Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương, Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.
Phẩm 2: MA-HA-TÁT-ĐỎA BỐ THÍ THÂN CHO CỌP
Phẩm 3: Hai Vị Phạm Chí Thọ Trai Giới
Phẩm 4: Một Người Nghèo Ở Xứ Ba-la-nại Cúng Dường Đức Phật
Phẩm 5: Thần Biển Vấn Nạn Các Thuyền Khách
Phẩm 8: NÀNG KIM CƯƠNG, CON GÁI VUA BA-TƯ- NẶC
Phẩm 17: A-THÂU-CA CÚNG DƯỜNG ĐẤT
Phẩm 18: CÚNG DƯỜNG BẢY BÌNH VÀNG
Phẩm 19: PHƯỚC BÁO TRONG HIỆN TẠI CỦA SAI-MA
Phẩm 21: NHÂN DUYÊN VUA ĐẠI QUANG MINH PHÁT TÂM ĐẠO
Phẩm 23: XUẤT GIA CÔNG ĐỨC THI-LỢI- BẬT-ĐỀ
Phẩm 24: SA-DI GIỮ GIỚI TỰ SÁT
Phẩm 25: TRƯỞNG GIẢ KHÔNG MẮT, TAI, LƯỠI
Phẩm 26: HAI VỢ CHỒNG NGHÈO THÍ VẢI ĐƯỢC HIỆN BÁO
Phẩm 27: NGÀI CA-CHIÊN-DIÊN DẠY BÀ LÃO BÁN NGHÈO
Phẩm 31: VUA NGUYỆT QUANG BỐ THÍ ĐẦU
Phẩm 32: VUA KHOÁI MỤC BỐ THÍ MẮT
Phẩm 33: CHUYỆN NĂM TRĂM NGƯỜI MÙ THEO PHẬT
Phẩm 36: CHUYỆN ĐẠI KIẾP-TÂN-NINH
Phẩm 37: CHUYỆN BẢY NGƯỜI CON TRAI CỦA LÊ-KỲ-DI
Phẩm 38: CHUYỆN THIẾT-ĐẦU-LA-KIỆN- NINH
Phẩm 41: TRỜI TỊNH-CƯ THỈNH PHẬT TẮM
Phẩm 42: THÁI TỬ THIỆN SỰ ĐI BIỂN
Phẩm 44: CHUYỆN ÁC CẦU, THIỆN CẦU
Phẩm 48: ÔNG TU-ĐẠT LÀM TINH XÁ
Phẩm 49: ĐẠI QUANG MINH BẮT ĐẦU PHÁT TÂM VÔ THƯỢNG
Phẩm 54: MA-ĐẦU-LA-THẾ-CHẤT, CON CỦA ÔNG SƯ CHẤT
Phẩm 59: CHIM NGHE VỊ TỲ-KHEO THUYẾT PHÁP ĐƯỢC SINH LÊN CÕI TRỜI
Phẩm 60: NĂM TRĂM CHIM NHẠN NGHE PHẬT PHÁP ĐƯỢC SINH CÕI TRỜI
Phẩm 62: PHẠM CHÍ CÚNG THÍ PHẬT Y VÁ ĐƯỢC THỌ KÝ
Phẩm 63: ĐỨC PHẬT BẮT ĐẦU KHỞI TÂM TỪ
Phẩm 65: MƯỜI ĐỨA CON CỦA NÀNG TÔ- MAN
Phẩm 68: CÔN TRÙNG TRONG VŨNG NƯỚC
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ, tại đạo tràng Thiện thắng. Khi mới thành Phật, Ngài tự nghĩ: “Tất cả chúng sinh do lưới mê mờ, lòng dạ đảo điên, theo lối tà đạo, rất khó giáo hóa, Ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng nên sớm vào cõi Niết-bàn Vô dư.”
Khi đó vua cõi Phạm thiên biết Đức Phật suy nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống, tới trước làm lễ, rồi quỳ gối chắp tay cung kính thưa với Ngài:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài chuyển vận bánh xe Chánh pháp, chớ vào Niết-bàn.
Đức Phật dạy:
Này Phạm thiên, vì tất cả chúng sinh bị trần cấu che mờ say mê, tham đắm dục lạc nơi thế tục, không có trí tuệ, vì thế Ta có ở đời cũng chỉ luống công! Nên Ta muốn vào Niết-bàn tịch diệt.
Phạm thiên lại thưa:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày nay biển pháp đã đầy, cờ pháp đã dựng, mong Ngài khai đạo, thời gian đã thích hợp. Hơn nữa những chúng sinh có thể độ được, con xem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy vì sao Ngài vào Niết-bàn để cho số chúng sinh non nớt vĩnh viễn mất đi bóng mát che phủ và bảo hộ.
– Bạch Thế Tôn, con nhớ cách đây vô số kiếp, cũng vì chúng sinh nên Ngài từng góp nhặt phương thuốc chánh pháp, cho đến một bài kệ, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, để tìm cầu đạo. Vậy vì sao mà Ngài không nhớ nghĩ đến chúng sinh mà bỏ vào Niết-bàn.
Con lại nhớ kiếp quá khứ cách đây đã khá lâu xa có một vị vua tên là Tu-lâu-bà ở châu Diêm- phù-đề, cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức làng xóm, có hai vạn phu nhân và một vạn quan đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lực của vua Tu-lâu-bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó nhờ đức vua, được an lạc thái bình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng. Một hôm vua tự nghĩ rằng: “Đối với vật chất ta giúp dân đầy đủ, nhưng về tinh thần đạo giáo giải thoát cho con người thì chưa có.
Đây là cái lỗi của ta, thật khổ làm sao! Nay ta phải tìm cầu chánh pháp kiên cố chân thật để cho tất cả đạt được giải thoát.”
Bấy giờ vua cho ban lệnh khắp trong cõi Diêm- phù: “Nếu ai biết đạo giải thoát của Đức Phật, nói cho ta hay, muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ, không làm trái ý.”
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấy ai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi và tâm ý lúc nào cũng không được vui. Sau đó vua Tỳ-sa-môn thấy vậy bèn đến thử vua, liền biến hình làm một con quỉ Dạ-xoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng mọc chìa ra ngoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến trước cửa cung, nói:
– Ai muốn nghe pháp tôi sẽ giảng cho.
Nhà vua nghe nói, lòng vui mừng khôn tả, tự mình ra đón tiếp mời vào đích thân làm lễ, sai sửa soạn tòa ngồi cao trọng, mời Pháp sư thăng tòa, cho gọi mọi người đến, cung kính nhiễu quanh, mong được nghe pháp.
Pháp sư nói:
– Học pháp rất khó, ông muốn được nghe không phải dễ.
Nhà vua thưa:
– Kính thưa Pháp sư, việc nghe pháp phải đúng lễ thế nào, xin cho chúng tôi được rõ không dám trái ý.
Pháp sư nói:
– Nếu nhà vua đem vợ yêu con quý cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Lúc ấy vua liền đem vợ con yêu quý cống nạp cho quỉ Dạ-xoa. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đông người nghiễm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết.
Khi đó quần thần, dân chúng thấy nhà vua hành động như vậy tất cả đều khóc lóc, áo não, vật vã, khuyên nhà vua nên ra lệnh hủy bỏ việc làm này. Nhưng nhà vua do một lòng cầu pháp nên tâm không lay chuyển. Ăn xong, Dạ-xoa nói một bài kệ:
Tất cả hành vô thường
Có sinh tất phải khổ!
Năm ấm không, vô tướng
Ngã, ngã sở đều không.
Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết, sai người chép lấy, để ban pháp cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Bấy giờ vua Tỳ-sa-môn liền hiện lại nguyên hình, ca ngợi:
– Thật cao thượng! Thật đặc thù!
Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còn toàn vẹn.
Bạch Thế Tôn, vua Tu-lâu-bà thuở đó chính là Ngài. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì pháp như vậy, sao nay Ngài nỡ bỏ chúng sinh để vào Niết-bàn mà không giáo hóa, cứu độ?
Lại nữa, bạch Thế Tôn, vào thời quá khứ xa xưa a-tăng-kỳ kiếp về trước ở châu Diêm-phù-đề này, có một vị vua tên là Kiền-xà-ni-bà-lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn dân làng, hai muôn phu nhân và thể nữ, một vạn quan đại thần. Nhà vua nhân từ, yêu thương tất cả, nhân dân sung sướng, lúa gạo dư thừa. Cảm phục ân đức coi vua như cha lành.
Nhà vua tự nghĩ như vầy: “Ta được đại vị cao sang, tôn trọng quý giá! Nhân dân trong nước được an vui sung sướng! Tuy thế nhưng chưa đủ, ta muốn tìm cầu chánh pháp cao siêu, nhiệm mầu để đem lại lợi lạc cho thần dân.”
Nghĩ thế rồi, vua sai các quan viết bảng cáo thị và truyền lệnh cho khắp trong nước biết: “Nếu ai có Diệu pháp nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ.”
Lúc đó, có vị Bà-la-môn tên là Lao-độ-sai, đi tới cung môn nói:
– Tôi có Diệu pháp, các ông vào báo cho vua biết.
Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, tự ra nghênh tiếp lễ bái và cho sửa soạn một tòa cao đẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưa:
– Mong ngài rủ lòng thương xót đến chúng tôi mà mở bày chánh pháp nhiệm mầu để cho chúng tôi được thấu hiểu.
Lao-độ-sai đáp:
– Ta có được trí tuệ cũng phải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dày công học tập, không phải là một việc dễ dàng quá như vậy.
Nhà vua thưa:
– Kính thưa Đại sư, ý Đại sư như thế nào, xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ?
Lao-đô-sai nói:
Nhà vua muốn được nghe pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc vào, đốt lửa cúng dường ta, ta sẽ thuyết cho nghe. Nghe vậy, nhà vua vui vẻ nhận lời và khất lại bảy ngày, để thông báo cho dân chúng biết. Lời thông báo như sau: “Tất cả quốc dân nên biết, vua Kiền-xà-ni-bà-lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình một ngàn lỗ, đốt đèn cúng dường Pháp sư, ai muốn nghe và xem sự hy sinh cúng dường của nhà vua thì đến.”
Bấy giờ các vị vua nước nhỏ và nhân dân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu:
Kính thưa đại vương, tất cả muôn dân đều nương nhờ vào phúc đức của đại vương nên được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ cây gậy, con dại trông ngóng mẹ hiền. Nếu đại vương khoét mình đốt lên, tất nhiên tuyệt mạng, thì muôn dân trông cậy vào ai? Xin Ngài không nên vì một người mà nỡ bỏ chúng sinh trong thiên hạ.
Sau đó hai vạn bà phu nhân và năm trăm thái tử, một vạn quan đại thần, tất cả đều can vua việc đó.
Nhà vua liền lớn tiếng nói:
– Các ông không nên cản trở tôi cầu đạo Vô thượng, tôi hy sinh thân này là để cầu làm Phật, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho các ông trước.
Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy, ai nấy đều tha thiết kêu van, nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến.
Hết hạn bảy ngày, nhà vua tới trước Pháp sư làm lễ và thưa:
– Kính thưa Đại sư, tôi xin dốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư bắt đầu khoét mình đốt đèn cúng dường, xin Đại sư hoan hỷ!
Nói xong nhà vua sai khoét lỗ đổ dầu trên thân mình, nhưng không ai dám làm. Sau đó có người Chiên-đà-la đến khoét hộ cho vua. Anh này khoét xong, vất dao xuống đất chạy mất. Khi đổ dầu bỏ bấc xong, mọi người coi thấy ai cũng rùng mình run sợ.
Nhà vua thưa:
Kính xin Đại sư thuyết pháp trước, sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không được nghe pháp.
Lao-độ-sai đọc bài kệ:
Thường đến đoạn tận
Cao thì phải rơi
Hợp rồi có tan
Sinh thì có tử.
Đọc xong, vua sai đốt lửa, trong khi lửa cháy vua vẫn hoan hỷ không hề hối tiếc. Ngài tự phát thệ rằng:
– Tôi nay cầu nghe đạo giải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật quả, sau khi được thành, tôi sẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh.
Nói dứt lời thì trời đất tự nhiên chuyển động tới cõi trời Tịnh cư. Khi đó các vị cõi trời ngó xuống xem, thấy một vị Bồ-tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp sư để nghe pháp không tiếc thân mạng. Họ bay xuống đứng kín cả hư không. Vì quá cảm động nên nhiều vị tuôn nước mắt như cơn mưa lớn, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dường. Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi:
Nhà vua đau khổ như vậy, có hối hận gì không?
Nhà vua đáp:
– Thưa không! Đế Thích nói:
– Tôi thấy nhà vua run rẩy không yên như vậy mà tự nói không hối, lấy gì chứng cớ biết rõ được?
Đế Thích nói dứt lời, thì ngài tự thệ:
– Nếu tâm tôi thủy chung như một, không hối hận gì, thì xin những vết trên mình tôi, lại được bình phục như cũ.
Vì lòng chân thực cầu đạo pháp tha thiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phục như cũ, thân thể lại tốt đẹp hơn xưa.
Bạch Thế Tôn, vị vua khoét mình để đốt đèn cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu pháp như vậy vì chúng sinh, duyên tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết pháp, lại sớm vào Niết-bàn, để chúng sinh mất đi ánh sáng chánh pháp vĩ đại?
Bạch Thế Tôn, lại nữa, vào kiếp quá khứ, ở châu Diêm-phù-đề này có một vị vua, tên là Tỳ- lăng-kiệt-lê, thống trị được nhiều nước, tám vạn bốn ngàn dân làng, hai vạn phu nhân và thể nữ, năm trăm thái tử, một vạn quan đại thần. Nhà vua có nhân đức, coi dân như con đẻ, lại muốn nghe chánh pháp, nên sai quan đại thần tuyên lệnh cho toàn quốc biết như sau: “Thông báo cho toàn quốc biết: Hoàng thượng muốn được nghe Phật pháp, ai biết đến nói cho ngài nghe, ngài sẽ trọng thưởng tùy ý muốn.”
Sau đó có một người dòng Bà-la-môn, tên là Lao-độ-sai tới cung môn nói:
– Tôi là người đã từng nghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật, xin ông hãy vào tâu Hoàng thượng cho.
Theo lời yêu cầu của Lao-độ-sai, quan giữ cửa vào tâu vua.
Nhà vua được tin rất vui vẻ, tự thân ra nghênh tiếp đảnh lễ trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vào trong chánh điện, thiết đãi trọng hậu, rồi sai bày một tòa cao đẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa.
Nhà vua và bá quán, nghiêm chỉnh thân tâm, tới trước Pháp sư cúi đầu lễ lạy, rồi quỳ xuống thưa:
– Kính thưa Đại sư phát tâm Từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức?
Lao-độ-sai đáp:
– Sự hiểu biết của ta đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được. Nhà vua coi sự học một cách dễ dàng quá!
Nhà vua một lòng kính cẩn thưa rằng:
– Tất cả những gì cần thiết mong Đại sư cứ nói, tôi không lẫn tiếc một điều gì.
Đại sư trả lời:
– Nhà vua có thể đóng lên mình một ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ thuyết pháp cho nghe.
Nhà vua thưa:
– Vâng! Xin tuân lời dạy bảo của Đại sư. Xin ngài cho lui lại bảy ngày rồi sẽ thực hiện việc đó.
Bấy giờ nhà vua sai người lên tám muôn cỗ xe voi, đi khắp mọi nơi trong cõi Diêm-phù-đề loan báo cho mọi người biết: “Vua Tỳ-lăng-kiệt-lê vì muốn được đạo giải thoát cho chính mình và toàn thể, nên đóng một ngàn cây đinh trên thân thể mình, cúng dường Pháp sư. Quốc dân ai muốn biết sự thực hành của vua, sau bảy ngày nữa xin mời đến.” Dân chúng được tin nhà vua đóng đinh trên mình để cầu nghe giảng đạo, họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông. Sau đó một đại biểu của dân chúng lên tâu vua:
– Kính tâu Hoàng thượng, lũ chúng tôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạc thiên thu, hưởng phúc lâu dài. Chúng tôi tự biết nhờ ân đức của Hoàng thượng nên được thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóng đinh trên mình.
Sau đó, tiếp đến phu nhân, thể nữ, thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu vua xin miễn bỏ việc đó.
Nhà vua đáp:
Tôi nhận thấy đã bao kiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân hồi, thân mạng đã mất đi biết bao lần; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si, nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi Tu-di, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn năm nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước bốn biển; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi, chưa từng bao giờ vì đạo pháp mà hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp sư để cầu thành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kết sử của các người và đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thành Phật, làm sao mà ngăn chận đạo tâm của tôi được.
Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi người ai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì nữa.
Tới giờ phút này nhà vua đến trước Pháp sư thưa:
– Kính xin Đại sư ra ân, thuyết pháp trước khi đóng đinh, nếu đóng trước, thì sợ rằng tôi sẽ chết không được nghe.
Đại sư đọc bài kệ:
Tất cả đều vô thường
Có sinh đều có khổ.
Các pháp không, vô chủ
Chẳng có ngã sở hữu.
Sau khi Đại sư thuyết kệ xong, vua liền cho người đóng một ngàn cây đinh vào thân thể mình. Tất cả các vị vua nước nhỏ và quần thần, dân chúng trong đại hội đều gieo mình xuống đất như núi băng lớn, vật vã khóc lóc, không còn hay biết gì. Bấy giờ trời đất sáu lần chấn động, chư Thiên các cõi Dục và Sắc thấy điều kỳ lạ bay xuống, thấy một vị Bồ-tát đang khốn khổ vì mong cầu chánh pháp mà làm thương hại đến bản thân, ai nấy đều cảm động, đôi lệ chứa chan, một lòng tôn kính, tung hoa xuống cúng dường. Vua trời Đế Thích xuống tận nơi hỏi:
– Nhà vua tinh tấn dũng mãnh, cầu đạo không tiếc mạng sống như vậy, ý mong muốn điều gì? Làm Đế Thích ư, làm Chuyển luân vương ư, làm Ma vương, Phạm vương ư?
Vua đáp:
– Thưa ngài, tôi quên mình để cầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật và tế độ cho chúng sinh cũng được giải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử như Đế Thích, Chuyển luân vương, Ma vương hay Phạm vương.
Đế Thích hỏi:
Tôi coi nhà vua đau đớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?
Vua đáp:
– Không!
Đế Thích hỏi:
– Ngài nói không hối hận thì lấy gì chứng tỏ? Nhà vua liền lập thệ như sau:
Với tâm chí thành cầu đạo Bồ-đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể tôi nay lại được bình phục như cũ.
Phát thệ dứt lời, thân thể vua quả nhiên lại được bình phục như cũ. Khi đó tất cả trời, người và quan quân, dân chúng, ai nấy đều vui mừng không tả xiết!
– Bạch Thế Tôn, nay biển pháp đã tràn đầy, công đức đã đầy đủ, sao Ngài lại muốn bỏ chúng sinh, mau vào Niết-bàn không thuyết pháp hóa độ chúng sinh được.
Bạch Thế Tôn, vào quá khứ xa xưa cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng ở châu Diêm-phù-đề này, có một vị vua tên là Phạm thiên, sinh được một thái tử tên là Đàm-ma-kiềm, yêu thích chánh pháp, sai người đi khắp bốn phương tìm cầu, nhưng không được thỏa mãn. Do tìm cầu chánh pháp không được, thái tử sinh ra sầu ưu, áo não.
Bấy giờ vua Đế Thích biết thái tử lòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà-la-môn, đi đến trước cửa cung nói:
– Tôi là người hiểu biết Phật pháp, nếu ai muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho.
Thái tử nghe như vậy, liền ra cung đón rước, đảnh lễ, mời vào đại điện, cho sửa soạn chỗ ngồi, cung thỉnh an tọa, chắp tay thưa:
Cúi mong Đại sư rủ lòng thương xót, thuyết pháp cho chúng tôi.
Vị Bà-la-môn nói:
– Học đạo rất khó, ta đã biết bao công trình tìm thầy tu học, mới được hiểu biết. Ngươi chưa chút khó nhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá.
Thái tử thưa rằng:
– Kính thưa Đại sư, từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại sư dạy bảo thế nào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý.
Đại sư đáp:
– Muốn nghe pháp, thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏ hồng, rồi thái tử nhảy vào hố lửa ấy cúng dường ta, thì ta sẽ thuyết pháp.
Thái tử nói:
– Vâng, xin tuân lời chỉ dạy của Đại sư.
Sau khi thái tử sai người đào hố thì nhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong hoàng cung, ai ai cũng lo phiền và khuyên can, nhưng thái tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, nên không nghe theo những lời khuyên can ấy.
Nhà vua và các quan đều thưa với Đại sư rằng:
– Kính mong Đại sư thương đến chúng tôi, để miễn bỏ việc thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại sư muốn dùng gì chúng tôi xin dâng.
Đại sư đáp:
Việc đó tùy ý thái tử, ta không bó buộc. Đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi.
Nhà vua thấy tâm địa của Đại sư quá khẳng khái, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa. Trở về nhà vua sai người đi bằng tám vạn xe voi báo cho quốc dân trong cõi Diêm- phù-đề biết rằng: “Sau bảy ngày nữa thái tử Đàm- ma-kiềm vì nghe đạo nên xả thân, nhảy xuống hố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.”
Các tiểu vương và nhân dân được tin thái tử nhảy xuống hố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội. Sau đó một số đại biểu của nhân dân tới thưa với thái tử:
– Kính thưa thái tử, chúng tôi là thần dân gặp được thái tử như gặp được cha mẹ, nay ngài nhảy xuống hố lửa, khiến thiên hạ bị mất cha, suốt đời không còn nơi nương tựa. Vậy kính mong ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc gia được an lạc.
Thái tử nói với mọi người:
Chúng ta sống thác từ đời vô thủy cho tới nay thật vô số, chết cõi này sinh cõi kia, con người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫn nhau. Trên cõi trời, khi hết tuổi thọ thì lo về mất hưởng thụ dục lạc; nơi địa ngục lửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm, hình phạt vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết bao lần, thân tâm thống khổ không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiên dùi vào mình loài ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng của loài súc sinh, sau lại dâng thân cho con người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đã chịu đọa đày. Xét lại những thân mạng ấy chỉ uổng mà thôi, có làm được một việc gì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đã biết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dường để nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho các ông năm phần pháp thân, cớ chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.
Mọi người nghe thái tử nói xong, ai nấy đều im lặng không dám trả lời.
Đứng bên miệng hố lửa, thái tử thưa vị Bà-la- môn:
– Kính thưa Đại sư, xin thuyết pháp cho tôi nghe trước khi nhảy xuống hố, kẻo không được nghe chánh pháp.
Vị Bà-la-môn bèn đọc bài kệ:
Thường làm theo tâm Từ
Trừ bỏ tưởng, giận hại
Đại bi thương chúng sinh
Quặn lòng rơi nước mắt!
Tu tập tâm đại Hỷ
Với mình cùng đắc pháp
Cứu giúp bằng đạo lý
Ấy là hạnh Bồ-tát.
Khi thái tử sắp gieo đầu xuống hố lửa, vua Đế Thích và Phạm vương chạy lại cầm tay hỏi:
– Chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề không ai là không nương nhờ hồng ân của thái tử, nay thái tử quyết định gieo mình xuống hầm lửa thì thiên hạ giống như con mất cha, vì sao một mình ngài ra đi mà bỏ cả thiên hạ.
Thái tử tạ Thiên vương và thần dân:
– Quý ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôi làm gì.
Tất cả trời, người đều im lặng. Nói xong thái tử nhảy xuống hố lửa. Trời đất tự nhiên chuyển biến làm cảm động cả Thiên cung. Khi đó mọi người đều sa nước mắt, lệ tràn như mưa. Ngay khi ấy hố lửa tự nhiên biến thành một ao sen, họ nhìn vào thấy thái tử ngồi trên đài sen. Lúc đó hoa trên trời bay xuống như mưa ngập ngang gối.
Nhà vua thuở đó nay là thân phụ Ngài, Tịnh Phạn vương; vị hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài, Ma-da; vị thái tử nhảy xuống hố lửa nay chính là Ngài. Vì cứu độ chúng sinh nên Ngài thuở xưa đã cầu pháp như thế, nay đã thành công, Từ bi thuyết pháp, thấm nhuần cho muôn loài đang khao khát. Sao Ngài nỡ bỏ tất cả mà vào Niết-bàn, không chịu thuyết pháp?
Kính bạch Thế Tôn, lại nữa, vào thời quá khứ xa xưa, cách nay vô lượng kiếp, có một nước tên là Ba-la-nại, nước ấy có năm trăm vị Tiên tu trong núi, ông Uất-đà-la làm thầy các vị Tiên này. Tuy tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp của Như Lai. Ông đã từng đi khắp bốn phương trời và thông báo cho thiên hạ biết rằng: “Ai biết chánh pháp nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xin dâng biếu.”
Khi đó có một vị Bà-la-môn tới chỗ ông nói rằng:
– Tôi hiểu biết giáo pháp của Như Lai, ai muốn nghe, tôi sẽ giảng thuyết.
Vị thầy Tiên nhân chắp tay nói:
– Cúi xin thương xót nói pháp cho tôi. Vị Bà-la-môn nói:
– Học pháp rất khó, cần khổ lâu năm mới đạt được. Nay vì sao ông lại muốn nghe ngay, không thể được. Nếu ông chí thành muốn được nghe pháp thì phải theo sự dạy bảo của tôi.
Đại Tiên thưa:
– Lời giáo huấn của Đại sư, tôi không dám trái. Vị ấy liền nói:
– Nếu ngài có thể lột da của ngài làm giấy; chẻ xương của ngài dùng làm bút; lấy máu của ngài để làm mực, viết lấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết pháp cho ngài nghe.
Uất-đa-la nghe lời ấy xong, vô cùng vui mừng, tôn kính lời Phật dạy nên lập tức sai người lấy dao lột da, chẻ xương, lấy máu. Làm xong ông ngửa mặt thưa rằng:
Nay đã đúng thời nói pháp, cúi xin Đại sư mau nói.
Vị Bà-la-môn đọc bài kệ:
Thường phải nhiếp thân hành
Và không sát, trộm, dâm
Không hai lưỡi, nói ác
Nói dối, nói đơm đặt,
Tâm không tham mọi dục
Không sân giận, độc tưởng
Xa lìa mọi tà kiến
Ấy là hạnh Bồ-tát.
Vị Bà-la-môn nói xong, vị Tiên tự tay viết lại và sai người sao chép bài kệ này truyền bá khắp nhân gian để dạy bảo cho mọi người biết lối tu hành.
Bạch Thế Tôn, thuở xưa Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến như vậy mà tâm không hề hối hận, nay tại sao lại bỏ tất cả để vào Niết-bàn mà không thuyết pháp?
Bạch Thế Tôn, lại nữa, vào thời quá khứ xa xưa, cách nay vô lượng kiếp, cũng châu Diêm-phù- đề này, có một vị vua tên là Thi-tỳ, ở thành Đề-bà- bạt-đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn phu nhân và thể nữ, năm trăm thái tử, một vạn quan đại thần, vua có hạnh từ bi, thương dân như con ruột.
Lúc ấy vua Đế Thích gặp lúc năm đức lìa thân, sắp tới ngày tận số, khí sắc lúc nào cũng âu sầu, vị trời Tỳ-thủ-yết-ma thấy thế, bèn hỏi:
– Tâu Thiên vương, ngài lo lắng việc gì mà khí sắc âu sầu như vậy?
Đế Thích đáp:
– Khanh không biết hay sao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chướng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được là bao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai cũng không còn các vị Bồ-tát, ta không biết quy hướng về đâu nên ta buồn!
Tỳ-thủ-yết-ma thưa:
– Tâu Thiên vương, hiện nay ở thế gian thuộc châu Diêm-phù có một vị vua tu theo hạnh Bồ-tát, tên là Thi-tỳ, tâm ý rất bền vững và tinh tấn, sau này quyết định thành Phật. Xin Thiên vương tới đó quy y thì sẽ được hoàn thành ý nguyện và giải thoát.
Vua Đế Thích nói:
Nếu quả như lời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậy khanh hóa làm con chim bồ câu, ta hóa làm chim cắt, khanh bay trước ta bay đuổi theo sau. Khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau ta sẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.
Tỳ-thủ-yết-ma nói:
– Tâu Thiên vương, Bồ-tát là bậc xứng đáng để chúng ta cúng dường và ủng hộ, chứ không nên làm những sự đau khổ đến Bồ-tát.
Vua Đế Thích liền đọc bài kệ đáp:
Ta chẳng phải ác tâm
Nếu thật vàng nên thử
Để thử Bồ-tát xem
Có thật chí thành không?
Vua Đế Thích đọc xong, Tỳ-thủ-yết-ma tự hóa làm chim bồ câu bay trước, vua Đế Thích hóa làm chim cắt bay đuổi theo sau. Khi tới cung thành, chim bồ câu bay thẳng vào lòng nhà vua tỏ vẻ sợ hãi, rồi kêu vua cứu. Chim cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:
– Tâu thiên vương, con chim bồ câu ấy là món ăn của tôi.
Chim cắt bay lại cạnh nhà vua, nói tiếp:
– Tâu thiên vương, ngài hãy mau trả lại cho tôi, tôi đang rất đói.
Vua Thi-tỳ đáp:
– Ta vốn có thệ nguyện cứu tế cho muôn loài, nó đã lại đây với ta thì ta không trả đâu.
Chim cắt lại nói:
Tâu thiên vương, ngài tự nói cứu tế cho muôn loài, mà cướp món ăn của tôi thì tôi phải chết đói, vậy tôi không phải là một trong muôn loài hay sao?
Vua đáp:
– Nếu ta cho ngươi thứ thịt khác thì ngươi có ăn hay không?
Chim cắt nói:
– Tâu Thiên vương, vâng! Nhưng phải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi mới dùng.
Nhà vua thầm nghĩ: “Nếu thế thì phải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích, chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.” Nghĩ xong, vua lấy dao cắt một miếng thịt đùi ra trao cho chim cắt để cứu sống chim bồ câu.
Chim cắt nói với nhà vua:
– Tâu thiên vương, ngài đã mang danh là vị đại thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là một con chim nhỏ, nhưng nếu theo sự công bình, thì ngài phải mang cân để chim một bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.
Theo lời chim nói có lý phải, nên nhà vua sai người mang cân để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu để một miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, cho đến nhà vua cắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế đùi cho đến hai cánh tay, hai bạng mỡ xong vẫn còn nhẹ, sau róc hết các thớ thịt ra để lên cũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàn cân, thì đau quá, khí lực đã hết nên ngài ngã lăn xuống đất, mê mệt không biết gì. Giờ lâu tỉnh lại, vua thầm nghĩ: “Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉ vì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, chìm nổi trong ba cõi, nếm đủ tất cả mùi vị đắng cay, chưa từng làm việc phước đức. Nay, ta phải tinh tấn lập hạnh không giải đãi.” Suy nghĩ xong, vua dũng mãnh đứng lên vào bàn cân, trong tâm hoan hỷ đối với việc lành đã được thực hiện.
Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyển động sáu cách, Thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều vị Thiên tử ở các cõi trời bay xuống xem. Họ thấy một vị vua quên mình để cứu một con vật, tất cả nhân gian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi. Họ đều cảm động rơi lệ chứa chan và tung các thứ hoa xuống cúng dường.
Lúc ấy Đế Thích trở lại thân trời, đứng trước vua hỏi:
– Ngài làm những việc mà người đời không làm nổi như vậy để cầu làm gì? Nay ngài mong làm Đế Thích, Chuyển luân thánh vương hay Ma vương? Trong ba cõi ngài mong cầu làm gì?
Bồ-tát đáp:
– Thưa ngài, tôi nguyện đem lòng Từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm Đế Thích hay Chuyển luân thánh vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi.
Vua Đế Thích nói:
– Đại vương cắt thịt đau đớn như vậy, thì tâm có hối hận không?
Đáp:
– Thưa không! Vua Đế Thích nói:
– Nhà vua nói không, việc đó thì ai biết? Tôi thấy thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắc đã gần hết mà tự nói không thì lấy gì làm bằng?
Nhà vua liền lập thệ:
– Tôi từ trước đến nay, không mảy may hối hận, tâm nguyện của tôi quyết sẽ đạt kết quả. Nếu lòng tôi chí thành không trái với lời nguyện của tôi thì cho thân thể của tôi liền được bình phục.
Thệ nguyện dứt lời, thân thể nhà vua lại được lành mạnh như cũ, những vết thương tiêu tan da dẻ lại tươi sáng hơn xưa. Bấy giờ tất cả trời người, ai nấy đều vui mừng, khen la một việc chưa từng có. Bạch Thế Tôn, ngày trước Ngài vì chúng sinh chẳng kể đến thân mạng như vậy. Nay bạch Thế Tôn, biển pháp đã đầy, cờ pháp đã dựng, trống pháp đã lập, đèn pháp đã chiếu, vì lợi lạc mà thuyết pháp độ sinh, nay đã đúng thời. Bạch Thế Tôn, sao
Ngài nỡ bỏ chúng sinh mà vào Niết-bàn.
Bấy giờ Phạm vương đứng trước Đức Phật chắp tay tán dương công đức và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cách thành thực, nên Đức Phật hứa nhận lời ông thỉnh.
Đầu tiên Ngài đến nước Ba-la-nại ở khu Lộc uyển chuyển vận bánh xe chánh pháp. Ngôi Tam bảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.
Bấy giờ các vị Trời, Người, Rồng, Quỉ thần, tám bộ chúng ai cũng đều hoan hỷ kính vâng phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Thế Tôn trú tại khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đã đến giờ khất thực. Ngài mang y, cầm bát cùng với A-nan vào thành khất thực. Khi đó có một bà lão chỉ có hai người con trai do tội trộm cắp ngang tàng, chủ nhân bắt được dẫn đến nhà vua, xét theo sự bình đẳng của luật pháp thì tội này phải xử tử, liền giao cho quân pháp đem đến pháp trường. Trên đường đi gặp Phật, cả ba mẹ con hướng đến Phật đảnh lễ cầu xin cứu giúp:
– Bạch Thế Tôn, xin Ngài rủ lòng thương xót nỗi khổ, cứu giúp mạng sống con tôi.
Với sự thành tâm chí thiết thật đáng thương tâm, Như Lai với lòng Từ bi, liền sai A-nan đến chỗ nhà vua để xin tha mạng. Sau khi nghe lời Đức Phật dạy, vua liền cho phóng thích họ.
Thoát được sự hiểm nguy, cảm ân đức cao dày của Đức Phật, họ vui mừng khôn xiết đi đến chỗ Đức Phật đảnh lễ sát đất, chắp tay thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, mong nhờ hồng ân của Phật mà chúng con được thoát chết, cúi mong Đức Thế Tôn, vì chúng con, rộng mở tâm Từ bi chấp nhận chúng con vào đạo.
Đức Phật chấp nhận và nói: “Thiện lai Tỳ- kheo!” Tự nhiên râu tóc họ rụng xuống, áo quần đang mặc biến thành pháp y ca-sa, trong tâm phát khởi cung kính và lòng tin vững chắc. Sau đó Đức Phật thuyết pháp, các trần cấu được đoạn tận, hai người con chứng quả A-la-hán và người mẹ chứng quả A-na-hàm.
Bấy giờ A-nan thấy rõ sự việc như vậy, liền ca ngợi:
– Thật là việc rất hiếm có.
Ca ngợi vô lượng đức hạnh của Đức Như Lai rồi ngài tự nghĩ: “Ba mẹ con người này do phước nghiệp gì từ đời trước mà nay gặp được Thế Tôn, thoát khỏi tội nặng lại chứng được Niết-bàn? Ngay tại đời này gặp được nhiều lợi ích thù thắng như vậy? Thật là may mắn quá!”
Đức Phật dạy A-nan:
– Ba vị này chẳng những ngay kiếp này Ta đã cứu mạng sống mà trong kiếp quá khứ lâu xa Ta cũng đã từng gia ân cứu giúp mạng sống của họ.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Không rõ trong quá khứ lâu xa, Đức Thế Tôn cứu mạng sống của họ bằng cách nào, mong Đức Thế Tôn dạy rõ.
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vào thuở quá khứ xa xưa, cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tại Diêm-phù-đề này có một vị vua nước lớn tên là Ma-ha-la-đàn-na (Tần gọi là Đại Bảo), cai trị ba ngàn nước nhỏ. Vua có ba người con: Người thứ nhất tên là Ma-ha-phú- na-ninh. Người thứ hai tên là Ma-ha-đề-bà. Người thứ bà tên là Ma-ha-tát-đỏa. Người con út này hay thực hành hạnh Từ bi, thương xót mọi loài như con ruột.
Một hôm, đức vua cùng quần thần, phu nhân và các thái tử ra ngoài thành du ngoạn ngắm cảnh. Đi một quãng nhà vua muốn nghỉ mệt dưới gốc cây. Khi đó ba vị thái tử đi vào rừng chơi, thấy con cọp mẹ sinh hai cọp con, dáng bộ đói khát suy kiệt lại muốn ăn thịt con của nó. Khi đó người em nói với hai anh rằng:
– Con hổ này khốn khổ khốc liệt, suy yếu kiệt quệ lại mới sinh hai cọp con, em xem thấy nó muốn ăn hai con nó.
Hai người anh đều đáp:
– Đúng như lời em nói.
Người em lại hỏi:
– Con hổ này thường ăn thứ gì? Hai người anh đáp:
– Nó ăn thịt và huyết tươi.
Khi hiểu được như vậy, người em nói:
– Nay có ai có thể hy sinh, làm việc cứu mạng nó để nó được sống còn không?
Hai người anh đáp:
– Việc ấy khó lắm.
Lúc đó người em tự nghĩ: “Ta từ trước tới nay trong dòng sinh tử đã bỏ thân này vô số kể. Nhưng việc xả bỏ thân mạng hoặc vì tham dục, sân hận hoặc si mê chứ chưa lần nào vì đạo pháp; nay gặp phước điền, thân này đâu có thiết. Sau khi suy nghĩ kỹ và quyết định, cả ba anh em tiến về phía trước. Đi chưa xa lắm, người em nói với hai anh:
– Hai anh cứ đi, em có chút việc riêng.
Nói rồi, người em quay ngược lại, theo lối cũ đi đến với ba mẹ con cọp, gieo mình nơi miệng cọp mẹ, nhưng vì quá kiệt sức cọp mẹ không thể há mồm ăn được. Khi ấy thái tử liền lấy que nhọn đâm vào thân mình khiến chảy máu, hổ mới liếm được. Liếm xong hổ tỉnh táo mới đứng dậy há miệng ăn thịt thái tử.
Hai anh đợi một hồi lâu không thấy trở lại liền đi tìm kiếm, bỗng nhớ lại ý định của người em trước đây, chắc đến nơi đó để thí thân cho mẹ con cọp. Khi hai người anh đến nơi thì thấy thi thể của Ma-ha-tát-đỏa nằm trước mặt hổ, hổ ngấu nghiến ăn, máu thịt lai láng. Hai người anh thấy vậy vật vã trên đất bất tỉnh, một lúc sau mới hồi tỉnh.
Bấy giờ phu nhân đang nghỉ mệt dưới gốc cây, nằm mộng thấy có ba con chim bồ câu đang đùa giỡn trong rừng, bỗng nhiên có con chim ưng xuất hiện vồ mất chim bồ câu nhỏ. Tỉnh giấc, hoàng hậu hướng đến vua, thuật lại câu chuyện:
– Thiếp nghe người ta bàn rằng: “Mộng thấy chim bồ câu tức có liên hệ đến con cháu, nay con bồ câu nhỏ bị chết tức có liên hệ đến ái tử, người con út của chúng ta gặp việc không lành.”
Vua liền sai bề tôi thân cận đi khắp nơi để tìm kiếm, chưa được bao lâu thì hai người anh trở về. Cha mẹ liền hỏi:
– Ái tử yêu quý của ta nay đang ở đâu?
Hai người anh nghẹn ngào không nói được nên lời, một lúc sau mới thốt ra được:
– Em của con đã bị hổ ăn thịt rồi!
Cha mẹ vừa nghe nhào người xuống đất chết lặng không hay biết gì nữa, thật lâu sau đó mới tỉnh lại. Rồi vua, phu nhân và hai người con cùng nhóm thể nữ tức tốc đi đến chỗ thi thể của thái tử, khi đến nơi hổ đói đã ăn hết thịt, còn lại bộ xương nằm bừa bãi trên đất. Người mẹ nâng cái đầu, cha giữ đôi tay, thương khóc thảm thiết, ngất rồi lại tỉnh.
Sau khi Ma-ha-tát-đỏa mạng chung, liền sinh lên cõi trời Đâu-suất, tự nghĩ: “Ta do nhân duyên gì mà thọ nhận được quả báo này?” Ngài liền dùng Thiên nhãn quán sát khắp năm cõi thấy tử thi trước của mình đang ở trong núi, cha mẹ đang còn luyến tiếc thương khóc. Vì thương cha mẹ mê mờ không biết nên mới thương khóc thảm thiết, có thể do thương tiếc buồn rầu mà ảnh hưởng nguy hiểm đến tánh mạng, ta làm sao để lựa lời can gián. Sau khi nghĩ vậy, Ngài bèn từ cõi trời bay xuống đứng giữa không trung mà giải thích và khuyên can.
Hai người trông lên và hỏi:
– Ông là thần gì xin cho biết?
Từ trên không trung, ngài trả lời:
– Con là Ma-ha-tát-đỏa do xả thân cứu cọp đói nên được sinh lên cõi trời Đâu-suất. Thưa phụ hoàng và mẫu thân, nên biết rằng tất cả sự việc đều trở về không, có sinh ra tất phải có hồi kết thúc, làm ác thì đọa địa ngục, làm lành thì được sinh
Thiên. Sống chết là lẽ thường nhiên cha mẹ không nên mãi chìm đắm trong biển khổ phiền não sầu ưu, mà sớm tự mình giác ngộ, siêng năng tu tập, làm các việc lành.
Cha mẹ đáp:
– Con thực hành hạnh Từ bi, thương xót tất cả, bỏ cha mẹ mà chọn lấy cái chết, lòng cha mẹ luôn luôn nhớ nghĩ đến con, thương nhớ đứt từng khúc ruột, cha mẹ ngày đêm nhớ thương sầu khổ, con lo tu hạnh Từ bi như vậy có xứng hợp không?
Bấy giờ, trên không trung người con dùng nhiều lời kệ có nội dung khéo léo, nhiệm mầu để báo đáp công ân cha mẹ. Cha mẹ nghe xong bớt đi sầu muộn và có phần tỉnh ngộ. Sau đó vua cha làm hòm bằng thất bảo, thu xương cốt bỏ vào trong, cho an táng và xây tháp phụng thờ. Ngài trở về cung trời. Vua, hoàng hậu cùng tất cả trở về hoàng cung.
Đức Phật dạy A-nan:
– Thuở ấy, đại vương Ma-ha-la-đàn-na chẳng phải ai khác, nay chính là phụ vương của Ta, Duyệt-đầu-đàn. Vương phu nhân là mẹ của Ta, Ma-ha Ma-ya. Ma-ha-phú-na-ninh, nay là Di-lặc. Thái tử Ma-ha-đề-bà nay là Bà-tu-mật-đa-la. Thái tử Ma-ha-tát-đỏa, chẳng phải ai khác chính là Ta đây. Hổ mẹ nay chính là lão mẫu. Hai hổ con tức là hai người con trai này. Ta vào kiếp quá khứ đã cứu họ được an toàn tánh mạng. Ta nay đã thành
Phật cũng cứu thoát họ khỏi ách nạn kia và thoát được nỗi khổ lớn sinh tử luân hồi.
Bấy giờ ngài A-nan cùng mọi người trong hội chúng nghe Đức Phật dạy như thế, đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này, một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá- vệ.
Bấy giờ, vào lúc đầu đêm có hai vị trời đến chỗ Đức Phật, thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp vườn Kỳ hoàn, sắc như màu vàng. Đức Phật cũng tùy nghi mà diễn nói Diệu pháp. Cả hai vị tâm ý đều được khai ngộ và chứng được Đạo tích (Nhập lưu). Họ đảnh lễ Đức Phật và trở về cõi trời.
Sáng sớm ngày mai ngài A-nan hỏi Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, đêm hôm qua có hai vị trời đến yết kiến Thế Tôn, con thấy họ oai tướng rạng ngời, ánh sáng tỏa khắp, ngày trước họ tạo công đức gì mà nay lại được kết quả thù thắng như vậy?
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vào thời Phật Ca-diếp, sau khi Phật diệt độ, chánh pháp bước vào thời kỳ cuối cùng, có hai vị Bà-la-môn thọ trì tám pháp trai giới.
Một người mong được sinh lên trời, còn vị kia mong được làm vua một nước.
Người thứ nhất khi trở về nhà, bị người vợ ép cùng ăn phi thời. Người chồng đáp:
Anh đã thọ trai giới, quá giờ ngọ không được ăn.
Người vợ nói:
– Anh thuộc dòng họ Phạm chí đã sẵn có giới pháp, tại sao anh lại đi thọ trai giới của ngoại đạo, rồi sinh ra mâu thuẫn không cùng ăn với em. Việc này em sẽ đem ra nói cho các Phạm chí khác được biết, họ sẽ đuổi và không cho anh tham dự vào các buổi hội họp.
Sau khi nghe lời hăm dọa, ông ta rất đổi sợ hãi liền cùng người vợ ăn uống phi thời. Hai người tùy theo tuổi thọ dài ngắn rồi cũng đều chết.
Người mong làm vua, do công phu trì trai giữ giới trọn vẹn nên được sinh trong gia đình vương giả. Người mong sinh lên trời, do phạm trai giới, nên sinh trong loài rồng.
Bấy giờ có một người giữ vườn cho vua, ngày ngày dâng các loại trái cây. Sau đó người này đi ra ngoài dòng suối, thấy được một quả nại khác lạ vô cùng ở trong nước, màu sắc và mùi vị rất thơm ngon, liền nghĩ: “Ta mỗi ngày ra vào thường gặp quan môn giám, nên đem biếu cho ông ta.” Sau khi nghĩ như vậy, ông liền đem biếu cho quan giám môn. Sau khi nhận, liền nghĩ: “Mọi việc của ta tốt đẹp đều nhờ quan hoàng môn, nhờ ông mà được tới lui, nên đem biếu cho ông ta”, liền đem quả nại biếu cho quan hoàng môn. Quan hoàng môn nhận rồi đem biếu cho phu nhân, phu nhân đem dâng cho vua. Vua ăn trái xong biết được mùi vị thơm ngon tuyệt vời liền hỏi phu nhân trái này từ đâu mà có. Phu nhân thuật lại ngọn ngành, được biết từ quan viên giám, vua cho triệu vào và hỏi:
– Vườn của ta có trái thơm ngon như vậy, sao không thấy dâng cho ta, mà lại đem cho người khác.
Quan viên giám giải thích rõ đầu đuôi. Vua ra lệnh:
– Từ nay về sau, ngày nào cũng dâng quả nại này cho ta, không được gián đoạn.
Quan viên giám tâu:
– Quả nại này không thấy gốc gác, hạ thần nhặt được từ dòng suối, nếu nhà vua ra lệnh ngày nào cũng đem dâng thì không làm sao mà hoàn thành được.
Nhà vua nghiêm khắc phán lệnh:
– Nếu nhà ngươi không hoàn thành nhiệm vụ, ta sẽ xử trảm.
Quan viên giám thất thểu bước ra, tiến về khu vườn khóc lóc sầu não. Tiếng khóc càng lúc càng lớn, rồng nghe tiếng khóc hiện làm thân người, tiến đến gần hỏi:
– Ông có chuyện gì mà buồn thảm khóc lóc như vậy?
Quan giữ vườn trình bày đầy đủ sự việc, rồng liền trở lại dòng nước, lấy nhiều quả ngon ngọt đặt trên mâm bằng vàng, đem đến cho quan viên giám và bảo:
– Ông đem mâm quả này dâng đến nhà vua của ông và nhắc lại rằng: ‘Ta và vua trước đây là bạn hữu, kiếp trước ở trên thế gian này đều thuộc dòng Phạm chí, cả hai cùng thọ giới Bát quan trai, mỗi người có một ý nguyện. Ông ta giữ giới trọn vẹn được làm ngôi vua, còn ta không giữ giới hoàn toàn nên sinh vào trong loài rồng.’ Nay ta muốn thọ trì và tu tập pháp Bát quan trai để xả bỏ thân này, mong vua tìm giúp ta một phương tiện để thọ trì tám pháp trai giới. Nếu trái với ý định ta sẽ lật úp quốc độ của vua biến thành biển cả.
Quan viên giám khi nhận được mâm quả đem dâng cho vua và trình bày lại những lời nhắn gởi của rồng. Vua nghe xong trong lòng không vui. Tại sao? Vì hiện tại ở trong nước không có truyền bá Phật pháp, văn kinh Bát quan trai cũng đã tận diệt từ lâu, nay không cách nào mà kiếm ra được, nếu không cân nhắc vấn đề này, sợ rằng sẽ có nguy hại đến đất nước. Ngày đêm dốc tâm vào việc này nên vua sinh buồn rầu lo lắng. Nhà vua, lúc ấy có một vị đại thần, được mọi người hết sức kính trọng, vua nói với vị đó:
– Thần rồng nhờ ta tìm giúp bài văn Bát quan trai giới. Mong khanh làm được, ta giao việc này cho khanh.
Vị đại thần tâu:
– Thời nay không có Phật pháp, làm sao mà kiếm ra được?
Nhà vua lại ra lệnh:
Khanh không làm được việc này, ta sẽ giết khanh.
Khi nghe vua phán như vậy, vị ấy tâm ý buồn rầu liền trở về nhà. Vị đại thần có một người cha già tuổi rất cao, bất kỳ khi nào về nhà ông cũng luôn tỏ ra vui vẻ để làm vui lòng người cha, nhưng hôm đó người cha thấy sắc mặt của con khác thường, ông liền hỏi con có chuyện gì xảy ra. Người con nói ra sự việc. Người cha nói:
– Nhà ta có cây trụ, ngày đêm phát ra ánh sáng con thử phá ra xem sao, chắc có vật gì kỳ lạ bên trong.
Nghe theo lời cha, người con sai người cầm rìu bổ cây, lấy ra được hai quyển kinh: Một quyển kinh Thập Nhị Nhân Duyên và một quyển văn thọ giới Bát quan trai. Vị đại thần liền đem dâng vua, vua rất mừng đến nỗi mất tự chủ, vua liền sai lấy mâm vàng đặt quyển kinh lên biếu cho rồng, rồng nhận được kinh lòng rất hân hoan, đem rất nhiều báu vật dâng tặng cho vua. Rồng liền thọ trì tám phép trai giới một cách tinh tấn chuyên cần. Sau khi mạng chung liền sinh Thiên giới. Nhà vua cũng vậy, lo tinh tấn tu tập Bát quan trai giới nên sau khi chết cũng sinh lên cõi trời cùng ở một chỗ.
Đến đây, Đức Phật dạy:
– Này A-nan đêm hôm qua hai vị trời ấy đến nghe Ta thuyết pháp chứng được quả Tu-đà-hoàn, vĩnh viễn ra khỏi ba đường, dạo đi trong cõi trời, cõi người, sau cùng sẽ đắc được đạo quả Niết-bàn.
Đức Phật dạy xong, tất cả trong chúng hội đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe vầy:
– Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ trong nước có Đại trưởng giả sinh một người con trai, mặt mày khôi ngô, vừa sinh được mấy ngày đã biết nói. Cậu bé hỏi cha mẹ:
– Đức Phật đang còn tại thế không? Đáp:
– Đang còn.
Lại hỏi:
– Ngài Xá-lợi-phất và A-nan còn tại thế không? Đáp:
– Vẫn đang còn.
Cha mẹ cậu bé suy nghĩ: “Nếu sinh ra liền biết nói, đây chắc không phải là người, một hiện tượng hết sức quái dị! Họ liền đến hỏi Phật. Đức Phật dạy:
Đứa hài nhi này rất có phước đức, không nên hoài nghi.
Cha mẹ cậu bé nghe vậy, tâm rất hoan hỷ liền trở về nhà.
Cậu bé nói:
– Con muốn cha mẹ thỉnh Đức Phật và chúng Tỳ-kheo Tăng về nhà để cúng dường.
Cha mẹ đáp:
– Muốn thỉnh Phật và chúng Tăng cần phải chuẩn bị đầy đủ nghiêm túc, không thể không chu đáo.
Người con nói:
– Cha mẹ cho quét dọn nhà cửa sạch sẽ, giường chiếu trang nghiêm, bày ba tòa cao đẹp, rồi trăm món ăn thượng vị tự nhiên sẽ có. Con còn một bà mẹ nữa nay đang còn sống ở tại nước Ba-la-nại, xin cho người mời về.
Cha mẹ đồng ý cho người cấp tốc mang xe voi mời về. Nguyên nhân cho bày ba tòa cao: Một là cúng dường cho Đức Như Lai, hai là cho bà mẹ sinh, ba là cho bà mẹ dưỡng.
Khi Đức Phật và chúng Tăng vào nhà theo thứ tự mà ngồi, đồ ăn ngon bổ được dọn ra đầy đủ và đẹp đẽ. Đức Phật thuyết pháp, người cha, hai người mẹ cùng các vị trong nhà đều nghe và chứng được Sơ quả.
Cậu bé sau khi lớn cũng xin xuất gia, siêng năng tu tập Chánh đạo và chứng đắc quả A-la-hán.
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Sa-môn này do phúc đức và thiện căn đời trước như thế nào, mà nay được sinh vào gia đình giàu có, mới sinh liền biết nói, lại được học đạo và đắc quả Thần thông?
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vị ấy kiếp trước sinh trong một gia đình trưởng giả ở Ba-la-nại, sau khi cha mẹ mất, gia sản tiêu hao đi đến bần cùng khốn khổ. Tuy gặp Phật ở đời nhưng không có gì để cúng dường, trong lòng không vui, tự thấy bế tắc. Một hôm anh ta nghĩ: “Ta nên xả bỏ mặc cảm dòng họ làm người thuê mướn.” Sau đó một năm anh ta đòi mượn tiền của chủ.
Chủ hỏi:
– Anh mượn tiền cưới vợ phải không? Đáp:
– Không.
Người chủ hỏi:
– Vậy ông hỏi mượn tiền để làm gì? Đáp:
– Tôi muốn dùng số tiền đó mua sắm lễ vật, trai phạn để cúng dường Phật và chúng Tăng.
Người chủ giàu có nói:
– Nếu thỉnh Phật và chúng Tăng thì ta sẽ cho tiền và lo tổ chức trai hội tại tư gia của ta.
Anh ta đồng ý, liền lo thiết trai, những món ngon lạ quý hiếm thỉnh Phật và chúng Tăng đến cúng dường. Do những nhân duyên đó mà nay, sau khi chết, được sinh vào nhà trưởng giả giàu có, thỉnh Phật, Tăng cúng dường, nghe được chánh pháp và chứng đắc đạo quả.
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, người bần cùng ở kiếp trước đó, nay là con của vị trưởng giả, là bậc Sa-môn này vậy.
Sau khi nghe Đức Phật dạy, tất cả người trong hội chúng đều hoan hỷ ghi nhớ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà
Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ, trong nước có năm trăm người lái buôn định ra biển để tìm châu báu, họ bàn với nhau, cần thỉnh cầu một người sáng suốt tài đức để dẫn đường. Sau đó họ tìm và mời được một vị Ưu- bà-tắc, thọ trì năm giới cùng đi với họ vào biển cả. Khi đang lênh đênh trên biển, vị Thần biển biến thành quỉ Dạ-xoa, hình thể xấu xí, sắc diện tái xanh, răng nanh chĩa ra, lửa dữ trên đầu, đến nắm thuyền lại rồi hỏi.
– Này các lái buôn, trên thế gian này có ai đáng sợ hơn tôi không?
Vị hiền giả đáp:
– Có người đáng sợ hơn ông gấp trăm ngàn lần. Thần biển hỏi:
– Đó là những ai? Đáp:
Trên đời có nhiều kẻ ngu, làm những việc bất thiện: giết hại, trộm cắp, dâm dật vô độ, nói dối, nói hai lưỡi, nói thô ác, dùng lời trau chuốt, tham dục, sân hận, chìm sâu vào tà kiến, chết đọa địa ngục, chịu khổ muôn điều, quân ngục tốt bắt kẻ có tội trừng trị theo nhiều cách, hoặc dùng đao đâm, dùng xe nghiền nát ra nhiều mảnh, hoặc bỏ vào cối để giã, hoặc xay và các hình phạt như núi đao, rừng kiếm, xe lửa, vạc dầu, nước sôi, băng giá, nước tiểu... tất cả chịu khổ, trải qua ngàn vạn năm, như vậy thật là đáng sợ hơn ông rất nhiều.
Quỉ Dạ-xoa nghe xong buông thuyền cho đi, rồi ẩn hình biến mất, thuyền đi được vài dặm, thần biển liền hóa hình thành một người, hình thù xấu xí, gân cốt liền nhau, nắm thuyền kéo lại, hỏi mọi người:
Này các ông, trong thế gian có ai xấu hơn tôi không?
Vị hiền giả đáp:
– Có nhiều kẻ xấu xí hơn ông rất nhiều. Vị Thần biển hỏi:
– Ai là người xấu hơn? Hiền giả đáp:
– Có kẻ ngu si, tâm tánh xấu ác, tham lam, đố kỵ, không biết bố thí, sau khi chết đọa kiếp ngạ quỉ thân lớn như ngọn núi, cổ bé như cây kim, đầu tóc rối bời, hình thể đen xấu, trải qua muôn ngàn năm không biết cơm, nước ra sao? Chịu những cực hình như vậy, một cách kịch liệt hơn ông nhiều.
Thần biển buông thuyền cho đi, rồi ẩn mình biến mất. Thuyền đi được vài dặm, Thần biển lại biến thành một người vô cùng xinh đẹp, đến vịn thuyền hỏi:
Này các khách buôn, trong đời có ai đẹp hơn ta không?
Vị hiền giả đáp:
Có người đẹp gấp trăm ngàn lần vẻ đẹp của ông.
Thần biển hỏi:
– Ai đẹp hơn ta? Đáp:
– Trong đời gặp người có trí, tôn trọng và thực hành các điều lành, luôn giữ thân khẩu ý nghiệp thanh tịnh, tin kính Tam bảo. Tùy lúc cúng dường, người ấy mạng chung được sinh lên cõi trời, hình thể trong sáng, tướng mạo trang nghiêm, sắc đẹp vượt ông trăm ngàn vạn lần. Nếu đem ông mà so sánh thì cũng giống như con khỉ cái so với cô gái trẻ đẹp.
Thần biển lại bốc một vốc nước rồi hỏi:
– Nước trong tay ta nhiều hay nước trong biển nhiều.
Vị hiền giả đáp:
– Nước trong tay ông nhiều hơn nước trong biển.
Thần biển hỏi:
– Ông nói như vậy, có thành thật không? Đáp:
– Lời nói của tôi hết sức thành thật, không bao giờ hư dối.
Thần biển liền hỏi:
– Ông lấy gì để chứng minh cho cách nói đó. Vị hiền giả đáp:
– Nước trong biển tuy nhiều nhưng cũng có ngày khô cạn, khi trời tai kiếp đến hai mặt trời xuất hiện thì ngòi, lạch, suối, ao khô cạn. Ba mặt trời xuất hiện thì các sông nhỏ khô cạn. Bốn mặt trời xuất hiện thì các sông lớn, biển nhỏ khô cạn, khi năm mặt trời xuất hiện thì biển lớn lượng nước giảm bớt. Sáu mặt trời xuất hiện thì lượng nước ba phần giảm bớt hai, khi bảy mặt trời xuất hiện thì nước biển cạn hết. Núi Tu-di băng hoại, cho đến khu vực núi Kim cương cũng đều cháy rụi.
Nếu có người đầy đủ tín tâm dùng vốc nước đó mà cúng dường Đức Phật hoặc chư Tăng hay dâng cho cha mẹ, hoặc bố thí cho kẻ bần cùng hoặc cho cầm thú thì công đức này trải qua nhiều kiếp cũng không hết được. Qua sự trình bày đó thì đã rõ là nước trong biển kia so với nước trong nắm tay kia không nhiều lắm.
Thần biển nghe xong lòng rất hoan hỷ liền đem châu báu dâng tặng Hiền giả và gởi cúng dường Đức Phật cùng chư Tăng. Đến đây, các người lái buôn cùng vị Hiền giả thâu nhặt bảo vật đầy đủ trở về nước. Sau khi về nước, họ đem số bảo vật mà Thần biển gởi cúng dâng lên Đức Phật và chúng Tăng. Tất cả đều đảnh lễ Phật, quỳ xuống chắp tay và bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin Đức Thế Tôn từ bi cho chúng con được xuất gia học đạo.
Đức Thế Tôn thấy cơ duyên đã đến, Ngài chấp nhận và gọi: “Thiện lai Tỳ-kheo!” Tất cả họ râu tóc đều rụng, thân mặc Pháp y. Đức Phật thuyết pháp ứng hợp với căn cơ, tất cả đều được khai ngộ, các dục đều được vắng lặng chứng quả A-la-hán.
Tất cả hội chúng nghe Phật thuyết pháp, tất cả đều hoan hỷ ghi nhớ, cung kính thực hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Thế Tôn trú tại tinh xá vườn Trúc, nước La-duyệt-kỳ.
Bấy giờ, ở trong nước có quan phụ tướng, nhà cửa giàu có mà không có con. Ở bên sông Hằng có một ngôi đền thờ thần Ma-ni-bạt-la, nhân dân tại đó đều tôn sùng lễ bái. Một hôm quan phụ tướng đến ngôi đền đó cầu đảo:
Vợ chồng tôi không có con, được nghe về sự linh ứng của ngài, cứu độ quần sinh, ai cầu gì đều được mãn nguyện, vì thế nay tôi đến xin quy y ngài mong ngài chứng giám lời nguyện thành khẩn của tôi và ban cho tôi một đứa con trai. Nếu được như vậy tôi sẽ đem vàng bạc để trang điểm trên thân của ngài và đêm hương hoa quý để điểm tô nơi miếu của ngài, bằng không linh nghiệm tôi sẽ phá tan ngôi miếu và đem phân dơ trát vào thân của ngài.
Thiên thần nghe xong liền suy nghĩ: “Người này giàu sang, có thế lực mạnh, chẳng phải thuộc hạng tầm thường, đến đây cầu con nhưng ta đức độ quá ít không thể đáp ứng lời nguyện đó được. Nếu như lời cầu nguyện đó không mang lại kết quả chắc chắn ta phải bị hủy nhục.” Thần miếu liền sang cầu cứu Ma-ni-bạt-la. Ma-ni-bạt-la cũng không đủ sức thực hiện được, liền đến Tỳ-sa-môn vương trình bày sự việc, Tỳ-sa-môn cũng không thể, liền đến Thiên đế để cầu ngài giúp, Tỳ-sa-môn lên trời trình bày sự việc với vua Đế Thích:
– Tôi có một hạ thần tên là Ma-ni-bạt-la lên kêu rằng: “Ở thành Vương xá có quan phụ tướng muốn cầu có được người con và hứa nếu được thì ông ta sẽ cúng dường trọng hậu, còn nếu ngược lại thì ông ta sẽ phá tan ngôi miếu đó và làm nhục tôi.” Tánh khí của người giàu có kia hung hăng chắc chắn sẽ làm như vậy. Thật may mắn, mong Thiên đế cứu giúp cho!
Đế Thích đáp:
– Sự việc này cũng rất nan giải, để ta thử tìm một cách thức nào đó.
Khi ấy có một vị trời năm đức lìa thân sắp đến ngày chết, Đế Thích liền bảo:
– Người đến ngày sắp mạng chung nên cầu thọ sinh vào gia đình của quan phụ tướng kia.
Vị Thiên tử đáp:
– Ý thần muốn xuất gia tu tập thực hành chánh pháp. Nếu sinh vào nhà của người giàu có ắt khó xả ly. Thần muốn sinh vào nhà trung lưu để hoàn thành được chí nguyện.
Đế Thích khuyên:
– Người cứ hạ sinh vào gia đình kia đi, rồi muốn xuất gia tu đạo ta sẽ hỗ trợ cho.
Vị trời liền thọ sinh vào gia đình quan phụ tướng. Khi sinh ra đứa bé có tướng mạo rất xinh đẹp. Cha mẹ cho mời tướng sư để đặt tên cho con. Vị tướng sư hỏi:
– Đứa bé này được cầu tự từ đâu? Quan phụ tướng đáp:
– Cầu ở miếu thần gần bên sông Hằng.
Nhân đó mà đặt tên cho chú bé là Hằng-già-đạt. Càng ngày càng khôn lớn, tâm trí cậu bé chuyên vào chánh pháp. Một hôm cậu ta xin với cha mẹ được xuất gia học đạo. Cha mẹ cậu trả lời:
– Sản nghiệp của cha giàu sang phú quý, chỉ có mình con để nối nghiệp gia đường, nếu con xuất gia thì cha mẹ chẳng có ai sớm khuya hầu hạ.
Do vậy nên cha mẹ cậu đều không ưng thuận. Người con chí nguyện bị trở ngại lòng rất buồn rầu, liền nghĩ: “Có lẽ ta phải bỏ thân này cầu sinh vào một gia đình thường dân, để thực hiện chí nguyện xuất gia chắc dễ dàng hơn nhiều.”
Người con âm thầm ra đi, lên ngọn núi cao lao đầu xuống vực nhưng không bị tổn thương. Lại đến bên bờ sông lao mình xuống nước tự tử, nhưng có dòng nước đưa anh ta trôi dạt vào bờ không gặp hiểm nguy. Anh ta bèn uống độc dược tự sát nhưng thuốc độc không có tác dụng. Anh ta dùng mọi phương tiện để tìm cái chết nhưng vô hiệu, liền nghĩ có lẽ ta làm một việc gì phạm vào pháp vua, sẽ bị vua bắt và giết đi. Khi đó, gặp lúc vua, phu nhân cùng các thể nữ ra khỏi cung thành đến ao vua để tắm rửa, tất cả đều thoát y phục để dưới bụi cây. Hằng-già-đạt lẻn vào bụi cây đánh cắp y phục đem ra ngoài. Quan môn giám thấy vậy bắt lại dẫn đến vua A-xà-thế tâu. Vua nghe xong nổi giận lôi đình liền lấy cung tên hạ thủ anh ta ngay, nhưng khi tên bắn ra liền bay ngược trở lại ngay hướng của vua. Bắn ba lần như vậy mà không trúng, vua hoảng hốt liền ném cây cung mà hỏi:
– Khanh là Trời, Rồng hay Quỉ thần? Hằng-già-đạt nói:
– Xin hãy giúp cho tôi hoàn thành được chí nguyện, tôi mới nói.
Vua nói:
– Ngươi nói rồi ta sẽ giúp. Hằng-già-đạt trình bày:
Tôi chẳng phải là Trời, cũng không phải là Rồng hoặc Quỉ. Tôi là con của quan phụ tướng ở thành Vương xá, muốn xuất gia học đạo nhưng cha mẹ không chấp thuận, nên muốn tự sát để đầu thai vào nơi khác để dễ hoàn thành ý nguyện. Tôi đã nhảy từ núi cao, lao xuống sông sâu, uống độc dược mà không chết được, vì thế cố ý phạm vào phép vua mong vua gia hình phạt xử tử để hoàn thành ý nguyện, sự tình là như vậy. Với chí nguyện cao cả đó mong ngài chiếu cố thương xót cho lòng mong cầu Chánh đạo của tôi.
Nhà vua nói:
– Ngươi có tâm xuất gia tu học Chánh đạo, rất tốt. Khi nhân duyên hội đủ ta sẽ đưa đi đến chỗ Phật.
Vua bạch với Đức Thế Tôn về ý chí mong muốn của chàng trai, Đức Phật bảo: “Thiện lai Tỳ- kheo!” Râu tóc chàng tự rụng thân mặc pháp y, thành tướng Tỳ-kheo, nghe Phật thuyết pháp, tâm ý khai mở chứng A-la-hán đầy đủ ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát.
Vua A-xà-thế liền bạch Đức Phật:
– Hằng-già-đạt này trước đây đã trồng căn lành gì mà gieo mình từ núi cao không chết, nhảy xuống nước không chìm, độc dược chẳng hại, tên bắn không trúng, lại gặp được Đức Thế Tôn thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Đức Phật dạy:
Vào quá khứ vô số kiếp về trước, có một nước lớn tên là Ba-la-nại, vua tên là Phạm-ma-đạt.
Bấy giờ vua cùng các mỹ nữ dạo chơi trong rừng, trong lúc các thể nữ đang ca hát, ở ngoài có một người cất tiếng hát họa theo, vua nghe lời hát họa theo đó liền nổi giận cho người tìm bắt rồi hạ lệnh xử tử. Bấy giờ có vị đại thần trấn giữ bên ngoài thấy đem tội nhân đi xử liền hỏi quân hầu thân cận:
– Người này vì lý do vì mà bị vậy? Mọi người trình bày cớ sự.
Vị quan nói:
– Hãy dừng lại! Tội trạng của người này chưa đến nỗi trầm trọng phải phạm vào tội chết, tuy có hát họa theo mà chưa thấy hình hài, cho nên chưa xảy ra chuyện thông dâm với nhau, mong bệ hạ thương xót cho hắn khỏi tội chết.
Nhà vua đồng ý tha cho ông ta tội chết. Sau khi được tha, ông ta hết lòng phụng sự vị đại thần, siêng năng cần mẫn liên tục trải qua nhiều năm.
Một hôm ông ta tự nghĩ: “Dâm dục có thể đưa con người ta đi đến chỗ chết, sắc như dao kiếm, ta gần như bị khốn khổ cũng do ý niệm dâm dục.” Sau đó ông xin phép với đại thần được đi xuất gia tu hành đạo nghiệp.
Đại thần đáp:
– Tôi không dám trái lời. Nếu khi học đạo hoàn thành, hãy trở lại gặp tôi!
Ông ta hướng thẳng đến chỗ yên tĩnh núi đầm, chuyên tâm tư duy về giáo lý nhiệm mầu, tinh thần được khai ngộ, sau đó chứng được quả vị Bích-chi- phật. Như lời đã hứa trước đây, ngài trở về thành ghé nhà quan đại thần. Quan đại thần thỉnh ngài ở lại cúng dường ẩm thực ngon và y phục tốt, tứ sự đầy đủ. Khi đó vị Bích-chi-phật biến hiện thần thông ở trong hư không, nước và lửa xuất ra từ thân, phóng ra ánh sáng lớn. Vị đại thần thấy vậy lòng hân hoan vô cùng và lập lời nguyện: “Do ân cứu giúp của tôi thuở trước, nay mong ngài cho tôi đời đời được giàu sang và trường thọ, đạt được những điều đặc thù và vượt bậc gấp trăm ngàn lần, phước đức và trí tuệ và các đức tính khác được như ngài.
Đức Phật dạy:
– Này đại vương, vị đại thần cứu sống một người thuở ấy liền được đắc đạo nay chính là Hằng-già-đạt, do nhân duyên đó nay được sinh vào xứ này, không bị chết yểu, sinh ra đời gặp được Ta và chứng được đạo quả A-la-hán.
Đức Phật dạy xong, tất cả hội chúng đều kính tin, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại tinh xá vườn Trúc, thuộc nước La-duyệt-kỳ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng với A-nan vận y, cầm bát vào thành khất thực. Trong thành có hai ông bà lão đã mù đôi mắt, bần cùng khốn khổ, không nơi nương tựa, ngày đêm chỉ ngủ dưới ngọ môn. Hai người chỉ có một cậu con trai lên bảy, thường ngày đi ăn xin để về nuôi cha mẹ, xin được hoa quả tươi, thức ăn ngon thì đem về dâng cha mẹ, còn lại đồ hư dở thuộc phần mình. Khi ấy ngài A-nan trông thấy chú bé còn nhỏ mà biết cung kính hiếu thuận cha mẹ liền đem lòng thương mến, một hồi sau Đức Phật và A-nan khất thực xong trở về tinh xá.
Đúng thời Đức Thế Tôn diễn thuyết chánh pháp cho đại chúng. Ngài A-nan quỳ xuống chắp tay bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, sáng nay cùng với Thế Tôn đi vào thành khất thực, con thấy một cậu bé có tâm Từ bi rất hiếu thuận với cha mẹ, cha mẹ đều mù, ở dưới cửa thành, đi khất thực cùng khắp nếu được hoa quả tươi tốt, đồ ăn ngon, thì đem dâng cha mẹ, còn đồ hư thối thì mình ăn, thường ngày như thế, thật đáng thương quý!
Đức Phật dạy A-nan:
Bất luận là xuất gia hay tại gia mà có lòng hiếu thuận với cha mẹ thì công đức không thể nghĩ bàn, thù thắng khó lường. Vì sao? Ta nhớ vào kiếp quá khứ Ta có Từ tâm, hiếu thuận với cha mẹ, hết lòng hiếu thuận đến nỗi lấy thịt nơi thân mình mà cứu sống cha mẹ gặp lúc ngặt nghèo nguy khốn, nhờ công đức này mà trên Thiên đế dưới Thánh chủ cho đến nay thành Phật, Bậc Tối Tôn trong ba cõi đều từ phước đức này.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con không hiểu trong thời quá khứ Ngài báo hiếu cha mẹ, không tiếc thân mạng kể cả cắt thịt thân mình mà cứu cha mẹ trong lúc gặp nguy khốn. Sự việc diễn ra như thế nào mong Đức Phật chỉ dạy.
Đức Phật dạy A-nan:
– Hãy lắng nghe và suy nghiệm cho kỹ.
Ngài A-nan vâng lời và chú ý nghe. Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vào kiếp quá khứ vô lượng, vô số a-tăng-kỳ, trong cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn là Đặc-xoa-thi-lợi, vua tên là Đề-bà. Vua có mười vị thái tử, mỗi người cai trị một nước, người con út tên là Tu-bà-la-đề-trí (đời Tấn dịch là Thiên Trúc), cũng cai trị một nước, nhân dân mến chuộng, rất an lạc và sung túc.
Vào lúc đó, ở nước của vua cha có quan đại thần tên là La-hầu, ôm lòng phản nghịch giết chết đại vương, soán đoạt ngôi vua, liền cất binh đi thanh toán các thái tử ở các nước nhỏ. Người em út được Quỉ thần tôn kính, một hôm ông vào trong vườn để ngoạn cảnh có quỉ Dạ-xoa hiện lên quỳ xuống thưa:
– Đại thần La-hầu đã phản nghịch giết vua cha, bây giờ đang cất quân đi giết các anh của ngài rồi sẽ cho người đến đây để giết ngài, ngài nên tìm cách mà lánh xa cái tai họa đó đi.
Khi vua nghe như vậy, trong tâm bồi hồi lo sợ chờ lúc trời tối tìm cách lẻn trốn ra đi; còn người con trai tên là Tu-xà-đề (đời Tấn dịch là Thiện Sinh), vừa mới lên bảy, thông minh tuấn tú, rất là đáng yêu, vua thương nhớ con, bèn quay trở lại ẵm đứa con trai, buồn khổ than khóc, người vợ trông thấy vua ra vào hoảng hốt lo sợ, liền hỏi:
– Có chuyện gì xảy ra mà phu quân ở trong trạng thái bồi hồi lo sợ như vậy?
Vua đáp:
– Khanh không nên biết. Bà kéo vua lại và nói:
– Thiếp cùng bệ hạ, thân mạng như một, khi gặp hiểm nguy cùng nhau chia sẻ, chớ nên bỏ đi, có chuyện gì nên cho thiếp biết.
Vua liền nói:
Ta đang dạo chơi trong vườn có một con quỉ Dạ-xoa hiện lên, quỳ xuống thưa với ta rằng đại thần La-hầu đã dấy binh làm phản nghịch, đã giết phụ vương ta, đang đem binh lính giết hại các anh ta và nay đang đem quân đến muốn giết hại ta, nên tìm cách lánh đi. Ta nghe như vậy trong lòng lo sợ, ta sợ quân phản nghịch kéo đến rất nhanh, cho nên ta phải cấp tốc ra đi lánh nạn.
Người vợ quỳ xuống thưa rằng:
– Tâu bệ hạ cho thiếp được theo hầu, đừng bỏ thiếp một mình mà ra đi.
Lúc đó vua cùng vợ và con ra đi đến một nước khác. Lộ trình đi đến nước đó có hai con đường, thứ nhất mất bảy ngày và thứ hai mất mười bốn ngày. Lúc đầu lo sợ chỉ chuẩn bị lương thực cho bảy ngày chỉ đủ một người ăn, nhưng lúc ra khỏi thành do tâm thần hỗn loạn, nên rẽ sang lộ trình mười bốn ngày. Trải qua vài ngày lương thực đã cạn kiệt, chịu đựng cơn đói dữ dội, không có cách nào khác, vì người con yêu, vua dự tính lấy thịt của mẹ để cứu sống con. Vua bảo người vợ dẫn con đi trước, vua ở sau rút đao để lấy thịt người mẹ, bất chợt người con nhìn lại thấy vậy, liền chắp tay thưa với phụ vương:
– Xin phụ vương hãy giết con đi, chớ hại đến mẹ con.
Người con hết lòng can gián cứu được mẹ sống và thưa với phụ vương:
Không nên đoạn dứt mạng sống của con, chỉ cắt dần thịt ăn để vượt qua những ngày khốn khó, nếu dứt mạng sống thì thịt không để lâu được và sẽ bị thối rữa ra.
Cha mẹ lòng đau như cắt buồn rầu áo não, không các cách nào khác đành cắt thịt con mà ăn. Ngày ngày ăn thịt con, đến khi gần hết, chỉ còn toàn xương mà chưa đến xứ sở đó, càng lúc nạn đói càng nguy cấp. Nhà vua lại cầm đao cắt thêm một ít thịt nữa, đến lúc cha mẹ sắp từ giã, người con thưa:
– Mạng con sắp chết xin cha mẹ cho con một phần thịt, cha mẹ đồng ý chia làm ba phần, hai phần mang đi ăn và một phần để lại cho con gồm cả da, thịt, mắt, tai, mũi, lưỡi...
Lúc cha mẹ ra đi, người con lập nguyện: “Nay ta đem thịt của chính mình dâng lên cha mẹ xin hồi hướng công đức này để mong cầu Phật đạo, rộng độ tất cả chúng sinh trong mười phương, xa lìa các khổ, chứng nhập Niết-bàn.” Sau khi phát nguyện cả ba ngàn thế giới đều chấn động theo sáu cách, chư Thiên ở trong Sắc và Dục giới đều ngạc nhiên không hiểu vì sao mà cung điện bị dao động, liền dùng Thiên nhãn quan sát trong thế gian thấy một vị Bồ-tát đem thịt của chính mình mà cúng dường cho cha mẹ để mong cầu Phật đạo và hóa độ chúng sinh, vì lý do đó cho nên trời đất chấn động. Bấy giờ chư Thiên giáng xuống rất đông, đầy cả hư không, cảm động khóc lóc rơi lệ như cơn mưa lớn. Bấy giờ có một vị trời Đế Thích muốn thử tấm lòng của thái tử, liền hóa thành đứa bé đến xin, thái tử liền cho cả số thịt đang cầm trong tay, rồi lại hóa ra một con sư tử xông tới định vồ thái tử, thái tử tự nghĩ: “Các loài muông thú này muốn ăn thịt ta, ta còn lại ít thịt xương tủy não cũng bố thí cho nó.” Sau khi suy nghĩ như vậy, tâm thái tử liền hoan hỷ không có hối tiếc. Đế Thích thấy được chí khí cương nghị của thái tử liền hoàn lại nguyên hình đứng trước mặt thái tử hỏi:
– Nay người thể hiện tâm hiếu, lấy thịt cúng dường cha mẹ, với công đức này nhằm mong cầu điều gì: Thiên đế, Ma vương hay vua Phạm thiên?
Thái tử trả lời:
– Tôi không mong cầu khoái lạc trong tam giới mà với công đức này để mong cầu Phật đạo, rộng độ tất cả vô lượng chúng sinh.
Đế Thích lại hỏi:
– Người đem thân cúng dường cha mẹ có hối hận không?
Thái tử đáp:
– Lời hết lòng thành khẩn đem thân cúng dường cha mẹ không mảy may hối hận.
Thiên đế:
– Ta thấy người đem toàn thân cúng dường cha mẹ mà không hối hận, việc ấy thật khó tin!
Thái tử liền phát thệ nguyện:
Tôi cúng dường thân nguyện thành Phật đạo, không có hối hận. Để có sự xác tín, tôi với lời nguyện đó, tôi mong thân thể lại bình phục như cũ. Vừa nói xong, thân thể thái tử được bình phục như cũ. Bấy giờ, Thiên đế Thích và chư Thiên cùng nhau nói lời tán thán: “Lành thay!” Cha mẹ của thái tử và nhân dân trong nước đều đến chỗ thái tử và ca ngợi là việc chưa từng có.
Khi sự việc xảy ra như thế, có một vị vua nước lân cận biết rõ thái tử có một đức tính cao cả đặc thù như vậy, trong lòng cung kính bội phần, hoan hỷ vô lượng, rồi mời cha mẹ cùng thái tử vào cung cúng dường một cách cung kính. Với lòng thương thái tử, vị vua nước lân cận liền cất binh mã cùng với vua Thiện Trụ và thái tử Tu-xà-đề trở về bổn quốc tiêu diệt La-hầu, phục hồi lại ngôi vua, cha con tiếp tục trị vì, đất nước được thịnh trị, thái bình.
Đức Phật dạy ngài A-nan:
– Vua Thiện Trụ lúc bấy giờ chính là phụ vương Bạch Tịnh của Ta ngày nay, mẫu hậu chính là Ma- ha Ma-da, thái tử Tu-xà-đề chính là Ta.
Đức Phật dạy:
Này A-nan, trong quá khứ Ta đã từng đem thân lấy thịt cúng dường cha mẹ trong lúc nguy khốn, do công đức này được sinh vào nơi cao quý của trời và người, thọ nhận vô lượng phước đức, cũng từ công đức này mà nay Ta thành quả vị Phật. Trong hội chúng, sau khi nghe Đức Phật giảng về nhân duyên của đời trước tất cả đều thương cảm và ca ngợi hạnh hiếu của Đức Phật rất đặc thù và cao quý. Có người đắc được quả Tu-đà-hoàn, Tư- đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán, có người phát tâm vô thượng chân đạo, có người trú ở địa vị Bất thoái. Tất cả đều hoan hỷ nghe theo và phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Thế Tôn trú tại khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi sinh được một người con gái đặt tên là Ba-xà-la (đời Tấn dịch là Kim Cương). Người con gái này diện mạo xấu xí, da dẻ thô ráp giống như da ngựa, tóc mọc trên đầu cứng tựa lông đuôi ngựa. Vua thấy người con gái như vậy, không một chút vui, liền bảo người trong cung, giữ gìn cẩn mật không để cho người ngoài thấy biết. Con gái hình thù tuy xấu xí không giống người bình thường, nhưng do phu nhân Mạt-lợi sinh ra, mặc dầu xấu xí như thế nhưng vua cũng ngầm sai người lo nuôi dưỡng đàng hoàng. Khi đã đến tuổi trưởng thành, thành lập gia thất, vua lại buồn rầu không tìm ra cách, liền sai bảo một vị quan:
– Khanh đi vào đám dân thường tìm một người con trai nghèo khổ mà đàng hoàng gọi về đây cho ta.
