệ. Sau khi giảng dạy tại nước Vương xá xong, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đi đến các địa phương khác và lần hồi về đến tinh xá Kỳ hoàn thuộc nước Xá-vệ.

Các Phạm chí không thể nhẫn nhục được khi nhìn thấy Đức Phật được cung kính đặc biệt như vậy, nên tập họp sáu vị lãnh tụ tôn giáo cùng các vị Dị học tới vua Ba-tư-nặc tâu rõ ý nguyện thi đạo lực của họ. Nhà vua vừa nghe xong liền cho đánh xe đến chỗ Đức Phật. Sau khi cúi đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật, vua ngồi một bên, chắp tay thỉnh cầu:

–Đức độ và đạo lực của Đức Thế Tôn thật vô cùng vi diệu, xin Ngài hiện bày đạo lực làm cho người chưa được thấy nghe sinh tín tâm, người đã được thấy nghe càng thêm thông suốt tỏ tường và khiến cho các dị học ngoại đạo chẳng xuyên tạc được.

Đức Phật bảo nhà vua:

–Sau bảy ngày nữa, Ta sẽ thị hiện thần biến. Vua nghe thế rất vui mừng, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi ra về. Đến ngày thứ bảy nhà vua truyền làm mười vạn sàng tọa cho Đức Phật, đồng thời cũng làm mười vạn giường ngồi cho chúng Dị học ngoại đạo.

Người dân trong thành Xá-vệ tất cả đều bỏ thành trống không, cùng nhau kéo ra xem Đức Phật hiển bày sức thần oai. Đúng giờ thi đấu, các Phạm chí, mỗi người đều ngồi vào tòa ngồi của mình. Nhà vua đứng dậy bạch Đức Phật:

–Xin Đức Thế Tôn ngồi vào tòa, hiển bày đạo lực.

Bấy giờ vị đại quỉ tướng quân Ban Thức vừa đến đảnh lễ Đức Phật, nghe các Phạm chí muốn thi đấu đạo lực với Đức Phật liền làm một trận cuồng phong mưa lớn, thổi vào chỗ của các Phạm chí, và tuôn mưa tuyết phủ lên các Phạm chí, có người bị tuyết phủ tới gối, có người tới ngực.

Đức Phật liền hiện bày đạo lực, làm cho ngay giữa tòa ngồi của Ngài lửa bốc lên, hơi nóng lan ra tám phương. Chúng Phạm chí nhóm ông Bất-lan… thấy tòa ngồi của Đức Phật bốc lửa như thế đều vui mừng tự nghĩ chính là đạo lực của họ đã làm ra lửa cháy. Đức Phật hiển bày đạo lực xong, ngọn lửa cũng tắt lịm. Các Phạm chí khi đó mới biết chẳng phải việc ấy do thần lực của họ làm ra, trong lòng liền buồn rầu, có ý hối hận.

Đức Phật đứng dậy rời tòa Sư tử. Trong chúng hội có một vị Thanh tín nữ, có thần túc, đứng dậy chắp tay bạch Đức Phật:

–Đức Thế Tôn không cần phải nhọc lòng, con muốn cùng các vị Dị học này thi hiện hóa thần lực.

Đức Phật bảo:

–Không nên! Hãy ngồi xuống tòa, để tự Ta hiện thần túc.

Con gái của vị Thanh tín sĩ nghèo khó Tu-đạt tên Chuyên Hoa Sắc đã xuất gia làm Sa-di, cùng với Mục-kiền-lan, cùng đi tới bạch Đức Phật:

–Đức Thế Tôn không cần phải nhọc sức thần, nay chúng con xin cùng thi đạo lực với ngoại đạo.

Đức Phật bảo:

–Không cần thiết! Hãy trở về chỗ ngồi, để Ta tự hiện thần túc.

Ý của Đức Phật muốn khiến cho mọi người đều được phước an ổn, xót thương tất cả trời người, muốn họ đều được giải thoát. Ngài hàng phục các Phạm chí cũng muốn vì người học đạo trong tương lai nên hiển bày tuệ lực làm cho đạo Phật được tồn tại lâu dài ở đời vị lai. Khi ấy Đức Phật hiển bày các sức thần túc lớn biến hiện, từ tòa Sư tử bay lên đến phương Đông, trên hư không đi đứng, ngồi, nằm nghiêng về phía hông bên phải, nhập Hỏa định thần túc phóng ra ánh sáng năm màu, làm cho mọi vật đều thành nhiều màu sắc. Dưới thân hiện ra lửa, trên thân nước phun ra, rồi thân trên hiện ra lửa, thân dưới phun nước. Ngài biến mất ở phương Đông qua phương Nam, biến mất ở phương Nam qua phương Tây, biến mất ở phương Tây qua phương Bắc. Ở mỗi phương, Ngài đều trụ trên hư không hiển bày đạo lực như đã nói ở trên. Ngài ngồi trên không trung, hai vai đều hiện một trăm hoa sen, trên đầu hiện một ngàn hoa sen, trên mỗi hoa sen đều có Đức Phật ngồi thiền, hào quang chiếu khắp mười phương. Các vị trời cũng ở trên hư không rải hoa lên Đức Phật, đều nói:

–Lành thay! Oai thần của Đức Phật làm chấn động cả mười phương.

Đức Phật thu sức thần túc, trở về tòa Sư tử. Các Phạm chí khi đó im lặng chẳng nói được lời nào; tất cả đều cúi đầu, như loài chim Cừu đang ngủ. Khi ấy Trì-hòa-di-thiết bay lên hư không hiện lửa khói ùn ùn rất dễ sợ, nhưng chỉ khiến cho các Phạm chí thấy. Bọn họ lập tức kinh hoàng, sợ hãi tột cùng, toàn thân run lập cập, y phục xốc xếch, lông dựng đứng, mỗi người đều bỏ chạy hết.

Đức Phật giảng rộng kinh pháp cho hai chúng nghe. Ngài dạy về bố thí, trì giới là con đường thiện đưa đến Thiên giới, giảng rõ ái dục chỉ gây tạo khổ đau, nói về tai hại của ái dục đưa đến sự đau khổ không bền chắc. Đức Phật dùng tuệ quán biết tâm ý mọi người đã được an trụ, nhu nhuyến không thoái chuyển nên vì chúng nói pháp Tứ đế.

Trong chúng hội, có người phát tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng; có người quỳ thẳng; có người cầu thọ giới; có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người được quả Tư-đà-hàm, có người được quả A-la-hán.

Khi đó mọi người đều sinh ý niệm nghi ngờ: “Vì sao các vị này đã rời đời sống gia đình, xuất gia. Lại còn tranh luận thi thố.”

Đức Phật biết ý nghi của mọi người, liền hóa thành một Đức Hóa Phật đứng trang nghiêm phía trước, có ba mươi hai tướng tốt, vận pháp y, chư đệ tử của Ngài cũng hóa ra các hóa nhân. Khi Hóa thân Phật nói thì các hóa đệ tử cũng nói. Khi Đức Phật nói thì Hóa thân Phật im lặng. Khi Hóa thân Phật nói thì các Đức Phật im lặng. Vì sao vậy? Vì Bậc Chánh Giác muốn trực tiếp độ cho tâm ý của chúng hội quay về chánh thiện. Khi ấy Đức Hóa Phật liền quỳ gối phải dưới đất, chắp tay hướng về Đức Phật, đọc bài kệ hỏi:

Luận tranh từ đâu sinh khởi
Làm lo buồn rồi ghét ganh
Vọng ngữ chuyển thành hủy báng
Từ đâu có, xin Phật dạy?
Tự ái thân nên tụng đấu
Rồi ganh ghét thành khổ sầu
Hủy báng nhau nên vọng ngữ
Gốc tranh tụng do hủy báng.
Ái nhiễm đời từ đâu có
Rời thế gian, sao lại tham?
Đã xuất gia không còn dục
Từ không dục lại chuyển tham.
Do sở dục đắm thế gian
Vì muốn lợi nên chịu khổ
Hữu không bỏ liền khởi tranh
Theo đó chuyển, hữu không còn.
Theo thế dục, gốc vì đâu
Từ đâu lại phân thiện, ác
Từ nơi đâu khởi bổn mạt?
Pháp Sa-môn Phật đã thuyết
Đời vừa vui, vừa không vui
Theo duyên này dục sinh khởi.
Mắt đắm sắc do đâu hết
Khiến thế nhân đều phân biệt?
Do khinh khi khởi nghi ngờ
Cũng một pháp hiểu thành hai.
Từ niệm nào học chân lý
Cầu hiểu rõ mọi học thuyết?
Vui, không vui gốc từ đâu
Không thân cận từ đâu diệt?
Thịnh và giảm, một nghĩa lý
Mong thuyết giảng, rõ nguồn căn.
Hỷ, không hỷ đều đắm xúc
Việc qua rồi không sở hữu
Từ nghĩa đó có thịnh, suy
Thông như thế tranh dục dứt.
Xúc cảm trần, gốc từ đâu
Đắm sắc trần, do đâu khởi?
Do niệm nào không nhiễm trước
Nhân duyên gì mê đắm sắc
Theo danh sắc mê cảm xúc
Vì có hữu, sắc khởi ngay
Vượt si mê liền giải thoát
Duyên theo sắc, xúc liền sinh.
Nương vào đâu bỏ hảo sắc?
Chạy theo ái bởi vì đâu?
Tâm chấp trước cần diệt hết
Tuệ quán hành, tâm giải thoát
Ngừng niệm tưởng, không sắc tưởng
Chẳng tưởng vô, chẳng tưởng hành
Đoạn trừ hết không đắm trước
Do tưởng lạc nên có khổ.
Điều con hỏi thảy đều thông
Nay lại hỏi, xin dạy tiếp:
Hóa hiện thân đều cụ túc
Không một ai hơn Thế Tôn
Trong cực chánh gì tà?