Vị quan này sau khi nghe lời sai bảo liền ra đi khắp nơi để tìm một người như vậy và gọi cậu ta về chỗ vua. Nhà vua đưa cậu ta đến một nơi chỉ rõ sự tình và nói:
– Ta có một người con gái, diện mạo xấu xí, muốn tìm nơi cưới gả, mà chưa được đáp ứng, nghe khanh con nhà đàng hoàng, dầu cho gia đình nghèo khổ nhưng ta sẽ chu cấp đầy đủ, mong người không trái ý của ta và lấy con gái ta làm vợ.
Bấy giờ, cậu ta quỳ xuống tâu:
– Con xin tuân theo sắc chỉ của vua, nay đại vương có ban cho con một con chó nhỏ, con cũng không dám trái ý, huống nữa đây là con gái của vua đã đem ban tặng cho con, con xin ưng thuận.
Nhà vua đem người con gái gả cho người con trai bần hàn đó và cho xây cung điện nhà cửa, lầu gác có bảy lớp cửa và bảo chàng rể khóa cửa cẩn thận. Vua căn dặn:
– Nếu mỗi lần muốn đi ra ngoài thì phải đóng cửa lại, vì con gái của ta xấu xí thậm tệ chớ để cho người ngoài thấy được diện mạo của nó. Chàng ta luôn luôn để vợ trong cung cấm và khóa cửa thật kỹ. Từ đó vua cung cấp của cải cho hai vợ chồng đầy đủ không thiếu vật gì. Nhà vua ban cho chức quan đại thần, người đó trở nên giàu có sung túc.
Hàng tháng có tổ chức yến tiệc, chàng phò mã cùng đi dự với các nhà hào tộc phú quý, khi đến dự ai cũng cùng vợ cùng chồng nam nữ chung vui, mọi người đến dự hội ai cũng mang theo vợ, riêng quan đại thần đó luôn đi một mình, mọi người lấy làm lạ, thắc mắc: ‘Vợ của người kia hoặc quá đoan trang thuần thục, tuyệt sắc giai nhân hoặc là quá xấu xí thậm tệ nên không dám xuất hiện giữa đám đông. Nay chúng ta tìm cách đến xem người vợ của ông ta thật hư thế nào?’ Mọi người cùng nhau bàn kế, phục rượu cho ông ta uống thật say, lén lấy chìa khóa, liền bảo năm người đến nhà của vợ chồng kia mở khóa vào nhà.
Cùng thời gian đó, người phụ nữ kia âu sầu áo não, tự trách tội lỗi của mình, thầm nhủ: “Ta mắc phải tội gì mà chồng con oán ghét, cứ bị giam giữ trong nhà, tối tăm mù mịt không thấy trời trăng và bóng dáng con người.” Kim Cương liền nghĩ ra, hiện tại Đức Phật đang còn tại thế, cứu giúp quần sinh thoát khỏi khổ ách, tất cả đều được Ngài cứu độ. Bà liền chí thành khẩn thiết, hướng về và đảnh lễ Thế Tôn, cúi mong Đức Thế Tôn thương xót hiện đến tư gia để được nghe giáo huấn. Do tâm nhiệt thành, cung kính thuần nhất, Đức Phật biết được chí nguyện của bà, Ngài liền hiện đến trước mặt. Trước hết Ngài hiện mái tóc đẹp cho bà thấy, vừa mới ngước mắt lên nhìn thấy mái tóc đẹp của Phật. Bà rất hoan hỷ, hoan hỷ một cách cung kính hết mực, từ sự giao cảm nhiệm mầu đó nên tóc trên đầu bà trở nên mềm mại, mượt mà, màu sắc đen huyền. Rồi đến Ngài hiện lên khuôn mặt, bà thấy và tâm rất hoan hỷ, liền khi ấy mặt trở nên đoan chánh, những dị tướng và sắc da xù xì tự nhiên biến mất. Tiếp đến Ngài hiện tướng thân từ eo lưng trở lên, sắc vàng rực chiếu như ánh sáng mặt trời, bà nhìn thấy thân của Phật như vậy, niềm hoan hỷ tăng thêm, nhờ vậy năng lực từ tâm hoan hỷ đó mà tướng xấu trên người biến mất, thân thể cân đối đoan nghiêm, giống như Thiên nữ, sắc đẹp hơn đời không ai sánh kịp. Đức Phật vận dụng từ tâm cho bà thấy toàn thân, bà quan sát kỹ lưỡng mắt không rời xa, từ đó tâm rất hoan hỷ hạnh phúc không gì sánh được, khi ấy toàn thân đều khác, đoan chánh, tướng tốt phi phàm, trong đời hiếm có, tất cả những gì xấu xí đều biến mất hết.
Sau đó Đức Phật thuyết pháp cho bà nghe, tất cả các niệm ác đều được đoạn diệt, liền sau đó bà đắc đạo quả Tu-đà-hoàn, Đức Phật dùng thần thông trở về tinh xá.
Năm người kia mở cửa vào nhà, thấy người phụ nữ kia thân thể đoan chánh, sắc đẹp vô song, họ bảo nhau rằng:
– Thật là quái lạ! Người này chưa hề đi đâu, đoan chánh tuyệt vời!
Sau khi quan sát xong, năm người đóng cửa lại trở về và trả lại chìa khóa vào túi của phò mã. Đến khi tỉnh rượu, tiệc xong trở về nhà, vào thấy một người phụ nữ thân hình đoan chánh, sắc đẹp kỳ tuyệt, dung mạo lạ thường, người đời hiếm có. Thấy vậy trong lòng hân hoan, ông liền hỏi:
– Nàng là ai?
Người vợ đáp:
– Thiếp là vợ của chàng. Người chồng thắc mắc hỏi:
Em trước đây không đẹp lắm mà nay do nhờ nhân duyên nào mà được sắc đẹp hơn xưa như vậy?
Người vợ trình bày sự việc đã xảy ra như thế với người chồng, nhờ ân Đức Phật mà được như thế này và nói với chồng:
– Em muốn chúng ta đồng đi yết kiến phụ vương.
Người chồng đồng ý, liền đi đến vua cha thưa:
– Vợ con muốn đến để yết kiến phụ vương. Vua nói với người con rể:
– Sao nói vậy được, hãy mau đóng cửa lại cẩn thận không cho ra ngoài. Người con rể thưa:
– Sở dĩ có việc như ngày hôm nay là nhờ hồng ân của Đức Phật, nên thân hình vợ con mới được đoan chánh như Thiên nữ không khác.
Sau khi vua nghe chàng rể trình bày xong, vua phán:
– Vậy thì mau đem ái nữ của ta đến đây.
Vua liền cho xa giá nghênh đón ái nữ vào cung. Vua thấy thân hình ái nữ đoan chánh đặc thù nên hoan hỷ vô cùng, liền ra lệnh sửa soạn xa giá vua phu nhân, ái nữ cùng phò mã đi đến chỗ Phật, lễ Phật xong liền đứng một bên. Khi ấy vua Ba-tư- nặc quỳ xuống bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, không rõ con gái trẫm do phước đức ngày trước như thế nào mà được sinh vào gia đình giàu sang phú quý và do tạo tội lỗi gì mà lại mang thân hình xấu xí, da tóc thô cứng giống như súc sinh? Cúi mong Thế Tôn chỉ bảo cho chúng con được rõ.
Đức Phật khai thị cho nhà vua và phu nhân:
Ở đời xấu đẹp đều do quả báo từ nơi việc thực hành tội phước. Trong quá khứ lâu xa, có một nước lớn gọi là Ba-la-nại, trong nước có một vị trưởng giả giàu có vô cùng. Bấy giờ có nhiều người trong vùng thường đi đến cúng dường vị Bích-chi-phật; vị này có thân thể thô kệch, hình hài xấu xí, tiều tụy khó coi. Vị trưởng giả đó có một người con gái hàng ngày thấy vị Bích-chi-phật đến, sinh tâm xấu ác khinh khi nói lời hủy báng, nào là diện mạo xấu xa, thân hình thô kệch thật là đáng ghét... Vị Bích- chi-phật vài lần đến gia đình đó khất thực, nhận sự cúng dường. Ngài trụ thế một thời gian và nhập Niết-bàn. Trước khi sắp nhập Niết-bàn, ngài thị hiện các loại thần thông để giáo hóa cho đàn-việt. Thân bay lên hư không phun ra lửa và nước, hiện từ phía Đông biến ở phía Tây, hiện phía Tây biến phía Đông, hiện phía Nam biến phía Bắc, hiện phía Bắc biến phía Nam, nằm ngồi biến hiện các cách trên hư không. Toàn gia đình kia thấy được thần thông biến hiện của ngài. Rồi từ trên hư không ngài hạ xuống vào trong gia đình kia, ông trưởng giả thấy như vậy tâm càng hoan hỷ. Bấy giờ người con gái kia hối hận tự trách: “Xin ngài tha thứ! Con trước đây do tâm xấu ác, tội lỗi sâu dày mong ngài đừng để tâm những lỗi lầm của con.” Vị Bích-chi- phật cũng thuận theo sự ăn năn, sám hối của cô ta.
Đức Phật khai thị cho nhà vua:
– Cô gái lúc bấy giờ nay chính là con gái của đại vương, do tâm bất thiện xấu ác, hủy báng bậc Hiền thánh Bích-chi-phật, tạo những lỗi lầm về khẩu nghiệp từ đó đến nay thường chịu thân hình xấu xí. Sau này cô ấy tự mình ăn năn sám hối nên có sự biến đổi nhiệm mầu thân hình đoan chính, trí tuệ siêu quần, không ai hơn được. Do nhân duyên cúng dường Bích-chi-phật đời đời được phú quý chứng đắc giải thoát.
Như vậy, này đại vương, tất cả các loại hữu tình chúng sinh cần phải thủ hộ thân và miệng chớ nên nói dối, làm những điều sai trái, khinh khi, mắng chửi người khác.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc và các vị quần thần, cùng tất cả đại chúng sau khi nghe Đức Phật giảng thuyết về nhân duyên, quả báo, tất cả đều phát khởi lòng tin và sinh tâm cung kính, tự mình cảm ứng trước Phật, từ niềm tin đó mà chứng đắc từ Sơ quả đến quả vị thứ tư và có người phát tâm vô thượng bình đẳng và cũng có người an trú vào Bất thoái chuyển. Mọi người ai cũng đều khát ngưỡng, cung kính tôn thờ và phụng hành các giáo huấn của Đức Phật.
Tôi nghe như thế này:
– Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ, cùng với các đệ tử lớn một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Bấy giờ, trong thành có hai vợ chồng trưởng giả sinh một cậu con trai, đặt tên là Kim Tài. Cậu bé sinh ra khôi ngô tuấn tú, trên đời rất hiếm. Nhưng cậu bé khi sinh ra đời hai nắm tay nắm chặt, cha mẹ lo sợ cho là điều không tốt liền mở hai nắm tay ra thấy nắm hai đồng tiền vàng, lại cho là điềm tốt lành. Cha mẹ vui mừng liền nhặt lấy tiền vàng, vừa nhặt hai đồng này thì hai đồng khác lại hiện ra, rồi lại nhặt, cứ thế nhặt cất đến nỗi tiền vàng đầy cả kho tàng mà trong hai nắm tay của cậu bé còn nắm hai đồng tiền vàng không dứt.
Đến khi Kim Tài trưởng thành, thưa với cha mẹ cầu xin xuất gia, cha mẹ đồng ý, cho phép xuất gia. Kim Tài đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ và bạch Phật.
– Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài thương xót cho con xuất gia và nhận con vào đạo.
Đức Phật chấp nhận cho Kim Tài xuất gia. Sau khi Đức Phật chấp nhận, Kim Tài liền cạo đầu, mặc áo ca-sa và thành vị Sa-di. Đến khi tuổi đủ để thọ đại giới, Kim Tài xin phép chúng Tăng để được thọ giới Cụ túc, khi chúng Tăng đăng đàn truyền giới, Kim Tài đối trước từng Giới sư làm lễ, khi lạy xuống hai lòng tay giáp xuống mặt đất để lạy thì ở đó bày ra hai đồng tiền, như vậy lần lượt lễ bái, bất cứ chỗ nào mà Kim Tài đã lạy xuống thì ở chỗ đó xuất hiện hai đồng tiền. Thọ giới xong, thầy tinh tấn tu tập, sau đó đắc được đạo quả A-la-hán.
Ngài A-nan hỏi Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Kim Tài này nguồn gốc tạo phước đức gì mà từ khi sinh ra đến nay, trong tay luôn nắm đồng tiền. Xin Đức Thế Tôn khai thị cho chúng con.
Đức Phật bảo A-nan:
– Hãy khéo nghe, Ta sẽ giải thích về điều đó.
A-nan đáp:
– Chúng con đang muốn nghe lời Đức Phật dạy.
Đức Phật dạy:
Vào thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi xuất hiện trong đời đem chánh pháp giáo hóa để độ thoát cho chúng sinh không thể kể hết. Một hôm Đức Phật cùng chúng Tăng đi du hóa trong nước, có các gia đình trưởng giả giàu có thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng đệ tử. Lúc đó có một người rất nghèo chẳng có một chút của cải, hàng ngày ở nơi đầm hoang hái củi bán kiếm sống, gặp lúc kiếm củi bán được hai đồng thì thấy Phật cùng chúng Tăng đang đi đến chỗ nhà vua mời. Thấy hình bóng chư Tăng, tâm chàng rất cung kính và hoan hỷ liền đem hai đồng tiền kiếm được cúng dường lên Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật hết sức cảm động và nhận lấy.
Đức Phật dạy A-nan:
– Người bần cùng lúc đó đem hai đồng tiền cúng dường Phật và chúng Tăng, suốt chín mươi mốt kiếp đến nay luôn cầm tiền vàng, tài bảo vô số không cùng tận. Người nghèo hồi đó, nay là Tỳ- kheo Kim Tài vậy.
Ngày nay vị ấy mà chưa đắc đạo thì quả báo ở đời vị lai cũng nhiều vô số như vậy. Vì vậy, này A- nan, tất cả chúng sinh đều lấy sự siêng năng bố thí cúng dường làm sự nghiệp.
Lúc bấy giờ ngài A-nan cùng đại chúng nghe Đức Phật dạy tất cả đều tin hiểu, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, hoặc có người phát tâm Vô thượng chánh chân và cũng có người an trú địa vị Bất thoái. Tất cả chúng hội nghe Phật thuyết xong đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ cùng đại chúng Tỳ- kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Bấy giờ trong nước có một vị trưởng giả rất giàu có sinh một người con trai, mặt mày khôi ngô tuấn tú, khi cậu bé ra đời, tự nhiên trời hiện mưa hoa rơi đầy trong nhà, nhân đó đặt tên cho cậu bé là Phất-ba-đề-bà (đời Tấn dịch là Hoa Thiên). Đến khi cậu bé trưởng thành, chàng đi đến chỗ Đức Phật, thấy tướng hảo của Đức Phật không gì sánh bằng, tâm rất hoan hỷ, liền nghĩ: “Ta sinh ra gặp được Thánh nhân. Nay ta quyết định cung thỉnh Phật cùng chư Tăng.” Chàng bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con xin thỉnh Thế Tôn cùng chư Tăng ngày mai hoan hỷ đến nhà con thọ trai.
Đức Phật biết được căn duyên, phước đức của Hoa Thiên nên Ngài chấp nhận lời mời. Hoa Thiên trở về nhà lo chuẩn bị cho buổi cúng dường vào ngày mai. Đến giờ thọ thực Đức Phật và chúng Tăng đến nhà của Hoa Thiên, bỗng nhiên trong nhà hóa hiện những tòa ngồi vô cùng trang nghiêm, thiền vị. Đức Phật và chúng Tăng đến và ngồi trên những tòa đó. Hoa Thiên chuẩn bị các món ăn thì do năng lực phước đức các món ăn tự nhiên bày biện đầy đủ. Đức Phật và chúng Tăng cất bát, Ngài giảng rộng về các pháp cho Hoa Thiên và cả nhà đều nghe và đều chứng đắc Tu-đà-hoàn.
Sau đó Hoa Thiên xin phép cha mẹ từ biệt để đi xuất gia làm đệ tử của Đức Phật. Cha mẹ cho phép, Hoa Thiên đến chỗ Phật, đảnh lễ ngang chân Phật, cầu xin làm Tỳ-kheo và nghe theo giáo giới của Phật. Phật chấp nhận và nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo.
Tự nhiên râu tóc của Hoan Thiên tự rụng, thân mặc áo ca-sa thành vị Sa-môn và tuân theo, tu tập lời giáo huấn của Đức Phật, sau một thời gian chứng được quả A-la-hán.
Ngài A-nan thấy rõ sự việc vừa qua như vậy, liền đến Đức Phật và thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Hoa Thiên này nguyên do đời trước tạo phước đức gì mà nay tự nhiên hóa hiện được tòa ngồi và thức ăn để cúng dường Đức Phật. Xin Ngài từ bi xua tan mọi nghi ngờ cho chúng con.
Đức Phật dạy A-nan:
– Ông muốn biết thì hãy lắng nghe cho kỹ.
Trong quá khứ có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi ra đời để độ thoát chúng sinh, vào mỗi buổi sáng chúng Tăng vào làng khất thực ngang qua các gia đình giàu có đều được cúng dường. Trong làng đó có một người rất nghèo khó không có tiền của, khi thấy chư Tăng trong lòng ông hết sức hoan hỷ nhưng rất ân hận vì không có gì để cúng dường cả. Ông ta vào chốn đầm hoang hái những cành hoa dại đem cúng dường cho chúng Tăng hết lòng cung kính, đảnh lễ rồi đi.
Đức Phật dạy A-nan:
– Người nghèo khó chia hoa cúng dường cho chư Tăng thời đó nay chính là Tỳ-kheo Hoa Thiên này. Do trong quá khứ có niềm tin và cung kính Phật và chúng Tăng hái hoa cúng dường hết lòng cầu nguyện, cho nên trong chín mươi mốt kiếp vừa qua tái sinh bất cứ nơi nào thân thể đều được đoan trang, ý muốn gì cũng toại nguyện, thức ăn, giường tòa, đồ dùng muốn có, đều tự nhiên đến đầy đủ. Do nhân duyên phước đức đó mà chứng đắc được đạo quả.
Này A-nan, đối với tất cả chúng sinh chớ khinh việc bố thí nhỏ cho là không mang lại phước đức. Cũng như Hoa Thiên, nay được như vậy thì tự biết. Bấy giờ ngài A-nan và tất cả đại chúng nghe Đức Phật giảng thuyết như vậy đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ có một trưởng giả sinh được một người con trai, khi sinh ra trời mưa xuống bảy loại hoa báu rơi khắp trong ngoài nhà. Trưởng giả liền mời một tướng sư để đoán sự việc vừa xảy ra đối với hài nhi. Tướng sư xem xong thấy tướng của hài nhi hết sức đặc thù, liền nói cho trưởng giả nghe về điều đó. Sau khi nghe như vậy, lòng của trưởng giả vô cùng hoan hỷ, trưởng giả hỏi tướng sư về việc đặt tên. Tướng sư hỏi:
– Khi sinh ra có tướng lành gì xuất hiện?
Trưởng giả đáp:
– Khi sinh ra có mưa hoa trời bảy báu rải xuống cùng khắp nhà cửa.
Tướng sư đáp:
– Phước đức của hài nhi này như vậy nên đặt tên là Lặc-na-đề-bà (đời Tấn dịch là Bảo Thiên).
Đến khi tuổi đã trưởng thành, tất cả các môn nghệ thuật tài hoa chàng trai đều thông thái, bác lãm. Nghe oai đức phi thường của Đức Phật, lòng chàng rất ngưỡng mộ, ý muốn xuất gia, xin phép từ biệt cha mẹ đi đến chỗ Phật làm lễ và bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép con được xuất gia. Đức Phật chấp nhận và gọi: “Thiện lai Tỳ-kheo!” Râu tóc chàng tự rụng, thân mặc pháp y. Sau đó Đức Phật thuyết pháp cho Bảo Thiên nghe, nghe xong chàng chứng được quả A- la-hán.
Ngài A-nan Bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con không rõ Tỳ-kheo Bảo Thiên này, trước do tạo phước đức gì mà khi vừa mới sinh ra trời mưa hoa xuống, y phục và vật thực tự nhiên đầy đủ không có thiếu thốn.
Đức Phật dạy A-nan:
– Vào thời quá khứ có Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời để cứu độ chúng sinh không thể tính hết. Bấy giờ chúng Tăng vào trong thôn xóm để khất thực, các cư sĩ cùng nhau mời thỉnh cúng dường đủ loại. Trong khi đó có một người nghèo trong lòng rất thích thú nhưng không có bất cứ một vật gì để cúng dường chư Tăng, người nghèo khổ đó lấy một mảnh đá cúng dường chư Tăng và phát nguyện lớn.
Đức Phật dạy A-nan:
Người nghèo cúng dường cho chúng Tăng khi ấy, nay là Tỳ-kheo Bảo Thiên. Do lòng có niềm tin và cung kính chư Tăng và lấy mảnh đá để cúng dường, nên vị ấy trong chín mươi mốt kiếp đến nay nhận được phước đức vô lượng, tài bảo rất nhiều, y phục và vật thực không thiếu đều do lúc đó phát khởi niềm tin và cung kính chư Tăng. Nay vị ấy sinh ra đời gặp Ta và chứng được đạo quả.
Bấy giờ, trong hội chúng nghe Phật giảng thuyết xong, tất cả đều sinh tín tâm, có người chứng đắc Sơ quả, cho đến Tứ quả; có người an trú quả vị Bất thoái. Tất cả đại chúng nghe xong đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Thế Tôn trú trong rừng Trúc, tại
La-duyệt-kỳ.
Lúc Thế Tôn mới đắc đạo, Ngài hóa độ cho anh em A-nhã Kiều-trần-như... rồi sau đó hóa độ cho anh em Uất-tỳ-la Ca-diếp một ngàn người. Sự hóa độ càng rộng rãi, chúng giải thoát ngày càng đông. Vào lúc đó nhân dân ở thành La-duyệt-kỳ ai cũng hân hoan vô cùng, không có ai mà không ca ngợi sự ra đời của Như Lai rất là đặc biệt, nhiều loại chúng sinh nhờ ân đức của Ngài mà được giải thoát. Lại khen ngợi anh em Kiều-trần-như, Uất- tỳ-la Ca-diếp và các Đại đức Tỳ-kheo do có nhân duyên gì với Đức Phật trong đời trước mà nay tiếng trống pháp vừa gióng lên thì được ưu tiên nghe trước và được nếm trước pháp vị cam lộ.
Khi các Tỳ-kheo nghe nhân dân trong thành khen ngợi như vậy liền đem sự việc này bạch lại với Đức Thế Tôn. Đức Phật dạy:
– Trong quá khứ Ta cùng với những nhóm người này đã phát lời thề nguyện lớn là khi Ta thành đạo, trước hết độ cho những nhóm người này.
Các Tỳ-kheo nghe xong, lại hỏi Đức Phật:
– Những lời thệ nguyện lớn trong quá khứ đó là gì? Cúi mong Đức Thế Tôn thương xót giải thích cho chúng con.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Hãy lắng nghe và khéo tư duy! Trong quá khứ lâu xa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp không thể tính được, ở cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn gọi là Ba-la-nại, vua của nước này tên là Ca-lê.
Bấy giờ, trong nước có một vị đại Tiên tên là Sạn-đề-ba-lê và năm trăm đệ tử, ở cõi sơn lâm tu hành nhẫn nhục. Một hôm vua, quần thần, phu nhân cùng các thể nữ đi dạo chơi trong núi rừng, vua dừng lại nghỉ mệt, các thể nữ tiếp tục đi xem các rừng hoa thì thấy Sạn-đề-ba-lê đang tĩnh tọa tư duy, trong lòng sinh tâm cung kính, liền nhặt các loại hoa rải trên thân để cúng dường ngài, rồi ngồi trước ngài để nghe pháp. Nhà vua nghe tiếng vọng lại mà không thấy các thể nữ và bốn vị đại thần, vua liền đi tìm, thấy họ đang ngồi quanh vị đại Tiên để nghe pháp. Vua tiến đến hỏi:
– Ông đã chứng đắc Tứ không định chưa? Vị Tiên đáp:
– Thưa chưa. Vua lại hỏi:
– Đã chứng đắc Tứ vô lượng tâm chưa? Tiên nhân thưa:
– Thưa chưa. Vua lại hỏi:
– Đã đắc Tứ thiền chưa? Vị ấy cũng đáp:
– Thưa chưa.
Nhà vua tức giận quát:
– Từng ấy công đức mà ngươi nói chưa được thì như phàm phu, vậy mà cùng ngồi chung với những người con gái này ở nơi vắng vẻ làm sao mà tin được?
Vua lại hỏi tiếp:
– Ngươi là người thế nào, tu hành ra sao? Vị Tiên đáp:
– Tôi tu hạnh nhẫn nhục. Vua liền rút kiếm ra, nói:
– Nếu ngươi tu hạnh nhẫn nhục, ta muốn thử ngươi xem khả năng nhẫn nhục của người thế nào? Nhà vua chém lìa hai cánh tay vị Tiên, rồi hỏi:
– Ngươi vẫn nhẫn nhục chứ?
Vua chém tiếp hai chân, rồi lại hỏi như thế. Tiên nhân vẫn nói:
– Tôi tu nhẫn nhục.
Vua lần lượt cắt tai, cắt mũi, Tiên nhân vẫn ngồi yên, sắc mặt không biến đổi và vẫn nói:
– Tôi tu nhẫn nhục.
Lúc ấy trời đất đều chấn động theo sáu cách, Tiên nhân và năm trăm đệ tử bay lên hư không. Các vị đệ tử hỏi:
– Thầy bị các khổ hành hạ như vậy mà tâm nhẫn nhục vẫn không dao động.
Vị thầy đáp:
– Ta giữ tâm không biến đổi. Vua hết sức ngạc nhiên hỏi:
– Ngươi bảo là nhẫn nhục, lấy cái gì làm bằng chứng?
Tiên nhân đáp:
– Nếu sự nhẫn nhục của tôi là chân thật, chí thành không hư dối thì máu huyết của tôi sẽ biến thành sữa, thân của tôi sẽ hoàn lại giống như cũ.
Vừa mới nói xong, máu biến thành sữa, thân thể hồi phục lại như cũ. Vua nhận ra chứng cứ của sự tu nhẫn, trong lòng liền bồi hồi lo sợ, tự trách:
– Ta thật không có đầu óc, lại hủy nhục bậc Đại tiên. Xin ngài thương xót, nhận sự ăn năn sám hối của tôi.
Tiên nhân dạy:
– Người vì nữ sắc, dùng đao mà cắt thân hình của ta, ta vẫn nhẫn nhục như đất. Sau này ta thành Phật trước hết sẽ dùng đao trí tuệ để đoạn trừ ba độc của người.
Bấy giờ trong núi có các Rồng, Quỉ, Thần thấy vua Ca-lê làm hại vị Tiên nhẫn nhục tất cả đều sầu thương áo não định nổi mây mưa, sấm sét vang rền làm hại nhà vua và quyến thuộc của vua. Vị Tiên ngửa mặt lên trời nói:
– Nếu các vị vì tôi thì xin đừng làm hại vua nước Ca-lê.
Sau khi nhà vua xin sám hối thường cung thỉnh Tiên nhân đến cung điện để cúng dường. Khi đó có vị Phạm chí và một ngàn đồ chúng thấy vua cung kính thiết đãi Sạn-đề-ba-lê trong lòng đố kỵ cho người lấy bụi đất, phân làm dơ chỗ của đại Tiên, Tiên nhân thấy sự việc như vậy, liền phát lời nguyện:
– Tôi tu hạnh nhẫn nhục để độ cho quần sinh, nguyện thực hành liên tục để cầu thành Phật, thành Phật đạo rồi trước hết tôi dùng nước chánh pháp để rửa sạch những bụi trần cấu uế cho họ được thanh tịnh.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
Sạn-đề-ba-lê lúc đó nay chính là Ta. Vua Ca- lê và bốn vị đại thần là năm anh em Kiều-trần-như, một ngàn vị Phạm chí chính là Uất-tỳ-la và ngàn vị Tỳ-kheo. Lúc đó Ta là người lập nguyện tu nhẫn nhục, trước hết nhằm để tự độ thoát cho nên khi thành đạo Ta độ cho tất cả thoát khỏi khổ đau.
Các vị Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy xong đều khen ngợi là chưa từng có và tất cả đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ.
Bấy giờ Tôn giả A-nan, sau khi thọ trai xong, vào trong rừng tọa thiền, tự mình khởi lên tư duy: “Như Lai ra đời thật là đặc biệt tất cả các loại chúng sinh đều được nương nhờ ân đức mà được an lạc.” Lại suy nghĩ: “Năm Tỳ-kheo anh em Kiều- trần-như nhờ thiện căn gì, nương nhân duyên gì mà cửa pháp vừa mới khai mở đã được vào trước tiên, trống pháp vừa gióng liền được nghe, nước mưa cam lộ vừa tuôn xuống liền được thấm nhuần?” Sau khi tư duy như vậy, ngài xả thiền đứng dậy đi đến chỗ Phật đem hết tất cả những điều suy nghĩ trình bày với Phật.
Đức Phật dạy:
Năm anh em Kiều-trần-như trong tiền kiếp thật có nhân duyên với Ta. Trong kiếp quá khứ Ta lấy máu trong thân đem hiến cho họ khỏi cơn đói khát, được sự an ổn. Cho nên ngày nay họ được nghe pháp và được giải thoát trước.
Ngài A-nan lại bạch Phật:
– Trong quá khứ Ngài đã hiến máu để cứu đói cho những vị kia, sự việc ấy như thế nào, xin Ngài dạy thêm cho đầy đủ để hội chúng hiểu được rõ ràng hơn.
Đức Phật dạy tiếp:
– Trong a-tăng-kỳ kiếp quá khứ lâu xa về trước, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị vua nước lớn tên là Di-khư-la-bạt-la (đời Tấn dịch là Từ Lực) cai trị tám mươi bốn ngàn nước nhỏ trong cõi Diêm-phù- đề, có hai vạn phu nhân, một vạn đại thần. Nhà vua có lòng Từ thực hành đầy đủ Tứ vô lượng tâm, luôn thương xót tất cả chúng sinh chưa từng giải đãi thường đem mười điều thiện mà giáo hóa nhân dân. Bốn phương đều khâm phục và mến mộ phương pháp cai trị của vua. Nhân dân trong nước được an lạc, tất cả đều hưởng được thái bình.
Bấy giờ có loài dịch quỉ thường hay hút khí huyết của người để sống. Biết vậy, trong dân chúng tất cả đều thu nhiếp thân, khẩu, ý, thực hành theo mười điều lành. Nhờ vậy, loại dịch quỉ không dám xâm phạm vào, nên chúng đói khát khốn khổ, tiều tụy kiệt lực. Sau đó năm quỉ Dạ-xoa đi đến chỗ vua tự xưng là cùng loại và thưa:
– Chúng tôi chỉ hút khí huyết của người để bảo toàn thân mạng. Nay vì vua hướng dẫn giữ mười điều thiện, nên chúng tôi không có cái để ăn uống, đói khát khốn đốn, tuyệt con đường sống. Đại vương hành hạnh Từ bi thật không thương xót chúng tôi sao!
Vua nghe trong lòng thấy thương, mở đường mạch chính năm chỗ, năm quỉ Dạ-xoa lấy năm cái tô hứng máu để uống. Nhờ ân của vua, năm quỉ Dạ-xoa uống được no nê vui sướng vô cùng.
Sau đó nhà vua khuyên:
– Các ngươi đều đã được no đủ, cần ghi nhớ và tu tập mười điều thiện. Ta nay lấy máu trong thân giúp các ngươi qua cơn đói khát để được an ổn. Sau này khi thành Phật, ta lấy pháp thân và máu Giới, Định, Tuệ để diệt trừ ba độc, các sự ham muốn đói khát của các ngươi nhằm để an trú vào nơi an ổn Niết-bàn.
Này A-nan, ông nên biết vua Từ Lực lúc bấy giờ chính là Ta, năm quỉ Dạ-xoa chính là năm Tỳ- kheo anh em Kiều-trần-như. Ta nguyện đời đời độ cho họ trước, nên Ta mới thuyết pháp họ nghe liền được giải thoát.
Ngài A-nan và hội chúng nghe Đức Phật dạy xong, càng tăng thêm lòng tôn kính, đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại vườn Trúc, thành Vương xá, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.
Bấy giờ vua Bình-sa chứng được Sơ quả nên đức tin và sự cung kính tăng lên bội phần. Vua thường sắm bốn loại tốt nhất là thuốc thang, y phục, giường nằm và đồ ẩm thực để cúng dường Phật và chúng Tăng. Vua hoan hỷ với người làm việc thiện và tích cực khuyến khích người tu. Trong nước bấy giờ có nhóm Lục sư như Phú-lan- na... ra đời trước Đức Phật, chủ trương tà kiến và thuyết điên đảo nhằm lừa dối và mê hoặc nhân dân và tín đồ. Mọi người tin theo tà giáo đó rất đông, kết bè kết đảng xấu ác cùng khắp. Vua có người em tôn kính và phụng thờ nhóm Lục sư, mê hoặc theo thuyết tà kiến điên đảo đó, cho là chánh đạo đem tài sản dâng cúng cho họ đến nỗi gia đình kiệt quệ.
Ngày Đức Phật mới ra đời, ánh sáng trí tuệ soi chiếu cùng khắp, tự nhiên cứu vớt tất cả những ai chìm đắm trong lưới mê. Vương huynh Bình-sa rất thương em, ân cần khéo léo làm cho người em hiểu rõ và khuyên tôn thờ Đức Phật. Người em vẫn mê theo lý thuyết tà kiến không nghe theo lời khuyên bảo của vương huynh, cứ mỗi lần vua sai người em mời Phật cúng dường, người em thưa:
– Tôi đã có thầy, không thể nào lại bỏ thầy mình mà tôn thờ Cù-đàm.
Sau đó nhà vua đưa ra một điều kiện chung không ai được làm trái là chúng ta thiết lập một đại hội không hạn chế số người dự đến. Nếu nhóm nào tự đến ta sẽ mời cùng thọ thực. Sau khi chấp nhận như vậy rồi, vua cho người bày biện đủ các thứ cúng dường, sắm sửa tòa ngồi, sự việc đâu vào đấy. Người em cho người mời nhóm đồ chúng của Lục sư đến tập hợp đầy đủ ngồi vào ví trị hàng trên.
Điều lạ là Đức Phật và chúng Tăng chưa đến. Người em liền thưa với vua, hôm trước đã cho người mời thỉnh ông Cù-đàm rồi, nay đã thiết lập đại hội, ngày giờ đã đến mà sao không thấy họ đến tham dự. Vua nói với người em:
– Nếu em không tự mình đến thỉnh được thì có thể cho một người đến bạch với Phật là đã đúng giờ.
Người em vâng lệnh cho người đến báo là đã đúng giờ. Khi ấy Đức Phật và đại chúng đi đến đại hội. Thấy các nhóm Lục sư ngồi trước đâu đó vào hàng trên, Đức Phật và chúng Tăng kế tiếp lần lượt mà ngồi. Sau đó Đức Phật vận thần thông làm cho nhóm Lục sư và đồ chúng của họ bỗng nhiên xuống hàng dưới cùng, nhóm Lục sư lấy làm hổ thẹn cùng đứng dậy kéo nhau lên hàng trên, vừa mới ngồi yên lại thấy mình tự nhiên bị kéo xuống hàng dưới. Lên xuống ba lần như vậy rồi rốt cục cũng thấy mình ngồi ở hàng dưới cùng, nhóm Lục sư cảm thấy bất lực rồi gắng gượng mà ngồi. Đến lượt thí chủ dâng nước, theo lệ đến dâng hàng trên trước, Đức Phật bảo với thí chủ nên dâng cho thầy của ngươi trước, thí chủ đem bình đến trước thầy họ, muốn rót nhưng nắp bình không mở ra được và nước không chảy ra được. Trở lại trước Đức Phật, lần lượt tiếp theo, rót nước ra dâng Phật rửa tay, rồi nói lời chú nguyện.
Dâng nước xong, đến lượt dâng cơm, thí chủ cũng đem dâng cho hàng trên trước, Đức Phật nói:
– Bữa trai phạn hôm nay vốn không phải cho Ta, nên đem dâng cho thầy ông trước để thầy ông chú nguyện cho.
Nghe xong vị ấy liền đem xuống cho nhóm Lục sư, vừa mới mở miệng liền bị cấm khẩu không nói ra lời, tất cả đều chỉ về phía Đức Phật. Đức Phật liền chú nguyện bằng Phạm âm. Sau khi nói lời chú nguyện xong đến lượt ăn cơm, theo thứ tự đem vật thực lên hàng trên trước. Đức Phật nói:
– Nên đem cho thầy các người trước.
Họ liền đem vật thực cho nhóm Lục sư, vừa trao bỗng nhiên vật thực bay lên trên không trung, không thể nhận lấy được. Sau khi dâng vật thực cho Đức Phật và chúng Tăng xong, vật thực của nhóm Lục sư mới rơi xuống và nhận được. Đức Phật và chúng Tăng thọ thực xong, uống nước, ngồi nghỉ.
Đến khi thuyết pháp, Đức Phật nói:
– Nên mời thầy của các ngươi thuyết pháp trước.
Họ liền mời thầy của họ thuyết pháp, nhưng nhóm Lục sư đều bị cấm khẩu không nói ra lời được, liền đưa tay gợi ý mời Đức Phật thuyết. Khi ấy Đức Phật thuyết rộng rãi cho toàn hội chúng nghe bằng những lời nhu nhuyến, diễn nói về pháp tánh, phân biệt nghĩa lý, thích hợp với căn cơ của mọi người. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, tất cả ai cũng được mở rộng tri thức hiểu biết. Em của Bình-sa vương chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Có một số người trong hội chúng đắc từ Sơ quả cho đến đệ Tam quả, có người xuất gia đoạn trừ hết các lậu phát tâm vô thượng, an trú địa vị Bất thoái, tùy theo tâm nguyện mà đạt được. Tất cả mọi người đều hiểu rõ được sự thật, phát khởi niềm tin, tôn kính Tam bảo. Nhóm Lục sư đáng khinh và thấp kém đó bị bỏ rơi và không nhận được sự cúng dường nữa.
Lúc ấy, trong lòng nhóm Lục sư ôm sự buồn rầu và giận dữ đều tìm nơi thanh vắng để cầu học những xảo thuật. Ma Ba-tuần lo sợ mọi người xa lánh, không được lưu truyền rộng rãi những chước độc hại, tà kiến xấu ác liền hóa hình thành nhóm Lục sư. Một người ở trước, năm người hiện các pháp thuật bay lên không trung, trong thân phát ra lửa nước, thân thể phân ra nhiều mảnh, biến hiện hàng trăm cách. Đồ chúng của đám ngu si kia nương cậy vào đó hờn giận nỗi nhục nhã trước kia làm mất sự cúng dường. Nhóm Lục sư hội họp lại cùng nhau đưa ra ý kiến:
– Kỹ năng của anh em chúng ta không thua gì Cù-đàm. Hôm trước chúng ta bị nhục, mọi người ly tán, nay thần thông pháp thuật do thầy chúng ta truyền lại xem ra lợi hại vô cùng đủ sức để tỷ thí với vị Sa-môn Cù-đàm ấy. Nên đến chỗ vua để phân rõ thắng bại. Sau khi suy nghĩ và đi đến quyết định, họ cùng đi đến chỗ vua trình bày về những trí năng, thần thông, biến hóa, linh hoạt của họ và muốn đọ sức cùng Sa-môn để mọi người biết đến sự thần biến kỳ diệu của họ, sau khi giao chiến xong sẽ rõ ai là cao siêu tài năng. Nhà vua mỉm cười và nói:
Các người thật là khờ dại, oai đức của Đức Phật rất vĩ đại, thần túc vô ngại. Các người đem đốm lửa mà so với ánh sáng mặt trời, một vệt nước của dấu chân trâu làm sao mà so với biển cả, loài dã can mà so với sư tử, ổ kiến mà sánh với núi Tu- di. Lớn nhỏ rõ ràng có khác, thấp kém mà muốn vươn cao, sao mà khờ dại quá vậy?
Lục sư lại nói:
– Mọi việc cần phải thử nghiệm sau đó mới biết, đại vương chưa thấy được thần biến đặc thù của anh em chúng tôi mà ngài cứ có ý thiên vị hướng về vị Sa-môn đó cho là to lớn, chúng tôi quyết định tỷ thí rồi sau đó ai hay ai dở tức khắc sẽ rõ.
Vua nói:
– Muốn đấu cứ đấu, chỉ sợ các người chuốc lấy nhục nhã mà thôi. Chẳng phải các người đã tỷ thí thần túc cùng với Phật. Lục sư nói:
– Nay chúng tôi mới đầy đủ tất cả những phép biến hóa dị thường, trong thời gian bảy ngày xin đại vương cho sửa sang lại trường đấu thí.
Sau khi nhóm Lục sư đi rồi, nhà vua chuẩn bị xa giá đi đến Đức Phật và đem sự việc trình bày:
– Nhóm Lục sư phiền hà quá, muốn thi thần thông cùng với Ngài. Con đã dùng lý lẽ phải trái, trách mắng đủ điều nhưng cứ chứng nào tật nấy không bỏ. Cúi xin Đức Thế Tôn hiển hiện thần lực để giáo hóa điều phục nhóm Lục sư tà ác đó trở về với chân chánh và nhân đó chúng con được chiêm ngưỡng sự thần biến của Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy vua Bình-sa:
Ta biết sự việc cần phải giải quyết như thế nào!
Vua Bình-sa biết Đức Phật có thể biểu diễn thần thông, liền ra lệnh cho quần thần sửa soạn thí trường bằng phẳng rộng rãi, cho sắp xếp chỗ ngồi và treo cờ dựng phướn, trang hoàng mọi thứ hài hòa đẹp đẽ. Đến ngày khai hội, tất cả mọi người đều mong ngóng Đức Phật. Khi ấy Đức Phật cùng Tăng chúng từ Vương xá đi đến Tỳ-xá-ly, nhóm của ông Luật Xương cùng nhân dân ra nghênh tiếp. Sau một ngày mọi người đi kiếm Đức Phật nhưng không thấy, hỏi ra mới biết Ngài đã đến Tỳ-xá-ly. Nhóm Lục sư cao tiếng nói:
– Ta đã biết từ lâu Cù-đàm trí tuệ và pháp thuật yếu kém. Vậy mà mọi người cứ do dự không tin vào lời ta nói. Đến giờ thi đấu tự thấy mình không đủ sức liền tìm cách đào tẩu đến Tỳ-xá-ly.
Nhóm Lục sư lòng cống cao sôi sục, cùng nói với nhau:
– Chúng ta phải truy đuổi đến cùng.
Bấy giờ Bình-sa vương cho chuẩn bị đầy đủ các lễ vật cúng dường, năm trăm cỗ xe, vua và mười bốn ức quần thần lo đầy đủ lương thực, trước sau hướng đến Tỳ-xá-ly nơi Phật đang trú ngụ mà đi, Lục sư cũng đi đến đó, rồi thưa với các vị Luật Xương:
– Chúng tôi đến đây để báo cho ông Cù-đàm biết là sau bảy ngày chúng tôi sẽ tỷ thí thần thông và đàm luận về thật tánh.
Luật Xương đến bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, nhóm Lục sư quá si mê, tự cho mình có đạo lực muốn tỷ thí thần lực cùng Đức Như Lai. Cúi mong Đức Như Lai dùng thần lực để hàng phục bọn họ.
Đức Phật dạy:
– Điều ấy Ta tự biết.
Nhóm các Luật Xương cùng nhau loan báo cho các thần dân sửa soạn thí trường như vua Bình-sa. Tất cả mọi người ai cũng trông ngóng, mong đợi.
Vào sáng ngày mai, Đức Phật cùng Tăng chúng đến Câu-diệm-di. Vua Ưu-điền đem quan quân ra nghênh tiếp. Dân chúng ở Tỳ-xá-ly, sáng ngày mai hỏi về Đức Phật, biết rằng Ngài đã sang Câu-diệm- di. Nhóm Lục sư nghe như thế, tâm lại càng cống cao tập hợp đồ chúng lại, bảo là phải theo đuổi đến cùng.
Nhóm các Luật Xương bày biện đầy đủ các lễ phẩm cúng dường, dùng năm trăm cỗ xe để chở cùng một chúng gồm bảy ức người và Bình-sa vương sang nước Câu-diệm-di để xem Đức Phật và Lục sư thi thố thần thông. Người, xe đầy đường chen chúc nhau mà đến. Nhóm Lục sư đến yết kiến vua Ưu-điền trình bày sự việc và thưa:
Sa-môn Cù-đàm tự thấy mình không đủ khả năng liền bỏ chạy trốn. Không thể như vậy, nhà vua nhất định phải nói Sa-môn cùng tỷ thí với chúng tôi.
Vua Ưu-điền đem những lời của Lục sư thưa lại với Phật và hỏi:
– Bạch Thế Tôn, Ngài có thi đấu không? Đức Phật bảo:
– Việc ấy Ta biết cách để giải quyết.
Vua Ưu-điền rất mong Phật thi đấu tại nước mình, vua cho chuẩn bị trang hoàn đấu trường như cách của vua Bình-sa. Đến ngày thi đấu Đức Phật cùng chúng Tăng bỏ đi đến nước vua Việt-kỳ. Vua Chuân-chân-đà-la cùng với nhân dân trong nước nghênh tiếp Thế Tôn. Sáng hôm sau người Câu- diệm-di không thấy Phật, hỏi biết rằng Phật đã đi đến Việt-kỳ. Nhóm Lục sư tìm đuổi theo.
Khi ấy vua Ưu-điền cùng với tám ức người, vua Bình-sa và nhân dân các nước, cùng đi đến nước Việt-kỳ. Nhóm Lục sư yết kiến vua và trình bày ý kiến muốn tỷ thí thần thông với Đức Phật. Vua Chuân-chân-đà-la đem việc ấy bạch với Đức Phật. Đức Phật dạy:
– Việc ấy Ta biết cách để giải quyết.
Vua cũng cho chuẩn bị trang hoàng thí trường. Ngày hội sắp đến, Đức Phật và chúng Tăng sang nước Đặc-xoa-thi-lợi. Vua Nhân-đà-bà-di cùng với quan quân ra đón rước.
Vua Chuân-chân-đà-la cùng năm ức người, vua
Bình-sa và nhân dân các nước, cũng đến nước Đặc- xoa-thi-lợi, hướng đến chỗ Phật. Nhóm Lục sư đến yết kiến vua Nhân-đà-bà-di và nói những lời hết sức dối trá đại ngôn khoác lác muốn thi đấu thần thông cùng Cù-đàm. Vua Nhân-đà-bà-di đem sự việc bạch với Đức Phật. Đức Phật dạy:
– Việc ấy Ta biết cách để giải quyết.
Vua cũng cho trang hoàng thí trường. Đến ngày, Phật cùng Tăng chúng lại bỏ đi đến Ba-la- nại. Vua Phạm-ma-đạt và nhân dân đón tiếp Ngài. Nhân dân nước Đặc-xoa-thi-lợi sáng ngày mai biết Đức Phật đã ra đi. Nhóm Lục sư tìm dấu vết để đuổi theo.
Vua Nhân-đà-bà-di cùng sáu ức chúng, Bình- sa vương và nhân dân các nước tất cả đều đi theo. Nhóm Lục sư đến nơi cũng thưa với vua như những lời trước đây, vua đáp lại cũng như vậy. Vua đến bạch Đức Phật, Đức Phật cũng dạy:
– Việc ấy Ta biết cách tự giải quyết.
Vua ra lệnh trang hoàng trần thiết thí trường. Đến ngày, Đức Phật cùng chư Tỳ-kheo bỏ đi đến nước Ca-tỳ-la-vệ. Các người thuộc dòng họ Thích đốc suất mọi người nghênh tiếp Đức Phật. Dân chúng ở Ba-la-nại, sáng ngày mai đã biết rõ sự việc. Đồ chúng Lục sư tiếp tục theo đuổi.
Vua Phạm-ma-đạt cùng với tám ức người, vua Bình-sa cùng nhân dân sáu nước, trước sau kéo đến chỗ Phật. Khi nhóm Lục sư đến gặp những người thuộc dòng họ Thích, nói những lời khoe khoang về khả năng huyễn thuật của mình, rồi đòi thi thố thần thông với Cù-đàm. Các người dòng họ Thích đem sự việc đó bạch với Đức Phật. Đức Phật dạy:
– Việc ấy Ta đã có cách giải quyết.
Các người dòng họ Thích cho trang hoàng thí trường. Đến ngày thi đấu, Phật cùng chư Tăng lại sang nước Xá-vệ. Vua Ba-tư-nặc cùng với nhân dân ra nghênh tiếp. Sáng ngày mai, những người dòng họ Thích biết Phật đã đi, nhóm Lục sư đốc suất đồ chúng bám sát theo Ngài.
Những người dòng họ Thích ra lệnh cho chín ức người, vua Bình-sa cùng nhân dân các nước băng đèo lội suối đến nước Xá-vệ. Nhóm Lục sư đến vào yết kiến vua Ba-tư-nặc trình bày đầu đuôi câu chuyện muốn thi thố thần thông cùng Cù-đàm:
– Đến ngày thi đấu Cù-đàm lại bỏ trốn, không thể thất hứa như vậy. Nay chúng tôi cùng đại chúng theo đến chỗ quốc vương. Thưa đại vương, xin ngài hãy bảo ông ta ra thi thố cùng chúng tôi.
Vua Ba-tư-nặc cười mỉm và nói:
– Đức Phật thần thông biến hóa vô song, không thể nghĩ bàn. Các ngươi thuộc hạng hèn mạt, thấp kém làm sao mà đem so với Bậc Đại Pháp Vương.
Nhóm Lục sư giận dữ hung hăng, xung khí bừng bừng. Vua Ba-tư-nặc đến bạch với Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, nhóm Lục sư quá ham muốn thi thố, mong Ngài vận dụng thần lực để điều phục và giáo hóa họ và để cho tất cả nhân dân, các nhóm đồ chúng thấy rõ được thật hư thế nào.
Đức Phật dạy:
– Việc ấy Ta có cách để giải quyết.
Vua Ba-tư-nặc ra lệnh cho quan quân sửa sang thí trường, trang hoàng hương hoa, sắp đặt chỗ ngồi, treo cờ dựng phướn, mọi việc hoàn tất. Tất cả mọi người vân tập, vào ngày mùng một tháng mười hai, Đức Phật quang lâm thí trường. Vua Ba- tư-nặc, vào ngày đó lo sửa soạn vật thực cúng dường. Vào sáng sớm đích thân vua dâng cây tăm, Đức Phật xỉa răng xong liệng xuống đất. Vừa rơi xuống cây tăm đó liền mọc thành cây cối um tùm, cao năm trăm do-tuần cành lá sầm uất, chu vi cũng rộng như vậy. Rồi cây lại trổ hoa lớn bằng bánh xe, sinh quả to bằng cái bình có dung tích bằng năm đấu lớn. Rễ cây, cành lá thuần bằng bảy báu rất nhiều màu sắc, ánh sáng chiếu ra màu sắc rất đẹp, tùy theo màu sắc mà phát ra ánh sáng lấn át mặt trời, mặt trăng. Ai ăn trái này ngon hơn cam lộ. Khi hương tỏa khắp ai nghe được tâm đều hoan hỷ, hương bay đến đâu tất cả đến phấn khởi vui tươi, cành lá đều phát ra âm thanh hòa nhã, diễn nói chánh pháp, người nghe không nhàm chán. Tất cả nhân dân thấy sự biến hóa của cây này mà phát khởi niềm tin và tôn kính Đức Phật, tâm càng thuần hậu. Khi đó Đức Phật thuyết giảng chánh pháp thích hợp với căn cơ của từng người, tâm họ được khai mở tỏ rõ, dốc lòng mong cầu Phật đạo. Rất nhiều người đắc quả sinh Thiên.
Ngày thứ hai, vua Ưu-điền cung thỉnh Đức Phật. Khi ấy Đức Như Lai hóa hiện hai ngọn núi báu ở hai bên, rất trang nghiêm và đẹp đẽ; trên núi đó tập hợp các châu báu, có năm sắc phản chiếu, chiếu sáng rực rỡ. Có rất nhiều loại cây, mọc thành hàng từ trên ngọn núi xuống, hoa quả sum suê, bay ra những mùi hương vi diệu. Trên một ngọn núi, có một loại lúa đã chín sẵn có trăm mùi vị. Hạt lúa trơn nhãn thơm ngon hợp khẩu vị, bất cứ ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý thọ dụng. Trên một ngọn núi khác có một loại cỏ mềm mại thơm ngon, hợp với súc sinh, đến ăn no thỏa thích. Tất cả trong hội chúng thấy sự xuất hiện của hai ngọn núi đặc biệt, sau khi ăn xong trong lòng đều hoan hỷ sinh tâm ngưỡng mộ một cách sâu sắc. Đức Phật tùy theo căn cơ mà thuyết diệu pháp. Mọi người ai cũng được khai mở và hiểu rõ về chánh pháp phát tâm Vô thượng và đắc quả sinh Thiên, số lượng rất nhiều.
Vào ngày thứ ba, vua Chuân-chân-đà-la cung thỉnh Đức Phật cúng dường, dâng Phật nước sạch để súc miệng. Phật súc miệng xong nhổ nước ra thì dòng nước đó hóa thành một ao báu, bao quanh bốn phía mỗi phía hai trăm dặm thuần là bảy báu, cùng xen tạp những loại sắc phản chiếu, ánh sáng rực rỡ, nước ở trong ao đầy đủ tám đức. Dưới ao rải toàn là cát bảy báu, tám loại hoa sen lớn như bánh xe, màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, lục, tía giao xen, mùi hương thơm phức bay khắp bốn phương, tùy theo màu sắc hoa sen mà phát ra ánh sáng, chiếu sáng trời đất. Chúng trong đại hội thấy được ao báu kỳ diệu này, trong tâm rất hoan hỷ tán thán ân đức vô cùng của Đức Phật. Đức Phật nhân đó quan sát từng căn cơ, vận dụng phương tiện để thuyết giảng chánh pháp. Tâm của mọi người ai cũng được khai mở phát tâm vô thượng đắc quả sinh Thiên, nghiệp phước được tăng trưởng, số lượng rất nhiều không thể tính được.
Qua ngày thứ tư, vua Nhân-đà-bà-di cung thỉnh Đức Phật. Ngày hôm đó, Đức Phật hóa hiện nơi ao báu này có tám dòng nước chảy, tự nhiên chảy xoáy phát ra tiếng trong thanh nhiệm mầu, đều giảng nói chánh pháp: Năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám Thánh đạo, ba Minh, sáu Thông, sáu Độ, bốn Đẳng, đại Từ, đại Bi. Đức Phật khuyến khích phát tâm, khai mở tâm đạo, giảng nói nhiều pháp môn. Tất cả mọi người ai nghe tâm cũng đều tỏ rõ, phát tâm mong cầu Phật đạo, đắc quả sinh Thiên, tăng trưởng phước đức và trí tuệ, số lượng rất nhiều.
Tiếp ngày thứ năm vua Phạm-ma-đạt thỉnh Đức Phật cúng dường. Vào hôm đó, trong miệng của Đức Phật phóng ra hào quang, sắc vàng chói rọi khắp cõi Đại thiên. Nhờ ánh sáng của hào quang soi chiếu, tất cả chúng sinh ba độc, năm ấm đều tự tiêu trừ, thân tâm an lạc giống như vị Tỳ- kheo chứng đắc Thiền thứ ba. Đại chúng đều ca ngợi là rất kỳ diệu, mến mộ ân đức của Phật. Đức Phật nhân đó giảng nói chánh pháp, mọi người tâm được khai mở, phát tâm cầu đạo lớn, đắc quả sinh Thiên, tăng trưởng phước đức và trí tuệ, số lượng rất nhiều.
Vào ngày thứ sáu, nhóm Luật Xương lại thỉnh Đức Phật. Ngày hôm đó, Đức Phật làm cho tất cả mọi người trong đại hội hiểu biết tâm niệm của nhau, tâm của một người biết được tất cả tâm niệm của người khác, hiểu rõ những tâm thiện hay ác, tâm ý hướng vào hạnh nghiệp gì. Mỗi người chính họ đã kinh sợ và hoan hỷ, khâm phục ân đức tuyệt vời của Đức Phật, Đức Phật nhân đó giảng nói Diệu pháp, tất cả đều được tỏ rõ, mong cầu Phật đạo, đắc quả sinh Thiên, số lượng rất nhiều.
Đến ngày thứ bảy, dòng họ Thích thỉnh Phật. Ngày hôm đó, Đức Phật hóa hiện trong hội chúng, tất cả tự thấy mình làm Chuyển luân thánh vương, đầy đủ thất bảo và có một ngàn người con; các vua và thần dân cung kính và triều phục mình, thay phiên hầu hạ. Mọi người đều kinh ngạc, rất hoan hỷ. Đức Phật nhân đó tùy theo căn cơ mà thuyết pháp. Tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh giác, đắc quả sinh Thiên, số lượng không thể tính.
Đến ngày thứ tám, vua Đế Thích cung thỉnh Đức Phật. Vua làm tòa Sư tử thỉnh Phật thăng tòa. Đế Thích hầu bên trái, Phạm vương hầu bên phải. Tất cả trong hội chúng đều yên lặng ngồi thiền định. Đức Phật đưa cánh tay ra vịn xuống tòa ngồi bỗng nhiên có tiếng kêu lớn như tiếng voi gầm rú, ngay tức thời xuất hiện năm vị đại quỉ thần phá tan chỗ ngồi và kéo nhóm Lục sư lại. Trên tòa cao vị thần Kim cang Mật Tích tay cầm chày Kim cang, trên đầu phóng lửa cháy rực chạy xông đến đánh bổ vào bọn Lục sư. Nhóm Lục sư kinh hải hoảng hốt tìm lối thoát thân, xấu hổ nhục nhã đâm đầu xuống sông tự vận.
Còn lại chín ức đồ chúng của nhóm Lục sư đều đến quy y theo Đức Phật xin làm đệ tử. Đức Phật nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Tự nhiên râu tóc họ tự rụng, thân khoác pháp y trở thành Sa-môn. Đức Phật thuyết pháp khai thị những điều trọng yếu trong chánh pháp cho họ, nhờ đó các lậu dứt sạch, kết sử được giải thoát, tất cả đều chứng quả La-hán.
Lúc đó Đức Như Lai từ nơi tám vạn chân lông phóng ra hào quang sáng rực chiếu khắp hư không. Đầu mỗi hào quang có một đóa hoa sen lớn, mỗi hoa sen đều có một vị Hóa Phật và đại chúng vây quanh thuyết pháp. Đại chúng thấy được sự biến hóa vô cùng của Đức Phật liền phát khởi niềm tin và lòng tôn kính. Vì để mang lại lợi ích và Phật pháp hưng thạnh, Đức Phật thuyết pháp tùy theo căn cơ mà tiếp nhận đều phát tâm lớn và đắc quả sinh Thiên. Mọi người tinh tấn tu phước thiện, số chúng đông đúc không thể kể hết.
Qua ngày thứ chín, Phạm vương cung thỉnh Đức Phật. Đức Phật hóa thân cao đến Phạm thiên, uy nghiêm hiển hách, ngời sáng khôn cùng, phóng đại quang minh sáng rực trời đất. Mọi người đều được chiêm ngưỡng và nghe được những lời vi diệu kia. Đức Phật vì tất cả chúng sinh mà giảng rõ những chỗ cốt lõi của Phật pháp để cho thính chúng phát tâm mong cầu Phật đạo, đắc quả sinh Thiên, số lượng không thể tính kể.
Đến ngày thứ mười, Tứ Thiên vương cung thỉnh Đức Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn làm cho toàn thể đại chúng thấy được sắc thân của Phật. Khắp cả chư Thiên từ Tứ Thiên vương đến cõi Sắc cứu cánh, đều thấy thân Phật phóng đại quang minh, trong đại chúng từng vị nghe được chánh pháp vi diệu, từ xa cũng được chiêm ngưỡng, thấy thật rõ ràng. Tất cả mọi người trong hội chúng ai cũng tăng trưởng niềm tin và lòng tôn kính. Đức Phật thuyết pháp thích hợp cho căn cơ của từng người, tất cả đều phát đại tâm và an trú vào địa vị Bất thoái, đắc quả sinh Thiên, số lượng nhiều vô số kể. Ngày thứ mười một, Tu-đạt thỉnh Đức Phật.
Vào ngày hôm đó, Đức Phật ngồi trên tòa cao, Ngài ẩn thân lặng yên không hiển hiện, chỉ phóng hào quang, phát ra những âm thanh nhu nhuyến, diễn nói một cách rõ ràng về cốt lõi của Phật pháp, mọi người trong hội chúng nghe pháp mà được tỏ ngộ. Tất cả đều phát tâm lớn an trú Bất thoái, đắc quả sinh Thiên nhiều vô số kể.
Ngày thứ mười hai, cư sĩ Chất-đa thỉnh Đức Phật cúng dường. Ngày hôm đó Đức Phật nhập vào tam-muội Từ bi phóng hào quang sắc vàng chiếu khắp Đại thiên, hào quang soi rọi chúng sinh, trong lòng họ ba độc lắng xuống, tâm từ bi tự nhiên được phát khởi, bình đẳng xem tất cả chúng sinh như cha, mẹ, anh, em của chính mình, thấm nhuần tình thương trong tâm, không tăng không giảm. Sau đó Đức Phật giảng thuyết diệu pháp cho tất cả đại chúng đều phát tín tâm lớn và an trú địa vị Bất thoái, đắc quả sinh Thiên, số lượng rất nhiều.
Ngày thứ mười ba, vua Chuân-chân-đà-la lại cung thỉnh Đức Phật thiết trai cúng dường. Ngày hôm ấy, Đức Phật ngồi trên tòa cao, từ nơi rốn Ngài phóng ra hào quang chia thành hai luồng xa đến bảy nhận, đầu luồng hào quang có đóa hoa sen, trên hoa sen có một Hóa Phật, biến chuyển khắp cả quốc độ Đại thiên, tất cả đều được chiêm ngưỡng, tỏ ra kinh ngạc vừa sợ vừa thích. Đức Phật tùy theo căn cơ và thời gian để thuyết giảng chánh Pháp, tất cả đều phát đại tâm và an trú địa vị Bất thoái, đắc quả sinh Thiên số lượng rất nhiều.
Vào ngày thứ mười bốn, vua Ưu-điền cung thỉnh Đức Phật. Bấy giờ vua lấy hoa rải trên người Đức Phật. Đức Phật liền hóa hiện những hoa được rải đó thành một ngàn hai trăm năm mươi bảy cỗ xe cao đến cõi trời Phạm thiên, ánh sáng vượt hơn núi vàng, màu sắc bằng các loại báu hổn hợp, ánh sáng phản chiếu vào nhau rực rỡ, nhiều vô số kể như thần châu, anh lạc, để trang trí cho số xe đó. Trong mỗi xe đều có một Đức Phật ngồi phóng hào quang khắp cõi Tam thiên. Hội chúng thấy sự thần biến đó trong tâm hoan hỷ và hết lòng tôn kính. Đức Phật nhân đó thuyết pháp tùy theo bệnh cho thuốc, tất cả đều phát đại tâm an trú địa vị Bất thoái, đắc quả sinh Thiên số lượng rất nhiều.
Ngày thứ mười lăm, vua Bình-sa cung thỉnh Đức Phật. Đức Phật dạy nhà vua lo chuẩn bị thức ăn đầy đủ. Nhà vua ra lệnh cho mọi người bày biện chén bát nhiều vô số kể. Tự nhiên thức ăn đầy đủ trên các chén bát, trăm thứ thức ăn, nhiều loại đặc sản khác lạ, tất cả hội chúng ai cũng đều ăn uống đầy đủ. Sau khi ăn xong, họ đều thấy thân tâm an lạc kỳ lạ. Đức Phật dùng tay trỏ xuống đất, mười tám cảnh giới địa ngục đều hiện rõ, các người chịu tội nhiều vô số kể, tự kể lại tội lúc sinh tiền làm những tội lỗi như vậy nay chịu khổ báo này. Ai cũng đều thấy, đều nghe đem lòng thương xót nhưng cũng lo sợ cho chính mình. Đức Phật nhân đó thuyết pháp thích hợp cho từng căn cơ đối tượng. Tất cả đều phát khởi đại tâm, an trú địa vị Bất thoái, đắc quả sinh Thiên vô số kể.
Các chúng sinh trong cảnh địa ngục, nhờ gặp Đức Phật nghe chánh pháp, tâm sinh cung kính đều tái sinh vào trong loài người hoặc chư Thiên.
Bấy giờ vua Bình-sa bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có ba mươi hai tướng quý, những tướng thân và tay đều đã được thấy, còn lại luân tướng ở nơi chân Ngài con chưa được thấy. Mong Ngài cho đại chúng thấy để được chiêm ngưỡng.
Đức Phật cất bàn chân lên để cho đại chúng thấy được luân tướng dưới bàn chân của Đức Phật. Bàn chân của Đức Phật đầy đặn, đoan nghiêm phẳng sáng, các đường chỉ như hoa, phân biệt rõ ràng, xem mãi không chán. Vua càng thêm hoan hỷ, lại bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, không rõ Ngài do phước đức gì mà có được luân tướng kỳ diệu như vậy.
Đức Phật dạy:
– Này đại vương, do Ta trong quá khứ tu mười thiện nghiệp và đem mười thiện nghiệp giáo hóa cho mọi người, cho nên mới có luân tướng hiện rõ như vậy.
Vua Bình-sa thưa tiếp:
Bạch Thế Tôn, Ngài tự mình tu mười thiện nghiệp và dạy cho mọi người bằng cách nào? Mong Ngài khai thị cho chúng con.
Đức Phật dạy:
– Đại vương hãy khéo nghe và ghi nhớ Ta sẽ giảng.
Vào vô số a-tăng-kỳ kiếp về trước, trong cõi Diêm-phù-đề này có vị vua của một nước lớn tên là Thi-đà-ni-di cai trị tám vạn bốn ngàn nước, có tám muôn ức xóm làng, một vạn đại thần. Vua có hai vạn phu nhân đều không có con. Nhà vua rất ưu sầu sợ không có người nối dõi tông đường. Vua thường đi cầu tự cùng khắp kể cả nguyện cầu đến chư Thiên. Vị phu nhân thứ nhất của vua tên là Tu- lê-bà-la-mãn, qua một thời gian biết mình mang thai, sau khi mang thai tâm tánh minh mẫn lạ thường, nhân từ khoan dung, khuyên người làm lành. Đến ngày nở nhụy khai hoa bà sinh được một nam nhi tướng mạo khôi ngô tuấn tú, xuất chúng khác thường, các lỗ chân lông trên người đều phát ra ánh sáng. Vua rất vui mừng, xem hoài không chán. Vua cho mời thầy tướng để đoán các tướng tốt lành kia. Thầy tướng vừa mới ghé xem, liền khen ngợi là tướng hảo siêu quần, xuất chúng vượt bậc, đức tỏa bốn phương, thiên hạ nương nhờ. Nhà vua càng thêm hoan hỷ, ban lệnh cho đặt tên thái tử. Thầy tướng tâu vua:
– Trong khi mang thai có điềm lạ gì không?
Vua nói:
– Từ khi mang thai hoàng hậu thông minh, trí tuệ, nhân từ, khuyến khích làm điều lành, còn có những điềm khác nhưng điều này là dị thường khác lạ.
Thầy tướng nghe xong rất kinh ngạc mà vui mừng liền tâu vua:
– Bà mẹ mang thai có trí tuệ biện tài, tự thân hài nhi khi chào đời phát ra ánh sáng, vậy thì nên lấy tên là Na-ba-la-mãn (đời Tấn dịch là Tuệ Quang).
Thái tử càng lúc càng lớn, trí tuệ khác người. Bỗng nhiên vua cha băng hà. Sau khi lo lễ tống tán vua xong, các đại thần họp lại, khuyên mời thái tử lên kế vị. Thái tử dứt khoát chối từ, bảo:
– Ta không đủ khả năng gánh vác. Các quan đại thần thưa:
– Đại vương đã băng hà, thái tử là người con duy nhất không có anh em, nay thái tử nói không muốn kế vị, vậy thì muốn nhường ngôi vị suy tôn cho ai?
Thái tử trả lời:
– Người đời làm ác ta ắt không chấp nhận, nếu cứ gia hình phạt thì tội lỗi của ta không nhỏ. Nếu các ngươi đốc suất nhân dân thực hành mười điều lành, ta mới nhận lãnh ngôi vua để lo toan việc nước.
Các vị đại thần trả lời:
– Thưa vâng, xin thái tử lên ngai vàng kế vị, đem đạo lý mười điều lành để ban ra cho nhân dân thực hành.
Bấy giờ thái tử nhận lãnh ngôi vua xong bố cáo khắp trong nhân dân thiên hạ là phải thực hành mười điều lành. Tất cả đều cung kính tuân theo, cải tà quy chánh, đổi ác làm lành. Ma vương sinh lòng đố kỵ, mưu phá hoại sự giáo hóa của vua, liền giả mạo một mật thư ý ngược lại bố cáo khắp thiên hạ trong nước: “Sắc dụ khuyên làm lành trước đây không đem lại lợi ích và hiệu nghiệm, một việc làm hoang đường, khổ nhọc, từ nay về sau tùy theo ý kiến của dân mặc tình thực hành mười điều ác, chớ có nản lòng.” Khi các vị vua tiếp được mật thư này liền lấy làm lạ với chiếu chỉ quái dị, tự hỏi vì lý do gì mà ra một chiếu chỉ vượt ra ngoài đạo lý thế này! Đi khuyên mọi người làm ác. Mỗi vị vua của các nước nhỏ đều ngầm sai người thân tín đến vua đại quốc hỏi lý do. Vua vừa thoạt nghe kinh ngạc vô cùng, trả lời:
– Ta đâu có sai làm việc này, nguyên do từ đâu?
Vua liền ra lệnh sửa soạn xa giá, đích thân vua đi đến các tiểu quốc gặp trực tiếp các thần dân cải chính liền chính sách quái dị ấy.
Lúc ấy, ở một bên đường có một hồn ma hóa làm hình người, nằm bên đống lửa đang cháy đỏ hừng hực, kêu la những lời ai oán. Vua dừng lại hỏi:
– Ngươi vì sao như vậy? Ma trả lời:
– Tôi vì trước đây khuyên người làm mười điều lành, nay chịu khổ báo này thống thiết không chịu nổi.
Vua nói:
– Vì sao như vậy được, khuyên người làm lành thì làm sao mà chịu khổ báo được!
Nhà vua hỏi tiếp:
– Ngươi khuyên người thực hành mười điều thiện thì ngươi chịu khổ báo, còn những người mà trước đây ngươi khuyên thực hành mười điều thiện, thì nay được phước báo gì?
Đáp:
– Dạ có, người tôi khuyên làm thiện trước đây nay nhận được phước báo. Chỉ riêng tôi dạy người khác làm mười điều thiện chịu khổ báo.
Vua nghe xong hoan hỷ đáp:
– Nếu chỉ người trước đây mình khuyên làm thiện có được phước báo còn mình khuyên làm thiện chịu khổ báo thì ta chẳng vì thế mà sinh hiềm hận.
Ma nghe xong hiểu được tâm kiên cố của vua, liền ẩn hình biến mất, đi khắp nước tuyên truyền thực hành mười điều thiện. Từ đó nhân dân tu theo điều thiện, chế phục thân, khẩu và ý, chánh pháp được lưu truyền khắp nước. Tất cả đều khâm phục tôn sùng vua, ân đức cao dày, hiển hách. Nhờ đức lành đó nên điềm lành xuất hiện, kim luân ứng hiện, bảy báu tràn đầy, khắp cả bốn phương đều làm việc thiện.
– Này đại vương, vua Thi-đà-ni-di nay là vua Tịnh Phạn, phụ vương của Ta. Vương mẫu lúc đó nay là Ma-ha Ma-da, mẹ của Ta. Vua Tuệ Quang lúc đó đem mười điều thiện giáo hóa nhân dân nay chính là Ta. Do nhân duyên từ nhiều đời trước, Ta thực hành mười điều thiện và đem mười điều thiện giáo hóa cho mọi người, cho nên đời nay dưới lòng bàn chân xuất hiện tướng luân xa.
Bấy giờ vua Bình-sa bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, nhóm Lục sư mê mờ, không biết sức mình, do tham lam lợi dưỡng sinh lòng đố kỵ, đem thần thông thi thố muốn làm nhục Thế Tôn nên nói: “Phật hiện thần lực một thì ta làm gấp hai.” Nhưng khi Đức Phật hiện thần thông, biến hóa diệu kỳ vô song làm cho nhóm Lục sư co rút lại đến nỗi một thuật cũng không phô diễn được, xấu hổ cùng cực, bèn đâm đầu xuống sông tự vận, đồ chúng tan tác, để lại tai họa, nhớ lại việc làm u mê đó, đúng là trò đại bịp bợm.
Đức Phật dạy:
Này đại vương, không phải chỉ có ngày nay nhóm Lục sư mới tranh dành danh lợi và thi thố cùng Ta, đồ chúng tan tác, mà trong quá khứ cũng đã từng tranh với Ta và nhóm Lục sư chuốc lấy thất bại, để chúng trở về quy y với Ta.
Bấy giờ vua Bình-sa quỳ xuống bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con không hiểu trong quá khứ nhóm Lục sư và đồ chúng của họ đấu tranh và quy phục với Ngài, nguyên nhân của sự việc đó như thế nào mong Ngài dạy rõ cho con được lãnh hội!
Đức Phật dạy:
Đại vương hãy lắng nghe cho kỹ, Ta sẽ giảng. Trong quá khứ vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, trong cõi Diêm-phù-đề này có một nước, đức vua tên là Ma-ha Xa-cừu-lợi cai trị năm trăm nước nhỏ. Vua có năm trăm phu nhân, mà không có thái tử để kế vị. Vua tự nghĩ: “Ta mỗi ngày tuổi tác càng lớn mà không có một mụn con để kế tục vương vị. Nếu một mai sau khi ta băng hà rồi thần dân và vua các nước nhỏ không có người thừa kế để tiếp tục cai trị, rồi sẽ dấy binh nổi loạn tàn hại lẫn nhau, quốc gia bạo loạn. Thật là một đại bi kịch!” Khi nghĩ đến sự việc này lòng vua rất ưu sầu lo nghĩ.
Khi đó trời Đế Thích từ xa biết được sự lo nghĩ của nhà vua, từ trong đám đông dân chúng hóa làm một vị lương y đi đến cung điện vua gặp và hỏi cớ sự lo buồn của vua. Vua trình bày sự việc cho lương y, lương y thưa với vua:
– Vua đừng lo nghĩ! Tôi đã có cách chữa trị cho Ngài. Tôi sẽ vào núi Tuyết sơn tìm vài loại thảo dược, cho phu nhân uống, sau khi uống thuốc xong vài hôm sau sẽ có thai.
Vua nghe xong sự lo buồn vơi được phần nào, vua nói với vị lương y:
– Được như vậy thì quá tốt.
Lương y vào Tuyết sơn tìm thảo dược xong, mang về cung dùng sữa trộn vào để sắc, sắc xong đem cho phu nhân dùng, nhưng phu nhân chê là có mùi hôi, trong lòng không tin. Sau đó vị lương y hóa về trời, phu nhân không chịu uống, các tiểu phu nhân chia nhau uống hết, không bao lâu sau những tiểu phu nhân này biết được mình đã mang thai. Họ đem sự việc đó thưa với đại phu nhân. Đại phu nhân nghe như vậy lòng thấy luyến tiếc, hỏi còn thuốc không để uống. Mọi người đáp:
– Đã hết. Hỏi tiếp:
– Dược thảo còn không? Đáp:
– Dạ còn.
Phu nhân sai lấy sữa trộn vào để sắc, mọi người sắc xong đem cho phu nhân uống. Sau khi uống vài ngày bà biết mình có thai.
Các tiểu phu nhân đến ngày mãn tháng đều sinh được con trai, mặt mày chúng đều khôi ngô tuấn tú. Vua thấy các con vui mừng khôn tả, nhưng vẫn áy náy trong lòng vì đại phu nhân. Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, đại phu nhân cũng sinh một người con trai nhưng diện mạo cực kỳ xấu xí, hình thù xù xì như quỉ sứ. Cha mẹ thấy vậy trong lòng rất buồn rầu nên đặt tên cho cậu là Đa-la-hầu-thi (đời Tấn dịch là Chu Ngột).
Vua cho người nuôi nấng, đến tuổi trưởng thành, các anh của Chu Ngột đều lập gia thất, chỉ có một mình Chu Ngột không ai để ý tới. Sau đó nước bên cạnh có quân giặc xâm lược lãnh thổ, năm trăm người anh đem binh giao chiến, vừa mới giao chiến đã bại trận trở về. Chu Ngột hỏi:
– Các anh tại sao rút lui với tâm sợ hãi lo lắng như vậy?
Các anh trả lời:
Vì giao tranh bại trận, quân giặc đuổi theo, cho nên rút lui tẩu thoát.
Chu Ngột nói:
– Quân giặc kia xâm lăng bờ cõi nước ta. Hãy cho người vào lấy cây đại cung trong đền thờ Thiên của tiên tổ đem lại đây, tôi sẽ dùng nó đem đi chinh phạt quân giặc. Tiên tổ của chúng ta trước từng là Chuyển luân vương.
Vua liền sai nhiều người mang đến, Chu Ngột vừa mới trương cung lên tiếng kêu như sấm, khi bắn âm thanh vang xa cách bốn mươi dặm. Chàng mang cung, cầm bối lệnh sang đánh, vừa đến thổi bối lệnh tiếng rền như sấm, quân giặc nghe tiếng kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Sau khi dẹp giặc xong trở về, phụ vương tỏ ra quan tâm đãi ngộ chàng đặc biệt, vua nghĩ đến cưới vợ cho Chu Ngột.
Bấy giờ ở nước láng giềng có vị vua tên Luật- sư-bạt-ta, có người con gái nhan sắc tuyệt trần. Vua Ma-ha-xa-cừu-lợi liền sai một sứ giả đến để cầu hôn cho con. Vua chỉ một người anh của Chu Ngột bảo sứ khi đến vua nước láng giềng có hỏi thì diễn tả giống như tướng mạo của người anh. Vị sứ giả vâng lệnh sang cầu hôn và trình bày đầy đủ cho vua nước láng giềng nghe. Nghe xong vua Luật- sư-bạt-ta hứa gả con gái. Sứ giả trở về báo lại, vua rất vui mừng, liền cho xa giá tổ chức đón cô dâu về. Vua ngầm bảo Chu Ngột, ban ngày không nên gặp vợ. Từ đó về sau, khi mặt trời lặng vợ chồng mới gặp nhau. Những ngày sau đó, thỉnh thoảng các bà gặp nhau bàn tán ca tụng tài trí, đức độ của chồng mình. Khi ấy vợ của Chu Ngột cũng ca ngợi chồng mình nào là sức mạnh như lực sĩ, thân thể dẻo dai, mềm mại, rất đáng yêu thương. Trong đó có một số bà ganh ghét nói rằng:
– Bà đừng nói thế, chồng bà thấy đáng kinh hãi vô cùng!
Vợ Chu Ngột nghe vậy, trong lòng uất ức, thủ sẵn cây đèn cất vào một góc, chờ đến khi chồng ngủ say, đốt đèn lại xem thấy hình dáng chồng rất là kinh hãi, trong đêm ấy lên xe trở về bổn quốc. Sáng ngày mai, Chu Ngột thức dậy mới biết được cớ sự. Rất lo lắng, giận dữ, liền mang cung, cầm bối, tìm tung tích đuổi theo đến lãnh thổ của nước kia. Chu Ngột trú ở nhà một vị quan. Sau đó vua của sáu nước nhỏ nghe vua Luật-sư-bạt-ta có một mỹ nữ tuyệt sắc giai nhân, ai cũng khởi tâm tham dục muốn chiếm đoạt, bày binh bố trận ganh nhau cầu hôn. Vua Luật-sư-bạt-ta buồn rầu lo lắng, triệu tập quần thần để tìm giải pháp cho sự việc này, nếu gả cho một người thì các người kia oán hận, bây giờ tìm cách gì để ngăn chận sự thù địch. Có một vị quan đề nghị:
– Nay đại vương cho truyền một tờ cáo thị, nếu ai có khả năng đánh đuổi những toán quân kia thì sẽ gả công chúa cho và chia cho một phần đất để cai trị và gia ân trọng thưởng.
Vua liền đồng ý và cho tuyên bố yết thị.
Khi đó Đa-la-hầu-thi biết được lời yết thị liền mang cung, cầm bối ra khỏi thành tìm đến cát cứ của giặc, giương cung thổi bối lệnh, quân của sau vua kia kinh hãi nằm yên không dám động. Đa-la- hầu-thi liền xâm nhập vào lãnh địa hạ thủ sáu vị vua, tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và hàng quân.
Vua Luật-sư-bạt-ta rất hoan hỷ đem con gái trao cho và chia cho Chu Ngột bảy nước để cai trị.
Chu Ngột sau khi chiến thắng mới đem tất cả binh tướng và vợ trở về bổn quốc. Phụ vương hay tin ra ngoài biên giới để đón thấy con chỉ huy quân lính rầm rộ. Vua cha đem quốc gia xã tắc truyền lại cho con và khuyến khích lên ngôi đại vương. Chu Ngột không chịu nhận, nói rằng phụ vương còn sống làm vậy là không hợp lý. Khi trở về hoàng cung, Chu Ngột trách vợ:
– Sao trước đây nửa đêm em bỏ ta mà ra đi? Người vợ đáp:
– Vì thân hình của phu quân cực xấu, thiếp mới thấy rất là kinh hãi, cho là không phải người nên bỏ trốn đi.
Chu Ngột tìm gương soi mình mới thấy thân hình đầu óc của mình thật giống như quỉ sứ, thấy nhàm chán cái thân của mình. Không muốn nhìn thấy nó nữa, Chu Ngột bèn lên rừng toan tự sát. Vua Đế Thích từ xa biết được, giáng hạ xuống đứng một bên hỏi cớ sự, biết được liền tìm lời an ủi, khuyên bảo, rồi trao cho một viên bảo châu, nói:
– Hãy đặt viên bảo châu này lên trên đỉnh đầu thì thân hình của ngươi sẽ được đổi khác đoan chánh và khả ái như ta.
Chu Ngột vâng theo lời khuyên bảo đặt viên bảo châu lên đầu thấy thân hình của mình biến đổi một cách kỳ lạ. Chàng trở về hoàng cung lấy cung và bối đi ra ngoài dạo chơi, người vợ thấy hỏi:
– Ông là ai? Chớ nên đụng đến các bảo vật này, chồng tôi trở về sẽ không để yên đâu.
Chàng nói:
– Ta là hôn phu của em đây.
Người vợ thấy khác không tin bèn nói:
– Chồng tôi cực xấu, còn ông thân hình đoan chánh, vậy ông là ai mà nói là chồng tôi?
Người chồng bỏ viên bảo châu ra, hoàn lại hình thù xấu xí như cũ. Người vợ thấy thế mừng lo hỏi:
– Tại sao như vậy được?
Người chồng trình bày sự việc được viên bảo châu. Người vợ từ đó về sau rất thương yêu chồng mình. Cái tên Chu Ngột từ đó không còn gọi nữa mà đổi thành Tu-đà-la-phiến.
Sau một thời gian Tu-đà-la-phiến có kế hoạch xây dựng một cung thành. Chàng liền tìm một nơi bằng phẳng thoáng rộng, ra lệnh và đốc suất binh lính và nhân dân thi công. Đến ngày sắp thực hiện có bốn vị Long vương hóa làm hình người lại hỏi:
Ngài lấy vật liệu gì để xây dựng cung thành này?
Tu-đà-la-phiến đáp:
– Làm bằng đất. Vua rồng lại hỏi:
– Sao không sử dụng vật liệu quý báu? Đáp:
Cung thành này lớn kiếm đâu ra vật liệu quý báu.
Vua rồng liền thưa:
– Tôi sẽ cung cấp.
Long vương liền hóa hiện bốn phía thành bốn cái suối lớn và căn dặn:
– Dùng nước ở suối phương Đông mà làm thì thành trở nên ngọc lưu ly, dùng nước ở suối phương Nam mà làm thì thành trở nên vàng, dùng nước ở suối phương Tây thì thành này trở nên bạc, dùng nước ở suối phương Bắc mà làm thì thành trở nên pha lê.
Sau đó vua ban lệnh xây dựng công trình đúng như lời Long vương nói, các bức thành toàn bằng vật liệu báu. Thành vuông vức bốn trăm dặm. Trong cung thành làm các cung điện, lầu gác, nhà cửa, rừng cây, ao tắm, tất cả đều làm bằng bốn chất liệu quý báu, rất nguy nga, tráng lệ như cung điện cõi trời. Sau khi xây dựng cung thành xong, bảy loại châu báu cùng khắp bốn phía và Tu-đà-la- phiến giáo hóa nhân dân tu tập điều thiện.
Như vậy, này Bình-sa vương, đại vương nên biết Ma-ha Thích-cừu-lê bấy giờ nay là vua Tịnh Phạn, cha của Ta. Người mẹ lúc đó nay là Ma-ha Ma-da, mẹ của Ta. Đa-la-hầu-thi xấu xí, con của vua, nay chính là Ta. Người vợ lúc đó, nay là Cù- di. Cha vợ lúc đó nay là Ma-ha Ca-diếp. Vua của sáu nước muốn dấy binh để bức ép cầu hôn với người con gái lúc đó, nay là nhóm Lục sư.
Lúc bấy giờ, nhóm Lục sư đó gây chiến tranh giành cùng Ta và Ta đã hàng phục thâu nhiếp đồ chúng, cho đến nay vì danh lợi muốn thi thố thần thông cùng Ta, đến khi giáp mặt không có khả năng, xấu hổ đâm đầu xuống sông tự vận. Ta thâu nhiếp đồ chúng gồm chín ức người làm đệ tử.
Bấy giờ vua Bình-sa bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Đa-la-hầu-thi do việc làm gì mà phải chịu hình thù xấu xa như vậy?
Đức Phật dạy vua Bình-sa:
– Tất cả đều có nhân duyên của nó.
Vào quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề có một nước lớn tên là Ba-la-nại. Trong nước, trên một ngọn núi có một vị Tiên tên là Luật Sư. Trong núi Tiên ấy có một vị Bích-chi- phật bị bệnh phong, một hôm Ngài đến nhà người hàng dầu xin chút ít để trị bệnh. Người chủ nổi sân mắng:
– Đầu óc xù xì như quỉ, tay chân như gọng que, không chịu làm ăn, cứ la cà nhà người khác, không muốn trả tiền, chỉ muốn lấy không.
Mặc dầu la mắng như vậy nhưng ông cũng cho một chút dầu cặn. Vị Bích-chi-phật vẫn cung kính nhận rồi ra đi. Người vợ trên đường trở về nhà thấy vị Bích-chi-phật cung kính hỏi thăm:
– Ngài từ đâu đến mà mang thứ dầu cặn đó, để dùng vào việc gì?
Bích-chi-phật kể lại như thật, bà vợ giận dỗi, mời Ngài trở lại, liền lấy một cái bát rót đầy dầu cúng dường và oán trách chồng:
– Ông thật là không phải! Sao lại đem dầu cặn mà cúng dường cho Bích-chi-phật. Ông phải đem lòng sám hối để diệt trừ những lời thô lỗ của ông đi.
Người chồng ăn năn sám hối. Khi vị Bích-chi- phật chào đi, cả hai vợ chồng cùng thưa:
– Khi nào ngài cần dầu hàng ngày ngài cứ đến lấy.
Sau đó vị Bích-chi-phật có trở lại lấy dầu một vài lần. Cảm ân của chủ hàng dầu trước đây, vị Bích-chi-phật hóa hiện thần thông, bay lên hư không thân phát ra nước lửa, phân thân ra rồi hợp lại, biến hóa nhiều cách. Người thấy vậy tâm rất hoan hỷ tăng thêm sự cung kính, nói với vợ:
– Nhờ sự phát tâm cúng dường dầu của nàng, sau này có được phước báo cùng hưởng và nguyện cùng làm vợ chồng với nhau.
Người vợ nói:
– Ông đối với một bậc Hiền trí mà nói những lời thô ác và cho thứ dầu cặn không có lòng trong sạch, e rằng chỗ tái sinh của ông hết sức xấu ác, làm sao cùng ông tác thành vợ chồng được!
Người chồng nói:
– Ta do lao động cực khổ mới có được số dầu, ta không tin là nàng chỉ riêng hưởng, không cùng hưởng với ta từ sự cúng dường này và không cùng ta tác thành vợ chồng.
Người vợ nói:
– Nếu thiếp mà làm vợ của chàng chắc rằng trong đêm phải trốn đi vì thấy thân hình xấu xí của chàng.
Người chồng nói:
– Nếu nàng trốn bỏ đi thì ta phải đuổi theo cho tới nơi mới thôi.
Nói chuyện xong, cả hai vợ chồng quy y với vị Bích-chi-phật, thành khẩn sám hối. Bấy giờ vị Bích-chi-phật nói với hai vợ chồng chủ hàng dầu:
– Nhờ sự bố thí dầu của hai ông bà, bệnh tình của tôi mới được thuyên giảm. Nay hai ông bà muốn cầu điều gì? Những điều mà ông bà muốn cầu rồi sẽ được toại nguyện.
Cả hai vợ chồng quỳ xuống nguyện:
– Bất cứ nơi nào mà vợ chồng tôi tái sinh đến hoặc trên trời hoặc trong loài người đều được toại nguyện như ý.
Đức Phật dạy:
Này đại vương, nên biết người bán dầu lúc đó chính là Đa-la-hầu-thi, vợ của người bán dầu chính là vợ của Đa-la-hầu-thi. Do lúc đó gặp vị Bích-chi- phật nói giống như quỉ sứ, tay chân như gọng que, chỉ cho dầu cặn mà sắc mặt giận dữ, do nhân duyên đó nên sinh bất cứ nơi đâu hình thù cũng xấu xí như những lời mắng trách trước đây. Nhờ sau này tâm ăn năn sám hối, cúng dường dầu tốt mà sinh bất cứ ở đâu thân hình đều được đoan chánh. Do nhân cúng dường lần ấy mà có được sức mạnh phi thường không ai địch nổi, có được phước báo làm Chuyển luân vương hưởng phước cả bốn phương, hưởng dục tùy thích.
Này tất cả chúng sinh, mọi hành động thiện ác đều có quả báo tương ứng của nó, cho nên cần phải tâm niệm về những điều cốt lõi của đạo, phải thận trọng về thân, khẩu, ý, tu tập đạo hạnh.
Khi Đức Phật dạy vua Bình-sa, các vua, thần dân, bốn chúng đệ tử, Thiên, Long, Quỉ, Thần nghe Đức Phật dạy xong có một số đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, có một số gieo gốc thiện căn Bích-chi-phật và có một số phát tâm Vô thượng đại đạo hoặc an trú địa vị Bất thoái. Tất cả đều hoan hỷ kính lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại núi Kỳ-xà-quật, thành
La-duyệt-kỳ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bị cảm phong. Y vương Kỳ-vực điều chế được loại dược Tô, ông dùng ba mươi hai loại dược liệu điều chế để Đức Phật trị bệnh một ngày uống ba mươi hai lạng.
Khi ấy Đề-bà-đạt-đa sinh tâm đố kỵ, tự cao tự đại có ý sánh ngang hàng với Phật. Nghe Phật Thế Tôn đang dùng dược Tô, có ý tham lam muốn dùng ngang với Phật, nên Đề-bà-đạt-đa cho gọi Kỳ-vực đến bảo:
– Ông nên luyện dược Tô cho ta.
Kỳ-vực luyện dược Tô và bảo Đề-bà-đạt-đa nên dùng một ngày bốn lạng. Đề-bà-đạt-đa thắc mắc hỏi:
– Phật dùng một ngày mấy lạng? Kỳ-vực đáp:
– Ba mươi hai lạng. Đề-bà nói:
– Ta cũng dùng ba hai lạng. Kỳ-vực nói:
– Thân Như Lai không giống như ngài, nếu ngài uống nhiều ắt gặp tai họa.
Đề-bà-đạt-đa nói:
– Thuốc ấy tôi uống vào đủ sức để tiêu hóa, bản thân tôi và Phật có gì khác nhau đâu! Cứ cho ta uống liền công hiệu như Phật.
Hàng ngày Đề-bà vẫn uống ba mươi hai lạng, khi thuốc vào trong thân thể lưu chuyển vào các mạch, do sức yếu kém nên không thể tiêu hóa được, thân thể tứ chi đau đớn thống khổ, rên rỉ, gào thét, ruột gan rối bời vật vã. Đức Phật thương xót liền đưa bàn tay xoa vào đầu, dược liệu được tiêu hóa dứt hết đau đớn, bệnh tình bình phục. Đề-bà- đạt-đa ngó lại thấy tay Phật bèn nói rằng:
– Tất-đạt dùng xảo thuật đối với đời vô dụng, lại học nghề thuốc mới khéo biết như vậy.
Bấy giờ A-nan nghe những lời như vậy, trong lòng buồn giận đến quỳ xuống bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa không biết tri ân. Đức Thế Tôn vì từ bi dứt trừ cơn đau đớn cho ông ta, mà ông ta lại phát ra những lời không mấy thiện cảm, có điều gì trong lòng mà sinh ra tâm địa như vậy, ngày đêm suy nghĩ đố kỵ với Đức
Thế Tôn.
Đức Phật dạy A-nan:
– Đề-bà-đạt-đa không chỉ ngày nay ôm lòng không tốt muốn làm hại Ta, mà trong kiếp quá khứ đã từng nuôi tâm sát hại Ta.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, con không rõ trong quá khứ Đề-bà-đa làm việc thương hại Đức Thế Tôn như thế nào và vì lý do gì?
Đức Phật dạy:
– Hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ nói.
Ngài A-nan thưa:
– Xin vâng. Bạch Đức Thế Tôn, chúng con nhất tâm lắng nghe.
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vào thời quá khứ lâu xa, không thể tính số a-tăng-kỳ kiếp, cõi Diêm-phù-đề này có một thành lớn gọi là Ba-la-nại. Vua nước ấy tên là Phạm-ma-đạt hung bạo không có từ tâm, sống xa xỉ, hảo lạc, hiếu dâm, hay ôm lòng ác độc đố kỵ, thích làm hại người khác.
Một hôm ông mộng thấy một con thú có lông sắc vàng, bộ lông mượt mà phát ra ánh sáng vàng, chiếu khắp hai bên tả hữu đều là sắc vàng. Sau khi tỉnh giấc, ông tự nghĩ: “Theo như giấc mộng của ta thì một bộ lông như vậy không thể có trong thế gian này. Ta phải tổ chức một cuộc đi săn để tìm cho ra bộ lông kia.” Sau khi suy nghĩ như vậy, vua cho mời các chuyên gia săn bắn đến diễn tả lại giấc mộng về con thú có lông màu vàng, đầu mỗi sợi lông phát ra ánh sáng chói lọi khác thường. Vua nói:
– Ta nghĩ trong nước chắc phải có vật này, mong các người đi khắp mà tìm bắt cho được. Nếu bắt lấy được bộ da kia ta sẽ trọng thưởng, cho con cháu của các ngươi dùng đến bảy đời. Nếu không cố công tìm bắt được ta sẽ tru diệt dòng họ tổ tông của các ngươi.
Các thợ săn nhận lệnh xong, trong lòng sầu não lo lắng không có phương kế gì, cùng họp lại một nơi để bàn cách giải quyết sự việc này:
– Giấc mộng về con thú của vua trên đời này chưa từng thấy, cần phải đi nơi nào để tìm cho ra được. Nếu không tìm được, phạm vào phép vua tất cả chúng ta vĩnh viễn không còn đường sống.
Sau khi bàn luận xong họ càng tăng thêm sầu muộn. Có một người trong nhóm kể lại rằng:
– Trong núi đầm này, độc trùng ác thú nhiều vô số kể. Vào sâu mà tìm ắt không thể được, vừa vào đến nơi đã tan thân mất mạng chết toi trong rừng sâu. Riêng ý của tôi nên kiêm một người đi tìm hộ cho.
Mọi người đều đồng ý. Rồi sau đó chọn được một người và nói:
– Anh nên hết lòng đi vào rừng sâu để tìm con thú lông vàng, nếu trở về mọi chuyện tốt đẹp chúng tôi gom lại nhiều bảo vật để trọng thưởng cho anh. Giả sử vào trong rừng sâu lỡ bị hại không trở về được thì chúng tôi sẽ giao số bảo vật cho vợ con anh.
Nghe trình bày xong, anh ta thầm nghĩ: “Ta vì những người này dầu bỏ thân mạng cũng được.” Sau khi tính toán có thể lên đường, vị ấy lo hành trang lương thực đầy đủ, rồi ra đi. Trải qua một thời gian khá lâu, thân suy lực kiệt, trời thì nắng chang chang, lại phải đi qua mỗi bãi sa mạc, cát nóng rang, cổ họng khô khốc, cơn khát trầm trọng, hơi nóng bốc lên uất nghẹn cổ họng gần chết. Khổ đau cùng cực thống thiết, vị ấy nói:
– Có ai rủ lòng Từ bi thương xót đến ta, cứu giúp mạng sống của ta.
Lúc đó trong núi đầm có một dã thú gọi là Cứ- đà, lông thân sắc vàng, đầu lông chiếu sáng, từ xa nghe những lời thống thiết như vậy, rất thương xót người bị nạn, đích thân tìm xuống khe nước lạnh rồi trở lại chỗ đó dùng thân ấp ủ cùng khắp người kia. Lát sau người ấy hồi tỉnh có chút sức lực, Cứ- đà liền dẫn đến dòng nước tắm rửa, rồi đi nhặt trái cây cho anh ta ăn. Sau một hồi thân thể bình phục, anh ta nghĩ: “Con thú đặc biệt có lông vàng, sắc sáng này là con thú mà đại vương đang cần đây. Nhưng khi ta sắp chết nó đã cứu mạng ta. Cảm ân đức chưa lấy gì để đền trả làm sao mà rắp tâm làm hại nó được, nhưng nếu không bắt nó thì đám thợ săn và bà con của họ đều bị giết sạch.” Nghĩ đến việc này lòng anh ta cứ miên man suy nghĩ. Cứ-đà nói:
– Việc ấy chớ lo, da của tôi đây xin biếu anh.
Rồi Cứ-đà kể:
– Tôi từ nhiều đời trước đến nay đã xả bỏ thân này vô số nhưng chưa từng làm việc phước đức. Nay xả bỏ mạng sống lấy tấm da này để cứu bao sinh mạng kia, trong lòng tôi rất hoan hỷ. Nếu anh lấy thì lột lấy da của tôi, đừng vội dứt mạng sống liền. Tôi đã cho anh chẳng có hối tiếc.
Khi ấy người thợ săn từ từ róc lấy da. Mặc dầu rất đau nhưng Cứ-đà lập nguyện: “Nay tôi dùng da tôi bố thí cho người này để cứu mạng cho những người thân của họ, nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả đều thành Vô thượng chánh chân Phật đạo và rộng độ cho tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong biển khổ sinh tử được an trú vào Niết-bàn an lạc.” Cứ-đà lập nguyện xong, ba ngàn thế giới chấn động sáu lần, cung điện các cõi trời dao động không ngừng. Chư Thiên đều kinh ngạc, tìm hiểu hiện tượng kỳ lạ đó thì thấy Bồ-tát đang lột da mình để bố thí. Ngay khi ấy chư Thiên từ Thiên cung giáng hạ xuống rải hoa cúng dường khóc lệ như mưa. Sau khi lột da xong còn lại phần thịt đỏ tươi, máu chảy tràn trề, không thể nhìn được.
Lại có tám vạn con ruồi kiến bu đầy trên thân rúc rỉa ăn thịt. Khi ấy Cứ-đà muốn trở mình nhưng sợ làm thương tổn đến loài ruồi kiến. Nỗi đau thống thiết tự mình nhẫn nhịn, thân không dao động, chia thân ra bố thí, rồi chết. Các loài ruồi kiến nhờ ăn thịt Bồ-tát, sau khi mạng chung đều được sinh Thiên.
Bấy giờ người thợ săn mang bộ da trở về nước dâng lên nhà vua thấy rất hoan hỷ khi bộ lông này thuộc loại vô cùng đặc biệt chưa hề thấy, bền đẹp mịn màng. Vua thường dùng trải nằm, khi nằm trên tấm lông thú đó tâm hồn rất an lạc, thoải mái.
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, thân thú Cứ-đà lúc bấy giờ nay chính là Ta. Vua Phạm-ma-đạt nay là Đề-bà-đạt- đa. Tám vạn ruồi kiến lúc đó khi Ta mới thành đạo vừa chuyển vận pháp ở trên cung trời có tám vạn chư Thiên đắc đạo. Đề-bà-đạt-đa thời đó làm thương tổn Ta cho đến nay cũng không có thiện tâm, đêm ngày rắp tâm muốn làm thương hại Ta.
Hiền giả A-nan và hội chúng sau khi nghe Phật kể lại như vậy trong lòng buồn rầu, tất cả đều tinh tấn, chuyên cần thực hành chánh pháp có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người gieo nhân Bích-chi- phật và cũng có người phát tâm Vô thượng Phật đạo, có người an trú địa vị Bất thoái. Tất cả đều hoan hỷ, cung kính phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ, sau khi vua Ba-tư-nặc băng hà, thái tử Lưu Ly nhiếp chính làm vua, tính tình bạo ngược vô đạo, xua đuổi đàn voi say chà đạp giết người vô số. Lúc ấy những phụ nữ quý tộc thấy sự việc như vậy trong lòng buồn rầu chán nản không vui với tục ấy, cùng rủ nhau đi xuất gia làm Tỳ- kheo-ni. Nhân dân trong nước thấy các người nữ, hoặc thuộc dòng họ Thích, hoặc dòng vua chúa, tôn quý đoan trang thuộc loại hàng số một trong nước, tất cả đều xả bỏ dục lạc, xuất gia học đạo. Ai cũng khen đẹp, mọi người tranh nhau cúng dưỡng. Các Tỳ-kheo-ni cùng nói với nhau:
– Chúng ta tuy trên danh nghĩa là xuất gia nhưng chưa uống được thuốc chánh pháp nhằm tiêu trừ dâm, nộ, si. Chúng ta cùng đến chỗ của Tỳ- kheo-ni Thâu-la-nan-đà để học hỏi về kinh pháp.
Lòng mong mỏi học đạo, họ đều vội vã đến đó.
Sau khi làm lễ chào hỏi xong, các vị ấy thưa:
– Chúng con tuy đã nhập đạo nhưng chưa thấm được giọt nước cam lộ. Mong đại Ni sư khai ngộ cho chúng con!
Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà suy nghĩ: “Ta sẽ dạy cho họ đi ngược lại với giới luật của Phật, họ trở về ta thâu một số y bát không thích lắm sao!” Bà dạy:
– Các người thuộc dòng đại quý tộc, có ruộng vườn cơ nghiệp, bảy loại châu báu, voi, ngựa, nô tỳ không hề thiếu thốn. Sao lại bỏ đi mà thọ giới cấm của Phật, làm Tỳ-kheo-ni khổ cực vậy? Chẳng bằng hoàn tục trở về dựng vợ gả chồng cùng hưởng thú vui dục lạc rồi tùy ý bố thí như vậy không sung sướng một đời hay sao!
Nghe nói như vậy, nhóm Tỳ-kheo-ni trong lòng chán nản, khóc lóc rồi bỏ đi. Họ lại đến nơi tịnh thất của Tỳ-kheo-ni Vi Diệu, trước hết làm lễ rồi thăm hỏi đúng pháp và thưa:
– Chúng con sống ở tại gia mê theo thói đời. Nay tuy đã xuất gia nhưng tâm ý còn buông lung phóng dật tâm dục mãnh liệt, tự mình không thể tìm lối thoát được. Mong đại Ni sư thương xót thuyết pháp khai mở, giải thích những tội lỗi mê mờ đó cho chúng con.
Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Vi Diệu dạy:
Này các vị, trong ba đời các vị muốn hỏi điều gì?
Các vị ấy thưa:
– Bạch đại Ni sư, quá khứ và vị lai thì không đề cập đến, mong đại Ni sư, căn cứ vào hiện tại mà giải thích các nghi ngờ ràng buộc cho chúng con.
Tỳ-kheo-ni Vi Diệu dạy:
– Dâm dục giống như ngọn lửa dữ thiêu cháy núi rừng, nó lan ra rất nhanh, làm thương tổn một vùng rất rộng. Con người mà để tâm vào dâm dục là cùng bắt tay với giặc hại qua ngày đoạn tháng đọa vào tam đồ không có ngày ra khỏi. Những niềm vui trong gia quyến, tham đắm vào sự sum họp, ân ái, vinh hoa, lạc phú nhân duyên, sinh, già, bệnh chết, ly biệt, những phiền toái ở công đường đều là nước mắt và luyến tiếc, thương hoại tâm cam, sự quyến luyến gia đình thâm căn cố đế, tâm ý bị trói buộc còn hơn lao ngục.
Ta vốn sinh ra trong một gia đình Phạm chí, thân phụ của ta là bậc tôn quý lớn nhất trong nước. Lúc đó, có người con trai của vị Phạm chí, thông minh tài trí nghĩ ta có sắc đẹp đoan chánh, cho người mai mối, cưới về làm vợ tác thành gia thất sau đó sinh được đứa con trai. Chẳng bao lâu sau, cha mẹ chồng con nhà cửa đều tiêu tan hết. Vào lúc mang thai, ta nói với chồng:
– Nay thiếp đã mang thai, trong mình ô uế, bất tịnh. Gần đến ngày sinh nở sợ có điều nguy hiểm xảy ra, thiếp muốn trở về nhà cha mẹ để thăm.
Chồng ta nhất trí cùng đi về nhà, đến được nửa đường thân thể chuyển bệnh. Nghỉ dưới một gốc cây chồng ta nằm một bên. Đêm đó ta chuyển bụng sinh, những chất dơ chảy ra có mùi xú uế, loài rắn được bò đến và cắn chồng ta chết, ta gọi mấy lần mà không nghe tiếng trả lời. Trời chuyển sáng ta cố ngồi dậy lật cánh tay chồng lên biết bị rắn cắn, thân thể sưng tấy, mình mẩy bầm nát, chân tay rũ rượi. Ta thấy vậy liền chết ngất. Đứa con lớn, biết cha chết thất thanh la lớn. Nghe tiếng con la, ta choàng tỉnh dậy, lưng cõng đứa con lớn, tay bồng đứa con nhỏ khóc rồi đi tiếp, quãng đường hiểm trở không có bóng người. Đi tiếp một đoạn đường có con sông lớn vừa sâu vừa rộng, ta để đứa lớn bên bờ này ẵm đứa nhỏ lội qua bờ kia rồi trở lại đón đứa lớn. Đứa nhỏ từ xa thấy ta liền lao tới rớt xuống dòng sông, ta cố lao theo mà không kịp, không thể cứu được chìm lỉm mất hút. Ta trở lại để đón đứa lớn, nhưng than ôi! Lang sói đã ăn mất chỉ còn đống máu lưu lại trên đất. Vật vã bất tỉnh hồi lâu ta mới tỉnh, lại ra đi tiếp. Đang trên đường về nhà gặp một Phạm chí bạn của cha ta, hỏi:
– Con từ đâu đến mà thấy tiều tụy như vậy?
Ta liền đem những chuyện đã xảy ra kể cho ông ta nghe. Lúc đó Phạm chí thương xót cho thân phận cô độc buồn khổ của ta. Ta vừa khóc lóc vừa hỏi ông Phạm chí về cha mẹ và người thân có được bình an tất cả không. Được trả lời là gia đình cha mẹ người thân lớn nhỏ, gần đây có một trận hỏa hoạn đã chết hết không còn sống sót một người nào. Sau khi nghe xong vật vã chết ngất hồi lâu mới tỉnh. Ông Phạm chí thấy vậy thương xót dẫn ta về nhà nuôi nấng đầy đủ, xem ta như con. Sau một thời gian có một Phạm chí khác thấy ta đẹp đẽ đoan chánh xin cưới ta làm vợ, ta cũng đồng ý. Sau khi cưới một thời gian sau ta có thai đã đến ngày gần mãn nguyệt khai hoa, ông ra ngoài la cà nhà người rượu chè nhậu nhẹt, chiều tối mới về gặp lúc ta sắp sinh, một mình trong nhà đóng cửa lại, khi đang sinh thì Phạm chí về nhà gõ cửa gọi lớn nhưng chẳng có ai ra mở cửa, ông ta tức giận phá toang cửa nhảy vào, vừa thấy đánh túi bụi. Ta phân trần, ông ấy càng nổi cơn giận nhảy vào giết chết đứa con, còn bắt ép ta ăn thịt con, đau khổ và sầu muộn cùng cực, không nhẫn tâm ăn thịt con, ông ta lại đánh đập tàn nhẫn, bức ép ta phải ăn, ăn xong trong lòng đau xót, ta nghĩ đã hết phước mới gặp con người như vậy. Ta bỏ ra đi đến Ba-la-nại, ở ngoài thành ngồi nghỉ dưới gốc cây. Trong khi đó có một trưởng giả vợ vừa mới chết đang đem chôn ở ngoại thành, thương mến luyến tiếc người vợ quá cố đó, ngày nào cũng ra ngoài thành đến nơi mả vợ khóc lóc. Một hôm gặp ta và hỏi:
– Cô người ở đâu mà ngồi một mình bên vệ đường này vậy?
Ta kể lại sự việc vừa qua, ông mời ta vào một viên quán và yêu cầu lấy ta làm vợ, ta đồng ý. Trải qua một vài ngày, trưởng giả bị một cơn trọng bệnh không thể cứu chữa được, phút chốc lìa trần. Theo tục lệ phép nước khi sinh thời người chồng mình yêu mến mà chết thì khi chôn phải cùng chôn người vợ luôn. Mặc dầu ta đã bị chôn vùi nhưng chưa chết, lúc đó có một bọn trộm, đào mồ trưởng giả đó lên để lấy trộm châu báu. Ta được cứu sống, tay anh chị của bọn trộm thấy ta đẹp đẽ đoan chánh lấy về làm vợ, vài tuần sau thực hiện một vụ trộm bị chủ phát giác bắt được, chặt đầu, bọn đàn em đem xác về giao cho ta đem chôn theo tục phép của nước đó người vợ phải chôn theo chồng. Sau đó ba ngày có các con chó sói đến đào mồ lên để ăn thịt người chết, ta tìm cách thoát thân. Ta tự than rằng không biết đời trước ta gieo những tai ương gì mà nay cứ dập dồn oan trái, trong thời gian một tuần lễ đã gặp nhiều cảnh khổ thế này. Chết rồi lại sống, cần phải phụng thờ ai để mạng sống được an toàn, sực nhớ ngày xưa ta thường nghe có người con dòng họ Thích bỏ nhà đi học đạo, thành đạo có hiệu là Phật thông suốt quá khứ, vị lai nên đến đó xin nương tựa, quy y, liền lên đường thẳng đến Kỳ hoàn, từ xa thấy Như Lai như cây đại thọ xanh tươi, như vầng trăng trong các vì sao.
Bấy giờ Đức Phật dùng Tam minh vô lậu quan sát thấy ta cần phải tế độ liền đến đón ta. Ta lúc ấy thân hình lõa lồ không có gì che thân, liền ngồi phệt xuống đất lấy tay che vú. Đức Phật dạy ngài A-nan:
– Ông đem cái y này cho người nữ kia.
Ta vận y vào đảnh lễ ngang chân Đức Phật, trình bày những tai ách tội lỗi cả ta, mong Ngài rủ lòng thương xót nhận ta vào đạo. Đức Phật dạy ngài A-nan nên dẫn người nữ này giao cho Kiều- đàm-di, cho thọ giới pháp. Bà Đại Ái Đạo liền nhận ta làm Tỳ-kheo-ni và thuyết cho ta nghe về pháp Tứ đế, khổ, không, vô thường. Sau khi nghe pháp xong, ta dốc tâm tinh tấn tu hành, tự mình đạt đến quả Ứng chân, rõ biết quá khứ, vị lai. Nay trong đời hiện tại tất cả những khổ báo đều rõ ràng như các nghiệp mà ta đã tạo ra trong quá khứ không sai khác chút nào.
Các Tỳ-kheo-ni thưa hỏi:
– Đời trước do lỗi lầm gì mà nay người phải gánh tai ương như vậy? Cúi mong đại Ni sư thuyết cho.
Tỳ-kheo ni Vi Diệu đáp:
Các ngươi hãy lắng lòng nghe! Vào quá khứ có một vị trưởng giả giàu có của cải vô số, mà không có con, cưới một người vợ nhỏ, tuy là vợ nhỏ nhưng có sắc đẹp vô song được người chồng rất yêu quý. Sau đó nàng mang thai đã tròn mười tháng sinh được một nam nhi, vợ chồng đều yêu quý xem mãi không chán. Người vợ lớn thầm nghĩ: “Ta tuy dòng quý tộc, nhưng hiện không có con để nói dõi tông đường; đứa nhỏ này mai mốt khôn lớn cai quản nhà cửa, ruộng vườn tài sản nó sẽ quản hết. Ta lao khổ cực nhọc mới tích góp được tài sản này đến khi đó ta không còn tự tại thoải mái đối với tài sản đó nữa.” Từ đó tâm ganh ghét nổi lên, bà nghĩ rằng thà sớm trừ nó đi. Ngầm ý lấy một cây kim nhọn bằng thiếc đâm sâu vào mỏ ác không ai biết. Đứa bé chết dần chết mòn, bảy ngày sau thì chết. Người vợ nhỏ buồn rầu não, chết đi sống lại. Trong lòng nghi ngờ người vợ lớn sinh lòng ganh ghét giết con của mình, người vợ nhỏ hỏi: “Này chị, con của tôi không có tội tình ân oán gì với chị sao chị lại giết con tôi?”
Người vợ lớn liền thề thốt: “Nếu ta mà giết con của ngươi thì đời đời chồng ta bị rắn độc cắn chết, con cái ta chết sông chết biển, bị lang sói ăn, thân ta bị chôn sống đi, ta ăn thịt con ta, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc nhỏ lớn bị tai nạn hỏa hoạn mà chết. Sao lại mắng, lại nghi oan cho ta.” Vào lúc đó, do không tin vào tội phước tai ương quả báo, những lời thề ngày trước nay chịu quả báo không ai thay thế cho được.
Này các Tỳ-kheo-ni, người vợ lớn ngày trước nay chính là ta.
Các Tỳ-kheo-ni lại hỏi:
– Do sự may mắn nào mà đại Ni sư gặp được Đức Thế Tôn rồi được nhận vào đạo học hỏi giáo lý xa lìa sinh tử.
Tỳ-kheo ni Vi Diệu trả lời:
Ngày xưa ở Ba-la-nại có một ngọn núi lớn gọi là núi Tiên, trong núi thường có những vị Bích-chi- phật, Thanh văn, ngoại đạo, Thần tiên. Lúc bấy giờ có một vị Duyên giác vào thành khất thực. Có người vợ của một trưởng giả thấy vị ấy khất thực sinh tâm hoan hỷ cúng dường. Vị Duyên giác ăn xong phi hành lên hư không thân xuất ra nước lửa, nằm ngồi trên không trung, người vợ trưởng giả thấy vậy phát thệ nguyện: “Mong ta đời sau đắc đạo giống vậy.” Người phát thệ nguyện lúc đó, nay chính là ta, do nhân duyên đó mà gặp được Như Lai, tâm trí được khai ngộ, thành La-hán. Ngày nay, thân ta tuy đã đắc quả A-la-hán nhưng ngày đêm thường bị một mũi kim thiếc châm từ trên đầu thẳng xuống dưới chân đau đớn không dứt được. Họa phúc như vậy không bao giờ mất báo ứng của nó.
Lúc bấy giờ năm trăm vị Tỳ-kheo-ni quý phái kia được nghe thuyết pháp như vậy, ai nấy đều lo lắng, quán sát gốc rễ của dục giống như lửa hừng. Từ đó tâm tham dục vĩnh viễn không sinh, nỗi khổ tại gia như lao ngục và các trần cấu diệt trừ hết, nhập vào thiền định chứng quả A-la-hán. Tất cả đồng thanh thưa với đại Ni sư:
Chúng con nghiệp ái dâm dục cứ cột trói chúng con triền miên không làm sao mà nhổ bật gốc rễ nó được. Nay nhờ ân đức của đại Ni sư hướng dẫn tất cả chúng con được vượt thoát sinh tử.
Khi ấy Đức Phật khen ngợi:
– Lành thay Vi Diệu! Vì đạo giải thoát đem chánh pháp mà răn dạy mọi người là Phật tử chân chánh.
Tất cả hôi chúng nghe xong đều hoan hỷ, đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ vào buổi sáng Đức Phật cùng A- nan vào thành khất thực, thấy một đám trẻ em đang chơi trên đường. Chúng dồn đất lại để nặn đồ chơi, nào là cung điện, nhà cửa, bình chứa tài sản, vật báu ngũ cốc. Trong đám nhỏ đó có một em bé từ xa thấy Phật đi tới tướng hảo quang minh, sinh lòng cung kính, hoan hỷ vui mừng tâm muốn cúng dường Phật, em mới lấy cái bình trong đó đựng đồ chơi ngũ cốc muốn dâng lên cúng dường Phật; nhưng với không tới. Em nói với em bé khác:
– Tôi đứng lên người bạn để cúng dường ngũ cốc cho Phật.
Em bé kia đồng ý, nó liền đứng trên vai em bé ấy lấy đất cúng Phật. Đức Phật hạ bát cúi xuống nhận lấy. Nhận xong, Ngài trao cho A-nan và nói:
– Ông hãy giữ số đất này để về quét lên những chỗ dơ ở tường phòng của Ta.
Khất thực xong trở về tinh xá Kỳ hoàn, ngài A- nan lấy đất quét phòng của Phật vừa đủ sạch một bên thì đất vừa hết, xong A-nan sửa lại y phục lên bạch với Phật. Đức Phật dạy A-nan:
– Em bé hoan hỷ cúng dường đất đủ để quét những chỗ dơ một bên phòng của Phật, nhờ công đức này sau khi Ta nhập Niết-bàn khoảng một trăm năm sẽ làm vua một nước lấy hiệu là A-thâu-ca, còn các em bé khác thì làm quan đại thần cùng cai trị các quốc độ trong cõi Diêm-phù-đề này để làm hưng thịnh Tam bảo, cúng dường rộng khắp, phân bố xá-lợi khắp cõi Diêm-phù-đề, xây dựng tám mươi bốn ngàn ngôi tháp cho Ta.
A-nan nghe xong tán thán khen ngợi và hỏi tiếp:
– Bạch Đức Như Lai, ngày xưa do công đức gì mà có phước báo nhiều tháp như vậy?
Đức Phật dạy:
– Này A-nan, ông phải chuyên chú lắng nghe. Vào kiếp quá khứ lâu xa a-tăng-kỳ kiếp, có vị vua một nước lớn tên là Ba-tắc-kỳ cai trị tám ngàn bốn trăm nước trong cõi Diêm-phù-đề. Vào lúc đó có
Đức Phật hiệu là Phất-sa. Vua Ba-tắc-kỳ và các đại thần đem đủ tứ sự cúng dường Đức Phật và chúng Tỳ-kheo Tăng với một tấm lòng tôn kính vô lượng. Vua suy nghĩ: “Nay đại quốc này toàn thể nhân dân luôn được thấy Phật, lễ bái cúng dường. Còn các nước nhược tiểu kia, ở ngoài biên địa, nhân dân thiếu điều kiện để tu phước, nay cho vẽ hình tượng Phật phổ biến khắp các nước nhằm gợi ý thức cúng dường.” Suy nghĩ xong, vua cho triệu tập các họa sư rồi sai thiết kế hội họa. Các họa sư đến ngồi một bên Phật để vẽ, vừa nhìn Phật vừa vẽ, vì thế chỉ vẽ được một phía. Còn thiếu các phía bên kia. Lại tiếp vừa nhìn các phía còn lại vừa vẽ, vì thế chỉ vẽ được từng mảnh cho nên bức họa không thành toàn bích được. Khi ấy Đức Phật Phất-sa hòa nhập các mảng lại, tự tay Phật vẽ đúng theo pháp thức thành một hình toàn bích, sau đó các họa sư y cứ vào đó phóng ra tám mươi bốn ngàn hình tượng, vô cùng tuyệt tác đúng y như Phật, rồi cho phổ biến khắp mỗi nước mỗi bức và dặn dò nhân dân mỗi nước dâng hương hoa để cúng dường hình tượng. Nhân dân các nước có được hình tượng Như Lai tôn kính phụng thờ như gặp được chính thân Phật vậy.
Đức Phật dạy:
Này A-nan, vua Ba-tắc-kỳ thuở đó nay chính là Ta. Do nhân duyên vào thời đó cho họa tám mươi bốn ngàn hình tượng Phật, phổ biến khắp các nước và bày cách thức cúng dường, công đức này đời đời tiếp nhận được phước, trên trời hoặc trong loài người, sinh bất cứ nơi nào đều có nhan sắc tuyệt đẹp, đoan chánh. Có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do công đức này đưa đến thành Phật, sau khi nhập Niết-bàn lại được quả báo có tám mươi bốn ngàn tháp được xây dựng.
Hiền giả A-nan và cả hội chúng nghe Đức Phật thuyết xong hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ các Tỳ-kheo trong mỗi nước tùy ý an cư, trải qua chín mươi ngày, sau khi an cư xong đều đến chỗ Phật mà hỏi những nghi vấn và nhận lời giáo huấn. Đức Phật và chúng Tỳ-kheo xa nhau đã lâu, lòng càng thương nhớ, Đức Phật cất bàn chân tướng thiên bức luân và cánh tay thần để chúng Tỳ-kheo xem, an ủi vỗ về sự lao khổ của họ, rồi sau đó hỏi thăm:
– Các vị ở xa tới có lẽ sự cúng dường ẩm thực chắc không thiếu chứ?
Công đức Như Lai ở trên thế gian không ai sánh bằng. Nay Ngài hạ cố thăm hỏi các Tỳ-kheo, đặc biệt quan tâm. A-nan thấy đó là một việc lạ nên thưa hỏi Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, Ngài là một Bậc Xuất Thế, tối tôn đặc thù, công đức trí tuệ hiếm có trên đời. Nay Ngài hạ cố thăm hỏi an ủi các Tỳ-kheo, có điều gì tốt lành chăng? Bạch Đức Thế Tôn, không rõ Đức Thế Tôn có những lời lẽ khiêm tốn như thế là có ý xa gần muốn dạy bảo điều gì?
Đức Phật dạy:
– Nếu ngươi muốn biết, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói:
Ngài A-nan thưa:
– Xin vâng, chúng con cung kính lắng nghe. Đức Phật dạy:
– Này A-nan, vào thời quá khứ lâu xa, vô số lượng a-tăng-kỳ kiếp không thể tính hết, ở cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên là Ba-la-nại, có một người chăm lo sự nghiệp gia đình, rất ham muốn vàng, ra sức dồn góp, lê thân buôn bán khắp bốn phương trời để có tiền bạc dồn vào mua vàng. Một hôm mua được một bình vàng, đào một chỗ trong nhà để chôn giấu, lo toan nhiều thứ khổ tâm mệt xác, trải qua nhiều năm không dám ăn mặc, liên tục dồn góp được bảy cái bình, đều đem chôn giấu.
Một thời gian sau ông ta ngã bệnh rồi chết. Do tâm luyến ái số vàng đó liền tái sinh làm một con độc xà trở về trong nhà để canh giữ bình vàng đó, thọ mạng trải qua năm tháng đến hồi chung cuộc phải bỏ thân xác; nhưng tâm luyến ái của cải không dừng, trở lại thọ thân cưu mang các bình vàng đó tiếp tục trải qua số đến muôn tuổi. Đến lần thọ thân sau cùng, tâm ông sinh nhàm chán, tự nghĩ: “Ta từ trước tới nay do vì ái luyến vàng mà chịu mang thân hình độc xà này, chưa có ngày chấm dứt. Nay ta nên chuyên tâm làm nhiều việc phước để đời đời hưởng ân phước báo.” Nghĩ xong, độc xà tìm một chỗ bên vệ đường, khoanh mình nằm trong bụi cỏ, ẩn mình xem xét, nếu có người đi qua sẽ gọi.
Lúc ấy độc xà thấy một người đi hướng về phía mình, độc xà kêu lên, người kia nghe tiếng, nhìn phải nhìn trái không thấy bóng người mà chỉ nghe tiếng, nên lại thẳng đường mà đi. Độc xà liền xuất hiện gọi lớn:
– Này hãy đến gần tôi. Người kia đáp:
– Ngươi là rắn độc gọi ta có việc gì? Nếu ta đến gần người sẽ hại ta.
Độc xà đáp:
– Ta không có ý hại người, nếu có ý muốn hại người, không lại gần ta cũng hại được vậy!
Người kia rất kinh sợ nhưng cứ đến gần. Độc xà nói:
Nay ở chỗ ta có cái bình vàng muốn đem cái bình vàng đó để lo việc cúng dường làm phước, người làm được việc này không? Nếu người không làm ta sẽ hại người.
Người kia đáp rằng tôi sẽ làm. Độc xà liền dẫn người đó cùng đến chỗ cất giấu vàng, lấy bình vàng lên đưa cho ngươi kia rồi nói:
– Người đem bình vàng này chọn ngày để lo việc cúng dường chúng Tăng ẩm thực. Hẹn ngày xong, khi nào đi mang một cái thúng để bỏ ta vào rồi cùng đi.
Người kia mang bình vàng đem đến Tăng-già- lam, trao cho thầy Duy na và đem sự việc trên trình bày đầy đủ cho thầy, nói:
– Độc xà kia muốn thiết trai cúng dường, xin chọn ngày dâng vật thực.
Vị Tăng nhận bình vàng kia để lo trần thiết sửa soạn những món ăn ngon. Đến ngày cúng dường, người kia mang một cái thúng nhỏ đến chỗ con rắn kia. Rắn mừng rỡ hỏi han liền khoanh thân trên cái mâm bỏ vào trong thúng, che đậy nhiều lớp trên mình rắn rồi mang đến chỗ Đức Phật. Đang đi giữa đường, ông ta bỗng gặp một người, người ấy hỏi:
Ông từ đâu lại mà mang đôi giày đẹp vậy? Ông ta im lặng, không đáp. Hỏi đến lần thứ ba, ông ta cũng không thèm trả lời một tiếng. Người mang con rắn nổi sân hừng hực, có ý độc địa muốn giết chết người kia, nhưng tự cố ngăn được cơn giận vì sao người kia hỏi không đúng lúc! Rắn tự nghĩ: “Người kia cũng có ý tốt, dừng lại hỏi thăm, trịnh trọng hỏi đến ba lần mà ông ta không trả lời lấy một lời, thật không phải lẽ!” Sau khi suy nghĩ như thế, tâm độc lại dấy lên bộc phát mãnh liệt muốn hại người đang mang mình. Nhưng rồi rắn tự nghĩ: “Người này vì ta mà làm phước chưa trả được ân.” Nhiều lần nghĩ vậy, tâm nó trở lại bình phục: “Đối với người này ta mang ân lớn, tuy có chút lỗi việc ấy nên nhẫn nhịn thì hơn.” Đến chỗ vắng, rắn mới nói với người kia: “Bỏ ta xuống đây,” rồi tìm lời trách móc nặng nề, đem giới pháp mà khuyên bảo. Người kia mới thấy rõ, tự mình trách móc, hối cải, sinh tâm khiêm tốn, lòng thương xót đến mọi người. Rắn rất nhiều lần khuyên bảo không nên tái phạm như vậy.
Người kia mang con rắn đến Tăng-già-lam đặt trước chúng Tăng. Đến giờ chúng Tăng thọ thực đứng thành từng hàng, rắn bảo người kia theo thứ tự mà cúng dường hương, bằng tâm cung kính trực tiếp thấy được chúng Tăng nhận hương, như vậy cho đến vị cuối cùng, tận mắt nhìn thấy không sót một vị, rồi được dẫn theo chư Tăng nhiễu vòng quanh tháp. Xong, người kia lấy nước cho chư Tăng rửa tay, rắn trong lòng cung kính, quan sát chúng Tăng rửa tay, tâm không chán. Chúng Tăng thọ thực xong nhiều lần nói pháp cho rắn nghe một cách rộng rãi, tâm hoan hỷ tăng lên gấp bội. Rắn liền khởi tâm bố thí thêm nữa, cho dẫn thầy Duy na đến chỗ giấu vàng, lấy lên sáu bình còn lại và dâng cúng chư Tăng. Sau việc làm phước đó, rắn mạng chung và do nhân duyên phước đức được sinh vào cung trời Đao-lợi.
Đức Phật dạy A-nan:
– Ông nên biết, người mang rắn thuở trước không phải ai khác mà chính là Ta. Độc xà nay là Xá-lợi-phất. Ta vào lúc đó trải qua những ngày mang rắn đến chỗ chúng Tăng, bị rắn quở trách, tự thấy xấu hổ lập lời thệ nguyện và sinh tâm khiêm hạ. Những sự việc đó từ ấy đến nay chưa từng thoái chuyển.
Bấy giờ các Tỳ-kheo trong hội chúng và Tôn giả A-nan nghe Đức Phật thuyết xong đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại tinh xá Trúc lâm, thành La-duyệt-kỳ, cùng một số đông các đệ tử.
Bấy giờ, ở trong nước có một Bà-la-môn gia đình cùng khổ, tiền gạo thiếu thốn, mặc dầu siêng năng cần mẫn mà tai họa dập dồn. Đi đến đường cùng, cơm áo không đủ, ông đến hỏi một người bạn:
– Trong thế gian này nên làm những việc gì để trong hiện tại con người có thể hưởng được phước đức?
Có người bảo:
– Ông không biết sao, hiện nay đang có Đức Phật ra đời lấy phúc đức độ cho chúng sinh, tất cả đều được lợi lạc, không có ai mà không được độ thoát. Như Lai có bốn vị đại đệ tử: ngài Ma-ha Ca- diếp, Đại Mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất và A-na-luật, tất cả đều là những vị Hiền sĩ, đều thương xót những người nghèo khổ, thường làm những việc phước thiện để đem lại lợi lạc, cứu khổ cho chúng sinh. Nếu ông hết lòng kính tin, thiết trai cúng dường các vị Hiền sĩ này rồi nhân dịp đó nói lên những lời ước nguyện ngay tại đời này.
Vị Bà-la-môn nghe những lời khuyên như thế trong lòng rất hoan hỷ. Trở về nước, ông đi khắp nơi rao tìm việc và cật lực làm việc kiếm được một ít tài vật mang về nhà lo sắm sửa vật thực thỉnh các vị Hiền thánh chọn ngày cúng dường, dốc lòng siêng năng mong được quả báo hiện tiền. Vị Bà-la- môn có người vợ tên là Sai-ma (Tần dịch là An Ổn). Sau khi chư Tăng Tôn đức thọ trai xong khuyên Sai-ma thọ trì giới Bát quan trai, rồi trở về tinh xá.
Khi đó vua Bình-sa đang dạo chơi trong rừng trở về thành, trên đường gặp một người phạm vào trọng tội của vua bị trói treo đầu ở bên vệ đường. Khi thấy vua đi ngang qua, người ấy khóc lóc thảm thiết van xin một ít thức ăn, vua động lòng thương, hứa sẽ cho rồi tiếp tục đi. Ngày đã trôi qua vua quên sự việc đã hứa trước đó, đêm về sực nhớ rằng khi sáng có hứa cho người phạm tội một ít thức ăn, rồi làm sao quên mất. Vua liền sai người mang thức ăn đến cho người kia, cả nội, ngoại cung không ai muốn đi, đều nói:
– Sợ về đêm trên đường có nhiều mãnh thú, ác quỉ, La-sát, rất nhiều rủi ro tai nạn xảy ra. Thà chết ở đây còn hơn là đi.
Bấy giờ nhà vua nghĩ đến nỗi khổ của phạm nhân kia mà thân tâm sinh phiền não, rất động lòng thương xót vua liền ra lệnh cho trong nước nếu ai có thể đem thức ăn đến cho người kia thì vua ban thưởng cho ngàn lượng vàng, nhưng không có người nào chịu thực hiện lời ban của vua cả. Khi đó Sai-ma thường nghe người ta nói: Nếu ở đời có người thọ trì giới Bát quan trai thì các ác tà quỉ sứ, độc thú, tai ương không thể làm tổn hại được. Sai- ma nghe vua ban lệnh như vậy liền khỏi lên ý tưởng: “Nhà ta nghèo khổ, hơn nữa ta lại có thọ giới Bát quan trai. Nay vua có lời ban ta nên đích thân đến đó để nhận lời.” Nghĩ rồi nàng liền đến đó. Vua nói với Sai-ma:
– Khanh giúp ta mang thức ăn đến chỗ đó, ta sẽ ban thưởng cho ngươi một ngàn lượng vàng.
Sai-ma liền nhận mệnh lệnh của vua xong mang thức ăn đi trên đường dốc tâm trì trai giữ giới không có khuyết phạm. Cứ đúng theo đường mà đi, đi được một đoạn khá xa gặp một con quỉ La- sát tên là Lam-bà. Khi ấy quỉ La-sát vừa sinh ra năm trăm đứa con, vừa sinh xong trong bụng rất đói khát thấy Sai-ma đến, trông để ăn nhưng do vì Sai-ma trì trai giới không khuyết phạm, nên La-sát trông thấy đổi ý sợ hãi, cơn đói hành hạ kịch liệt liền đi theo xin:
– Xin cho tôi một ít thức ăn.
Sai-ma đồng ý lấy một ít thức ăn để cho, thức ăn tuy ít nhưng ăn vào do năng lực của quỉ thần cũng thấy đủ no. Bấy giờ La-sát hỏi Sai-ma:
– Người tên là gì? Đáp:
– Tôi tên là Sai-ma.
La-sát hoan hỷ nói với Sai-ma:
– Nay tôi vừa sinh xong mà được an ổn là nhờ bạn cứu mạng, thật may mắn cho tôi rất nhiều! Tôi mang ân cứu mạng của bạn rồi nghe được cái tên bạn thật hay. Nay trong nhà tôi có cái chõ bằng vàng xin biếu cho bạn, mong bạn nhận cho.
La-sát lại hỏi:
– Nay bạn đi đến đâu?
Sai-ma đáp:
Tôi mang thức ăn này cho phạm nhân ở chỗ kia.
Lam-bà nói:
– Tôi có người em ở phía trước tên là A-lam- bà, nếu bạn gặp thì cho tôi gởi lời thăm hỏi, nói giúp là tôi vừa mới sinh được năm trăm người con, thân thể được an ổn, trình bày rõ tình cảm của tôi để chị tôi rõ tin tức.
Sai-ma nghe xong thẳng đường mà đi gặp A- lam-bà hỏi thăm và chuyển lời của Lam-bà lại rõ từng chi tiết, sinh được năm trăm đứa con, đều được an ổn. Khi ấy A-lam-bà nghe xong trong lòng vui mừng, hỏi người khách:
– Chị tên gì? Nàng đáp:
– Tôi tên là Sai-ma.
La-sát nghe cũng vui vẻ nói:
Chị tôi sinh xong được mẹ tròn con vuông, rồi nghe tên của chị thật đẹp làm sao! Nay trong nhà tôi có cái chõ bằng vàng mang biếu chị, xin chị nhận cho. A-lam-bà hỏi tiếp:
– Chị đi đến đâu? Sai-ma đáp:
Tôi mang thức ăn đến chỗ đó cho phạm nhân kia.
A-lam-bà nói:
Tôi có người em trai tên là Phân-na-kỳ, ở phía trên kia, xin chị giúp tôi hỏi thăm rồi nhân đó chuyển lại lời của chị nó. Sai-ma từ giã đi tiếp, đúng như lời dặn đến gặp Phân-na-kỳ, chuyển đạt lại ý kiến của hai chị Phân-na-kỳ đầy đủ, nói:
– Người chị lớn sinh được năm trăm người con, bình an vô sự không có điều gì không may xảy ra.
Phân-na-kỳ nghe tin hai chị mình bình an, trong lòng hoan hỷ liền hỏi Sai-ma:
– Tên chị là gì? Đáp:
– Tên tôi là Sai-ma. Phân-na-kỳ đáp:
– Tên chị là ý nghĩa của sự an ổn, lại mang những tin tức tốt đẹp của chị tôi, thật không có gì thích thú bằng!
Liền nói với Sai-ma:
– Tôi có cái chõ vàng muốn biếu chị, mong chị nhận cho.
Nàng Sai-ma chào từ biệt lên đường đi tiếp, nhớ rõ chỗ đến gặp phạm nhân, trao thức ăn, rồi trở về nhà cùng đem về ba cái chõ bằng vàng. Trở về đến cung vua, vua ban thưởng một ngàn lạng vàng. Sau đó gia đình thoát khỏi cảnh nghèo đói trở nên giàu có.
Dân chúng trong nước thấy gia đình ấy có nhiều báu vật giàu sang mọi người mến mộ lui tới, vui vẻ đông đúc, trong gia đình trở nên giàu có sung túc. Vua nghe phước đức vị ấy như vậy liền cho triệu vào cung phong làm chức đại thần, nhận được bổng lộc của vua gia đình trở nên giàu có hơn. Lòng tin thuần nhất thành khẩn, rộng làm phước nghiệp, thỉnh Phật và chúng Tăng mở đàn tràng lớn. Đức Phật và Tăng chúng nhận lời cầu thỉnh. Sau khi đến thọ trai xong, Đức Phật thuyết giảng chánh pháp, tâm trí của họ được khai mở đắc quả Tu-đà-hoàn.
Bấy giờ hội chúng và A-nan sau khi nghe xong đều hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thời Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ trong nước có người con gái tên là Nan-đà, bần cùng, cô độc, tự hành khất để nuôi sống. Thấy các vị quốc vương, đại thần, lớn nhỏ đều cúng dường Đức Phật và chúng Tăng, Nan-đà suy nghĩ: “Ta do tội báo đời trước sinh vào chỗ bần tiện. Tuy gặp việc phước điền mà không gieo được chút chủng tử.” Nàng cảm thấy chua xót thảm thương, tự mình rất hối hận, liền tiếp tục hành khất mong để cúng dường một chút nhỏ. Đi liên tục trọn ngày xin được một đồng tiền, nàng đem đến nhà hàng dầu để mua, người bán dầu hỏi:
– Chỉ mua một đồng thôi ít quá chẳng đủ dùng vào việc gì!
Nan-đà trình bày và nói lên tâm nguyện của mình, người bán dầu thương tình cho thêm dầu. Nàng có dầu rồi rất hoan hỷ đủ châm cho một cây đèn, rồi mang đến tinh xá dâng lên Đức Thế Tôn.
Nàng đem đặt vào số các cây đèn trước Đức Phật, rồi lập lời nguyện:
– Con nay nghèo khổ, có cây đèn nhỏ này kính dâng lên Đức Phật, nguyện với công đức này khiến con trong đời vị lai có được trí tuệ để chiếu soi diệt trừ tất cả các cấu uế và u ám của tất cả chúng sinh. Lập lời nguyện xong, nàng lễ Phật và lui ra.
Đêm đã về khuya, các đèn đều tắt hết chỉ còn cây đèn đó đang cháy đỏ. Bấy giờ ngài Mục-liên đến phiên trực nhật, thấy trời đã sáng thu đèn để dẹp vào một chỗ, thấy riêng cây đèn này vẫn đỏ sáng rực, bấc đã khô quánh lại mà cũng chưa tắt, giống như đèn mới cháy vậy. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Cây đèn này, trời đã sáng rồi, để cũng vô ích nên thổi tắt, đêm tối thắp lại.” Ngài liền quạt cho tắt, nhưng đèn vẫn sáng như cũ, không cách nào dập tắt được. Ngài bèn lấy tay áo mà quạt nhưng đèn vẫn sáng không tắt. Đức Phật thấy Mục-liên muốn tắt cây đèn này, Ngài dạy:
Này Mục-liên, ông nên biết cây đèn này, năng lực Thanh văn của ông không thể làm lay động nó được, dùng nước bốn biển phun vào cùng với gió thổi cũng không làm cho nó tắt được. Vì sao như thế? Đây là một vật mà người cúng dường đã phát tâm rộng lớn cao siêu vời vợi đã thực hiện.
Đức Phật vừa nói xong thì Nan-đà đến cúi đầu đảnh lễ. Ngay khi đó Đức Thế Tôn liền thọ ký cho cô là người vào thời vị lai hai trăm kiếp a-tăng-kỳ sẽ thành Phật lên là Đăng Quang có đầy đủ mười hiệu. Nan-đà được thọ ký rồi hoan hỷ quỳ xuống bạch Phật cầu xin xuất gia, được Đức Phật chấp thuận và trở thành Tỳ-kheo-ni.
Bấy giờ Tuệ mạng A-nan và Mục-liên, thấy người con gái nghèo khổ được xuất gia, thọ ký, liền quỳ xuống chắp tay hỏi Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, cô gái Nan-đà này do hành động gì trong quá khứ mà đến nay phải chịu cảnh xin ăn để nuôi sống; và do nhân duyên gì nay lại gặp được Phật, xuất gia. Cả tứ chúng đều cung kính, mọi người tranh nhau cúng dường?
Đức Phật dạy A-nan:
Trong quá khứ có Đức Phật hiệu là Ca-diếp. Lúc bấy giờ trong nước có vợ một người cư sĩ đích thân đến thỉnh Phật cùng chư Tăng. Nhưng trước đó, Đức Phật nhận lời mời cúng dường của một người nữ nghèo; người nữ này đã chứng đắc đạo quả A-na-hàm. Khi ấy vợ vị trưởng giả giàu có khinh khi các người nghèo, chê trách Đức Thế Tôn thọ nhận lời mời thỉnh của kẻ nghèo hèn kia, từ những lời chê trách đó đi đến ý tưởng khinh chê Hiền thánh. Từ đó đến nay năm trăm kiếp thường sinh trong gia đình nghèo khó ăn xin. Người nữ nghèo khổ kia do duyên tổ chức ngày trai cúng dường Phật và chúng Tăng vào lúc đó mà nay được gặp Phật ra đời, được xuất gia thọ ký, trong nước ai cũng cung kính.
Bấy giờ hội chúng nghe Đức Phật dạy về điều này ai cũng đều hoan hỷ. Quốc vương, thần dân nghe người con gái khổ sở này dâng cúng Phật một cây đèn như vậy ai cũng đều sinh tâm cung kính và nhiều người dâng cúng y phục tốt đẹp và bốn loại vật dụng không hề thiếu thốn. Nam nữ trong nước, cao quý thấp hèn, lớn nhỏ đều làm các loại hương hoa đèn dầu mang đến Kỳ hoàn để cúng dường Phật và chúng Tăng rất nhiều, đèn treo cùng khắp trong Kỳ hoàn, khắp các rừng cây bao quanh tứ phía giống như các dãy sao ở trên không trung, kéo dài cho đến bảy ngày đêm.
Ngài A-nan rất hoan hỷ tán thán vô lượng đức hạnh của Như Lai và bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, không rõ Đức Thế Tôn trong kiếp quá khứ đã gieo trồng các thiện căn gì mà nay có được phước báo được cúng đèn nhiều vô số kể như vậy.
Đức Phật dạy:
Này A-nan, trong quá khứ lâu xa hai a-tăng- kỳ chín mươi mốt kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề này có một nước lớn, vua tên là Ba-tắc-kỳ làm chủ tám mươi bốn ngàn các tiểu quốc trong thế giới này. Vua có một đại phu nhân sinh được một thái tử thân có sắc vàng ròng, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, trên thượng đỉnh có tướng báu tự nhiên. Các tướng chiếu sáng, ánh sáng chiếu soi mắt người. Vua liền cho mời một thầy tướng để xem điềm cát hung thế nào, từ đó mà đặt tên. Thầy tướng mới vén ra xem, thấy những tướng tốt kỳ diệu, liền cất tay tán thán: “Lành thay, lành thay! Vị thái tử này ở trong thế gian, trời người không ai sánh kịp. Nếu ở tại nhà thì sẽ làm Chuyển luân thánh vương còn đi xuất gia tự nhiên thành Phật.”
Vị thầy tướng hỏi vua:
Khi sinh thái tử có sự việc gì khác thường không?
Vua đáp:
– Ở trên đỉnh đầu có một tướng báu sáng chói xuất hiện.
Liền từ đó đặt tên là Lặc-na-thức-kỳ (Tần dịch là “Cái búi tóc báu”). Trải qua ngày tháng lớn lên, thái tử xuất gia học đạo, chứng ngộ thành Phật, giáo hóa nhân dân, độ được rất nhiều.
Bấy giờ phụ vương thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường trong ba tháng có một Tỳ-kheo tên là A-lê-mật-la (Tần dịch là Thánh Hữu), lo việc liên hệ với đàn-việt về hương đăng hàng tháng vào thành đến nhà. Các trưởng giả, cư sĩ và nhân dân xin đầy đủ các loại dầu, đèn và bấc. Bấy giờ có người con gái tên là Mâu-ni đứng trên lầu cao thấy vị Tỳ-kheo hàng ngày vào thành vất vả với công việc, lòng sinh kính trọng, cho người đến hỏi:
– Thưa Tôn giả ngày nào cũng thấy ngài vất vả vào thành để lo công việc gì?
Vị Tỳ-kheo trả lời:
– Tôi trong ba tháng này lo liên hệ với đàn-việt về dầu đèn để lo cho Đức Phật cùng chư Tăng, cho nên mới vào thành đến nhà chư hiền để xin đầy đủ các thứ dầu, đèn, bấc.
Người thị tỳ trở về báo lại cho vương nữ. Nghe xong cô hoan hỷ đến nói với Thánh Hữu:
– Từ nay về sau ngài khỏi cần phải đi xin cực khổ, tôi sẽ cung cấp đầy đủ đèn dầu cho ngài.
Vị Tỳ-kheo nhận lời. Từ đó trở về sau nàng thường cung cấp đầy đủ đèn, dầu, bấc, Tỳ-kheo Thánh Hữu hàng ngày lo việc hương đăng cúng dường, phát tâm rộng lớn với lòng thành khẩn thiết. Đức Phật thọ ký cho Thánh Hữu vào thời a- tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Định Quang đầy đủ mười đức hiệu. Vương nữ Mâu-ni nghe Đức Phật thọ ký cho Tỳ-kheo Thánh Hữu làm Phật, suy nghĩ: “Tất cả mọi vật dụng đèn dầu ta lo, còn vị Tỳ-kheo ấy chỉ lo việc sửa soạn lại vậy mà nay được Đức Phật thọ ký còn riêng ta thì không được.” Mâu-ni liền đi đến chỗ Phật để tỏ bày tâm nguyện, lại được Phật thọ ký:
– Này Mâu-ni, người vào hai a-tăng-kỳ chín mươi mốt kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu- ni, đầy đủ mười hiệu.
Bấy giờ vương nữ được Phật thọ ký trong tâm hoan hỷ được hóa thành nam giới, đảnh lễ ngang chân Phật, xin làm Sa-môn. Đức Phật liền chấp nhận. Vị ấy siêng năng tinh tấn, tu hành không biếng trễ.
Đức Phật dạy A-nan:
– Tỳ-kheo A-lê-mật lúc ấy đâu phải ai khác trong quá khứ, chính là Phật Định Quang. Vương nữ Mâu-ni cũng chẳng phải ai khác chính là Ta vậy. Nhân duyên ngày ấy cúng dường hương đăng, từ đó vô số kiếp đến nay ở trên chư Thiên hoặc trong thế gian tự nhiên thọ nhận phước đức. Thân thể đặc thù siêu việt hơn người, đến nay thành Phật là do phước báo cúng dường hương đăng lúc đó.
Trong đại hội nghe Đức Phật dạy xong, có người đắc từ Sơ quả cho đến Tứ quả, hoặc có người gieo trồng căn lành vào quả vị Duyên giác, có người phát tâm Vô thượng chánh chân Đạo ý.
Tuệ mạng A-nan cùng các hội chúng, tất cả đều cung kính, hân hoan phụng hành.
Người có hiểu biết, trí tuệ và khéo léo dùng phương tiện, từ nơi nhân duyên nhỏ mà có thể phát đại tâm hướng đến Phật đạo. Người giải đãi biếng nhác, cho dù gặp duyên lớn cũng không thể phát tâm hướng đến Phật đạo. Vì thế hành giả phải lập tâm chí vững bền dũng mãnh tinh tấn với nhân duyên lành. Làm sao biết như vậy?
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ cùng với bốn chúng, vua quan, nhân dân vây quanh Đức Thế Tôn cúng dường cung kính.
Bấy giờ ở trong đại chúng có nhiều người khởi nghi vấn: “Đức Thế Tôn do nhân duyên căn bản của Ngài là gì mà từ khi sơ phát tâm cho đến lúc thành đạo đã mang lại lợi ích cho nhiều người? Chúng ta cũng muốn phát tâm cầu thành Phật đạo và đem lại lợi ích cho chúng sinh.”
Tôn giả A-nan biết được ý nghĩ đó liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y áo quỳ trước Đức Phật bạch:
– Bạch Thế Tôn, nay trong đại chúng có nghi vấn là Đức Thế Tôn từ ngày xưa do nhân duyên gì mà phát tâm cầu đạo lớn? Mong Đức Thế Tôn dạy vì lợi lạc cho tất cả.
Đức Phật dạy A-nan:
– Lành thay! Lành thay! Như những lời A-nan hỏi sẽ lợi lạc cho nhiều người. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
Trong đại hội yên tĩnh không có tiếng động. Cả sơn hà đại địa gió mưa sông núi, chim chóc cầm thú đều lặng yên không có một tiếng. Trong đại chúng, có Thiên, Long, Quỉ thần nóng lòng muốn nghe, nhất tâm quán Phật.
Đức Phật dạy A-nan:
– Này A-nan, trong quá khứ lâu xa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị quốc vương tên là Đại Quang Minh có phước đức rất lớn, thông minh, trí tuệ, đầy đủ vương tướng. Có một nước lân cận giao hảo rất thâm tình nhưng ngặt nỗi thiếu thốn mọi bề, vua Đại Quang Minh tùy thời ban tặng. Một hôm nước kia có được vật báu muốn đem dâng hiến vua Đại Quang. Một hôm vua nước lân cận vào một khu rừng lớn săn bắn bắt được hai con voi hình thù cân đối đẹp đẽ trắng như pha lê, cứng cáp vững vàng, nhà vua rất yêu quý, trong lòng vui mừng suy nghĩ: “Ta đem vật báu này dâng cho vua Quang Minh.” Vua cho trang sức những loại châu báu ở trên thế gian như vàng bạc… mang đến để dâng tặng Quang Minh. Vua vừa thấy voi báu tâm rất hoan hỷ. Lúc đó có người quản tượng tên là Tán-xà, vua ra lệnh:
– Ngươi lo việc trông coi, nuôi nấng và điều phục con voi này.
Tán-xà không bao lâu đã điều phục được voi báu, đến tâu với vua:
– Muôn tâu đại vương, hạ thần đã điều phục được voi báu và trở thành thuần lương, xin đại vương cho ra thí trường đấu.
Vua nghe như vậy trong lòng hoan hỷ muốn đợi xem con voi thuần lương biểu diễn, liền cho đánh trống vàng tập hợp quan dân để xem voi báu tỷ thí. Mọi người tụ tập lại, vua cỡi trên voi báu xuất hiện giống như mặt trời vừa mới ló lên đầu ngọn núi, ánh sáng chói lọi cũng giống như vậy, cùng với các thần dân ra ngoài thành vui chơi đến chỗ thí trường. Khi ấy voi báu dương khí hừng hực thấy các đàn voi đang tìm gốc sen để ăn bên hồ sen, lòng dục phát lên bôn tẩu đi tìm voi cái vào tận rừng sâu, áo mão của vua rơi vãi tứ tung, áo quần tơi tả, thân thể thương vong. Khi ấy tâm thần vua mê loạn nghĩ chắc mình sẽ chết, rất là lo sợ, hỏi người quản tượng:
– Ta làm cách nào để kềm nó lại được?
Tán-xà thưa:
– Trong rừng có nhiều cây, xin đại vương có thể bám vào bất cứ cây nào để được an toàn.
Vua liền bám vào một nhánh cây, con voi lướt đi vua đứng lại, rồi ngồi dưới một gốc cây, thấy trên thân mình chẳng còn áo mão, toàn bị thương tích, hết sức khổ não, đang trong cơn mê tìm lối đi ra khỏi rừng; nhưng chẳng biết lối nào mà đi. Người quản tượng, cách một quãng ở trước cũng níu được một cành cây đứng lại rồi trở lại tìm thấy vua âu sầu ngồi một mình. Quản tượng dập đầu thưa:
– Mong đại vương chớ có quá sầu khổ, con voi này khi lòng dâm của nó lắng xuống, nhàm chán cỏ dơ, nước đục, nhớ đến thức ăn mỹ vị, nước uống tinh khiết ở trong cung nó sẽ trở về liền.
Vua nói:
– Ta không quan tâm đến ngươi cùng con voi đó nữa. Suýt nữa con voi làm ta mất mạng.
Bấy giờ, quần thần lo nghĩ có lẽ vua đã bị con voi điên kia làm hại và chia nhau đi tìm khắp các nẻo đường. Có người tìm được chiếc mão, có người tìm được áo bào của vua, có người thấy máu rơi, liền sau đó thấy vua cỡi một con voi khác trở vào thành, dân chúng trong thành thấy đại vương khổ não như thế không ai mà không sầu não.
Sau một thời gian con voi điên này sống trong rừng vắng chán chê cảnh ăn cỏ xấu, uống nước đục, lòng dục lại lắng xuống liền nhớ đến cảnh sung sướng trong cung thức ăn mỹ vị, uống nước tinh khiết, chạy như gió lốc trở về chỗ ở cũ. Quản tượng vừa thấy sang báo với vua:
– Thưa đại vương con voi bị thất lạc trước kia nay đã trở về, xin đại vương ra xem.
Nhà vua bảo:
– Ta đã nói là không cần ngươi và con voi điên ấy nữa.
Tán-xà khởi tấu:
– Vua không cần hạ thần và voi này nữa, xin đại vương xem hạ thần có cách điều phục con voi báu này.
Vua đồng ý, làm chỗ bằng phẳng và bố trí chỗ ngồi nơi điều phục voi. Bấy giờ nhân dân trong nước nghe người quản tượng muốn biểu diễn cách điều phục voi trước mặt vua, khắp nơi đều vân tập. Vua từ cung điện đi ra cùng với mọi người đi theo đến an tọa theo vị trí. Quản tượng Tán-xà cho dẫn voi ra trước bá quan văn võ, cho tìm người thợ rèn làm bảy viên sắc đem thui thật đỏ, tự nghĩ: “Con voi này nuốt các viên sắt này chắc chắn phải chết, sau đó vua sẽ hối tiếc.” Lại bạch với đại vương:
– Con bạch tượng này rất báu chỉ có Chuyển luân vương mới có thể cỡi được. Nay chỉ vì một lỗi nhỏ không đến nỗi phải tội chết.
Đại vương nói:
– Nếu ngươi không điều phục được thì không nên để cho ta cỡi, nếu điều phục được thì sự việc đâu phải như thế này? Nay ta chẳng cần cả ngươi lẫn voi.
Quản tượng nói:
– Ngài không cần dùng thật đáng tiếc! Vua giận dữ quát:
– Ngươi hãy đi đi!
Tán-xà đứng dậy khóc mà nói:
– Bệ hạ không có thân sơ, tâm thật độc hại chỉ nghe những lời dối trá ngon ngọt.
Bấy giờ trong hội chúng lớn nhỏ nghe xong rơi lệ, nhìn kỹ vào voi, người quản tượng lớn tiếng thị uy bảo voi:
– Hãy nuốt những viên sắt này nếu không ta sẽ lấy móc sắt để móc não mày ra.
Voi hiểu ý liền nghĩ nếu không nuốt những viên sắt này mà chết thì không thể nào chịu nổi chiếc móc sắt kia. Giống như mọi người đều chết thì chịu thắt cổ mà chết chứ không ai thích chết thiêu. Voi quỳ hai gối xuống đất hướng về phía vua mong vua cứu mạng, vua đùng đùng nổi giận hướng về phía khác. Tán-xà quát lớn:
– Mày không chịu nuốt hòn sắt này hay sao? Voi bốn lần nhìn lại trông có người cứu hộ.
Người quản tượng lấy hòn sắt đặt vào miệng voi, voi nuốt vào chết ngay tại chỗ, giống như chày kim cang đánh vào núi pha lê, hòn sắt liền rơi xuống đất còn đỏ nóng cũng như vậy. Khi ấy trong hội chúng thấy vậy không ai không thương khóc. Vua thấy sự việc như vậy, rất ngạc nhiên bồi hồi, trong lòng hối hận cho triệu Tán-xà đến bảo:
– Sao con voi của ngươi bây giờ lại nhu thuận nghe lời như vậy, nhưng tại sao hôm trước ở trong rừng lại không làm sao mà chế phục nó được?
Bấy giờ chư Thiên ở trời Tịnh cư biết được vua Quang Minh đã đúng thời phát tâm Vô thượng Bồ- đề, liền hóa hiện thần lực khiến người quản tượng quỳ xuống đáp:
– Tâu đại vương, hạ thần chỉ điều phục thân của voi chứ không điều phục được tâm.
Vua hỏi:
– Có ai có khả năng điều phục cả thân lẫn tâm không?
Tán-xà tâu:
– Thưa đại vương chỉ có Đức Phật, Thế Tôn mới có khả năng điều phục cả thân lẫn tâm.
Vua Quang Minh nghe đến danh của Phật, tâm run sợ, lông tóc dựng ngược hỏi Tán-xà:
– Đức Phật sinh từ chủng tánh nào? Đáp:
– Đức Phật sinh từ hai chủng tánh, một là trí tuệ, hai là từ bi, siêng năng làm sáu việc, đó là sáu Ba-la-mật. Công đức trí tuệ thảy đều đầy đủ lấy hiệu là Phật. Không những tự điều phục mình mà còn điều phục tất cả chúng sinh.
Vua nghe vậy dao động sững sốt, đứng dậy vào cung tắm gội bằng hương thơm, mặc long bào mới lên trên lầu cao lễ khắp bốn hướng khởi tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh, dâng hương phát lời nguyện:
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng đạo quả Phật
Khi con đã thành Phật
Tự điều phục chính mình
Và tất cả chúng sinh.
Nếu có chúng sinh nào
Đọa vào ngục A-tỳ
Dù trải qua một kiếp
Làm lợi lạc hữu tình
Phải vào trong địa ngục
Tâm Bồ-đề không xả.
Khi vua phát lời nguyện rồi, cả đại địa chấn động theo sáu cách, sơn hà đại địa rung động trập trùng. Trong hư không tự nhiên phát ra tiếng nhạc. Vô lượng chư Thiên biểu diễn nhạc để ngợi khen Bồ-tát và nói: “Như lời nguyện của Ngài thì không bao lâu Ngài sẽ thành Phật, sau khi thành Phật sẽ hóa độ cho chúng tôi, chúng tôi ở trong pháp hội thanh tịnh này sẽ được dự phần.”
Lúc bấy giờ Đức Phật dạy:
– Này các Tỳ-kheo, bạch tượng nuốt hòn sắt nóng lúc đó nay chính là Nan-đà này vậy. Người quản tượng là Xá-lợi-phất và vua Quang Minh chính là Ta. Ta lúc đó nhờ thấy sự nhu thuận của voi mà phát tâm cầu đạo quả, thành Phật.
Bấy giờ trong đại hội, nghe Đức Phật tu hành khổ hạnh như vậy. Có người đắc Tứ đạo quả, có người phát đại đạo tâm, có người xuất gia tu đạo tất cả đều hoan hỷ, tôn kính phụng hành.
Đây là nhân duyên do lập chí siêng năng tinh tấn từ nhân nhỏ, duyên vào đó để hoàn thành Đại sự. Biếng nhác giải đãi dầu gặp duyên lớn cũng không thành công được. Vậy hành giả cần phải siêng năng tinh tấn để hướng đến Phật đạo.
❑
Tôi nghe như thế này.
Một thời Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ hoàn, nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo cung kính vây quanh.
Bấy giờ Đức Phật ca ngợi một hành giả có trí tuệ rằng:
– Muốn thành Phật đạo cần phải vui thích diễn thuyết và đọc tụng kinh pháp, ngay cả giới bạch y thuyết pháp mà chư Thiên và Quỉ thần cũng đều đến nghe nhận, huống là bậc xuất gia kể cả lúc đang đi trên đường mà tụng kinh, nói kệ, thường có chư Thiên theo để nghe nhận; vì vậy cần phải siêng năng tụng kinh thuyết pháp. Vì sao cần phải biết?
Đức Phật lúc mới đến tinh xá Kỳ hoàn, công đức của Ngài được lưu truyền rộng khắp không ai mà không nghe biết. Bấy giờ có một người tốt nghe danh tiếng và đức độ của Phật, hoan hỷ vô lượng, tán dương và ca ngợi. Vì sao? Trong thế gian khi người ác mà nghe danh tiếng của người tốt thì sinh lòng đố kỵ ganh ghét, họ vui thích điều xấu ác. Bậc Hiền thiện thì luôn luôn ngăn chận điều ác, tán dương điều lành, muốn điều lành quảng bá rộng rãi, thấy người làm ác biết đó là trói buộc phiền não đáng thương xót, tha thứ. Cho nên người lành khi nghe Đức Phật ra đời ca ngợi và tuyên dương cùng khắp các nước.
Vào thời Ba-tư-nặc có một nước nhỏ lân cận gọi là Tỳ-nựu-càn, trong đó có một ngôi làng nhiều người có tà kiến, không tin vào Phật, Pháp và Tăng. Trong ngôi làng đó có một người nữ tên là Ma-ha Ưu-ba-tư-na có công việc đi đến nước Xá- vệ chỗ vua Ba-tư-nặc. Sau khi công việc xong cùng tháp tùng theo các Ưu-bà-tắc nghe về công đức của Phật, muốn được gặp Phật nên nàng đến tinh xá Kỳ hoàn, thấy tướng hảo của Phật rực rỡ trang nghiêm, liền cúi đầu mặt đảnh lễ ngang chân Đức Phật.
Khi ấy Đức Thế Tôn đang thuyết về năm giới cho đại chúng nghe: Không sát sinh thì được thọ. Không trộm cắp thì được giàu có. Không tà dâm thì được mọi người ái kính. Không nói dối thì lời nói được người khác tin. Không uống rượu thì được thông minh sáng suốt. Nàng nghe xong rất hoan hỷ, bạch Phật:
Cúi mong Đức Thế Tôn trao cho con năm giới để con suốt đời phụng trì thanh tịnh. Dẫu cho thân mạng này có mất đi trọn đời không hủy phạm, giống như kẻ đói coi trọng thức ăn, người khát yêu quý nước uống, như người bệnh được chăm sóc, con nay hộ trì giới cấm cũng như vậy.
Đức Phật trao năm giới cho Ưu-ba-tư-na. Sau khi thọ giới xong, Ưu-ba-tư-na bạch với Đức Thế Tôn:
– Chỗ ở của con rất xa trên đường trở về mong Ngài ban cho con một vật nhỏ gì để con thọ trì.
Đức Phật dạy:
– Quá khứ chư Phật nhiều như số cát sông Hằng đều nói kinh Pháp Cú, chư Phật vị lai số lượng như cát sông Hằng cũng nói kinh đó. Khi ấy Đức Thế Tôn dạy kinh Pháp Cú cho Ưu-ba-tư-na phụng hành. Nghe xong nàng làm lễ nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi. Trở về làng của mình, Ưu-ba-tư- na suy nghĩ và tưởng nhớ về tinh xá của Phật và lời Kinh Phật dạy, vào nửa đêm ở trên lầu cao nghĩ về công đức của Phật và đọc tụng kinh Pháp Cú. Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương muốn đến chỗ của Tỳ- lâu-lặc-xoa ở phương Nam, đem theo một ngàn Dạ-xoa ngang qua trên lầu của Ưu-ba-tư-na nghe tiếng tụng kinh tất cả đều ở trên không trung để lắng nghe, tán thán:
– Lành thay, lành thay! Chị em nào đang khéo nói về pháp yếu. Nay ta để lại Thiên bảo thì không thích hợp mà nên có những lời tốt lành.
Tỳ-sa-môn nói:
– Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên từ Xá- vệ đến đang ở lại trong rừng này, sáng ngày mai ngươi đến đó thỉnh về nhà để cúng dường khi chú nguyện nhớ xưng danh tánh của ta.
Ưu-ba-tư-na nghe những lời này ra nhìn lên không trung không thấy hình bóng giống như người mù trong đêm tối, không thấy ai liền hỏi:
– Các người là ai mà không nhìn thấy hình bóng, chỉ nghe được tiếng.
Ở trên không đáp xuống:
– Ta là quỉ vương Tỳ-sa-môn thiên đi qua đây nghe được tiếng Kinh pháp liền ở lại đây.
Ưu-bà-di liền nói:
– Ngài thuộc trời, tôi thuộc về người không liên quan gì sao gọi tôi là chị em.
Thiên vương đáp:
– Đức Phật là Pháp Vương cũng là Từ Phụ của trời người, tôi là Ưu-bà-tắc, người là Ưu-bà-di đều là pháp hữu, nên tôi gọi là chị em.
Khi ấy Ưu-bà-di lòng rất hoan hỷ hỏi:
– Này Thiên vương khi tôi cúng dường mà xưng danh tánh của Thiên vương có lợi ích gì?
Thiên vương đáp:
Ta là Thiên vương có Thiên nhĩ nghe được xa, xưng danh tánh ta thì tăng thêm thế lực của ta và oai đức của quyến thuộc, ta sẽ dùng thần lực này mà bảo các quỉ thần hộ niệm cho người này để tăng phước lộc cho họ và trợ giúp cho họ khỏi bị những tai ương hoạn nạn.
Nói vậy rồi Thiên vương liền ra đi.