Nương Thánh pháp được tuệ quả
Ta nhập định giữa rừng già
Trí vô dư thuyết thắng pháp
Được như thế do nhất tâm.
Ta vì chúng không giới hạnh
Mau đến hỏi, sẽ vượt trần
Đoạn thế nhiễm, bỏ dục thân.

Phật nói kinh Nghĩa Túc xong, các vị Tỳ-kheo đều hoan hỷ

QUYỂN HẠ

2- KINH PHẠM CHÍ MÃNH QUÁN

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ dưới một cội cây tại thành Ca- duy-la-vệ thuộc vương thổ họ Thích cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo đều là bậc A-la-hán, đã cất gánh nặng xuống, văn nghĩa đều thông suốt, không còn phải thọ thân sau.

Bấy giờ từ mười phương thế giới, các vị trời có sức thần diệu cùng vân tập xuống, đến chỗ Đức Phật mong được diện kiến Đức Thế Tôn và chư vị Tỳ-kheo Tăng. Bốn vị Phạm thiên vương cùng bảo với Thiên chúng:

–Các vị Sơ học nên biết, Đức Phật đang trụ dưới một cội cây tại thành Ca-duy-la-vệ thuộc vương thổ dòng họ Thích cùng với năm trăm vị A- la-hán và có cả các vị trời có sức thần diệu ở mười phương thế giới cùng đến để lễ Phật, muốn được chiêm ngưỡng uy thần của Đức Thế Tôn và chư vị Tỳ-kheo. Nay sao ta lại không đến đó để chiêm ngưỡng uy thần của Ngài.

Bốn vị Thiên vương liền cùng Thiên chúng ở cõi trời thứ bảy bay xuống, trong khoảng thời gian một người co duỗi cánh tay đã đến gần bên cạnh Đức Thế Tôn. Tất cả các vị trời đều đến đảnh lễ Đức Phật và chư Tỳ-kheo, rồi mỗi vị đều ngồi xuống. Vị Phạm thiên vương thứ nhất ngồi trên tòa nói kệ: kệ:

Nay hội lớn ở giữa rừng
Chư Thiên chiêm bái Thế Tôn
Con nay đến để nghe pháp
Và mong gặp chúng Ứng chân.

Vị Phạm thiên thứ hai cũng ngồi trên tòa nói:

Học chúng này nên nhiếp ý
Học và hành theo chánh hạnh
Như xa phu khéo giữ cương
Phòng hộ mắt, tâm tỉnh giác.

Vị Phạm thiên thứ ba ngồi trên tòa nói kệ:

Tận lực đoạn bảy niệm tà
Tâm định tĩnh như gang sắt
Ý quán tịnh, xả cấu trần
Tuệ nhãn sàng, tâm thông suốt.

Vị Phạm thiên thứ tư ngồi trên tòa nói kệ:

Dốc lòng quy mạng Thế Tôn
Chết không sinh theo tà ám
Xả thân người sau chuyển sinh
Được thân trời lìa tai hoạn.

Lúc đó, có một vị Phạm chí tên Mãnh Quán ngồi một chỗ trong đại chúng sinh tâm nghi các lời ấy. Đức Phật biết ý niệm nghi ngờ của Phạm chí Mãnh Quán nên hiện ra một Đức Hóa Phật, dung tướng đẹp đẽ tuyệt trần, mọi người thấy qua đều hoan hỷ. Ngài có ba mươi hai tướng của Bậc Đại Nhân, thân tỏa ra ánh sáng màu hoàng kim, vận Đại y, trên y cũng tỏa ánh sáng như thế. Đức Phật Hóa thân hướng về Đức Phật chắp tay nói kệ khen:

Ai mong hiểu việc, cần biết
Muốn Thắng Tuệ nên tự thuyết
Người nắm rõ được pháp này
Cầu chánh hạnh, đừng hiểu sai.
Chấp như vầy sinh tranh cãi
Cho người mê, ta tuệ sáng
Bình đẳng thuyết lời thật tâm
Tất cả là lời thiện thuyết.
Không hiểu rõ pháp Hữu, Vô
Mê, vô tuệ, không trí sáng
Đều khổ, mê, xa tuệ rạng
Các niệm tâm đều u ám.
Bỏ niệm chấp, hành theo đó
Tuệ được tịnh, ý thiện lành,
Lầm chấp đó, tuệ suy giảm
Mọi chấp trước cần lắng tịnh.
Không chấp ngã là tối thắng
Chuyển tâm si, không bị buộc
Điều tự thấy cho chánh chân
Thân tự si, thêm ngã chấp,
Tự nói pháp độ vô cùng
Tự thân không, tham trộm lấy
Tám niệm si mãi chuyển xoay
Học điều gì cũng vô lý.
Tuệ quán suốt hữu và vô
Rõ chân lý không ngược đổi
Theo tư ý, chưa đạt lý
Nên học mãi vẫn lặng câm.
“Đạt không nói là pháp gì?”
“Ai là bậc thuyết lý chân?”
“Cần theo gì đạt viên lý?”
“Từ đâu khởi ý thức sinh?”
“Tâm chưa thoát sao nói thoát?”
Từ dị tưởng khởi phân suy
Mắt thấy cảnh liền bị trói
Thức dối lừa chấp thành hai.
Nghe, thấy chỉ bởi ý hành
Đắm dục, thức tạo tranh chấp
“Ngưng thẩm suy phải quán gì?”
Do si ấy càng chấp thủ.
“Đã si mê sao thuyết lý?
Người thuyết lý nên tuệ rạng”
Ta cũng tự thuyết thiện pháp”
Tranh công người oán liền sinh.
Mãi tà kiến theo lầm thầy
Trí tà ác luôn lôi kéo
Thường phỉ báng không ngừng nghỉ:
“Ta trì giới luôn quang minh.”
Thấy chân lý, tà không thẹn
Có tự thẹn, trí sáng hiện.
Mọi chấp trí do phân biệt
Lòng si mê không trí hạnh:
“Ta theo đế nên tuyên thuyết
Khiến mọi người tự tịnh pháp.”
Chấp theo đó bị loạn tâm
Do niệm ấy khổ, ô nhiễm
Theo dị hành được hiểu tịnh
Tuy như thế không toàn thịnh.
Chúng dị học nghe ngồi an
Lòng tham, ngã thêm kiên cố
Tự ngã nặng nên phòng tham
Có si mê, nào được thuyết.
Tùy lời thuyết chưa tịnh thanh
Nhưng độ người thành pháp diệu
Đạt lý rồi giảng tự tại
Dù cõi trần đầy loạn suy
Rời tất cả không khởi niệm
Không diệu ngữ vẫn tuyên thuyết.

Phật nói kinh Nghĩa Túc này xong, các Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

3- KINH PHẠM CHÍ PHÁP QUÁN

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ dưới một cội cây tại thành Ca- duy-la-vệ, vương thổ dòng họ Thích cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo đều đã đạt quả Ứng chân, đã đặt gánh nặng xuống, theo nghĩa tự chứng, không còn tái sinh.

Khi ấy các vị trời có sức thần diệu ở mười phương thế giới đến lễ Phật muốn xem đức độ của Thế Tôn và chư Tỳ-kheo Tăng. Bốn vị Thiên vương ở tầng trời thứ bảy cùng bảo các Thiên chúng:

–Học chúng nên biết, Đức Phật đang trụ dưới một cội cây tại thành Ca-duy-la-vệ, vương thổ dòng họ Thích cùng năm trăm vị Chân nhân, và có cả các vị trời có sức thần diệu ở mười phương thế giới đều đến lễ Phật, muốn xem uy thần của Đức Thế Tôn và chư Tỳ-kheo. Chúng ta nay sao không đến để xem uy thần của Ngài.

Bốn vị Thiên vương liền cùng Thiên chúng ở tầng trời thứ bảy bay xuống, trong khoảng thời gian một người co duỗi cánh tay đã đến bên cạnh chỗ Đức Phật. Các vị cùng tới lễ Phật và các vị Tỳ- kheo Tăng rồi mỗi người ngồi trên tòa của mình. Vị Phạm thiên thứ nhất ngồi trên tòa nói kệ:

Nay hội lớn ở giữa rừng
Chư Thiên chiêm bái Thế Tôn
Con cũng đến để nghe pháp
Và mong gặp chúng Ứng chân.

Vị Phạm thiên thứ hai ngồi trên tòa nói kệ:

Học chúng này nên nhiếp ý
Học và hành theo chánh hạnh
Như xa phu khéo giữ cương
Phòng hộ mắt, tâm tỉnh giác.

Vị Phạm thiên thứ ba ngồi trên tòa nói kệ:

Tận lực đoạn bảy niệm tà
Tâm định tĩnh như gang sắt
Ý quán tịnh, xả cấu trần
Được tuệ nhãn, tâm thông suốt.

Vị Phạm thiên thứ tư ngồi trên tòa nói kệ:

Dốc lòng quy mạng Thế Tôn
Chết không sinh theo tà ám
Xả thân người sau chuyển sinh
Được thân trời lìa tai hoạn.