Bấy giờ Ưu-bà-di hân hoan vui mừng, thầm nhủ: “Đức Phật trải qua hàng trăm kiếp tinh tấn tu hành khổ hạnh chỉ vì chúng ta, nhờ ân đức của Phật khiến cho quỉ vương trở thành chị em với ta.” Trong đêm đó nàng không hề ngủ say, trời vừa tờ mờ sáng mới ngủ được chút ít. Mỗi sáng trong nhà thường sai người vào rừng lấy củi, sáng hôm đó vừa sai người vào rừng leo lên cây để lấy củi, trông từ xa thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và năm trăm vị Tỳ-kheo đang trú tại ngôi rừng này tinh tấn tọa thiền tụng kinh. Trong khi đó người đi hái củi lười biếng leo lên cây sa thảo nằm, thầm nghĩ: “Lúc trước ta cùng đại gia đi đến nước Xá- vệ cho nên từ xa thấy hai vị Tôn giả đó, đã biết là hai vị Tôn giả đó đại gia rất cung kính, nay ở trong ngôi rừng này đại gia ta không biết, nếu như ta từ từ hái củi cho xong rồi về thưa lại với đại gia e rằng sẽ có người khác đến thỉnh trước đi ắt ta có lỗi. Đối với việc này chưa cần thiết, trước hết phải lo xong việc quan trọng này đã sau đó mới hái củi. Việc này cũng chẳng mệt nhọc gì!” Vị ấy liền leo xuống đến chỗ các Tôn giả đầu mặt lạy ngang chân rồi thưa với Tôn giả:
– Thưa chư Tôn giả, đại gia của con tên là Ưu- ba-tư-na xin đảnh lễ và thăm hỏi chư Tôn giả.
Các Tôn giả đáp:
– Chúc phúc cho Ưu-ba-tư-na được yên ổn, an lạc và giải thoát sinh tử.
Vị ấy thưa:
– Thưa chư Tôn giả, đại gia của con cung thỉnh chư Tôn giả hôm nay đến nhà để thọ trai. Cúi mong chư Tôn giả quang lâm.
Các Tôn giả đáp:
– Người trở về nhà, nói với Ưu-bà-di Ưu-ba- tư-na cần phải biết lúc nào là hợp thời. Đức Phật tán thán năm trường hợp bố thí sẽ đem lại phước đức vô lượng: Bố thí cho người từ xa đến, bố thí cho người đi xa; bố thí cho người bệnh hoạn; bố thí thức ăn uống cho người đói khát và bố thí cho người hiểu biết chánh pháp. Năm trường hợp bố thí như vậy trong hiện tại đạt được phước đức lớn.
Vị ấy nhận lời chỉ giáo rồi từ biệt ra khỏi rừng cấp tốc về nhà. Về đến nhà vị ấy hỏi người hầu:
– Đại gia hiện đang ở đâu? Đáp:
– Đang ở trên lầu cao kia, đầu đêm cuối đêm không ngủ nay vừa mới chợp mắt.
Vị ấy bảo người hầu hãy lên đánh thức dậy. Thị tỳ nói không dám. Vị ấy liền nói:
– Nếu bạn không dám để tôi lên đánh thức.
Thị tỳ nói tùy ý bạn. Vị ấy liền lên lầu trên đánh thức đại gia dậy. Ưu-ba-tư-na hỏi:
– Ngươi có chuyện gì? Vị ấy nói:
– Thưa đại gia, Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục- kiền-liên đang trú trong khu rừng kia.
Ưu-ba-tư-na rất hoan hỷ liền lấy hai chiếc bông tai bằng kim hoàn thưởng cho vị ấy. Vị ấy nói tiếp:
– Tôn giả có những lời giáo huấn tốt đẹp cho đại gia.
– Giáo huấn điều gì ngươi nói ra đi.
Vị ấy nói cặn kẽ năm trường hợp bố thí cho nàng nghe. Nghe xong, Ưu-bà-di càng thêm hoan hỷ giống như hoa sen thấy được ánh sáng mặt trời liền nở bung ra, sự khai nở của Ưu-bà-di cũng như thế. Nàng liền lấy chuỗi anh lạc, châu báu tặng thêm cho người ấy. Vị ấy thưa tiếp:
– Đại gia dậy rửa tay rồi lo sắm sửa đầy đủ vật thực để cúng dường. Con đã nhận lời chỉ bảo của đại gia vào cung thỉnh hai Tôn giả và năm trăm vị đệ tử trong ngày hôm nay đến thọ thực, mong cho thời cúng dường được tốt đẹp.
Sau khi nghe vậy sự hân hoan của nàng càng tăng thêm và nói:
Ta muốn thực hiện việc đó. Vì ngươi đã khiến ta vui mừng không nói nên lời, nay ta phóng thích ngươi, ngươi không thuộc về ta nữa. Như những lời tốt đẹp của người, tại gia hay xuất gia, thành ấp làng xóm tùy theo chỉ mà gặp được ánh sáng tốt đẹp đó.
Bấy giờ Ưu-ba-tư-na dậy rửa tay và bảo gia nhân và những người chung quanh, người làm thức ăn, người lo đốt lò, người lo nước non, người trải chiếu, người lo cắm hoa, phân bố các công việc xong, tự tay mình lấy thuốc giã hòa vào nhau. Mọi vật thực đã bày biện xong, nàng cho sứ giả đó đến chỗ các Tôn giả kịp thời thưa:
Thức ăn đã bày biện xong xin thỉnh chư Tăng. Hai Tôn giả và các vị Tỳ-kheo vận y cầm bát, đến nhà Ưu-bà-di theo thứ tự mà ngồi. Khi ấy Ưu- ba-tư-na tự tay lấy nước rưới xuống các loại thức ăn. Sắc, hương và mùi vị đầy đủ. Tất cả các hành tùy theo nghiệp mà thọ nhận quả báo. Bố thí thức ăn có màu sắc đẹp thì kết quả có nhan sắc tốt đẹp. Thức ăn có hương thơm thì kết quả được danh tiếng thơm xa, đầy đủ các mùi vị thì kết quả được ăn uống tùy thích, sức lực khỏe mạnh.
Sau khi thọ thực xong Tôn giả Xá-lợi-phất nói lời chú nguyện. Khi đang chú nguyện Ưu-ba-tư-na bạch:
– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả xưng tên Tỳ-sa- môn Thiên vương.
Tôn giả Xá-lợi-phất chú nguyện xong rồi quay lại hỏi:
Cô và Tỳ-sa-môn Thiên vương có nhân duyên gì mà xưng danh tánh ra.
Ưu-ba-tư-na thưa:
– Thưa Tôn giả, sự việc thật là hy hữu! Đêm hôm trước khi con đang tụng kinh Pháp Cú, vị Thiên vương kia đang trú trên không trung nghe con tụng kinh tán thán rằng: “Lành thay, lành thay! Chị em khéo nói diệu pháp.” Con ra nhìn lên không trung hỏi: “Ông là ai mà không thấy hình mà chỉ nghe tiếng.” Có tiếng đáp rằng: “Ta là quỉ vương Tỳ-sa-môn nghe ngươi tụng kinh cho nên dừng lại đây để nghe, định để lại Thiên bảo cho người nhưng không thích hợp. Nay nói những lời tốt đẹp cho ngươi.” Con liền hỏi: “Những lời tốt đẹp đó là gì?” Thiên vương nói: “Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên ngày mai đến nơi ngôi rừng kia, ngươi nhớ đến cung thỉnh về nhà cúng dường thọ thực, khi nói lời chú nguyện nhớ xưng danh tánh của ta.” Con liền hỏi: “Xưng danh tánh của ngài có lợi ích gì?” Thiên vương đáp: “Như sự việc đã nói ở trên...” Vì sự việc đó nên con xưng danh tánh kia.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói:
– Thật là kỳ diệu! Cô là người, vị ấy là trời mà có thể hiểu ý nhau và cùng người trao đổi, sao lại gọi là chị em?
Ưu-bà-di đáp:
Con lại có một sự việc rất là thân thiện với con như chị em gái cùng qua lại với nhau. Khi con bố thí vị thần này nói với con: “Đây là A-la-hán, đây là A-na-hàm, đây là Tư-đà-hàm, đây là Tu-đà- hoàn, đây là phàm phu, đây là trì giới, đây là trí tuệ, đây là ngu si.” Con tuy nghe nói về sự phân biệt này nhưng tâm ý của con không phân biệt. Đối với phàm phu, phạm giới... con cũng cúng dường như A-la-hán.
Ngài Xá-lợi-phất nói:
– Cô thật là kỳ diệu! Trong việc làm này mà sinh được tâm bình đẳng.
Ma-ha Tư-na nói:
– Lại nữa, con còn có một sự việc rất kỳ diệu, thân con là nữ lại ở tại gia, mà trừ được hai mươi thân kiến đắc quả Tu-đà-hoàn.
Ngài Xá-lợi-phất tán thán:
– Cô thật là kỳ diệu! Làm thân nữ mà chứng đắc được quả vị Tu-đà-hoàn.
Ưu-bà-di thưa:
Con còn có một sự việc rất là kỳ diệu nữa, con có bốn người con đều có ác tà kiến, chồng con cũng là tà kiến rất sâu nặng. Đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng không hiểu không kính. Nếu con có cúng dường Tam bảo và bố thí cho người bần cùng, liền sinh tâm đố kỵ ganh ghét. Còn nói rằng gia nghiệp này do chúng tôi siêng năng lao động cực nhọc mới có được mà đem làm những chuyện không đâu. Tuy nghe nói những lời như vậy mà đạo tâm của con và những việc tu tập hành thiện không bao giờ thoái thất và hờn giận.
Tôn giả Xá-lợi-phất dạy:
– Theo quy ước bình thường của người phụ nữ, trong tất cả mọi lúc thường không được thoải mái. Thuở nhỏ thì được cha mẹ chăm sóc; vào tuổi tráng niên lập gia đình thì được chồng bảo hộ; về già thì được con cái nuôi dưỡng. Vậy mà cô vượt ra ngoài vòng cương tỏa của chồng con để được tự do tu tập và hành thiện. Này Ưu-bà-di, nay tôi có vài lời như sau, hãy cố gắng ghi nhớ. Đây là một việc rất quan trọng, đó là Đức Phật, Thế Tôn chiều nay sẽ đến ngôi rừng Tỳ-nựu-càn-đặc này, tôi báo cho thí chủ biết như vậy rồi tôi sẽ trở về trú xứ.
Vị Ưu-bà-di thưa:
– Điều mà Tôn giả cho biết thật là tốt đẹp không gì hơn.
Sau khi Tôn giả ra đi, thí chủ Ưu-ba-tư-na lo sửa soạn vật thực để cúng dường Thế Tôn. Khi Đức Thế Tôn đến ngôi rừng kia, Ma-ha Tư-na rất hoan hỷ gọi tất cả những Ưu-bà-di đến chiều cùng đi đến chỗ Phật. Từ xa họ đã thấy hào quang của Đức Thế Tôn rất là thù diệu, năm căn hoan hỷ. Tất cả đều vui mừng phấn khởi đến gần làm lễ dâng lên cúng dường Phật các loại hoa hương, rồi ngồi qua một bên nghe Phật thuyết pháp: Luận về bố thí và giới pháp, về đoạn dục và sinh Thiên; luận về Niết-bàn. Sau khi nghe pháp xong, các Ưu-bà-di muốn trở về nhà, chắp tay bạch Phật:
– Những người trong thôn của con đều theo tà kiến, không hiểu Phật pháp, chẳng biết ân đức của Phật, không thích bố thí. Các Sa-môn, Bà-la-môn khi vào thôn này khất thực thường đến nhà con. Cúi mong Đức Thế Tôn lúc nào đó đến trú tại thôn của chúng con để chúng con cúng dường bốn loại vật dụng cho Đức Phật và các đệ tử của Ngài.
Bạch xong, họ đảnh lễ lui ra và lần lượt xem qua các chỗ nghỉ ngơi của các vị Tỳ-kheo. Cuối cùng thấy một vị Tỳ-kheo đang bị bệnh nằm trong lều cỏ, nàng liền hỏi Đại đức:
– Thưa Đại đức, Đại đức bị bệnh gì? Vị Tỳ-kheo đáp:
– Trên đường đến đây, bốn đại không điều hòa, khốn khổ bị bệnh.
Ưu-bà-di thưa:
– Đại đức bị bệnh nên ăn thức ăn gì? Đáp:
– Theo thầy thuốc nói nên ăn loại nước thịt mới hầm.
Ưu-bà-di nói:
– Xin ngài yên tâm ngày mai con sẽ dâng cúng. Đại đức đáp:
– Vâng.
Ưu-bà-di đảnh lễ rồi trở về nhà, tự suy nghĩ và nói thầm: “Ta có được một lợi ích lớn là diện kiến được Đức Phật Thế Tôn, Xá-lợi-phất và các đại Tôn giả khác.” Niềm vui càng tăng thêm, đến nỗi nàng không nhớ ra ngày mai là vào ngày mười lăm, vào ngày này theo quốc pháp là không được giết hại, nếu giết hại là trái với lệnh nước. Sáng ngày mai, nàng liền sai người cầm tiền tìm mua loại thịt mới còn nóng, người giúp việc vâng lời đi khắp các chợ tìm mua nhưng không có đành trở về không, thưa với đại gia:
– Hôm nay là ngày mười lăm chợ không giết thịt.
Ưu-bà-di nói với người giúp việc:
– Ngươi hãy cầm một ngàn đồng tiền chỉ mua một trăm tiền thịt số còn lại cho ngươi.
Người hầu cầm tiền ra đi cố tìm cho ra nhưng vì hình phạt của vua quá nặng không có ai dám. Vị ấy trở về trình bày sự việc như vậy, Ưu-bà-di lo lắng buồn rầu nói:
– Ngươi hãy đem hết số tiền này ra mua cho được.
Người giúp việc cầm tiền đến các hàng thịt cố mua cho được, mặc dầu các người hàng thịt rất ham lợi, nhưng phép vua quá nghiêm, quá nặng, sợ mất mạng nên không ai dám. Người giúp việc trở về chẳng được việc gì.
Khi ấy Ưu-bà-di càng thêm ưu não, nghĩ về bệnh tình của vị Tỳ-kheo đã nhận lời cầu thỉnh của ta, mà ta đã tìm hết cách không thể cúng dường cho Đại đức được. Sợ rằng Đại đức sẽ mất mạng, ta sẽ mang tội. Đang suy nghĩ tìm cách gì, Ưu-ba-tư-na tự nhiên nhớ đến tích xưa Bồ-tát vì con chim bồ câu tự cắt thịt nơi thân mình để cứu sống, huống nay so với một vị Tỳ-kheo thì hơn nhiều, ta nào có tiếc chi thân mạng của mình mà không cứu giúp. Suy nghĩ xong, nàng lựa một người đáng tin cậy nhất dẫn bà ta vào một tịnh thất, tắm sửa sạch sẽ ngồi trên chiếc giường, rồi sai người hầu cắt lấy thịt trong thân mình. Người hầu vâng theo lệnh lấy cây dao thật sắc cắt đi một thớ thịt. Khi lát dao vừa xuyên qua thịt, nàng đau đớn vô cùng chết ngất nằm bất tỉnh. Người hầu dùng loại vải trắng gói vào trong trộn với các thứ thảo dược khác nấu thành một loại thuốc “thần dược” đem đến cho thầy Tỳ-kheo chữa bệnh. Vị Tỳ-kheo nhận lấy phương thuốc của một đàn-việt đầy niềm tin dâng cho, uống vào liền khỏi bệnh.
Người chồng của bà, thuộc dòng Bà-la-môn không có mặt tại đó, từ xa về hỏi:
– Ma-ha Tư-na đang ở đâu? Đáp:
– Ở phòng trong.
Người chồng vào trong thấy nhan sắc khác thường liền hỏi vì lý do gì mà nhan sắc tiều tụy như vậy?
Đáp:
– Thiếp nay vì bệnh xâm nhập.
Người chồng ưu sầu cho tìm các vị lương y đến để chẩn bệnh.
Lương y hỏi:
– Bà đau thế nào? Phát bệnh ra sao? Từ lúc bị bệnh đến giờ có lúc nào không đau nhức không?
Nàng Ưu-ba-tư-na đáp:
– Bệnh của tôi lúc nào cũng đau, như hiện giờ đau nhức ghê gớm, không hết cơn đau!
Vị lương y xem mạch không biết được nguyên nhân của bệnh nên im lặng ra về. Người chồng khóc lóc, hỏi nàng bị bệnh gì? Vì tình nghĩa giữa chúng ta nên nói ra đi.
Người vợ đáp:
– Các vị lương y sáng suốt vô cùng mà còn không biết, huống gì thiếp làm sao biết được!
Vị Bà-la-môn hỏi những người trong nhà:
– Mọi người có biết bệnh tình của Ma-ha Tư- na không?
Mọi người đều trả lời:
– Thưa đại gia, chúng tôi không biết.
Đại gia có thể hỏi người hầu thân cận bà chủ sẽ rõ.
Khi đó vị Bà-la-môn gọi người hầu cận đang ở trong chỗ vắng vẻ lại hỏi:
– Tại sao bà chủ bị bệnh? Người thị tỳ đáp:
– Do có một Tỳ-kheo bị bệnh, bà chủ phải cắt thịt làm thuốc dâng cho thầy đó.
Người chồng nghe vậy tức giận đem lòng làm hại Phật, Pháp, Tăng, vừa đi vừa lớn tiếng nói rằng:
– Sa-môn Thích tử ăn thịt người, giống như bọn Ban túc vương.
Bấy giờ có một Ưu-bà-tắc tín tâm nghe Bà-la- môn hủy báng Phật Pháp, Tăng, buồn rầu không vui, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ. Đức Thế Tôn hỏi:
– Các ngươi có việc gì mà buồn rầu không vui như vậy?
– Bạch Đức Thế Tôn có một Bà-la-môn đi khắp nơi lớn tiếng hủy báng Phật, Pháp, Tăng giống như bọn Ban túc vương trước đây ăn thịt người. Nay Sa-môn Thích tử, ăn thịt người cũng như vậy không khác. Cúi mong Đức Thế Tôn dạy cho các Tỳ-kheo chớ ăn thịt người.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, nhân sự việc này truyền nhóm họp các Tỳ-kheo Tăng, gọi các Tỳ-kheo bị bệnh. Khi đó các Tỳ-kheo bị bệnh nghe Đức Thế Tôn dạy trong lòng hoan hỷ suy nghĩ: “Thế Tôn là Bậc Đại Từ quan tâm đến chúng ta.” Thân tuy ốm yếu nhưng họ cố gắng đến nơi Thế Tôn đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Đức Phật dạy:
– Này các quý tử, các vị bị bệnh gì?
Vị Tỳ-kheo bạch Phật, con bị bệnh làm sinh sầu não, nay gặp được Đức Thế Tôn bệnh được thuyên giảm phần nào.
Đức Thế Tôn hỏi tiếp:
– Hôm nay ông ăn uống gì? Vị Tỳ-kheo thưa:
– Hôm nay con đã ăn nước hầm thịt. Đức Phật hỏi:
– Thịt ông đã ăn là thịt tươi hay thịt khô? Đáp:
– Là thịt tươi (nước Thiên trúc thịt nấu không để qua đêm. Thịt ăn hoặc tươi hoặc khô).
Đức Phật nói:
– Này thiện nam tử, khi con ăn thịt có hỏi, thịt này là tịnh hay bất tịnh?
Đáp:
– Bạch Thế Tôn, bệnh con đã lâu ngày gặp được liền ăn thật sự chưa hỏi.
Đức Phật dạy:
– Này Tỳ-kheo, tại sao ông ăn thịt bất tịnh, pháp của Tỳ-kheo là khi đàn-việt cúng dường thức ăn trước hết phải hỏi đây là thịt gì? Nếu đàn-việt nói, đây là tịnh nhục, phải quan sát nhiều lần tin xong mới ăn, nếu không tin thì không ăn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ngăn cấm các Tỳ-kheo nếu các bất tịnh nhục đều không được ăn; nếu thấy, nghe là thịt bất tịnh cũng không được ăn. Như thế cần phải phân biệt, nên hay không nên ăn.
Bấy giờ Ưu-bà-di nghe Đức Phật, Thế Tôn chính do mình mà cấm các Tỳ-kheo ăn thịt rất là đau khổ, vì mình mà các Tỳ-kheo không được ăn thịt liền nói với chồng:
– Nếu chàng quan tâm đến tôi thì ngày mai thỉnh Đức Phật và chúng Tăng về đây thiết lễ cúng dường thật chu đáo. Nếu không làm vậy, thà tôi bỏ mạng, tôi sẽ lấy thịt từ thân tôi đem bố thí cho mọi người. Ông đừng có hối tiếc.
Vì thương vợ nên vị Bà-la-môn mới thực hiện, nhưng Bà-la-môn này vốn không có lòng tin và tôn kính Tam bảo, chiều theo ý vợ vào trong rừng đến nơi Đức Phật trú nói rằng:
– Thưa Sa-môn Cù-đàm và chúng đệ tử, ngày mai tôi mời đến nhà thọ thực.
Đức Phật im lặng nhận lời vị Bà-la-môn biết Đức Phật nhận lời mời liền trở về nhà nói với vợ là Sa-môn Cù-đàm đã nhận lời mời. Vị Ưu-bà-di sai các người giúp việc trong nhà lo bày biện các loại thức ăn, hương hoa, chỗ ngồi đầy đủ, sáng ngày mai khi đến giờ sai người vào trong rừng bạch với Đức Phật:
– Thức ăn đã sửa soạn xong, cúi mong Bậc Sáng Suốt biết thời gian thích hợp.
Đức Phật và các Tỳ-kheo vận y cầm bát đến nhà Bà-la-môn kia, theo thứ tự mà ngồi. Sau khi an tọa xong, Đức Phật hỏi:
– Ma-ha Tư-na hiện nay ở đâu? Người chồng đáp:
– Ở tại trong phòng. Đức Phật dạy:
– Hãy gọi lại đây!
Vị Bà-la-môn liền đến nói:
– Thầy của em gọi em đến. Vị Ưu-bà-di bảo chồng:
– Nhờ chàng nói là Ma-ha Tư-na cúi đầu đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng vì bệnh không ngồi dậy được.
Đức Phật dạy Tôn giả A-nan:
– Ông qua gọi Ưu-ba-tư-na ngồi dậy gặp Phật.
Ngài A-nan liền qua nói với Ưu-ba-tư-na:
– Thế Tôn gọi cô đến gặp Ngài.
Khi ấy Ưu-ba-tư-na nằm ở trên giường chắp tay bạch:
– Con xin đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, trong tư tưởng muốn gặp Phật như đói cần ăn, khát cần uống, lạnh cần ấm, nóng cần mát, như mất đạo cần được đạo. Con nay trong tư tưởng muốn gặp Phật cũng như thế, tâm tuy muốn qua nhưng thân không chìu theo.
Ngài A-nan bạch Phật như Ưu-ba-tư-na đã nói.
Đức Phật dạy:
Này A-nan, ông hãy cho người khiêng cái giường đến đây.
Ngài A-nan vâng lời cho người khiêng giường đến đặt trước Đức Phật. Bấy giờ Đức Như Lai phóng đại quang minh, bất cứ ai tiếp xúc được ánh sáng của chư Phật thì người cuồng hóa ra chánh, người loạn hóa ra định, người bệnh hóa ra lành. Sau khi Ưu-ba-tư-na tiếp xúc được ánh sáng của Phật liền hết thống khổ. Khi ấy có vị Thần trong nhà dùng loại nước rửa sạch vết thương và cho uống thuốc vào, thân thể vị ấy được bình phục như cũ. Ưu-ba-tư-na liền đứng dậy xuống khỏi giường tự tay cầm bình vàng rắc một loại nước vào từng món thức ăn, sắc hương, mùi vị đầy đủ. Đức Phật thọ thực xong rửa tay dọn bát và thuyết vi diệu pháp cho Ma-ha Tư-na. Ngài giảng về Bố thí, Trì giới, quả báo Nhân, Thiên, đau khổ sinh tử, sự tổn hại của tham dục, xuất ly và diệt, lạc, mười hai nhân duyên luân chuyển không dừng. Ưu-ba-tư-na nghe Phật dạy đoạn trừ được xan tham, tật đố, đắc đạo quả A-na-hàm. Tất cả quyến thuộc trong gia đình đều thọ năm giới. Còn vị Bà-la-môn xả ly tà kiến, kính tín Tam bảo, thọ giới Ưu-bà-tắc. Bấy giờ trong bốn hội chúng có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A- na-hàm, A-la-hán. Có người phát đại đạo tâm. Tất cả lớn nhỏ đều hoan hỷ.
Bấy giờ trong chúng có người khiếp sợ sinh tử, suy nghĩ rằng: “Người phụ nữ này có một sức mạnh như thế, lấy thịt nơi thân mình để cúng dường Sa-môn thật là kỳ diệu! Chúng ta xả bỏ làng xóm ruộng vườn có gì là khó.” Liền sau đó, có một số người xả bỏ làng xóm, gia đình, quyến thuộc, xuất gia cầu đạo, siêng năng tinh tấn, đoạn trừ kết lậu thành A-la-hán. Khi ấy mọi người ở trong xóm làng ấy tin và thực hành Phật pháp, lưu truyền rộng rãi. Nhờ nhân duyên này mọi người có ý chí vững mạnh.
Cho đến người nữ đọc tụng kinh điển, không tiếc thân mạng, đắc các đạo quả. Huống nữa đối với bậc Trượng phu cần phải siêng năng thực hành đạo nghiệp sao mà không thành đạo quả được. Nhờ nhân duyên này, các thiện nam tử siêng năng tu tập thiện pháp, khiếp sợ sinh tử, liền giảm trừ bớt các kết sử, xa lìa được sinh tử. Tuy rằng vào thời mạt pháp không thể được độ thoát, nhưng nhờ công đức này mà nhận được phước đức vô cùng. Đức Di-lặc Thế Tôn không lâu nữa, còn năm mươi sáu ức mười ngàn vạn năm nữa sẽ ra đời thành Phật. Sẽ rộng nói diệu pháp cho các người. Ở trong đó tùy theo sở cầu mà thành được đạo quả Tam thừa, tất giải thoát. Tất cả hội chúng đảnh lễ và phụng hành.
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật cư ngụ ở vườn trúc Ca- lan-đà, tại thành Vương xá thuộc nước Ma-già-đà.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi về công đức của sự xuất gia, do nhân duyên này nên được phước rất nhiều. Nếu cho nam, nữ, nô tỳ hay dân chúng hoặc tự mình xuất gia vào đạo thì công đức vô lượng. Phước báo của sự bố thí, dù có hưởng phước mười đời trong trời, người, qua lại mười cõi cũng không thù thắng bằng công đức cho người xuất gia và tự mình xuất gia. Vì sao vậy? Vì phước báo bố thí thì có giới hạn, còn phước xuất gia thì vô lượng vô biên. Lại nữa, quả báo của Trì giới, phước báo cõi trời của những vị Thần tiên có năm thần thông, cho đến phước báo cùng tột của Phạm thiên đi nữa thì đối với trong Phật pháp, quả báo của việc xuất gia là không thể nghĩ bàn, cho đến đạt được đạo quả Niết-bàn, nên xuất gia được phước không cùng tận. Giả sử có người xây tháp bảy báu cao đến cõi trời Ba mươi ba, công đức của người này đạt được không bằng công đức của người xuất gia. Vì sao vậy? Vì tháp bảy báu thì người tham ác, ngu si đều phá hoại được, còn pháp xuất gia thì không ai có thể hủy hoại. Muốn cầu pháp lành, ngoài pháp Phật ra không còn pháp nào thù thắng hơn. Như có trăm người mù, có vị thầy thuốc giỏi có thể trị lành mắt cho họ, cùng lúc, tất cả đều được lành; lại có trăm người khác bị xử tội móc mắt, gặp người có thế lực có khả năng cứu những người này thoát khỏi tội, khiến cho họ không bị mất mắt, phước của hai người này tuy đã vô lượng cũng không bằng cho người xuất gia và tự mình xuất gia, hai việc này phước cực lớn. Vì sao? Tuy có khả năng bố thí mắt cho hai hạng người trên, nhưng người bố thí này chỉ hưởng lợi ích trong một đời. Lại nữa, tánh của bắp thịt là tánh có tan rã. Cho phép người xuất gia hoặc tự mình xuất gia là lần lượt dần dắt chúng sinh muôn kiếp đạt được mắt Tuệ vô thượng. Tánh của mắt Tuệ dù trải qua bao nhiêu kiếp vẫn không tan rã. Vì sao? Vì trong phước báo của trời, người, chỉ được tự ý hưởng lạc, còn phước báo xuất gia thì không cùng không tận, cho đến rốt ráo thành Phật. Vì sao vậy? Vì pháp xuất gia diệt trừ quyến thuộc của ma, tăng trưởng hạt giống Phật, bẻ dẹp pháp ác, nuôi lớn pháp lành, diệt trừ tội lỗi, dấy khởi phước nghiệp vô thượng. Cho nên, Đức Phật dạy: “Công đức xuất gia cao như núi Tu-di, sâu như biển cả, rộng như hư không.” Nếu có người muốn xuất gia mà tìm mọi cách ngăn cản, khiến họ không đạt được chí nguyện, người này tội rất nặng; như đêm tối đen như mực, không thể thấy gì, tội báo của người này cũng vậy, sẽ bị đọa vào địa ngục sâu thẳm, tối đen lại không có mắt.
Ví như trăm dòng sông suối… đều đổ về biển cả, tội báo của người này cũng vậy, tất cả các điều ác đều chứa nhóm ở đó.
Như núi Tu-di đang bừng cháy vào kiếp Hỏa, không còn một thứ gì cả, người này cũng vậy, bị lửa thiêu đốt trong địa ngục, không bao giờ chấm dứt.
Ví như thuốc Ca-lưu-lâu-ê-ni, là loại thuốc đắng cực độc, đem so sánh với đường phèn, thì quả báo thiện, ác của hai người kia cũng như vậy.
Công đức khuyên người xuất gia và tự mình xuất gia rất lớn, vì người xuất gia dùng Tu-đa-la (Kinh) làm nước, rửa sạch các nhơ uế kết sử, có công năng diệt trừ khổ sinh tử, làm nhân Niết-bàn; dùng Tỳ-ni (Luật) làm chân, bước lên đất Giới thanh tịnh; dùng A-tỳ-đàm (Luận) làm mắt, nhìn thấy thiện, ác ở đời, tùy ý dạo đi trên con đường Tám chánh, đến thành vi diệu Niết-bàn. Do vậy, khuyên người xuất gia, hoặc tự mình xuất gia, dù già dù trẻ, phước đức rất thù thắng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang cư ngụ ở vườn trúc
Ca-lan-đà thuộc thành Vương xá.
Khi ấy, ở thành này, có trưởng giả tên Thi-lợi- bật-đề (Phước Tăng), đã một trăm tuổi, khi nghe công đức xuất gia nhiều vô lượng như vậy, liền suy nghĩ: “Hôm nay, sao ta không xuất gia tu đạo trong Phật pháp?” Trưởng giả liền từ giã tất cả vợ con, tôi tớ…:
– Ta muốn xuất gia.
Do trưởng lão quá già nua, mọi người trong nhà ai cũng nhàm chán, đều chê bai là vô dụng, nên khi nghe trưởng lão muốn xuất gia, tất cả đều rất vui mừng nói:
– Ông nên đi sớm đi, còn chần chờ gì nữa! Nay là đúng lúc!
Thi-lợi-bật-đề liền đi khỏi nhà, đến vườn Trúc, muốn diện kiến Đức Thế Tôn để cầu pháp xuất gia. Khi đến vườn Trúc, trưởng giả hỏi các Tỳ-kheo:
– Thưa các Tỳ-kheo, Đức Phật Thế Tôn Đại Tiên, Đấng Đại Bi làm lợi ích cho trời, người, nay đang ở đâu?
Các Tỳ-kheo đáp:
– Đức Như Lai Thế Tôn đã đi giáo hóa, làm lợi ích ở nơi khác rồi, Ngài không có ở đây!
Trưởng giả lại hỏi:
– Xin hỏi bậc Đại sư Trí tuệ Thượng túc kế vị Phật là ai?
Các Tỳ-kheo chỉ đến Tôn giả Xá-lợi-phất. Trưởng giả chống gậy đến chỗ Tôn giả Xá-lợi- phất, bỏ gậy làm lễ, thưa:
– Thưa Tôn giả, cho phép con được xuất gia.
Tôn giả Xá-lợi-phất nhìn rồi nghĩ: “Người này quá già, cả ba việc đều thiếu: không thể học hỏi, không thể tọa thiền cũng không thể giúp việc cho chúng Tăng”, liền nói:
– Ông hãy về đi, ông đã quá già nên không được xuất gia. Trưởng giả đi đến Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tôn giả Ưu-ba-ly, Tôn giả A-nậu-lâu- đà… lần lượt hết năm trăm đại A-la-hán. Các vị đều hỏi:
– Trước tiên ông đã đến xin vị nào chưa? Trưởng giả đáp:
– Trước hết, con nghĩ sẽ đến xin Đức Thế Tôn, nhưng Ngài đã đi hoằng hóa, kế đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất. Các vị hỏi:
– Tôn giả ấy nói gì? Trưởng giả đáp:
Tôn giả ấy nói đã quá già, không được xuất gia.
Các Tỳ-kheo nói:
– Tôn giả Xá-lợi-phất là bậc Trí tuệ bậc nhất, còn không cho phép ông xuất gia, nên chúng tôi cũng không thể cho phép ông xuất gia được! Như thầy thuốc giỏi biết rõ người bệnh không còn chữa trị được, thì các thầy thuốc khác cũng đành bó tay. Vì biết chắc người này có tướng chết nên Tôn giả Xá-lợi-phất đại trí không chấp nhận thì các Tỳ- kheo khác cũng vậy, không thể chấp nhận.
Thi-lợi-bật-đề cầu xin các Tỳ-kheo nhưng vẫn không được xuất gia, liền trở về vườn Trúc, đứng ở cửa ngõ, buồn rầu khóc lớn, than:
– Từ khi sinh ra đến giờ, ta không gây tai họa gì lớn, sao lại không cho phép ta xuất gia? Như Ưu- ba-ly – người hớt tóc hạ tiện, Ni-đề – người hốt phân dơ, Ương-quật-ma-la – giết vô lượng người, Đà-tắc-ky – là giặc đại ác… những người như vậy còn được xuất gia. Ta có tội gì mà không được xuất gia?
Khi nói lời này, Đức Thế Tôn liền xuất hiện trước mặt, phóng ra ánh sáng lớn, tướng tốt trang nghiêm, như vua Đế Thích có xe cao lớn bằng bảy báu ở cõi trời Đao-lợi. Đức Phật hỏi Thi-lợi-bật- đề:
– Vì sao ngươi khóc?
Trưởng giả nghe Phạm âm của Phật, rất đỗi vui mừng, như con gặp được cha, liền gieo năm vóc sát đất, đảnh lễ Phật, rơi lệ thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, tất cả chúng sinh từ người giết người, làm giặc, nói dối, chê bai, đến người thấp hèn… đều được xuất gia, riêng con có tội gì mà không được xuất gia trong Phật pháp? Cả nhà con, từ lớn đến nhỏ đều chê bai con già nua, không còn dùng con. Nay trong Phật pháp, con cũng không được xuất gia. Giả sử con trở về nhà thì cũng không được chấp nhận, con nên đi đâu? Hôm nay, con quyết định tự sát.
Lúc ấy, Đức Phật bảo Thi-lợi-bật-đề:
Ai có thể chỉ tay lên hư không nói rằng người này thì nên xuất gia, người này già cả không nên cho xuất gia?
Trưởng giả bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Bậc Pháp Vương, người đệ tử Trí tuệ bậc nhất kế tiếp Ngài – bậc Đạo sư thứ hai của thế gian, Tôn giả Xá-lợi-phất– đã không cho phép con được xuất gia trong Phật pháp. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng tâm Đại bi, an ủi Phước Tăng, như người cho từ bi an ủi con hiếu thảo:
Ông chớ lo buồn! Ta sẽ cho ông được xuất gia.
Trong ba a-tăng-kỳ kiếp, Ta siêng năng tu hành khổ hạnh tu phước cả trăm kiếp, chẳng phải Xá- lợi-phất; chẳng phải Xá-lợi-phất đời đời tu hạnh khó, chặt đầu khoét mắt, đem tủy não, máu thịt, da xương, tay chân, tai, mũi… để bố thí; chẳng phải Xá-lợi-phất gieo mình cho hổ đói, nhảy vào hầm lửa, đóng ngàn cây đinh lên thân, khoét thân đốt ngàn ngọn đèn; chẳng phải Xá-lợi-phất đem nước thành, vợ con, nô tỳ, voi ngựa, bảy báu… để bố thí; chẳng phải Xá-lợi-phất trong a-tăng-kỳ kiếp giữa cúng dường chín vạn chín ngàn chư Phật, a-tăng- kỳ kiếp sau cũng cúng dường mười vạn chư Phật Thế Tôn, xuất gia trì giới, đầy đủ Giới ba-la-mật; chẳng phải Xá-lợi-phất được tự tại nơi pháp, thì sao lại được phép nói: “Người này nên xuất gia, người này không nên xuất gia.” Chỉ có một mình Ta là tự tại đối với pháp. Chỉ có một mình Ta đi xe báu sáu Độ, mặc áo giáp nhẫn nhục, ở bên gốc cây Bồ-đề, ngồi nơi tòa Kim cang để hàng phục ma vương, chỉ có Ta là duy nhất thành tựu Phật đạo, không có ai sánh bằng. Ông hãy đi theo Ta, Ta sẽ cho ông xuất gia.
Đức Thế Tôn dùng đủ lời lẽ để an ủi như vậy, Phước Tăng dứt sạch lo buồn, tâm rất hoan hỷ, liền đi theo Đức Phật. Vào đến tinh xá, Đức Phật bảo Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:
– Hãy xuất gia cho người này. Vì sao? Vì chúng sinh tùy duyên mà được độ. Người có duyên với Như Lai thì người khác không thể độ, người khác có duyên với người khác thì Như Lai không thể độ. Người có duyên với Xá-lợi-phất, Mục-liên, Ca- diếp, A-na-luật, Kim-tỳ-la… thì tất cả đệ tử khác không ai có thể độ, lần lượt như thế, tùy theo người có duyên, còn người khác thì không thể độ.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên cũng suy nghĩ: “Người này đã quá già nua, ba việc tụng kinh, ngồi thiền, giúp việc cho chúng Tăng đều không thể làm, nhưng Phật là Đấng Pháp Vương, dạy ta cho xuất gia, có lý nào dám làm trái?”
Tôn giả liền cho xuất gia, thọ giới Cụ túc. Người này do đời trước đã gieo trồng nhân duyên nên được độ, đã nuốt lưỡi câu Pháp như cá nuốt câu nên chắc chắn được xuất gia, không nghi ngờ. Trưởng giả này đã từng tu tập các công đức lành, ngày đêm tinh tấn tu tập, đọc tụng Kinh, Luật, Luận, thông suốt tạng Kinh, nhưng nay do tuổi quá cao, không thể theo thời cung kính, nghênh đón, lễ bái, thưa hỏi các bậc Thượng tọa, các Tỳ-kheo nhỏ tuổi do xuất gia trước nên thành Thượng tọa – thường nói lời gắt gỏng. Các Tỳ-kheo Trưởng lão đó ỷ mình hạ lạp cao, có tụng kinh, học hỏi nên ngã mạn tự cao, không cung kính lẫn nhau. Tỳ-kheo già nua này suy nghĩ: “Lúc ta ở nhà, cả nhà ta từ nhỏ đến lớn đều làm ta buồn phiền, hôm nay đến đây xuất gia, hy vọng được ngơi nghỉ thì lại bị các Tỳ-kheo nhỏ tuổi này châm chọc, ta có tội gì mới như vậy, phiền não càng tăng thêm.” Lại nghĩ: “Hôm nay, ta thà chết còn hơn.”
Khi ấy, Phước Tăng đến bên bìa rừng, chỗ dòng sông lớn rất sâu, lại chảy xiết. Khi đến bờ sông, ông ta liền cởi ca-sa treo trên cành cây, quỳ xuống hướng về y, khóc lóc tự phát thệ nguyện:
– Hôm nay, con không muốn bỏ Phật, Pháp và chúng Tăng, chỉ muốn bỏ thân mạng. Thân con đã được đắp y này để bố tát, trì giới, tinh tấn tụng kinh, nếu có phước báo thì nguyện sau khi con bỏ thân này, được sinh vào nhà giàu có an lạc, quyến thuộc hòa thuận, đối với pháp thiện của con, họ không ngăn cản, thường được gặp Tam bảo, xuất gia tu đạo; gặp được Thầy hiền thiện, chỉ bày cho con chứng đắc Niết-bàn.
Phát nguyện xong, Phước Tăng liền gieo mình xuống chỗ nước chảy xiết và sâu nhất của dòng sông.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên dùng Thiên nhãn quán sát vị đệ tử già nua của mình, xem thử đang làm gì. Tôn giả liền thấy đệ tử đang lao mình xuống dòng sông. Trong khoảnh khắc, Phước Tăng chưa đến mặt nước, Tôn giả dùng năng lực thần thông đưa Phước Tăng trở lại bên bờ, rồi hỏi:
– Này Pháp tử, ông đang làm gì vậy?
Thi-lợi-bật-đề rất hổ thẹn, suy nghĩ: “Nên trả lời thế nào đây! Hôm nay, ta không nên nói dối với Thầy. Nếu nói dối Thầy thì muôn kiếp phải chịu tội về thiệt căn. Lại nữa, Hòa thượng của ta thần thông vi diệu, dù ta nói dối thì Thầy cũng biết hết. Ở đời, người nào có trí tuệ sáng suốt, tánh thật thà ngay thẳng thì chư Thiên cung kính. Nếu người có trí tuệ mà luôn dối trá, dù có khả năng làm Thầy thì chỉ được loài người cúng dường. Nếu người không có trí tuệ mà tánh ngay thẳng, tuy không được cúng dường nhưng họ tự tiến lên bằng đôi chân của mình; nếu người ngu si lại còn dối trá thì đó là người thấp kém, xấu ác nhất trong chúng, giả sử có nói ra điều gì thì mọi người đều biết là dối trá, rồi nói: ‘Người này lừa dối, không chân thật’, nếu có nói thật đi nữa thì cũng không ai tin. Cho nên, nếu ta nói dối với Hòa thượng chẳng phải là cách của ta, mà phải nói sự thật”, liền bạch:
– Bạch Thầy, con nhàm chán gia đình nên xuất gia, muốn tìm sự nghỉ ngơi, nhưng nay lại không được an lạc nên muốn bỏ thân mạng này.
Tôn giả Mục-liên nghe xong, liền suy nghĩ: “Đối với người này, nếu ta không đem việc khủng khiếp của sinh tử để làm cho ông ta sợ hãi thì chắc không đạt được lợi ích của việc xuất gia”, liền bảo:
– Nay, ngươi nên chí tâm nắm chéo y của ta đừng buông ra.
Phước Tăng liền làm theo lời Thầy dạy.
Như tánh của gió, dù thổi rất nhẹ nhàng nhưng cũng khiến những hạt bụi, lá cỏ bay vút lên hư không; cũng như dùng thần thông đi lại trong hư không mà cầm theo một sợi lông thì đi đến đâu tùy ý. Thần thông của Tôn giả Mục-liên cũng vậy, giống như chim Ưng mạnh mẽ ngậm con chim nhỏ, bay vút lên hư không. Trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay, Tôn giả bay lên hư không, đến bên bờ biển cả, bên bờ biển này có một người nữ mới qua đời, sắc mặt đẹp đẽ, thân tướng đoan chánh, đầy đủ vẻ đẹp; thấy có một con trùng bò ra từ miệng người nữ ấy, rồi bò vào mũi, chui ra ở mắt, rồi bò lại vào tai, Mục-liên đứng nhìn, nhìn xong, bỏ đi.
Thi-lợi-bật-đề thưa:
– Bạch Hòa thượng, người nữ này là ai mà hình tướng như vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Đúng lúc thì ta sẽ nói.
Bước tiếp vài bước, Phước Tăng thấy một người nữ khác vác cái vạc bằng đồng đang lặn hụp dưới nước, bỗng lửa thổi đến làm nước sôi sùng sục, cô ta liền cởi áo tự nhảy vào trong vạc, tóc, móng rơi rụng trước, kế đến thịt chín rã ra lìa khỏi xương, nước sôi làm văng bộ xương ra ngoài, rồi gió thổi đến, lập tức trở lại thành người, lại tự bốc thịt mà ăn. Thấy rồi, Phước Tăng quá đỗi kinh sợ, thưa:
– Bạch Hòa thượng, người đó là ai mà tự ăn thịt của mình vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Đúng lúc thì ta sẽ nói.
Bước tiếp vài bước, Phước Tăng thấy một thân cây to lớn, có rất nhiều trùng vây quanh rúc rỉa khắp trên thân cây, không có một chỗ hở dù chỉ bằng đầu cây kim. Khi ấy, có tiếng gào khóc, la hét thất thanh làm chấn động khắp nơi như tiếng địa ngục. Phước Tăng thưa:
– Bạch Hòa thượng, tiếng ghê sợ này là của người nào vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Đúng lúc thì ta sẽ nói.
Tiếp đến, có người đàn ông cao lớn, có rất nhiều loài thân người đầu thú vây quanh, các quỉ thần hung dữ, tay cầm cung nỏ, chĩa ba, mũi tên độc… đầu mũi nhọn đều bốc lửa tranh nhau bắn vào người đó, lửa bốc cháy sém khắp thân. Phước Tăng thưa:
– Bạch Hòa thượng, người này là ai mà chịu khổ đau, lại không có lối thoát như vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Hãy ở đây, đúng lúc thì ta sẽ nói.
Lát sau, có ngọn núi lớn, dưới chân núi toàn dao, kiếm, có một người nhảy từ trên núi xuống, dao đâm kiếm chém, khiến thân thể tan rã, liền tự gom lại trở thành thân như cũ, trở lại đỉnh núi nhảy xuống, như lần trước vậy, không hề ngừng nghỉ.
Thấy rồi, Phước Tăng thưa:
– Bạch Hòa thượng, người này là ai mà chịu khổ đau như vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Đợi một lát, đúng lúc thì ta sẽ nói.
Thứ đến, lại thấy phía trước mặt có một ngọn núi xương sừng sững, cao bảy trăm do tuần, che khuất ánh sáng mặt trời khiến biển cả tối đen. Tôn giả Mục-liên cùng đệ tử đi kinh hành trên một xương sườn lớn nơi núi xương này. Phước Tăng suy nghĩ: “Hiện tại, Hòa thượng của ta đang thư thả, ta có thể thưa hỏi những việc vừa rồi đã thấy chăng?”
Nghĩ xong, Phước Tăng thưa:
– Cúi xin Hòa thượng giảng nói những sự việc vừa thấy cho con được rõ.
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Bây giờ đã đúng lúc.
– Bạch Hòa thượng, người nữ đầu tiên con thấy là ai vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
Này Phước Tăng, đó là vợ của Đại Tát-bạt ở thành Xá-vệ, có nhan sắc tuyệt trần, được chồng yêu mến. Bấy giờ, Tát-bạt sắp đi biển, vì quyến luyến vợ nên không thể cách xa, ông ta liền dẫn vợ cùng năm trăm khách buôn lên thuyền vượt biển. Người vợ thường hay trang điểm, chải chuốt soi gương, do tự thấy mình xinh đẹp nên khởi tâm kiêu mạn, tham đắm sắc đẹp của chính mình. Khi ấy, có một con rùa lớn dùng chân đạp thuyền, thuyền thủng rồi chìm xuống biển. Tát-bạt, vợ cùng năm trăm khách buôn đều chết. Quy luật của biển cả là không dung nạp thây chết nên những con sóng hoặc Dạ-xoa, La-sát đẩy tất cả thây chết lên bờ. Khi qua đời, chúng sinh tùy theo tâm luyến tiếc điều gì thì lập tức sinh vào nơi ấy. Có người sẽ hỏi vặn: “Nếu nói tham đắm nơi nào thì sinh vào nơi ấy, vậy ai ưa thích địa ngục mới bị đọa vào địa ngục sao?” Nên trả lời: “Chúng sinh nào trộm cắp tài sản của Tam bảo, của cha mẹ, cho đến giết người, những tội nặng như vậy phải bị đọa vào địa ngục lửa thiêu đốt. Người này bị bệnh lạnh, bệnh phong hàn bức bách, liền nghĩ đến lửa, muốn được vào trong lửa. Cứ nghĩ như vậy, nên khi qua đời bị đọa vào địa ngục này. Người nào trộm cắp của cải và đèn cúng Phật, hoặc lấy đèn, đuốc, củi cỏ của Tăng, hoặc phá hoại phòng nhà, giảng đường của Tăng, hoặc khi trời rét lại lột áo của người khác, hoặc ỷ thế lực nên khi mùa đông lạnh giá lấy nước tạt lên nô tỳ và những người khác, hoặc cướp bóc, lột y phục của người… Những tội báo như vậy phải bị đọa vào địa ngục băng giá. Người này bị bệnh nóng bức bách nên thường nghĩ đến những nơi lạnh giá, khi nhớ nghĩ như vậy liền bị đọa vào địa ngục này. Những địa ngục Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu và địa ngục Phân-đà-lợi cũng vậy. Người chịu tội trong địa ngục băng giá này, thân thể lạnh buốt, khô cứng như hạt đậu cháy sém, tán nhỏ, tủy não như hạt gạo nứt ra, xương đầu bể vụn ra trăm ngàn vạn phần, xương khắp thân gãy nát như mũi tên vót nhọn. Người nào tham lam keo kiệt, cướp giật thực phẩm khiến chúng sinh chết đói thì phải bị đọa vào loài ngạ quỉ, bị bệnh “nghịch khí” (đầy hơi), ăn không tiêu. Thầy thuốc khám bệnh, lấy đủ loại thức ăn đến dỗ dành: “Cái này ngon ngọt, thức ăn này ngon, dễ tiêu, hãy cố gắng ăn.” Người bệnh này liền giận dữ: “Khuyên bảo làm gì, bây giờ ta không muốn nhìn thấy thức ăn.” Khi chết, người này sẽ bị đọa vào loài ngạ quỉ. Người nào ngu si, không tin Tam bảo, chê bai khinh lờn đạo thì bị đọa vào loài súc sinh, bị bệnh bức ngặt, chỉ được nằm co, không được nằm ngửa, nằm nghiêng, không thích lời nói thiện, mọi người đều biết chắc người này sẽ chết, liền khuyên bảo: “Ngươi nên nghe pháp, thọ trai, giữ giới, sẽ được thấy hình tượng Phật, thấy Tỳ-kheo Tăng, ngươi nên bố thí.” Nhưng người này không vui vẻ, những người khác lại cố khuyên răn nhưng chỉ làm cho người này tăng thêm ý nghĩa xấu ác: “Cho ta được một điều nguyện là: Không nghe tên Tam bảo, và tên các cõi lành, nhất định không nói thêm điều gì nữa!” Khi chết, người này bị đọa vào loài súc sinh. Người nào tu pháp lành, gieo trồng nhân ở cõi trời, cõi người thì không bị bệnh tật bức ngặt, khi chết, tâm họ không tán loạn, những người thân quyến biết người ấy sắp chết, liền khuyên bảo: “Ngươi có thích nghe pháp, muốn thấy hình tượng Phật, muốn gặp Tỳ-kheo để nghe kinh không? Người có thích được thọ trai giới, muốn có tài sản để cúng dường tượng Phật không?” Người ấy đều đáp: “Tốt lắm!” Lại bảo: “Cúng dường hình tượng Phật thì được thành Phật đạo, cúng dường Pháp thì sinh ra bất cứ nơi nào cũng đạt được trí tuệ sâu xa, thông suốt Pháp tướng; bố thí cho chúng Tăng thì ở đâu cũng có được châu báu, tùy ý sử dụng, không hề thiếu thốn.” Người bệnh nghe rồi, hoan hỷ phát nguyện: “Nguyện cho tôi sinh ở chỗ nào cũng thường gặp ngôi Tam bảo, nghe pháp được khai ngộ.” Khi qua đời, người ấy được sinh trong loài người.
Người nào gieo trồng nhân lành để cầu sinh lên cõi trời, hoặc bố thí, trì giới thanh tịnh, ưa thích nghe kinh Pháp, thọ trì mười điều thiện thì khi sắp qua đời, được nằm ngửa an ổn, thấy hình tượng Phật, cung nữ cõi trời và được nghe âm nhạc cõi trời, nhan sắc tươi vui, đưa tay hướng lên. Khi lâm chung, người này được sinh lên cõi trời. Vợ của Tát-bạt này do yêu thích, tham đắm thân mình nên khi chết, phải sinh trở lại làm thân trùng nơi thân cũ, khi bỏ thân trùng này, liền bị đọa vào địa ngục chịu vô lượng khổ.
Thi-lợi-bật-đề thưa:
– Bạch Hòa thượng, còn người phụ nữ kia sao lại tự ăn thịt mình?
Tôn giả Mục-liên đáp:
Đó là đứa tớ gái của một Ưu-bà-di ở nước Xá-vệ. Ưu-bà-di này thỉnh một vị Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh đến cúng dường thực phẩm trong chín mươi ngày vào mùa hạ an cư. Ưu-bà-di lấy tiền của mình xây phòng cho vị Tỳ-kheo ở, tự nấu món ăn ngon tuyệt, cứ đến bữa chiều liền sai tớ gái bưng thức ăn đến cúng dường vị Tỳ-kheo. Đến chỗ khuất, người tớ gái lựa thức ăn ngon ăn hết, phần còn lại đem đến cho Tỳ-kheo. Dần dần, chủ nhà thấy tôi tớ sắc mặt tươi tắn, thân hình mập mạp nên nghĩ là nó lấy trộm thức ăn, liền hỏi: “Ngươi có lấy trộm thức ăn của Tỳ-kheo không?” Người tớ gái đáp: “Thưa chủ nhân, con cũng có lòng tin, chẳng phải là người tà kiến thì lý do gì lại ăn trước vị Tỳ- kheo? Khi Tỳ-kheo ăn xong, còn dư thức ăn nên cho con, con mới ăn thức ăn đó. Nếu con ăn trước thì thề rằng đời đời con tự ăn thịt của con.” Do nhân duyên này, nên trước tiên, người tớ gái kia phải chịu tội về quả báo khinh lờn, sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục lớn, chịu quả báo chính thức, đau khổ vô cùng.
Phước Tăng lại thưa:
– Bạch Hòa thượng, thân cây lớn có các trùng rúc rỉa mà con đã thấy, lại phát ra tiếng ghê sợ kia là ai vậy?
Tôn giả Mục-liên bảo:
– Đó là Tỳ-kheo trông coi việc chúng Tăng tên Lại-lợi-tra. Tỳ-kheo này tự ý lấy hoa quả, thực phẩm… của chúng Tăng cho bạch y nên chịu quả báo, sau khi qua đời sẽ bị đọa vào địa ngục lớn, còn những con trùng rúc rỉa ấy chính là những người đã nhận vật của chúng Tăng.
Phước Tăng thưa:
Bạch Hòa thượng, người gào khóc thống thiết, bị bắn tên tới tấp, lửa cháy sém toàn thân là ai vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Người này đời trước làm thợ săn, giết hại nhiều cầm thú, do tội này nên chịu khổ sở như vậy, khi chết bị đọa vào địa ngục lớn, trải qua thời gian lâu dài, khó thoát ra được.
– Bạch Hòa thượng, người tự nhảy từ trên núi cao xuống, bị dao kiếm đâm chém, thân thể tan nát rồi lên núi, nhảy xuống lại là ai vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Người ấy là một vị đại tướng ở thành Vương xá, do rất mạnh mẽ nên luôn đi tiên phong, dùng dao kiếm để đâm chém làm thương tổn muôn loài nên chịu quả báo này, sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục lớn, chịu khổ lâu dài.
Phước Tăng lại thưa:
– Bạch Hòa thượng, còn núi xương này là ai vậy?
Tôn giả Mục-liên đáp:
– Ngươi muốn biết ư? Đây chính là xương thân ngươi đời trước đó!
Nghe xong, Thi-lợi-bật-đề rất đỗi kinh sợ, hoảng hốt toát mồ hôi, thưa:
– Bạch Hòa thượng, hôm nay, tâm con tăm tối chưa biết được, xin Thầy nói rõ đầy đủ nhân duyên cho con.
Tôn giả Mục-liên đáp:
Sự xoay vần của sinh tử không có bờ bến mà nghiệp báo thiện ác thì không hề tan mất, tạo bao nhiêu nghiệp thì chắc chắn nhận bấy nhiêu quả báo, tùy theo từng việc làm. Vào đời quá khứ, ở Diêm-phù đề này có một vị vua tên Đàm-ma-bật- đề (Pháp Tăng), ưa thích bố thí, trì giới, nghe pháp, có tâm Từ bi, tánh không bạo ác, không làm tổn thương các loài vật, có đầy đủ tướng của vị quốc vương, dùng chánh pháp để trị nước suốt hai mươi năm, lúc rảnh rang trong việc nước, vua cùng đánh bạc chơi với mọi người. Lúc đó, có một phạm nhân phạm tội giết người, các quan liền đến tâu: “Tâu đại vương, bên ngoài có phạm nhân phạm tội, phải trị thế nào?” Do vua mãi chơi, không suy xét mà đáp: “Cứ theo pháp nước mà trị.” Các quan căn cứ theo luật: “Giết người thì phạm tội chết” lập tức đem tội nhân ra giết. Nhà vua vui chơi xong, bèn hỏi các cận thần: “Tội nhân lúc nãy đâu rồi, nay trẫm sẽ xử.” Các quan tâu: “Tâu bệ hạ, thần chiếu theo phép nước để trị nên đem đi giết rồi.” Nghe xong, nhà vua bất tỉnh ngã xuống đất. Các cận thần lấy nước lạnh rưới lên mặt, hồi lâu vua mới tỉnh lại, liền khóc lóc, nói: “Cung tần mỹ nữ, voi ngựa, bảy báu, tất cả đều đang ở đây, chỉ có một mình ta phải đọa vào địa ngục chịu mọi khổ đau. Khi ta chưa làm vua thì cung điện này có vua cai trị, chẳng bao lâu ta chết đi thì ở đây cũng có vua khác tiếp tục cai trị, ta xưng là vua mà giết người thì cũng như vua của bọn Chiên-đà-la, không biết đời đời kiếp kiếp, ta sẽ đi về đâu. Nay ta quyết định không làm vua nữa.” Vua liền bỏ ngai vàng vào núi để tu tập. Khi vua qua đời, sinh làm con cá Ma- kiệt trong biển cả, thân lớn dài bảy trăm do tuần. Các ma và Đại thần tự ỷ vào thế lực, ức hiếp dân chúng, khiến nhân dân ly tán, bóc lột chúng sinh, khi chết sẽ sinh làm nhiều cá lớn Ma-kiệt, có nhiều trùng đến rúc rỉa thân, chui vào vảy để ăn thịt, như những lưỡi câu móc vào mình, lúc mình cá ngứa ngáy, nó cọ vào núi Pha lê, giết những con trùng nát thân, máu chảy đỏ ngầu trong biển cả trăm dặm, vì tội này nên khi chết, bị đọa vào địa ngục lớn. Khi cá Ma-kiệt ngủ một giấc là một trăm năm, tỉnh giấc, chúng quá đói khát nên há miệng lớn để nước biển chảy vào, như chảy vào sông lớn. Bấy giờ, có năm trăm khách luôn đi biển tìm châu báu, gặp lúc cá há miệng lớn nên thuyền trôi thật nhanh vào trong miệng cá, mọi người quá kinh sợ nên khóc lóc gào thét, có người nói: “Hôm nay ta chắc chắn sẽ bị chết”, người khác thì cung kính; hoặc xưng danh hiệu Phật, Pháp và Tăng; hoặc gọi tên chư Thiên, Thần sông, Thần núi, cha mẹ, anh em, bà con…: “Hôm nay là lần cuối cùng chúng ta được nhìn thấy Diêm-phù-đề, chắc vĩnh viễn không thấy nữa!” Khi thuyền sắp tới miệng cá Ma- kiệt, mọi người đồng thanh niệm: “Nam-mô Phật!”
Nghe tiếng niệm Phật, cá liền ngậm miệng lại, nước biển ngừng chảy, tất cả khách buôn như từ cõi chết trở về. Do bị đói khát giày vò nên cá liền chết, được sinh trong thành Vương xá. Dạ-xoa, La- sát liền vớt cá lên, để trên bờ biển, trải qua những ngày mưa nắng, thịt đã tiêu tán, chỉ còn xương, chính là núi xương này. Này Phước Tăng, vua Pháp Tăng thuở đó nay chính là ông, do tội giết người nên đọa làm cá Ma-kiệt ở biển cả này. Hôm nay đã được làm thân người, sao ông không nhàm chán sinh tử? Nếu ông chết ở đây thì sẽ bị đọa vào địa ngục, muốn ra khỏi cũng thật khó.”
Khi ấy, thấy thân cũ của mình, được nghe Thầy thuyết giảng xong, Phước Tăng rất sợ sinh tử, liền ghi nhớ thứ lớp các pháp tu, chú tâm giữ ý, quán sát thân cũ của mình, hiểu rõ pháp vô thường, nhàm chán sinh tử, trừ sạch các kết sử, lậu hoặc, chứng đắc quả vị A-la-hán. Tôn giả Mục-liên hoan hỷ, nói:
– Pháp tử, hôm nay, việc nên làm ông đã làm xong, lúc đến đây, ông đã nương vào thần lực của ta mà đến, bây giờ ông có thể tự dùng thần lực của mình mà đi.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên bay lên hư không, Thi-lợi-bật-đề bay theo sau Hòa thượng, như chim con bay theo mẹ, cùng trở về Trúc lâm.
Lúc này, các Tỳ-kheo trẻ tuổi chưa biết Phước
Tăng đắc đạo nên vẫn châm chọc như trước. Do tâm đã điều thuận, Thi-lợi-bật-đề vẫn giữ oai nghi đĩnh đạc, yên lặng không phân trần. Đức Phật biết việc này, vì muốn hộ trì các Tỳ-kheo không để họ khởi nghiệp ác, cũng muốn hiển bày đức của Tỳ- kheo già này nên ở trong đại chúng, Ngài gọi:
– Phước Tăng, hãy đến đây! Hôm nay, ông đã đến bên bờ biển sao?
– Bạch Đức Thế Tôn, thật con có đến.
Ông có thể trình bày lại những điều đã thấy không?
Tỳ-kheo Phước Tăng bạch Phật đầy đủ về những điều đã thấy. Đức Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Này Phước Tăng, những điều ông thấy đều là sự thật. Hôm nay, ông đã xa lìa khổ sinh tử, đạt được an vui của Niết-bàn, xứng đáng thọ nhận tất cả sự cúng dường của trời, người, những việc của Tỳ-kheo phải làm, ông đã làm đầy đủ.
Nghe lời Phật dạy, các Tỳ-kheo trẻ tuổi rất lo sợ, hối hận: “Đây là bậc Hiền thiện trí tuệ, chúng ta không có trí tuệ, dùng tâm ác châm chọc, thế nào chúng ta cũng nhận lấy quả báo của tội này!”
Các Tỳ-kheo trẻ tuổi liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ Tỳ-kheo Phước Tăng, gieo năm vóc sát đất, thưa:
Các bậc Thiện nhân xuất hiện thì tâm Bi cũng phát sinh theo; cũng vậy, hôm nay Đại đức sinh khởi thì tâm Bi cũng phát sinh. Cúi xin Đại đức thương xót chúng tôi mà nhận lời sám hối lỗi lầm.
Phước Tăng đáp:
– Đối với các vị, lúc nào tôi cũng có tâm thiện để tiếp nhận lời sám hối lỗi lầm.
Thấy các Tỳ-kheo trẻ tuổi còn sợ hãi, Phước Tăng liền thuyết pháp. Các Tỳ-kheo nghe xong, lập tức nhàm chán pháp sinh tử, siêng năng tu tập, dứt sạch kết sử, lậu hoặc chứng đắc đạo quả A-la-hán. Do nhân duyên này, tiếng khen về Phước Tăng vang khắp thành Vương xá, mọi người đều nói:
– Lạ thay! Thật là đặc biệt! Trưởng giả trong thành này già nua không thể tưởng, nay xuất gia trong Phật pháp lại được thành đạo, lại thuyết pháp vi diệu hiếm có như vậy!
Bấy giờ, mọi người trong thành đều phát tâm thanh tịnh, có người cho phép nam, nữ, nô tỳ, dân chúng xuất gia, hoặc tự mình xuất gia, tất cả đều hoan hỷ, cùng khuyến khích nhau xuất gia. Do nhân duyên này nên nói công đức xuất gia thật vô lượng vô biên.
Phước Tăng một trăm tuổi mới xuất gia mà thành tựu các công đức lớn lao như vậy, huống là những người trẻ tuổi, muốn cầu quả báo lớn thù thắng vi diệu thì nên siêng năng tu theo pháp xuất gia để học đạo.
❑
Tôi nghe như thế này:
Một thời, Đức Phật ở nước An-đà. Bấy giờ Đức Thế Tôn ân cần khen ngợi người trì giới, giữ gìn giới cấm, thà bỏ thân mạng chớ trọn đời không hủy phạm chúng. Tại vì sao? Vì giới là nền tảng ban đầu nhập đạo, là hướng đi tuyệt diệu dứt hết lậu nghiệp, là con đường bằng thẳng đi đến Niết-bàn an lạc. Nếu người giữ giới thanh tịnh thì công đức ấy vô lượng vô biên, thí như biển lớn sâu rộng vô lượng vô biên, giới cũng như vậy. Cũng như biển lớn có nhiều loài chúng sinh thủy tộc to lớn cư trú như: rùa A-tu-la, cá Ma-kiệt..., biển giới cũng như thế, cũng có nhiều chúng sinh lớn Tam thừa ở trong đấy. Thí như biển lớn có rất nhiều các thứ của báu vàng, bạc, lưu ly..., biển giới cũng như thế, cũng có nhiều của báu như thiện pháp, bốn phi thường, ba mươi bảy trợ đạo, các thiền tam-muội... Cũng như biển lớn, kim cang làm đáy, vây quanh núi Kim cang có bốn con sông lớn, trôi chảy vào trong đó mà nó vẫn không thêm không bớt. Biển giới cũng như vậy. Tỳ-ni làm đáy, lấy A-tỳ-đàm làm núi bao vây, bốn bộ A-hàm như sông chảy vào trong đó mà vẫn thường trạm nhiên không thêm không bớt. Tại vì sao chảy vào mà vẫn không thêm không bớt? Vì lửa dưới A-tỳ bốc lên biển lớn làm cho nước biển tiêu cạn nên không đầy, vì các sông thường chảy vào cho nên nước biển không bao giờ vơi. Biển giới Phật pháp cũng như thế. Không phóng dật nên không tăng, đầy đủ công đức nên không giảm. Vì thế nên biết, người hay trì giới công đức rất nhiều.
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, ở nước An-đà có một vị Tỳ-kheo ngày đi khất thực một buổi, thích ở nơi thanh vắng, đầy đủ oai nghi. Tỳ-kheo hành hạnh khất thực như thế, Đức Phật thường khen ngợi. Họ không hay ở chung với Tăng chúng. Vì sao? Vì Tỳ-kheo hành hạnh khất thực ít lòng dục, tri túc, không tích trữ, họ cứ thứ tự khất thực hoặc trải tọa cụ ngồi bên vệ đường ngày ăn một bữa, thân mặc ba y, những hạnh như thế, đáng tôn trọng trong hàng Tỳ-kheo Tăng. Ham muốn nhiều không chán, tích trữ của cải, tham cầu, keo kiệt, tật đố ái trước, cho nên không được tiếng tăm vang xa. Còn vị Tỳ-kheo hành hạnh khất thực kia đức hạnh thuần hậu hoàn toàn đầy đủ quả Sa-môn Tam minh, Lục thông, trụ Bát giải thoát, uy nghi đĩnh đạc, tiếng khen vang dội.
Bấy giờ, ở nước An-đà có một vị Ưu-bà-tắc, kính tin Tam bảo, thọ trì ngũ giới, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, bố thí tu đức, tiếng tăm vang khắp nước, nguyện trọn đời cúng dường vị Tỳ- kheo hành hạnh khất thực đó. Phước cúng dường theo nhân thọ quả báo, nếu thỉnh chúng Tăng đến nhà cúng dường thì e ngại bỏ sự hành đạo, vì trên đường đi phải chịu mệt nhọc bởi nóng, lạnh, sau này có hưởng được quả báo tốt, nhưng phải chịu mệt nhọc, phải đi ra ngoài tìm cầu mới có thể được. Còn đi đến chùa cúng dường sau này khi hưởng được phước báo tự nhiên. Vị Ưu-bà-tắc này lòng tin sâu dày, làm đầy đủ các thứ thức ăn ngon thơm, sai người mang đến tận nơi cúng dường hàng ngày đều như thế.
Bậc Sa-môn có bốn hạng tốt xấu khó nhận biết rõ ràng, giống như trái Am-la sống hoặc chín khó mà biết được. Hoặc có Tỳ-kheo oai nghi đĩnh đạc bước đi ung dung, thế mà nhìn kỹ lại, bên trong đầy đủ tham dục, sân nhuế, si mê, phá giới, phi pháp, giống như trái Am-la bên ngoài chín nhưng bên trong thì sống. Hoặc có Tỳ-kheo bề ngoài coi thô sơ, trái nghịch oai nghi mà bên trong đầy đủ đức hạnh của một vị Sa-môn thiền định, trí tuệ, cũng như trái Am-la bên trong chín mà bên ngoài sống. Hoặc có Tỳ-kheo oai nghi thô kệch, phá giới tạo ác, bên trong có đủ tham dục, sân nhuế, si mê, xan tham, tật đố cũng như trái Am-la trong ngoài đều sống. Hoặc có vị Tỳ-kheo, uy nghi nghiêm chỉnh tự thọ trì giới thanh tịnh bên trong đầy đủ đức hạnh Sa-môn giới định, tuệ giải thoát, cũng như trái Am-la trong ngoài đều chín. Vị Tỳ-kheo hành hạnh khất thực kia, trong ngoài đầy đủ cũng lại như vậy. Vì đức hạnh đầy đủ nên được mọi người tôn kính.
Lúc bấy giờ, trong nước ấy có một vị trưởng giả, kính tin Tam bảo sinh được một đứa con trai, ông muốn cho con đi xuất gia, trong lòng tự suy nghĩ: “Nên tìm một vị minh sư để cho con nương theo, vì lẽ thân cận bậc thiện tri thức thì tăng thêm pháp lành, gần gũi ác tri thức thì khởi lên pháp ác. Thí như tính gió không có mùi nhưng thổi ngang qua rừng Chiên-đàn hay rừng Chiêm-bặc tới, thì gió sẽ có mùi hương vi diệu thơm tho; nếu thổi ngang qua phẩn uế, tử thi thì gió ấy có mùi hôi thối. Lại như áo sạch để trong tủ có hương thơm, khi lấy ra áo sẽ thơm tho, còn nếu để ở nơi hôi thối, thì áo cũng bị hôi thối theo. Thân gần bạn lành thì việc lành ngày càng to lớn, thân gần bạn ác thì việc ác tăng trưởng. Vì thế hôm nay ta nên đem đứa con này gửi cho bậc Tôn giả ấy, để nó được xuất gia tu học.” Nghĩ như thế xong, vị trưởng giả liền đến bạch với vị Tỳ-kheo ấy:
– Tôi có một đứa con trai đây, nay muốn cho nó xuất gia, ngưỡng mong Đại đức thương xót thọ nhận tế độ. Nếu không thể nhận, xin hãy trả nó trở về nhà.
Lúc bấy giờ vị Tỳ-kheo ấy dùng đạo nhãn quan sát xem người này xuất gia có thể trì giữ tịnh giới, tăng trưởng Phật pháp, bèn nhận đứa trẻ độ làm Sa- di.
Một hôm vị Ưu-bà-tắc ấy có một người cư sĩ thân thiện mời ông và cả nhà vợ con, nô tỳ... ngày mai đi xem trẩy hội. Bấy giờ vị Ưu-bà-tắc, sáng sớm nghĩ rằng: “Hôm nay phải đi trẩy hội ai ở lại giữ nhà, nếu ta dùng quyền lực giữ lại một người, việc ấy thì được rồi, nhưng ta lại phụ lòng ông ấy (bạn ông). Nếu có người nào tự ý chịu ở lại nhà thì ta đi dự hội sẽ tự nhận riêng.” Đứa con gái của ông liền thưa cha:
– Thưa cha, theo ý con trẻ chỉ đi khi được thích muốn, con xin ở lại giữ nhà. Người cha vui vẻ nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Hôm nay con ở lại giữ nhà cho cha và mẹ, với con thì lòng ta không còn lo ngại mất mát của cải nhà cửa nữa.
Lúc đó cả nhà đều nhận lời mời ra đi. Đứa con gái bèn đóng chặt cổng, ở trong nhà một mình. Hôm đó, vị Ưu-bà-tắc bỗng quên dâng cơm cho vị Tỳ-kheo, giờ ngọ đã xế bóng. Bấy giờ vị Tôn giả, tâm tự nghĩ: “Người trần tục bận nhiều công việc, có lẽ họ quên không mang cơm đến, hôm nay ta có thể sai người đến lấy chăng?” bèn bảo chú Sa-di:
Con đi đến nhà vị Ưu-bà-tắc lấy cơm và phải giữ gìn oai nghi, như lời Đức Phật dạy, vào thôn xóm khất thực, chớ sinh lòng tham trước, thí như con ong hút lấy mật hoa, chỉ lấy vị mật của hoa không làm tổn hại hương sắc. Hôm nay, con cũng phải như thế, đến nhà người ta lấy cơm, thu nhiếp các căn, chớ sinh lòng tham sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nếu giữ được giới cấm thì có thể giữ được đạo. Như ông Đề-bà-đạt-đa, tuy tụng kinh nhiều vì tạo ác hủy giới, phải chịu đọa địa ngục A-tỳ. Như ông Cù-ca-lợi, phỉ báng phá giới cũng phải đọa địa ngục. Ông Châu-lợi-bàn-đặc tuy tụng một bài kệ vì trì giới luật mà chứng quả A-la-hán. Lại nữa, giới tức là cửa vào Niết-bàn, là nhân hưởng thọ khoái lạc. Thí như quy pháp của Bà-la-môn nếu thiết lập trường trai ba tháng hoặc bốn tháng, họ thỉnh các vị Bà-la-môn cao minh trì giới phạm hạnh, vì tuyển chọn thỉnh mời không được rộng rãi. Họ để phong bì trong bát của người được thỉnh, có một vị Bà-la- môn tuy học cao nhưng tính tình không thanh liêm, vì tham mùi mật ngọt, liếm sạch mật trong phong bao. Đến ngày nhập hội xuất trình phong bao mới được vào. Có một Phạm chí, không có phong bao đóng dấu muốn đi vào, một người trong ban tổ chức hỏi: “Ngài có phong bao không?” Đáp: “Tôi có nhưng đã liếm hết mật rồi.” Nay con cũng phải như thế, đã không được vào hội tràng vì tham chút ít mật ngọt, mà phải để mất đi cơ hội hưởng các thú hương vị thơm ngon trong bốn tháng, cho đến dùng các thứ trân bảo khác. Con nay cũng phải như vậy, chớ tham việc nhỏ mà phá giới cấm thanh tịnh, để mất đi mỹ vị ngũ dục trong cõi trời, người cho đến các pháp vô lậu, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Niết-bàn an lạc, pháp bảo vô lượng. Con chớ hủy phá giới ba đời chư Phật, làm ô nhục Tam bảo, Cha mẹ, Sư trưởng.
Chú Sa-di thọ giáo, đảnh lễ rồi lui ra, đi đến nhà ông Ưu-bà-tắc kia, gõ cửa. Cô gái chạy ra hỏi:
– Ai gõ cửa đấy? Có việc gì? Đáp:
– Tôi là Sa-di, vâng lời thầy đến đây lấy cơm.
Trong lòng cô gái vui mừng, thầm bảo: “Ta hằng mong ước, nay được toại nguyện”, liền mở cổng mời vào. Là một người con gái đoan chính, dung mạo xinh đẹp lạ thường, tuổi vừa mười sáu, lòng dâm dục như lửa cháy, đứng trước mặt chú Sa-di, cô làm ra vẻ õng ẹo, lẳng lơ, lộ tướng dâm dục. Chú Sa-di thấy thế, nghĩ: “Cô gái này mắc chứng bệnh phong, bệnh điên cuồng chăng? Hay là muốn đem lòng dục vọng phá hủy hạnh thanh tịnh của ta?” Chú giữ vững oai nghi, nhan sắc không thay đổi. Lúc bấy giờ cô gái cúi năm vóc sát đất thưa với chú Sa-di:
Em luôn ước nguyện từ lâu được gặp ngài để bày tỏ tâm sự, nhưng chưa gặp lúc nào vắng vẻ, em nghĩ có lẽ ngài cũng có tâm thương em, trong nhà của em đây có nhiều vàng bạc châu báu đầy kho, cũng giống như bảo tàng của Tỳ-sa-môn Thiên cung nhưng chưa có người làm chủ, ngài hãy chìu ý làm chủ nhà em. Em sẽ làm người vợ hiền, tôn kính, hầu hạ, xin đừng từ chối, để mãn nguyện lòng mong ước của em.
Chú Sa-di thầm nghĩ: “Ta có tội gì, gặp phải ác duyên này. Hôm nay ta thà xả bỏ thân mạng không thể phá hủy giới cấm của chư Phật ba đời chế ra. Ngày xưa có vị Tỳ-kheo đến nhà dâm nữ, bị cưỡng bức hành dục thà nhảy vào hầm lửa, quyết không phạm giới. Lại có các Tỳ-kheo bị cướp lấy cỏ trói buộc, chịu đựng gió thổi, nắng nóng, côn trùng hút cắn, vì giữ giới không dám vứt cỏ mà đi. Như con ngỗng nuốt xâu chuỗi ngọc, vị Tỳ-kheo dù trông thấy do vì giữ giới chịu sự đánh đập không nói. Như thuyền bị vỡ ngoài biển, vị Tỳ-kheo hạ tọa, do vì giữ giới, đưa tấm ván cho vị Thượng tọa, còn mình chịu chết chìm nơi biển cả. Những người như thế, riêng là đệ tử Phật có thể giữ được giới cấm, chẳng lẽ ta không phải là đệ tử Phật không thể giữ giới được ư? Đức Thế Tôn Như Lai riêng là thầy của họ, không phải thầy của ta sao? Như bông Chiêm-bặc cùng với mè ép chung thành dầu mùi hoa hôi thì dầu mè cũng hôi. Ngày nay ta đã gặp được bậc Thiện tri thức, có lẽ nào tạo pháp ác, thà bỏ thân mạng trọn đời không phá giới làm ô nhục
Phật, Pháp, Tăng, Phụ mẫu, Sư trưởng.” Lại suy nghĩ: “Nếu như ta bỗng vụt chạy trốn, lòng dục của cô gái đang hừng hực. Không cần hổ thẹn chạy theo níu kéo và phỉ báng ta, người lạ ngoài đường trông thấy ắt không tránh khỏi ô nhục, ta nay quyết định nên xả bỏ thân mạng tại đây.” Vị Sa-di bèn dùng phương tiện nói:
– Đóng cửa nhà lại, tôi vào phòng rồi hãy làm điều gì cần làm.
Lúc đó cô gái liền đi đóng cửa cổng. Chú Sa-di vào phòng, gài kín chốt cửa, lại được một con dao, lòng thầm vui mừng, cởi y phục vắt trên giá, quỳ thẳng chắp tay hướng về thành Câu-thi-na nơi Đức Phật nhập Niết-bàn, tự thệ nguyện rằng: “Con nay không bỏ Phật, Pháp, Tăng, không bỏ Hòa thượng A-xà-lê, cũng không bỏ giới, chính vì trì giới, xả bỏ thân mạng này, nguyện đời sau sinh ra được xuất gia học đạo, tịnh tu phạm hạnh, dứt sạch lậu nghiệp, thành đạo Bồ-đề.” Nguyện xong, vị Sa-di liền cắt cổ chết, máu chảy ra lênh láng dính đầy thân thể. Bấy giờ cô gái cảm thấy kỳ quái vì chờ lâu quá bèn đến đẩy cửa xem, thấy cửa phòng không mở, gọi cũng không đáp lời, bèn tìm cách xô cửa xông vào. Thấy chú Sa-di đã chết, cô thất sắc, lòng dục tan biến, xấu hổ lo buồn, tự bứt cào đầu tóc, cào rách mặt mũi, nằm lăn lộn trên mặt đất dính đầy bụi bặm, đau đớn khóc lóc, mê mệt ngất đi. Cha cô gái xem hội trở về, gõ cửa gọi con gái.
Nghe đứa con gái lặng thinh không trả lời, người cha cảm thấy kỳ lạ, sai người leo vào trong mở cổng. Vào nhà trông thấy đứa con gái như thế, liền hỏi rằng:
– Con làm sao thế? Có người nào xâm phạm làm ô nhục con chăng?
Người con gái lặng thinh không đáp, tâm tự suy nghĩ: “Hôm nay nếu mình nói thật thì rất là hổ thẹn, còn nếu nói chú Sa-di hủy nhục mình thì là phỉ báng người lương thiện, sẽ phải đọa địa ngục, chịu tội rất nặng, khổ sở vô cùng.” Nghĩ thế, cô liền nói thật sự tình:
– Con giữ nhà một mình, có chú Sa-di đến lấy cơm chay về dâng thầy, lòng dâm dục của con khởi lên quá mạnh, nên đã quấy nhiễu Sa-di, bắt theo ý muốn của con. Vì chú giữ giới, tâm không thay đổi, giả vờ vào phòng rồi tự xả bỏ thân mạng. Do con nhơ bẩn, muốn làm hại hạnh thanh tịnh của người, sự việc như vậy, cho nên con không vui.
Người cha nghe con gái nói như vậy trong lòng cũng không kinh sợ gì. Tại vì sao? Vì ông biết việc ấy là do nghiệp báo khiến như thế, liền bảo với con gái:
– Tất cả các pháp đều là vô thường, con chớ nên lo buồn.
Ông liền bước vào trong phòng trông thấy thi hài chú Sa-di máu chảy dính đỏ, vội vàng quỳ xuống đảnh lễ khen ngợi:
– Lành thay! Người hộ trì giới của Phật, mà có thể xả bỏ thân mạng.
Lúc bấy giờ, theo quốc pháp nước ấy, nếu có Sa-môn hoặc bạch y chết tại nhà thì phải nộp phạt một ngàn quan tiền vàng. Bấy giờ vị Ưu-bà-tắc mang một ngàn quan tiền vàng đặt trên mâm đồng đem đến cung vua, tâu với nhà vua:
– Hạ thần có tội đáng trách nên vào cung thưa cùng bệ hạ. Xin bệ hạ thọ nhận tiền vàng này.
Nhà vua nói:
– Khanh sống trong nước ta, kính tin Tam bảo, trung cang liêm chính, giữ đạo, lời nói việc làm không trái nghịch nhau, chỉ có một mình khanh như vậy, hôm nay sao có lỗi gì mà đi nộp phạt?
Bấy giờ vị Ưu-bà-tắc trình bày đầy đủ duyên sự như trên và tự chê trách đứa con gái của mình, khen ngợi công đức trì giới của chú Sa-di. Nhà vua nghe hết sự tình, trong lòng rất kinh sợ, niềm tin càng tăng thêm mạnh mà bảo vị Ưu-bà-tắc:
– Chú Sa-di hộ giới, tự bỏ thân mạng, khanh không có lỗi chi cả, không phải nộp phạt, hãy mang tiền về nhà. Nay ta muốn đích thân đến nhà khanh để cúng dường chú Sa-di.