Trong chúng hội lúc đó, có một Phạm chí tên Pháp Quán cũng ở trong đại chúng suy nghĩ việc đó, thấy bậc đã giải thoát nơi Nê-hoàn mà còn có thân thể nên sinh ý nghi ngờ. Phật biết Phạm chí Pháp Quán sinh niệm nghi nên hiện ra một Đức Hóa Phật, dung tướng đẹp đẽ tuyệt trần, mọi người xem qua đều hoan hỷ, có ba mươi hai tướng của Bậc Đại Nhân, thân tỏa ra ánh sáng màu hoàng kim, vận Đại y, trên y cũng tỏa ánh sáng như thế. Đức Hóa Phật hướng về Đức Phật chắp tay, nói kệ khen:

Theo nhân duyên hiện có nói
Như đã đạt đến điều thiện
Niệm ta, người cũng nhẹ qua
Hay cũng trú trong duyên thiện.
Không tự tri nên xấu hổ
Do tranh biện nói thành hai
Biết như thế nên xả bỏ.
Quán nguyện yên, không loạn xứ
Mọi việc bình như đất phẳng
Chưa tỏ phân nên đẳng tâm
Theo điều gì sinh phân biệt?
Điều nghe thấy chớ tác tưởng
Nương đắm chúng khởi ác tâm
Chỉ hướng niệm theo nghe, thấy
Cả hai tịnh, ai tỏ sáng?
Chưa trừ ái, thân hoàn thân
Vì chấp giới phạm thanh tịnh
Quán và hành cùng thông suốt
Theo đó tu nên niệm tịnh.
Cần sợ trần nương thiện thuyết
Lìa chân lý cầu tu tập
Tất cả tội do duyên ấy
Theo đúng lời, siêng cầu tịnh.
Vì quên nghĩa, khổ luân hồi
Nổ lực cầu cũng không nói
Theo mắt hành và tư duy
Trầm sinh tử cũng từ đấy.
Tuệ như thật, thuyết như thật
Giới hạnh đó đều xả bỏ
Tội hay phước cũng xa lìa
Tịnh, bất tịnh không niệm tưởng,
Không nhiễm ô, không chấp tịnh
Tu pháp đó vượt thế trần.

Nói không hành vì khinh thị
Niệm như thế liền biến tâm
Tà lợi trần đều hoặc nhiễm.
Vì chấp ấy nên tự xưng
Thấy thiện pháp là dục cấu
Tâm phân biệt chuyển tương tranh
Tự thân hành không ô nhiễm
Với lời thế đều không ngại
Với các pháp không sở hữu.
Người không tuệ thuyết pháp tịnh
Mãi bị trói tâm cố chấp.
Chư Thế Tôn hành vắng lặng
Trí vô sư thuyết chân pháp
Không pháp hành chỉ tự thuyết
Vì nhất tâm nên đều tịnh.
Nói pháp ấy, cũng phê bình
Vì sở kiến đọa chấp tịnh
Tự thân chịu oán niệm khởi.
Trí muốn thắng nói lời kiêu
Cần giải thoát điều chấp trước
Không nương tựa, niệm bất tín
Nguồn cội ấy do ham nói.
Chấp tịnh hạnh, niệm chưa trừ
Quán thế trần theo danh sắc
Lấy trí đó mà lãnh thọ
Bị dục nhiễm, ngã tướng sinh.
Chẳng chịu theo pháp thiện tịnh
Có tuệ hạnh, đắm Hữu vô
Lòng biết chánh vẫn thủ chấp
Thấy vô nhiễm là pháp hành.
Vượt tưởng loạn không thọ lãnh
Tuệ ý giải, đến vô sinh
Không phân biệt theo thức trần
Phòng chấp trước như cửa đóng
Chỉ hành quán, không thủ chấp.
Thế tôn đoạn tâm luyến trần
Mọi niệm tưởng đều không vương
Tịnh với loạn đều xả niệm.
Mọi suy hoại của phàm phu
Bỏ thành cũ không xây mới
Không có dục sao đắm trước?
Thoát tà tín vượt dũng mãnh
Đã giải thích thế, phi thế
Với vạn pháp không còn nghi
Với sở tri, nào niệm tưởng?
Buông gánh nặng thành Chánh Giác
Không lỗi nguyện luôn an trụ.

Phật nói kinh Nghĩa Túc này xong, các Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

4- KINH PHẠM CHÍ ĐÂU-LẶC

Nghe như vầy:

Đức Phật trụ tại Lê sơn, nước Vương xá. Khi ấy bảy vị quỉ tướng quân cùng với quỉ tướng quân Quyết-ma-việt hẹn ước: vùng cai trị của vị nào sinh ra báu vật phải thông báo cho nhau biết. Trong cái ao thuộc vùng cai trị của quỉ tướng quân Quyết- ma-việt sinh ra một hoa sen ngàn cánh, cọng lớn như bánh xe đều có màu hoàng kim. Quỉ tướng quân Quyết-ma-việt dẫn năm trăm con quỉ đến chỗ bảy vị quỉ tướng quân kia bảo:

–Hiền giả nên biết, trong chiếc ao do tôi cai quản đã sinh một hoa sen ngàn cánh, riêng cọng của nó đã lớn như bánh xe, đều có màu hoàng kim.

Bảy vị quỉ tướng quân liền báo:

–Hiền giả cũng nên biết chỗ của tôi cai quản cũng xuất hiện điều thần diệu quý báu là Đức Như Lai Chánh Giác đi độ khắp ba cõi. Lời Ngài dạy đều làm cho người thế gian được an ổn, sinh pháp lạc vô thượng kiên cố vô song. Điều quý giá xuất hiện ở chúng tôi nào như bảo vật của Hiền giả. Vào ngày mười lăm trong tháng, Ngài thuyết giới giải tội.

Quỉ tướng quân Quyết-ma-việt bảo với bảy vị kia:

Nay mười lăm ngày tịnh
Đêm sáng như vầng dương
Cầu Phật kiếm phương nào
Không tỏ nơi Ngài trụ.
Phật nay trụ Vương xá
Truyền dạy Ma-đề-nhân
Người nghe đều dứt khổ
Thấy rõ pháp thế gian
Từ khổ lại sinh khổ
Đoạn rồi, khổ không sinh
Nghe Bát chánh đạo rồi
Ưa muốn pháp canh lộ.
Nay cùng đến lễ lạy
Bậc ta hằng tôn kính.
Khởi ý đi cầu học
Nhưng niệm Hữu không dừng
Nếu còn yêu và ghét
Hữu niệm liền khởi theo.
Khi đứng đi chánh niệm
Ý lặng không sở hữu
Niệm yêu, ghét không còn
Niệm Không chẳng lôi cuốn,
Chẳng nên vướng niệm tham
Não hại không y cứ
Bỏ niệm Hữu, hạnh chân
Liệt tuệ không đắm trước.
Bỏ tham không thủ giữ
Thương, buồn, tâm nhu động
Đoạn niệm không đắm tà
Biết khổ gần làm chi?
Nên giữ miệng không dối
Không ganh, đừng ác ngôn
Chánh ngữ không gièm pha
Không nghĩ lời tranh đấu
Giữ miệng tâm chớ xảo
Chẳng ganh, nói lời ác
Giữ hạnh sao thêu dệt?
Không có sao loạn tâm?
Nếu không nhiễm dục ác
Ý sẽ tịnh không dơ
Mọi chấp trước trừ hết
Với pháp nên thẩm suy
Ắt đến được tỉnh giác.
Sở hành đều đã tịnh
Đoạn trừ hết không đắm
Nên không còn thai sinh
Thấy chân lý ba đời
Sở hành tịnh không cấu
Thành tựu mọi pháp hành
Trừ pháp định tự tại,
Thế Tôn, đức toàn thiện
Thân, khẩu đều an tĩnh
Phật trụ định trong rừng
Hãy cùng đến chiêm lễ.
La-hán Lộc Tồn Trường
Ăn ít diệt tà tham
Mau đến hỏi pháp độ
Do đâu diệt thoát khổ?
Chiêm ngưỡng Đức Như lai
Sợ hãi đều không còn
Cúi đầu đảnh lễ Phật.

Bảy vị tướng quân quỉ và Quyết-ma-việt, sau đó mỗi vị có năm trăm quỉ hợp làm Thiên chúng, cùng đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ Phật xong đứng một bên. Quyết-ma-việt quỉ tướng quân bèn bạch Phật:

La-hán Lộc Tồn Trường
Ăn ít tu đẳng tâm
Thế Tôn định trong rừng
Chúng con xin thưa hỏi:
Khổ kia từ đâu diệt
Làm thế nào thoát khổ?
Bày nghĩa đoạn nghi vấn
Làm sao thoát, không khổ
Khiến diệt trừ khổ đau
Làm dứt đi đau khổ?
Lời diệu giải nghi ngờ
Theo nghĩa không còn khổ.
Ai tạo tác đời này,
Ai tạo tác vướng mắc,
Ai tạo sở hữu đời
Ai tạo làm đời khổ?
Sáu tạo tác đời này
Sáu tạo thành vướng mắc

Sáu tạo thành sở hữu đời

Sáu tạo làm đời khổ.
Đời này ai được độ
Đêm ngày trọn không nghỉ
Chẳng vướng cũng chẳng mắc?
Vực sâu ai chẳng chìm?
Tất cả theo thọ trì
Hành theo tuệ nghĩ tưởng
Lòng niệm theo ý thức
Là đức vượt bờ kia.
Lìa xa dục tưởng đời
Gặp sắc cũng chẳng màng
Chẳng vướng cũng chẳng mắc
Là chẳng chìm vực sâu.
Từ đâu còn sáu hướng
Làm sao không còn nữa
Ai khổ cũng nghĩ vui
Diệt tận chẳng còn gì?
Sau đó hoàn sáu hướng
Sinh ấy chẳng còn sinh
Danh diệt, dứt vô sắc
Hết tận còn lại gì
Vui mừng bước qua đường.
Bảy vị Đại tướng quân
Hiểu nên báo ân sâu
Đức Phật hiện khai đạo
Pháp thí là vô thượng.
Nay ma họp ngàn chúng
Đều chắp tay đứng yên
Tất cả tự quy mạng
Với Thế Tôn Đại Sư.
Nay tỏ lời cáo biệt
Thảy về trông việc nước
Đều lễ Bậc Chánh Giác
Niệm pháp nương pháp Phật.

Bấy giờ giữa tòa có vị Phạm chí tên Đâu-lặc, cũng ở trong chúng, nhân lúc ấy bèn khởi ý với Bậc Tịch diệt Giải thoát, sinh lòng nghi ngờ. Phật biết Đâu-lặc có ý sinh nghi ngờ, bèn hóa ra Đức Phật hình dung đoan chánh đẹp vô cùng, người trông thấy không ai là chẳng vui. Hình thể vượt hẳn chư Thiên, thân có ba mươi hai tướng Đại nhân, sắc vàng tía, mặc y đại pháp. Đệ tử cũng là hóa nhân. Hóa nhân vừa nói, đệ tử cũng nói. Đệ tử vừa nói, hóa nhân cũng nói. Hóa nhân do Phật tạo ra. Hóa nhân nói thì Phật im lặng. Phật nói năng thì hóa nhân im lặng. Vì sao? Vì để chế phục mọi niệm. Hóa Phật bèn vén y bày vai phải, chắp tay dùng kệ tán thán:

Nguyện xin hỏi Đấng Hiền Thần
Xa lìa tịch tĩnh rất vui
Từ đâu học được diệt tận
Đều chẳng thọ sở hữu đời?
Do đa dục nên ngã hiện
Cứ nương theo tất phải loạn
Ấy là ái dục bên trong
Làm biến hoại đi giác thức.
Chẳng dùng thì liền tự thấy
Chi bằng giảm trừ các thứ.
Tuy nghe thính chúng xưng tán.
Chẳng khinh mạn với kẻ khác
Như sở pháp đã được biết
Hoặc bên trong, hoặc bên ngoài
Nẩy xin sức mạnh từ trong
Không chỗ nắm bắt có, không.
Nên tự giữ hạnh cầu diệt.
Chứ theo người học cầu diệt
Lấy ý tự hành đoạn diệt
Cũng chẳng tùy vào nơi nào.
Như ở giữa chỗ biển khơi
Không sóng dâng, rất yên lặng
Hết thảy dừng nghỉ như vậy
Chẳng giác cùng ý với thức.
Nguyện làm con mắt Đại tuệ
Đã chứng pháp lại hiện thấy
Nguyện làm thiện thứ quang nhân
Từ trí định biết các thứ.
Mắt nhiếp nhìn, hai bên khác
Bịt tay lại chẳng đón nghe
Theo vị giới, chẳng tham trước.
Ta chẳng có gì trong đời.

Thân có đây như thô tế
Chẳng nghĩ tưởng khởi sầu tư
Liền khởi sinh nguyện như vậy.
Gặp hãi sợ, tuệ chẳng ngại
Được lương thực và thức ăn
Như chiếc y đang dùng đây
Biết dừng đủ sau chẳng lo,
Theo định đó, chẳng tham thêm
Thường tu định vui trong rừng
Xả là lý không hí phạm
Khi ngồi cũng như lúc nằm.
Chỗ thanh tịnh nỗ lực học
Chẳng tự sợ mất khi ngủ
Việc học hành thường giữ nghiêm
Dứt mê mờ và bỡn cợt.
Muốn đời tốt tất xa lìa
Dứt tổn hại liền rõ mộng
Đừng quán để hiện thiện ác
Đừng hiện tuệ nơi bào thai
Tất chẳng gần gũi với Thiên.
Đừng tạo tác nơi mua bán
Đừng theo đó làm tư lợi
Đừng tham đắm nơi quê nước
Chẳng theo đó cầu dục lợi.
Đừng mừng vui chẳng thành thực
Cũng chẳng nói lời đôi nghĩa
Sở hành tận vì cầu tuệ
Giữ giới chẳng chút xem thường.
Đến kết cùng chẳng sợ hãi
Gặp hiền nhân chẳng lớn lời
Bỏ lòng tham không đố tật
Bỏ hai lời pháp hận bi.
Lòng muốn học lời tham trước
Cũng chẳng buông tiếng thô lậu.
Không xấu hổ, chẳng học đòi
Hành buông xả, chẳng giữ oán
Bày thô ác lời chẳng thiện.
Cùng học đòi như phàm nhân
Khéo ngăn lại chớ theo cùng
Tuệ ứng hiện thân chẳng lỗi.
Theo Như Lai lấy làm chính.
Chẳng buông tâm ý vu vơ
Từ tĩnh lặng biết diệt tận
Chẳng nghi ngờ lời Phật dạy.
Tự trí tuệ pháp chẳng mất
Chứng pháp thấy biết vô số
Thường theo học tuệ Như Lai
Lại chẳng vướng theo tuệ ấy.

Phật giảng kinh Nghĩa Túc này xong, các vị Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

5- KINH LIÊN HOA SẮC TỲ-KHEO-NI

Nghe như vầy:

Phật tại cõi trời Nhẫn lợi sắp mãn ba tháng an cư kiết hạ cây Ba-lợi-chất-đa trổ hoa rất nhiều. Ngài ngồi trên phiến đá nhu nhuyến, muốn thuyết kinh cho mẹ cùng chư Thiên trên cõi trời Đao-lợi. Bấy giờ Thích Thiên vương đến chỗ Phật hành lễ, rồi bạch Phật:

-Nay con nên dùng thời nào để đợi nghinh tiếp Đức Thế Tôn?

Phật bảo Thiên vương:

–Dùng thời Diêm-phù-lợi đợi Ta.

Thiên vương nghe dạy bèn lễ Phật và hoan hỷ lui ra.

Bấy giờ Hiền giả Đại Mục-kiền-liên cũng ở tại Xá-vệ, cũng an cư mùa hạ trong khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc vừa xong. Lúc ấy bốn chúng đều đến chỗ Tôn giả Mục-kiền-liên. Chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, bốn chúng đồng lễ Tôn giả Mục-kiền-liên, rồi đứng sang một bên, cùng hỏi:

–Thưa ngài Mục-kiền-liên, nay ba tháng hạ an cư đã xong, Đức Thế Tôn đang ở tại nơi nào?

Mục-kiền-liên báo cùng bốn chúng:

–Nay Đức Phật đang ở tại cõi trời Đao-lợi. Sắp hết ba tháng hạ, nhớ mẹ mang thai cần khổ nên Ngài còn lưu lại thuyết kinh cho mẹ và chư Thiên cõi trời Đao-lợi, dưới cội cây Ba-lợi-chất-đa, trên phiến đá nhu nhuyễn. Cây ấy cao bốn ngàn, cành lá trải rộng hai ngàn dặm, rễ cây sâu xuống hai trăm lẻ tám ngàn dặm. Chỗ đá ngồi lún sâu xuống bốn tấc, khi bỏ ra thì nó trở lại như cũ.

Ngài Đại Mục-kiền-liên lại rộng vì bốn chúng thuyết kinh pháp, rồi yên lặng. Bốn chúng nghe kinh, hoan hỷ ghi nhớ, đảnh lễ ngài Mục-kiền-liên trở về.

Ba tháng an cư đã xong, bốn chúng lại tập hợp đến chỗ ngài Mục-kiền-liên cúi đầu đảnh lễ xong, ngồi xuống rồi bạch ngài Mục-kiền-liên:

Lành thay! Thưa Hiền giả, bậc có nhiều thần lực ở trong chúng mong làm phiền uy thần đến chỗ Phật, vì người thế gian mà đảnh lễ dưới chân Phật, chuyển lời chúng con bạch Phật: Bốn chúng cõi Diêm-phù-lợi đang khao khát muốn nhìn thấy Thế Tôn. Lành thay! Đức Phật thương tình người thế gian nguyện xuống cõi Diêm-phù-lợi.

Mục-kiền-liên nghe vậy im lặng. Bốn chúng lại được nghe qua giáo pháp và đồng hoan hỷ. Mục- kiền-liên từ biệt. Bốn chúng làm lễ, rồi nhiễu quanh Ngài xong ra về.

Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên bèn dùng định ý, như tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cõi Diêm-phù- lợi biến mất đi đến cõi trời, cách Phật không xa. Bấy giờ Đức Phật ở giữa vô số chư Thiên, ngồi giảng kinh pháp. Mục-kiền-liên bèn khởi tưởng Như Lai đang ở giữa chúng chư Thiên, cách Diêm-phù-lợi như khoảng cánh tay co duỗi. Phật liền biết khởi niệm của ngài Mục-kiền-liên, bèn báo Mục-kiền-liên:

–Không như ở hàng thế gian, quyết đi thì liền đi, muốn đến là liền đến, đến đi là tùy sở niệm của ta.

Mục-kiền-liên bạch Phật:

–Thiên chúng này có nhiều vui thú. Trong chúng chư Thiên có người trước kia một lòng quy y Phật, sau khi thọ mạng tận lại sinh vào cõi Thiên. Hoặc có kẻ quy y Pháp hoặc quy y Tăng, sau khi thọ mạng lại sinh cõi Thiên. Hoặc có kẻ đời trước thanh tâm lạc đạo, sau khi mạng chung lại được sinh Thiên.

Phật bảo:

–Này Mục-kiền-liên, đúng như vậy. Trong cõi trời, những người trước kia có lòng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tâm vui thích đạo, sau khi mạng chung đều sinh lên cõi trời.

Bấy giờ, Đế Thích ngồi bên Phật, lắng nghe lời Phật và Mục-kiền-liên bèn lên tiếng:

–Lời của Hiền giả Mục-kiền-liên nói quả đúng như vậy. Thân đời trước quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng, và tâm thanh tịnh vui thích đạo, đều sinh lên cõi trời.

Khi ấy có tám vạn vị trời đều ngồi phía sau Đế Thích, chư Thiên đều muốn nghe lời Phật và Mục- kiền-liên cùng lời của Thiên vương, bèn nói:

–Hiền giả Mục-kiền-liên, đúng như lời Hiền giả đã nói, có những người đời trước kia thân quy y Tam chánh, tâm thanh tịnh vui thích đạo. Sau khi mạng chung đều sinh cõi trời.

Bấy giờ, tám vạn vị trời có duyên với ngài

Mục-kiền-liên, thảy đều tự thuật đã chứng được quả Câu hạng.

Mục-kiền-liên bèn đến trước đảnh lễ, đầu mặt cuối xuống chân Phật, rồi bạch Phật:

–Bốn chúng ở Diêm-phù-lợi đang khao khát được gặp Phật. Lành thay, nguyện Thế Tôn thương tưởng thế gian mà xuống cõi Diêm-phù-lợi.