Vua liền đánh trống vàng, ra lệnh mọi người trong nước cùng nhau đi đến nhà đó. Đức vua tự vào trong nhà, thấy thi hài Sa-di đỏ như gỗ chiên- đàn, quỳ xuống đảnh lễ, khen ngợi công đức chú, rồi dùng các thứ báu, trang hoàng một cỗ xe cao chở thi hài Sa-di đến nơi đất bằng phẳng, chất nhiều các thứ gỗ thơm để hỏa thiêu cúng dường. Vua truyền trang điểm cho người con gái ấy đẹp đẽ nhất trên đời và cho đứng ở trên đài cao để mọi người các nơi đều trông thấy và nói với dân chúng:
– Người con gái đẹp này, nhan sắc tươi như ánh sương mùa xuân như thế, là người chưa lìa bỏ hết dục vọng, thì ai mà không có lòng say đắm. Thế mà chú Sa-di đây, dù chưa đắc đạo đã đem thân sinh tử, hộ giới bỏ mạng, thật là việc hy hữu nhất trên thế gian này!
Nhà vua liền sai người đến thỉnh thầy của chú Sa-di vì quần chúng rộng thuyết pháp vi diệu. Lúc bấy giờ, tất cả mọi người đến tham dự nghe thấy sự việc như thế, có người xin được xuất gia trì giữ tịnh giới, có người cầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề, không ai chẳng vui mừng đảnh lễ vâng lời.
Tôi nghe như thế này:
Lúc bấy giờ Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ thuyết pháp cho chư đại chúng Tỳ- kheo.
Lúc ấy, ở trong nước có một vị trưởng giả giàu có vô lượng, vàng bạc bảy báu, voi ngựa trâu dê, nô tỳ nhân dân, kho lẫm đầy ắp, nhưng không có một đứa con trai, chỉ hạ sinh được năm đứa con gái tướng mạo đoan chánh, thông minh trí tuệ. Đang lúc vợ mang thai thì vị trưởng giả qua đời. Theo quốc pháp thời đó, nếu người chồng chết, nhà không có con trai, thì tất cả tài sản vật chất đều thuộc về nhà nước. Vua sai đại thần ghi chép tài sản ấy để xung vào cửa quan. Đứa con gái của vị trưởng giả thầm nghĩ: “Mẹ ta đang mang thai chưa biết được là trai hay gái, nếu là con gái thì tài sản nên thuộc về nhà nước, còn nếu thai ấy là con trai thì nó là chủ tài sản này.” Nghĩ như thế rồi, cô bèn đi đến tâu với đức vua:
– Cha con vừa mới qua đời, vì không có con trai nên tài sản xung vào nhà nước, nhưng nay mẹ con đang mang thai, xin cho chờ đợi một thời gian để mẹ con sinh nở. Nếu là con gái, lúc đó đem tài sản cho nhà nước cũng không muộn gì; nếu như sinh được con trai thì nó là chủ tài sản ấy.
Thời bấy giờ vua Ba-tư-nặc là người chấp pháp ngay thẳng liền nhận lời tâu của cô gái. Người mẹ không bao lâu đến ngày khai hoa nở nhụy, sinh được một đứa con trai thân thể đần độn, lại không có tai, mắt, có miệng mà không có lưỡi, không có chân tay, nhưng có nam căn bèn đặt tên là Man-tư- tỳ-lê. Lúc đó cô con gái lớn đem hết mọi việc trình bày cho đức vua. Vua nghe xong ngẫm nghĩ: “Dù nó không có mắt, tai, lưỡi, chân tay... nhưng nó là con trai có quyền được làm chủ tài sản”, liền bảo người con gái:
Tài sản ấy thuộc về người con trai, trẫm sẽ không thu biên.
Bấy giờ người con gái lớn bỏ đi đến nhà người khác làm các công việc hầu hạ phu chủ, cung kính khiêm tốn; nào là quét dọn giường mền, lo việc ăn uống, đón đưa chào hỏi, giống như là việc nô tỳ của các nhà giàu vậy. Có vị trưởng giả gần đó trông thấy cô đi giúp việc như thế ngạc nhiên hỏi:
– Đạo vợ chồng mọi nhà đều có, tại sao con đi làm công việc như vậy?
Người con gái nói:
– Cha con chết rồi, gia tài vô lượng, dù có năm chị em gái cũng phải xung vào nhà nước, may sao mẹ con vừa sinh được một đứa con trai, không có mắt, tai, lưỡi và chân tay, nhưng có nam căn nên được làm chủ tài sản. Sự việc như thế, dù có các con gái cũng không bằng một đứa con trai, cho nên con đau buồn mà đi làm thế.
Vị trưởng giả nghe rồi cảm thấy sự việc kỳ lạ như vậy, bèn cùng đứa con gái lớn đến chỗ Đức Phật bạch:
Bạch Đức Thế Tôn, con trai của vị trưởng giả kia vì nhân duyên gì sinh ra không mắt, tai, lưỡi và chân tay, thế mà sinh được vào nhà giàu có làm chủ được gia tài. Đức Phật bảo vị trưởng giả:
– Ông hỏi rất hay. Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì ông mà nói.
Vị trưởng giả nói:
– Vâng, con xin vui thích lắng nghe. Đức Phật nói:
– Này trưởng giả, ở đời quá khứ có hai anh em con của vị đại trưởng giả; người anh tên Đàn-nhã- thế-chất, người em tên Thi-la-thế-chất. Người anh tánh tình trung tín thành thật, thường thích làm hạnh bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo thiếu, vì thế người trong nước đều kính nể tôn trọng. Nhà vua bổ nhậm ông làm chức Quốc bình sự để xử đoán việc tranh tụng, mọi việc ấy đều do ông phán quyết. Theo quốc pháp thời bấy giờ: vay, mượn, lấy, cho... không cần phải viết đơn, chỉ cần đến quan Bình sự Đàn-nhã-thế-chất xác nhận là đủ rồi.
Lúc bấy giờ có một người lái buôn muốn đi biển, đến nhà ông Thi-la-thế-chất vay một số tiền để cần đi buôn bán. Bấy giờ vị trưởng giả em chỉ có một đứa con trai tuổi hãy còn nhỏ, ông dẫn đứa con và đem tiền bạc đến chỗ quan Bình sự thưa:
– Thưa anh, người lái buôn này vay em một số tiền ra biển buôn bán trở về sẽ trả lại. Xin anh chứng nhận cho. Nếu lỡ không may mà chết thì anh xác minh cho con em được nhận thay.
Quan Bình sự nhận lời, vị trưởng giả em không bao lâu mạng chung. Bấy giờ người lái buôn đi thuyền vào biển gặp trận bão giông sóng vỗ vỡ thuyền mất hết tất cả, nhưng may thay người lái buôn vớ tấm ván được trôi giạt vào bờ an toàn trở về nước nhà. Bấy giờ đứa con vị trưởng giả nghe tin ông bị đắm thuyền thoát chết trở về tay không nên không đòi nợ. Ông lái buôn tự nghĩ: “Lần này đi buôn thất bại cần phải vay mượn để đi nữa.” Bấy giờ có một lái buôn khác cho anh vay một số tiền nên anh tiếp tục đi ra biển nữa, lần này được nhiều châu báu an ổn trở về, tâm tự nghĩ rằng: “Đứa con của vị trưởng giả kia, lần trước dù trông thấy ta nhưng không đòi nợ, khi ta mượn tiền cậu ta hãy còn nhỏ hoặc có thể cậu ta không nhớ, hay là thấy ta lúc trước thua lỗ khó khăn nên không đòi nợ chăng? Nay ta nên thử cậu ấy.” Vị ấy liền cỡi ngựa tốt trang sức các thứ châu báu, y báu đi vào chợ. Người con trưởng giả trông thấy vị ấy cỡi ngựa mặc y phục đẹp như thế trong lòng thầm nghĩ: “Người này đi buôn trở về dường như phát tài nên đến đòi nợ thử.” Anh liền đến nói:
– Ông vay nợ của cha tôi, hôm nay có thể trả được chưa?
Đáp:
– Có thể!
Lúc bấy giờ người lái buôn suy nghĩ: “Ta vay mượn một số tiền lớn lâu ngày chồng chất lãi, có trả nợ không biết bao giờ mới xong, nên tính một kế sách mới được.” Ông ta liền cầm một viên ngọc quý đi đến gặp vợ quan Bình sự thưa:
– Thưa phu nhân, tôi vốn có vay ông Thi-la- thế-chất một ít tiền, bây giờ con ông ta đòi tôi phải trả. Hôm nay tôi đem đến một viên ngọc quý, giá trị mười vạn nếu bà nói với quan Bình sự làm nhân chứng cho tôi đắc kiện, thì viên ngọc này thuộc về bà.
Bà vợ quan Bình sự nói:
– Ông trưởng giả nhà tôi thành tín, trung trực, ắt không chịu việc như vậy đâu, để tôi nói thử xem.
Bà liền nhận viên ngọc ấy. Quan Bình sự đến tối về nhà, bà đem chuyện đó thưa, trưởng giả nói:
– Làm sao có việc đó, vì tôi trung tín chẳng nói dối nên đức vua mới cử tôi làm chức Quốc bình sự, nếu một lời nói dối thì sự việc này không thể làm được. Ngày mai, ông lái buôn đến, bà phải trả lại viên ngọc đó.
Bấy giờ người lái buôn đưa thêm một viên ngọc nữa giá trị hai mươi vạn và thưa rằng:
– Xin bà giúp đỡ! Đây là việc nhỏ, chỉ nói một lời mà được ba mươi vạn, nếu cậu ta thắng kiện, dù là cháu ruột của ông, bà cũng không có được một đồng, sự việc này đã rõ ràng như vậy rồi.
Bấy giờ người đàn bà này ham thích châu báu, liền nhận nó. Đến tối, bà thưa với chồng như sự việc hôm qua, nếu sự việc xong xuôi thì mọi việc đều như ý. Vị trưởng giả nói:
– Dứt khoát không có lý như vậy, tôi là một người đáng tin, được làm quan Bình sự nếu nói dối thì đời này mọi người không tin tôi, đời sau phải thọ đau khổ vô lượng kiếp.
Lúc bấy giờ, trưởng giả có một đứa con trai chưa biết đi. Bà vợ ông khóc lóc nói:
– Tôi với ông kết nghĩa vợ chồng, nếu có việc cùng chết cũng không trái nhau, huống đây là một việc nhỏ, tôi hết lời thẳng thắn nói với ông mà ông không chịu nghe theo thì tôi còn sống làm chi nữa. Nếu ông không giúp tôi việc này thì trước tiên tôi sẽ giết đứa con, rồi sau đó tôi tự sát.
Vị trưởng giả nghe như thế, cũng thí như người nuốt vào không được mà ói ra cũng không xong, thầm nghĩ: “Ta chỉ có một đứa con trai, nếu nó chết thì gia tài giao phó cho ai, còn nếu nghe theo lời bà ấy thì sẽ không được người đời tín dụng, tương lai phải thọ vô lượng khổ não.” Bứt rứt mãi không thôi, đành phải chìu theo bà vợ. Vợ ông vui mừng nói với người lái buôn:
– Trưởng giả đã nhận lời!
Người lái buôn nghe rồi vui vẻ hớn hở về nhà, trang sức một thớt voi lớn, treo các thứ châu báu, mặc y báu lớn, cỡi voi vào chợ. Người con của vị trưởng giả thấy vậy lòng thầm vui mừng nói:
“Người đó nay ắt đã giàu nên cỡi voi mặc phục sức như thế, hôm nay ta được trả lại tiền rồi”, bèn đi đến nói:
– Tất-bạt, ông nên biết, trước kia ông vay tiền cha tôi, nay nên hoàn trả lại cho tôi.
Người lái buôn kinh ngạc nói:
– Tôi đâu có nhớ vay tiền lúc nào cả, nếu có vay phải có ai làm người chứng kiến chứ?
Người con trưởng giả nói:
– Ngày đó, tháng đó, cha tôi và tôi cho ông mượn tiền, quan Bình sự sẽ vì tôi làm người chứng kiến, duyên cớ gì mà ông nói không có?
Người lái buôn nói:
– Tôi nay không nhớ, giả sử việc này có thật, thì phải hoàn trả lại, nhưng cũng phải cùng nhau đến chờ quan Bình sự làm chứng.
Người con trưởng giả nói:
– Ngày trước người này gần gũi cha con vay một số tiền như thế, bác đã làm nhân chứng, con cũng trông thấy, sự việc có đúng như vậy không?
Đáp:
– Không biết.
Người cháu kinh ngạc nói:
– Bây giờ bác phán xét là không nghe thấy, không có lời nói đó, sự việc ấy bác không có dùng tay chỉ vào số bạc chăng?
Đáp:
– Không!
Người cháu nổi giận nói:
– Bác là người trung lương, nhà vua mới cử bác làm quan Bình sự quốc, mọi người đều tín dụng. Tôi là cháu ruột mà bác xử phi pháp như thế, huống nữa là người ngoài, bác xử oan uổng biết chừng nào! Việc này hư thật, người đời sau sẽ biết.
Nói đến đây, Đức Phật bảo vị trưởng giả:
– Quan Bình sự trưởng giả thuở xưa nay chính là Man-tư-tỳ-lê không mắt tai (hỗn độn) ngốc nghếch như vậy. Bởi một lời nói dối nên đọa địa ngục, thọ nhiều khổ độc, ra khỏi địa ngục trong năm trăm kiếp chịu mang thân hình ngốc nghếch như vậy. Do ngày trước cũng hay làm việc bố thí, nên thường sinh vào nhà giàu có, làm chủ tài sản quả báo lành dữ, dù cho bao lâu kiếp cũng không phai được. Vì thế các vị cần nên tinh tấn giữ gìn thân, khẩu, ý, đừng tạo nghiệp ác.
Lúc bấy giờ đại chúng nghe Đức Phật thuyết xong, có người chứng được Sơ quả đến Tứ quả, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, không ai mà chẳng vui mừng đảnh lễ Đức Phật vâng lời.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ hoàn, vườn
Kỳ-đà Cấp cô độc, cùng với chúng đại Tỳ-kheo vây quanh nghe Phật thuyết pháp.
Lúc bấy giờ, trong nước có một vị trưởng giả. Vợ ông mang thai sinh một đứa con gái dung mạo đoan chính, sắc đẹp lạ thường. Khi sinh ra, đã có một miếng lụa trắng quấn quanh thân mình. Cha mẹ thấy thế bèn mời thầy đến bói tướng. Thầy tướng nói:
– Rất tốt, có phước đức rất lớn.
Nhân đó đặt tên đức bé là Thúc Ly. Khi Thúc Ly trưởng thành thì miếng lụa cũng lớn theo thân. Cô rất xinh đẹp, nên trong nước xa gần tranh nhau đến cầu hôn. Cha mẹ cô thầm nghĩ: “Con gái tuổi đã lớn, phải nên gả chồng.” Họ liền nhờ một người thợ làm một xâu chuỗi anh lạc. Thúc Ly thấy thế hỏi cha:
– Làm thứ vàng bạc này để làm gì? Người cha nói:
Con đã lớn tuổi muốn gả chồng cho con, nên cha làm xâu chuỗi này.
Cô gái thưa cha rằng:
– Con muốn xuất gia, không muốn đi lấy chồng.
Cha mẹ thương con nên không muốn trái ý, bèn tìm một xấp vải để may y. Đứa con gái thấy thế lại hỏi:
– Cha làm việc gì thế?
Đáp:
– May y áo cho con.
Cô thưa cha mẹ rằng:
– Tấm vải con đang mặc đây là đủ rồi, không cần phải làm thêm nữa, chỉ mong cha dẫn con đến nơi Đức Phật ngự.
Cha mẹ cô liền dẫn cô đến nơi Đức Phật cúi đầu làm lễ cầu xin xuất gia cho con. Đức Phật nói:
– Thiện lai!
Tự nhiên tóc trên đầu cơ rơi rụng, tấm lụa trên mình biến thành ca-sa ngũ điều. Đức Phật giao cô cho bà Đại Ái Đạo làm Tỳ-kheo-ni. Cô tu hành tinh tấn, chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán.
Ngài A-nan thấy thế bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni Thúc Ly, vốn gieo trồng công đức gì nay được sinh vào nhà trưởng giả. Khi sinh đã có mảnh lụa quấn thân, xuất gia không bao lâu thì chứng quả A-la-hán?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông nói về việc đó.
A-nan thưa:
– Vâng, con xin lắng nghe. Đức Phật nói:
Vào đời quá khứ lâu xa, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, cùng các đệ tử du hóa rộng độ tất cả. Thời bấy giờ vua quan, dân chúng thiết trai cúng dường rất đông và mở đại hội thỉnh Đức Phật thuyết pháp.
Có một vị Tỳ-kheo thường đi khuyến hóa, khuyên mọi người đến nơi Đức Phật nghe pháp, bố thí. Lúc bấy giờ có người con gái tên Đàn-nhị-già rất nghèo khốn, hai vợ chồng chỉ dùng chung có một mảnh vải, nếu chồng đi ra ngoài thì dùng vải ấy mà đi, còn người vợ trần truồng ngồi trong đống cỏ khô. Nếu người vợ dùng tấm vải đi ra ngoài xin ăn thì người chồng cũng chịu trần truồng như thế. Vị Tỳ-kheo đi khuyến hóa lần lượt đi đến nhà cô, trông thấy người nữ, nhân đó khuyên:
– Đức Phật ra đời rất khó gặp, kinh pháp rất khó được nghe, thân người khó được, cô nên đến nghe pháp, cô nên bố thí và rộng nói về quả báo của xan tham, bố thí...
Người nữ bạch rằng:
– Xin Đại đức chờ giây lát.
Cô trở vào nhà, nói với chồng:
– Bên ngoài có một vị Sa-môn khuyên em nên gặp Phật, nghe pháp và bố thí. Em nghĩ có lẽ đời trước không chịu bố thí cho nên đời này nghèo khổ, bây giờ phải làm cách gì để gieo nhân lành cho đời sau.
Người chồng nói:
– Nhà chúng ta nghèo khốn như vầy, dù có tấm lòng, nhưng biết lấy gì để bố thí bây giờ?
Người vợ nói:
– Đời trước không bố thí nên đời này khốn khổ, bây giờ lại không gieo nhân, thì đời sau không biết sinh vào chốn nào. Anh nên nghe em, chúng ta quyết bố thí.
Người chồng thầm nghĩ: “Hay là vợ mình có chút ít của riêng, thôi ta nên nghe theo”, liền nói với vợ:
– Em muốn bố thí thì cứ bố thí.
Cô nói:
– Ý em muốn dùng tấm vải này để bố thí. Người chồng nói:
– Anh và em chỉ có một tấm vải để dùng chung, đi ra vào xin ăn cũng nhờ nó mà duy trì cuộc sống, hôm nay nếu đem đi cúng thí đều phải đành chịu chết sao? Xin em nên tìm cách nào khác.
Người vợ nói:
– Đời người ai cũng chết, nếu nay không cúng thí rồi cũng sẽ chết, thà cúng thí mà chết thì còn hy vọng ở đời sau, còn không cúng thí mà chết, đời sau biết nương cậy vào đâu.
Người chồng vui vẻ nói:
– Chúng ta giữ lấy phần chết đem cúng thí cầu phước lành.
Người vợ liền trở ra, bạch vị Tỳ-kheo rằng:
– Đại đức xin ngài đứng dưới mái nhà, con sẽ bố thí.
Vị Tỳ-kheo đáp:
– Nếu người muốn thí nên đối mặt mà cúng thí, tôi sẽ vì cô mà chú nguyện.
Thúc Ly (Đàn-nhị-già) thưa:
– Tôi chỉ có tấm vải này, trong đây không có vật gì khác. Thân thể người nữ xấu ác không nên ra khỏi đây.
Cô liền trở vào trong, cởi tấm vải trên thân, đưa ra ngoài cho vị Tỳ-kheo. Vị Tỳ-kheo chú nguyện và đem về nơi Đức Phật ngự. Đức Phật bảo vị Tỳ- kheo đem tấm vải đến đây. Tỳ-kheo đưa cho Đức Phật, tự tay Đức Phật nhận tấm vải ô uế.
Bấy giờ vua chúa và đại chúng ai cũng có tâm chê trách Đức Phật thọ nhận tấm vải nhơ bẩn đó. Đức Phật biết tâm đại chúng nên nói với họ:
– Ta xem trong đại hội này, bố thí thanh tịnh không ai hơn người cúng thí tấm vải này.
Đại chúng nghe rồi không ai không tỏ vẻ sợ hãi. Các bà phu nhân vui mừng cởi đồ trang sức đang đeo trên thân, chuỗi anh lạc, y báu... đem cho vợ chồng Đàn-nhị-già. Đức vua cũng hoan hỷ, cởi y phục trên thân, tặng cho chồng cô Đàn-nhị-già và ra lệnh những người đến dự hội của Đức Phật Tỳ- bà-thi, nên rộng vì đại chúng thuyết pháp vi diệu. Lúc bấy giờ, đại chúng tham dự hội được độ rất nhiều.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, nên biết, người đàn bà nghèo khổ tên Đàn-nhị-già đó chính là tiền thân của Tỳ-kheo- ni Thúc Ly ngày nay. Do đời trước dùng tâm thanh tịnh cúng thí tấm vải, nên chín mươi mốt kiếp, sinh ra bất cứ nơi nào vị ấy đều có được tấm vải che thân cùng sinh ra. Do vui mừng được gieo duyên với Đức Phật đó, nghe pháp sâu xa vi diệu, cầu mong giải thoát, nên kiếp này gặp được Ta, thành A-la-hán. Cho nên các ông phải cần tinh tấn nghe pháp, bố thí.
Lúc Đức Phật thuyết xong chuyện tiền kiếp này, người trong chúng đắc đạo, không ai chẳng vui mừng kính lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở nước Lê-đề. Bấy giờ, trong nước đó có một vị trưởng giả giàu có, nhiều của báu nhưng rất xan tham bạo ác, không có lòng từ. Ông có một nô tỳ bắt ngày đêm hầu hạ không được nghỉ ngơi, làm việc có chút gì trái ý thì bị ông dùng roi đánh đập, áo mặc không đủ kín thân, cơm ăn không đủ no bụng, tuổi già sức yếu tiều tụy, muốn chết cũng không được. Lúc đó bà ôm một cái bình đi đến bờ sông lấy nước, suy nghĩ đến cuộc đời nghèo khổ mà khóc òa thành tiếng. Bấy giờ ngài Ca-chiên-diên nhân đi hóa duyên, thấy thế đến chỗ bà lão hỏi:
– Bà lão vì sao đau buồn khóc lóc, áo não như thế?
Bà thưa:
– Thưa Tôn giả, tôi tuổi đã già, hàng ngày phục dịch cực nhọc, lại thêm nghèo khốn, ăn mặc không đủ, muốn chết cũng không được, cho nên tôi đau khổ mà khóc.
Ngài Ca-chiên-diên nói:
– Nếu như bà nghèo khổ vì sao không bán cái nghèo đi!
Bà lão nói:
Cái nghèo làm sao có thể bán? Ai dám mua cái nghèo?
Ngài Ca-chiên-diên nói:
– Cái nghèo thật sự có thể bán.
Ngài nói như vậy đến ba lần. Bà lão thưa:
– Giả sử cái nghèo có thể bán, tôi xin được phép hỏi Đại đức, cái nghèo làm sao bán được?
Ngài Ca-chiên-diên nói:
– Nếu bà muốn bán hãy nghe theo lời ta nói. Đáp:
– Thưa vâng!
Ngài Ca-chiên-diên bảo:
– Trước tiên bà nên tắm gội sạch sẽ, tắm rửa xong bà nên làm việc bố thí.
Bà lão nói:
– Thưa Tôn giả, tôi rất nghèo cùng, như nay thân tôi đây, trong tay không có chút của cải gì, chỉ có một cái bình này mà nó là của ông chủ tôi, thì làm sao mà bố thí?
Ngài trao bình bát nói:
– Bà cầm bình bát này đi lấy chút nước sạch đem đến dâng ta.
Ngài Ca-chiên-diên thọ nhận và chú nguyện, kế đến dạy bà ăn chay, rồi sau đó dạy niệm Phật, gieo trồng công đức, rồi hỏi bà có chỗ ở không?
Bà đáp:
– Không! Nếu lúc tôi xay lúa thì nằm ngủ bên cối xay, dọn dẹp sạch làm chỗ nằm trong đó, hoặc lúc không làm việc thì nằm ngủ bên cạnh các đống phân trâu.
Ngài Ca-chiên-diên nói:
– Bà nên giữ tâm cung kính cẩn thận lo việc hầu hạ, chớ sinh lòng hiềm thù oán hận. Chờ mọi người trong nhà ông chủ đi ngủ xong, bà lặng lẽ mở cửa ra ngoài dùng cỏ sạch trải làm chỗ ngồi tư duy quán Phật, chớ sinh niệm ác.
Bấy giờ bà lão vâng lời dạy trở về nhà theo lời dạy mà làm. Trong đêm hôm đó, bà lão qua đời và được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Sớm mai mọi người trong nhà thức dậy thấy bà lão đã chết, nổi giận nói:
– Bà già thường ngày không chịu nghe lời vào trong nhà ngủ, tối hôm qua vì nguyên nhân gì mà chết ở đây!
Họ bèn sai gia nhân dùng cỏ buộc chân cẳng lại lôi đem bỏ trong rừng lạnh. Lúc đó trên cõi trời Đao-lợi có một vị Thiên tử có năm trăm trời quyến thuộc, nơi đó cung điện trang nghiêm tráng lệ. Bấy giờ vị Thiên tử ấy phước hết mạng chung, bà lão này liền được thay vào ngôi vị đó. Theo pháp sinh Thiên, người lợi căn tự biết nhân duyên đời trước, còn người độn căn chỉ biết thọ lạc. Bấy giờ bà lão này đã sinh lên cõi trời, cùng năm trăm Thiên tử vui hưởng dục lạc, không biết nguyên nhân đời trước. Lúc đó ngài Xá-lợi-phất ở cõi trời Đao-lợi, biết được nhân duyên của vị Thiên tử này, hỏi rằng:
– Thiên tử, ngài tạo nhân phước gì mà được sinh lên cõi trời này thế?
Đáp:
– Không biết.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho vị trời mượn đạo nhãn của ngài để quán thấy nhân duyên sinh lên trời: Do ngài Ca-chiên-diên dạy bảo mà được sinh làm quyến thuộc cùng năm trăm Thiên tử. Vị trời bèn đến khu rừng lạnh, rải hoa đốt hương, cúng dường tử thi, ánh sáng hào quang của chư Thiên chiếu sáng khắp thôn xóm rừng rậm. Mọi người trông thấy biến tướng ngạc nhiên, không biết nguyên nhân gì, ra lệnh mọi người xa gần đến khu rừng xem, trông thấy các Thiên tử cúng dường tử thi, liền hỏi:
– Bà già nô tỳ này bẩn thỉu hôi thối, lúc còn sống là người ác kiến, huống nay đã chết, vì sao các ngài lại còn cúng dường?
– Bà lão, bấy giờ là Thiên tử, bèn nói ngọn nguồn nhân duyên sinh lên cõi trời, rồi đều dẫn đến nơi ở của ngài Ca-chiên-diên. Bấy giờ, ngài Ca- chiên-diên vì các chư Thiên rộng nói các pháp về luận bố thí, trì giới, sinh Thiên..., muốn lìa pháp bất tịnh, xuất ly là an lạc.
Lúc ấy vị Thiên tử đó và năm trăm vị Thiên tử xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, bay trở lại cung trời. Người đến nghe pháp lúc đó rồi ai nấy đều được dấu vết đạo, cho đến quả A-la-hán, không ai chẳng vui mừng đảnh lễ, cung kính vâng làm, kính lễ rồi lui ra.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, trong nước ấy có một vị trưởng giả giàu có vô cùng, của cải châu báu vô số, sinh được một đứa con trai, thân thể màu vàng. Trưởng giả vui mừng, mở bày hội tiệc, mời các thầy tướng bói xem tốt xấu thế nào. Bấy giờ các thầy tướng bồng đứa bé xem kỹ, trông thấy tướng lạ của nó, vui mừng không gì bằng, bèn đặt tên là Tu-việt-da-đề- bà (đời Tần dịch là Kim Thiên).
Đứa trẻ đó rất có phúc đức, tính nết thuần hậu. Ngày sinh ra nó, trong nhà tự nhiên nứt ra một cái giếng nước, ngang rộng tám thước, sâu cũng như vậy. Nước giếng cung cấp tiêu dùng có thể được như ý người ta, cần áo quần thì tung ra áo quần, cần thức ăn thì có ra thức ăn, vàng bạc châu báu, mọi thứ cần dùng đều được lấy như ý muốn tại cái giếng đó. Đứa bé ngày càng lớn lên, tài nghệ tinh thông, vị trưởng giả rất thương yêu nó, không dám làm điều gì nghịch ý nhưng lại nghĩ: “Con ta đoan chính, dung mạo không ai bằng, phải nên tìm kiếm tuyển chọn một cô gái đẹp dung nhan, đức hạnh hơn người, thân thể vàng ánh giống như con trai ta.” Ông liền nhờ những người đi buôn tìm kiếm khắp nơi.
Lúc bấy giờ, ở nước Diêm-ba có một vị đại trưởng giả sinh được một người con gái tên là Tu- bạt-na-bà-tô (đời Tần dịch là Kim Quang Minh), tướng mạo đoan chánh phi phàm, thân thể vàng chói, da dẻ mịn màng sáng bóng. Ngày mới sinh ra cũng tự nhiên nứt ra một cái giếng sâu rộng tám thước, giếng ấy cũng có thể vọt ra các thứ châu báu, y phục, các thức ăn uống tùy theo ý muốn người ưa thích. Vị trưởng giả đó cũng tự nghĩ: “Con gái ta đoan chánh, trong người ánh lên màu sắc vi diệu, phải được một hiền sĩ hình sắc sáng sủa, giống như con gái ta, ta mới gả cho cùng làm vợ chồng.”
Bấy giờ tiếng tăm cô gái vang khắp đến nước Xá-vệ và danh của Kim Thiên cũng lại thấu đến nhà cô gái nghe được. Hai vị trưởng giả đều rất vui mừng, đôi bên đến nhau cầu lễ, thành hôn. Lễ cưới xong trở về nước Xá-vệ. Bấy giờ nhà Kim Thiên bèn thiết trai cúng dường Đức Phật và chúng Tăng một ngày. Đức Phật nhận lời mời đến tại nhà dùng cơm. Sau khi dùng cơm xong cất bát, Ngài vì vị trưởng giả và vợ chồng Kim Thiên diễn thuyết pháp âm vi diệu khai mở tâm trí họ. Vợ chồng Kim Thiên và cha mẹ liền cùng lúc phá sạch hai mươi ức ác duyên, tâm trí mở sáng, chứng quả Tu-đà- hoàn. Khi Đức Thế Tôn trở về tinh xá thì Kim Thiên và Kim Quang Minh thưa với cha mẹ cầu xin xuất gia. Cha mẹ liền chấp nhận và cùng đến nơi Đức Phật ngự, cúi đầu dưới chân Đức Phật làm lễ nhiễu quanh xong, cầu xin nhập đạo. Đức Phật nghe xong nhận lời, khen rằng:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc họ tự nhiên rơi rụng hết, áo đang mặc trên mình bèn biến thành ca-sa, làm Sa-môn. Khi đó, Kim Thiên ở bên chúng Tỳ-kheo, còn Kim Quang Minh làm Tỳ-kheo-ni gởi cho bà Đại Ái Đạo giáo hóa, tu hành không bao lâu đều chứng quả A-la-hán, Tam minh, Lục thông, Bát giải thoát, tất cả công đức đều được đầy đủ.
Ngài A-nan bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, vợ chồng Kim Thiên vốn tạo công đức gì, từ khi sinh ra cho đến nay được nhiều của báu, thân thể sắc vàng, đoan chính đệ nhất, được một cái giếng có thể biến ra tất cả mọi thứ. Cúi mong Như Lai nói bày đầy đủ.
Đức Phật bảo A-nan:
– Cách đây chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Đức Phật đã diệt độ, nhưng chánh pháp còn trụ ở đời, về sau có các Tỳ- kheo du hành giáo hóa đến một thôn xóm. Có các nhân dân, hào hiền trưởng giả thấy chúng Tăng đến họ đều tranh nhau cúng dường nào y phục, các thức ăn uống, không để cho thiếu thốn. Bấy giờ có hai vợ chồng nghèo đói khốn khổ, thầm nghĩ: “Khi cha mẹ ta còn sống giàu có, của cải chất đầy kho vô lượng, nay thân ta nghèo khốn vô cùng, nằm ngồi đều trên chiếc chiếu cỏ, áo mặc không đủ kín tấm thân, trong nhà không có một đấu gạo, gieo nhân gì mà khổ đến thế? Lúc giàu sang, của báu vô lượng thì không gặp được các bậc Thánh tăng, hôm nay đã gặp được thì không có tiền để cúng dường.”
Suy nghĩ như vậy rồi người chồng đau buồn mà khóc, nước mắt chảy rớt xuống cánh tay người vợ.
Vợ thấy chồng khóc nên hỏi:
– Có điều gì không thích hợp mà anh đau buồn như thế?
Người chồng bèn nói với vợ:
– Em không biết sao, hôm nay có chúng Tăng vừa đi qua thôn này, các nhà cư sĩ hào hiền tranh nhau cúng dường, nhà chúng ta nghèo thiếu, không có một đấu gạo thì làm sao gieo trồng duyên lành với chúng Tăng đây. Đời này nghèo khổ, kiếp sau lại nghèo khổ nữa, anh suy nghĩ như vậy nên đau buồn mà khóc.
Người vợ nói:
– Bây giờ nên tìm cách gì để được cúng dường, không có tiền bạc, chỉ có tấm lòng thì làm sao được toại nguyện. Anh đi vào tìm kiếm trong nhà coi chỗ cất để tiền bạc, may ra còn được đồng nào thì đem đi cúng dường.
Lúc ấy người chồng nghe lời đến chỗ hay cất giấu tiền bạc, tìm kiếm khắp nơi được một đồng tiền vàng, đem đến nơi vợ, người vợ có một tấm gương sáng, rồi cùng hợp tâm vào việc cúng dường chúng Tăng, mua một cái bình mới, đựng đầy nước sạch, đem đồng tiền vàng bỏ vào bình nước, lấy tấm gương đậy trên miệng bình, mang đến nơi chư Tăng ở. Đến nơi rồi, chí tâm dùng của này cúng dường chư Tăng, chư Tăng liền nạp thọ, mỗi vị lấy nước dùng để rửa bát, lại có vị dùng nước ấy để uống. Bấy giờ hai vợ chồng ấy rất là vui mừng, làm được việc phước xong, sau này mạng chung, sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Đức Phật bảo A-nan:
– Hai vợ chồng nghèo khổ đem một bình nước cúng dường chúng Tăng. Lúc đó chính là vợ chồng Kim Thiên đời nay vậy. Do đời trước đem một đồng tiền vàng, một bình nước và một tấm gương sáng, cúng dường chúng Tăng, cho nên đời đời sinh ra dung mạo đoan chánh, thân hình sắc vàng óng ánh, dung nghi tươi đẹp vô cùng, trong chín mươi mốt kiếp sinh ra đều được như thế. Thuở ấy, có tâm tin kính cho nên được lìa sinh tử, đạt được Ứng chân.
A-nan nên biết, tất cả phước đức không thể không làm, như hai vợ chồng nghèo khổ kia, dùng ít của bố thí, cúng dường mà được phước báo vô lượng như vậy.
Bấy giờ ngài A-nan và đại chúng nghe Đức Phật nói xong, ai nấy đều ham làm việc bố thí, siêng năng tạo thêm phước nghiệp, vui mừng vâng theo lời dạy.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Trong nước thời đó có một vị trưởng giả giàu có, của cải vô lượng, nhưng không có con trai. Mỗi khi mang thai, vợ chồng đều cầu đảo thần miếu xin một đứa con trai, vì lòng thành kính khấn nguyện, bà vợ mang thai, ngày tháng tròn đủ, sinh được một cậu con trai. Đứa trẻ tướng mạo đoan chánh, hiếm có trên đời. Cha mẹ thân quyến bày ra yến tiệc, cùng nhau hội tụ bên bờ sông lớn, uống rượu ca hát vui đùa. Cha mẹ ôm con cũng đi đến nơi hội tiệc ấy, người cha yêu mến đứa con, bế lên nhảy múa, nhảy múa xong, lại trao con cho bà. Người mẹ vì lo vui mừng ca múa đến sát bờ sông, do không thận trọng, bế con không chặt, sẩy tay đánh rơi cậu bé xuống nước. Lúc đó xuống mò tìm kiếm mà không vớt được, ông bà thương tiếc con, đau đớn ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại. Đứa trẻ có phước đức, cuối cùng lại không chết. Rớt xuống dòng sông, theo nước trôi đi, có một con cá nuốt được đứa bé này, tuy ở trong bụng cá mà vẫn không chết, khi ấy ở một thôn nhỏ hạ lưu, có một người nhà giàu cũng không con trai, cũng luôn luôn cầu nguyện mà vẫn không được. Người nhà giàu đó, thường sai một gia nô bắt cá đem bán. Lúc đó, bắt được một con cá to, mổ bụng ra xem, được một đứa nhỏ diện mạo đoan chánh. Ông rất vui mừng, ôm đem cho mọi người xem và mừng rỡ nói:
– Từ lâu, tôi đã cầu nguyện miếu thần, đến hôm nay mới được đứa con, lòng thành được báo ứng, nên trời mới cho tôi.
Ông liền nhờ một người vú cho nó bú mớm. Bấy giờ ở thôn trên, ông bà trưởng giả nghe nói ở thôn dưới, có vị trưởng giả nọ bắt được con cá, mổ bụng cá trong đó có một đứa nhỏ, vội vã đi đến nơi đó tìm kiếm con, mà nói:
– Đây là con tôi do ở bên bờ sông kia làm rớt đứa bé, hôm nay, ông được nó xin cho tôi được mang về.
Bấy giờ vị trưởng giả đó nói:
– Nhà tôi từ nào đến giờ cầu thần, cầu tự, nay thần mới báo ứng ban cho một đứa con, ông mất đứa con ở tại chỗ nào.
Sự việc rối ren, mãi không xong, bèn đến nhờ đức vua xử đoán, lúc đó hai nhà đều có lý riêng, cha mẹ đứa nhỏ nói là con tôi, ngày giờ đó, tôi sẩy tay rớt dưới sông. Còn vị trưởng giả kia lại nói:
– Tôi được đứa nhỏ từ trong bụng con cá, đây thật sự là con tôi, không phải vợ ông sinh ra.
Đức vua nghe nói thế, liền biết rõ mọi việc, giải quyết cho hai nhà cùng nhận nuôi một đứa con. Nếu nay cho một nhà, thì về lý không thể được, cho nên cùng chung nuôi dưỡng. Đến lúc nó trưởng thành, mỗi nhà cưới cho nó một người vợ, an trí gia nghiệp, sống luôn hai nơi. Vợ bên này sinh con tức thuộc nhà bên này, vợ nhà bên kia sinh con tức thuộc nhà bên kia. Lúc đó, hai vị trưởng giả đều vâng theo lời vua, đứa nhỏ lớn lên cả hai bên cùng cưới vợ, cung cấp đồ dùng không cho thiếu thốn. Bấy giờ đứa con ấy thưa với cha mẹ hai bên:
– Khi con sinh ra gặp phải nạn khổ rớt xuống sông bị cá nuốt, thoát chết được sống lại, nay ý muốn của con muốn được xuất gia, chỉ mong hai cha mẹ đồng cho phép con.
Khi đó hai bên cha mẹ lòng yêu mến con, không thể nghịch chống lại, bèn cho phép. Đứa con liền từ giã đến nơi Đức Phật ngự, cúi đầu dưới chân Phật, cầu xin vào đạo. Đức Phật nhận lời, khen rằng:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc chàng tự rụng, trở thành Sa-môn, đặt tên là Trọng Tánh. Đức Phật vì Trọng Tánh thuyết pháp được dứt hết các khổ, chứng quả A-la-hán.
Ngài A-nan bạch Đức Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Trọng Tánh này vốn tạo nhân hạnh gì, trồng căn lành gì mà đời này sinh ra bị rớt xuống sông cá nuốt mà không chết?
Đức Phật bảo A-nan:
Ông nên lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Về kiếp quá khứ lâu xa, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ- bà-thi, tập hợp đại chúng mà thuyết diệu pháp. Bấy giờ có một vị trưởng giả đến ở trong hội nghe, Đức Như Lai ấy rộng nói đại pháp về phước bố thí và phước trì giới. Nghe xong vị trưởng giả vui mừng lòng tin dũng mãnh, liền theo Đức Phật đó thọ Tam quy và thọ giới chẳng sát sinh, lại lấy một đồng tiền cúng dường cho Đức Phật đó. Do nhân duyên ấy, đời đời thọ phước, tiền bạc của báu, tự nhiên có không bị thiếu thốn.
Đức Phật bảo A-nan:
– Nên biết vị trưởng giả thuở xưa, nay chính là Tỳ-kheo Trọng Tánh vậy. Do thuở xưa cúng thí Đức Phật một đồng tiền, mà trong chín mươi mốt kiếp sinh ra, thường được tiền tài, cho đến đời nay, hai nhà cha mẹ cung cấp đồ dùng, do thọ giới không sát sinh mà bị rớt xuống sông, cá nuốt không chết. Vì thọ Tam quy, nay được gặp Ta, tắm gội pháp hóa, đắc quả A-la-hán.
Bấy giờ ngài A-nan và đại chúng nghe Đức Phật nói thế, vâng tu hạnh lành, kính trọng Phật dạy, vui mừng tín thọ, đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà
Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng các đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người hội về đó. Lúc ấy, trong nước có năm trăm đứa trẻ ăn xin, thường theo Đức Phật và chúng Tăng xin ăn để sống, trải qua nhiều năm, chán nản, suy nghĩ: “Lũ chúng ta tuy nương nhờ phước báo của chư Tăng được kéo dài mạng sống mà việc khổ cứ càng nhiều, ngày nay chúng ta thà rằng theo Đức Phật cầu xin xuất gia.” Chúng bèn cùng nhau đi đến chỗ Phật và đồng thưa với Phật:
– Đức Như Lai ra đời rất là khó gặp, chúng con sinh ở nơi hạ tiện, nhờ ân cao cả cứu giúp thân mạng. Chúng con ham muốn được xuất gia, kính mong Thế Tôn, việc ấy có được hay không?
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với bọn trẻ ăn xin:
– Pháp của Ta thanh tịnh, không có phân biệt sang hèn. Thí như nước sạch dùng rửa các thứ bất tịnh, dù sang hay hèn, tốt hoặc xấu, nam hay nữ, nước có thể rửa cả không thứ chi chẳng sạch. Lại cũng giống như lửa, đến nơi nào, thì núi sông vách đá, tất cả vạn vật có trong trời đất đều bị nó thiêu cháy cả. Giáo pháp của Ta cũng như hư không, trai gái lớn nhỏ, giàu nghèo sang hèn, ai cũng có thể vào được.
Bấy giờ bọn trẻ ăn xin nghe Đức Phật nói thế đều vui mừng, lòng tin mạnh lên gấp bội, thành tâm hướng về Đức Phật cầu xin nhập đạo. Đức Thế Tôn bảo:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Tóc xanh rơi rụng, pháp y mặc trên thân, trở thành hình tướng Sa-môn. Đức Phật vì họ thuyết pháp tâm khai ý giải, dứt hết các lậu, thành A-la- hán. Lúc đó các trưởng giả, thứ dân trong nước... hay tin Đức Phật cho những đứa ăn mày xuất gia nhập đạo, đều khởi lòng khinh mạn mà nói rằng:
– Tại sao Như Lai nhận những đứa trẻ ăn xin hạ tiện đứng vào trong hàng Tăng chúng. Chúng ta có làm việc phước, thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường trai phạn, làm sao có thể khiến cho bọn hạ tiện này ngồi trên giường chiếu của nhà ta và dùng những thức ăn của ta.
Bấy giờ thái tử Kỳ-đà sửa soạn trai phạn cúng dường thỉnh Đức Phật và chúng Tăng, bèn sai người đến bạch Phật:
– Kính mong Đức Thế Tôn chứng minh thọ nhận con thỉnh mời cùng với chư Tỳ-kheo Tăng.
Nhân tiện thái tử bạch Phật:
– Những đứa trẻ ăn mày vừa làm Tỳ-kheo, chúng con không thỉnh, xin chớ đi đến.
Đức Phật bèn nhận lời thỉnh. Giờ cơm ngày mai Đức Phật và chúng Tăng đã được cung thỉnh. Đức Phật bảo các đứa trẻ ăn mày Tỳ-kheo:
Hôm nay Ta và chư Tăng được thỉnh đi phó trai, các người không có được mời nên đừng đến, hãy đi đến xứ Uất-đa-la-việt lấy lúa tẻ chín tự nhiên rồi trở về (nhà) cùng thái tử theo thứ tự mà ngồi ăn thứ gạo lúa tẻ ấy.
Bấy giờ chư Tỳ-kheo theo lời dạy liền dùng Thần túc thông của La-hán bay đến thế giới đó mỗi người tự lấy đầy bát trở về, giữ gìn oai nghi theo thứ tự từ trên hư không mà hạ xuống, giống như đàn chim nhạn bay đến vương cung của thái tử Kỳ- đà, theo thứ tự ngồi nghiêm chỉnh và dùng thức ăn ấy.
Bấy giờ thái tử trông thấy chúng Tỳ-kheo uy nghi tiến chỉ, thần thông phúc đức, tâm vui mừng cung kính khen ngợi chưa từng có mà bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, các vị Hiền thánh Đại đức này từ đâu đến mà uy thần to lớn, đầy đủ các tướng rất đáng kính phục. Kính mong Như Lai vì con nói về những vị này, nhân duyên ngọn ngành như thế nào?
Đức Phật bảo:
– Này Kỳ-đà, nếu ông muốn biết, vậy hãy khéo lắng nghe suy nghĩ, Ta sẽ vì ông mà nói. Các Tỳ- kheo này, chính ngày hôm qua ông không chịu thỉnh, Ta và chúng Tăng muốn họ đến để được thái tử mời. Các Tỳ-kheo này vì không được thỉnh, nên đã đi qua xứ Uất-đa-la-việt lấy gạo lúa tẻ tự nhiên về dùng đấy.
Bấy giờ thái tử Kỳ-đà nghe nói như thế, ôm lòng xấu hổ, buồn rầu tự than:
– Con bị ngu si che đậy mất, không phân biệt được sáng tối.
Lại nói:
– Công đức Thế Tôn thật khó nghĩ bàn, ngày nay được thọ pháp hóa thấm nhuần, hiện đời được thân phước an lạc, lại mãi mãi kiếp sau đạt được vô vi an lạc. Như Lai ngày nay sở dĩ đến đây chỉ vì những đứa trẻ này không ngoài việc gì khác. Những vị này kiếp trước gieo trồng hạnh lành gì, tu công đức gì mà đời này gặp được Thế Tôn đặc biệt tế độ. Lại tạo lỗi gì mà từ khi sinh ra đến nay phải chịu đi ăn mày khốn khổ đến thế? Kính mong Thế Tôn từ mẫn chỉ bày cho con thấy được điều ấy.
Đức Phật bảo:
– Nếu ông muốn biết nên khéo lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà giải nói đầy đủ ngọn ngành việc ấy.
Thái tử nói:
– Dạ, con xin lắng nghe! Bấy giờ Đức Thế Tôn nói:
Này Kỳ-đà, trong quá khứ lâu xa vô lượng vô số không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm- phù-đề này có một nước lớn tên Ba-la-nại. Trong nước có một ngọn núi tên Lợi sư (Tần dịch là Tiên sơn). Chư Phật thuở xưa thường ở trong núi này, nếu lúc không có Phật thì có Bích-chi-phật trụ trong núi đó, giả sử lúc không có Bích-chi-phật thì có các vị đệ tử của các bậc Tiên nhân ngũ thông, cũng nương nơi ấy, không bao giờ để trống. Bấy giờ trong núi có hơn hai ngàn vị Bích-chi-phật thường ở trong núi đó. Khi ấy trong nước có Hỏa tinh xuất hiện là điềm tai ương xấu, sao này đã hiện trong hai mươi năm, trong nước hạn hán không có trời mưa, trồng tỉa không được, toàn dân đói khát. Lúc đó trong nước có một vị trưởng giả tên Tán-đà-ninh, nhà ông giàu có, của cải lúa thóc vô lượng, thường cúng dường cho các đạo sĩ. Bấy giờ có một ngàn Đại sĩ đi đến nhà ông, xin được cúng dường, nói:
– Chúng tôi ở trong núi đó, gặp lúc nước bị hạn hán, khất thực không được, nếu trưởng giả có thể cúng dường thì chúng tôi ở lại đây, nếu không thể cúng thí nổi thì chúng tôi đi đến nơi khác.
Khi ấy vị trưởng giả liền hỏi thủ kho:
– Hôm nay trong kho của ta có đủ gạo cúng dường các Đại sĩ này không? Ta muốn thỉnh họ.
Người giữ kho nói:
– Xin cứ thỉnh, có đủ lương thực đủ để cúng dường.
Vị trưởng giả liền thỉnh một ngàn vị Bích-chi- phật cúng dường trai phạn. Hôm sau lại có một ngàn người xấu khác cũng đến nhà ông muốn được cúng dường, vị trưởng giả lại hỏi người giữ kho:
– Anh xem trong kho lương thực còn nhiều ít, có thể một ngàn vị nữa muốn được cúng dường có thể đủ hay không?
Người giữ kho nói:
– Lương thực có đầy đủ, nếu muốn thiết trai cúng dường, ngài cứ hợp thời mà thỉnh.
Lúc đó, vị trưởng giả bèn thỉnh những vị ấy, sai năm trăm người lo việc cúng dường trai phạn, những người lo công việc cơm nước trải qua nhiều ngày, trong lòng bèn sinh mệt mỏi, chán nản nói:
– Chúng ta đã quá cực nhọc đều do những người nhỏ ăn xin này.
Bấy giờ vị trưởng giả bảo gia nhân đi mời, hãy nuôi một con chó, lúc đi mời cũng dẫn nó theo, cứ hàng ngày như thế. Một hôm, người này bỗng quên đã đến giờ đi mời, đến giờ, con chó một mình đi đến các chỗ thường đến, hướng các Đại sĩ cất tiếng sủa to. Các vị Bích-chi-phật nghe tiếng chó sủa liền biết có người đến thỉnh, liền sửa soạn đi đến nhà trưởng giả đúng như pháp thọ trai và nhân đó nói:
– Trưởng giả, hôm nay trời mưa, ông nên trồng cấy.
Vị trưởng giả nghe lời liền sai gia nô đem nông cụ ra đồng cày ruộng trồng tỉa các thứ ngũ cốc, tiểu mạch, đại mạch... Trải qua một thời gian, các thứ gieo trồng nảy sinh ra những quả bầu. Trưởng giả thấy kỳ lạ hỏi, các Đại sĩ nói:
– Việc này đừng lo, chỉ nên lo vun tưới.
Như lời các Đại sĩ, họ siêng năng vun bón tưới nước. Thời gian sau, các quả bầu to lớn, liền bổ nó ra xem thì thấy các thứ ngũ cốc đầy ắp trong đó. Vị trưởng giả rất vui mừng, cả nhà lo kho vựa tích trữ đầy ắp. Trong thân tộc, người cả nước thảy đều được nhờ. Lúc bấy giờ năm trăm người gia nô nói với nhau:
– Hôm nay thu hoạch được tốt như vậy đều do ân đức của các Đại sĩ. Trước đây chúng ta đối với những vị ấy nói lời xấu ác, bây giờ nên đến trước các vị ấy thỉnh cầu xin sám hối.
Những Đại sĩ nghe xong đều hỷ xả cả. Họ sám hối xong lại còn đứng lên thệ rằng: “Nguyện chúng con kiếp sau sinh ra gặp được Hiền thánh, mong được giải thoát.” Vì thế trong năm trăm kiếp họ thường phải chịu làm thân ăn mày, nhân họ được sám hối và thệ nguyện, nên nay gặp Ta và được độ thoát. Thái tử nên biết, Đại phú Tán-đà-ninh kiếp xưa chẳng ai khác lạ, chính là Ta đây, người giữ kho tàng nay là ông Tu-đạt, người hàng ngày đến giờ đi thỉnh mời các đại sĩ nay là vua Ưu-điền. Còn con chó vì có tiếng sủa báo tin, đời đời được tiếng hay, chính nay là trưởng giả Mỹ Âm vậy. Còn năm trăm người gia nô phục dịch công tác cơm nước nay là năm trăm vị A-la-hán này đây.
Bấy giờ thái tử Kỳ-đà và toàn thể hội chúng nghe Đức Phật nói về tiền kiếp như thế cảm niệm ân đức của Đức Phật khắc ghi trong lòng, chuyên cần tinh tấn, có người khởi tâm hướng cầu Phật đạo, người người tinh tấn, cầu đạt bản tâm, vui mừng đảnh lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở nước Tỳ-xá-ly trong vườn cây Am-la (vườn Xoài). Khi đó Đức Thế Tôn nói với Hiền giả A-nan:
– Người được bốn thần túc có thể tuổi thọ trụ một kiếp, như Ta được bốn thần túc còn phải khéo tu tập. Vậy ông có biết Như Lai thọ mạng bao lâu không?
Ngài hỏi như vậy ba lần. Bấy giờ A-nan dường như bị ma ám, nghe Thế Tôn hỏi mà cứ lặng thinh không đáp lại. Đức Phật lại bảo:
Này A-nan, ông hãy đi đến nơi yên tĩnh mà suy xét.
Hiền giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trong rừng. A-nan vừa đi khỏi thì ma Ba-tuần đến chỗ Phật bạch:
Đức Thế Tôn ở đời giáo hóa đã lâu, độ nhân gian thoát khỏi sinh tử nhiều như số cát sông Hằng, nay tuổi già yếu, Ngài nên vào Niết-bàn.
Lúc đó Đức Thế Tôn hốt một chút đất để trên móng tay mà hỏi ma Ba-tuần:
– Đất của quả địa cầu nhiều hay là đất trên móng tay nhiều?
Đáp:
– Đất của quả địa cầu nhiều, chứ chẳng phải đất trên móng tay nhiều.
Đức Phật lại nói:
– Ta độ chúng sinh cũng ít như đất trên móng tay, còn những người chưa được độ như đất của địa cầu.
Và Ngài nói với ma Ba-tuần:
– Ba tháng nữa Ta sẽ nhập Niết-bàn.
Lúc đó ma Ba-tuần nghe nói thế, vui mừng khoái chí mà đi ra. Bấy giờ A-nan ngồi ở trong rừng, bỗng ngủ mê, mộng thấy một cây to lớn cành lá um tùm che khắp hư không, hoa quả tươi tốt, tất cả những mầm cây nhỏ đâu đâu cũng nương nhờ công đức kỳ diệu của cây ấy không thể tả xiết. Bỗng có trận gió thổi đến làm cho cành lá tan nát như bụi nhuyễn, cho đến chỗ ở của lực sĩ, tất cả quần sinh không ai chẳng đau buồn. A-nan giật mình tỉnh dậy lo sợ bất an, lại tự suy nghĩ: “Mộng thấy cây to thật khác lạ khó lường, tất cả thiên hạ đều nhờ nương, duyên gì gặp gió thổi tan nát như thế? Nay Đức Thế Tôn giáo dục khắp tất cả cũng như cây to, chẳng lẽ Thế Tôn muốn vào Niết-bàn. Nghĩ như thế rồi, A-nan rất là lo sợ, bèn đi đến chỗ Phật, đảnh lễ bạch:
– Con vừa mộng thấy sự việc như thế... có lẽ nào Thế Tôn muốn vào Niết-bàn?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, như lời ông nói, sau ba tháng nữa Ta sẽ vào Niết-bàn! Khi Ta sắp vào Niết-bàn, Ta đã hỏi ông: “Người có được bốn thần túc, tuổi thọ có thể trụ một kiếp, Ta có bốn thần túc còn phải khéo tu.” Hôm nay Ta hỏi như vậy ba lần mà ông không đáp, sau khi ông đi rồi, ma Ba-tuần đến khuyên Ta vào Niết-bàn, Ta đã hứa rồi.
A-nan nghe việc ấy đau thương buồn khổ không thể giữ kín được nữa, bèn đem việc ấy thông tin cho các vị đệ tử khác nghe, ai cũng đau buồn, đồng đi đến chỗ Phật ngự. Bấy giờ Thế Tôn bảo A- nan và các đệ tử:
– Tất cả vạn vật thế gian đều vô thường, có ai được thường, còn Ta đã vì các ông việc đáng làm đã làm rồi, việc đáng nói đã nói, các ông chỉ nên siêng năng tinh tấn tu tập sao lại lo buồn, thật là vô ích.
Lúc đó ngài Xá-lợi-phất nghe Thế Tôn sắp vào Niết-bàn, rất đau buồn than rằng:
Như Lai nhập Niết-bàn sao mà nhanh chóng thế, vậy là con mắt sáng của thế gian tiêu diệt, mãi mãi hết chỗ nương cậy.
Lại bạch Phật rằng:
– Nay con không nỡ nhìn thấy Thế Tôn diệt độ, con muốn được nhập Niết-bàn trước, cúi mong Thế Tôn chứng minh hứa khả.
Ngài bạch như thế đến ba lần, Đức Phật nói:
– Ông nên biết! Tới thời thì các Hiền thánh cũng đều tịch diệt.
Lúc đó ngài Xá-lợi-phất được Đức Phật hứa khả rồi chỉnh tề y phục quỳ thẳng và nhiễu quanh Phật một trăm vòng, đến trước Đức Phật dùng kệ khen ngợi, rồi đỡ hai chân Phật để trên đầu ba lần, chắp tay đứng hầu đau đớn thưa:
– Con từ ngày nay cho đến mai sau, gặp Thế Tôn lần này là cuối cùng.
Rồi ngài chắp tay cung kính ra đi, dẫn Sa-di Quân-đề đến thành La-duyệt-kỳ là nơi sinh quán của ngài và bảo Sa-di Quân-đề:
– Ông vào trong thành rồi đến các thôn xóm nói với quốc vương, đại thần, tri thức, đàn-việt... để họ đến bái biệt.
Khi ấy Sa-di Quân-đề đảnh lễ dưới chân thầy rồi đi tuyên bố khắp nơi:
– Hòa thượng Xá-lợi-phất, thầy của tôi, hôm nay đang ở đây, ngài muốn nhập Niết-bàn, quý vị nào có muốn thăm hãy đi đến đó.
Bấy giờ vua A-xà-thế và các bậc hào hiền, đàn- việt, v.v... nghe tin Quân-đề cho hay đều đau buồn khác miệng đồng lời mà nói như vầy
– Tôn giả Xá-lợi-phất là một vị đại tướng trong Phật pháp, là chỗ trông cậy ngưỡng mộ của chúng sinh, hôm nay nhập Niết-bàn sao mà nhanh chóng thế?
Mọi người vội vã đi đến nơi ấy, trước là đảnh lễ, thăm hỏi xong, cùng nhau bạch:
– Được tin Tôn giả muốn xả thân mạng vào cõi Niết-bàn, chúng tôi nay mất chỗ nương nhờ.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất nói với mọi người:
– Tất cả muôn vật thế gian đều vô thường, có sinh ắt phải có tử. Ba cõi đều là khổ, có ai được an vui, các vị có túc duyên sinh ra đời gặp Phật còn tại thế, kinh pháp khó được nghe, thân người khó được, nhớ tưởng siêng năng tu phúc nghiệp cầu thoát khỏi sinh tử, mọi thứ đều là phương tiện, rộng nói vì mọi người như tùy theo bệnh cho thuốc.
Bấy giờ hội chúng nghe ngài nói thế, có người đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-na-hàm, có người xuất gia thì chứng quả A-la-hán. Lại có người phát tâm cầu đạo Vô thượng, nghe pháp xong rồi lễ tạ lui ra. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất ngay đêm hôm sau, chánh thân chánh ý, trụ tâm ở trước nhập vào Sơ thiền, từ Sơ thiền vào cõi Nhị thiền, từ Nhị thiền vào cõi Tam thiền, từ Tam thiền vào cõi Tứ thiền, từ Tứ thiền vào Không xứ định, từ Không xứ định vào cõi Thức xứ, từ Thức xứ vào Bất dụng xứ, từ Bất dụng xứ vào cõi Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, từ Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ vào Diệt tận định, từ Diệt tận định rồi vào Niết- bàn. Bấy giờ trời Đế Thích biết ngài Xá-lợi-phất đã diệt độ, cùng thiên chúng và họ hàng quyến thuộc hơn trăm ngàn người mang hoa hương cúng dường đến nơi ngài Xá-lợi-phất che kín cả hư không, đau buồn than thở lệ chảy như mưa, rải các thứ hoa lút đầy đến gối, lại nói:
– Tôn giả trí tuệ sâu như biển rộng, biện luận ứng cơ, âm thanh như nước suối chảy, giới định tuệ đầy đủ, là một đại tướng quân trong Phật pháp thay Đức Như Lai chuyển pháp luân, ngài nhập Niết-bàn sao mà nhanh chóng thế!
Trong thành, ngoài thành nghe Xá-lợi-phất đã diệt độ, đều đem tô dầu, hương hoa cúng dường, đổ xô về vân tập, đau buồn luyến tiếc không thể cầm lòng mỗi người cầm hương hoa đến cúng dường. Bấy giờ trời Đế Thích sai Tỳ-thủ-yết-ma, hội tập các của báu, trang hoàng cỗ xe cao, an trí nhục thân của ngài Xá-lợi-phất trên chiếc xe cao. Trời, Rồng, Quỉ, Thần, quốc vương, thần dân hầu tống hô hào đến nơi đất bằng thẳng. Khi ấy trời Đế Thích sai các Dạ-xoa qua bờ biển lớn, lấy gỗ Ngưu đầu chiên-đàn. Dạ-xoa vâng lời, tìm kiếm mang về, chất thành đống lớn, đặt nhục thân trên đó, đổ dầu tô rồi phóng hỏa, đảnh lễ cúng dường rồi ra về. Sau khi lửa tắt, Sa-di Quân-đề thu xá-lợi của thầy, để đầy trong bát, gói vào ba y, mang đến nơi Phật, đảnh lễ, bạch:
– Hòa thượng Xá-lợi-phất, Thầy con đã nhập Niết-bàn, còn đây là y bát và xá-lợi.
Khi đó, Hiền giả A-nan nghe nói thế, đau buồn hôn mê, hết sức cảm động, mà bạch Phật:
– Hôm nay Tôn giả ấy, vị đại tướng quân trong Phật pháp đã nhập Niết-bàn, con biết nương cậy vào đâu.
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông Xá-lợi-phất đây tuy nhập Niết-bàn, song Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến Pháp thân của ông cũng chẳng diệt. Lại nữa, ông Xá-lợi- phất không chỉ ngày nay không nỡ nhìn thấy Ta vào Niết-bàn nên diệt độ trước mà ở đời quá khứ cũng không kham nhìn Ta chết, mà ông còn chết trước Ta.
Hiền giả A-nan chắp tay bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn, trong quá khứ Tôn giả Xá-lợi-phất muốn chết trước Ngài, việc ấy như thế nào, cúi mong Ngài giải nói.
Đức Phật bảo A-nan:
Trong quá khứ lâu xa vô lượng vô số không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị đại quốc vương tên Chiên-đà-bà-la- tỳ (Tần dịch Nguyệt Quang) thống lãnh Diêm-phù- đề tám vạn bốn ngàn nước, sáu vạn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, vua có hai vạn phu nhân và thể nữ. Bà thứ nhất tên là Tu-ma-đàn (Tần dịch là Hoa Thi). Một vạn đại thần, ông quan lớn nhất tên là Ma-chiên-đà (Tần dịch là Đại Nguyệt). Vua có năm trăm thái tử, vị thái tử lớn nhất tên là Thi-la- bạt-đà (Tần dịch là Giới Hiền). Thành vua ở tên là Bạt-đà-kỳ-bà (Tần dịch là Hiền Thọ). Thành ấy ngang dọc bốn trăm do-tuần làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, bốn bên có một trăm hai mươi cửa, đường sá hẻm phố ngay thẳng chỉnh tề. Trong nước ấy có bốn hàng cây cũng toàn bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê; hoặc cành vàng lá bạc lá vàng; hoặc cành lưu ly lá pha lê; hoặc cành pha lê lá lưu ly. Có các ao báu cũng toàn bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê tạo thành, cát dưới đáy ao cũng là bốn báu. Trong cung vua, chu vi bốn mươi dặm làm thuần bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê. Nước đó giàu mạnh, nhân dân khoái lạc, những đồ quý báu đẹp lạ không thể kể xiết. Hôm đó vua ngồi trên bảo điện bỗng nhiên nghĩ như vầy: “Nói về người ta sống trên đời, tôn vinh hào quý, thiên hạ kính ngưỡng, nói ra không trái nghịch, ngũ dục các thứ quý báu hay đẹp, muốn gì được nấy, quả báo ấy đều do tích đức tu phước mà được. Thí như kẻ nông phu do mùa xuân trồng cấy đến mùa hạ, mùa thu thâu hoạch. Mùa xuân lại đến, nếu không siêng năng gieo trồng nữa thì mùa hạ mùa thu trông mong được gì? Nay ta cũng như vậy, do đời trước tu phước, đời này hưởng quả tốt, nếu đời này không tu thì kiếp sau không mong được gì”. Nghĩ như thế rồi bảo quần thần: “Nay ta muốn đem của cải quý báu trong kho bày ra các cửa thành cho đến trong chợ, mở một cuộc bố thí lớn, tùy chúng sinh cần gì đều đem cho hết”. Và còn hạ lệnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, đều mở kho bố thí cho tất cả. Chúng thần nói: “Rất tốt!”, vâng lời vua dạy liền dựng phướn vàng, đánh trống vàng, loan báo khắp nơi, tuân theo chiếu vua, xa gần trong ngoài khiến đều nghe biết. Lúc đó, trong nước, Sa-môn, Bà-la-môn, người bần cùng, già yếu, neo đơn,...; có người tật nguyền, kẻ mạnh dắt người yếu, đổ xô tụ tập vào cung. Cần y cho y, cần thức ăn cho thức ăn, vàng bạc vật báu, tùy bệnh cho thuốc, tất cả thứ cần thiết đều cho như ý cả. Trong cõi Diêm-phù-đề, tất cả thần dân đều nhờ ân đức của vua vui vẻ vô cùng. Tiếng khen ngợi ca tụng vang rền ngoài đường, danh đức lẫy lừng vang khắp bốn phương, không ai chẳng khâm phục ngưỡng mộ ân hóa của vua.
Lúc đó, có một vị vua nước nhỏ bên cạnh tên Tỳ-ma-tư-na, nghe vua Nguyệt Quang được nhân dân khen ngợi, ôm lòng ghen ghét, ngủ nghỉ không yên, liền tự suy nghĩ: “Không tiêu diệt được ông Nguyệt Quang thì có lẽ danh tiếng của ta không nổi”. Nghĩ thế rồi vị ấy mời thỉnh các đạo sĩ đến bàn việc này. Sắc lệnh thỉnh mời các Phạm chí trong nước để cúng dường những bữa ăn uống đầy đủ trăm vị, cung kính cúng dâng, không để cho điều gì phật ý, trải qua ba tháng, rồi nói với các Phạm chí:
– Trẫm nay có một việc lo buồn triền miên trong lòng, đêm trăn trở không ngủ được không làm sao có thể giải thích. Đạo sĩ như các ông, trẫm đây rất cung kính, quý ngài có phương tiện gì giúp trẫm trừ diệt chăng?
Các Bà-la-môn cùng tâu vua rằng:
Đức vua có điều gì lo buồn nên nói bày cho chúng tôi rõ?
Vua liền nói:
– Vua Nguyệt Quang kia, danh đức vang xa, bốn phương mến phục, chỉ có một mình trẫm xấu xí hẹp hòi, không có được tiếng khen. Để thỏa chí nguyện, muốn trừ khử ông ta phải làm cách nào mới có thể được?
Các Bà-la-môn nghe nói như thế đều nói rằng:
– Vua Nguyệt Quang kia từ ân thấm nhuần đến tất cả, giúp đỡ kẻ nghèo nàn, thương dân như con, chúng ta làm sao có tâm mưu làm việc ác này, thà tự giết thân mạng không thể làm việc này.
Họ liền xin cáo thoái không nhận cúng dường nữa. Bấy giờ vua Tỳ-ma-tư-na tăng thêm lòng phẫn uất, liền ra lệnh khắp nơi:
– Nếu ai có thể vì trẫm, lấy được đầu vua Nguyệt Quang, trẫm sẽ chia nửa giang sơn để cai trị và còn gả cho con gái nữa.
Khi đó ở Hiếp sơn có một vị Bà-la-môn tên là Lao-độ-sai, nghe lệnh tuyên bố của nhà vua nên đến nhận lời. Vua rất vui mừng lặp lại lời ấy:
– Giả sử ngươi có thể làm được thành công, trẫm không trái với lời hứa. Ngươi định ngày nào đi?
Vị Bà-la-môn nói:
– Xin ban cho tôi lương thực cần thiết, bảy ngày nữa tôi sẽ lên đường.
Khi đó vị Bà-la-môn đọc chú tự bảo hộ thân, qua bảy ngày, bèn đến từ biệt, đức vua cấp cho lương thực, vật dụng cần thiết rồi lên đường ra đi. Lúc đó trong nước vua Nguyệt Quang có các thứ điềm quái lạ xuất hiện như: động đất, chớp giật, sao băng, ban ngày sương khói kéo mờ mịt, sấm chớp vang trời, các loài chim bay đầy trong hư không kêu la thảm thiết và tự nhổ lông cánh, hổ báo sài lang thuộc loài cầm thú tự đâm đầu xuống hố hoặc chạy la kêu rống. Tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mộng thấy cành phướn vàng của nhà vua bị gãy, trống vàng bị bể, đại thần Đại Nguyệt mộng thấy quỉ đến cướp mão vàng của vua. Thấy điềm bất tường biến hiện, ai cũng ôm lòng lo buồn không thể tự an. Khi đó vị thần giữ cửa thành biết có một Bà-la-môn muốn đến lấy đầu vua, ông hóa phép làm cho mê mờ cứ đi lẩn quẩn bên ngoài không biết lối vào thành. Lúc đó, Bà-la-môn đi quanh quẩn cổng thành bao nhiêu vòng cũng không vào trong thành. Ông trời Thủ-đà-hội biết vua Nguyệt Quang đem đầu mình ra thí để cho đàn tràng được viên mãn, bèn báo mộng nói rằng: “Bệ hạ thế hạnh, bố thí không trái ý chúng sinh, có kẻ ăn xin ngoài cổng mà không vào được”. Nhà vua kinh ngạc liền ra lệnh cho đại thần Đại Nguyệt:
– Ông đi ra ngoài các cổng, bảo mọi người chớ ngăn cấm người nào vào xin.
Đại thần Đại Nguyệt đi đến cổng thành. Lúc đó vị Thần giữ cổng thành liền hiện nguyên hình thưa Đại Nguyệt rằng:
– Có một Bà-la-môn từ nước khác đến ôm lòng xấu ác muốn xin đầu vua, nên tôi không cho vào.
Đại thần nói:
– Nếu có việc này, quả là tai nạn lớn, nhưng vua đã có lệnh, không được trái ý, vậy phải làm sao?
Lúc đó Thần giữ cổng thành bèn biến mất dạng. Đại thần Đại Nguyệt liền suy nghĩ: “Nếu để vị Bà- la-môn này đến ắt xin đầu vua, ta nên làm đầu bằng bảy báu năm trăm cái để làm việc buôn bán”. Ông liền mướn thợ làm. Bấy giờ vị Bà-la-môn đi tới trước điện lớn tiếng xướng rằng:
– Tôi ở nơi xa xôi, nghe công đức nhà vua, bố thí cho tất cả, không nghịch ý mọi người, nên từ xa đến đây, muốn xin một việc.
Nhà vua nghe vui mừng, tác lễ hỏi thăm:
– Đi đường không quá mệt mỏi chăng? Tùy ông muốn gì, nước thành, vợ con, châu báu xe cộ, ngựa xa hay voi ngựa, bảy báu hay nô tỳ, tất cả mong muốn đều được cho cả.
Vị Bà-la-môn nói:
– Tất cả vật bên ngoài, tuy đem bố thí nhưng phúc báo chưa là rộng lớn, bố thí nhục thân, phước ấy mới thật là vi diệu. Tôi từ xa đến, muốn được cái đầu nhà vua, nếu không trái nghịch, vậy nên bố thí cho.
Vua nghe lời ấy hăng hái vô lượng. Vị Bà-la- môn nói:
– Như bố thí cái đầu cho ta, vậy bao giờ mới cho được?
Vua nói:
– Bảy ngày sau sẽ cho ông cái đầu.
Bấy giờ đại thần Đại Nguyệt đem cái đầu bằng bảy báu đến để tạ thay, vỗ vào trước ngực nói với Bà-la-môn rằng:
– Đầu của vua bằng xương thịt máu hợp thành là vật bất tịnh, dùng thứ ấy làm gì? Nay ông lấy cái đầu bằng bảy báu dùng để buôn bán đủ để giàu có nuôi sống trọn đời.
Vị Bà-la-môn nói:
– Tôi không dùng của ấy, chỉ muốn được cái đầu của nhà vua.
Khi ấy đại thần Đại Nguyệt dùng mọi thứ can gián mà vẫn mãi không hồi chuyển, liền nổi giận mổ tim thành bảy miếng, chết trước mặt nhà vua. Lúc đó nhà vua hạ lệnh triều thần cỡi voi đi tám ngàn dặm loan tin các nước nhỏ rằng:
– Sau bảy ngày nữa, vua Nguyệt Quang cái đầu bố thí cho vị Bà-la-môn, ai muốn tới xin của cải hãy mau đi đến.
Bấy giờ tám vạn bốn ngàn vua nước nhỏ nườm nượp kéo đến bái kiến đại vương rồi vỗ vào ngực mình nói:
– Cõi Diêm-phù-đề này, loài người nhờ ân đức của ngài mà được mùa màng tươi tốt, an cư lạc nghiệp, vui vẻ không hoạn nạn. Tại sao chỉ vì một người mà bỏ cả thứ dân không thương xót. Cúi mong rủ lòng thương, xin chớ bố thí đầu.
Một vạn đại thần đều mọp đầu sát đất, vỗ ngực trước mặt vua, chỉ mong thương xót các chúng thần, chớ có bố thí đầu, sẽ mãi mãi xả bỏ. Hai vạn phu nhân cũng đầu mọp sát đất, ngưỡng bạch vua rằng:
– Xin chớ xả thí đầu, bệ hạ như bóng mát che khắp, nếu đem đầu bố thí, chúng thần thiếp biết nương tựa vào đâu?
Năm trăm thái tử khóc to trước mặt vua:
– Chúng con còn non trẻ, phải nương nơi nào, ngưỡng mong thương xót, chớ dùng đầu bố thí, hãy nuôi dưỡng chúng con được lớn thành người.
Bấy giờ đức vua bảo các thần dân, phu nhân, thái tử:
Xét ra trẫm từ xưa thọ thân cho đến nay, trải qua ách sinh tử lâu dài. Nếu như ở trong địa ngục một ngày, sống rồi chết, bỏ thân vô số, trải qua nước sông phân, giường sắt, phẩn uế, xe lửa, hầm than, cho đến các địa ngục khác, các thân như thế bị thiêu đốt chết rồi lại chết, mãi mãi không có phước báo. Nếu ở trong loài súc sinh, thì bị người chém giết để cung cấp cho người ta ăn, phá hoại tiêu nát, cũng lại vô số, thân ấy bỏ không cũng là không có phúc báo. Hoặc đọa làm ngạ quỉ, lửa trong mình cháy ra hoặc là vòng lửa bay tới chém đứt đầu, chết đi sống lại như vậy vô số lần, thân bị giết như thế cũng không có phước báo. Nếu sinh ở nhân gian vì tranh tài sắc, lòng tham hận nổi lên sát hại lẫn nhau, hoặc kéo quân đánh nhau, giết thân như vậy cũng lại vô số. Vì tham nhuế si mê thường giết nhiều thân, chưa từng làm phước mà bỏ thân mạng. Nay thân trẫm đây các thứ bất tịnh, sẽ phải xả bỏ, không thể bảo tồn được lâu, bỏ cái đầu nhơ uế xấu xa này, để đổi lấy cái lợi lớn, làm sao không nên cho? Trẫm đổi cái đầu này, bố thí cho Bà-la-môn để lấy công đức thệ cầu Phật đạo. Nếu thành Phật rồi công đức đầy đủ sẽ dùng phương tiện độ thoát cho các ông. Nay lòng trẫm muốn bố thí được viên mãn, chớ nên ngăn đạo tâm vô thượng của trẫm.
Tất cả các tiểu vương, thần dân, phu nhân, thái tử nghe vua nói vừa xong, im lặng không nói lời nào.
Hôm ấy đúng ngày hứa, vị Bà-la-môn nói rằng:
– Nay vua, thần dân, đại chúng vây quanh, tôi riêng có một mình, thế lực đơn lẻ yếu kém, không dám ở trong đây mà chặt đầu vua, nếu muốn cho tôi nên ra sau hoa viên.
Bấy giờ đức vua bảo các tiểu vương, thái tử, thần dân rằng:
– Tất cả các ông giả sử yêu thương trẫm, xin chớ làm hại vị Bà-la-môn này.
Nói xong vua cùng vị Bà-la-môn ra sau hoa viên. Khi đó vị Bà-la-môn nói với vua:
– Bệ hạ sức vóc mạnh khỏe, giả sử cắt đầu đau đớn rồi hối tiếc rồi sao? Vậy hãy lấy tóc ngài buộc chặt trên cây, sau đó mới có thể cắt đầu dễ dàng.
Khi đó, vua ngồi dưới gốc cây to cành lá sum suê, buộc tóc vào nhánh ngang, nói với Bà-la-môn:
Ông cắt đầu xong đem để trên bàn tay tôi, rồi sau đó hãy từ trong tay tôi mà lấy đi. Nay tôi đem đầu bố thí cho ông, nguyện công đức này không cầu được làm Phạm vương, Ma vương, Đế Thích, Chuyển luân thánh vương để vui sướng ở ba cõi mà chỉ cầu đạo Vô thượng chánh chân, tế độ chúng sinh, dẫn đến cõi Niết-bàn an lạc.
Bấy giờ, vị Bà-la-môn dơ tay muốn chém, Thọ thần thấy thế rất là buồn rầu: “Người như vậy, tại sao lại muốn giết?” liền dùng tay tát vào lỗ tai vị Bà-la-môn, làm cho đầu quay sang hướng khác, rụng rời tay chân, dao rớt xuống đất không thể chém được. Khi ấy nhà vua ngước mặt nói với Thọ thần rằng:
– Từ xưa đến nay, ở ngay tại gốc cây này ta đã từng bố thí chín trăm chín mươi chín cái đầu, hôm nay bố thí cái đầu này vừa đủ số một ngàn. Xả bỏ cái đầu này rồi thì nguyện bố thí mới được viên mãn, ông đừng ngăn cản đạo tâm Vô thượng của tôi.
Lúc đó thọ thần nghe vua nói thế, bèn khiến cho vị Bà-la-môn bình phục như cũ. Bấy giờ vị Bà-la- môn đứng dậy trở lại cầm đao chém ngang cổ vua, đầu rơi vào tay. Khi ấy trời đất sáu lần chấn động, cung điện của các cõi trời dao động không yên, các Thiên tử lo sợ ngạc nhiên không biết điềm tướng gì, mới quán thấy một vị Bồ-tát vì tất cả chúng sinh đem đầu bố thí, đều cùng bay xuống, cảm động việc hy hữu của nhà vua, lệ rơi như mưa, cùng nhau khen ngợi rằng:
– Đại vương Nguyệt Quang đem đầu bố thí, đối với Đàn ba-la-mật nay được viên mãn.
Tiếng tăm ấy vang khắp thiên hạ. Vua Tỳ-ma- tiễn nghe tiếng nói này rồi, vui mừng kinh ngạc, vỡ tim ra chết. Bấy giờ vị Bà-la-môn vác đầu vua đi, các vua, thần dân, phu nhân, thái tử, đã trông thấy đầu vua rơi xuống đất, tiếng đau buồn gào khóc ngất đi, có người cảm thương quá thổ huyết mà chết, còn có người đứng ngây người không biết gì, hoặc có người tự bức tóc mình, hoặc có người xé quần áo mình ra từng mảnh, hoặc có người dùng hai tay cào lên mặt, tiếng khóc vang xa rung động trời đất. Bấy giờ vị Bà-la-môn ghê gớm đầu vua hôi tởm, liền vất xuống đất, giẫm lên rồi đi. Nhân dân mắng chửi vị Bà-la-môn độc ác, không dùng cái đầu, mà xin làm chi. Khi đó vị Bà-la-môn đi đâu người ta thấy cũng nguyền rủa, không người nào cho ăn, đói khát tiều tụy hết sức khốn khổ, giữa đường gặp người quen hỏi thăm tin tức về vua Tỳ- ma-tiễn. Biết vua đã băng hà, mất hết hy vọng, buồn rầu lo lắng, tim vỡ bảy mảnh, thổ huyết ra chết liền. Vua Tỳ-ma-tiễn và Lao-độ-sai sau khi chết đều đọa vào địa ngục mê lộ A-tỳ, còn những thần dân vì thương nhớ ân vua mà chết đều được sinh lên cõi trời.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại rằng:
– Này A-nan, nên biết vua Nguyệt Quang thuở đó nay chính là Ta. Vua Tỳ-ma-tiễn nay là ma Ba- tuần. Vị Bà-la-môn tên Lao-độ-sai nay là ông Điều-đạt. Thọ thần nay là Mục-liên. Đại thần Đại
Nguyệt chính là Xá-lợi-phất ngày nay, nên nay không nỡ thấy Ta chết mà muốn chết trước Ta. Cho đến ngày nay, ông cũng không nỡ nhìn thấy Ta nhập Niết-bàn, mà ông nhập diệt trước.
Đức Phật nói việc đó xong, Hiền giả A-nan và các đệ tử thương mến vui mừng, cùng nhau tán thán công Đức Như Lai có hạnh kỳ đặc, đều cùng chuyên tu, có người đắc quả A-la-hán, có người phát tâm Vô thượng chánh chân, đều rất vui mừng kính lễ vâng lời.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ Thế Tôn đang tuyên diễn chánh pháp, đại chúng vây quanh lắng nghe, nhân dân trong thành, người thích nghe pháp lần lượt kéo nhau đi đến chỗ Phật. Khi đó trong thành có một vị Bà-la-môn mù ngồi bên vệ đường nghe nhiều người đi đường nhộn nhịp liền hỏi:
– Các người đi đâu mà đông thế? Họ đáp:
– Ông không biết sao, Đức Như Lai ra đời việc ấy rất khó gặp, hiện Ngài đang thuyết pháp ở nước này. Chúng tôi muốn đến đó nghe Ngài thuyết pháp.