Phật bèn bảo ngài Mục-kiền-liên:

–Ông hãy xuống báo với bốn chúng thế gian, sau bảy ngày Phật sẽ từ cõi trời xuống hội An tường ở rừng cây Ưu-đàm.

Mục-kiền-liên vâng nhận lời dạy, bèn làm lễ, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi dùng định ý, trong khoảnh khắc như tráng sĩ co duỗi cánh tay, biến mất nơi cõi trời Đao-lợi, và trụ tại đất Diêm-phù- lợi, báo cùng người thế gian:

–Đức Phật sau bảy ngày sẽ từ cõi trời xuống hội An tường, nơi rừng cây Ưu-đàm.

Phật nơi cõi trời bèn dùng định ý, như lực sĩ co duỗi cánh tay, trong khoảnh khắc, từ trời Đao-lợi lên đến cõi Diêm thiên, thuyết giảng kinh cho chư Thiên. Rồi rời cõi Diêm thiên đến Đâu-thuật thiên, lại rời Đâu-thuật thiên đến Bất kiêu lạc thiên, Hóa ứng thanh thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Đại phạm thiên, Thủy hành vi thiên, Vô lượng thủy thiện, Thủy âm thiên, Ước tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Tịnh minh thiên, Thủ diệu thiên,

Huyền diệu thiên, Phước đức thiên, Đức thuần thiên, Cận tế thiên, Khoái kiến thiên, Vô kết ái thiên, đều thuyết giảng kinh, khiến tất cả đều hoan hỷ.

Sau đó, Phật lại từ cõi Sắc thiên xuống trụ tại Tu đại thí thiên. Từ trên xuống tất cả là hai mươi bốn cõi trời. Đến trụ tại cõi trời thứ ba, xong lại dừng trên cõi Hữu sắc thiên, lại xuống Hữu dục thiên, đến trụ trên đỉnh Tu-di ở cõi trời thứ hai. Bấy giờ có vị Thiên tử theo giáo ý Xiêm Bị vương bèn hóa làm ba bệ: Một là bệ vàng, hai là bạc, ba là lưu ly. Phật từ đỉnh Tu-di bước xuống bệ lưu ly dừng lại. Phạm thiên vương cùng các vị trời ở cõi Hữu sắc thiên đều theo bên phải, Phật trụ ở thềm vàng. Thiên vương Đế Thích cùng các chư Thiên Hữu dục theo bên trái Phật, trụ tại thềm bạc. Đức Phật cùng vô số chư Thiên cõi trời Hữu sắc Đế Thích, vô số chư Thiên cõi trời Hữu dục cùng nhau xuống Hội An tường ở cõi Diêm-phù-lợi, bên rừng cây Ưu-đàm. Điều này khiến cho vô số nhân dân đến dự hội muốn thấy được Phật, muốn nghe pháp.

Lúc bấy giờ, Liên Hoa Sắc Tỳ-kheo-ni hóa mặc trang phục Kim luân vương mở ra lối đi bảy báu, cùng các binh lực sĩ bay mau đến Phật. Các đại chúng nhân dân cùng trưởng giả, Đế vương từ xa thấy Kim luân vương đáp xuống, chẳng ai dám ngăn, lại lánh rộng ra làm thành đường lớn. Liên Hoa Sắc Tỳ-kheo-ni đi đến chỗ Phật.

Khi ấy trời trông thấy người, người cũng nhìn thấy trời. Do uy thần của Phật mà trời xuống thấp, đất cao lên. Người đều như nhau, trời không ý tham nơi người, người cũng không ý tham nơi trời. Bấy giờ có người tham trước thích thú Kim luân vương. Khi ấy lại có một Tỳ-kheo đi đến cách Phật không xa, bèn ngồi xuống thân thẳng, ý giữ lấy giới. Vị Tỳ-kheo trông thấy trời tụ họp vui vầy, người cũng họp lại vui vầy, bèn tự phát khởi niệm: “Tất cả đều là vô thường, tất cả là khổ, tất cả là không, tất cả chẳng phải ngã thì còn tham gì, còn nguyện gì, cho đến nào có gì”. Vị Tỳ-kheo ngay tại chỗ này liền đắc quả Dự lưu và tự chứng. Phật biết người, biết trời, biết vị Tỳ-kheo kia ý sinh niệm tưởng như vậy, bèn thuyết kệ:

Có lợi được nhân tình
Trì giới được làm Thiên
Ở thế riêng làm vua
Kiến đế là tôn quý.

Lúc ấy Liên Hoa Sắc Tỳ-kheo-ni vừa đến trước Phật, liền thu nhiếp bảy báu thần túc và các chúng binh đều biến mất; riêng một mình không mũ che, mặc y pháp, đảnh lễ dưới chân Phật.

Đức Phật nhân đó đến rừng Ưu-đàm, bày thành chỗ ngồi, vừa ngồi xuống liền vì đại chúng nhân dân giảng rộng kinh pháp. Ngài thuyết về Bố thí, Trì giới, khéo hiện ra cảnh trời. Thuyết về dục, năm điều ưa thích thống khổ đều là ác. Đức Phật biết mọi người cũng có ý xa lìa sự thô lậu bèn hiện Khổ đế, Tập, Tận, Đạo đế. Trong chúng có người quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng; có người tùy lực giữ giới, có người đắc quả Câu hạng, tự chứng Nhất lai, cho đến chứng quả Bất hoàn. Bấy giờ Hiền giả Cung Tự Tại từ chỗ ngồi bèn đứng lên vén y bày vai phải, hướng về Đức Phật, chắp tay nói kệ xưng tán Phật:

Cung kính Bậc Hùng Biến quán
Thấy đế hiện thuyết độ chúng
Nghĩ tưởng phước thường xót thương
Được trời người đều khen ngợi.
Lại đạo ấy độ vô cùng
Bỏ sợ hãi được an lạc
Diễn rộng pháp soi khắp nơi
Trong an lạc đều bất tử.
Giới Phật biển rộng vô biên
Nghĩa sâu sáng đại thiện hạnh
Không trước nhiễm mọi uế tịnh
Thuyết tuệ độ qua ba cõi.
Không tổn thương, không tăng giảm
Phật chẳng trước nhiễm hành xả
Bậc Tôn Giới, Thầy ba cõi
Gặp tại thế, không trở lại
Tâm trụ hiền ai hơn Phật
Định tự tại vượt trời người
Sức tuệ sáng rực sắc vàng
Trời người nào chẳng lễ Phật.
Thầy quán thế hai hội chúng
Tuy quán xả, chẳng vướng qua
Ý quán tâm lại vô trước
Ba cõi không, Phật sở không
Nhổ tận gốc mọi tục hạnh
Dùng cam lộ, định chí định.
Nay Thiên thần quy phục Phật
Đều chắp tay quán giác thân
Tâm không nghi vui hiền pháp
Đều hiểu biết tâm trời người
Cũng như tâm hành trùng thú
An tịnh lại động lòng thương.
Tự phóng hóa lên cõi trời
Chân chánh định khéo thu nhiếp
Ngăn ý, giữ lấy niềm tin
Bậc Giác Thế cõi trời người
Đạo đức vượt có ai bằng
Quán hình Phật nào có chán.
Trong ba cõi riêng bước đi
Nghĩa giới vững như núi báu
Chẳng sợ hãi trong ba cõi
Bỏ tật niệm, không ái ân.

Tuệ, định sáng như mặt trời
Trăng trong đêm không tỳ vết.
Theo tịnh giới, hiện tịnh hạnh
Có tịnh tuệ hơn hẳn tịnh
Trụ pháp tịnh, hiện ánh tịnh,
Tuyết núi cao thấy sáng ngời
Đêm rằm, sao trong trăng sáng
Pháp tất chiếu sáng trời người
Thân tướng hiện châu Anh lạc.
Bậc đế trong đế khéo thuyết
Tự hành lấy vốn không thầy
Riêng con nhà Phật thấy diệu
Ngàn mắt tuệ trừ thương tật
Lời đầy ý thắm không thô
Trổi bi thanh chỗ trời người.
Nghe lời Phật, pháp dịu ngon
Khát uống no như sông biển
Sao lại không giữ pháp ấy?
Cứ trì hành đến an tịnh.
Thuyết nghĩa đoạn sau không tưởng.
Lắng nghe Phật, mắt chú nhìn
Tuệ hiện đường chẳng tà vạy
Người đi trước vốn đã thành.
Nguyện ý nhắn người mê sau
Như Phạm vương chiếu khắp không
Thần, trời vẫn nghĩ thế nhân
Thần hành, nghĩa không chỗ sánh
Theo pháp ấy bỏ thế niệm
Phật vẫn tại chốn vô dư.

Bấy giờ Hiền giả Xá-lợi-phất ngồi ở giữa chúng, bèn rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay nói kệ tán thán:

Chưa từng thấy có việc này
Chưa từng nghe có ai nói
Phật như vậy, uy Thiên thần
Từ trời Đâu-thuật đến đây.
Khắp trời người đều ủng hộ.
Trọng ái tục như thân mắt
Thảy an tịnh không lay chuyển
Tự vui lấy trong độc hạnh
Vô ưu, hiểu thấu, khéo hành
Dạy cõi trời lại xuống trần
Khiến tâm giải trừ thân dục
Ác hạnh dứt, hiện nghĩa thiện.
Nếu Tỳ-kheo có tâm chán
Hành có bại, có chỗ không
Dưới cội cây như đồng trống
Tại núi sâu trong am vắng
Như chỗ cao xuống đất nằm.
Bọn phàm phu lại lo sợ
Làm cách nào để không sợ?
Hoặc sở hành cho sau này?
Chúng trần kia lại đến nghe.
Như xưa nay theo phương tiện
Chỗ Tỳ-kheo không ý nhiễm
Chỗ lặng dứt không tiếng vang
Miệng nói ra là thiện ác.
Tại chỗ hành nên làm sao?
Giữ giới, trụ hạnh không buông
Tỳ-kheo cầu học an tường.
Sao là học giới bất lậu?
Riêng cứ thường hành không bạn
Diệt tối tăm cầu sáng mắt
Muốn thanh trong sạch bụi tâm.

Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

–Ý ông còn có chỗ chán ghét, có chỗ trước nhiễm, trụ trong không, mãi hành dục học. Nay nói pháp Như khiến ông nghe biết:

Mọi khủng bố, tuệ không ngại
Chí tâm học lìa ham muốn
Loại châu chấu cũng loài sâu
Người ghét tiếng thú bốn chân.
Không pháp thân, chẳng ý thức
Không sắc thanh chẳng ánh quang
Thảy không ta nên xả, nhẫn
Chớ nghe thiện lánh xa tham.
Thân không bị điều đau đớn
Lo sợ tất phải nhận lấy
Gặp khổ đau khó chịu nỗi
Lấy tinh tấn làm chống đỡ.
Nguyện chẳng theo ý tưởng đẹp
Dứt trừ căn để điều ác
Không vướng mắc điều tham ái
Không chờ đón cái đã qua.
Trí, tưởng quen thành khéo léo
Vượt thoát khỏi tiếng thô tháo
Nhẫn không lạc mãi tu hành
Bốn điều nhẫn pháp ai bi.
Thường định nào, ăn thức gì?
Sợ nên khổ vì sinh định.
Nghĩa tưởng ấy rất đáng thương.
Đi nơi xa, học vất bỏ
Có vị khổ, có vị lạc
Biết độ thoát, biết chỗ dừng.
Chẳng nghe biết việc nước nhà.
Tiếng thô ác chẳng nên nghe
Đừng liếc mắt trộm nhìn người
Cùng hội thiền đừng nằm nhiều
Quán nhân duyên ý an tường
Ngừng vọng niệm, dứt niệm nghi
Đừng tà vạy cùng dối trá
Thấy xót thương chớ sợ hãi.
Hãy nhìn với tâm bình đẳng
Ít mong cầu, thấu vô minh
Lời ác kia đừng khởi ý.
Chẳng gieo oán bạn đồng học
Buông lời nói như nước mềm
Pháp thức hổ thẹn đừng nghĩ.
Như nhìn thấy bậc Tôn kính
Đừng để ý có cảm thọ
Như sắc thanh, như vị ngon
Hương tinh xảo muốn dẹp trừ.
Như vậy pháp chẳng buông lung
Học chế ý nên khéo nói
Pháp giới quán đều sáng rỡ.
Tu dứt bỏ mọi mê mờ.

Phật nói kinh Nghĩa Túc này xong Tỳ-kheo đều hoan hỷ.

6- KINH cha con cùng HỘI

Nghe như vầy:

Đức Phật ở tại vương quốc dòng họ Thích cùng với một ngàn vị đệ tử Phạm chí kỳ cựu, tất cả đều đã đắc La-hán, thông suốt lục đạt, sở cầu đều đầy đủ.

Phật từ nội thành giảng dạy, chuyển đến ngoài thành Ca-duy-la-vệ, trong vườn Ni-câu-loại. Người dòng họ Thích ở thành Ca-duy-la-vệ nghe Phật cùng một ngàn vị Tỳ-kheo La-hán chuyển chỗ giảng dạy, đã đến đất nước này ở trong khu lâm viên ngoài thành, bèn truyền nói với nhau. Trước lúc gà gáy đều phải tập họp. Họ cùng nhau bàn luận:

–Này chư Hiền giả, nếu Thái tử chẳng vui đạo, Ngài sẽ làm Chuyển luân vương. Chúng ta đều phải khuyên dân chúng trong thành này bỏ bảy báu, tu đạo, đạt đến quả vị Phật. Nay chúng ta đều chọn trong các gia đình trưởng giả một người xuất gia, cũng theo Phật cầu làm Sa-môn. Các người trong dòng tộc Thích đều như vậy.

Các chúng càng lúc càng đông, liền kéo nhau ra ngoài thành Ca-duy-la-vệ, muốn nhìn thấy Phật, muốn nghe chánh pháp. Các cô gái dòng họ Thích cũng hội nhau đi đến chỗ Phật, muốn nghe chánh pháp. Bấy giờ, Phật dùng thần túc định ý hiện biến đi giữa không trung. Những người trong dòng họ Thích nhìn thấy Đức Phật đi giữa không trung đều sinh tâm hoan hỷ, kính phục.

Bấy giờ vua Duyệt-đầu-đàn bèn cúi đầu xuống chân Phật đảnh lễ, rồi đứng sang bên. Dân chúng Ca-duy-la-vệ đều bất bình. Vua đã lễ Phật sao không thấy có pháp nào hoàn lễ. Vua nghe lời bất bình trong dân như vậy, bèn nói:

–Các Hiền giả, Thái tử đây lúc sinh ra, đại địa chấn động, ánh ánh chiếu khắp vô cùng. Ngài bước đi bảy bước, chẳng tựa nơi nào, nhìn trái phải cất tiếng nói: “Ba cõi rất khổ, nào có gì vui.” Chư Thiên trên hư không cầm lọng trắng, lại rải hoa Ma-ni, trổi trống Ngũ bách lạc, làm mưa hương thủy tắm gội Thái tử. Trong chúng dân bấy giờ, ta là người đầu tiên đảnh lễ Thái tử. Các Hiền giả, Thái tử ở dưới cội câu Diêm-phù, buổi sáng đi đến ngồi lại, rồi nằm xuống. Thái tử nằm về phía Đông thì bóng mát che khắp phía Đông, Thái tử ở về phía Tây thì bóng mát che về phía Tây. Bóng mát của cây không ngược hướng với thân Thái tử. Trong chúng dân bấy giờ, ta lần thứ hai làm lễ Thái tử.

Vua bấy giờ nói kệ:

Nay vì ba tuệ dũng mãnh
Cúi đầu lễ Bậc Biến Quán
Lúc vừa sinh động đất trời
Ngồi dưới tàn cây bóng mát.

Bấy giờ Phật thu nhiếp thần túc xuống tòa. Chư Tỳ-kheo Tăng cùng người dòng Thích và các Thích nữ phía trước tòa đều cúi đầu lễ Phật, rồi trở về chỗ ngồi. Đức vua cũng ngồi trên tòa nói kệ khen ngợi Phật:

Xe ngựa, voi vàng rực
Chạy đi trong đài các
Nay chân bước khắp nơi
Da chân sao dày lên?
Xe tôi là thần túc
Tâm ấy độ vô hạn
Cỡi lên xe thần diệu
Xe trần sao dài lâu!
Vận gấm lụa nhẹ mềm
Khoác lên thân hình đẹp
Sương vàng phủ thân hành
Vận đó có gì đẹp?
Vương pháp là áo tôi
Thực hành theo lời dạy
Trước vận đó học đạo
Nay được quả Như Lai.
Vốn vui nơi điện các
Theo thời lập lầu riêng
Nay chỉ ở cội cây
Sợ hãi nương nơi nào?
Cù-đàm chẳng oán đời
Đã dứt hẳn thù hận
Thoát tục niệm vô ưu
Không thù còn gì sợ.

Xưa ăn theo ý vị
Bình vàng, thức ăn ngon
Như nay được phần ăn
Thô ác có vui gì?
Tôi trước dùng vị pháp
Bỏ tham theo khổ không
Đã đoạn bốn bữa quen
Thương đời nên hành vậy.
Xưa tắm dùng hương hoa
Kỹ nữ vui hầu hạ
Thiền định trong rừng cây
Ai tắm gội bậc trí?
Giới pháp vui là sông
Bên trong là tuệ định
Náo loạn đều rửa sạch
Theo dòng chẳng trở về.

Bấy giờ Phật vì đức vua cùng các Thích nữ mà rộng giảng kinh pháp. Trước tiên Ngài giảng bày về Bố thí, Trì giới, nẻo trời vi diệu, khéo giảng về sự khổ, con đường khổ não, ba mươi bảy phẩm, theo đó sẽ đạt được an lạc. Phật dùng đạo ý biết vua Duyệt-đầu-đàn đã mãn ý, tâm như hòa hoan hỷ, giải thoát hệ lụy, nên Phật thuyết pháp giải thoát. Ngài giảng về Khổ, Tập, Diệt và Đạo đế. Phật thuyết pháp Tứ đế, nhà vua ngay tại tòa liền thông suốt, giải trừ ba độc, ngay trong thời pháp chứng được pháp nhãn. Ví như con mắt trong sáng, thấu rõ các sắc, vua cũng nhập pháp như vậy. Lúc ấy vua đã được kiến đế, đoạn nghi, thông tỏ pháp, bèn đứng lên, hướng về Phật chắp tay bạch:

–Điều thân cận đã thân cận, điều lánh xa đã lánh xa. Nay tôi thân quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Mong Đức Phật nhận tôi làm Thanh tín sĩ, từ đây cho đến cuối đời không phạm tịnh giới.

Do vậy trong họ Thích cũng có người quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Trong số nữ nhân họ Thích cũng có người quy y như vậy. Họ giữ giới không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không dối lừa, không uống rượu.

Vua Duyệt-đầu-đàn bấy giờ thấu rõ pháp, không còn nghi ngờ. Ý dũng mãnh nơi pháp, bèn đứng lên, chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ Nghĩa Túc này để tán thán:

Có đủ giới làm sao thấy?
Phải nói gì từ ấm khổ?
Nguyện Cù-đàm giải lời này
Bậc Thế Hùng giảng chánh ý.
Trước tu dứt oán hại nặng
Sau chẳng vướng lấy mong cầu
Trong hiện tại không chấp thủ
Cũng không thọ, tôn kính không.
Niệm vị lai chẳng vương ái
Tưởng xa lìa cũng chẳng buồn
Hạnh viễn ly, xả nhu nhuyến.
Mọi tà kiến đều trừ sạch.
Đã diệt hết mọi nỗi sợ
Tín không đổi, không còn nghi
Tâm không ganh, vui cùng người.
Hành như vậy yêu mạng quý.

Khéo tự giữ chẳng vọng cầu
Được nhiều tuệ không đố kỵ
Chẳng xấu xa, không diêm dúa
Không hai lời, chẳng cợt đùa
Ý thoát hẳn, chẳng vướng chi
Bỏ mắt nhìn, không kỳ vọng.
Hạnh an tường, khéo buông bỏ.
Cũng không muốn đoạn tưởng dục
Chẳng học cầu nơi dục lạc
Tất chẳng có cũng chẳng lo.
Không oán ghét, bỏ ái dục
Không thú gì còn sai khiến
Chẳng tự cao ta vô đẳng
Gặp hủy báng càng kính trọng.
Nên hành quán định tâm ý
Thấy thiện ác chẳng khởi vọng
Bỏ nơi đây không chỗ dừng
Pháp quán hướng dựa vào đâu?
Muốn sắc không cùng vô sắc
Theo trí lượng chẳng muốn thoát
Ái đã dứt chính dừng tâm
Ba cõi không, chẳng vui ý
Buông thoát hết còn được gì
Đã vượt biển không còn lo
Chẳng nguyện sau phải sinh lại.
Hạnh nguyện đất bày vật báu
Đến chẳng sinh, đi chẳng đến
Muốn buộc gì, từ đâu được?
Đều không sao nói tận cùng.
Chúng học Sa-môn nhất tâm
Tất khiến cầu nơi chốn đó
Như xúc chạm liền biết ngay
Chẳng ghen ghét, cũng không tham,

Tuy ở bậc cao chẳng vui Giữa chẳng vui, dưới chẳng vui Theo pháp sinh xả phi pháp Tất cả không, cũng không có Cùng không được, cũng chẳng cầu Chẳng ham muốn tà lạc đời Ý đã tịnh liền giải thoát Phật nói kinh Nghĩa túc này xong, chư Tỳ- kheo cùng vua Duyệt-đầu-đàn và người dòng họ Thích thảy đều hoan hỷ.

7- KINH Vua DUY-LÂU-LẶC

Nghe như vầy:

Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, vườn Kỳ thọ Cấp cô độc. Bấy giờ các người dòng tộc Thích xứ Ca- duy-la-vệ vừa xây mới đại điện chưa được bao lâu, người Thích cùng bàn với nhau:

–Từ nay về sau đừng để Sa-môn Phạm chí dòng họ Thích vận y quan cùng trưởng giả được vào trước trong điện này; trước tiên phải để cho Phật, thứ đến là các vị Tỳ-kheo Tăng đi vào, các người khác đi theo sau.

Bấy giờ con vua nước Xá-vệ là Duy-lâu-lặc có việc phải đến nước Thích, chưa đi vào thành, bèn đến nghỉ trong cung điện mới làm thành. Sáng hôm sau vào thành, việc xong bèn trở về nước.

Các người trong dòng họ Thích nghe thái tử Duy-lâu-lặc nghỉ tại cung điện mới, họ rất không vui, đâm ra oán ghét và lên tiếng mắng chửi: “Không biết sao nay lại để cho con của kẻ hèn mọn đi vào điện trước!”, rồi họ cùng đào xuống giữa điện sâu đến bảy thước (xưa) bỏ đi lớp đất đó, rồi lấy đất sạch khác đắp vào, lại dùng sữa bò rửa khắp điện. Thái tử Duy-lâu-lặc nghe các người trong dòng họ Thích nói những lời bất tịnh, ô nhục mình, đào sâu xuống bảy thước ở giữa điện rồi lấy đất mới lấp lên, lại dùng sửa bò rửa khắp điện, còn mắng chửi mình là con của kẻ hèn mọn đã làm nhơ bẩn điện mới. Nghe xong, lòng đầy bực tức, uất hận, tự nghĩ: “Ta sau này nắm việc nước phải làm cách nào để trừng trị dòng họ Thích.” Không bao lâu, vua nước Xá-vệ mất. Đại thần nghị bàn mời Thái tử làm vua. Vua Duy-lâu-lặc bèn hỏi các đại thần:

–Có kẻ nói lời bất tịnh, làm nhục vua, tội ấy thế nào?

Các đại thần tâu:

–Tội như thế là phải chết. Vua nói:

–Đúng vậy. Các người trong dòng họ Thích nói lời bất tịnh, làm nhục ta. Họ là thân quyến của Đức Phật. Phật còn có ân ái trong dòng Thích, cho nên trọn không thể trị kẻ có tội.

Các hạ thần bèn nói:

–Phật đã lìa bỏ thế tục, không có ân ái với thân thuộc. Muốn trị tội người dòng họ Thích chẳng có gì là khó.

Vua nghe nói như vậy, bèn tuyên lệnh huy động bốn loại binh: tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh tiến ra khỏi thành, tấn công thành Ca-duy-la- vệ.

Bấy giờ là lúc Phật thọ thực. Ngài mang bình bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong, Đức Phật ra khỏi thành, đến dưới gốc cây ít bóng mát ngồi lại. Ngài thấy vua dẫn binh đi trên đường lớn. Nhà vua nhìn thấy Đức Phật đang ngồi dưới bóng cây thưa nắng bèn bước xuống xe đến chỗ Phật, sau khi đảnh lễ bèn đứng một bên bạch Phật:

–Như nay có nhiều cội đại thọ, cành lá sum suê nhiều bóng mát như là cội đại thọ tên là Ca-chiên. Ca-duy-la-vệ có nhiều cây Ưu-đàm-bát, Ni-câu- loại. Đức Phật sao chẳng ngồi đấy nhiều bóng mát, sao lại ngồi dưới cội cây Thích lá thưa, ít bóng mát?

Đức Phật bảo:

–Vì Ta ưa cái tên, vui thích cái bóng mát này, nên ngồi đây.

Vua nghe xong liền tự nghĩ: “Như vậy Đức Phật vẫn còn có ân ái với dòng họ Thích, vẫn còn có ý trợ giúp”, liền từ chỗ Phật quay lại, rút binh về nước.

Đức Phật truyền giảng đạo cho nhân dân Xá- vệ, rồi có ý muốn đến nước Ca-duy-la-vệ, bèn cùng các Tỳ-kheo đến vương thổ dòng họ Thích, ở tại vườn Ni-câu-loại giảng dạy.

Không lâu sau, vua nước Xá-vệ lại hỏi các cận thần:

–Nếu như có kẻ nói lời bất tịnh, làm nhục vua, tội ấy thế nào?

Các cận thần tâu:

–Tội như vậy phải xử chết. Vua lại nói:

–Những người dòng họ Thích làm nhục ta, họ đều là thân quyến của Phật. Đức Phật vẫn đang nhớ nghĩ đến những người trong dòng họ Thích. Ta rốt cục chẳng trị họ được.

Cận thần nói:

–Thần đã nghe các Sa-môn nói rằng Cù-đàm đã đoạn dứt dâm dục, làm gì có ân ái với thân quyến.

Vua muốn trị tội họ cũng chẳng khó chi.

Vua nghe chúng thần nói vậy bèn truyền lệnh huy động bốn loại binh, ra hiệu xuất thành đến vương thổ dòng họ Thích. Đi đến tối thì cách thành trì dòng họ Thích bốn mươi dặm, liền dừng lại nghỉ.

Các người trong dòng họ Thích nghe vua nước Xá-vệ cử bốn loại binh tiến đánh, đã cách thành bốn mươi dặm, sợ ngày mai sẽ đến, bèn sai người phi ngựa đến chỗ Phật báo lại và xin Phật chỉ dạy phương cách. Đức Phật bảo các Thích đóng chặt cửa thành, vua sẽ không thắng được. Nếu bên trong mở cửa, vua Duy-lâu-lặc sẽ chắc chắn xông vào giết các người họ Thích. Người lính nghe Phật dạy bèn lễ Phật, cỡi ngựa trở về.

Bấy giờ Hiền giả Đại Mục-kiền-liên đang ở phía sau Phật, bèn bạch Phật:

–Bậc Minh Tuệ đừng vì các người trong dòng họ Thích lo buồn. Con nay muốn đem cả vương quốc họ Thích dời đến một nơi khác, hoặc sẽ dùng cái lồng sắt bao phủ lấy, như vậy tất cả thiên hạ sẽ làm gì được.

Phật bảo Đại Mục-kiền-liên:

–Làm như vậy thì tội ấy thế nào? Ngài Mục-kiền-liên nói:

Tuy nói tội hữu hình là như vậy nhưng con không rõ tội vô hình thì như thế nào?

Bấy giờ Đức Phật nói kệ:

Làm thiện ác, chẳng hề mất
Theo phước lạc trong u khổ
Thiện, ác hiện theo vầng dương.
Rồi cũng đến thân nhận lấy.

Vua nước Xá-vệ dùng binh trang bị quân cụ cùng nhau công phá thành tộc Thích. Họ Thích cũng cử bốn loại tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh ra thành chiến đấu cùng vua Duy-lâu-lặc.

Người tộc Thích cũng dùng binh trang bị ứng chiến cùng quân đội Xá-vệ.

Lúc chưa giáp nhau, người tộc Thích dùng cung tên, đao sắc bén, bắn tên ngăn xe lại. Tên bắn phá càng xe, thân xe, phá hủy trục xe, thành xe, và bắn chặn người lại. Châu báu chẳng hề xúc chạm.

Vua Xá-vệ rất sợ hãi, bèn hỏi cận thần:

–Các người hẳn biết bọn Thích đã ra khỏi thành tử chiến, chúng ta không thắng được, chi bằng hãy sớm quay về.

Cận thần bẩm báo:

–Nay thần nghe bọn người họ Thích đều giữ năm giới, thảy đều trọn đời không sai phạm, chí đến mạng sống cũng chẳng dám làm thương hại, nếu gây thương hại là phạm giới. Chỉ cần ngài tự xông lên phía trước là sẽ thắng ngay.