Vị Bà-la-môn này tuy bị mù nhưng có biết một thuật nghe được tám thứ tiếng của chúng sinh, đều có thể phân biệt được tướng lộc của nó. Thế nào là tám thứ: 1. Điểu thanh; 2. Tam xích điểu thanh; 3. Phá thanh; 4. Nhạn thanh; 5. Cổ thanh; 6. Lôi thanh; 7. Kim linh thanh; 8. Phạm thanh. Điểu thanh là người nói như tiếng chim kêu là người có tính quên ân sinh thành dưỡng dục, chí không liêm khiết. Tam xích điểu thanh là người bẩm tính hung bạo, hay làm tổn hại người, ít có lòng Từ hòa thuận. Phá thanh là người con trai nói tiếng như con gái, con gái nói tiếng như con trai, người này bạc đức bần cùng hạ tiện. Nhạn thanh là người này có tính hốt của người làm của mình, nhưng hay chơi nhiều bạn bè và tiếp đón người xa lạ bốn phương. Cổ thanh là người có lời nói biện luận nhanh chóng, giải thích đạo lý sâu huyền, ắt làm quốc sự. Lôi thanh là người tiếng nói ầm ầm như sấm, trí tuệ sâu xa, phân tích được pháp tánh, giáo hóa thiên hạ. Kim linh thanh là tiếng nói như chuông, người này giàu có nhiều của cải vàng bạc có đến ngàn ức lượng. Phạm thanh là tiếng nói như cõi trời Phạm thiên, người này phước đức cao dày, nếu người tại gia làm Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia học đạo ắt thành Phật. Bấy giờ vị Bà- la-môn nói với người đi đường:
– Tôi có thể phân biệt được tiếng nói của người khác. Nếu thật sự là Phật đương nhiên là tiếng
Phạm thiên, nhờ các anh dẫn tôi đến chỗ đó nghe thử coi có đúng là Phật không.
Lúc đó người đi đường dẫn anh ta dần dần đến chỗ Phật nghe Đức Phật thuyết pháp, quả nhiên tiếng Phật là Phạm âm vang xa, vui mừng quá hai mắt vị ấy được mở ra, trông thấy Đức Phật màu vàng tía, ba mươi hai tướng sáng rực như mặt trời, liền cung kính lễ Phật, vui mừng không lường. Đức Phật vì anh ta thuyết pháp, chí tâm lắng nghe, liền phá được hai mươi ức ác kiến, đắc quả Tu-đà-hoàn, được tuệ nhãn, bèn cầu xuất gia. Đức Phật nói:
– Thiện tai.
Vị ấy liền thành Sa-môn, Đức Phật trùng tuyên phương tiện rộng vì anh ta thuyết pháp, không bao lâu đắc quả A-la-hán, tất cả chúng hội không ai cho là lạ.
Hiền giả A-nan, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, ngài xuất thế làm lợi ích rất nhiều, cứu giúp kẻ mù tối, ân ấy vô cùng cao cả. Vị Bà-la-môn này trong chốc lát được sáng con mắt thịt và được mắt tuệ thanh tịnh, không biết người ấy đối với Ngài ân nghĩa sâu dày như thế nào?
Đức Phật bảo A-nan:
– Không những đời này Ta cho người này được mắt sáng mà ở đời quá khứ cũng đã cho như thế.
Ngài A-nan bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, việc cho mắt ở đời quá khứ như thế nào? Cúi mong Ngài thương xót giải nói đầy đủ cho chúng con rõ!
Đức Phật bảo:
Này A-nan, về đời quá khứ lâu xa vô lượng vô số kiếp không thể nghĩ bàn nhiều kiếp a-tăng- kỳ, ở châu Diêm-phù-đề này có một thành tên Phú- ca-la-bạt, ông vua nước đó tên Tu-đề-la (Tần dịch là Khoái Mục). Vì sao được gọi là Khoái Mục. Vì mắt ông sáng suốt thanh tịnh, thanh diệu vô cùng trông thấy xuyên suốt qua tường vách, thấy xa bốn mươi dặm bởi thế nên đặt hiệu là Khoái Mục. Vua thống trị châu Diêm-phù-đề tám vạn bốn ngàn nước, sáu vạn núi sông, tám mươi ức tụ lạc. Vua có hai vạn phu nhân thể nữ, một vạn đại thần, năm trăm thái tử. Vị thái tử thứ nhất tên là Thi-la-bạt- đà-đề (Tần dịch là Giới Hiền). Nhà vua rất có lòng Từ bi thương xót lo lắng cho dân cũng như người cha hiền chăm dạy dân tu thiện, dân chúng nghe theo sự hóa độ của vua nên trong nước mưa hòa gió thuận, mùa màng tươi tốt, nhân dân an vui sung sướng. Bấy giờ ông vua ấy tự suy nghĩ: “Ta có nhân duyên phúc báu đời trước, nên nay được làm nhân chủ, của cải ngũ dục giàu có như nước bốn biển, phát ra lời nói thiên hạ phục tùng như gió thổi cỏ rạp xuống cả. Đời này thực dụng không biết gây tạo tiếp tục, sợ e đời sau nghèo khổ. Thí như nông phu cày ruộng, mùa xuân gieo trồng nhiều thì mùa hạ mùa thu thâu hoạch ắt được nhiều. Còn nếu mùa xuân lười biếng không làm, đến mùa thu làm sao trông mong có được ngũ cốc? Cho nên hôm nay đối với phước điền gieo trồng nhiều không nên giải đãi. Vua liền bảo quần thần mở kho lấy vàng bạc, châu báu, y phục, lương thực, tất cả thứ cần dùng đem ra cổng thành cho đến chất đầy trong chợ, tuyên lệnh khắp nơi tất cả nhân dân có ai thiếu thốn đều tới thọ thí và còn sắc lệnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, cũng mở kho bố thí cho tất cả. Khi ấy các quần thần vâng lời vua dạy liền dựng phướn vàng, đánh trống vàng, khắp châu Diêm-phù-đề, Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ nghèo khổ neo đơn, già cả bệnh tật, thảy đều thọ nhận của thí được vừa ý. Tất cả mọi người nhờ ân vua an lạc vui sướng, không còn lo buồn, họ ca tụng khen ngợi ân đức nhà vua vang dội khắp thiên hạ.
Bấy giờ kế bên có một nước nhỏ, vua tên là Bà- la-đà-bạt-di, tánh tình ngạo mạn, không tuân theo sắc lệnh của vua Khoái Mục, trị dân có năm điều quá độ, tánh nết vội vàng, ít suy nghĩ, đam mê sắc dục, bỏ bê việc quốc gia, không biết thâu dụng người trung lương hiền sĩ, bắt dân phục dịch cực khổ vô cùng; các nhà thương mại đến buôn bán, đánh thuế quá nặng. Vua đó có một vị quan tên là Lao-đà-đạt, thông minh trí lược, hiểu biết đạo lý thấy đức vua sai trái bèn can gián:
– Bệ hạ có năm việc không thể an ổn quốc gia, ắt phải chiêu họa hoạn, sợ e không bao lâu tai họa sẽ đến.
Nghe quần thần nói thế, nhà vua bèn nói:
– Những việc ấy như thế nào? Ông quan thưa:
– Bệ hạ có tính vội vàng ít suy nghĩ, không lo việc lớn sau này sẽ hối. Ngài ham mê sắc dục, không lo việc nước, bên ngoài có gian thần, việc tình lý không nơi minh xét, người trung lương hiền sĩ trong nước không trọng dụng, không lo phòng ngừa việc chưa xảy ra. Bắt nhân dân làm nhiều việc cực khổ, oán hận rất nhiều, khách thương buôn nước khác đến đánh thuế quá nặng, trái với thông thường, cho nên hàng hóa bị ách tắc, giá cả đắt đỏ. Năm việc này là triệu chứng mất nước, xin bệ hạ thay đổi để cho dân theo chánh sách cũ. Vua Tu-đề-la ân từ rộng khắp châu Diêm-phù-đề, người người đều khâm phục. Riêng nước ta không kính thuận, nên dân chúng oán hận, không nhờ được ân đức. Cúi xin bệ hạ giáng ý, bố thí cho nhân dân để con cháu hưởng phúc lộc lâu dài.
Vua Ba-la-đà-bạt-di nghe ông quan này nói xong, sắc mặt nổi giận, không chịu nghe theo. Quan Lao-đà-đạt càng thêm bực bội, thầm nghĩ: “Mình thấy nhà vua trị chính không khéo, tiến cử người trung thành ra phụ giúp nước, đã không nghe lại còn phát cáu, không nghe theo lời mình, lời nói đã không được trọng dụng, tất nhiên sẽ trừ khử mình chăng? Vì dân lo tính chưa thành mà sự việc đã (phế lộ) hư kế hoạch.” Vua sai quân lính đến hỏi tội, quan Lao-đà-đạt biết trước nhà vua muốn bắt, bèn lên ngựa chạy thoát, quân lính rượt đuổi theo, ông Lao-đà-đạt giỏi về thuật bắn, ông quay lại bắn chết mười tám người, quân lính tuy đuổi kịp, nhưng không dám đến gần. Ông chạy sang đến nước Phú-ca-la-bạt, vào yết kiến vua Khoái Mục. Vua hỏi han vui vẻ, cùng vua đối đáp sự lý phân minh. Vua thấy người có tài liền lập làm đại thần, dần dần thân cận, ông trình bày mọi sự việc nguyên do đến đây để cho vua nghe. Nghe xong, vua hỏi quần thần:
Nước đó có thuộc quyền cai trị của trẫm không?
Quần thần đáp:
– Thuộc của đại vương nhưng họ làm lơ và ít khi lui tới.
Lao-đà-đạt nói:
– Ba-la-đà-bạt-di kia ngoan cố và mờ ám, hoang dâm vô độ, không biết lễ độ, không tuân lệnh bệ hạ, dân chúng oán ghét coi như kẻ thù, xin bệ hạ cấp cho binh mã, hạ thần đích thân đến đó hàng phục.
Vua Khoái Mục nghe lời Lao-đà-đạt, liền hạ lệnh các nước tuyển chọn binh lính ngay ngày hôm đó vân tập kéo quân đến nước vua Ba-la-đà-bạt-di. Bấy giờ vua Ba-la-đà-bạt-di được vua nước bên cạnh sai người đến nói về việc đó, toàn cõi Diêm- phù-đề đều sắc lệnh dấy binh sắp đánh nước của ngài, nhanh chân chạy trốn chớ yên ổn ngồi đó. Vua Ba-la-đà-bạt-di nghe tin lo buồn mê loạn không biết xoay trở cách nào. Vội mặc một cái áo đen dơ dáy, lẩn trốn ở nơi kín đáo, có quan phụ tướng tìm đến chỗ, ông hỏi:
Bệ hạ có việc gì mà lo lắng thế, xin hãy nói bày.
Vua Ba-la-đà-bạt-di nói:
– Khanh không hay biết gì sao? Trước đây Lao- đà-đạt chạy trốn sang nước vua Khoái Mục, do đó hắn mưu toan với vua Khoái Mục sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nước đem binh lính đến tiêu diệt nước ta đó.
Quan phụ tướng nói:
– Nên hạ lệnh quần thần cùng bàn bạc thử.
Vua liền triệu tập quần thần bàn bạc mọi kế hoạch, quan phụ tướng nói:
– Tôi nghe vua Khoái Mục tự thệ bố thí, chỉ trừ cha mẹ ra, không thứ gì ông ta không bố thí, cũng không làm nghịch ý người ta. Hiện nay trong nước có một vị Bà-la-môn mù, nên khuyên ông ta đến đó xin đôi mắt của vua. Nếu xin được, ta không cần đánh trả lại mà binh lính cũng tự rút lui.
Vua nghe nói thế liền chịu, sai quan phụ tướng đi tìm vị Bà-la-môn đó. Quan phụ tướng sai người tìm kiếm và dẫn ông ta đến nói:
– Hiện nay trong nước có việc sắp bị giặc xâm chiếm, mong người cùng phụ giúp cho một việc.
Vị Bà-la-môn nói:
– Tôi nay mù lòa làm sao có thể giúp được việc nước?
Quan phụ tướng nói:
– Vua nước Tu-đề-la muốn hợp binh lại đến đánh nước ta, chúng tôi khỏe mạnh còn có thể chạy trốn tránh, còn tàn tật mù lòa như anh có thể chạy thoát được sao? Vua ấy có thể bố thí tất cả, tùy theo người cần, không làm nghịch ý, bây giờ anh đến xin đôi mắt ắt chắc chắn được. Nếu anh xin được mắt của vua ấy, thì binh lính có thể ngừng không tấn công nữa. Giả sử làm xong việc này sẽ thưởng anh trọng hậu.
Vị Bà-la-môn nói:
Nay tôi không thấy đường đi, phải làm thế nào?
Vua lại khuyên: “Trẫm sẽ sai người dẫn anh đi”, liền ban cho lương thực và đồ cần dùng khi đi đường, rồi họ lên đường.
Khi đó nước của vua Khoái Mục có nhiều điềm bất tường hiện ra: Trong hư không vang tiếng sấm chớp, sao rơi, mây kéo mờ mịt, đất nứt, các loài chim bay kêu la thảm thiết tự mở lông cánh, hổ báo sư tử, các loại cầm thú gầm rống rung cả mặt đất. Quốc vương, thần dân đều rất kinh sợ. Bấy giờ vị Bà-la-môn đi đến thành lớn, băng ngang qua trước điện lớn tiếng rằng:
– Tôi ở nước khác, nghe thấy danh đức nhà vua, bố thí tất cả không trái ý người, cho nên lặn lội từ xa đến đây muốn được ăn xin.
Vua nghe lời ấy, liền hỏi:
– Lặn lội đường xa có bị mệt mỏi không? Nếu muốn xin các thứ cần dùng gì, quốc độ, châu báu, xe ngựa, áo quần, thức ăn uống, tùy bệnh cho thuốc, các thứ cần dùng đều sẽ cấp cho.
Vị Bà-la-môn nói:
– Vật bên ngoài bố thí phước đức không huyền diệu, bố thí nơi thân quả báo mới lớn. Tôi từ lâu đã mất đôi mắt, sống trong đêm dài tăm tối, nay nghe đại vương bố thí, nên có ý đến xin đôi mắt của ngài.
Vua nghe vui mừng, nói với Bà-la-môn:
– Nếu muốn được mắt, trẫm sẽ cho. Vị Bà-la-môn nói:
– Ngài muốn cho tôi, bao giờ thì có thể cho được?
Vua nói:
– Bảy ngày nữa ta sẽ cho ngươi.
Vua liền hạ chiếu tám vạn bốn ngàn nước nhỏ hay. Sau bảy ngày nữa, vua nước Tu-đề-la sẽ khoét mắt bố thí cho vị Bà-la-môn, vậy ngày hôm đó các vị đều nên vân tập đến. Các vua, nhân dân nghe lệnh này rồi, khắp nơi kéo đến chỗ đại vương, tám vạn bốn ngàn các vua, thần dân cúi đầu sát đất, vỗ ngực trước mặt vua khóc lóc mà thưa:
– Chúng tôi đều là người ở châu Diêm-phù-đề, nhờ ân đức đại vương che chở, nếu đem mắt bố thí cho vị Bà-la-môn thì tất cả nhân dân sẽ nương cậy vào đâu? Cúi mong bệ hạ hồi ý, chớ vì một người mà xả bỏ tất cả.
Một vạn đại thần cũng đều dập đầu sát đất, ngưỡng tâu vua:
– Tại sao không thương xót chúng tôi, vì ý của một người mà bỏ cả chúng tôi, cúi mong hồi ý chớ cho đôi mắt của ngài.
Hai vạn phu nhân, dập đầu xuống đất, vỗ ngực trước vua cũng đều cầu thỉnh:
– Cúi mong đại vương hồi ý chớ đem mắt bố thí, đó là niềm an ủi chúng tôi.
Năm trăm thái tử than khóc trước mặt vua:
– Cúi mong phụ vương nên thương xót chúng con, chớ đem mắt ra bố thí, để vỗ về chúng con.
Bấy giờ thái tử Giới Hiền tâu vua rằng:
– Xin khoét mắt con để thay vua cha, vì thân con dù chết, đất nước không có ảnh hưởng. Đại vương không mắt, trong nước làm sao trông cậy được.
Bấy giờ vua Khoái Mục bảo các vương thần, phu nhân, thái tử:
Trẫm thọ thân này đến nay, trầm luân trong sinh tử lâu dài, giả sử chết nhưng xương của thân ấy gom lại trong nhiều kiếp, có thể cao như núi Tu- di, còn máu tiết chảy ra nhiều hơn nước bốn biển, còn bú sữa mẹ nhiều hơn nước bốn con sông lớn, những lúc biệt ly, nước mắt khóc đau buồn hơn nước bốn biển. Khi ở trong địa ngục, thân bị đốt cháy, mổ xẻ thì những đôi mắt bỏ đi vô số kể. Khi mang thân loài ngạ quỉ, thọ các cực hình, lửa từ trong thân cháy ra, thiêu đốt phá hoại như thế biết bao nhiêu là đôi mắt. Lúc đọa làm loài súc sinh, tranh giành nhau ăn, bị người đâm chém, các thứ tử thương không thể kể xiết. Mang thân người ở nhân gian, sống lâu hay chết yểu, hoặc tranh sắc dục, mưu hại lẫn nhau, sát hại với nhau, chết như thế phá hư không biết bao nhiêu đôi mắt. Chính như sinh lên trời, mạng sống cũng không bao lâu. Từ xưa đến nay cũng thọ không biết bao nhiêu thân hình ở trong ba cõi này, trôi nổi trong năm đường. Vì tham, nhuế, si, thân người tan vụn số như bụi trần, chưa từng đem bố thí để cầu Phật đạo. Đôi mắt này là vật tanh hôi, không bao lâu sẽ bị tiêu hoại, nay được dùng bố thí không nên không cho. Nay đem mắt này bố thí cầu được mắt Nhất thiết trí Phật đạo Vô thượng, nếu nguyện ta thành ta sẽ cho các ngươi mắt tuệ thanh tịnh, chớ ngăn cản ý cầu đạo vô thượng của ta.
Mọi người trong hội im lặng không nói một lời, ngoảnh bảo tả hữu rằng:
– Có thể móc mắt ta.
Các thần tả hữu đều nói:
– Thà đập phá thân tôi nát nhỏ như hạt cải chứ không thể dùng tay khoét mắt của đại vương.
Vua bảo các quần thần:
– Các ông hãy tìm kiếm cho một người có con mắt đen và hay nhìn xuống dẫn đến đây.
Các thần tìm được dẫn đến cho vua. Vua liền đưa đao ra lệnh khoét mắt. Khoét được một con để trong tay vua. Vua bèn lập thệ: “Ta đem mắt này dùng để bố thí, cầu thành Phật đạo, nếu sau này thành Phật thì vị Bà-la-môn được mắt này sẽ trông thấy sáng suốt”. Thệ xong, vua đặt vào hố mắt của vị Bà-la-môn, anh ta được sáng mắt, trông thấy vua và mọi người chung quanh, vui mừng nhảy nhót, không tự chủ được và tâu vua:
– Được một con mắt vua, đủ để tôi trông thấy, xin vua để lại một con mà dùng.
Vua đáp lại:
– Ta đã hứa chắc chắn cho hai mắt, không nên trái lời.
Bèn móc thêm một con, để trong lòng bàn tay, lập thệ rằng: “Ta đem mắt này dùng để bố thí cầu thành Phật đạo, chí thành không dối, vị Bà-la-môn này được con mắt tôi, xin cho mắt được sáng tỏ.” Bấy giờ trời đất chấn động, cung điện các cõi trời cũng đều dao động, các thiên nhân kinh ngạc sợ hãi trông thấy Bồ-tát móc mắt bố thí, cùng nhau bay đến, chật kín cả hư không, dùng các hương hoa rải xuống cúng dường, khen ngợi:
– Lành thay! Lành thay! Việc làm của đại vương rất là hiếm lạ.
Vua trời Đế Thích đến trước hỏi:
– Thật là hiếm lạ, dám làm công việc như thế, muốn cầu phước báo gì?
Vua nói:
– Tôi không cầu sự an vui của cõi Ma vương, Phạm thiên, Tứ Thiên vương, Đế Thích hay Chuyển luân thánh vương. Tôi đem công đức này thệ cầu Phật đạo độ thoát chúng sinh, đến Niết-bàn an lạc.
Vua Đế Thích lại hỏi:
– Ngài nay móc mắt đau đớn như thế, có hối hận sân nhuế không?
Vua nói:
– Không hối hận cũng không sân hận. Trời Đế Thích lại nói:
– Ta nay xem thấy ngài máu chảy như lưu ly, thân thể sa sút, tự nói không hối hận, việc này khó tin.
Vua liền tự thệ:
– Tôi móc mắt bố thí, không có ý hối hận, để cầu Phật đạo, nếu thật sự không dối thì khiến hai mắt tôi bình phục như cũ.
Vua thệ xong, hai mắt hoàn toàn trông thấy, sáng suốt gấp bội hơn lúc trước. Các trời, nhân dân, tất cả đại hội không thể tự chế, vui mừng nhảy nhót ngợi khen. Vua nói với vị Bà-la-môn:
– Nay ta cho ông mắt khiến ông được trông thấy, sau này thành Phật, sẽ khiến cho ông được mắt trí tuệ.
Nói xong sai người dẫn ông ta vào kho, ban cho một gánh tài vật mang về bổn quốc. Vua Ba-la-đà- bạt-di hay tin đích thân ra nghênh đón và hỏi:
– Anh xin được mắt không? Đáp:
– Được mắt! Tôi nay đã nhìn thấy. Lại hỏi:
– Hiện giờ vua Khoái Mục còn sống hay chết? Đáp:
– Các trời giáng xuống nghe vua ấy thệ nguyện, bỗng mắt vua ấy bình phục như cũ, mà còn sáng mắt hơn lúc trước.
Vua Ba-la-đà-bạt-di nghe lời nói này, buồn rầu tức giận vỡ tim ra chết.
Nói đến đây Đức Phật bảo:
Này A-nan, nên biết vua Tu-đề-la thuở đó nay chính là tiền thân của Ta, còn Ba-la-đà-bạt-di nay là ông Điều-đạt. Vị Bà-la-môn xin mắt nay chính là vị Bà-la-môn đắc đạo bị mù trong hội này đấy. Kiếp trước Ta cho ông ta mắt, cho đến ngày nay vừa trông thấy Ta liền được mắt thịt, lại được mắt tuệ. Ta vì chúng sinh đời đời làm những hạnh khổ, tích công lũy đức cho đến ngày nay thành Phật. Các ông nên siêng năng cầu ra khỏi ba cõi. Khi Đức Phật nói đến đây, người trong chúng hội cảm niệm ân của Phật, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, có người phát tâm thành đạo Vô thượng. Ngài A-nan và chúng hội nghe Đức Phật nói xong, vui mừng phụng hành, lễ tạ lui ra.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ nước Tỳ-xá-ly có năm trăm người mù sống kiếp ăn mày, họ nghe người ta nói Như Lai ra đời rất là hiếm có. Những chúng sinh nào trông thấy được Ngài, cho dù trăm bệnh tàn tật đều được trừ bớt, người mù được sáng, kẻ điếc được nghe, người câm được khai khẩu, kẻ khập khểnh được chân tay duỗi thẳng, người cuồng loạn được an định, kẻ nghèo sẽ được áo cơm, kẻ ưu sầu khổ ách đều được khỏi cả. Bấy giờ những người mù nghe nói như vậy, cùng nhau bàn bạc:
– Lũ chúng ta tội lỗi chồng chất, quá nhiều đau khổ, nếu nay gặp được Phật, ắt sẽ được cứu tế.
Họ bèn hỏi người ta:
– Hiện nay Đức Thế Tôn đang ở nước nào? Người ta bảo:
– Hiện Ngài đang ở nước Xá-vệ.
Nghe nói thế, họ cùng ngồi bên đường hạ mình cầu sự thương xót người đi đường, nói:
– Ai có lòng Từ bi, thương xót chúng tôi, xin dẫn đường đến nước Xá-vệ, nơi Đức Phật đang ở.
Họ kêu to nhưng không có ai giúp, họ cùng nhau bàn luận:
– Lũ chúng ta tay không nhờ vả người ta không ai chịu giúp cả, nay cùng nhau đi xin, mỗi người kiếm được ít tiền dùng để mướn người ta dẫn đến đó.
Mỗi người đi xin trải qua một thời gian, mỗi người được một đồng tiền, tất cả năm trăm người hợp lại đã xong, kêu to:
– Ai dắt chúng tôi đến nước Xá-vệ, năm trăm đồng này xin được trả công.
Khi đó có một người nhận lời lấy tiền cho, rồi ra lệnh các người mù nắm tay vào nhau, anh ta đi trước dẫn đường đến nước Ma-kiệt-đà, bỏ các người mù gần một cánh đồng rộng.
Lúc đó những người mù không biết đang ở đâu, là nước nào, cùng nắm tay nhau đi, giẫm phải ruộng người khác, phá hư lúa mạ. Lúc đó có vị trưởng giả đi thăm ruộng thấy năm trăm người giẫm lên lúa non, hư hại rất nhiều, ông nổi giận trách mắng. Những người mù trình bày đủ mọi việc, trưởng giả thương xót, sai một người dắt họ đến nước Xá-vệ. Đến nước đó lại nghe Thế Tôn đã đi trở lại nước Ma-kiệt-đà, người ấy lại dắt họ về đến nước Ma-kiệt-đà. Lúc đó những người mù khát khao mong sớm được gặp Phật, mắt thịt tuy nhắm mà mắt tâm đã thấy, nên họ vẫn hoan hỷ trong lòng không biết mỏi mệt. Đến nước Ma-kiệt thì đã nghe Thế Tôn trở lại nước Xá-vệ, cứ như thế đi tìm trải qua bảy lần vẫn không gặp Phật. Bấy giờ Đức Như Lai quán thấy những người mù căn lành đã thuần thục, lòng tin kiên cố, nên Ngài ở lại nước Xá-vệ đợi họ. Người kia dẫn các người mù dần dần đến chỗ Phật. Ánh hào quang của Phật vừa chạm đến thân họ vui mừng khôn lường, liền sáng tỏ được hai mắt, trông thấy được Như Lai và bốn chúng vây quanh, sắc thân Phật vàng chói lọi như núi Tử kim, cảm đội ân tuệ, vui mừng không gì bằng, năm vóc gieo sát đất, đảnh lễ, khác miệng đồng lời cùng bạch Phật:
– Cúi mong thương xót cho chúng con nhập đạo tu hành!
Bấy giờ Đức Phật nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc họ tự rơi rụng, pháp y mặc trên mình, nghe Phật thuyết pháp đắc quả A-la-hán.
Bấy giờ ngài A-nan thấy các người mù, mắt thịt sáng sạch, dứt hết các lậu, thành A-la-hán, liền quỳ trước Phật bạch:
– Bạch Thế Tôn, Ngài ra đời thật là kỳ đặc, làm các việc thiện không thể nghĩ bàn. Những người mù này nhờ được ân tuệ, mắt thịt sáng tỏ, lại được mắt tuệ. Thế Tôn ra đời chính vì những việc như vậy.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, không những ngày nay Ta cứu họ khỏi mù tối mà ở đời quá khứ lâu xa vô lượng kiếp Ta cũng vì những người này, cứu họ thoát khỏi hắc ám.
A-nan bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trong kiếp quá khứ Ngài đã trừ khỏi mù tối cho họ sự việc như thế nào?
Đức Phật bảo:
Này A-nan, cách đây lâu xa vô lượng vô số kiếp a-tăng-kỳ, ở cõi Diêm-phù-đề này có năm trăm người thương buôn cùng đi qua một cánh đồng rộng, tới con đường nguy hiểm vào trong hang núi lớn tối om. Lúc đó những người thương buôn lo sợ buồn rầu, sợ mất của cải. Chỗ này có nhiều giặc cướp nên rất lo sợ, họ đồng tâm hợp lực hướng nguyện trời đất, mặt trời, mặt trăng, sông biển, tất cả thần kỳ ủng hộ cho họ. Khi đó Tát-bạc chủ thương xót các thương khách sầu khổ, bèn nói rằng: “Các anh chớ lo sợ, cứ an tâm đi, tôi sẽ vì các anh làm cho sáng sủa”. Lúc đó, Tát-bạc lấy tấm lụa trắng cuốn vào hai cánh tay tẩm dầu tô đốt để làm đuốc, dẫn các thương buôn, trải qua bảy ngày mới vượt khỏi hang núi tối tăm này. Bấy giờ các người thương buôn cảm đội ân ấy, quý kính khôn lường, mỗi người đều được an ổn, vui mừng không gì cho bằng.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, ông Tát-bạc thuở đó có phải ai khác đâu, chính là Ta. Ta từ vô thỉ đến nay đem quốc thành, vợ con cho đến huyết nhục bố thí cho chúng sinh, cho nên đời nay được đặc tôn trong ba cõi. Năm trăm người thương buôn ấy tức là năm trăm Tỳ-kheo này vậy. Ở đời quá khứ, Ta lấy thân sinh tử, bố thí cho họ được sáng sủa, nay được thành Phật cũng thí mắt Tuệ vô lậu.
Bấy giờ chúng hội nghe Đức Phật nói xong có người đắc quả Tu-đà-hoàn, A-na-hàm, A-la-hán, có người trồng căn lành Bích-chi-phật, hoặc có người phát tâm cầu đạo Vô thượng độ rất nhiều người. A-nan tôi và cả chúng hội nghe Đức Phật nói xong vui mừng phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Thuở ấy nước Phóng bát có một vị trưởng giả tên Đàm-ma-tiện (Tần dịch là Pháp Quân), giàu có nhất trong nước. Khi đó vợ vị trưởng giả sinh được một đứa con trai, gặp lúc nhà vua xuất quân đi chinh phạt nước khác, nhân đó đặt tên đứa trẻ là Tiện-na (Tần dịch là Quân). Sau bà lại sinh được một đứa con trai, gặp lúc vua xuất chinh được thắng, lại đặt tên con là Tỷ-kỳ-đà-tiện-na (Tần dịch là Thắng Quân). Hai đứa con lớn lên, mỗi người đều có vợ. Khi ấy vị trưởng giả mắc bệnh, mời các danh y đến trị bệnh cho ông. Trông thấy y sư, ông lo lắng tiếp đãi rất trọng hậu, các thức ăn uống đàng hoàng. Y sư tham lợi dưỡng, ôm lòng gian trá, muốn làm cho bệnh nặng thêm, cho thuốc khác, khiến bệnh còn hoài không hết.
Vị trưởng giả có một nô tỳ, hàng ngày lo ăn uống thuốc thang cho trưởng giả, biết việc ấy nên thưa với trưởng giả:
Từ nay trở đi, các y sư này, họ có ác ý nên bệnh mãi không hết, nay tôi tự lo, cứ như lần trước theo cách điều trị thì bệnh sẽ khỏi. Vị trưởng giả bèn không kêu y sư mà để cho nữ tỳ trông dưỡng, trưởng giả hết bệnh. Lúc đó nữ tỳ thưa với vị trưởng giả:
– Đại gia, tôi chăm sóc lo lắng cho đại gia, bệnh đã trừ khỏi, xin hãy thương xót ban cho tôi một điều.
Vị trưởng giả nói:
– Ngươi cần việc gì? Vị nữ tỳ bèn nói:
– Muốn được đại gia cùng tôi thông dâm, xin theo ý tôi, đừng từ chối. Trưởng giả không trái nghịch, liền theo ước muốn của cô gái. Sau khi cùng trưởng giả giao dâm, bèn cảm thấy có thai, mười tháng đã mãn sinh được một cậu con trai, cô đã mãn nguyện nên nhân đó đặt tên con là Phú-na- kỳ (Tần dịch là Mãn Nguyện). Cậu bé có đức tướng đoan chính, lớn lên khéo buôn bán, trồng trọt, chăn nuôi, được lợi bội phần, đến đâu cũng gặp sự tốt lành. Tuy bẩm thọ di thể trưởng giả, tài nghệ trí lượng hơn người nhưng là do con gái tiện tỳ sinh ra nên liệt vào hạng hèn hạ không được coi như con của các bà lớn. Bấy giờ trưởng giả lại mắc bệnh, biết mình sắp chết, kêu hai đứa con nói:
– Sau khi cha chết chớ có chia gia tài và sống riêng với nhau.
Trưởng già bị bệnh dù được trị thuốc nhưng không thể cứu tế, vài hôm thì qua đời. Khi đó hai người con vâng lời cha dạy, cùng sống chung trải qua mấy năm, gặp lúc có duyên sự muốn đến nước khác buôn bán. Các thứ nhà cửa, vợ con đều giao cho Phú-na-kỳ trông coi mọi việc. Lúc từ biệt, Phú- na-kỳ phải nghe theo lời dạy quản lý gia nghiệp. Một hôm con của hai anh muốn cần ăn uống nhờ Phú-na-kỳ cho tiền để mua, gặp lúc ngày không tiền, đứa trẻ con Thắng Quân thưa Phú-na-kỳ:
– Con nay đói khát, cho con được ăn uống.
Trong tay không có tiền nên không mua được gì. Đứa nhỏ nổi giận về mách với mẹ:
– Chú Phú-na-kỳ lòng không rộng rãi thấy bá phụ xin gì cũng cho, hôm nay con xin tiền mua quà ăn mà chú không cho.
Người mẹ nghe đứa con nói sinh hận trong lòng, cho rằng:
– Con của đứa ở mà dám có tâm thiên lệch như vậy.
Thắng Quân trở về nhà. Vợ và đứa con của ông lòng sân chưa nguội, đem mọi chuyện thưa với Thắng Quân. Nghe xong, ông nổi giận bội phần, nói:
– Đây là con của đứa ở mà dám trái lời ta dạy, đối xử tệ bạc với con ta, nên giết bỏ đi.
Trong lòng đã quyết bèn xin người anh sống riêng. Người anh vâng lời cha dạy, không cho phép ra riêng. Thắng Quân buồn rầu, xin mãi không thôi. Người anh xét thấy ý của em ôm lòng sân hận, bất đắc dĩ phải cho sống riêng, tất cả của cải, ruộng vườn chia cho một phần. Phú-na-kỳ cũng được một phần, còn anh cả hai phần. Của người anh thì người anh lấy, của Phú-na-kỳ để người em giữ. Người anh biết Thắng Quân muốn hại Phú-na-kỳ, lòng Từ thương xót, khéo léo sắp xếp bảo Phú-na-kỳ ở nhờ nhà khác. Khi ấy Phú-na-kỳ hỏi chị dâu rằng:
– Cho em ít tiền để mua củi. Chị dâu nói:
– Chỉ có năm đồng, liền lấy ra cho. Phú-na-kỳ lấy năm đồng ấy ra chợ mua củi, thấy một bó củi giá năm đồng, Phú-na-kỳ liền mua. Nhìn thấy trong bó củi có gỗ ngưu đầu và gỗ chiên-đàn hương, trong lòng rất vui mừng, vác củi về nhà, lấy gỗ hương chặt làm mười đoạn, gặp lúc hoàng hậu mắc bệnh nhiệt dữ dội rất cần gỗ ngưu đầu và đàn hương dùng để xoa trên mình mới trừ được bệnh ấy, ra lệnh cả nước tìm kiếm thứ ấy:
– Ai có gỗ hương một lạng sẽ cho hai ngàn lượng vàng.
Bấy giờ Phú-na-kỳ đem một đoạn nhỏ dâng lên cho vua. Được vua thưởng cho một ngàn lượng vàng, cứ như thế dâng vua hết mười đoạn gỗ hương, được ban cho vạn lượng. Nhân đó chàng tậu ruộng vườn, cất nhà, voi ngựa, xe cộ, nô tỳ, súc sinh, gia nghiệp lúc đó giàu có đầy đủ còn hơn lúc trước gấp bao nhiêu lần. Bấy giờ lại có năm trăm lái buôn kết giao bạn bè với Phú-na-kỳ rủ ra biển đi buôn bán. Phú-na-kỳ thưa với anh cả là muốn cùng mọi người ra biển tìm châu báu. Anh cả liền nhận lời, cấp cho ít đồ cần dùng và một người bạn đi theo ra biển, dặn dò ra đi bảo trọng để được trở về. Đi ra biển vào đến một nơi hiểm nạn, mọi người nhìn thấy cả ba mặt trời xuất hiện. Kỳ lạ, họ hỏi người dẫn đường:
– Hôm nay có ba mặt trời xuất hiện là điềm ứng thế nào? Người dẫn đường nói:
– Các ông nên biết, một là chánh nhật, hai là mắt cá, khoảng giữa là răng cá. Bây giờ nước đang rút chảy vào nơi tối tăm là miệng cá vậy, rất là đáng sợ. Hôm nay chúng ta không có con đường sống, sắp đến miệng cá rồi, chắc chắn là chết.
Có một Hiền giả, kính tin Phật đạo, nói với các lái buôn:
– Các anh nên thành tâm niệm “Nam-mô Phật”, bậc đức lớn trong ba cõi, không ai hơn Phật, cứu tai nạn cấp bách, hay cứu khổ tai nạn chúng sinh. Chỉ mong Phật thánh nguyện cứu hiểm ách, giúp những người mạng sống mong manh này.
Khi ấy, cá Ma-kiệt nghe xưng danh hiệu Phật liền ngậm miệng lại, lặn xuống đáy biển. Các người lái buôn nhờ vậy mà về nước an ổn. Về đến nhà, Phú-na-kỳ lấy mâm vàng lớn, đem các của báu, châu ma-ni... đựng đầy mâm dâng cho người anh cả, thưa:
– Em đã vì anh, chứa nhiều của báu, nhà cửa tất cả vật dụng đầy đủ, con cháu bảy đời tiêu dùng cũng không hết, xin biếu anh cả, xin anh cho em được xuất gia.
Tiện-na nói:
– Ta không muốn trái ý, nhưng em tuổi nhỏ, chưa hiểu rõ nhân luân, sự quan trọng của Phật pháp, thực hành rất khó, hãy chậm lại vài năm nữa.
Phú-na-kỳ nói:
– Đại huynh nên biết mạng người vô thường, sớm còn tối mất, khó bảo đảm được, trước đây ở ngoài biển gặp cá Ma-kiệt hút thuyền vào miệng suýt chết, nhờ ân Đức Phật cứu sống mạng này, xin anh cho phép, nghe em lần này.
Anh cả liền nhận lời, khi đó Phú-na-kỳ cùng năm trăm người lái buôn tới nước Xá-vệ, đến chỗ Phật đảnh lễ, thăm hỏi, nhân đó bạch Phật cầu xin xuất gia. Phật liền hứa khả cho nhập đạo, khen ngợi:
– Thiện lai!
Họ liền biến thành Sa-môn. Đức Phật vì họ thuyết các thứ khổ, năm trăm Tỳ-kheo ấy tâm khai ý giải, dứt hết các khổ thành A-la-hán, chỉ có Phú- na-kỳ kết sử sâu nặng, nghe Phật thuyết pháp chưa thể thông đạt liền tinh tấn kiền thành lập chí mới chứng được Sơ quả, từ đó siêng năng tu tập, không dám lười biếng.
Bấy giờ ngày an cư của các Tỳ-kheo sắp tới, Đức Phật bảo các vị tùy ý an cư. Khi ấy Phú-na-kỳ tới trước bạch Phật:
– Đệ tử muốn đến nước Phóng bát an cư ba tháng, cúi xin Đức Phật từ bi hoan hỷ.
Lúc đó Thế Tôn bảo Phú-na-kỳ:
– Nước đó người ta hung ác, tin theo tà đạo, kiến thức điên đảo. Con nay mới học, ở trong Phật pháp chưa có thể đầy đủ Phật pháp thánh hạnh, giả sử bị người ta hủy nhục thì biết làm thế nào?
Phú-na-kỳ nói:
– Giả sử bị người hết sức hủy nhục đi nữa, nhưng họ không làm hại con.
Đức Thế Tôn lại nói:
Giả sử có người gian ác làm hại thì phải làm sao?
Phú-na-kỳ thưa:
– Bạch Thế Tôn, giả sử như bị người hủy nhục gia hại, nhưng họ không giết con, con cũng còn mang ân họ.
Đức Phật lại bảo:
– Con đến đó, lỡ gặp người ác giết hại mạng con, không được ích lợi gì cho con. thì con phải làm thế nào?
Phú-na-kỳ nói:
Bạch Thế Tôn, tất cả vạn vật có hình tướng rồi cũng hoàn không, nếu họ giết con thì con chịu chết.
Lúc đó Thế Tôn bảo Phú-na-kỳ:
– Các người ác kia hủy nhục gia hại mà chưa giết con, con có sân không?
Phú-na-kỳ thưa:
– Bạch Thế Tôn, không. Như người đó không có căn cứ vô cớ chê bai hủy nhục, hoặc dùng đao trượng đánh đập giết con mà chưa chết hẳn, cho đến lúc mạng chung, con cũng không có một niệm sinh khởi tâm sân.
Đức Phật liền khen ngợi:
– Hay thay! Hay thay! Đệ tử thực hành được như vậy là rất hay.
Lúc đó Phú-na-kỳ lễ Phật cầm y bát ra đi, tới nước Phóng bát. Sáng sớm ngày mai, Phú-na-kỳ vào thành khất thực, đến nhà một Bà-la-môn giàu có. Lúc đó vị Bà-la-môn thấy vị Tỳ-kheo liền ôm lòng ác, đi theo chửi mắng. Phú-na-kỳ đi qua nhà khác khất thực, vị Bà-la-môn ấy cũng đi theo dùng tay đánh đập. Phú-na-kỳ cũng vui vẻ không thay đổi sắc mặt. Lúc đó vị Bà-la-môn trông thấy vị Tỳ- kheo bị hủy nhục, bức bách như vậy mà không tỏ chút oán hận, bèn tự trách, xin lỗi việc làm vừa rồi. Phú-na-kỳ ở trong nước đó, siêng năng tu hành không giải đãi, dứt hết kết sử, tâm bỗng khai mở, chứng được vô lậu. Sau ba tháng an cư, bèn từ giã các đàn-việt và trở về nhà dặn người anh cả rằng:
– Anh cẩn thận chớ có ra biển, ngoài biển có rất nhiều nguy hiểm, tiền bạc của anh đủ dùng cho bảy đời cũng không hết.
Dặn dò xong, Phú-na-kỳ trở về chỗ Phật ở, đảnh lễ thăm hỏi xong, rồi đi nghỉ. Người anh Tiện-na không nghe lời Phú-na-kỳ, một hôm có các lái buôn rủ đi ra biển. Tiện-na nghe theo và cùng đi ra biển, tùy ý chọn lấy của báu rất nặng, chỉ có Tiện-na lấy ra rất nhiều gỗ ngưu đầu, chiên- đàn hương, thuyền đầy trở về gặp con rồng có tánh xan tham, ham tiếc gỗ hương ấy, liền nắm thuyền, nhổ cột buồm, thuyền không đi được. Những người lái buôn coi chết là chắc. Lúc đó Tiện-na một lòng gọi tên Phú-na-kỳ nói:
– Nay anh gặp nạn, xin em cứu giúp.
Khi đó Phú-na-kỳ ở nước Xá-vệ tại tinh xá Kỳ hoàn, tọa thiền tư duy, do Thiên nhĩ thông, nghe anh Tiện-na đang bị tai nạn ở xứ nọ, chí tâm tự trần thuật, một lòng đau đớn kêu:
– Phú-na-kỳ! Phú-na-kỳ.
Ngài liền dùng thần túc La-hán, cũng như lực sĩ co duỗi cánh tay, biến hóa thân làm chim Kim sí điểu bay vào trong biển khủng bố con rồng ấy. Con rồng thấy bóng chim sợ hãi lặn xuống đáy biển, các người lái buôn được an ổn, trở về nhà. Khi ấy Phú- na-kỳ giáo hóa người anh xây dựng cho Thế Tôn một cái nhà nhỏ lợp che thuần bằng gỗ chiên-đàn, làm xong ngôi nhà rồi giáo hóa người anh thỉnh Phật. Tiện-na nói:
– Việc thỉnh Phật phải dùng vật gì? Thỉnh như thế nào?
Khi đó Phú-na-kỳ cùng người anh cả bày các thứ cúng dường xong, đốt lư trầm hương, cùng đốt đèn trên lầu cao, hướng về tinh xá Kỳ hoàn đốt hương quy mệnh Phật và Thánh tăng, khấn nguyện:
– Cúi mong Đức Phật ngày mai đến nước hèn mạt này khai ngộ những chúng sinh ngu muội mê mờ này.
Nguyện xong, khói hương bay tới trên đỉnh đầu Đức Thế Tôn, quyện kết thành một cái lọng bằng khói hương, sau đó phóng nước từ hư không đến rửa chân Thế Tôn.
Bấy giờ A-nan trông thấy sự việc kỳ lạ như vậy, bèn hỏi Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, ai phóng nước và khói tới đây thế?
Đức Phật bảo A-nan:
Là vị A-la-hán Tỳ-kheo Phú-na-kỳ ở nước Phóng bát khuyên anh Tiện-na thỉnh Đức Phật và Tăng, cho nên phóng nước và khói để làm tín thỉnh. Nhân đó Ngài bảo A-nan đến trong Tăng chúng, phát thẻ những vị Tỳ-kheo có thần túc, ngày mai đều đến, đáp lời thỉnh của Tiện-na, hiện biến hóa đi khắp nước đó. A-nan tôi phụng lệnh phát thẻ hợp Tăng, những vị có thần túc ngày mai đến thọ thỉnh. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều đã nhận thẻ xong, sáng sớm ngày mai, người làm cơm tên Kỳ-kiền- trực-kỳ (Tần dịch Tục Sinh), ông đã đắc quả A-na- hàm, hàng ngày làm cơm cúng dường tất cả chúng Tăng, lúc ấy ông ngồi kiết già phu, thân phóng ánh sáng soi rọi bốn phương, đem dụng cụ đựng thức ăn, cái muôi, thìa, trăm cái hộc, cái búa lớn... theo ông cỡi hư không đi đến nước Phóng bát. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em phải không? Đáp:
Không phải, là một vị Tỳ-kheo làm cơm hàng ngày đến giúp bữa trai hôm nay.
Khi ấy Tiện-na liền đem hương hoa âm nhạc cúng dường, cúng dường xong rồi vào nhà. Sau đó lại có mười sáu vị Sa-di, trong đó có Sa-di Quân- đề, mỗi vị đều dùng thần túc biến hóa ra rừng cây, hái hoa quả; các thứ biến hiện, thân phóng ánh sáng chói lọi trời đất, vút trên hư không kéo tới nườm nượp. Tiện-na lại hỏi:
– Đây là thầy của em phải không? Đáp:
Không phải. Các vị này là đệ tử cùng thầy với em mới bảy tuổi đã đắc quả A-la-hán, dứt sạch các lậu, đầy đủ thần túc. Hôm nay đến trước hái hoa quả cúng dường.
Tiện-na liền đem hương hoa, âm nhạc ra cúng dường. Cúng xong các vị Sa-di ấy đáp xuống đi vào nhà. Kế đến lại có các trưởng lão đại A-la-hán hóa ra ngàn con rồng, kết thân làm tòa ngóc đầu ra bốn bên, tiếng hát vang trời, miệng của các con rồng phun ra mưa bảy báu, đặt lên tòa ấy thành tòa báu lớn, rồi bay bổng trên hư không, thân phóng ra ánh sáng, chiếu khắp thiên hạ, rồi đến nước Phóng bát. Tiện-na lại hỏi:
– Đây là thầy của em phải không? Đáp:
– Không phải, là đệ tử của thầy em tên Kiều- trần-như. Lúc Phật mới thành đạo, thuyết pháp tại vườn Lộc uyển, rộng độ chúng sinh, là năm vị này được độ đầu tiên. Trong hàng đệ tử Phật là bậc đệ nhất thượng thủ, đầy đủ thần thông vô ngại.
Tiện-na nghe nói càng thêm cung kính, liền đem hương hoa âm nhạc ra để cúng dường, cúng dường xong liền mời vào nhà. Kế đến lại có Ma- ha Ca-diếp hóa làm giảng đường bảy báu, thân phóng ánh sáng chiếu khắp bốn phương, đi đến nước đó. Tiện-na trông thấy, hỏi Phú-na-kỳ:
– Đây là thầy của em phải không? Đáp:
Là đệ tử của thầy em, tên Ma-ha Ca-diếp, thanh kiệm tri túc thường hành đầu đà, thương kẻ ty tiện, giúp người nghèo khó.
Tiện-na liền đem hương hoa âm nhạc ra cúng dường, cúng dường xong liền mời vào nhà. Khi ấy Xá-lợi-phất cỡi tòa ngàn con sư tử, đầu xoay bốn phía, miệng phun mưa bảy báu, gầm thét chấn động trời đất, trên tòa sư tử trải giường báu lớn, trang hoàng đẹp đẽ, đứng trên tòa ấy, thân phóng ra ánh sáng, chiếu khắp bốn phương, bay lên hư không, lượn lướt mà đến. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy của em chăng? Đáp:
– Không phải, người cỡi hư không bay đến đó là vị đại đệ tử của thầy em, trí tuệ rộng lớn, tên Xá- lợi-phất.
Tiện-na nghe rồi, vui mừng gấp bội, liền đem hương hoa âm nhạc cúng dường. Cúng dường xong liền mời vào nhà. Bấy giờ Đại Mục-kiền-liên đến sau cùng hóa làm ngàn con voi, quay đầu ra bốn bên, mỗi con có sáu ngà, mỗi đầu ngà có bảy ao nước tắm, trong mỗi ao có bảy hoa sen, trên mỗi bông sen có bảy ngọc nữ. Ngoài ra còn biến hiện rất nhiều, phóng hào quang sáng lớn, cảm động cả bốn phương trời, lại trên đầu voi đặt cái tòa báu, tự ngồi trên đó, cỡi hư không đi. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em phải không? Đáp:
Không phải, đó là đệ tử của thầy em, tên là Đại Mục-liên, thần túc đệ nhất, đức hạnh thuần bị. Tiện-na nghe nói vui mừng kính ngưỡng, đem hương hoa âm nhạc để cúng dường, cúng xong rồi mời vào nhà. Kế tiếp sau có ngài A-na-luật-đề hóa ra ao tắm bảy báu, trong ao có mọc hoa sen sắc vàng, lá cọng đu bằng bảy báu hợp thành, ngài ngồi kiết già trên hoa sen ấy, cổ đeo chiếc bội nhật quang, chiếu sáng khắp thiên hạ, chỗ ánh sáng chiếu đến đều là màu vàng, bay trên hư không mà đến nước đó. Tiện-na lại hỏi:
– Đây là thầy của em chăng? Đáp:
– Không phải, là đệ tử của thầy em, tên A-na- luật-đề. Ở trong đại chúng, ngài có Thiên nhãn đệ nhất.
Tiện-na nghe xong vui mừng, cung kính đem hương hoa cúng dường rồi tự ngài đi vào nhà. Kế tiếp sau có em của Phật là Nan-đà, hóa làm ngàn cỗ xe ngựa bằng bảy báu, trên xe che tán bảy báu phóng ánh sáng chiếu soi bốn phía, cỡi hư không mà đến nước Phóng bát. Tiện-na trông thấy hỏi Phú-na-kỳ:
– Đây là thầy của em chăng? Đáp:
Không! Là em của Thế Tôn, tên Nan-đà, tướng mạo và đức hạnh đầy đủ. Tiện-na bèn đem hương hoa ra cúng dường, cúng xong mời vào nhà. Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề đến sau cũng hóa ra bảy báu, ngồi trong hang lưu ly, thân phóng ra nhiều sắc ánh sáng lẫn nhau, chiếu khắp trời đất, bay đến nước đó. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em phải không? Đáp:
– Không phải, đó là đệ tử thầy em tên Tu-bồ- đề, quảng trí đa văn, giải không đệ nhất.
Tiện-na liền vui mừng đem hương hoa ra cúng dường xong rồi ngài tự vào nhà. Kế đến có ngài Phân-nậu-văn-đà-ni tử hóa làm một ngàn Ca-lầu- la vương, kết thân làm tòa, ló đầu bốn phía, miệng ngậm các thứ báu, phát ra những tiếng hòa nhã, lại ngồi trên tòa báu lớn cỡi hư không mà đến. Tiện- na trông thấy hỏi:
– Đây là thầy em chăng? Đáp:
– Không phải! Là bạn cùng thầy với em tên Phan-nậu-văn-đà-ni tử là một vị biện tài ứng đối đệ nhất.
Tiện-na liền đem hương hoa cúng dường và mời vào nhà. Tiếp theo là ngài Ưu-ba-ly hóa thân làm ngàn chim nhạn dụm đầu vào nhau đầu quay ra ngoài kêu, phát ra những âm thanh hòa nhã, miệng ngậm các thứ báu, bay liệng trên hư không, trên mình bày tòa quý báu, phóng ánh sáng chiếu soi bốn phía, thân cỡi trên đá bay đến. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em chăng? Đáp:
– Không phải! Là đệ tử của thầy em tên Ưu-ba- ly là một vị trì luật đệ nhất trong hàng Tỳ-kheo.
Tiện-na nghe rồi bèn đem hương hoa ra cúng dường, cúng xong ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Kế tiếp sau có Sa-môn Nhị Thập Ức hóa làm hàng cây ở trên hư không, dùng ngọc lưu ly xanh làm lối đi kinh hành giữa hai hàng cây giáp nhau làm bằng bảy báu, bên lề đường cũng làm bằng các thứ báu đẹp, đi kinh hành trong đó dần dần đến nước Phóng bát. Tiện-na lại hỏi:
– Đây là thầy em chăng? Đáp:
– Không phải! Là đệ tử của Phật tên Sa-môn Nhị-thập-ức, trong các hàng Tỳ-kheo là tinh tấn nhất.
Tiện-na đem hương hoa âm nhạc ra cúng dường và các ngài từ từ vào nhà. Kế tiếp lại có Đại Kiếp-tân-ninh hóa làm bảy hàng cây báu, trên cây có rất nhiều hoa quả, dưới gốc cây đều có tòa cao bảy báu, ngài ngồi trên đó, phóng ánh sáng lớn cỡi hư không bay đến. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy của em chăng? Đáp:
Không phải. Đấy là đệ tử Phật tên Đại Kiếp- tân-ninh, oai nghi đĩnh đạc, dũng mãnh đệ nhất.
Tiện-na nghe xong, vui mừng đem hương hoa âm nhạc cúng dường. Cúng xong, ngài từ từ vào nhà. Kế tiếp có ngài Tân-đầu-lô-đỏa-xà ngồi trên hoa sen báu, cổ đeo ngọc bội nguyệt quang, phóng ra ngàn ánh sáng, chói đỏ trời đất, bay lên hư không mà đến nước Phóng bát. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em phải không? Đáp:
– Không phải, là đệ tử thầy em tên Tân-đầu-lô- đỏa-xà là một vị tọa thiền nhập định giỏi nhất.
Tiện-na liền đem hương hoa cúng dường xong, ngài từ từ vào nhà. Kế đến là La-hầu-la tự hóa làm vua Chuyển luân, có ngàn người con, bảy báu, dẫn đến nước đó. Tiện-na hỏi:
– Đây là thầy em chăng? Đáp:
– Không phải! Là con của Phật, tên La-hầu-la, nếu còn ở hoàng cung sẽ thống lãnh bốn thiên hạ, bảy báu tự nhiên đầy đủ, không cần dùng binh lính và khí giới mà hàng phục được giặc. Nay đã bỏ ngôi vị ấy, xuất gia học đạo, tu chứng quả A-la- hán, đầy đủ sáu pháp thần thông, không có chướng ngại, giờ đây biến hiện thân hình ngôi vị đó.
Tiện-na nghe xong đem hương hoa cúng dường, rồi mời vào nhà. Năm trăm vị đệ tử Phật có thần túc mỗi vị đều biến hiện không thể kể xiết.
Khi đó Đức Thế Tôn biết các đệ tử đều đã đến nước đó, Ngài bèn phóng hào quang chiếu sáng trời đất đều một màu vàng. Bấy giờ Phú-na-kỳ nói với người anh:
– Hiện nay Đức Thế Tôn khởi ý muốn đến đây, nên phóng quang báo điềm trước.
Bấy giờ Thế Tôn ngồi trên tòa bước chân xuống đất, thời trời đất sáu lần chấn động. Phú-na- kỳ nói với người anh:
Đức Thế Tôn đang rời tòa ngồi bước chân xuống đất nên trời đất chấn động như thế.
Khi ấy Thế Tôn vừa rời khỏi tinh xá đứng ở bên ngoài, thì tám thần Kim cang đứng ở tám phía, có Tứ Thiên vương dẫn đường đi trước, vua Đế Thích và các vị Thiên tử cõi Dục trăm ngàn vạn người thị vệ bên trái; Đại phạm Thiên vương và các trời cõi Sắc với vô số chúng đứng bên phải. A-nan đứng ở sau Phật, đại chúng vây quanh, phóng quang minh chiếu khắp trời đất, bay lên hư không đến nước Phóng bát. Bay được giữa đường, gặp năm trăm nông phu đang dùng trâu cày ruộng, các con trâu thấy Phật bay trên hư không, phóng ánh sáng sắc vào khắp cả thế giới, các con trâu chí tâm ngước lên nhìn Thế Tôn rất là cung kính, đứng lại không kéo cày nữa. Nông phu thấy trâu ngước lên nhìn trời làm lạ, họ cũng trông nhìn lên thấy Phật, bèn quỳ xuống bạch:
– Cúi mong Như Lai thương xót chúng con tạm dừng một chút để giáo hóa, khiến chúng con được lìa sinh tử.
Đức Phật lấy lòng Từ bi biết họ có thể hóa độ, liền hạ xuống thuyết diễn diệu pháp cho họ nghe. Năm trăm người, tâm ý khai ngộ, dứt được hai mươi ức tội ác, chứng quả Tu-đà-hoàn, còn những con trâu sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời, ai nấy đều rất vui mừng. Lúc đó Như Lai lại bay lên hư không mà đi, chưa được bao xa thì có năm trăm đồng nữ chơi giỡn ngoài đồng trống, thấy mặt đất sắc vàng, ngước nhìn trông thấy Phật biến hiện cỡi hư không bay đi, trong lòng vui mừng chắp tay bạch:
– Ngưỡng mong Thế Tôn rủ lòng thương xót tạm dừng để tế độ chúng con.
Đức Phật biết những đứa trẻ này có túc duyên có thể hóa độ, liền hạ xuống đến chỗ đó, thuyết pháp cho chúng. Nghe xong chúng đều khai mở trí tuệ, chứng quả Tu-đà-hoàn. Cảm hóa xong Đức Phật bèn đi bộ trên hư không. Lại có năm trăm Tiên nhân, sống trong đầm rừng thấy ánh sáng khắp mặt đất sắc vàng, ngước trông thấy Như Lai và đại chúng đi trên hư không, trong lòng vui mừng, cung kính gấp bội, ngưỡng bạch Phật:
– Cúi mong Đại Thánh tạm dừng lại, nhân thấy Ngài đi qua, xin giảng đạo cho chúng con nghe.
Đức Phật quán thấy duyên trước của họ, biết có thể độ được, Ngài hạ xuống, họ cầu xin làm Sa- môn, Đức Phật nhận lời nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Họ trở thành Sa-môn. Nhân đó Đức Phật thuyết pháp, tâm họ sáng tỏ, dứt hết các lậu, chứng A-la- hán, cũng đi theo Phật, cỡi hư không mà đi.
Bấy giờ Phú-na-kỳ trông thấy Đức Phật từ xa đến, ánh sáng chói cả trời đất, đại chúng cũng từ trên hư không mà đi, liền gọi anh Tiện-na:
– Đức Thế Tôn và đại chúng sắp đến.
Đức Phật đến nước đó, Tiện-na vui mừng đem hương hoa âm nhạc ra cúng dường. Cúng dường xong cùng đến trai đường. Đức Phật và đại chúng đã như pháp an tọa rồi, Tiện-na và cả nhà sửa soạn cỗ bàn, tự bưng thức ăn uống dâng cúng. Đức Phật dùng cơm xong, thuyết pháp cho cả nhà Tiện-na và dân chúng nghe. Xong buổi thuyết pháp, cả nhà Tiện-na đắc quả Tu-đà-hoàn, có người chứng đủ hai đạo ba quả, lại có người phát tâm cầu đạo Đại thừa, lại có người trụ vững chắc Bất thoái địa. Phật thuyết pháp xong, nam nữ cả nước, người đắc đạo không thể kể xiết.
Thấy thế, A-nan quỳ bạch Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, Phú-na-kỳ đây ở đời quá khứ tạo nghiệp ác gì mà sinh làm người hạ tiện, con của người nô tỳ? Lại có phúc gì mà gặp Phật được độ thoát sinh tử?
Đức Phật bảo A-nan:
– Ông muốn biết về Phú-na-kỳ, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói.
Đáp:
– Vâng! Chúng con chú ý lắng nghe. Đức Phật bảo:
Này A-nan, ở đời quá khứ thời Phật Ca-diếp, có một vị trưởng giả giàu có, ông xây một ngôi Già- lam cho Phật và chúng Tăng, cúng dường y phục, thức ăn, thuốc thang tứ sự..., cúng dường tất cả không để thiếu thốn. Sau khi vị trưởng giả qua đời, đứa con trai của ông xuất gia học đạo, nên sau khi người cha mất, sự cúng dường thiếu hụt, chúng Tăng phải tản đi nơi khác, chùa chiền bỏ hoang, mục nát, không có người ở. Người con xuất gia thành một vị Tỳ-kheo, ra sức kêu gọi đàn-việt tri thức gom góp tiền tài tu bổ ngôi chùa, mời chúng Tăng trở về, cúng dường lại như xưa. Bấy giờ chúng Tăng về trụ chùa ấy rất đông, tinh tấn chuyên tu, phần nhiều những vị cao tăng đức hạnh đầy đủ, đạt được tự tại. Khi ấy có một vị La-hán đạo nhân, tới phiên trực nhật, quét cỏ rác gom thành một đống trước sân, chưa kịp hốt đem bỏ. Lúc đó vị Tỳ-kheo (con vị trưởng giả xuất gia) ác tâm la mắng vị Tỳ- kheo kia như nô tỳ không khác, trách móc tại sao quét rác không đem đổ bỏ... A-nan nên biết, vị Tỳ- kheo đó nay chính là Phú-na-kỳ. Do có tâm ác mắng vị Đạo nhân tựa như nô tỳ và do một lời nói ấy mà trong năm trăm đời thường phải làm thân nô tỳ. Lại do tạo lập chùa khuyên người cúng dường chúng Tăng, đền tội đã xong, nay được gặp Ta đắc quả giải thoát. Hôm nay những người trong nước này được thọ hóa đều là những người kiếp xưa trợ giúp làm chùa, gieo duyên như thế đều được độ thoát.
Khi đó Ngài A-nan và cả đại chúng nghe Đức Phật thuyết xong, vui mừng phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và thái tử Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ trong thành Xá-vệ, nhân dân đông đúc, chỗ ở chật hẹp, nhà xí rất ít, nên việc đi đại, tiểu phần nhiều phải ra ngoại thành. Có những nhà giàu không thể đi ra ngoài, bèn đại tiện trong cái bô rồi thuê người đem đổ ngoài thành. Khi đó có một người tên Ni-đề, rất nghèo, hàng ngày sinh sống bằng nghề đổ phân thuê. Bấy giờ Thế Tôn biết ông là người nên độ, dẫn riêng A-nan tôi vào thành muốn giúp ông, đi đến đầu phố thì gặp Ni-đề gánh hai thùng đầy những thứ bất tịnh để đem đi đổ. Từ xa, ông trông thấy Thế Tôn, trong lòng tủi hổ, quẹo sang đường khác để lánh mặt. Vừa ra khỏi hẻm thì lại gặp Thế Tôn, càng xấu hổ, rẽ sang lối khác, muốn tránh đi, tâm ý hoảng hốt, thùng va vào vách vỡ ra, phân bắn dính đầy người, càng thêm hổ thẹn không dám nhìn Phật. Lúc đó Thế Tôn đi đến chỗ Ni-đề nói với ông:
– Này Ni-đề, ông có muốn xuất gia không?
Ni-đề thưa:
– Đức Như Lai tôn quý là dòng Kim luân vương, các đệ tử theo Ngài cũng là dòng quý tộc, con là kẻ rất hạ tiện xấu ác, đâu có đồng với các vị kia, làm sao mà được xuất gia?
Đức Thế Tôn bảo:
– Giáo pháp của Ta thanh tịnh nhiệm mầu, cũng như nước sạch, có thể rửa sạch tất cả cấu uế, cũng như lửa lớn có thể đốt cháy mọi vật, lớn nhỏ, tốt xấu đều có thể đốt cháy hết. Giáo pháp của Ta cũng như vậy, rộng lớn vô biên, giàu nghèo, sang hèn, trai hay gái đều có thể tu, đều lìa hết các dục.
Lúc đó Ni-đề nghe Phật nói, khởi sinh lòng tin muốn xin xuất gia. Đức Phật sai A-nan dẫn ông ra ngoài thành, bên bờ sông lớn, tắm rửa sạch sẽ rồi dẫn về tinh xá Kỳ hoàn, Đức Phật thuyết pháp cho ông về khổ, việc sinh tử đáng sợ, Niết-bàn mãi an lạc. Ông hốt nhiên giác ngộ, chứng được Sơ quả, chắp tay bạch Phật cầu làm Sa-môn. Đức Phật liền nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc ông tự rụng, pháp y mặc lên mình. Đức Phật giảng thêm về pháp Tứ đế, thì ông dứt sạch các lậu thành A-la-hán, chứng đủ Tam minh, Lục thông.
Bấy giờ người trong nước nghe Ni-đề xuất gia, ôm lòng chê trách mà nói thế này:
– Tại sao Đức Thế Tôn cho người hạ tiện này xuất gia học đạo, chúng ta làm sao lễ bái ông ta được? Thiết trai cúng dường thỉnh Phật và chúng Tăng, chứ ông ta đến làm dơ bẩn giường ghế chúng ta.
Họ xôn xao đồn khắp trong thành, dần dần đến tai vua. Vua nghe cũng bực bội, bèn lên long xa cùng các tùy tùng đến tinh xá Kỳ hoàn để hỏi Như Lai về chỗ nghi vấn này. Đến trước cổng, vua dừng nghỉ chân bên ngoài, nhìn thấy trên một tảng đá lớn Tỳ-kheo Ni-đề ngồi trên đấy vá y, có bảy trăm Thiên nhân cầm hương hoa tới cúng dường Ni-đề, kính lễ nhiễu bên hữu. Bấy giờ vua thấy rất vui mừng, đến chỗ vị Tỳ-kheo mà nói rằng:
– Ta muốn gặp Đức Phật, xin hãy thông báo.
Ngay lập tức Tỳ-kheo Ni-đề thân rẽ xuyên hòn đá đi vào bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, vua Ba-tư-nặc đang ở bên ngoài muốn vào thăm hỏi Thế Tôn.
Đức Phật bảo Ni-đề:
– Ông dùng đạo lực đi ra nói rằng ta cho vào.
Lúc đó Ni-đề từ trong tảng đá đi ra giống như ra khỏi mặt nước, không có chướng ngại, liền thưa với vua:
– Tôi đã thưa Thế Tôn rồi, bệ hạ có thể vào.
Vua Ba-tư-nặc thầm nghĩ:
– Việc ta nghi vấn thôi hãy để đó, trước tiên ta nên hỏi vị Tỳ-kheo này có phước hạnh gì mà được thần lực như vậy.
Đức vua vào bái kiến Phật, cúi đầu dưới chân Phật, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, lui về ngồi một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, bên ngoài có một vị Tỳ-kheo thần lực khôn lường, đi vào tảng đá như xuyên qua nước, ra khỏi tảng đá mà không có dấu nứt, vị ấy tên họ gì, cúi mong Thế Tôn chỉ bày.
Thế Tôn nói:
– Đó là một người hèn hạ nhất trong nước của nhà vua, Ta đã hóa độ chứng A-la-hán. Nay đại vương đến đây muốn hỏi về việc này có phải không?
Vua nghe Phật nói tâm kiêu mạn liền từ bỏ, vui vẻ khôn lường. Nhân đó Đức Phật bảo vua:
Phàm con người ở đời, tôn ty quý tiện, nghèo giàu khổ vui, đều do hành nghiệp đời trước mà được quả đời này. Nhân từ khiêm thuận, kính lớn mến nhỏ, thì làm quý nhân, hung ác tàn bạo, kiêu ngạo tự đại thì làm người hạ tiện.
Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:
– Bậc Đại Thánh ra đời cứu tế cho muôn loài, phàm người hạ tiện, cứu khổ độc ban cho an lạc. Ông Ni-đề này vì nhân duyên gì, sinh vào nơi hạ tiện, lại gieo trồng đức gì được gặp Đức Thánh Tôn, được thọ giáo hóa thành bậc Ứng chân? Cúi mong Thế Tôn chỉ bày rõ ràng.
Đức Phật bảo vua:
Hãy lắng nghe kỹ, Ta sẽ giải nói khiến cho bệ hạ được rõ. Ở đời quá khứ thời Đức Phật Ca-diếp xuất hiện thế gian, sau khi Ngài diệt độ, đệ tử có mười vạn Tỳ-kheo Tăng, trong đó có một vị Sa- môn trụ trì, thân mắc bệnh uống thuốc xổ, ông cậy thế kiêu mạn không chịu đi ra ngoài đại tiện, mà dùng cái bình mạ bằng vàng bạc dùng để đi đại tiểu rồi sai một đệ tử xách đi đổ. Nhưng người đệ tử đó đã chứng quả Tu-đà-hoàn. Do ở đời trước không có tính khiêm nhường, tự cậy có nhiều của cải, giữ việc Tăng chúng, gặp có chút bệnh nhẹ, lười biếng không đi, sai vị Thánh nhân phục dịch, đổ phân uế cho mình, do nhân duyên đó, trôi nổi trong sinh tử thường phải làm kẻ hạ tiện trong năm trăm đời, làm người đổ phân. Mãi cho đến đời này, do công đức xuất gia trì giới, gặp được Thế Tôn, nghe pháp đắc đạo. Này đại vương, vị Tỳ-kheo trụ trì thuở đó chính là Tỳ-kheo Ni-đề ngày nay.
Vua Ba-tư-nặc thưa:
– Bạch Thế Tôn, Như Lai ra đời thật là hy hữu, làm lợi ích cho không biết bao nhiêu chúng sinh khổ não.
Đức Phật nói:
– Đại vương! Lành thay! Lành thay! Đúng như đại vương nói, chúng sinh luân chuyển trong ba cõi không có định phẩm. Người tích thiện tu nhân sẽ sinh vào nhà giàu có tôn quý, kẻ tạo ác phóng túng sẽ sinh vào nhà hạ tiện.
Nghe Phật nói, nhà vua rất vui mừng, bỏ hết tâm kiêu mạn, đứng lên quỳ xuống ôm chân Ni-đề mà làm lễ, sám hối từ tạ, nguyện trừ tội lỗi. Bấy giờ Thế Tôn nhân đó rộng nói nghĩa pháp vi diệu về luận bố thí, luận trì giới, luận sinh Thiên. Kẻ phạm dục là hạnh bất tịnh, đoạn dục là hạnh an lạc. Bấy giờ đại hội nghe Đức Phật nói ai nấy đều được chứng đạo, tín thọ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ.
Lúc bấy giờ từ vương quốc của vua Ba-tư-nặc, về phương Nam có một nước tên Kim địa. Vua nước đó tên là Kiếp-tân-ninh có một thái tử tên Đại Kiếp-tân-ninh, người thông minh sáng suốt, sức lực khỏe mạnh. Thái tử nối ngôi thống trị nước đó, có ba vạn sáu ngàn binh lính hùng mạnh, không ai có thể địch lại nổi, uy phong vang xa, không nước nào chẳng phục tùng, nhưng đối với nước ở vùng Trung thổ không có bang giao. Sau này có một thương buôn đến nước Kim địa buôn bán, đem dâng lên vua bốn tấm lụa rất tốt, vua nhận rồi hỏi người thương buôn:
– Vật này rất tốt, nó sản xuất từ xứ nào? Thương buôn đáp:
– Sản xuất ở một nước ở vùng Trung thổ.
Vua lại hỏi:
– Nước ở vùng Trung thổ đó tên là gì? Người thương buôn nói:
– Tên La-duyệt-kỳ, hay Xá-vệ, dân chúng xứ đó rất đông không thể nói hết.
Vua lại hỏi:
– Các vua xứ Trung thổ tại sao không đến cống hiến ta?
Thương buôn nói:
– Họ cũng là vua một xứ, uy danh cũng chẳng ai bằng, cho nên họ không đến cống hiến.
Nhà vua tự suy nghĩ: “Thế lực của ta hiện nay có thể thống nhiếp tất cả thiên hạ, tại sao các vua không đến dâng cống, ta sẽ ra oai để cho họ hàng phục”. Lại nói thương buôn:
– Các vua xứ Trung thổ, nước nào lớn nhất. Thương buôn thưa:
– Vua nước Xá-vệ là lớn nhất.
Bấy giờ vua nước Kim địa bèn sai sứ đến nước Xá-vệ, mang theo chiếu chỉ nói với vua Ba-tư-nặc như sau:
Uy phong của ta khắp cả Diêm-phù-đề. Khanh cậy vào đâu mà tuyệt giao với ta, nay ta sai sứ báo cho khanh biết, nếu khanh đang nằm, nghe chiếu chỉ của ta thì phải ngồi dậy ngay; nếu đang ngồi thì phải đứng dậy ngay; nếu đang ăn thì phải nhả ra ngay, nếu đang tắm thì phải quấn tóc lại ngay; nếu đang đứng thì phải chạy đến đỡ lấy ngay. Bảy ngày nữa sẽ cùng ta gặp nhau, giả sử không làm được như vậy, ta sẽ dấy binh sang đánh phá nước nhà ngươi.
Vua Ba-tư-nặc nghe xong rất kinh sợ, liền đến chỗ Phật thưa về việc này. Đức Phật nói với vua:
– Bệ hạ hãy về nói với sứ giả rằng: “Ta không phải là lớn, còn có một vị vua lớn hơn nữa, vua ấy theo Phật giáo. Gần đây có một Thánh vương, ông nên đến đó truyền mệnh lệnh của vua ông.”
Sứ giả liền đi đến tinh xá Kỳ hoàn. Lúc đó Thế Tôn tự biến thành vua Chuyển luân, tùy tùng đều đầy đủ. Lại hóa tinh xá Kỳ hoàn ra một thành trì báu, bốn bên có bảy lớp hào lũy, ở giữa có bảy hàng cây báu, dưới hào có hoa sen đủ các màu sắc không thể kể xiết, ánh sáng rực rỡ, trong thành cung điện cũng bằng các thứ báu, vua ngồi trên bảo điện tôn nghiêm đáng sợ. Khi ấy sứ giả đó bước vào hóa thành, trông thấy đại vương, tâm hồn kinh ngạc, tự nghĩ: “Đức vua của ta vô cớ lại chiêu họa?”, nhưng bất đắc dĩ phải đem chiếu thư ra cho đại vương. Vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra nhận thư và giẫm chân lên đó, nói với sứ giả:
Ta là đại vương thống trị bốn thiên hạ, vua của ngươi ngoan cố, mê mờ, sao dám trái nghịch chống cự, ngươi mau trở về nước nói lại lời ta dạy, ngày mà vua nhà ngươi nhận được tin, phải mau chạy đến bái yết, đang nằm nghe tin phải ngồi dậy, đang ngồi nghe tin phải đứng dậy ngay, đang đứng nghe lệnh ta phải chạy đến, bảy ngày nữa phải đến không được chậm trễ. Nếu dám trái lại lệnh này thì tội sẽ không tha.
Sứ giả thọ giáo xong, vội vàng trở về nước, trình bày đầy đủ sự thấy nghe của mình cho vua nước Kim địa. Vua nghe nói thế, tự trách lỗi mình, bèn thống lãnh các tiểu vương, chuẩn bị xe ngựa đến bái yết đại vương, song hãy còn nghi, chưa chịu lên đường, bèn sai sứ giả đi trước tâu với đại vương:
– Tiểu vương nước Kim địa thống lãnh ba vạn sáu ngàn vua các nước nhỏ đang đi đến đây yết kiến, nên đi đến hết hay là đi một nửa?
Đại vương đáp:
– Để lại một nửa, dẫn đi một nửa.
Bấy giờ vua nước Kim địa dẫn đến một vạn tám ngàn tiểu vương, trông thấy vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra bái yết xong, thầm nghĩ: “Đại vương hình mạo tuy đẹp nhưng lực lượng chưa chắc đã hơn ta”. Bấy giờ vua Chuyển luân ra lệnh quan tướng quân cầm cung đưa cho vua nước Kim địa. Ông không thể giương cung nổi, vua Chuyển luân do Đức Phật hóa ra bèn lấy lại, dùng tay giương cung lại đưa cho vua nước Kim địa bắn thử, nhưng vua nước Kim địa không thể bắn. Vua Chuyển luân lấy lại giương bắn, ba ngàn thế giới đều chấn động, lại lấy mũi tên giương cung bắn, vừa rời khỏi tay thì hóa thành năm mũi tên, trước các mũi tên đều có vô số ánh sáng, trên đầu tia sáng đều có hoa sen lớn như bánh xe, trên mỗi bông hoa đều có một vua Chuyển luân, ngồi tòa bảy báu, ánh sáng tỏa ra chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả chúng sinh trong năm đường đều được lợi ích. Các cõi trời trông thấy ánh sáng ấy và được nghe thuyết pháp, thân tâm thanh tịnh, có người đắc đạo Đệ nhị, Đệ tam quả, có người phát tâm Vô thượng chánh chân, lại có người trụ Bất thoái địa. Chúng sinh ở cõi người thấy ánh sáng của Phật và nghe tiếng thuyết pháp tâm sinh vui mừng, trong đó có người đắc quả thứ nhất, thứ hai, thứ ba, xuất gia nhập đạo chứng quả A-la-hán, có người phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, được Bất thoái địa, không thể tính kể. Trong loài ngạ quỉ trông thấy ánh sáng của Phật và nghe tiếng thuyết pháp đều được no đủ, thân tâm thanh tịnh, không các nhiệt não, đều sinh lòng tự cung kính đối với Phật, liền được giải thoát sinh lên trời người. Trong loài súc sinh, thấy ánh sáng Phật, tham dục sân si đều được tiêu trừ, tâm si mù mịt đều được tỉnh ngộ vui mừng tin kính đối với Phật liền được giải thoát sinh trong trời người. Những người trong địa ngục thấy ánh sáng Phật, kẻ rét được ấm áp, người nóng được mát mẻ, nơi đau khổ được ngừng nghỉ, thân tâm vui sướng kính mến đức Phật liền được giải thoát, sinh trong trời người.
Bấy giờ vua Đại Kiếp-tân-ninh và các vua thuộc nước Kim địa thấy phép thần biến như vậy rồi, trong lòng tin phục xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, một vạn tám ngàn vua trong khoảng chốc lát đều như thế cả. Đức Phật thu nhiếp thần lực trở lại nguyên hình, các Tỳ-kheo Tăng vây quanh trước sau. Các vua thuộc nước Kim địa cầu xin xuất gia, Đức Phật nhận lời, râu tóc của họ tự rụng, ca-sa mặc trên mình, tư duy diệu pháp, đắc quả A-la-hán.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Vua nước Kim địa đời trước gieo trồng công đức gì mà được sinh vào nhà tôn quý công đức cao vòi vọi, lại gặp được Phật chứng quả vô lậu.
Đức Phật bảo:
Này A-nan, chúng sinh do hạnh thế nào thì thọ quả báo thế ấy. Ở đời quá khứ sau khi Phật Ca- diếp nhập Niết-bàn, có một vị trưởng giả xây chùa tháp, lập giảng đường, tăng phòng..., cúng dường tứ sự. Trải qua lâu năm chùa tháp hư mục, giường tòa, y phục, thức ăn cũng dứt sạch, con vị trưởng giả xuất gia làm Tỳ-kheo trở về thấy thế, đi khuyên hóa nhân dân tu sửa chùa tháp, cúng dường tứ sự... Mọi người đồng tâm, cùng nhau cúng dường, nhân đó phát nguyện đời này sinh ra được giàu sang trường thọ, gặp Phật ra đời nghe pháp chứng đạo, hành báo không sai, họ đều chứng quả cả. Thuở ấy Tỳ-kheo, con của vị trưởng giả nay chính là vua Đại Kiếp-tân-ninh thuộc nước Kim địa, các nhân dân được thọ hóa nay là tám ngàn vua các nước nhỏ.
Đức Phật thuyết pháp như thế xong, chúng hội nghe pháp được chứng đạo quả, phát tâm bất thoái, thọ trì lời dạy, tín thọ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ trong triều vua Ba-tư-nặc có một vị đại thần tên Lê-kỳ-di, nhà rất giàu có, sinh được bảy người con trai, sáu người đã lấy vợ rồi chỉ còn lại cậu út người thứ bảy đang hỏi vợ. Vị đại thần tự nghĩ: “Ta tuổi già yếu, chỉ còn một đứa con trai chưa lập gia đình, phải tìm nơi xứng đáng hơn.” Lúc đó vị đại thần có một người bạn thân dòng Bà- la-môn đến chơi, nhân đó mới bàn luận:
Nay tôi có một cậu con trai út muốn lấy vợ cho nó mà chưa biết nơi nào, anh từ trước đến nay đi nhiều nước, phiền anh vì tôi tìm kiếm, nếu thấy có người con gái đoan chính hiền trí, tính tình thuần hậu, thích hợp với ý con tôi, giới thiệu để tôi cầu hôn cho nó.
Khi ấy vị Bà-la-môn nhận lời. Sau này đi đến nước Đặc-xoa-thi-lợi, vị ấy thấy có năm trăm đồng nữ hái hoa nô đùa dùng làm đồ trang sức. Vị Bà- la-môn bèn đi theo để quan sát, họ đi đến một dòng suối nhỏ, các cô đều cởi giày lội qua, chỉ có một cô không cởi giày để vậy đi qua. Đi một lát đến một con sông, các cô gái đều vén quần áo lội qua, riêng có cô gái ấy để cả quần áo lội theo. Đi đến một khu rừng, các cô gái đều trèo cây hái hoa, thì cô gái này không leo lên cây mà đi nơi khác tìm kiếm được hoa rất nhiều. Khi đó vị Bà-la-môn đến hỏi cô gái:
– Tôi có chút nghi muốn được hỏi cô.
Cô gái nói:
– Có nghi gì xin cứ hỏi. Vị Bà-la-môn nói:
– Trong các cô gái kia khi qua suối đều cởi giày, riêng cô không cởi, là có ý gì?
Cô gái đáp:
– Sao ông si mê thế, sở dĩ người ta mang giày là để giữ đôi chân, đi trên đất, mắt có thể trông thấy gai góc, sành ngói có thể tránh được, ở dưới nước sâu kín, mắt không trông thấy, nếu như có gai và các trùng độc làm hại chân, do đó tôi không cởi giày.
Vị Bà-la-môn lại hỏi:
– Vì cớ gì cô mặc cả quần áo lội qua sông? Cô gái đáp:
– Thân thể con gái, vẻ tướng có xấu có tốt, vén áo lội qua sông sợ người trông thấy, giả sử có dáng đẹp thì còn coi được, sợ e xấu xí, người ta trông thấy chê cười, vì lý do đó tôi không cởi áo lội qua.