Vua bèn dẫn binh đột phá thẳng vào thế trận họ Thích. Bên Thích tộc thấy vua tiến đánh rất nhanh thì rút vào thành đóng cửa lại.

Vua Xá-vệ bấy giờ sai người nói:

–Này các người dòng họ Thích, các anh em cô cậu cùng ta nào có thù oán gì mà chẳng mở cửa thành? Ta chỉ muốn mượn đường chốc lát, đi vào sẽ ra ngay, không ở lại lâu.

Trong số Thích tộc, có người tin theo lời Phật, đã tu học kinh pháp, không nghi ngờ đạo nên bảo không nên mở cửa. Lại có người chưa tịnh tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng nên đâm ra nghi ngờ, cho rằng có thể mở thành và cùng nhau nói chuyện: “Ta người không được dọa nhau mà sinh ra đối địch.” Chúng ta phải bàn bạc cùng các bậc kỳ lão. Những người không chịu bàn bạc là không muốn cho vua kia vào thành; kẻ bàn bạc thì muốn cho vua vào thành. Kết quả phải tùy theo số đông mà hành động, vì số người không đồng ý ít hơn. Mọi người đồng bảo: “Nên mở cửa cho vua vào. Người họ Thích bèn mở cửa trong. Vua Duy- lâu-lặc tiến vào thành Ca-duy-la-vệ, liền bắt sống người dòng tộc Thích đem ra ngoài thành sát hại.

Bấy giờ Thích-ma-nam tâu vua nước Xá-vệ:

–Xin vua cho tôi một nguyện nhỏ. Vua hỏi:

–Tướng quân muốn gì?

–Tôi nguyện nay được chết dưới lòng sông, cùng lúc ấy cho các người Thích được đi ra khỏi thành.

Các đại thần tâu:

–Đại vương nên theo sở nguyện của Thích-ma- nam, cứ cho xuống sông xem được bao lâu.

Vua bèn đồng ý theo yêu cầu đó. Thích-ma- nam bèn nhảy xuống đầm nước, lấy tóc quấn vào rễ cây mà chết.

Vua thấy lâu không trồi lên thì làm lạ, nên bảo người xuống xem Thích-ma-nam ở dưới nước làm gì. Người ấy thấy Thích-ma-nam chết dưới đầm bèn trồi lên tâu vua:

–Thưa Đại vương, Thích-ma-nam đã quấn tóc vào rễ cây chết rồi.

Vua bèn hỏi đến những người họ Thích còn lại trong thành bị bắt giữ đã giết hết chưa. Bọn cận thần thưa:

–Đã cho voi dày đạp chết cả! Vua bèn rút quân về nước.

Vào lúc quá trưa, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo đi đến chỗ giảng đường Thệ tâm Tu-gia-lợi. Các Tỳ- kheo vâng lời Phật dạy. Đức Phật cùng chúng Tỳ- kheo đến giảng đường Thệ tâm, đi ngang qua chỗ các người Thích chết. Trong số người bị giết ấy có người còn nói được, nhìn thấy Phật bèn cất lời than oán. Đức Phật nghe tiếng bi ai thống khổ bèn nói với các Tỳ-kheo:

–Kẻ ngu si Duy-lâu-lặc gây tội không nhỏ.

Đức Phật đến giữa vùng đất của họ Thích, hóa hiện vô số sàng tọa. Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đều ngồi xuống. Phật lại vì các người trong dòng họ Thích diễn thuyết kinh pháp, xong nói cùng Tỳ- kheo:

–Ý các ông thế nào? Kẻ đồ tể lấy việc giết hại làm nghề nghiệp, lấy việc giết hại làm sự sống, vậy từ nhân duyên ấy có được an vui cỡi lên voi thánh, ngựa thần, xe bảy báu không?

Các Tỳ-kheo nói thưa:

–Trọn không thể được. Phật nói:

–Lành thay! Đúng như vậy. Ta chẳng hề thấy, chẳng hề nghe kẻ đồ tể lấy việc giết hại làm nghề nghiệp sinh sống lại được phúc lạc. Tại sao vậy? Vì kẻ đồ tể không có từ tâm thương cảm đối với các loài thú.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

–Ý các ông thế nào? Kẻ săn bắt cá cùng kẻ giết bò, lấy đó làm nghề nghiệp, lấy đó để sinh sống. Vậy có được cỡi lên voi thần, ngựa thánh, xe báu, có được phúc lạc không?

Các Tỳ-kheo đáp:

–Trọn không thể được. Phật bảo:

–Lành thay! Ta cũng chẳng hề nghe, chẳng hề thấy kẻ nào săn bắt cá, giết bò làm nghề nghiệp sinh sống mà được phúc lạc. Tại sao vậy? Bọn họ đã không còn lòng thương xót, không có từ tâm đối với loài thú, cho nên làm sao được phúc lạc. Đấy là người ngu si, tất sẽ gặt lấy quả tổn hại. Nên biết kẻ kia lúc sống cũng bất thiện, trong bảy ngày tất sẽ bị nước cuốn trôi. Cho nên, các Tỳ-kheo phải có từ tâm, chớ học tâm tổn hại, tất bị thiêu cháy oan uổng, cũng chớ có sinh ý làm tổn hại.

Đức Phật bèn dùng ngay sự việc ấy nói rõ nhân duyên và ý nghĩa, bảo đệ tử hiểu rõ và ghi nhớ, kiểm lại lời dạy trong kinh để hậu thế tỏ tường, khiến kinh điển đạo Phật trụ lâu dài ở thế gian.

Bấy giờ Phật nói kinh Nghĩa Túc:

Chẳng xót thương đến khủng bố
Người đời truyền nhau nghe biết
Nay muốn thuyết nghĩa xót thương
Ta dứt đi mọi sợ hãi.
Người đời quẩn quanh khổ não
Như nước cạn ngăn cá lội
Trong khổ não sinh ý hại
Kẻ si thích khủng bố người.
Toàn cõi đời đều bốc cháy.
Khắp mười phương loạn chẳng an
Tự ngạo mạn chẳng yêu thương
Vì chẳng thấy nên ngu tối.
Chớ tự buộc cầu khổ não
Ta quán suốt ý chẳng vui
Thấy gai kia đâm đau đớn
Do nhìn thấy khó thể nhẫn.
Gai nhọn đau còn ra đấy
Mang gai châm đi khắp đời
Phật nhìn thấy, nhổ dứt đau
Không khổ cũng không niệm khổ.
Đời dẫy đầy song chẳng nhận
Chẳng y cứ vào loạn tà
Chán mọi dục, vượt tất cả
Học thoát khổ, tự thành tựu
Lòng chí thành chẳng hề quên.
Giữ hạnh lành, không hai lời
Diệt lửa oán, dứt lòng tham
Dứt phiền não, đại tri kiến
Chẳng nằm ngồi, dứt mê mờ
Chẳng đầy đủ, lìa vô độ
Điều đáng ghét chẳng giữ lấy
Cả niệm Không cũng tận diệt.
Chẳng cậy nhờ vào dối lừa
Thấy vật sắc chẳng mặc vào
Thân chẳng biết mặc lụa đẹp
Mặc vào thầm mong thoát bỏ.
Niệm xả lâu thành chẳng nghĩ
Cũng không mong được thân sau
Thấy đều mất chẳng buồn lo
Dù bốn biển cũng mau diệt.
Ta nói tham thật lớn mạnh
Khi vào dòng, phải ngăn si
Từ nhân duyên ràng ý niệm
Vương ý dục thật khó lìa.
Xả ly dục thật rất hiếm
Kể trong đời chẳng bao nhiêu
Xả, không dứt cũng chẳng thôi
Đoạn dứt dòng không trói buộc.
Thừa lực đế, tận ngăn ngừa
Khởi trí tuệ chẳng buồn lo
Là ngăn ngừa sự nguy hại
Tận sức giữ được an lành.
Đã tính xa lìa nỗi khổ
Chẳng bị đắm pháp quán không.
Theo chân kiến đạo rộng bằng
Tất chẳng vướng quan niệm đời.
Thân chẳng lo, tự xem thường
Kẻ như vậy còn liệu gì?
Đã không thể cũng chẳng còn
Ta chẳng có, còn lo gì?
Gốc ngu si, cành trống rỗng
Sau khi trồng lại không dưỡng
Đến giữa chừng chẳng giữ gìn
Chẳng cần bạn vất bỏ thù.
Bỏ tất cả mọi danh sắc
Chẳng niệm tưởng thu lấy được
Đã không có cũng không trụ
Tất cả đời không oán nhau.
Đoạn dứt tận vô tưởng sắc
Tất cả thiện cùng mọi loài
Đã theo học giáo lý này
Đến nơi hỏi chẳng sợ hãi.
Chẳng cùng nhất trí là tuệ
Sở cầu là không thể học
Xả yếm ly chẳng nhân duyên
Diệt tận mới thấy yên ổn.
Trên chẳng kiêu, dưới chẳng sợ
Chốn bình yên không nhìn thấy
Nơi thanh tịnh không oán tật
Tuy thấu rõ nhưng chẳng kiêu.

Phật nói kinh Nghĩa Túc này xong, các vị Tỳ- kheo đều hoan hỷ.

 



[1] Quyển Thượng có mười kinh, quyển Hạ gồm mười sáu kinh.

[2] Câu Hạng thứ nhất: tức quả thứ nhất trong tứ quả Sa-môn, là Tu-đà-hoàn (Pāli: Sotapanna, Sanskrit: Srotāpanna).

[3] Thanh tín sĩ: tức nam Phật tử tại gia, còn gọi là Cận sự nam, Ưu-bà-tắc (Pāli và Sanskrit: Upasaka).

[4] Tức ngài A-nan.

[5] Thanh tín nữ: tức nữ Phật tử tại gia, còn gọi là Cận sự nữ, Ưu-bà-di (Pāli và Sanskrit: Upāsaki).


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]


[Mục lục tổng quát]