Vị Bà-la-môn lại hỏi:
– Vì duyên cớ gì không chịu leo cây? Cô gái đáp:
– Nếu leo lên cây lỡ cành bị gãy, nguy hại tánh mạng, do đó tôi không leo cây.
Người con gái này là cháu của vua Ba-tư-nặc, mẹ là Đàm-ma-ha-tiện, trước kia bà phạm tội chạy trốn sang nước này, lấy chồng sinh được một đứa con gái tên Tỳ-xá-ly, tức cô gái này. Khi đó vị Bà- la-môn nghe người con gái nói, biết chắc chắn là bậc Hiền năng, bèn hỏi cô gái:
– Cha mẹ cô còn sống không? Cô gái đáp:
– Còn.
Cô bèn dẫn đến nhà để gặp mặt. Cô gái thưa cha:
Bên ngoài có một vị Bà-la-môn muốn gặp cha.
Ông Đàm-ma-ha-tiện bèn đi ra. Chào hỏi xong, vị Bà-la-môn nhìn cô con gái nói:
– Đây là con gái của ông chăng?
Đáp:
– Đúng vậy!
Vị Bà-la-môn hỏi:
– Cô có ai hỏi cưới chưa? Đáp:
– Chưa!
Vị Bà-la-môn nói:
– Trong nước Xá-vệ có một đại thần tên Lê-kỳ- di, ông có biết không?
Đáp:
– Biết.
Vị Bà-la-môn nói:
– Cậu con trai út của ông Lê-kỳ-di là một người thông minh, muốn cầu hôn con gái ông, có được không?
Đàm-ma-ha-tiện nói:
– Ông ta dòng quý phái, muốn cùng giai ngẫu, đôi bên xứng cả. Vậy hãy định ngày làm lễ cưới.
Khi đó có người bạn về nước Xá-vệ, vị Bà-la- môn viết thư gửi cho Lê-kỳ-di, trình bày mọi việc. Quan đại thần nhận tin xong, sắm sửa sính vật, xe ngựa đi đến nước Đặc-xoa-thi-lợi. Sắp đến, ông bèn sai người đi trước báo. Đàm-ma-ha-tiện tiếp đãi rất trịnh trọng để gả con gái, mọi việc cưới gả xong xuôi, sắp trở về nước Xá-vệ. Khi đó, bà mẹ cô gái đứng trước mọi người dặn dò con gái:
– Từ nay về sau thường nên mặc áo đẹp, ăn uống cho ngon lành, hàng ngày phải soi gương, chớ quên lời mẹ dặn. Cô gái quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Ông Lê-kỳ-di nghe nói thế lấy làm bực, thầm nghĩ: “Nhân sinh nhất thế, khổ vui không cố định, áo đẹp, thức ăn ngon làm sao phải ngày nào cũng soi gương, thực là phi lý”. Tuy có ý nghĩ này, nhưng ông không tiện nói ra. Đến giờ chủ khách phải từ biệt nhau, lớn nhỏ lên đường tiến về nước. Giữa đường, gặp một khách xá có bốn mái hiên rất là mát mẻ, những người đi trước đều vào nhà nghỉ mệt, cô dâu đến sau, thưa với cha chồng:
Nơi đây không thể ngừng nghỉ, phải mau đi ra bên ngoài.
Cha chồng không trái ý con dâu, bèn ra ngoài lộ, số người không chịu đi ra. Lúc đó có một đàn voi đi ngang cọ vào cột nhà làm sập hết đè chết mấy người. Khi ấy ông Lê-kỳ-di thầm nghĩ: “Nay ta thoát chết là nhờ con dâu”, tâm nể phục càng thêm sâu đậm rồi cùng lên ngựa thẳng đường đi về. Đi một đỗi đến một con suối lớn, cỏ mọc tốt tươi, nước chảy thật đẹp, mọi người dừng chân nghỉ mệt bên bờ suối. Con dâu đến sau thấy thế nói:
– Đứng đây không nên, phải nhanh lên trên cao nghỉ mệt.
Trong chốc lát, mây đen nổi lên, sấm chớp ầm ầm, mưa như thác đổ, chảy ngập tràn cả bờ khe suối ấy. Ông Lê-kỳ-di lại thầm nghĩ: “Hôm nay ta thoát chết lần thứ hai do con dâu mà được toàn thân mạng.” Lại tiếp tục đi thẳng về đến nước nhà, họ hàng thân quen, kẻ xa người gần đến chào mừng hỏi thăm. Quan đại thần vui mừng thết tiệc đãi đằng vui vẻ trọn một ngày. Khách khứa ra về hết rồi, ông Lê-kỳ-di triệu tập gia đình nói:
– Ta nay tuổi đã cao, mọi công việc gia đình muốn giao phó cho các người, ai có thể thay ta quản lý kho lẫm…
Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô dâu thứ bảy nói có thể làm được. Lúc đó đại thần bèn giao các chìa khóa kho cho cô ta. Từ khi nhận lãnh trách nhiệm, cô siêng năng, thức dậy sớm quét dọn nhà cửa, nấu nướng xong xuôi, trước tiên dâng cơm nước cho cha mẹ chồng và các anh chị, kế đến lo cho các nô tỳ, gia bộc, phân công tác cho họ đi làm, sau đó mới đi ăn cơm, hàng ngày cứ như thế. Cha mẹ chồng thấy cô trung kiên cẩn thận, giỏi giang khác với người thường, lấy làm lạ tại sao không thấy cô áp dụng lời mẹ ruột dặn dò, bèn hỏi cô:
– Trước khi về nhà chồng, mẹ con căn dặn phải mặc đẹp, ăn ngon, hàng ngày soi gương, việc ấy như thế nào, con có thể nói cho cha nghe không?
Cô dâu út quỳ thưa:
Mẹ con dạy bảo mặc áo đẹp nghĩa là phải sạch sẽ để khách đến nhà trông thấy tươi đẹp; dạy ăn ngon không phải là dùng thứ ngon béo mà phải ăn sau, lúc đói ăn thứ nào cũng đều ngon cả; còn soi gương không phải gương bằng đồng, mà ý nói sáng dậy sớm quét dọn trong ngoài, sửa giường chiếu, bàn ghế ngay thẳng, sạch sẽ. Mẹ con dặn là ý như vậy.
Khi ấy cha mẹ chồng nghe rồi biết là người tài giỏi, khéo léo, biệt đãi hơn trước, các công việc trong nhà vui vẻ thoải mái, không còn lo nghĩ nữa. Một hôm có bầy chim nhạn bay vào biển kiếm ăn, sau khi no nê nó trở về ngậm những chùm lúa bay ngang qua cung vua rớt xuống trước điện, người trong hoàng cung thấy đem dâng lên cho vua. Đức vua thấy việc lạ kỳ, ắt trong đó có vị thuốc, ra lệnh đem phân phát cho bá quan đem về trồng. Đại thần Lê-kỳ-di cũng được một ít giống mang về nhà bảo con cái gieo trồng. Con dâu út nhận lấy, sai nô bộc cày đất gieo xuống, thời gian sau mọc tốt tươi, thu được nhiều hạt. Còn các quan kia gieo trồng vì chăm sóc không điều độ nên không mọc được. Lúc đó Vương phu nhân có bệnh, triệu tập các danh y để trị liệu, trong đó có một danh y nói:
– Phải cần có gạo lúa ở ngoài đảo để dùng thì khỏi bệnh.
Khi ấy đức vua tự nghĩ: “Trước đây có thứ giống đưa các quan trồng, nay đem thử coi có hiệu quả không”, liền triệu các quan thần hỏi:
– Trước kia trẫm sắc lệnh trồng giống lúa tẻ, nay đã chín chưa? Hôm nay có việc gấp cần làm thuốc trị bệnh”. Các quan đều nói nào là lúa không mọc, hoặc nói bị chuột cắn... Riêng quan đại thần Lê-kỳ-di về nhà hỏi:
– Trước kia gieo giống lúa tẻ có kết quả không?
Nay cần nó để trị bệnh cho phu nhân?
Người dâu út thưa:
– Trong nhà rất nhiều, nếu dùng làm thuốc cho cả nước cũng đủ huống nữa là một người.
Khi đó ông Lê-kỳ-di liền lấy dâng cho vua, để làm thức ăn cho Vương phu nhân, ăn thứ gạo lúa tẻ ấy xong phu nhân khỏe hẳn. Vua rất vui mừng ban thưởng cho rất nhiều.
Lúc bấy giờ hai nước Đặc-xoa-thi-lợi và Xá-vệ hiềm khích với nhau, thường thường xảy chuyện bất hòa thuận. Vua Đặc-xoa-thi-lợi muốn thử nước Xá-vệ coi có bậc Thánh trí không, bèn sai sứ đem đến nước Xá-vệ tặng hai con ngựa cái, dáng vóc sắc lông mẹ con giống nhau không khác, đố ai có thể biết được con ngựa nào là mẹ và con ngựa nào là con. Vua và quần thần đều không thể phân biệt được. Khi đó quan Lê-kỳ-di từ cung vua trở về nhà, con dâu út hỏi:
– Có tin tức gì hở cha? Cha chồng nói:
– Mọi việc như đã thấy.
Con dâu thưa rằng:
– Việc này rất dễ, đâu có gì phải lo, chỉ cần lấy bó cỏ ngon, đưa trước đầu nó, nếu là ngựa mẹ thì nó đẩy bó cỏ cho con kia, nếu là ngựa con thì nó ăn liền.
Bấy giờ, ông Lê-kỳ-di đến tâu vua mọi việc như con dâu nói, bèn đem cỏ nhử thử, quả như lời cô con dâu nói, hai con ngựa phân biệt rõ ràng, rồi bảo với sứ giả đây là ngựa mẹ và kia là ngựa con. Khi ấy sứ giả nói:
– Nhận xét đúng không sai vậy.
Vua rất vui mừng ban tước lộc gấp bội. Khi đó sứ giả trở về nước trình bày mọi việc, vua Đặc-xoa- thi-lợi bèn sai sứ đem sang hai con rắn dài bằng nhau, khó biết con nào đực, cái. Vua Ba-tư-nặc và các quần thần cũng không ai biết. Đại thần Lê-kỳ- di về hỏi con dâu việc đó như thế nào. Con dâu nói:
– Dùng một tấm lụa trải ở trên mặt đất, bắt hai con rắn để trên tấm lụa ấy, nếu là con cái, nó sẽ nằm im không động đậy, nếu là con đực thì nó quậy quọ không yên. Vì sao biết chắc như thế? Vì giống cái thích sự trơn láng, mềm mại nên không muốn dao động; giống đực tánh cương nên lăn lộn không yên, suy ra mà có thể biết được vậy.
Quan đại thần nghe rồi liền đến tâu vua. Đức vua kêu sứ giả ra chỉ đây là con đực và kia là con cái. Sứ giả nói:
– Xác thật không sai.
Vua rất vui mừng, ban cho nhiều báu vật. Bấy giờ vua nước Đặc-xoa-thi-lợi mang sang khúc gỗ dài một trượng, gốc ngọn bằng nhau, trơn nhẵn không có dấu vết búa rìu chặt mà nói:
– Đố biết khúc gỗ này đầu nào là gốc, đầu nào là ngọn?
Rất khó đoán, vua và các quan không ai có thể biết. Khi đó ông Lê-kỳ-di về hỏi con dâu. Con dâu nói:
– Việc này dễ thôi, lấy khúc gỗ ấy để trong nước, đầu gốc chìm xuống, đầu ngọn nổi lên.
Nghe xong, ông đi đến tâu nhà vua. Vua làm theo lời đem khúc gỗ ra thử, quả thật như vậy, đầu chìm đầu nổi rõ ràng và kêu sứ giả nói:
– Nổi là ngọn, chìm là gốc. Sứ giả nói:
– Đúng như vậy!
Nhà vua vui mừng, ban thưởng thêm nữa. Sứ giả trở về nước trình bày đầy đủ sự việc, đức vua nghe rồi trong lòng tin phục, sai sứ đem cho nhiều châu báu và nói rằng: “Trong nước đại vương thật sự có lắm hiền tài, từ nay về sau nên tu hiếu nghĩa”. Vua Ba-tư-nặc rất vui mừng, triệu quan Lê-kỳ- di vào hỏi:
– Các việc giải đáp vừa qua, tại sao khanh biết được?
Quan đại thần Lê-kỳ-di nói:
Chẳng phải thần biết được, đó là do con dâu của thần có trí tuệ hơn người vậy.
Quốc vương nghe rồi càng thêm vui mừng kính nể, kết nghĩa với con dâu của đại thần Lê-kỳ-di làm Vương muội. Trải qua một thời gian, cô Tỳ-xá-ly mang thai, ngày tháng đã mãn, sinh được ba mươi hai quả trứng trong mỗi một trứng nở ra một đứa con trai, hình thể nhan sắc đoan nghiêm đặc sắc, dần theo năm tháng lớn lên, sức khỏe hùng mạnh vô song, sức một người có thể địch nổi ngàn người, cha mẹ rất yêu quý, trong nước ai ai cũng kính nể. Sau này lấy vợ, đều là các cô gái thuần hậu, con của các hào phú trong nước.
Bấy giờ bà Tỳ-xá-ly lòng tin rộng mở, thỉnh Đức Phật và chúng Tăng đến nhà cúng dường. Đức Phật nhân đó thuyết pháp, cả nhà và quyến thuộc đắc quả Tu-đà-hoàn, duy có cậu con út chưa được đạo quả gì. Cậu cỡi con voi trắng muốn ra ngoài dạo chơi, ngoài cổng có một cái hào rất sâu rộng, ngang hào ấy có một cái cầu lớn, khi ấy tuổi trẻ thích đến trên cầu chơi. Lúc ấy cũng có con của phụ tướng ngồi xe đi đến giữa cầu thì gặp nhau, ai cũng cậy thế dòng họ quý tộc giàu có, không chịu tránh sang nhường lối. Cậu con út của bà Tỳ-xá-ly liền nổi giận, trên lưng voi nhảy xuống nắm con quan phụ tướng và cả chiếc xe xô rớt xuống hào, thân thể bị thương tích đau đớn vô cùng, khóc lóc mà đi về, thưa với cha:
– Con của bà Tỳ-xá-ly ngang tàng hủy nhục làm tổn thương thân thể con đau đớn như thế này.
Người cha nghe xong, rất buồn rầu, thương con mà nói:
– Họ sức lực mạnh, lại là quốc thân, khó mà tranh thắng, nên suy nghĩ mật kế để báo thù này.
Ông liền dùng bảy báu làm thành ba mươi hai chiếc roi ngựa, trong giữa roi để con dao nhọn đem tặng cho ba mươi hai người, mỗi người một cây, mà nói rằng:
– Các cậu tuổi trẻ, tính tình hay vui đùa nên sử dụng roi này, may ra họ nhận lấy, sẽ bắt tại tay. Thật sự các con bà Tỳ-xá-ly được roi rất vui mừng, bèn nhận lấy cả. Theo quốc pháp thời bấy giờ khi gặp vua không được mang đao theo mình, lúc đó quan phụ tướng thấy họ đã nhận lấy mà thường cầm sử dụng, bèn sàm tấu với đức vua rằng:
– Ba mươi hai người con trai của bà Tỳ-xá-ly, tuổi trẻ khỏe mạnh, một địch ngàn người, lại mưu kế định hại nhà vua. Đức vua tuy nghe nhưng vì tình thân nên vẫn chưa tin, ông lại tâu thêm rằng:
– Việc này không dối, hiện có chứng cứ, mỗi người họ có mang đao nhọn để trong roi ngựa, do đó suy đoán ra mà biết rõ ràng.
Nhà vua liền sai lính lấy roi xem, quả như lời nói, ý vua tin, bèn chọn một số lực sĩ phục trong nội cung, nhất tề hô lên giết sạch, lấy ba mươi hai cái đầu để trong một cái hòm, buộc dây niêm phong lại tặng cho vương muội. Hôm đó là ngày Tỳ-xá-ly thỉnh Đức Phật và chúng Tăng đến nhà cúng dường, thấy vua tặng một cái hòm gọi là đem đến cúng dường, gọi người khuân giúp, muốn mở ra xem, Đức Thế Tôn bảo:
– Hãy để đấy đừng mở ra, đợi khi dùng cơm xong hãy mở nắp.
Sau khi thọ trai xong, Đức Phật bảo mọi người ngồi, Đức Phật vì duyên sự đó mà thuyết pháp:
– Thân này là vô thường, khổ, không, vô ngã, cuộc sống nhiều lo sợ, không được an ổn lâu dài, các thứ khổ não trói buộc, cay đắng khó lường, ân ái biệt ly đau buồn lẫn lộn, làm cho thân tâm mệt nhọc không được ích gì, chỉ có người trí có thể hiểu biết việc thiết yếu này.
Bấy giờ bà Tỳ-xá-ly bỗng tỉnh ngộ, đắc quả A- na-hàm, vui mừng chắp tay bạch Thế Tôn:
– Cúi mong thương xót, chứng minh cho con xin bốn điều nguyện:
Con xin được cúng dường chăm sóc thuốc thang, ăn uống cho các Tỳ-kheo có bệnh.
1. Xin được cúng dường cho các thầy Tỳ-kheo nuôi bệnh.
2. Các vị Tỳ-kheo ở xa đến con xin cúng dường lương thực.
3. Các Tỳ-kheo đi xa con xin cúng dường lương thực.
Tại vì sao? Các vị Tỳ-kheo bệnh, do không có thuốc thang, thức ăn phù hợp thì bệnh khó hết, hoặc có thể dẫn đến mất mạng. Các Tỳ-kheo chăm sóc bệnh nhân vì không đi khất thực được, nguyên do người bệnh cần trợ giúp sớm tối không cố định giờ giấc nên dễ sinh tâm buồn bực, thì bệnh này khó giảm bớt cho nên phải cúng thí cho vị ấy. Hoặc các vị Tỳ-kheo từ phương xa khác đến, vì xứ lạ chưa có người quen như đi khất thực hoặc gặp chó dữ hoặc gặp người xấu làm tổn hại hủy nhục... Vì thế nên con muốn cúng dường trước. Còn vị Tỳ- kheo đi xa phải cần bạn bè, do không lương thực, hoặc đi không kịp, giữa đường gặp nguy hiểm, một mình gặp nhiều thú dữ, côn trùng độc hại hoặc gặp tai nạn cho nên con muốn được cúng dường các vị ấy.
Khi đó, Đức Thế Tôn nghe bà Tỳ-xá-ly xin bốn điều nguyện này, khen rằng:
– Lành thay! Lành thay! Như nguyện của bà công đức rất lớn, giống như cúng dường Phật không khác. Nói xong, Đức Phật cùng chư Tăng trở về Kỳ hoàn. Sau khi Thế Tôn đi rồi, bà sai người mở nắp hòm ra xem, thấy ba mươi hai cái đầu nằm ở trong đó. Vì tâm ái đã dứt, không sinh lòng lo buồn, chỉ nói:
– Đau khổ thay! Thương xót thay! Người sống ắt phải chết, không được lâu dài, trôi lăn trong năm đường đến nỗi thế này!
Bấy giờ thân tộc của ba mươi hai nhà vợ nghe về sự lý như vậy, rất đau buồn phẫn nộ, đồng nói:
– Đại vương vô đạo, sát hại người hiền lành oan uổng.
Họ cùng hợp binh muốn đi báo thù, quân lính tụ tập vây quanh cung vua. Bấy giờ, nhà vua lo sợ, chạy đến chỗ Phật, họ nghe tin vua chạy trốn bèn dẫn binh đến vây quanh tinh xá Kỳ hoàn.
Khi đó ngài A-nan nghe vua Ba-tư-nặc giết ba mươi hai đứa con của Tỳ-xá-ly, bà con nhà vợ muốn báo thù, bèn chắp tay bạch Thế Tôn:
– Nhân duyên gì mà ba mươi hai đứa con của bà Tỳ-xá-ly bị vua giết.
Đức Thế Tôn bảo:
– Ba mươi hai người con của Tỳ-xá-ly không chỉ đời này bị vua giết chết cùng một lúc. Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông nói về việc đó.
A-nan thưa:
– Dạ vâng!
Đức Phật bảo A-nan:
Vào thời quá khứ lâu xa, ba mươi hai người này cùng là bạn thân với nhau, một hôm bàn bạc cùng nhau đi trộm trâu của người khác. Khi ấy trong nước đó có một bà già không có con, sống khốn khổ cô đơn một mình. Những người ăn trộm trâu dẫn đến nhà bà cùng nhau giết trâu. Bà già vui vẻ cho mượn nồi niêu, củi nước để đun nấu, đến lúc hạ đao, con trâu quỳ xuống xin tha mạng, họ không nghe đều muốn giết nó, con trâu bèn kết thề: “Hôm nay các ngươi giết ta, đời sau, ta sẽ không tha cho các ngươi đâu, cho đến các ngươi có tu đắc đạo, ta cũng không tha nữa.” Sau khi con trâu thệ nguyện xong, họ giết trâu, cùng nhau nấu nướng ăn uống no nê. Bà già nhân đó cũng được ăn một bữa no đủ, vui vẻ nói rằng: “Nhờ các anh mà hôm nay ăn đã một bữa.”
Đức Phật bảo A-nan:
– Con trâu thuở đó nay đầu thai làm vua Ba-tư- nặc, mấy người trộm trâu nay là ba mươi hai người con của bà Tỳ-xá-ly. Còn bà già đó chính là Tỳ-xá- ly. Từ đó quả báo mãi đến năm trăm đời, thường bị giết, cho đến hôm nay, bà già đó vì vui mừng theo, thường phải làm mẹ để chịu đau lòng, sầu não. Đời này gặp được Ta, mới được chứng đạo.
Ngài A-nan chắp tay lại bạch Phật:
Họ tu phước gì mà được sinh ra mạnh khỏe và vào nhà giàu có?
Đức Phật bảo:
Này A-nan, ở đời quá khứ, thời Phật Ca-diếp, có một bà lão kính tin Tam bảo, nhà bà giàu có, một hôm lấy các thứ hương với dầu để sơn tháp, đi giữa đường thì gặp ba mươi hai người. Bà khuyên họ rằng: “Tôi muốn dùng dầu tô lên tháp, các anh giúp tôi đi sau này đời đời sinh ra được phúc đức khỏe mạnh, thân hình đoan chánh”. Lúc đó, ba mươi hai người vui vẻ cùng đi, tô tháp xong xuôi, họ tự nghĩ: “Do bà lão này khiến chúng ta gieo trồng được phước nghiệp, nguyện khi sinh ra nơi được giàu sang, bà ấy làm mẹ, còn chúng ta làm con, thường được như vậy không lìa nhau gặp Phật nghe pháp, tu mau đắc đạo. Bà lão vui mừng nói: “Có thể các cậu sẽ được như nguyện.” Từ đó đến nay đã được năm trăm đời, thường sinh vào nhà tôn quý. Bà lão thuở đó chính là Tỳ-xá-ly, ba mươi hai chàng trai là ba mươi hai đứa con bà ngày nay.
Khi bà Tỳ-xá-ly nghe Phật thuyết pháp, tâm sân của bà liền ngừng dứt, tự nghĩ: “Hình phạt của vua chẳng phải tạo nghiệp ác, mà đó là do các con tự gieo lấy, nên nay phải thọ báo. Do giết một con trâu mà còn chịu quả báo như vậy. Vua Ba-tư-nặc là thí chủ của ta làm sao mà ôm lòng ác muốn giết hại trừ bỏ họ được?” Thân thuộc nhà vợ dập đầu trước đức vua cầu xin tha lỗi, vua cũng vui mừng không hỏi tội họ. Khi đó, Đức Thế Tôn vì bốn chúng rộng thuyết các pháp: “Nghiệp thiện nên tu, nghiệp ác phải lìa”, giảng rõ pháp Tứ diệu đế, chúng hội nghe xong, đều được chứng đạo, vâng lời Đức Phật hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ, trong vườn Trúc. Khi đó A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh lại y phục chắp tay quỳ bạch Phật:
– Nhóm ông Kiều-trần-như năm người, đời trước có phước gì, dựa vào nhân duyên gì mà được Như Lai ra đời, gióng trống pháp đầu tiên, các ông ấy được nghe trước, cam lộ pháp vị được thưởng thức trước. Cúi mong Thế Tôn thương xót, giải nói cho chúng con được rõ.
Lúc đó Đức Thế Tôn bảo A-nan:
– Năm người này ở đời trước có ăn thịt Ta mà được an ổn, cho nên ngày nay được nghe pháp thực trước và được giải thoát trước.
– Ngài A-nan lại hỏi Đức Thế Tôn:
– Đời trước họ ăn thịt nhân duyên ấy thế nào, mong Thế Tôn giảng đầy đủ chi tiết cho chúng con được rõ.
Đức Phật nói:
Vào đời quá khứ lâu xa, vô lượng vô số kiếp a-tăng-kỳ, ở cõi Diêm-phù-đề này, có một đại quốc vương tên Thiết-đầu-la-kiện-ninh, thống lãnh Diêm-phù-đề, có tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu vạn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, hai vạn phu nhân, thể nữ. Nhà vua rất có lòng từ bi thương yêu tất cả nhân dân, không ai chẳng được nhờ ân. Khi đó trong nước có Hỏa tinh xuất hiện, các nhà chiêm tinh thấy tâu vua:
– Điềm Hỏa tinh xuất hiện sẽ hạn hán không mưa mười hai năm, nay có điềm biến này phải nên làm thế nào?
– Vua nghe nói thế rất là lo buồn. Nếu có điềm tai biến này thì mạng dân chúng làm sao tránh khỏi, liền họp quần thần cùng nhau bàn bạc. Các quan đại thần nói:
– Nên hạ lệnh các nước tính dân khẩu hiện nay và coi số lúa thóc cân lường trong mười hai năm, mỗi người ăn hết bao nhiêu.
Vua nghe theo lời bàn, liền ra lệnh thi hành cấp tốc. Tính toán xong xuôi tất cả nhân dân, mỗi người được thăng gạo còn không đủ. Từ đó về sau, nhân dân chết đói rất nhiều. Đức vua tự nghĩ: “Nên tính cách nào để cứu sống nhân dân”. Nhân lúc phu nhân và thể nữ đi ra dạo xem ngoài vườn nghỉ ngơi, vua chờ mọi người ngủ nghỉ cả, liền ngồi dậy hướng về bốn phương làm lễ và lập thệ rằng: “Hôm nay nước này đói thiếu chết quá nhiều, tôi nguyện xả bỏ thân này làm con cá lớn để cung cấp thịt đủ cho tất cả nhân dân”. Vua liền leo lên cây đâm đầu xuống đất tự sát. Sau khi mạng chung hóa thành con cá ở trong sông lớn, thân cá dài to năm trăm do-tuần. Bấy giờ trong nước có năm người thợ mộc, vác búa rìu đi đến bờ sông, định đốn gỗ thì trông thấy con cá to. Con cá ấy nói ra tiếng người:
– Nếu các ông đói, muốn ăn thịt hãy lấy thịt tôi mà ăn, ăn no có thể đem về. Nay các ông ăn thịt tôi mà được no, sau này tôi được thành Phật sẽ đem pháp thực độ thoát các ông, hãy về thông báo mọi người lớn nhỏ trong nước có cần thịt hãy đến đây lấy.
Năm người vui mừng dùng rìu bổ lấy thịt, nướng ăn no nê rồi còn mang về nhà và đem việc này nói với mọi người trong nước. Lúc đó nhân dân truyền miệng với nhau, khắp cả Diêm-phù-đề đều tụ tập tới ăn thịt con cá. Vừa lấy hết một bên hông, cá liền xoay mình để lấy thịt hông bên kia cũng đều lấy hết, nó lại xoay trở lại thịt lành như cũ, cứ như thế cung cấp cho tất cả nhân dân trải qua mười hai năm. Nhân dân ấy ăn thịt con cá đều sinh lòng Từ, sau khi mạng chung được sinh lên trời.
Này A-nan, ông nên biết vua Thiết-đầu-la- kiện-ninh thuở đó chính là thân Ta. Năm người thợ mộc trước kia ăn thịt Ta, nay chính là năm anh em Kiều-trần-như vậy. Các người dân ăn thịt Ta nay là tám vạn chư Thiên và các đệ tử được Ta độ thoát. Trước kia Ta đem thân thịt cung cấp cho năm người khiến cứu sống họ nên nay ngày đầu tiên ta thuyết pháp độ năm người họ trước nhất. Lấy ít thịt pháp thân Ta trừ khổ đói ba độc của họ.
Ngài A-nan và cả chúng hội nghe Đức Phật nói vừa đau thương, vừa vui mừng, đảnh lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ tại tinh xá Trúc lâm. Ngài A-nan ngồi trong vườn trúc, tâm tư suy nghĩ: “Như Lai ra đời rất là đặc biệt nay các đệ tử nhờ ân của Phật mà được bốn việc cúng dường không bị thiếu thốn, đều được an ổn, lại dứt trừ khổ, tất cả thế gian. Vua quan, dân chúng cũng được lợi ích lớn, được gặp Tam bảo, nhân dân an lạc đều nghĩ do uy lực của Thế Tôn mà được”. Nghĩ như thế rồi, ngài A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến chỗ Phật. Khi đó Đức Thế Tôn vì bốn bộ chúng rộng thuyết Diệu pháp. Tôn giả A-nan đến trước chỉnh lại y phục, bày vai bên phải, gối phải chấm đất, chắp tay quỳ bạch về ý nghĩ của mình khi ngồi trong rừng. Đức Phật bảo:
Này A-nan, như lời ông nói, Như Lai ra đời thật là hy hữu, khiến cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích. Lại nữa, này A-nan, Đức Như Lai Chánh Giác chẳng những ngày nay làm lợi ích chúng sinh, mà ở đời quá khứ, cũng làm lợi ích như vậy.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, trong đời quá khứ Thế Tôn làm lợi ích chúng sinh như thế nào, xin nói cho chúng con được biết?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, quá khứ lâu xa kiếp a-tăng-kỳ, ở cõi Diêm-phù-đề này có bốn con sông và hai ông vua nước lớn. Một ông tên Bà-la-đề-bà (Tần dịch Phạm Thiên) chiếm cứ riêng ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhưng trái lại quân sự kém cỏi. Một ông vua tên là Phạt-xà-kiến-đề (Tần dịch Kim Cang Tụ) chỉ có một con sông, nhân dân cũng ít nhưng về quân sự rất hùng mạnh. Khi đó vua Kim Cang Tụ đang ngồi trên bảo điện một mình suy nghĩ: “Như ta hiện nay, binh lính hùng mạnh mà được có một con sông ít nước, còn nước kia quân lực kém mà chiếm giữ ba con sông, nay nên sai sứ sang đòi một con sông. Nếu cho ta thì cùng thân hậu, trong nước có vật gì tốt, sẽ đem tặng biếu nhau, nếu có gặp khó khăn, ta sẽ đem quân sang cứu giúp; nếu không nhường cho một con sông thì ta sẽ dùng binh lực sang chiếm đoạt.” Nghĩ như thế rồi, vua triệu tập các đại thần cùng bàn bạc việc này. Các quan cùng bàn nói:
Nay chính đúng lúc. Vua liền sai dịch sứ đến nước vua Phạm Thiên, trình bày rõ ý của vua mình, cho vua Phạm Thiên nghe. Vua Phạm Thiên nghe xong lại tự suy nghĩ: “Nước ta giàu có, nhân dân đông đúc, lại nữa đất nước này do phụ vương để lại cho ta, nếu họ dùng binh lực tranh giành, ta cũng không nhường nhịn họ.” Nghĩ thế rồi, vua báo cho sứ giả:
– Nước này không phải tự ta mà có, mà là của vua cha truyền lại cho ta. Như nay ta binh lực cũng không kém gì vua ngươi, nếu vua nhà ngươi muốn quyết tranh thì ta cũng không sợ gì.
Sứ giả liền trở về nước, trình bày mọi việc cho vua nghe. Vua Kim Cang Tụ họp quân tấn công nước của vua Phạm Thiên cùng chiến đấu một trận. Vua Phạm Thiên bại trận, quân lính chạy tán loạn. Thừa thế, quân vua Kim Cang Tụ đuổi theo, chạy đến kinh thành, nhân dân sợ hãi, không dám ra ngoài. Các quan đều cùng nhau đến tâu vua Phạm Thiên:
– Tâu đại vương, nước họ binh lính hùng mạnh, nước ta quân yếu. Bệ hạ tiếc một con sông mà nay phải chịu bại trận thế này. Nếu để tình trạng như thế này không lâu sợ e sẽ mất nước. Cúi mong bệ hạ mở lòng cho họ một con sông để tình cảm được thân thiết đậm đà, mà dân chúng được an ổn.
Vua nghe theo ý của quần thần, liền sai sứ đến trong quân lính nước kia thưa với vua Kim Cang
Tụ:
Vua nước chúng tôi nay trả lại con sông và còn dâng cho vua một người con gái. Từ nay nước tôi có vật gì đặc biệt, quý báu sẽ đem cống hiến thêm, gặp lúc nguy nan, sẽ cùng đến tiếp giúp.
Khi ấy, vua Kim Cang Tụ đồng ý rút quân dẫn người con gái về và cưới làm vợ, mọi thứ đều hòa giải. Trải qua một thời gian, vua ăn ở với phu nhân có thai, sau khi mang thai, thường có một cái dù lớn bằng bảy báu tự nhiên hiện ra che trên người, lúc đi đứng hay nằm ngồi chiếc dù ấy cũng đều có như thế, mãi cho đến mười tháng, sinh được một đứa con trai, thân màu sắc vàng tía, trên đầu tóc xanh mướt, có ánh sáng lóng lánh nơi thân thể. Đứa nhỏ từ khi sinh ra thì cái dù ấy lại hiện che trên đầu của nó. Mời các thầy tướng đến xem tướng cậu bé. Thầy tướng vào xem đưa tay lên khen rằng:
– Lành thay! Lành thay!
Họ khác miệng đồng lời tâu vua:
– Nay nhìn thấy thái tử đức lực không thể bì, nhân tướng đầy đủ, ở thế gian rất ít có.
Vua và quần thần vui mừng không gì cho bằng, rồi bảo thầy tướng đặt tên cho cậu bé. Theo quốc pháp thời bấy giờ nương theo hai việc mà đặt tên, một là thụy ứng, hai là tinh tú. Thầy tướng tâu đức vua:
Thái tử đây từ khi nhập thai đến bay có những điềm lành gì? Vua đáp:
– Có cái tán bằng bảy báu thường ở trên đầu, bèn đặt tên là Sát-la-già-lợi (Tần dịch Cái Sự) do có các thứ đẹp lạ lúc nào cũng thừa phụng. Thái tử đến tuổi trưởng thành thì vua cha qua đời. Lễ an táng cho vua xong thì các tiểu vương, đại thần lập Cái Sự lên làm đại vương. Chấp chính được vài năm, một hôm vua đi ra ngoài thành xem thấy các nông dân cày cấy cực khổ, mới hỏi tả hữu:
– Nhân dân nước ta tại sao làm thứ công việc này cực nhọc thế?
Đại thần đáp:
– Tâu bệ hạ, nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không làm lụng như thế thì mạng sống khó bảo tồn, mạng của dân không tồn tại thì đất nước phải nguy vong.
Đức vua nói:
– Nếu phúc đức của ta được làm vua thì khiến dân chúng ta tự nhiên được lúa thóc, không phải làm những việc này.
Vua nói lời ấy rồi, tất cả nhân dân, kho lẫm đầy thóc, tùy theo ý muốn mà có được. Lại trải qua một thời gian, vua đi ra ngoài thành dạo chơi, thấy dân chúng đốn củi, gánh nước, giã gạo... làm mọi công tác khó nhọc, vua hỏi các quan:
– Dân chúng làm gì mà cực khổ như thế.
Các quan tâu:
– Nhờ ân đức bệ hạ, tự nhiên được lúa thóc nhưng muốn đem ra ăn cũng cần phải nấu chín, cho nên dân chúng mới làm những việc như vậy!
Vua lại hỏi:
– Nếu phước đức của ta đáng được làm vua thì xin khiến cho tất cả dân chúng trong nước khi muốn ăn thì tự nhiên thức ăn hiện ra trước mặt.
Vua nói lời ấy xong, thì mọi nơi đều được tự nhiên hiện ra như thế. Lại trải qua thời gian sau, vua đi ra ngoài thành dạo chơi, thấy dân chúng làm các việc kéo bông, se tơ, dệt vải, may áo... Vua hỏi các quan:
– Những người này làm việc gì mà trông thấy cực nhọc thế?
Các quan tâu:
Nhờ ân đức đại vương, họ tự nhiên được có ăn, còn đây là họ dệt vải để may y phục mặc.
Vua lại nói:
– Nếu phúc đức của ta đáng được làm vua, khiến trong nước ta tất cả cây cối tự nhiên sinh ra các thứ y phục.
Vừa phát lời ấy xong, tất cả các cây cối trong nước đều sinh ra các thứ y phục rất là mịn nhuyễn, xanh, vàng, đỏ, trắng tùy theo ý thích mọi người. Lại trải qua một thời gian nữa, đức vua lại ra ngoài dạo chơi, nhà vua trông thấy người dân tranh nhau làm các thứ nhạc khí. Vua lại hỏi các quan:
– Nhân dân nước ta làm gì mà nhọc nhằn đến như thế?
Các quan tâu:
– Tâu bệ hạ, những người này nhờ ân đức bệ hạ, được ăn mặc tự nhiên đầy đủ, an ổn cả, họ hiện đang làm các thứ nhạc khí dùng để ca múa cho vui.
Vua nói:
– Nếu phúc đức của ta đáng được làm vua thì khiến cho trên các cây cối trong nước ta đều có các thứ nhạc khí, trống đàn sắt, đàn tỳ bà, không hầu, mọi thứ cần đều được như ý.
Vua nói xong thì trên tất cả các cây cối đều mọc ra các thứ nhạc khí. Lại trải qua thời gian nữa, các quan triều, dân chúng đều đến bái tạ vua, gặp lúc vua ăn cơm, vua liền mời lại dùng cơm. Bấy giờ các quan được vua lưu lại dùng cơm, đầy đủ trăm thứ hương vị, họ đều cùng nhau nói:
– Thức ăn ở nhà của chúng thần, mùi vị lạt lẽo và ít món, nay được bệ hạ cho ăn món ăn của vua, hương vị phi phàm.
Đức vua nói:
– Các khanh và dân chúng nếu muốn được món ăn như trẫm thường dùng hôm nay thì cứ đến bữa ăn sẽ được các thức ăn như ý muốn.
Vua liền ra lệnh các quan tổ chức:
Khi đến giờ ăn của trẫm thì đánh trống kêu to, khiến cho tất cả dân chúng đều nghe biết, dùng giờ ăn của trẫm khiến dân chúng đều hưởng được trăm vị ngon như ý muốn.
Từ đấy về sau, đến giờ ăn tiếng trống vang lên, tất cả nhân dân nhờ tiếng trống nghĩ đến món ăn, trăm vị ngon ngọt tự nhiên hiện ở trước mặt, họ vui mừng không thể nói sao cho xiết. Bấy giờ, vua Phạm Thiên sai sứ giả đến nước của vua Cái Sự nói:
– Khi vua cha nhà vua còn tại thế, ta có cho cha ngươi một con sông, nay cha ngươi đã qua đời, nên giao trả lại con sông ấy cho ta.
Khi đó vua Cái Sự nói với vị sứ giả nước đó:
– Nay đất nước của ta cho đến con sông cũng không phải ta dùng sức mạnh cưỡng bức vua ngươi mà được. Nhưng ta làm vua, không muốn nhìn thấy dân chúng khổ nhọc vì việc nhỏ này, hãy nên hoãn lại, sau này ta và vua của ngươi gặp nhau để nói chuyện việc thiết yếu của đất nước.
Sứ giả trở về nước, trình lại mọi việc cho nhà vua. Vua Phạm Thiên đồng ý, định ngày đề gặp. Ngày hẹn đã mãn, hai vua đều đến, quân lính vây quanh đông vô số kể, bố trí đại dinh ở bên bờ sông, hai vua lên thuyền ra giữa sông để gặp nhau. Khi đó vua Phạm Thiên vừa thấy vua Cái Sự, sắc thân chói sáng sắc vàng như núi Tử kim, đầu tóc mượt như lưu ly, mắt to dài trong nhân gian ít có được, trong lòng sinh kính trọng thầm nghĩ: “Chắc là trời Đại phạm!” Gặp nhau ngồi đối diện thăm hỏi, bàn luận về đời sống của hai nước, vua Cái Sự nói:
– Nhân dân nước tôi muốn gì thì tự nhiên có, cũng không có chuyên chở cực nhọc. Lời nói chưa dứt, thì giờ ăn đã đến, quân lính của vua Cái Sự đánh trống báo hiệu ăn uống. Khi đó vua Phạm Thiên rất hoảng sợ cho là họ muốn bắt mình để giết, không yên, tay chân run rẩy, ngã xuống phía trước. Vua Cái Sự đỡ dậy ngồi lại chỗ cũ và nói:
– Đại vương, vì sao mà sợ hãi như thế? Đó là quân lính tôi báo hiệu đến giờ ăn, thường đánh trống vang thế đấy! Sở dĩ làm như thế là vì đến giờ ăn của tôi, dân chúng họ đều được có trăm vị thức ăn ngon lạ.
Khi đó vua Phạm Thiên đứng dậy chắp tay thưa vua Cái Sự:
– Cúi mong đại vương rộng lòng che chở cho tôi và dân chúng nước tôi đều nhờ ân tuệ này, chúng tôi đều nguyện xin hàng phục.
Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nước ở châu Diêm-phù-đề đều được an lạc. Sau ngày đăng quang ngôi vị vua ngồi trên bảo điện, quần liêu bá quan đứng hầu suốt ngày đêm. Sáng sớm khi mặt trời mọc có Kim luân bảo, từ phương Đông đến, từ xa vua trông thấy liền từ tòa bước xuống, gối phải chấm đất, hướng về xe ấy vỗ tay thì xe dừng lại, ngàn tia sáng chói lọi chiếu ra. Vua nói:
– Nếu ta đáng làm vua Chuyển luân thì xin chiếc xe này dừng lại.
Nó bèn ngừng lại trên hư không, ngay trước mặt nhà vua cách mặt đất khoảng bảy cây đa la. Rồi voi báu, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điển tàng báu, lần lượt kéo đến. Lúc đó vua Cái Sự đầy đủ bảy báu, cai trị bốn châu thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ ân đức vua mà mọi việc như ý muốn. Nhà vua ra lệnh dạy tu hành mười điều lành, để sau khi lâm chung đều được sinh lên cõi trời.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Này A-nan, vua Sát-la-giá-lợi (Cái Sự) thuở đó há chẳng phải người nào khác, chính là tiền kiếp của Ta. Phụ vương Phạt-xà-đạt-đề (Kim Cang Tụ) nay là vua Tịnh Phạn, cha Ta. Người sinh ra vua Cái Sự nay là Ma-ha Ma-da, mẹ Ta. Nhân đời trước, Ta thương xót chúng sinh, thường lấy tài pháp để dẫn dắt họ. Vì nhân duyên ấy đến nay thành Phật, riêng được tôn quý trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế, tất cả chúng sinh đều phải nên tu tập lòng từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên.
Bấy giờ, ngài A-nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn, trong đời quá khứ, vua Chuyển luân Sát-la-già-lợi do nhân duyên gì mà được công đức vô lượng như thế? Và khi mới nhập thai đã được cái tán bảy báu che theo?
Đức Phật bảo:
Này A-nan, ở đời quá khứ lâu xa tính số kiếp a-tăng-kỳ có đến vô lượng, ở cõi Diêm-phù-đề này, tại nước Ba-la-nại, trong quả núi Tiên nhân có một vị Bích-chi-phật thường trụ ở trong đấy. Vị Bích- chi này thân có bệnh tứ đại không điều hòa, đi hỏi thầy thuốc. Thầy thuốc nói: “Ngài có bệnh phong, nên cần dùng sữa bò.” Khi đó, ở trong nước có một người lái buôn tên A-lợi-da-mật-la (Tần dịch là Thánh Hữu). Khi đó vị Bích-chi-phật đến nói với ông ta trình bày chứng bệnh của mình và xin sữa bò nhà ông. Ông lái buôn Thánh Hữu vui mừng và xin được cúng dường sữa bò hàng ngày. Trải qua thời gian ba tháng, thân thể khỏi bệnh, cảm ơn ý tốt của thí chủ, muốn khiến cho thí chủ được lợi ích lớn, vị Bích-chi-phật bèn bay lên hư không, đi đứng nằm ngồi, thân phóng ra nước, lửa hoặc hiện ra thân to lớn, đầy kín cả hư không, rồi lại hiện thân thu nhỏ lại như sợi lông mùa thu hiện ra các thứ như vậy mười tám lần. Lúc đó Thánh Hữu rất vui mừng. Rồi vị Bích-chi-phật từ trên hư không hạ xuống thọ sự cúng dường lại như bình thường, trải qua một thời gian dài cho đến khi nhập Niết-bàn. Người lái buôn Thánh Hữu đau buồn thương tiếc vô cùng, làm lễ hỏa thiêu, thu lấy xá-lợi đựng đầy bình báu để xây tháp, dùng hương hoa kỹ nhạc các thứ vật lạ cúng dường và làm một cái tán lớn để che trên tháp và suốt đời thờ phụng cúng dường tháp này.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Do ông cúng dường tứ sự cho vị Bích-chi- phật mà đời này được phước báu trong vô lượng kiếp, khi sinh lên trời hoặc sinh ở nhân gian đều được tôn vinh sung sướng, ở thế gian ít ai sánh bằng. Này A-nan, ông nên biết, tất cả chúng sinh, tại gia hay xuất gia đều nên tu phúc thì đời đời sinh ra đều được lợi ích như trên.
Khi đó, A-nan tôi và cả chúng hội nghe Đức Phật nói như thế thảy đều vui mừng tin tưởng và vâng làm.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ, trong núi Kỳ-xà-quật cùng các đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi vị hội đủ.
Khi đó Đức Thế Tôn nghĩ đến cần một thị giả, các vị đệ tử lớn như Kiều-trần-như... cũng quan sát biết được ý nghĩ của Phật. Lúc đó Kiều-trần-như từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y bày vai phải chắp tay quỳ thẳng bạch Phật, xin được gần gũi hầu hạ gìn giữ y bát, cúi mong thương xót hứa khả cho. Đức Phật bảo ngài:
Ông tuổi đã già, tự mình cần được sự hầu hạ, làm sao nỡ khiến ông cung phụng được.
Khi đó, ngài Kiều-trần-như biết Đức Phật không nhận lời, lễ xong lui về chỗ ngồi. Ngài Đại Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và các đệ tử năm trăm người lần lượt bạch Phật đều xin được hầu hạ, Đức Phật đều không nhận. Khi đó, A-na- luật thử quan sát ý của Phật thấy Ngài tâm hướng về A-nan, giống như mặt trời hướng Đông chiếu thẳng vào nhà ánh sáng từ cửa sổ hướng Đông thẳng đến vách Tây, ý chí của Thế Tôn cũng lại như vậy. Các đại đệ tử cũng đều quán sát biết như thế. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước, nói với A-nan:
– Ý của Thế Tôn muốn được ông làm thị giả, ông giỏi khéo, lanh lợi, rất xứng đáng, nên mau đến thưa cầu làm thị giả của Đức Phật đi!
Khi đó A-nan thấy các vị Thượng tọa đến trước và nói với như thế, liền chắp tay thưa với các vị Thượng tọa:
– Đức Thế Tôn công đức sâu dày, trí tuệ sâu xa, đem sự thân cận thường tình của tôi hầu hạ công việc sợ e chiêu lấy tội lớn, tự gây ương hoạn.
Ngài Xá-lợi-phất cùng các vị khác lại nói với tôi:
Nay trông thấy Thế Tôn chuyên chú ý hướng về ông và muốn ông làm thị giả, như mặt trời mới mọc chiếu sáng vào nhà, ánh sáng từ hướng Đông chiếu thẳng đến vách phía Tây; Đức Thế Tôn chú tâm cũng lại như vậy. Lại nữa, Đức Thế Tôn cứu xét tình người có thể biết ông kham nhận, cho nên ông lưu ý, bây giờ nên mau thưa cầu làm thị giả.
A-nan được các vị ấy nói thêm mãi, suy nghĩ về việc đó, chẳng biết phải làm sao, lại chắp tay thưa các Thượng tọa:
– Nếu nay Thế Tôn ban cho tôi ba điều nguyện, tôi nhận làm thị giả Phật, ba điều đó như thế nào? Đó là: 1. Y cũ của Thế Tôn chớ cho tôi mặc; 2. Thức ăn dư của Thế Tôn chớ khiến tôi ăn; 3. Thời tiết tiến hiện, tùy tôi lo liệu. Được ba điều nguyện này, tôi có thể hầu Phật.
Các ngài Xá-lợi-phất... nghe xong lời ấy rồi, đem việc ấy trình bày với Thế Tôn. Đức Phật nghe xong bảo Xá-lợi-phất và các đệ tử:
A-nan sở dĩ không muốn mặc y cũ của Ta là ông lo nghĩ sâu xa e sợ các đệ tử ôm lòng ghen ghét mối khởi tâm này bởi vì quốc vương, các quan, dân chúng, đàn-việt cúng thí cho Phật những thứ y mịn màng quý đẹp, cho rằng A-nan vì tham cầu những thứ này mà làm thị giả. Lại không muốn ăn cơm thừa của Ta vì lo các đệ tử sinh lòng như vầy. Trong bát của Như Lai thức ăn thừa cũng là thức ăn ngon ngọt, đủ trăm mùi vị trên đời không có thức ăn này, cho rằng A-nan tham ăn mà muốn gần gũi Ta. A-nan tự lo thời tiết tiến hiện vì lo các đệ tử và các ngoại đạo tới lui nạn vấn. Không biết thời tiết, không đúng giờ giấc, làm xúc não. Vì làm thị giả phải xem đúng giờ giấc, thời tiết để dâng các món ăn uống thì thân thể mới được lợi ích, mỗi mỗi việc đều phải có chế độ và quan sát qua, vì thế mà ông đoán trước mới xin ba điều nguyện này. Lại nữa, ông A-nan này không chỉ ở đời này tự biết thời tiết mà ở đời quá khứ, ông cũng đã hầu hạ Ta và cũng khéo biết sự tiến cử như vậy.
Khi đó ngài Xá-lợi-phất thưa Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, không biết trong đời quá khứ ông A-nan hầu Phật khéo biết thời tiết, việc ấy như thế nào, xin Ngài nói cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo:
– Xá-lợi-phất, ông muốn biết, hãy lắng nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói.
Ngài Xá-lợi-phất thưa:
– Dạ vâng! Thưa Thế Tôn, con xin chú ý nghe. Đức Phật nói:
Xá-lợi-phất, ở đời quá khứ tính theo số kiếp a-tăng-kỳ vô số vô lượng, có một vị vua nước lớn thống lãnh châu Diêm-phù-đề tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc. Vua ngự ở thành Bà- lâu-thi-xá. Khi đó trong thành có một vị Bà-la-môn tên Ni-câu-lâu-đà, thông minh hiểu rộng, thiên tài đặc biệt. Nhà vua rất tôn trọng ông, coi như thầy vậy. Tám vạn bốn ngàn vị vua nước nhỏ đều mến mộ khâm phục, chiêm ngưỡng bốn phương hiến tặng và thường sai sứ đến thăm hỏi, nói tóm lại họ thờ phụng cũng như thờ vua không khác. Lúc đó vị Bà-la-môn giàu có như một vương gia nhưng không có con nối nghiệp nên lúc đi ra vào hay ngồi cũng lo buồn về việc này, không biết nơi nào có thể cầu nguyện được con, bèn cầu đảo với Phạm thiên, vua trời Đế Thích, Ma-hê-bạt-la và các trời nhật, nguyệt, tinh tú khác, nào là núi sông, thần cây... không thứ gì chẳng cầu nguyện. Thành tâm như vậy trải qua mười hai năm thì bà vợ lớn của ông cảm biết thọ thai. Có một thiếu phụ rất thông minh, có thể biết được việc này, cho rằng thai nhi ấy là con trai, đem việc này nói với vị Bà-la-môn. Ông rất vui mừng bảo các gia nội, thể nữ đến lo lắng cho phu nhân, lúc đi đứng, ăn uống, ngủ nghỉ hoặc mặc đồ trơn mịn,... không để trái ý bà. Mười tháng đã mãn, sinh được đứa con trai, mình sắc vàng tía, đầu tóc xanh mượt, đoan chính siêu phàm, tướng người thường khó có. Vị Bà-la-môn trông thấy vui mừng khôn xiết, liền mời thầy về xem tướng. Thầy tướng quan sát khen:
– Đứa bé này tướng tốt, phước đức to lớn, thiên hạ chưa từng có.
Người cha rất vui mừng và nhờ đặt tên. Theo phong tục, cõi Thiên trúc đặt tên phải dựa vào hai điều kiện: 1. Tinh tú; 2. Điềm lạ. Thầy tướng hỏi:
– Khi bà mang thai cậu bé này đến nay có điềm gì lạ không?
Người cha đáp:
– Mẹ của đứa trẻ này có lòng ghen ghét xấu ác, ít lòng từ thuận, không tu từ tuệ, từ khi mang thai đến nay tâm tính thay đổi, thương xót kẻ khổ ách như mẹ thương con hay làm việc bố thí, không có tham tiếc.
Thầy tướng nghe xong, vui vẻ nói:
– Đấy là do ý chí của đứa bé này nên khiến như vậy. Nên đặt tên là Ma-ha Xà-ca-phàn (Tần dịch là Đại Thí).
Đứa bé dần dần lớn, cha mẹ rất yêu mến, xây riêng cho một cái cung, có cung điện ba mùa, để tùy theo thời tiết nóng lạnh. Mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát mẻ, mùa xuân, mùa thu ở cung giữa, sắp xếp các kỹ nữ hầu hạ giúp vui cho cậu. Cậu bé ấy rất thông minh và hiếu học, đọc thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, văn nghĩa đều thông cả, các ngành kỹ thuật không chi chẳng thông suốt. Một hôm Đại Thí thưa cha:
– Con ở trong cung điện đã lâu, nay con muốn được ra ngoài dạo chơi.
Cha nghe nói thế, lệnh cho gia nhân:
Con ta là Đại Thí muốn ra ngoài dạo chơi, các ngươi nên quét dọn đường xá, trừ bỏ chỗ bất tịnh, dựng các tràng phan tán hoa đốt hương, trang nghiêm con đường, hết sức sạch sẽ.
Sắp xếp dọn dẹp xong xuôi, lúc đó Đại Thí cỡi con voi trắng lớn, trang sức bằng bảy báu, đánh chuông đánh trống, trổi các kỹ nhạc, có hàng ngàn vạn người cỡi ngựa theo sau, đi trên một con đường lớn thẳng đến cổng thành. Lúc đó, nhân dân trong nước ở trên lầu gác hai bên đường, tranh nhau ra xem, nhìn không chán mắt, đều khen: “Rất là ít có, trông tướng mạo uy nghi như một Phạm thiên.” Đi quẹo sang đường khác tiến tới trước thì gặp một bọn người ăn xin, mặc áo quần dơ dáy, cầm những cái bát bể, cầu xin thương xót cho chút thức ăn. Đại Thí trông thấy hỏi:
– Các người làm gì mà khổ nhọc đến như thế? Có đứa đáp:
– Con không cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ cô độc, không chỗ nương cậy.
Có đứa nói:
– Con mắc bệnh hoài, không thể làm việc, không còn con đường sống.
Có đứa nói:
– Con gặp bất hạnh bị phá sản, nợ nần nhiều quá, không cách nào tự làm ăn được, cho nên phải đi xin ăn để kéo dài mạng sống thừa.
Đại Thí nghe xong, trong lòng chua xót, than thở mà đi. Lại đi tiến về phía trước thấy các đồ tể đang mổ xẻ súc sinh, cắt ra từng mảnh để cân bán.
Đại Thí thấy thế hỏi:
– Chao ôi! Các ông làm gì thế? Họ nói:
– Tổ phụ chúng tôi xưa nay sống nghề đồ tể, nếu chúng tôi bỏ nghề này thì lấy gì mà sống?
Đại Thí than thở rồi bước ra đi. Kế đến trông những người nông phu cày ruộng, các loại côn trùng từ dưới đất chui lên bị cua ếch bắt nuốt ăn, lại có con rắn bò tới bắt cua ếch ăn lại, rồi trên trời chim khổng tước bay tới mổ rắn mà ăn. Đại Thí hỏi:
– Họ làm việc này để chi vậy? Đáp:
– Cày ruộng để gieo lúa, sau này thu hoạch được lúa thóc ăn và đem nộp thuế cho nhà vua.
Đại Thí nghe rồi, than thở mà ra đi. Lại đi tiến về phía trước, trông thấy những thợ săn giăng bẫy lưới để bắt cầm thú, thấy các cầm thú bị sa vào trong lưới, tự giãy giụa mà không thể thoát được, đau đớn kêu la, rất là sợ hãi. Đại Thí trông thấy thế hỏi:
– Các ông làm gì thế này? Họ đáp:
– Chúng tôi chỉ chuyên nghề săn bắn, nếu không làm việc này thì không còn con đường sống. Đại Thí nghe nói rồi, đau lòng chua xót mà đi.
Lại tiếp tục đi tới gặp những người tung lưới ra kéo bắt cá rất nhiều, chất đống đầy đất, nằm ngổn ngang giãy giụa. Đại Thí ngạc nhiên hỏi:
– Các ông làm gì thế? Họ đáp:
– Cha ông chúng tôi từ xưa đến nay không có nghề gì khác, chỉ dựa vào nghề bắt cá bán để sinh sống.
Đại Thí nghe xong, ôm lòng thương xót mà tự nghĩ: “Các chúng sinh đều do nghèo khổ thiếu ăn, thiếu mặc mà tạo nghiệp ác này, giết hại chúng sinh, tỏ ý vui mừng, sau khi lâm chung sẽ đọa vào ba đường tăm tối, sao mà họ làm kỳ lạ thế?” Nghĩ như thế rồi bảo quay xe trở về cung, nhớ mãi những buổi dạo chơi ưu sầu không vui, đi đến gặp cha xin một điều nguyện. Người cha nói:
– Này Đại Thí, tùy con muốn gì, cha không làm nghịch ý đâu.
Chàng liền nói:
– Trước kia, con đi ra ngoài thành dạo chơi trông thấy những người dân vì sự ăn mặc mà làm lụng rất cực nhọc, giết hại, dối trá, làm đủ các nghiệp ác, lòng cảm thấy rất xót xa, con muốn giúp cho họ, mong cha ban ân mở kho bố thí, cứu người nghèo thiếu.
Người cha bảo:
– Cha để dành của cải là để cho con, con muốn việc gì thì cứ làm, cha không trái ý đâu.
Người con được cha dạy, liền hạ lệnh cho tất cả nhân dân là: “Ma-ha Xà-ca-phan (Đại Thí) muốn mở cuộc bố thí thật lớn, ai có cần gì thì hãy đến lấy.” Lệnh được truyền đi xong, nào Sa-môn, Bà- la-môn, người nghèo, kẻ thiếu nợ, cô đơn, bệnh tật..., những người ở ngoài thành xa xôi cũng lần lượt kéo đến, có những người dân ở cách xa từ một trăm dặm, hai ba trăm dặm, cho đến năm trăm, một ngàn dặm tới, lại cũng có người từ ba ngàn đến năm ngàn dặm tới, người mạnh khỏe dìu kẻ yếu đuối, bốn phương vân tập đều cho tất cả được như ý muốn, cần áo cho áo, cần lương thực cho lương thực, vàng bạc bảy báu, xe ngựa, ruộng vườn, súc vật... đều đem bố thí cả. Trải qua một thời gian, đồ vật trong các kho đã hết hai phần ba. Người giữ kho đến thưa với người cha:
– Ma-ha Xà-ca-phan từ khi bố thí đến nay, đồ đạc trong kho ba phần đã cho hết hai, chỉ còn có một phần, sợ e mai kia vua quan, khách khứa đến thì còn đâu mà tiếp đãi, xin ông hãy suy nghĩ kỹ để sau này chớ có trách phiền.
Người cha nghe báo thế, tự nghĩ: “Ta rất yêu mến đứa con này, không thể làm trái ý nó, thà để kho lẫm trống không, chứ làm sao có thể chặt đứt việc bố thí như vậy.” Lại trải qua một thời gian, dùng những đồ vật trong kho còn lại một phần, người giữ kho thấy thế thưa:
Trước đã đem bố thí đồ trong kho ba phần, chỉ còn dùng hai, nay kho tàng sắp trống không, tôi báo cho ông chủ biết, vậy nên hãy suy nghĩ lại.
Bấy giờ vị Bà-la-môn nói:
– Ta nặng tình quý con của ta chưa từng làm nghịch ý, nay ông có phương tiện mượn nhân duyên gì khác để giữ lại ít của cải, lương thực làm cho người ta ít đến xin nữa.
Người giữ kho nghe rồi liền đóng cửa kho, những người xin đều đến nơi ở của Đại Thí. Đại Thí đi đến bảo người giữ kho phân phát đồ, nhưng anh ta không có ở đó, sai người đi tìm, trải qua một thời gian khó khăn mới gặp được. Anh giữ kho tuy có đem cho những người xin không được bao nhiêu. Đại Thí thầm nghĩ: “Nay người giữ kho lẽ nào dám không nghe lời ta, chắc đây là ý của cha sai người giữ kho. Song phép làm con không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, bây giờ trong kho tàng này, của cải không còn bao nhiêu, vậy ta phải làm thế nào để được của cải thỏa mãn ý của ta tiêu dùng và ban giúp cho quần sinh”. Khi đó, Đại Thí liền hỏi mọi người:
– Nay ở thế gian này làm sự nghiệp gì có thể được nhiều của cải dùng hoài không hết.
Có người nói:
– Nên trồng nhiều ngũ cốc, tạo vườn thì có thể được nhiều tiền tài.
Hoặc có người nói:
– Nên nuôi nhiều gia súc, đến lúc buôn bán được nhiều tiền tài.
Hoặc có người nói:
– Nếu sợ tai nạn nguy hiểm đi xa buôn bán thì được nhiều của cải.
Hoặc có người nói:
– Chỉ có đi biển tìm kiếm châu báu mới được nhiều của cải.
Đại Thí nghe hết những ý kiến này, tự nói: “Cày cấy, trồng tỉa, nuôi súc vật hay đi xa mua bán không được lợi lộc cho mấy; chỉ có vào biển tìm châu báu, kế này ta chịu theo, ta quyết định đi làm việc này.” Nghĩ thế rồi, chàng đến thưa với cha mẹ:
– Nay con muốn ra biển đi tìm châu báu đem về để bố thí cho dân chúng nghèo thiếu. Xin cha mẹ vui lòng cho con được toại ý.
Cha mẹ nghe nói, kinh ngạc hỏi:
Người thế gian đi biển phần nhiều là những người nghèo khổ không nghề sinh sống, có thể chịu bỏ thân mạng, không lưu luyến gì. Con có làm việc gì mà lại muốn đi biển? Nếu muốn bố thí thì trong kho tàng nhà ta có bao nhiêu, con hãy đem hết đi, chớ đừng vào biển. Lại nữa đi biển, các thứ nạn rất nhiều, sóng to gió lớn, nào cá Ma-kiệt, rồng dữ, La-sát, nào là núi non, nước sóng, khó mà vượt qua. Con có việc gì gấp mà đem thân vào chỗ tai nạn này làm chi. Chúng ta nên giữ mạng sống, cha không cho phép con đi, đừng có phân vân.
Đại Thí nghe xong cảm thấy không được như ý nguyện rất là đau buồn, tự nghĩ: “Nay ta nguyện muốn làm việc lớn, giả như tham tiếc thân mạng thì làm sao có thể thành tựu việc gì?” Nghĩ xong phục mình xuống trước cha mẹ mà nói:
– Nếu cha mẹ ngăn giữ chí nguyện của con thì con xin nằm ở đây mãi không đứng dậy nữa.
Cha mẹ nghe xong việc này, trong lòng nóng như lửa đốt, cùng mọi người đến trước khuyên can:
– Đường biển xa xôi gặp nhiều hiểm trở, người đi thì nhiều, người trở về rất ít, cha nhớ khi cầu sinh con phải cầu đảo các trời chí thành khẩn thiết, trải qua mười hai năm, khó khăn lắm mới sinh được con khôn lớn. Bây giờ con muốn bỏ cha mẹ mà đi, hãy bỏ ý muốn này đứng dậy ăn uống bình thường đi!
– Cứ như vậy từ một ngày, hai ngày đến sáu ngày, khuyên can mãi nhưng cậu vẫn giữ chí như ban đầu. Cha mẹ lo sợ quá cùng nhau bàn bạc: “Đứa con mình trước sau gì cũng muốn đi biển, chưa từng thoái tâm, thôi hãy để cho nó đi biển còn mong có ngày trở về, chứ nay cản trở nó nếu quá bảy ngày chắc là gặp họa, biết phải làm sao”. Bàn luận xong, họ đi đến bên con nắm tay mà nói với con:
Cha mẹ chìu theo ý con, hãy đứng dậy đi ăn cơm.
Ăn xong, Đại Thí đi ra ngoài tuyên bố với mọi người:
– Nay tôi muốn đi ra biển tìm châu báu, ai muốn đi theo thì cùng đi, tôi sẽ cung cấp đầy đủ dụng cụ.
Khi đó, trong nước có năm trăm người nghe tuyên bố chịu đi theo, liền soạn các thứ cần dùng định ngày xuất hành. Đến ngày lên đường từ biệt vua, quần thần, cha mẹ và các vương tử, dân chúng có hơn ngàn vạn người đưa tiễn, họ tặng tiền bạc và các thứ cần dùng, khóc lóc từ biệt. Đi được vài ngày thì ngừng nghỉ nơi cánh đồng rộng, gặp một bọn cướp đến trộm lấy. Đại Thí thương xót đem tiền của, lương thực ra cho và bắt đầu đi nữa. Đến một tòa thành tên Phóng bát, trong thành có một vị Bà-la-môn tên Ca-tỳ-lê. Khi đó Đại Thí đi đến chỗ ông ta muốn vay ba ngàn lượng vàng. Vị Bà-la- môn này có một đứa con gái, xinh đẹp, mình sắc vàng tía, đầu tóc xanh mượt, tướng mạo đoan chánh tuyệt đẹp không ai sánh bằng. Tám vạn bốn ngàn các tiểu vương quốc đến cầu hôn mà cô chưa chịu. Khi đó Đại Thí đi đến cổng hỏi muốn gặp Ca- tỳ-lê. Cô gái ở trong nhà nghe tiếng nói bên ngoài vui mừng kinh ngạc thưa với cha mẹ:
Người ở bên ngoài kêu cửa đấy là chồng con. Lúc đó ông Ca-tỳ-lê đi ra, gặp nhau, thấy tướng mạo của Đại Thí, biết là phi phàm, nghe Đại Thí cần vàng, vui lòng chịu cho. Rồi ông tay trái cầm tráp vàng, tay phải nắm tay con gái, nói với Đại Thí:
– Nay con gái của ta đây dung mạo xinh đẹp khác thường, nhiều vương tử đến cầu hôn nhưng ta không gả, nay trông thấy cậu, tướng mạo đoan chánh, xin nhận lời đứa con gái này đi theo hầu hạ.
Đại Thí nói:
– Hiện nay, tôi sắp đi biển phải qua nhiều nguy hiểm, không biết có an toàn hay không, bây giờ nhận con gái ông, việc này không thể được.
Ông Ca-tỳ-lê nói:
– Nếu như được tốt lành trở về, xin cậu hãy nhận chịu lời tôi.
Khi đó, Đại Thí liền nhận lời. Bấy giờ ông Ca- tỳ-lê vui mừng bèn cho Đại Thí ba ngàn lượng vàng và đồ cần dùng. Đại Thí cảm ơn rồi từ biệt lên đường. Cậu bảo những người cùng đi đặt mua thuyền tốt, dày bảy lớp ván để chịu đựng nỗi với sóng gió. Đẩy thuyền xuống biển, dùng bảy sợi dây cột ở mạn thuyền rồi chàng lắc linh nói với các bạn thương buôn:
– Các bạn hãy lắng nghe! Đi biển có nhiều nạn nguy hiểm, nào là gió độc, La-sát, sóng to, nước xoáy, rồng dữ, ác khí, cá Ma-kiệt... rất nhiều tai nạn. Các bạn vào biển! Lúc này ai muốn trở về thì
ở lại đây, kẻo thuyền nhổ neo tách bến có hối hận cũng không kịp. Nếu ai có thể vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, xa cha mẹ, anh em, vợ con. Nếu gặp được an ổn trở về thì của bảy báu mang về, bảy đời con cháu ăn cũng không hết.
Nói rồi bèn cắt đứt một dây, cứ mỗi ngày như thế, bảy ngày nói xong cắt đứt bảy sợi dây neo, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như tên bay cùng các thương buôn đến nơi có của báu. Đại Thí là người nghe nhiều học rộng, biết các thứ của báu thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, màu sắc tốt xấu, chỉ bảo cho mọi người thương buôn: “Như thế này là sắc báu, không nặng, giá rất quý có thể lấy; như thế này là thứ của báu bình thường rất nặng mà giá lại rẻ, chớ nên lấy.” Lại giao ước lấy của báu nhiều ít vừa phải, đừng tham quá nhiều sợ nặng thuyền bị đắm, còn lấy ít thì nhẹ thuyền nhưng lại tốn công mình đi cực nhọc. Dặn dò, nhắc nhở anh em xong, ai cũng siêng năng kiếm lấy, chất đầy trên thuyền, mọi thứ châu báu đẹp đẽ và chuẩn bị trở về. Lúc đó Đại Thí không muốn lên thuyền, mọi người tụ tập lại hỏi ý Đại Thí vì sao. Đại Thí đáp:
– Tôi muốn đến điện của Long vương để xin ngọc Như ý. Dù bỏ thân mạng, xin không được, tôi quyết không trở về.
Những lái buôn nghe thế đau buồn, cùng nhau nói:
– Chúng tôi nhờ cậu mà mạo hiểm đến đây, mong được hoàn toàn trở về nhà, nay vì sao cậu lại bỏ chúng tôi?
Đại Thí nói:
– Tôi sẽ vì các anh cầu nguyện khiến cho các anh được an ổn trở về nhà.
Các thương buôn nghe rồi, lòng lo sợ không yên. Đại Thí tay cầm lư hương, hướng về bốn phương, rồi tự lập thệ: “Tôi không quản mệt nhọc vào biển tìm châu báu để cứu giúp sự nghèo đói của quần sinh, nguyện đem công đức này cầu thành Phật, như tôi chí thành xin nguyện này được thành tựu, khiến cho những người thương buôn và thuyền châu báu không gặp nạn dữ, an toàn về nước”. Nguyện xong, các thương buôn đều nắm tay chân Đại Thí khóc lóc từ biệt về nước, nhổ neo trương buồm trở về Diêm-phù-đề đều được an ổn. Bấy giờ Đại Thí sau khi từ biệt mọi người đi xuống nước đến mắc cá chân, trải qua bảy ngày đi nước sâu đến mông, đi bảy ngày nữa thì nước đến ngang lưng, bảy ngày nữa thì nước ngang đến cổ, bảy ngày nữa thì trôi nổi hoài đến một quả núi, hai tay chống cây để leo lên núi, đi bảy ngày thì đến đỉnh núi, ở trên đỉnh ngọn núi đó bằng thẳng, đi bảy ngày rồi lại xuống núi, bảy ngày đến chân núi tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, có các con rắn cực độc quấn quanh cọng sen. Đại Thí thấy thế liền ngồi ngay thẳng nhiếp niệm tại tâm, nhập pháp Từ bi tam-muội, nghĩ tới những con rắn độc này vốn khi sinh ra đều do lòng tham sân si tật đố, cho nên sinh trong đây, thọ thân hình độc ác xấu xa. Đem lòng Từ thương xót, nên khiến những con rắn độc ấy đều hết nọc độc. Đại Thí đứng dậy bước trên những bông hoa mà đi, trải qua bảy ngày mới thoát qua khỏi rắn độc này, đi tiến tới phía trước thấy các La-sát, chúng ngửi thấy hơi người đều tìm đến. Đại Thí thấy rồi nhiếp tâm Từ bi quán thì những La-sát tự phát tâm cung kính, đến gần hỏi:
– Ông từ đâu đến? Đại Thí nói:
– Tôi muốn tìm châu Như ý.
La-sát vui mừng tự nghĩ: “Người phúc đức này đi đến Long cung, nhưng đường hãy còn xa, làm sao khiến vượt qua sự khổ nhọc nổi? Ta nên giúp vượt qua các nguy hiểm”, liền dùng thần lực đưa qua bốn trăm do-tuần rồi để trên mặt đất. Lúc đó Đại Thí đi thẳng tới trước thấy một cái thành bạc, sáng sạch trắng tinh, biết là Long cung, vui mừng đi tới thấy ngoài thành có bảy lớp hào, trong toàn là rắn độc trông rất ghê sợ. Đại Thí tự nghĩ: “Những con rắn này đều do đời trước tâm nộ rất nhiều, nên phải thọ thân hình xấu ác như vầy.”
Lòng Từ bi thương xót coi nó như con nhỏ, tâm từ quán xong thì các con rắn độc đều mất hết, chàng liền bước đi thẳng đến Long cung, thấy có hai con rồng, thân quấn quanh thành, giao đầu ngay cánh cửa. Thấy Đại Thí, chúng ngóc đầu nhìn kinh ngạc. Khi đó Đại Thí nhập Từ bi quán, rồng độc cúi đầu không dám nhìn nữa. Đại Thí bước lên đi vào. Trong thành Long vương ngồi trên tòa bảy báu trông thấy Đại Thí kinh ngạc thầm nghĩ: “Ngoài thành ta có bảy lớp hào, trong hào đều có rắn độc, rồng dữ, Dạ-xoa, thế mà người này vào được đến đây”. Long vương liền đến tiếp đón hỏi han cung kính, làm lễ, mời ngồi trên giường bảy báu, đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, Long vương hỏi ý của Đại Thí đến đây làm gì. Đại Thí đáp:
– Người ở cõi Diêm-phù-đề nghèo khổ, tôi đến đây kiếm của báu về để bố thí cho họ. Cuộc sống của họ vì sát hại, dối trá... tạo đủ thứ nghiệp ác, sau khi mạng chung đọa vào ba đường ác, tôi thấy thương xót muốn cứu giúp họ nên vượt đường xa hiểm trở đến đây yết kiến đại vương xin viên ngọc Như ý dùng để cứu tế, công đức làm được việc này xin thệ cầu thành Phật. Nếu không nghịch ý xin hãy ban cho.
Long vương nói:
– Ngọc Như ý là của báu khó được, ngài vượt qua bao nguy hiểm đến đây, nếu vui lòng xin hãy ở lại đây một tháng, nhận chút cúng dường và nhân đó thuyết pháp cho tôi, tôi sẽ biếu ngọc Như ý.
Đại Thí nhận lời, Long vương hàng ngày thết đãi trăm vị của biển, ca múa để phục vụ cho Đại Thí. Đại Thí giảng pháp Tứ niệm xứ tuệ cho vua nghe. Trải qua một tháng thì từ biệt trở về. Long vương vui mừng mở châu Như ý trên búi tóc đem dâng cho Đại Thí, mà nói:
– Đại sĩ có lòng Từ rộng lớn cứu giúp nạn khổ và có ý chí mãnh liệt chắc chắn thành Phật. Tôi nguyện làm một đệ tử trí tuệ.
Đại Thí nhận lời, nói:
– Ngọc này của ngài có năng lực như thế nào? Long vương đáp:
– Ngọc này có thể làm mưa hai ngàn do-tuần biến thành mọi thứ cần dùng.
Đại Thí tự nghĩ: “Hạt châu này tuy biến nhanh, nhưng chưa có thể làm cho ta giúp rộng lớn hơn nữa”. Bấy giờ các rồng lớn nhỏ tiễn đưa Đại Thí đến cổng thành rồi từ tạ ra về.
Đại Thí đi thẳng tới trước, từ xa thấy một cái thành, toàn là lưu ly xanh, màu sắc nó trong sạch, đi đến mới thấy bên ngoài thành cũng có bảy lớp hào, trong hào cũng đầy các rắn độc. Đại Thí trông thấy, thầm nghĩ: “Các rắn độc này do lòng sân hận tật đố mới sinh trong đây, chịu thân hình xấu ác”. Chàng bèn ngồi ngay thẳng nhập Từ bi quán tăng thêm lòng thương xót, lòng Từ bi lan tỏa, các rắn không còn độc hại nữa, giẫm bước lên đầu của chúng mà đi vào thành, cũng thấy hai con rồng dùng thân quấn quanh thành, hai đầu giao nhau trước cổng. Chúng trông thấy Đại Thí ngóc đầu trừng nhìn. Đại Thí lúc đó đem lòng Từ bi nhìn chúng, lòng từ lan tỏa khiến trừ đi độc hại của nó. Rồng gục đầu, Đại Thí tiến bước vào trong thành. Khi đó trong thành có một Long vương ngồi trên điện bảy báu, trông thấy Đại Thí kinh ngạc thầm nghĩ: “Ngoài thành có bảy lớp hào rắn độc, các rồng, Dạ-xoa, khó có thể vượt qua, người này làm thế nào mà có thể đến đây?” Long vương liền bước xuống đón tiếp chào hỏi cung kính làm lễ mời lên trên điện ngồi tòa bảy báu, bày các món ăn ngon lạ, ăn xong rồi, Long vương hỏi nguyên do vì sao đến đây. Đại Thí nhân đó trả lời ý của mình đến chỉ muốn cầu ngọc Như ý. Long vương nói:
– Ngọc Như ý rất là khó được, vả lại người muốn được nó, thì phải nhận lời ta mời ở lại đây hai tháng và thuyết giảng về hạnh Bồ-tát.
Long vương bày ra các thức ăn uống và ca múa hát để cúng dường Đại Thí. Đại Thí dùng biện tài phân biệt nói Tứ thần túc. Trải qua hai tháng mới xong rồi từ tạ ra về. Long vương liền mở hạt châu trên búi tóc dâng cho và lập thệ:
– Đại sĩ có lòng Từ bi cứu giúp quần sinh, tâm rộng lớn ấy chắc chắn thành Phật, ta nguyện làm đệ tử học pháp thần túc.
Đại Thí nhận lời nói:
– Như lời ngài đã nguyện, sẽ được thành tựu, còn viên ngọc ngài cho đây, năng lực như thế nào?
Long vương đáp:
– Châu Như ý này có thể mưa xuống bốn ngàn do-tuần, biến ra tất cả các thứ cần dùng, ngài nghĩ gì thì nó biến thành như thế.
Đại Thí tự nghĩ: “Tuy hạt châu này có phép hay lạ nhưng chưa được như ý của ta”. Bấy giờ Long vương, rồng lớn nhỏ đều tiễn đưa Đại Thí ra đến cổng thành, thương mến, quyến luyến rồi từ biệt ra đi.
Đại Thí lại đi về phía trước, trông thấy cái thành bằng vàng, màu sắc chói lọi rất đẹp. Đại Thí đi đến thấy ở ngoài hành cũng có bảy lớp hào, trong hào cũng có những con rắn độc. Đại Thí tự nghĩ những con rắn độc này cũng do đời trước có thói sân tật đố nên nay mang thân hình xấu ác này, rồi ngồi thẳng khởi lòng Đại bi tăng thêm lòng thương mến, các rắn độc đều không còn, rồi giẫm bước qua tới trước cổng thành, cũng trông thấy hai con rồng dùng thân quấn thành giao đầu trước cổng. Trông thấy Đại Thí, chúng ngẩng đầu nhìn trừng. Đại Thí y như pháp nhập định quán Từ bi, rồng bèn cúi đầu. Đại Thí bước qua rồi vào trong thành. Trong thành đó cũng có Long vương ngồi trên bảo điện, từ xa trông thấy Đại Thí, ngạc nhiên tự nghĩ: “Bên ngoài thành của ta đây có bảy lớp hào, trong đó đầy dẫy rắn độc, ngoài ra còn có rồng, Dạ-xoa, không ai có thể đi qua. Nay người này là ai mà có thể đến được nơi đây?” Tâm rất ngạc nhiên lạ lùng, Long vương liền bước xuống nghênh tiếp hỏi han, cung kính làm lễ và mời lên bảo điện mời ngồi tòa bảy báu. Ngồi xong, Long vương bảo đem các món thơm ngon thết đãi, ăn xong rồi hỏi nguyên do vì sao đến đây? Đại Thí đáp:
– Người ở Diêm-phù-đề, phước đức mong manh, vô cùng nghèo khổ, làm lụng lao lực, giết hại, dối trá để kiếm sự ăn mặc, đủ mười nghiệp chẳng lành, sau khi mạng chung lại đọa trong ba đường khổ. Tôi vì lòng thương xót, muốn cứu giúp họ, mới vào biển tìm Long vương, nghe nói ngài có châu Như ý nên không quản đường xa nguy hiểm, mong được đến đây.
Long vương nói:
– Ngọc báu Như ý là vật khó có được. Đại sĩ đến đây mong được châu ấy. Nếu ngài muốn được ngọc ấy, hãy ở lại đây bốn tháng, thọ sự cúng dường nhỏ mọn của tôi và giảng giải đạo pháp cho tôi nghe.
Đại Thí nhận lời. Long vương vui mừng, ngày ngày bày các món mỹ vị đích thân dâng các món ngon ngọt, lại bảo trổi các thứ âm nhạc, múa hát giúp vui. Đại Thí dùng biện tài phân biệt danh tự, ngọn nguồn các pháp, rộng tuyên giáo nghĩa. Long vương một lòng lắng nghe lãnh thọ, sớm chiều thăm hỏi, không để mất giờ giấc. Long vương sắp đặt giờ cho các rồng, Dạ-xoa tới lui hầu hạ chu đáo trong bốn tháng, nghiêm chỉnh rất hợp phép tắc. Bốn tháng đã mãn, Đại Thí từ biệt ra về. Bấy giờ Long vương liền cởi châu Như ý trong búi tóc dâng cho Đại Thí và lập thệ:
– Đại sĩ thệ nguyện rộng lớn, lòng tự cứu tế bao la, thương xót các quần sinh, không màng khó nhọc, chắc chắn sẽ thành Phật. Tôi nguyện làm một đệ tử tổng trì.
Đại Thí nhận lời, lại hỏi:
– Hạt châu ngài cho năng lực nó như thế nào? Long vương nói:
Hạt châu này có thể mưa xuống rộng tám ngàn do-tuần biến ra bảy báu cần dùng.
Đại Thí vui mừng, tự nghĩ: “Đất châu Diêm- phù-đề, bảy ngàn do-tuần, công năng ngọc này đạt được nguyện vọng của ta.” Trước sau đã được ba hạt châu, buộc ở chéo áo, Đại Thí liền đi ra ngoài thành. Các rồng lớn nhỏ tiễn đến ngoài thành, đều quyến luyến thương mến, cùng từ biệt ra về. Đại Thí đem hạt châu ra cầu nguyện. Nếu thật sự là châu Như ý, hãy khiến thân ta có thể bay lên hư không. Cầu nguyện xong, thân chàng nhấc bổng lên hư không và có thể bay qua biển, nghỉ ngơi trên bãi cát. Lúc đó trong biển các rồng cùng nhau bàn luận:
– Trong biển chúng ta chỉ có ba hạt châu, công năng nó rất lớn, khó có gì sánh bằng, người này nay lấy nó đem đi, đáng tiếc châu báu này, chúng ta nên đi lấy lại.
Bàn bạc xong, họ bí mật mở lấy hạt châu lại. Đại Thí ngủ tỉnh dậy không thấy châu báu, bèn suy nghĩ: “Ở đây không có người, ắt là rồng biển lấy châu báu của ta đem đi, ta vì châu này phải vượt qua bao gian lao nguy hiểm, mong ngày đem về nước để cứu chúng sinh cho mãn nguyện, dù có lấy châu báu của ta, rốt cùng ta sẽ không tha, ta sẽ dùng hết sức tát cạn biển này, ta thề bỏ mạng ở đây, nếu không lấy lại được ngọc Ma-ni, quyết định không về.” Suy nghĩ thế rồi, chàng đi đến bờ biển, nhặt được một cái mu rùa, dùng hai tay tát biển. Thần biển biết ý hiện ra hỏi:
– Nước biển sâu rộng ba trăm ba mươi sáu vạn dặm cho dù tất cả nhân dân cùng nhau hết sức để tát cũng không thể cạn nổi, huống là một mình ông tát làm sao được?
Đại Thí nói:
Nếu người ta chí tâm, muốn làm việc gì thì việc ấy cũng không ngại. Ta được châu báu này để làm lợi ích cho tất cả quần sinh, đem công đức này cầu thành Phật, tâm ta không giải đãi, làm sao không thể được?
Lúc đó trời Thủ-đà-hội, từ xa trông thấy Đại Thí một thân một ý siêng năng cực nhọc để đem lại an lạc cho tất cả chúng sinh, thầm nghĩ: “Chúng ta làm sao không đến trợ giúp và kêu gọi bạn bè đến giúp cậu ta.” Đại Thí múc nước đổ thì tất cả các trời dùng y trời đựng chứa nước, rồi đem đổ đi nơi khác. Một lần tát biển như vậy nước giảm đi bốn mươi dặm, hai lần tát giảm đi tám mươi dặm, ba lần tát giảm đi một trăm hai mươi dặm. Những con rồng ăn cắp châu Như ý hoảng sợ đến chỗ Đại Thí, nói:
– Xin hãy ngừng tay, đừng tát biển nữa. Đại Thí ngừng nghỉ, rồng đến hỏi:
– Ông cần châu báu này dùng để làm những việc gì?
Đại Thí nói:
– Dùng để cứu giúp tất cả chúng sinh. Rồng lại hỏi:
– Theo ông nói, ở trong biển chúng tôi, chúng sinh rất nhiều, vì sao không cho, mà lại muốn đem đi.
Đại Thí nói:
Những loài trong biển cũng là chúng sinh, nhưng không bị đau khổ dữ dội như nhân dân ở Diêm-phù-đề, ở trên đấy vì tiền tài mà họ sát hại, dối trá tạo mười nghiệp ác, sau khi chết phải đọa vào ba đường. Ta vì loài người muốn cho họ hiểu giáo pháp nên đến đây xin châu Như ý, trước giúp họ được ăn mặc đầy đủ, sau dạy họ tu Thập thiện. Rồng nghe xong, đem trả ba viên ngọc Như ý.
Bấy giờ Thần biển thấy Đại Thí tinh tấn dũng mãnh làm công việc như thế, liền thệ rằng:
– Hôm nay ngài tinh tấn như thế, ắt sẽ thành Phật, tôi nguyện làm một đệ tử tinh tấn.
Đại Thí được châu rồi tiếp tục bay đi, hỏi thăm các bạn thương buôn, liền hạ xuống, đồng bạn trông thấy kinh ngạc vô cùng, đều khen:
– Thật rất kỳ lạ, rất đặc biệt.
Rồi họ cùng nhau đi về thành Phóng bát. Vị Bà- la-môn Ca-tỳ-lê nghe tin Đại Thí đi biển tốt lành trở về, vô cùng mừng rỡ, ra nghênh đón hỏi han và mời các bạn thương buôn ở lại, mở tiệc thết đãi, dọn ra các món ăn ngon lạ quý hiếm, ăn xong bàn nói chuyện về cuộc hành trình đã qua. Lúc đó Đại Thí cầm châu Như ý chỉ vào trong nhà của vị Bà- la-môn (Ca-tỳ-lê) thì các kho tàng đầy ắp của báu, mọi người trông thấy khen ngợi việc chưa từng có. Khi đó ông Ca-tỳ-lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ đem các châu báu trang sức nơi thân, trước rửa tay, sau đó dẫn con gái giao cho Đại Thí. Đại Thí nhận cô gái, ông Ca-tỳ-lê vui mừng bảo năm trăm kỳ nữ có đủ tài năng và năm trăm bạch tượng chở nhiều châu báu rất là kỳ lạ để tiễn đưa con gái. Đại Thí bảo các bạn cỡi voi lên đường, trong thành người lớn kẻ nhỏ đến đưa tiễn, trổi các âm nhạc, trở về nước nhà.
Từ khi Đại Thí từ biệt ra đi, cha mẹ đau buồn thương nhớ khóc than mù cả đôi mắt. Nghe tin con trở về nước, Đại Thí đến lễ bái thăm hỏi, cha mẹ nghe tiếng, lấy tay xoa đầu vuốt mặt con mới biết chắc chắn con đã trở về, vui buồn lẫn lộn, than trách con:
– Con thật vô tâm, bỏ cha mẹ đi biển để cha mẹ thương nhớ, con vào biển trở về mang được những vật gì?
Đại Thí lấy ngọc Như ý ra đưa cho cha mẹ, ông bà cầm viên ngọc mà nói:
– Nay trong kho nhà ta, đá quý như ngọc này cũng không ít, vì sao phải cực khổ mới tìm được thứ này.
Đại Thí cầm ngọc báu chỉ vào mắt cha mẹ, tự nhiên cặp mắt hai người trong sáng hơn xưa. Như gió xua mây, ông bà được trông thấy trở lại, lòng rất vui mừng, cảm niệm oai thần của ngọc báu, khen ngợi rất là kỳ lạ:
Con tuy cực khổ nhưng cũng không uổng công.
Đại Thí bèn cầm hạt châu cầu nguyện:
Nếu là viên ngọc Như ý, thì hãy khiến cho chỗ ngồi của cha mẹ tôi biến thành giường tòa châu báu quý lạ, phía trên có tán lớn bảy báu trang nghiêm.
Nói xong thì được như ý ngay, tất cả đều vui mừng. Đại Thí lại cầm châu báu cầu nguyện:
– Xin nguyện khiến cho cha mẹ, vua quan, dân chúng các kho tàng đều được đầy ắp. Chàng liền lấy châu ấy đưa khắp bốn hướng, thì nhà nào cũng đều được đầy đủ vàng bạc châu báu, không ai chẳng kinh ngạc. Đại Thí sai người cỡi voi đi tám ngàn dặm, thông báo cho tất cả nhân dân ở Diêm- phù-đề biết rằng: “Đại Thí đi biển trở về tốt lành, được hạt châu Như ý, hạt châu ấy công năng rất kỳ diệu, sau bảy ngày nữa sẽ khiến cho hạt châu ấy mưa xuống tất cả châu báu, thức ăn tùy theo ý muốn mọi người. Ai muốn lấy được thì phải giữ trai giới thanh tịnh chờ đợi.” Đến ngày thứ bảy. Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc y áo mới, rồi đi đến một vùng đất bằng thẳng, buộc châu Như ý trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương cầu nguyện:
Nguyện cho người ở cõi Diêm-phù-đề, tất cả những người nghèo khổ muốn được giúp cho đều không ai bị thiếu thốn. Nếu thực là ngọc Như ý thì xin lần lượt mưa các thứ cần thiết cho chúng sinh. Cầu nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo mát râm, gió thổi lên, thổi các thứ bất tịnh nhơ bẩn trên mặt đất sạch sẽ, kế đến mưa lâm râm đè sạch bụi, rồi đến mưa ra các thức ăn uống trăm vị ngon lạ, tiếp đến mưa ngũ cốc, y phục, các thứ bảy báu quý hiếm đầy dẫy châu Diêm-phù-đề. Người dân lần lượt đến lấy; áo quần, thức ăn uống dư dã, nên họ trông thấy các châu báu cũng như gạch ngói.
Bấy giờ Đại Thí thấy dân chúng đầy đủ, bèn sai người đi thông báo cho khắp cõi Diêm-phù-đề biết rằng: “Tất cả dân chúng trước đây do nghèo thiếu ăn mặc và châu báu mà sát hại, dối trá lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không sợ tội phúc, sau khi mạng chung phải đọa lạc trong ba đường ác, cũng như từ chỗ tối vào chỗ tối thêm, thọ tội nhiều kiếp. Tôi thường thương xót không người cứu giúp, nên quên mình dấn thân vào biển cả nguy hiểm, được hạt báu Như ý này đem về cứu tế, mọi người đã được đầy đủ không còn thiếu thốn gì nữa. Giờ đây tôi khuyên mọi người siêng tu Thập thiện, giữ gìn thân khẩu ý, nhân từ hiếu thuận, tinh tấn khắc phục ý, chớ nên phóng dật!” Đại Thí dùng các phương tiện rộng khuyên làm lành. Chàng làm các văn thư gửi cho vua quan khuyên dân chúng đều được nghe biết. Bấy giờ tất cả dân chúng trong Diêm-phù-đề được nhờ ân Đại Thí, họ nghĩ nên làm gì để đền ân đức ấy. Họ chỉ biết tuân lời giáo hóa tu Thập thiện, chuyên tập lòng từ kính, giữ gìn thân, khẩu, ý thanh tịnh, sau khi mạng chung đều được sinh lên cõi trời.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Này Xá-lợi-phất, ông nên biết vị Bà-la-môn Ni-câu-lầu-đà thuở đó nay là vua Tịnh Phạn, cha Ta; còn bà mẹ nay là Ma-ha Ma-da, mẹ của Ta. Đại Thí chính là tiền thân của Ta. Vị Long vương ở thành bằng bạc nay là Xá-lợi-phất, Long vương trong thành lưu ly nay là Mục-kiền-liên, Long vương ở thành bằng vàng nay chính là A-nan, Thần biển thuở đó nay là ông Ly-việt. Ông A-nan khi đó làm Long vương thết đãi Ta khéo biết thời nghi, cho đến ngày nay cũng muốn hầu Ta cho đúng thời tiết. A-nan muốn được ba nguyện ấy là tùy ý muốn của ông.
A-nan nghe Đức Phật nói về tiền kiếp, rất vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch:
– Con xin đem thân này làm thị giả, xin Thế Tôn từ bi hứa khả.
Bấy giờ chúng hội nghe Đức Phật thuyết về tiền kiếp, cảm niệm đại ân chuyên tâm tư duy pháp Tứ diệu đế, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, có người gieo trồng nhân duyên căn lành Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, có người được trụ Bất thoái địa, đều hoan hỷ đảnh lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ trời Thủ-đà-hội xuống cõi Diêm-phù-đề, đến chỗ Đức Thế Tôn thỉnh Phật và chúng Tăng để cúng dường và tắm gội. Đức Thế Tôn im lặng, được coi là hứa khả. Thiên tử liền bày các thức ăn uống và sửa soạn dụng cụ tắm gội, nhà tắm nước ấm áp vừa thích hợp cơ thể, tô dầu cỏ giặt giũ, đều chuẩn bị đầy đủ, sắp xếp xong xuôi, rồi bạch Thế Tôn:
– Giờ thọ trai đã đến, kính thỉnh Thế Tôn chứng giám. Lúc đó Đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo nạp thọ sự cúng dường. Trước tiên tắm gội sạch sẽ, sau đó mới thọ thực. Thức ăn của ông ngon ngọt ở thế gian hiếm có. Ăn xong Đức Phật và các Tỳ-kheo trở lại ngồi chỗ cũ. Lúc đó A-nan chắp tay quỳ bạch Thế Tôn:
Vị trời này xưa kia làm công đức gì mà hình thể tốt đẹp, uy tướng hiếm quý, ánh sáng chói lọi, như ngọn núi báu? Cúi mong Thế Tôn nói cho chúng con được biết việc ấy.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe, khéo gìn giữ, Ta sẽ giải nói. Thời Đức Phật Tỳ-bà-thi quá khứ, vị trời này là một người nghèo, thường đi làm thuê để nuôi thân. Nghe Đức Phật nói về công đức cúng dường, tắm gội cho chư Tăng, trong lòng vị ấy vui mừng suy nghĩ muốn thỉnh cúng dường. Vị ấy bèn siêng năng làm mướn để dành được ít tiền, mua các thứ dụng cụ tắm gội và các thức ăn uống thỉnh Phật và chúng Tăng hết lòng cúng dường, do phúc hạnh ấy, sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Thủ-đà- hội và có tướng sáng đẹp này.
Đức Phật lại bảo:
– Này A-nan, vị trời này chẳng những hôm nay thỉnh Phật và chúng Tăng mà ở thời Đức Phật Thi- khí cũng đến thế gian cúng dường Thế Tôn ấy và Tăng chúng, đến thời Phật Ca-diếp cũng lại như vậy.
Đức Phật lại bảo:
– Này A-nan, vị trời này chẳng những cúng dường bảy Đức Phật mà đời hiền kiếp sau này dù cho có một ngàn vị Phật ra đời cũng đều thỉnh Phật và chúng Tăng tắm gội giống như ngày nay không có sai khác.
Bấy giờ Thế Tôn nhân đó thọ ký vị trời này ở đời sau mãn một trăm kiếp a-tăng-kỳ, sẽ được làm Phật, hiệu là Tịnh Thân, đầy đủ mười hiệu, giáo hóa chúng sinh không thể hạn lượng.
Khi đó ngài A-nan và đại chúng nghe Đức Phật nói thế vui mừng khôn lường, đồng thanh nói:
– Đức Như Lai ra đời làm lợi ích rất lớn, như ông Tịnh Cư này cúng thí ít mà được phúc báu rất nhiều.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói.
Đức Phật nhân đó vì chúng hội, rộng nói Diệu pháp, người nghe pháp có kẻ đắc đạo, Vãng lai, Bất hoàn, cho đến Ứng chân. Có người phát tâm cầu đại đạo. Ai nấy đều vui mừng, đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe nói như thế này:
Một lúc nọ, Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ, trong núi Kỳ-xà-quật, các đại Tỳ-kheo vây quanh nghe Ngài thuyết pháp.
Bấy giờ A-nan thấy Đề-bà-đạt-đa đối với Như Lai thường ôm lòng tật đố, ông xua đuổi voi uống rượu say để giẫm Phật và xô đá để đè Phật, dùng mọi thứ để hại. Nhưng Đức Phật từ bi, thương xót coi Đề-bà-đạt-đa như La-hầu-la không có sai khác. A-nan thấy ông ta làm như vậy, thường ôm lòng oán hận, suy nghĩ trong lòng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y bày vai phải, chắp tay quỳ thưa, than nói về việc đó. Đức Phật bảo:
– Này A-nan, ông Đề-bà-đạt-đa không chỉ ngày nay có lòng ác đối với Ta mà ở đời quá khứ cũng từng làm thương hại đến Ta, nhưng Ta thường đối xử từ bi với ông.
Ngài A-nan liền bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, ở đời quá khứ Đề-bà-đạt-đa thường làm tổn hại Ngài, khi đó Ngài khởi lòng Từ đối với ông ta, việc đó như thế nào? Xin hãy nói cho chúng con được nghe.
Đức Phật bảo:
Này A-nan, đời quá khứ lâu xa, vô số vô lượng, không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phù-đề này, có một vị quốc vương tên Lặc- na-bạt-di (Tần dịch là Bửu Khải) thống lãnh năm trăm tiểu quốc vương. Ông có năm trăm phu nhân, thể nữ, đều không có con. Vua bèn cầu tự các vị trời, mặt trời, mặt trăng, sông núi, thọ thần... trải qua mấy năm, vẫn không được con. Vua rất đau buồn, tự nghĩ: “Ngày nay ta không con, một khi băng hà, nước không người nối dõi, thiên hạ ắt loạn, do đó phải làm sao? Năm trăm chư hầu không phục tùng sẽ ra sức tranh đấu, mạnh yếu cùng giết hại lẫn nhau, tiêu dân mất nước đều do không người kế nghiệp cả.” Nghĩ như thế rồi, vua càng thêm lo buồn. Khi đó có một Thiên thần biết được ý của vua, báo mộng rằng: “Khu rừng ngoài thành có hai ông Tiên, ông thứ nhất thân có màu sắc vàng có phúc đức thông minh, hùng biện không ai có thể bì kịp, nếu ông cần con hãy đến đó cầu thỉnh, ắt ông ta sẽ hồi ý đến sinh vào vương gia.” Vua tỉnh giấc, vui mừng liền ra lệnh xa giá, dẫn theo vài người, đi khắp nơi tìm kiếm thì gặp được Tiên nhân, vua cầu xin than vãn:
– Nước không người nối nghiệp, đau buồn không yên, ngưỡng cầu đại Tiên sinh vào vương gia để nối dòng trị nước, cúi mong giáng lâm.
Khi đó Tiên nhân thấy vua ân cần không nỡ nghịch ý bèn nhận lời. Vị Tiên nhân thứ hai lại nói với vua:
– Ta cũng muốn sinh vào nhà vương gia.
Vua rất vui mừng rồi từ tạ về cung. Trải qua một thời gian, Tiên nhân sắc vàng liền mạng chung thì phu nhân của đại vương liền cảm biết thọ thai. Bà tên Tô-ma, là phụ nữ rất thông minh, có thể biết được thai nhi là trai hay gái và bà tự nói:
– Tôi mang thai chắc chắn là con trai.
Đức vua và người trong cung nghe bà nói thế đều rất vui mừng. Vua ra lệnh thể nữ trong cung hết lòng lo lắng cho phu nhân được chu đáo, nào giường, chăn, ăn uống... đều là những thứ mịn mềm, ngọt ngon, dìu đỡ lúc đi lại không để cho xảy ra nguy hiểm. Đến ngày khai hoa, đại phu nhân sinh được một hoàng nam tướng mạo đoan chính lạ thường, thân vàng, tóc xanh mươn mướt, đầy đủ nhân tướng, nhà vua và bá quan nội ngoại thành nhìn hoài không chán, nhân đó mời thầy tướng đến xem. Thầy tướng quan sát khắp nơi vui mừng tâu vua:
– Hoàng tử này tướng rất tốt, trong nhân gian khó có được. Đây là một người thông minh không ai có thể bì kịp.
Vua nghe rồi rất vui mừng, bèn nhờ thầy tướng đặt tên. Thầy tướng hỏi vua:
– Nay thái tử này thọ thai đến nay có điều gì thay đổi không?
Vua liền đáp:
– Hoàng hậu này tánh tình hung dữ, quá ham vui, vọng cử gian phi, thấy người thiện tâm sinh không vui, từ mang thai đến nay, tánh tình thay đổi khác, bà rất nhân từ thương người ngu, mến kẻ trí, ham tu bố thí.
Thầy tướng nghe xong, khen rằng:
– Lành thay! Đứa trẻ này gá tình thức nơi người mẹ.
Bèn đặt tên là Ca-lương-na-già-lê (Tần dịch là Thiện Sự). Bà phu nhân thứ hai tên Phất Sắc được vị Tiên thứ hai nhập thai, đến ngày cũng sinh được một người con trai, dung mạo đẹp đẽ lạ thường, lại cũng mời thầy đến xem tướng. Thầy tướng trông thấy nói:
– Vị thái tử này là người đầy đủ phước đức, trí năng.
Vua nhờ đặt tên, thầy tướng hỏi:
Khi mang thai người mẹ tính tình có gì khác không?
Vua nói:
– Mẹ thái tử này tính tình trung thực hiền lành, có lòng Từ thích làm việc thiện, nhưng từ khi mang thai đến nay thì ngược lại rất thích việc ác, ghen ghét người hiền tài, thấy việc thiện thì không vui.
Thầy tướng lại nói:
– Đây cũng là đứa trẻ gá thai nơi mẹ.
Nhân đó đặt tên là Ba-bà-gia-lê (Tần dịch là Ác Sự). Bấy giờ nhà vua rất chú tâm yêu mến Ca- lương-na-già-lê (Thiện Sự) bảo xây cung điện ba mùa, để khi mùa đông ở cung điện ấm áp, mùa xuân, thu ở trong nội điện, mùa hạ ở cung điện mát mẻ, sắp xếp kỹ nhạc giúp vui cho thái tử. Thái tử lớn lên thông minh lanh lẹ lại thường học các sách vở thế gian cả mười tám bộ đọc thuộc rành rẽ, khéo giải nghĩa lý tường tận. Một hôm thái tử xin ra ngoài thành dạo chơi, đức vua cho phép và ra lệnh dọn dẹp quét sạch đường xá. Thái tử cỡi voi trắng lớn, cầm roi bạc, có cả ngàn người theo sau, tất cả nhân dân chen đứng hai bên đường, trên lầu gác, người xem đông vô số kể, đều khen thái tử tướng giống như Phạm thiên, uy nghi dung mạo, trong nhân gian ít có. Khi đó thái tử trông thấy người ăn xin, thân thể gầy xấu, áo quần rách rưới dơ bẩn, tay trái cầm chiếc thau bể, tay phải cầm cây gậy, nói lời cầu xin thương xót. Thái tử hỏi tùy tùng:
– Đây là người gì thế? Quần thần thưa:
– Những người này côi cút cô đơn hoặc không có cha mẹ, không chỗ nương tựa, đau bệnh điên cuồng... không thể làm lụng, không có được một đồng tiền, xin người qua đường để nuôi thân miệng như vậy.
Khi ấy thái tử thương xót, lòng càng đau đớn. Lại đi tới một đỗi thì trông thấy những người đồ tể giết hại súc sinh, xẻ cắt để cân bán. Thái tử hỏi:
– Tại sao làm việc này? Họ nói:
– Từ đời ông nội của chúng tôi đến nay đều sống bằng nghề này, nếu bỏ nghề này thì không thể tự nuôi sống được.
Thái tử nghe rồi than thở dài mà đi, đi tới trước thái tử trông thấy nông dân cày ruộng đất tung ra, côn trùng, cua ếch bắt nuốt ăn, lại có những con rắn rình bắt lấy cua ếch mà ăn. Trên trời có chim khổng tước bay đến mổ lấy con rắn ấy ăn. Thái tử hỏi họ:
– Tại sao làm việc này? Nông phu đáp:
– Đây là nghề nghiệp của chúng tôi, nơi đất này gieo giống, sau này sẽ thu được lúa thóc để cung cấp lương thực cho mình và đóng thuế cho vương gia.
Thái tử than:
– Người ta do ăn uống mà giết hại chúng sinh, làm lụng thân thể cực khổ như vậy.
Rồi lại đi tới trước nữa, trông thấy những thợ săn đang giương cung nhắm bắn bầy chim và lại thấy họ giăng bẫy lưới bắt được các con cầm thú để nằm trên mặt đất la hét rất kinh sợ, giẫy giụa mà không thể thoát ra được, thái tử hỏi:
– Tại sao làm như vậy? Họ đều nói:
– Chúng tôi bắt các cầm thú để bán mà nuôi sống thân mình.
Thái tử nghe thế than thở rồi đi đến bên bờ sông, thấy các ngư phủ giăng lưới bắt cá, họ để trên mặt đất cá nhảy lung tung, còn cá chết nhiều vô số. Thái tử lại hỏi, họ đều đáp:
– Chúng tôi nhờ nghề bắt cá này để mua y áo và thức ăn nuôi sống thân mình.
Thái tử thở dài, thương xót cho quần sinh vì miếng ăn manh áo mà phải giết hại chúng sinh như thế, vì để cung cấp cho thân miệng mà gây tội lỗi, quả báo sau này sẽ thế nào? Rồi ngài quay lại trở về cung buồn bã không vui, đến tâu vua cha xin ban cho một điều. Vua nói:
– Con muốn gì trẫm không ngăn cản. Thái tử thưa:
– Vừa rồi, con ra ngoài thành dạo chơi trông thấy những người dân vì miếng ăn áo mặc mà phải giết hại, dối trá, gây tội ngày càng tăng, lòng rất đau xót, con muốn được giúp cho họ, mong phụ hoàng lấy của trong kho bố thí cho họ để họ khỏi phải chịu thiếu thốn.
Đức vua nghe thái tử nói thế càng thương mến gấp bội, không thể trái ý, bèn hứa cho. Lúc đó thái tử liền bảo đi tuyên bố cho dân chúng hay: “Thái tử Ca-lương-na-già-lê bố thí cho người nghèo thiếu... ai cũng cho cả, nếu người muốn cần vàng bạc, châu báu hoặc y phục, các thứ ăn uống, hãy đến cửa thành hoặc trong chợ, ai cần gì đã sắp xếp có người cung cấp cho tất cả.”
Bấy giờ trong nước, các Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo khổ, neo đơn, già cả, bệnh tật..., người mạnh dìu kẻ yếu lần lượt đi đến, cần áo quần cho áo quần, cần thức ăn cho thức ăn, cần vàng bạc, châu báu... tùy ai thích gì thì cho nấy. Khi đó nhân dân truyền miệng với nhau khắp cả Diêm-phù-đề đều vân tập đến, đem kho báu nhà vua ra bố thí hết hai phần ba. Bấy giờ, quan giữ kho vào tâu vua:
– Đại vương đã ra lệnh phải dự trữ lương thực để thường tiếp đãi năm trăm nước nhỏ và các sứ giả tới lui, các vật báu cần dùng cùng dự trữ, nay thái tử đem của trong kho ra cho dân chúng đã hết hai phần ba, vì thế mong đại vương suy xét lại, để sau này khỏi hối hận.
Vua nghe quan giữ kho nói thế bảo:
– Thái tử của ta đây ham thích bố thí rất là mãnh liệt không thể lay chuyển, nếu ta ngăn cấm ý thái tử khiến thái tử đau buồn, vậy phải nên làm thế nào để vui ý thái tử mà không trái nghịch ý của thái tử.
Quan giữ kho tâu:
– Các đồ vật trong kho trước đây hàng ngày đem bố thí trong ba phần đã dùng hết hai. Còn một phần nên để lại, không thể cho hết, mong đại vương suy xét chín chắn, sau này đừng đổ lỗi cho hạ thần.
Vua bèn suy nghĩ mà bảo quan giữ kho:
– Ta rất yêu thương con ta, không muốn làm trái ý của nó. Vậy khi thái tử đến lấy bố thí, khanh nên tránh chỗ khác để thái tử không lấy của ra cho được, như vậy lương thực trong kho có thể giữ được lâu dài.
Khi đó quan giữ kho được lệnh vua dạy rồi, hôm sau lúc thái tử đến lấy của cải thì ông đi tránh mặt nơi khác, đôi lúc lấy được, đôi khi không lấy được, chứ không nhất nhất đều lấy được. Thái tử cảm thấy thế mà thầm nghĩ: “Nay quan giữ kho này có lẽ nào dám trái ý của ta, có lẽ vâng theo lệnh vua, nên hắn làm như thế. Lại nữa, người con có hiếu thì không nên làm hết của cải cha mẹ. Nay trong kho này của cải không còn được bao nhiêu, ta phải nên làm thế nào để được của cải châu báu để bố thí cho dân chúng không bị thiếu thốn.” Nghĩ thế rồi liền hỏi hầu cận:
– Ở thế gian này làm việc gì có thể được nhiều tiền bạc để tiêu dùng như ý?
Có người nói:
– Không sợ tai nạn, đi xa mua bán có thể được nhiều tiền bạc.
Có người nói:
– Chịu đựng nóng lạnh, cày xới ruộng đất, gieo nhiều ngũ cốc thì có thể được nhiều tiền của.
Lại có một người nói:
– Nuôi nhiều súc vật, tùy thời tiết chăm sóc nó sẽ có được nhiều tiền của.
Có một người nói:
– Không tiếc thân mạng đi vào biển đến Long cung, cầu xin ngọc Như ý, việc này mà thành tựu, thì được nhiều tiền bạc nhất.
Lúc đó thái tử nghe mọi người nói thế thì tự nghĩ: “Mua bán, làm ruộng, nuôi súc vật thì không nên, được lợi không bao nhiêu. Chỉ có vào biển tìm đến Long cung, việc này hợp ý ta.” Nghĩ như vậy rồi, thái tử đến tâu vua cha rằng:
– Con muốn vào biển tìm kiếm châu báu để về bố thí cho dân chúng, cúi mong phụ hoàng, mẫu hậu cho phép con được ra đi.
Vua và hoàng hậu nghe thái tử nói, rất đau buồn, hỏi thái tử:
Con có ý gì mà muốn vào biển? Vả lại muốn bố thí theo ý con, trong kho hoàng cung có nhiều của cải sẽ cho con hết để con dùng bố thí, tại sao lại tự bỏ mạng nơi biển cả. Lại nữa, nghe ở trong biển có nhiều nạn dữ, gió độc, La-sát, sóng to nước xoáy, cá đại Ma-kiệt, chỉ có nước trời một màu xanh thẳm, các tai nạn như thế, sự an toàn rất ít, trăm người ra đi chỉ có một kẻ trở về. Nay con vội gì mà dấn thân đến chốn nguy hiểm, trẫm và mẹ con sao chẳng lo buồn. Các vua, thần dân đều buồn rầu lo sợ, con nên bỏ ý nghĩ này chớ có vấn vương. Khi đó thái tử nghe vua nói, trong lòng còn lo tính, ý vẫn muốn cứu giúp, tuy vua ngăn cản nhưng ý chí không dao động, quyết đem thân mạng hết lòng làm việc này. Cúi mình nằm xuống đất trước vua tâu:
Cúi mong thương xót chìu theo tâm con, nếu như trái nghịch không cho phép, con sẽ nằm mãi không đứng dậy.
Vua, hoàng hậu và các quan, tất cả mọi người đều thấy ý thái tử không chịu xoay chuyển, tự thệ nằm dưới đất cho đến chết, mọi người đều khuyên giải để thái tử đứng dậy, nhưng ý chí thái tử như lúc ban đầu không thay đổi. Từ một ngày đến hai ngày, rồi đến sáu ngày, vua và hoàng hậu cùng bàn với nhau:
– Thái tử không ăn đã trải qua sáu ngày rồi, đến ngày mai là bảy ngày, mạng sống ắt không an toàn, đứa con này trước sau gì cũng muốn làm theo ý nó không thay đổi ý chí. Nếu như để nó đi biển thì còn có ngày trở về, chứ nay ngăn cản ý nó thì sẽ chết, hết trông mong còn sống. Thôi hãy cho phép đi để khỏi sau này hối hận.
Vua và hoàng hậu đã bàn bạc xong, đồng đến bên thái tử cầm tay khóc lóc nói:
– Phụ hoàng và mẫu hậu cho phép con đi biển, hãy đứng dậy ăn cơm đi con!
Lúc đó thái tử nghe vua nói rồi vui mừng đứng dậy nói:
– Con chỉ đi biển không bao lâu sẽ trở về, chỉ mong chớ quá lo lắng cho con.
Rồi bày dọn các thức ăn ngon lạ, ăn xong đi ra ngoài thành tuyên bố: “Thái tử Ca-lương-na-già-lê muốn đi biển, ai có muốn đi hãy cùng đến”. Bấy giờ trong nước có năm trăm thương buôn vân tập để xin đi. Khi ấy trong nước có một người mù, ông từng là người hướng dẫn đường đi biển mấy lần. Thái tử nghe tin liền đi đến bên ông ân cần mời ông cùng đi vào biển; chỉ bày sự lợi hại khi ra biển khơi. Đạo sư mù nói:
– Tôi đã già, lại mù lòa không trông thấy, tuy muốn đi nhưng e sợ khó khăn. Đức vua rất yêu quý thái tử vô cùng, nay trong chốc lát vắng đi thái tử thì ôm lòng chờ đợi trông mong, nay lại nghe cùng lão già này đi vào biển cả chắc là kháng cự thì lỗi cho già này không ít đâu.
Lúc đó thái tử nghe nói thế rồi bèn trở về cung, tự tâu vua cha:
– Tâu phụ hoàng, nay trong nước này có một Đạo sư mù, trước kia từng ra vào biển cả mấy lần, mong phụ hoàng cho phép ông đi cùng con. Vua nghe nói thế bèn đến chỗ vị Đạo sư mù nói:
– Thái tử con ta đây giữ ý chí muốn đi biển, trẫm dùng mọi thứ khuyên ngăn nhưng vẫn kiên quyết không lay chuyển, sự việc bất đắc dĩ nay cho phép thái tử đi, nghĩ vì thái tử tuổi trẻ, chưa từng nếm mùi cay đắng, nghe ông trước kia đã từng vào ra biển cả, mong ông nhọc nhằn cùng đi và trợ giúp.
Bấy giờ vị Đạo sư mù nghe vua nói thế, liền tâu:
Đáng tiếc lão đây tuổi già mù lòa không trông thấy gì cả. Đại vương đã ra lệnh, há dám trái lại.
Vua nghe nói thế, liền trở về cung. Lúc bấy giờ thái tử cùng Đạo sư bàn bạc định ngày xuất hành. Nói về đức vua trở về cung hỏi quần thần tả hữu rằng:
– Ai thương mến ta, có thể cùng thái tử tìm kiếm châu báu. Thái tử Ba-bà-già-lê (tức Ác Sự) liền thưa:
– Xin cho con cùng đại huynh đi biển. Vua nghe nói, tự nghĩ: “Nay có em cùng đi, trong gian nan nguy hiểm có thể giúp đỡ lẫn nhau còn hơn là người khác.” Nghĩ thế rồi liền cho phép Ác Sự cùng đi. Bấy giờ thái tử xuất ba ngàn lượng vàng, một ngàn lượng để mua lương thực, một ngàn lượng dùng để đóng thuyền, còn một ngàn lượng để mua sắm các thứ cần thiết. Mọi việc lo xong xuôi, đến lúc xuất phát, vua và hoàng hậu, các quan, dân chúng khóc lóc tiễn biệt xuất dương. Lúc ấy thái tử Thiện Sự (Ca-lương-na-già-lê) cùng các đồng bạn lên đường đến bờ biển, đợi thời tiết đẩy thuyền xuống nước, dùng bảy sợi dây thừng lớn buộc ở bờ biển, lắc linh xướng lớn với mọi người:
Các ngươi đều đã biết, trong biển cả có rất nhiều nạn, nào là sóng to gió lớn, rồng dữ, La-sát, cá Ma-kiệt lớn, trời nước một màu xanh thẳm và còn các nạn khác nữa rất nhiều. Xưa nay, người ra biển gặp việc tốt trở về rất ít, nếu ai còn nghi ngờ sợ sệt thì có thể ngay lúc này nên trở về, còn ai có thể vững vàng ý chí, xả bỏ thân mạng, không bận lo cho cha mẹ, không lưu luyến vợ con thì nên cùng ra biển cả, tìm đến chỗ của báu, như gặp được châu báu an ổn trở về thì con cháu dùng bảy đời cũng không hết.
Mỗi khi xướng lệnh như vậy thì cắt đứt một sợi dây thừng, ngày ngày như thế đến bảy ngày, xướng lệnh xong xuôi, cắt sợi dây thừng thứ bảy, trương buồm xuôi gió, thuyền chạy như tên bắn, cùng các đồng bạn đến nơi có của báu. Thái tử là một người rất thông minh, thông đạt các sách thế gian, biết phân biệt màu sắc giá trị của châu ngọc, chỉ bày cho mọi người biết các thứ ngọc thạch xấu tốt, để họ tùy ý chọn lấy, lại còn dặn dò với họ lấy của báu nhiều ít để thuyền không quá tải, e sợ đắm thuyền, nếu lấy ít thì uổng công đi cực nhọc. Dặn dò xong, một mình cùng Đạo sư dùng riêng thuyền nhỏ cùng vài người khác, đi thêm về phía trước. Đạo sư hỏi:
– Phía trước đây có phải thái tử thấy có núi màu trắng không?
Thái tử đáp:
– Thấy! Đạo sư nói:
– Đấy là núi bạc.
Lại tiến tới trước nữa, đạo sư lại hỏi:
– Ở trước là núi màu cam, ngài có thấy không? Thái tử đáp:
– Đã thấy! Đạo sư nói:
– Đó là núi lưu ly cam.
Lại đi tới trước nữa, ông lại hỏi thái tử:
– Ở đây có nhìn thấy núi màu vàng không? Thái tử nói:
– Thấy! Đạo sư nói:
– Đấy là núi vàng, đến núi vàng ngồi trên cát vàng. Ta nay yếu ớt chắc không thể giúp ngài về phương diện này, con đường đến và lui, ngài tự đi, phía trước có một cái thành, thành ấy rất đẹp, làm bằng bảy báu. Đến cổng thành, nếu như cổng đóng cửa thì bên cổng thành ấy có chùy kim cương vàng, ngài lấy chùy này đập vào cửa thành đó. Trong thành sẽ có năm trăm Thiên nữ đều bưng châu báu đến để dâng cho ngài, lại có một người con gái đặc biệt tôn quý nhất không ai bằng, nàng cầm một viên ngọc báu màu cam tên Chiên-đà ma-ni (tức ngọc Như ý). Đây là châu Như ý nên gìn giữ đừng để mất đi. Ngoài ra họ cho những thứ khác cũng có thể lấy được cả, nên khéo giữ các căn. Tôi nay rất yếu, còn lại chút mạng thừa, nếu sau khi mạng chung, nhớ nghĩ đến ân của tôi thì hãy chôn tôi tại bãi cát vàng này.
Đạo sư nói xong, dứt thở, mạng chung. Mọi người đối với ông đau buồn thương tiếc, mai táng tại nơi ấy rồi theo lời dạy của ông mà tiến tới. Đi đến thành bằng bảy báu, cổng thành đang đóng chặt, thấy cái chùy kim cang bên cạnh cánh cửa, như lời Đạo sư nói, thái tử lấy chùy kim cang đập vào cổng thành, cánh cửa bèn mở ra, có năm trăm Thiên nữ đều cầm châu báu dâng lên cho thái tử. Trước nhất có một cô gái tay cầm hạt châu màu cam, thái tử lần lượt nhận lấy để trong chéo áo, rồi quay trở về. Trước khi thái tử từ biệt, Ba-bà-gia-lê lại nói với mọi người:
– Đi đến đây không phải dễ dàng phải nên lấy nhiều. Mọi người tham châu báu lấy nhiều, thái tử trở về, thuyền bị đắm chìm, những người thương buôn thoạt chìm thoạt nổi. Thái tử Ca-lương-na- già-lê đã có ngọc Như ý nên thân không chìm, Ba- bà-già-lê kêu gọi thái tử nên tìm cứu giúp chớ có bỏ mọi người. Thái tử Ca-lương-na-già-lê bèn cố gắng kéo vớt những người đang trôi nổi vào bờ. Đến bờ biển, các anh em nói:
– Anh em chúng tôi khi từ biệt cha mẹ đi biển đến nay, mong là không về tay không, trừ khi gặp việc không tốt, mất hết của cải, một mình về tay không thật rất xấu hổ.
Ca-lương-na-già-lê vốn tính trung trực, liền nói với người em:
– Anh có được của báu. Người em nói với anh:
– Anh hãy đem ra cho xem.
Người anh liền mở chéo áo đưa hạt châu Như ý cho em xem. Người em thấy được hạt châu, nhân đó mà ôm lòng nhớ lại rằng: “Phụ vương ta, ân từ không rộng rãi, yêu mến anh nhiều hơn ta, nay hai người đều đi biển, anh được ngọc báu lạ, còn mình thì tay không trở về. Từ đó về sau sẽ coi thường ta, ta nên làm thế nào? Nhân lúc Thiện Sự (Ca-lương- na-già-lê) ngủ, ta ngầm giết bỏ, chiếm đoạt ngọc Như ý, về tâu phụ vương rằng anh Thiện Sự bị chìm chết ngoài biển, lúc đó phụ vương sẽ không làm gì khác hơn là yêu mến ta.” Nghĩ thế rồi, hắn tự ngầm mưu tính, nói với người anh:
– Sắp đến gần thôn, anh em chúng ta không nên cùng ngủ, nên ngồi canh giữ châu báu.
Người anh liền đồng ý thường cùng canh giữ. Ba-bà-già-lê ngủ nghỉ trải qua thời gian lâu rồi thức dậy, kế đến người anh nằm ngủ, do ngồi thức canh giữ lâu, nên nằm xuống đã ngủ thiếp đi. Ba- bà-già-lê đi vào trong rừng tìm cây có gai thật nhọn, liền lấy hai cây dài năm tấc, cầm đến bên người anh, cầm gai đâm vào mắt rồi ôm châu báu mà chạy đi. Thái tử Ca-lương-na-già-lê đau đớn la to:
– Ba-bà-già-lê! Ba-bà-già-lê ơi! Ở đây có cướp!
La lớn như vậy mấy lần nhưng không có ai ứng đáp. Khi đó Thọ thần hiện ra nói với thái tử:
– Ba-bà-già-lê là kẻ cướp của ngài, đã đâm vào mắt ngài, ôm châu báu đi rồi.
Thái tử đau đớn quằn quại đau khổ tìm đường về nước Lê-sư-bạt-đà. Đi đến được một cái đầm nước, gặp lúc năm trăm con trâu cũng đến bên bờ đầm, có một con trâu chúa trông thấy thái tử thương kính le lưỡi ra liếm nơi mắt thái tử, các con trâu khác đứng nhìn kinh ngạc vô cùng. Khi ấy người chăn trâu đến xem thử thì mới thấy có một thái tử đang nằm trên mặt đất, còn nơi hai mắt là hai cây gai dài, trông thấy hình tướng biết là phi phàm, liền rút cây gai ra, cõng về nhà, rồi lấy sữa tô đắp lên vết thương, lo cho ăn uống, săn sóc chu đáo. Trải qua một thời gian, đôi mắt đã lành. Lúc đó thái tử hỏi người chăn trâu:
– Anh ở nơi đây có cơ nghiệp gì? Người chăn trâu đáp:
– Tôi ở đây không có cơ nghiệp gì cả, chỉ nương nhờ sữa bò đem bán để nuôi sống.
Thái tử tự nghĩ: “Ta gặp ách nạn làm phiền chủ nhà, thường phải săn sóc phụng dưỡng ta, nay vết thương đã bớt dần, có thể đi lại được, nên đi tìm nơi khác.” Nghĩ thế rồi, thái tử nói với chủ nhà:
Thời gian tôi ở đây đã lâu, phiền chủ nhân lo lắng, cảm niệm chủ nhân rất nhiều, ân sâu này khó mà đáp đền. Tôi muốn đi đến trong thành, từ từ xin ăn để tự nuôi sống.
Người chủ trại trâu nghe thái tử nói tự nghĩ: “Chắc là vợ con, nô tỳ trong nhà này chán ghét nên muốn ra đi, nếu không phải vậy tại sao lại từ biệt”, nghĩ vậy rồi vào nhà hỏi:
– Các ngươi có làm việc gì chẳng tôn trọng mà khiến quý khách muốn từ biệt ra đi?
Mọi người trong nhà đều nói:
– Chúng tôi đây coi anh ta như tình anh em, không biết duyên sự gì mà anh ta muốn ra đi?
Lúc đó chủ nhà nói với thái tử:
– Tôi hầu hạ lo lắng cho ngài chưa từng thất lễ, vì thế ngài không thể bỏ chúng tôi mà ra đi ăn xin.
Khi đó thái tử nghe người chủ nhà nói có ý ân cần lo lắng nên ở lại. Trải qua một thời gian, ngài lại nói với chủ nhà:
– Anh hầu hạ lo lắng cho ta lúc nào cũng không có thiếu thốn, mọi người trong nhà cũng đối xử với ta rất trọng hậu, mong anh sai một người dẫn đường cho ta.
Khi đó người chủ trại trâu thấy thái tử năn nỉ sợ làm phật ý khiến thái tử buồn rầu, bèn tự mình dẫn đến trong thành rồi từ biệt thái tử trở về. Thái tử nói:
– Anh thương xót tôi thì hãy mua cho tôi một cây đàn cầm để tôi tự làm vui.
Bấy giờ người chủ trại trâu mua một cây đàn cho thái tử rồi từ tạ ngay khi đó. Thái tử Ca-lương- na-già-lê vốn có nhiều tài năng, ca tụng văn từ rất khéo giỏi, liền ca hát dùng đàn cầm hòa tấu, âm thanh rất thanh nhã, người dân trong thành, ai nghe được âm thanh đều cũng thích, đến nghe xem không biết chán. Họ đem thức ăn, thức uống tranh nhau đến cho thái tử. Trong thành ấy hiện có năm trăm người ăn xin đều rủ nhau đến sống nhờ thái tử mà được no ấm. Vua nước Lê-sư-bạt có một quan trông coi vườn, ông thấy trong vườn có quả táo chín, chim Anh vũ thường tới ăn, tìm cách đuổi mà nó vẫn không sợ. Lúc đó quan coi vườn gánh táo đem về cho vua, trong đó có quả táo ngon nhưng đã bị chim Anh vũ mổ ăn đôi chút. Vua trông thấy nổi giận muốn gia hình quan coi vườn. Ông hoảng sợ tự trình bày với nhà vua:
– Vì nhà hạ thần thiếu nhân lực nên mới khiến sự trông coi không chu đáo, chỉ mong bệ hạ khoan thứ xin đừng bắt hạ thần hình phạt.
Bấy giờ vua bèn tha thứ không hỏi tội ông nữa, quan coi vườn được thoát chết. Vua sai tìm người khác thay thế. Một hôm ông trông thấy thái tử Ca- lương-na-già-lê ở bên đường, nhìn xem tướng mạo trung thực bèn hỏi:
– Ông có thể vì tôi trông coi vườn không? Nếu làm được tôi sẽ cung cấp không để cho ông thiếu thốn.
Thái tử đáp:
– Mắt tôi không trông thấy làm sao giữ vườn được.
Quan giữ vườn nói:
– Nếu ông muốn giữ vườn, dù không trông thấy thì nên dùng phương tiện, làm nhiều dây thừng buộc cái linh ở ngọn cây, rồi lần lượt nắm đầu sợi dây mà kéo. Nếu nghe tiếng linh, chim Anh vũ sợ hãi không dám đến ăn trái.
Thái tử nghe nói thế đáp:
– Nếu thế thì tôi có thể nhận làm được.
Cùng bàn bạc xong xuôi rồi đi đến đó giữ vườn. Nói về thái tử Ba-bà-già-lê (Ác Sự) về đến nước, vua ngạc nhiên thấy trở về một mình liền hỏi thăm tin tức. Thái tử Ba-bà-già-lê nói với vua:
– Tâu phụ vương, chúng con không may thuyền chở nặng bị chìm, Ca-lương-na-già-lê và các thương buôn và các của báu đều chìm ngoài biển cả. Riêng con cố gắng bơi mới được an toàn vào bờ.
Đức vua và hoàng hậu nghe nói xong đau buồn vô cùng, lúc nào cũng nước mắt chảy ràn rụa đầy mặt. Trong cung nội, thần dân hay tin việc này, không ai chẳng đau buồn, sớm chiều than khóc, luyến tiếc như tang cha mẹ.
Nói về thái tử Ca-lương-na-già-lê bình thường có yêu mến một con chim nhạn. Vua bảo chim nhạn:
– Thái tử nuôi nấng mày, nay thái tử đi biển chìm mất không thấy trở về, tại sao mày không đi tìm kiếm?
Vua viết một phong thư buộc vào cổ chim nhạn. Nhạn liền tung cánh bay khắp nơi tìm kiếm, bay khắp vườn, biết tiếng đàn của thái tử liền hạ cánh xuống xem thì gặp thái tử, tiếng kêu vừa mừng vừa buồn không thể tả nổi. Thái tử nghe biết, liền mở cổ lấy phong thư, nhưng mắt không trông thấy nên không thể đọc được, không thể dùng bút giấy viết thư cho vua. Nói về thái tử Ba-bà-già-lê đâm mắt thái tử Ca-lương-na-già-lê rồi trải qua mọi cực nhọc về đến cung vua và chuyện buộc phong thư trên cổ chim nhạn bay đi...
Bấy giờ tại cung vua Lê-sư-bạt, có một người con gái dung mạo đoan chính đẹp đẽ khác thường, ở thế gian rất ít có, vua rất yêu quý, không bao giờ làm trái ý cô. Khi đó cô gái xin đức vua đi ra ngoài thành tham quan vườn cảnh, vua bèn cho đi. Cô gái vào trong vườn thấy thái tử Ca-lương-na-già-lê, đầu tóc rối tung, mặt mũi dơ dáy, mắt không nhìn thấy gì, mặc bộ đồ rách xấu, ngồi ở giữa khu vườn. Cô gái quan sát thấy dáng điệu cũng có phong thái bèn ngồi bên cạnh cùng trò chuyện. Đến giờ ăn cơm, vua sai người kêu gọi cô gái trở về, cô sai gia nhân về tâu đức vua là cô muốn mang cơm đến nơi đây ăn. Tức khắc họ mang cơm đến, cô gái nói với thái tử:
– Tôi muốn ngồi đây cùng ăn cơm với chàng. Thái tử đáp:
– Tôi là người ăn xin, còn cô là vương nữ, làm sao có thể cùng ăn chung được. Nếu đức vua hay được, thì tội tôi không phải nhỏ.
Cô gái ân cần năn nỉ thái tử:
– Nếu chàng không chịu thì em không ăn.
Cứ như thế nói mãi mấy lần ép bức không thôi, thái tử mới chịu cùng ăn. Mặt trời đã nghiêng bóng sắp tối, vua sai người gọi cô gái về. Cô sai gia nhân về tâu với vua:
– Ta nguyện làm vợ người giữ vườn này, ngoài ra không muốn lấy quốc vương, thái tử. Nay ta một lòng ân cần như thế, cúi mong phụ vương chớ trái ý con,
Nàng bảo họ tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua nghe rồi, không thể trái ý con, tự nói rằng: “Việc này tai ương, thương yêu nó quá, nó mới làm như thế. Đại vương Bảo Khải vì thái tử thứ nhất là Ca-lương- na-già-lê đến cầu hôn nó rồi, nay thái tử ấy đi biển chưa trở về, lại muốn làm vợ người ăn xin, làm nhục tên tuổi con người thật không ít, ta còn biết che giấu mặt mũi nơi nào?” Nói thế rồi lại sai người đến kêu con gái về. Cô gái giữ vững ý chí như ban đầu không thay đổi, vua yêu mến nên không trái ý con, bèn kêu dẫn về cung để mở tiệc thành vợ chồng. Lại trải qua vài ngày, người vợ cứ hàng ngày bỏ đi, thật tối mới trở về. Người chồng lấy làm lạ hỏi:
– Em cùng anh đã là vợ chồng, sáng nào cũng bỏ đi đến tối mới trở về, tấm lòng không ở đây chắc vì người nào khác nên mới khiến làm như vậy chăng?
– Người vợ nhân đó tự thề: “Em nay một lòng tôn trọng cùng nhau không dối thì khiến một con mắt chàng bình thường như cũ.” Vừa nói xong thì một con mắt sáng lại bình thường như xưa. Nàng lại hỏi thái tử:
– Cha mẹ chàng ở nước nào? Thái tử nói với vợ:
– Em có nghe tên đại vương Lặc-na-bạt-di không?
Đáp:
– Dạ! Có nghe. Thái tử nói:
– Đấy là cha ta. Thái tử con vua đó là Ca-lương- na-già-lê, em có nghe không?
Đáp:
– Dạ! Có nghe. Thái tử nói:
– Người đó chính là ta! Người vợ ngạc nhiên hỏi:
Tại sao chàng lại khổ cực đến như vậy? Nhân đó thái tử kể lại đầu đuôi câu chuyện, người vợ nghe xong than thở nói với thái tử:
– Ba-bà-già-lê ôm lòng hại chàng, từ nào đến giờ chưa đến xứ này. Nếu chàng tìm được hắn, sẽ trừng trị như thế nào?
Thái tử nói:
– Ba-bà-già-lê tuy hại ta nhưng ta đối với hắn mãi không sân hận.
Người vợ lại nói:
– Việc này khó tin quá. Làm cho chàng khốn đốn như thế làm sao mà không sân?
Nhân đó thái tử Ca-lương-na-già-lê tự thệ rằng:
Nếu ta đối với Ba-bà-già-lê không có chút sân hận mảy may như tơ tóc, ta chí thành không có dối, thì hãy khiến cho một mắt của ta bình phục như cũ. Tự thệ xong thì con mắt sáng lại. Vợ thấy người chồng hai mắt đều sáng, tướng mạo đoan chánh, thật chưa từng thấy, vui mừng không kể xiết liền đến tâu vua cha:
– Thái tử Ca-lương-na-già-lê, phụ vương có biết không?
Vua đáp:
– Cha biết!
Cô gái liền nói:
– Nay cha có muốn gặp không?
Vua nói:
– Hiện thái tử ở đâu?
Cô gái nói:
– Chồng con hiện nay chính là người ấy. Vua cười nói:
– Đứa con gái này cuồng si, đầu óc hỗn loạn, thái tử Ca-lương-na-già-lê đi biển chưa trở về, người mù ăn xin làm sao có tên như vậy.
Cô gái thưa:
– Xin phụ vương hãy đến đó xem.
Vua liền đi đến đó trông thấy biết là thái tử, lông tóc dựng ngược, xấu hổ, lo sợ. Vỗ ngực đến trước thái tử sám hối, nói:
Thật sự trẫm không biết, xin thái tử bỏ qua cho.
Vua bèn âm thầm đem thái tử về biên giới rồi truyền rao rằng: “Thái tử Ca-lương-na-già-lê đi biển trở về”, bày các thứ dụng cụ, xe voi ngựa cùng quần thần và đích thân nhà vua ra nghênh đón về đến hoàng cung, trang điểm cô gái, mới nói rằng:
– Từ lâu đã muốn phối ngẫu cô gái này.
Khi đó chim nhạn bay về, mang thư về nước, đại vương trông thấy chim nhạn, mở thư nơi cổ chim ra đọc, mới hay biết được tin tức thái tử còn sống và biết rõ mọi việc khổ nhọc, cay đắng. Vua và phu nhân thoạt mừng, thoạt buồn, trong cung, ngoài cung không ai chẳng đau buồn và phẫn hận, bắt thái tử Ba-bà-già-lê gông cùm lại nhốt ở trong ngục tối và sắc lệnh cho vua Lê-sư-bạt: “Tại sao thái tử sống ở nước ông mà ông im lặng không cho hay. Khi thư đến đó thì voi, ngựa hầu tống, nếu trái lại thì ta sẽ đến chinh phạt.” Sứ giả mang thư đến nước của vua Lê-sư-bạt, vua mở ra đọc. Khi đó thái tử nói với vua Lê-sư-bạt:
– Trước đây người chăn trâu là ân nhân của tôi, nay tôi thương nhớ muốn đến đó gặp anh ta, có thể sai sứ kêu anh ta đến đây chăng?
Vua liền triệu đến. Thái tử nói với vua:
– Khi mắt tôi bị gai đâm, nhờ người này cung cấp, lo lắng cho tôi như cha mẹ tôi, xin đức vua hãy vì tôi mà báo ân giùm.
Vua rất vui mừng tức thời ban cho y phục, voi ngựa, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, vàng bạc châu báu, nô tỳ gia bộc cho người chăn trâu. Người chăn trâu rất vui mừng, được giàu sang hưởng suốt cuộc đời. Nhân đó bày tỏ sự tình:
– Thái tử ở đây mà thật sự thảo dân này không biết, cúi xin xá tội. Nay thái tử được sáng mắt lại, cưới vợ, trang hoàng các thứ đầy đủ, kẻ hèn này xin được đưa tiễn.
Vua đã chuẩn bị trang hoàng năm trăm voi trắng, trang sức vàng bạc, rất đẹp lạ, chọn năm trăm người hầu hạ thái tử. Lại chọn năm trăm thị nữ rất đoan chính, tài năng khéo léo, dùng các báu vật trang sức ngồi năm trăm chiếc xe cũng trang hoàng vật báu, rất đẹp lạ để tiễn cô gái ấy. Vua Lê- sư-bạt và quần thần có cả trăm ngàn xe cũng cùng đưa tiễn, kỹ nhạc ca tụng vây quanh trước sau, tiếng chúc mừng vang dội tiến về nước nhà. Bấy giờ người sứ ấy đã mang thư đến, vua mở thư xem, càng thêm vui mừng bảo các vua vân tập, trang nghiêm voi ngựa, quần thần trăm cung, phu nhân thể nữ ra nghênh đón thái tử. Đến biên giới hai nước, khi đó thái tử trông thấy phụ vương đi xe đến, cúi đầu lễ bái hỏi thăm cha mẹ. Vua và phu nhân cũng ôm thái tử, thương nhớ vừa mừng vừa khóc, từ biệt đã lâu nay mới gặp lại con. Các quan, dân chúng trông thấy thế cũng vui mừng không thể tả xiết. Nói chuyện xong xuôi thì lên xe trở về. Đánh trống, gióng chuông, bày các thứ kỹ nhạc, vui mừng hướng về thành nội. Đến ngoài cổng thành, thái tử tâu vua:
– Ba-bà-già-lê hiện đang ở đâu? Vua đáp:
– Người ác như vậy, thiên hạ không che chở, ta không nỡ thấy, đang bị giam trong ngục tối.
Thái tử tâu vua:
– Con nay đã về rồi, xin hãy thả hắn ra đi.
Vua nói:
– Tội của hắn rất sâu nặng, chưa được kiểm xét làm sao mà thả ra.
Thái tử lại nói:
Nếu phụ vương không thả Ba-bà-già-lê ra thì con trọn đời không vào trong thành.
Vua liền sắc lệnh phóng thích Ba-bà-già-lê. Được thoát ra đến gặp thái tử, thái tử ôm lấy an ủi vỗ về, rồi sau đó mới vào thành. Bấy giờ vua và phu nhân, các quan, dân chúng trai gái già trẻ trông thấy thái tử đối xử oan gia coi như con đỏ, dù Ba- bà-già-lê dùng gai nhọn đâm vào mắt mà không có một chút oán giận, lại còn thương yêu hơn trước nữa, tất cả mọi người đồng tán thành khen ngợi, rất là đặc biệt trên trời nhân gian thật không ai có thể sánh bằng. Thái tử vào cung cùng Ba-bà-già-lê tình thân mật như cũ mới hỏi về châu Như ý hiện đang ở đâu. Ba-bà-già-lê nói:
– Hiện đang cất giấu dưới đất bên đường.
Thái tử cùng đến tìm kiếm mang về. Trở về hoàng cung lấy năm trăm châu báu cho các quan, chỉ còn hạt châu Như ý tự mình giữ lại, tay cầm hạt châu cầu nguyện: “Nếu thật sự là ngọc Như ý thì hãy khiến nơi cha mẹ tôi đang ngồi thành tòa bảy báu, trên đầu có tán che bằng bảy báu”. Thái tử nói xong thì biến thành giống như lời nói. Lại cầm hạt châu lên cầu nguyện: “Hãy khiến cho các kho trong cung vua, của thần dân, trước đây tôi đã đem bố thí được đầy trở lại như cũ,” tức thời hạt châu xoay bốn hướng thì tất cả các kho đều đầy lại như cũ.
Lại bảo các quan báo cho các nước biết, thái tử Ca- lương-na-già-lê nói bảy ngày nữa sẽ có trận mưa châu báu, liền thông báo cho thiên hạ đều hay. Đến hôm đó, thái tử tắm gội sạch sẽ, dựng tràng phan lớn, buộc viên ngọc trên đầu cây, mặc y phục mới, tay cầm lư hương, đảnh lễ bốn phương, miệng tự nói: “Nếu đúng thật là hạt châu Như ý thì nên mưa mọi thứ cần dùng khắp nơi.” Cầu nguyện xong, bốn phương mây đen kéo đến, gió thổi mạnh bay đi các thứ bụi bặm ô uế, kế đến mưa lâm râm cho nén sạch bụi đất rồi lại mưa xuống các thức ăn thức uống ngon lạ, kế đến mưa ngũ cốc, rồi mưa y phục, mưa bảy báu đầy cả thiên hạ. Bấy giờ nhân dân khen ngợi vui mừng khôn lường, của báu quá nhiều nên nhìn thấy châu ngọc cũng như gạch ngói. Khi đó thái tử tuyên bố khắp nơi:
– Các người đã được mọi thứ cần dùng đầy đủ, không có gì thiếu thốn cả, nếu cảm biết được ân đức như vậy, thì hãy nên giữ gìn thân, khẩu, ý, tu Thập thiện đạo.
Khi ấy mọi người trong châu Diêm-phù-đề cảm niệm ân thái tử bố thí vô cùng, họ nghe lệnh ngài chỉ dạy siêng năng khắc phục tâm mình, tuân hành Thập thiện, không phạm các thức, việc ác, sau khi mạng chung họ đều sinh lên cõi trời.
Nói đến đây, Đức Phật bảo:
Này A-nan, nên biết thái tử Ca-lương-na-già- lê kiếp trước chính là Ta đây. Phụ vương Lặc-na- bạt-di nay chính là phụ vương Tịnh Phạn. Người mẹ trước đó nay cũng chính là Ma-ha Ma-da, mẫu hậu của Ta. Vua Lê-sư-bạt thuở đó nay là Ma-ha Ca-diếp, người vợ nay là Đàm-di, còn Ba-bà-già- lê nay chính là ông Đề-bạt-đạt-đa. Người châu Diêm-phù-đề nhờ ân đức của Ta tức là tám vạn chư Thiên và các đệ tử Ta, những người được thọ ký. Này A-nan, khi đó họ làm hại Ta cay đắng cực nhọc Ta còn lấy lòng Từ bi thương xót họ huống là ngày nay đã thành Phật đạo, mọi phiền não đều trừ sạch, Từ bi rộng khắp, bị người khác hại chút ít, lẽ nào chẳng xót thương.
Đức Phật nói xong, bấy giờ trong chúng hội nghe Thế Tôn nói thế cảm ân Ngài vì quần sinh trải qua bao gian lao cực khổ mà không thoái lui, đều khen ngợi chưa từng có, vui buồn lẫn lộn, ghi lòng siêng năng, suy xét Diệu pháp, có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la- hán, có người gieo trồng căn lành Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thảy đều cung kính, vui vẻ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở nước Ca-duy-la-vệ, tại
Tăng-già-lam Ni-câu-lư-đà.
Đức Phật vừa trở về nước, các bà con họ Thích trông thấy uy nghi tướng mạo tốt đẹp lạ thường, thân sắc vàng ánh, ba mươi hai tướng tốt, nhìn mãi không chán. Họ đều vân tập để khen ngợi Như Lai: “Trong chúng tôi đây không có một người nào khả kính như thế.” Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe họ bàn luận rồi cùng đến bạch Phật, xin nói về công đức những người tán thán ngâm vịnh... Khi đó Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
Các ông nên biết, kiếp trước Ta ở trong cõi này.
Khi ấy các Tỳ-kheo đồng bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trong đời quá khứ, ở trong cõi này, tối tôn tối diệu, việc ấy như thế nào, xin Ngài nói cho chúng con được biết.
Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
– Hãy lắng nghe cho kỹ, ghi nhớ trong lòng, Ta sẽ vì các ông mà giải thích đầy đủ về việc quá khứ đó.
Các Tỳ-kheo đáp:
– Vâng! Chúng con xin lắng nghe! Đức Phật bèn vì đại chúng nói:
Ở đời quá khứ vô lượng kiếp a-tăng-kỳ không thể nghĩ bàn, tại châu Diêm-phù-đề có một đại quốc vương tên là Linh-nô. Vua ấy thống lãnh tám vạn bốn ngàn các tiểu quốc vương, một vạn đại thần, năm trăm thái tử, phu nhân thể nữ cả thảy có hai vạn. Vị phu nhân lớn nhất tên Đề-bà-bạt-đề mang thai sinh được một thái tử, tướng mạo đoan chính, thân màu vàng tía, tóc xanh mướt, trong hai lòng bàn tay có ngàn xoáy ốc, dưới lòng bàn chân trái có hình con ngựa, dưới lòng bàn chân phải có hình voi trắng. Thái tử tướng phước đức trong nhân gian rất tôn quý hiếm có, dựa vào cha mẹ mà đặt tên là Đề-bà-linh-nô. Trải qua thời gian dài, Linh- nô lớn lên, một hôm vua Linh-nô bị bệnh nặng sắp chết. Các tiểu quốc vương, quần thần, thái tử đều đến thăm hỏi bệnh và hỏi:
– Nếu như sau khi đại vương mất, trong các thái tử nên chọn ai nối ngôi?
Vua nói:
– Nếu trong các con ta, người nào có đầy đủ mười tướng công đức thì lập người ấy lên làm vua. Thế nào là mười đức? 1. Thân màu sắc vàng, tóc xanh mượt. 2. Trong hai lòng bàn tay có hình Kim luân. 3. Dưới bàn chân phải có hình voi trắng. 4. Dưới lòng bàn chân trái có hình con ngựa. 5. Mặc y phục nhà vua với thân hình không lớn không nhỏ.
Ngồi lên ngai vàng uy đức vòi vọi. 7. Được các tiểu quốc vương, quần thần kính lễ khen ngợi vô cùng, đi vào trong cung các phu nhân thể nữ đều vui mừng, cung kính làm lễ. 8. Nếu đến Thiên tự (thiên miếu) thì phải làm lễ tượng gỗ Nê Thiên. 9. Phước đức uy lực có thể làm mưa bảy báu để cung cấp cho tất cả mọi người. 10. Mẹ thái tử đó phải do phu nhân Đề-bà-bạt-đề sinh ra. Nếu thái tử nào đầy đủ mười công đức này thì lập làm vua.
Giáo sắc xong thì vô thường cũng vừa đến, đức vua qua đời. Vua các tiểu vương quốc và thần dân xem trong năm trăm thái tử coi ai có đầy đủ mười công đức này. Trong các thái tử, thân không sắc vàng, tóc không xanh mượt, trong lòng bàn tay không có xoáy ốc, hai lòng bàn chân không có tướng voi ngựa, mặc y phục nhà vua không vừa, ngồi trên bảo tòa tưởng như sư tử gỗ muốn chồm dậy bắt người ăn. Các vua thần dân đều không kính lễ, đi đến trong cung, phu nhân thể nữ đều không vui mừng, không ai chịu kính lễ. Giả sử vào thiên miếu không chịu làm lễ Nê Mộc thiên, không thể hô khiến cho mưa châu báu, lại không phải do phu nhân Đề-bà-bạt-đề sinh ra, cho đến cả thảy năm trăm thái tử không có đủ mười đức tướng này. Cuối cùng có một thái tử thân sắc vàng, tóc xanh mượt, xem hai lòng bàn tay có hình Kim luân, trông coi hai lòng bàn chân có hình con voi con ngựa rõ như ban ngày, mặc y phục nhà vua vừa vặn thân hình, ngồi trên bảo tọa phước tướng uy phong, các tiểu vương, thần dân không ai chẳng kính lễ, đi vào trong cung, phu nhân thể nữ đều cung kính cho đến vào Thiên miếu tượng Nê Mộc thiên đều làm lễ, hô khiến được châu báu, lại do phu nhân Đề-bà-bạt- đề sinh ra. Thái tử đã đầy đủ mười đức tướng. Các tiểu vương, thần dân liền tôn lên làm vua. Đến ngày thứ mười lăm, sau khi lên ngôi, khi mặt trời vừa mọc, có bánh xe báu bằng vàng từ phương Đông đến, bánh xe ngang rộng một do-tuần, vua liền xuống tòa, gối phải chấm đất, quỳ bạch:
– Nếu như phước đức của tôi xứng đáng làm vua thì bánh xe báu gọi đúng tên tôi.
Liền đúng như lời nói, bánh xe báu bay đến trước điện dừng lại trên không trung. Voi trắng báu từ Hương sơn bay tới, lông đuôi đều có châu ngọc, nếu vua lên cỡi thì voi có thể bay, từ sáng đến trưa khắp bốn thiên hạ, nếu đi chân không, chân vua chạm đất thì đất biến thành cát vàng. Có ngựa báu màu cam, thân lông xanh cam, đuôi nó đều có đính châu ngọc, nếu vua lên cỡi, vừa trong khoảng bữa ăn thì có thể dạo khắp thiên hạ không bao giờ mệt mỏi. Thần châu báu tự nhiên bay đến, ánh châu ấy ngày đêm sáng rực trong vòng một trăm hai mươi do-tuần, lại có thể mưa xuống bảy báu, cho tất cả mọi người. Ngọc nữ báu tự nhiên bay đến, tướng mạo đoan chánh khác thường, thích hợp ý vua, quan giữ kho cần châu báu, cô đều cấp cho đầy đủ, không để thiếu thốn. Quan diễn binh, nếu khi vua cần bốn thứ binh lính, thì trong chốc lát binh lính vân tập đầy đủ, hành trận nghiêm chỉnh, uy lực phi phàm. Bảy báu đã được đầy đủ, vua ngồi một mình suy nghĩ: “Ta nay hưởng ngôi vị này là nhờ đời trước có gieo trồng phước nghiệp cho nên mới cảm
ứng như thế. Nay nên tiếp tục tạo phát, chớ để cho dứt tuyệt.” Vua liền lấy nước hoa tắm gội thân mình, mặc y phục mới, tay cầm lư hương hướng về phương Đông, quỳ bạch:
– Phương Đông khoái sĩ, hãy mau thọ lời ta thỉnh.
Liền có hai vạn Bích-chi-phật đến cung vua. Phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng đều thỉnh như thế, thời có sáu vạn vị Bích-chi-phật đến thọ sự thỉnh mời của vua. Vua và các quan chuẩn bị cúng dường tứ sự, còn tám vạn bốn ngàn các tiểu quốc vương lìa nước nhà đã lâu liền tâu đại vương xin bái từ về nước. Đại vương đồng ý. Nhân đó các tiểu vương khải bạch:
– Trong khoái sĩ này, số lượng rất nhiều, xin đại vương thương xót cho phép để các thần cúng dường một ít vị, để mong sau này được hưởng phước báu như đại vương.
Khi đó nhà vua liền đem bốn phương Bích-chi- phật cho các tiểu vương để tùy thời cúng dường. Trải qua tám vạn bốn ngàn tuổi, các vua thần dân sau khi mạng chung đều sinh cõi trời.
Nói đến đây, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Các ông nên biết vua Linh-nô thuở đó nay chính là vua Tịnh Phạn, phụ thân Ta. Phu nhân Đề- bà-bạt-đề nay là Ma-ha Ma-da, mẫu hậu Ta. Còn vua Đề-bà-linh-nô chính là tiền thân của Ta, năm trăm thái tử nay là năm trăm người họ Thích. Khi ấy Ta ở trong các người đó tối tôn tối diệu, nay Ta thành Phật, cũng đầy đủ các tướng như vậy.
Bấy giờ, người trong đại hội nghe Đức Phật nói xong, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, có người gieo nhân duyên Bích-chi-phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ- đề, họ đều vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Khi ấy Đề-bà-đạt-đa tuy đã xuất gia nhưng bị tâm lợi dưỡng che lấp, làm ba điều tội nghịch: Xô đá trên núi lăn xuống đè Phật, làm ngón chân Phật bị thương, thả voi say để chà đạp Phật, giết Tỳ-kheo-ni lậu tận. Vì do sát sinh nên sợ thọ quả báo đời sau. Ông đến hỏi Lục sư, họ nói các lời, tà kiến: Làm ác không có tội, làm thiện không có phước, tâm sinh tin kính đoạn mất căn lành. Khi đó A-nan vì tình ruột thịt thương mến, đau đớn buồn rầu bạch với Thế Tôn:
– Điều-đạt ngu si tạo nghiệp chẳng lành, phá hoại căn lành, làm nhục dòng họ Thích.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo A-nan:
Đề-bà-đạt-đa chẳng những đời này vì lợi dưỡng đoạn phá căn lành, mà ở trong kiếp quá khứ cũng tham lợi dưỡng tán thân mất mạng.
A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, ông Đề-bà-đạt-đa ở thời quá khứ tham lợi tán thân mất mạng, việc đó như thế nào? Cúi mong Thế Tôn hoan hỷ nói lại chúng con xin muốn được nghe.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe cho kỹ. Ở thời quá khứ vô lượng kiếp a-tăng-kỳ không thể nghĩ bàn, tại châu Diêm-phù-đề này, có một nước tên Ba-la- nại, có một người thương buôn tên Ma-ha Dạ-di, vợ người ấy mang thai, tự nhiên tính tình thay đổi, rất nhân từ nhu hòa, sau khi đủ tháng sinh được một đứa con trai, hình thể đoan chánh, cha mẹ rất yêu mến, mở bày buổi tiệc ngon ngọt đãi thân tộc và mời thầy tướng đến xem tướng, họ cũng tiệc tùng vui vẻ. Thầy tướng hỏi:
– Đứa bé này được mẹ mang thai đến khi sinh ra có điềm ứng gì không?
Người cha nói:
– Từ khi thọ thai nó đến nay, mẹ nó tự nhiên tánh tình hiền hòa từ ái.
Thầy tướng bèn đặt tên là Thiện Cầu. Khi lớn lên thích làm các việc phước đức, thương mến chúng sinh. Thời gian sau bà vợ thương buôn lại mang thai, bỗng nhiên tính tình hung ác. Và mãn tháng cũng sinh được một đứa con trai, hình thể xấu xí. Mời thầy tướng đến đặt tên. Thầy tướng hỏi:
– Đứa trẻ này từ khi mẹ nó mang thai có điềm cảm ứng gì không?
Đáp:
– Khi mang thai nó đến nay, mẹ nó hung dữ lắm.
Thầy tướng bèn đặt tên là Ác Cầu. Khi lớn lên nó rất thích làm việc ác, thường sinh lòng tham, tật đố... Hai người con trai ấy đều muốn đi biển tìm châu báu, họ mỗi người dẫn theo năm trăm tùy tùng, đường xá xa xôi giữa đường thì bị thiếu lương thực. Trải qua bảy ngày, người ta cứ lần lượt chết bớt. Bấy giờ Thiện Cầu cùng các thương buôn thành tâm cầu nguyện các Thần kỳ, cầu xin giúp đỡ nạn đói. Lúc đó ở bên một cái đầm, từ xa trông thấy một thân cây cành lá sum suê, họ bèn đi đến thấy một dòng suối. Thiện Cầu và mọi người cùng thành tâm thương xót cứu giúp. Do lòng thành nên Thần cảm ứng, hiện thân nói:
– Hãy đốn đi một nhánh cây thì sẽ có đồ cần dùng hiện ra.
Mọi người vui mừng, bèn đẽo một nhánh cây thì nước uống ngon lành chảy ra, đẽo một nhánh cây thứ hai, các thứ thức ăn hiện ra đầy đủ trăm vị, họ cùng nhau tiếp nhận được ăn uống no nê, họ đẽo thêm nhánh cây thứ ba thì có ra các thứ y phục đẹp lạ; đẽo thêm nhánh thứ tư hiện ra các thứ bảo vật trang nghiêm đầy đủ các thứ cần dùng. Sau đó Ác Cầu và mọi người thương buôn đến cũng được cây đó hiện ra các thứ đồ như trước. Chàng ta bèn nghĩ: “Cành cây này có thể hiện ra các thứ vật báu đẹp lạ, huống nữa là rễ của cây ta nên chặt thử, may ra nó hiện các thứ còn đẹp cực kỳ hơn nữa.” Trong lòng suy nghĩ liền quyết định sai người đốn cây ấy. Khi đó Thiện Cầu nghe tin đó, buồn rầu nói với Ác Cầu:
– Chúng ta đói thiếu, mạng sống chỉ còn sớm chiều, nay nhờ ân của cây này được cứu giúp mạng thừa, tại sao lại ôm lòng ác tệ muốn đốn cây ấy?
Khi ấy Ác Cầu không chịu nghe lời liền đốn cây ấy. Thiện Cầu đau lòng không nỡ nhìn thấy nên đã dẫn mọi người thương buôn của mình đi về nhà. Đốn cây xong xuôi thì có năm trăm quỉ La-sát đến bắt lấy Ác Cầu và nhóm thương buôn này, nuốt ăn hết, của cải, bạn bè mất hết tất cả.
Nói đến đây, Đức Phật bảo:
Này A-nan, ông nên biết Thiện Cầu là tiền thân của Ta. Người cha thuở đó nay là phụ vương Tịnh Phạn, còn bà mẹ nay là mẫu hậu Ma-da. Còn Ác Cầu chính là Đề-bà-đạt-đa. Này A-nan, Đề-bà- đạt-đa chẳng những đời này làm việc chẳng thiện, tham cầu lợi dưỡng mà đời đời thường tạo nghiệp ác như thế. Ta với ông ấy ở tiền kiếp thường gặp nhau, thường dạy ông ta pháp lành mà ông không chịu nghe, lại còn oán hận Ta.
Khi đó A-nan và bốn bộ chúng nghe Đức Phật nói thế, buồn vui lẫn lộn, đều tự khích lệ, đảnh lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ các Tỳ-kheo đều sinh lòng nghi vấn về A-nan: “A-nan vốn tạo hạnh gì mà nay được tổng trì? Nghe Đức Phật nói ra một lời thì nhớ mãi không quên”. Họ đều đến chỗ Phật bạch:
– Bạch Thế Tôn, A-nan đời trước tạo phước đức gì mà được vô lượng tổng trì như vậy? Cúi xin Thế Tôn chỉ bày cho chúng con được rõ.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Hãy lắng nghe cho kỹ, Ta sẽ nói về phước đức tổng trì của A-nan. Về đời quá khứ vô lượng kiếp a-tăng-kỳ, lúc bấy giờ có một vị Tỳ-kheo nuôi một chú Sa-di, hàng ngày dạy Sa-di tụng kinh theo thời khóa. Nếu chú tụng kinh đầy đủ thì ông vui vẻ, nếu tụng không đầy đủ thì ông buồn và quở trách. Khi đó vị Sa-di thường ôm lòng buồn rầu về việc tụng kinh đầy đủ và thiếu thức ăn. Bởi vì khi đi khất thực được thức ăn mau thì trở về tụng kinh đầy đủ, nếu khất thực chậm thì trở về tụng kinh không đủ. Tụng kinh không đủ thì bị trách móc, lòng buồn rầu khóc lóc mà đi. Khi đó có một vị trưởng giả trông thấy chú Sa-di khóc, liền đến hỏi: “Vì sao chú buồn rầu khóc như thế?” Sa-di đáp: “Trưởng giả nên biết, thầy tôi rất nghiêm khắc, bảo tôi hàng ngày tụng kinh định hạn theo thời khóa, nếu tụng kinh đủ thì ông vui, nếu tụng không đủ thì ông quở trách. Vì tôi đi khất thực được mau thì về tụng kinh đủ, nếu hôm nào khất thực được chậm thì trở về tụng kinh không đủ. Nếu thời khóa tụng kinh không chu đáo thì bị quở trách. Vì thế cho nên tôi buồn.” Khi đó vị trưởng giả nói với chú Sa-di: “Từ nay trở đi hãy đi thẳng đến nhà tôi, tôi xin cúng dường thức ăn, thức uống, khỏi phải lo nữa, cứ việc chuyên tâm tụng kinh tu học.” Khi đó chú Sa-di nghe nói rồi liền được chuyên tâm siêng năng tu học, thời khóa hàng ngày đầy đủ, thầy trò đều vui mừng.
Đức Phật nói với các Tỳ-kheo:
– Vị thầy thuở đó là Đức Phật Định Quang, còn chú Sa-di là tiền thân của Ta, vị trưởng giả cúng dường cơm, nay là A-nan đấy. Do đời quá khứ tạo hạnh lành như thế nên kiếp này được tổng trì, không có quên mất.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật nói rồi vui mừng tín thọ đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Lúc đó nước La-duyệt-kỳ có hai anh em người lái buôn cùng ở một nơi. Người anh cầu hôn con gái của vị trưởng giả nhưng cô ấy hãy còn ít tuổi chưa có thể xuất giá được. Khi đó người anh cùng với những người thương buôn đi đến nước khác buôn bán trải qua mấy năm chưa thấy trở về. Cô gái ấy đã lớn có thể lấy chồng, vị trưởng giả bèn nói với người em:
– Anh của chú đã đi xa, có lẽ chết đắm ngoài biển nên không thấy trở về, nay chú hãy cưới người con gái của tôi cũng được.
Người em nói:
– Việc đó đâu được, anh tôi còn sống, tôi đâu dám làm chuyện trái ngược như vậy.
Vị trưởng giả cứ nói như vậy mãi, người em vẫn kiên quyết, chưa từng xoay chuyển. Vị trưởng giả bất đắc dĩ giả mạo viết một bức thư, nhờ người thương buôn khác mang đến báo cho người em hay là người anh đã chết rồi. Người em nghe tin anh chết rất là kinh ngạc đau buồn. Vị trưởng giả lại đến nói:
Anh của chú đã chết rồi, con gái của tôi phải làm sao bây giờ? Nếu chú không chịu cưới nó thì hãy nên suy nghĩ tìm cách khác.
Người em bị ép bức quá đành cưới người con gái của trưởng giả. Hai người sống với nhau, trải qua một thời gian cô gái bèn thọ thai, đúng lúc đó thì người anh đi buôn bán từ nước khác trở về. Người em nghe tin anh về nước, lòng buồn rầu lo sợ, chạy trốn đến nước Xá-vệ bặt tông tích. Sau này các bạn thân khám nghiệm thai phụ mới biết là cô này bị sẩy thai từ lâu. Nói về người em chạy trốn qua nước Xá-vệ lần lần đi đến chỗ Đức Phật ở, vì buồn rầu xấu hổ, bức bách chàng xin Thế Tôn được xuất gia. Đức Phật biết nhân duyên liền nhận lời. Nhờ ân đức của Phật, chàng trở thành một Sa- môn tên Ưu-bà-tư, phụng trì luật hạnh siêng năng không giải đãi, không bao lâu chứng quả A-la-hán đầy đủ Lục thông chứng trí. Khi đó người anh về đến nhà mới biết em đã lấy người vợ chưa cưới của mình, trong lòng phẫn uất, muốn tìm kiếm để giết. Anh ta tìm kiếm hỏi thăm, có người mách bảo là người em đã đến nước Xá-vệ. Do lòng sân hận, người anh liền trùng mộ: “Ai có thể lấy được đầu em trai tôi, thì tôi sẽ trọng thưởng năm trăm lượng vàng”. Có một người nhận lời:
– Tôi có thể lấy được đầu của anh ta.
Người anh liền lấy vàng đưa cho người nhận lời giết thuê. Anh này lần mò dần dần đến nước Xá-vệ và gặp được người em đó đang tọa thiền.
Bấy giờ người giết thuê khởi sinh lòng từ nghĩ như vầy: “Ta làm sao có thể giết một vị Tỳ-kheo? Giả sử ta không giết thì làm sao lấy được số vàng này?” Nghĩ thế rồi giương cung định bắn, đang lúc giương cung bắn vị Tỳ-kheo đó thì mũi tên lao tới trúng phải người anh. Người anh do ôm lòng sân hận mà chết nên sau thọ thân thành con rắn độc chui sống ở trong kẹt cửa cổng, vì tâm độc chưa dứt còn muốn chờ thời cơ cắn chết báo thù. Nhưng không may cánh cửa lúc đóng lúc mở bị cánh cổng khép kẹt lại mà chết. Tuy đã chết một lần nữa mà lòng uất hận vẫn chưa nguôi lại nguyện sinh làm con trùng nhỏ thật độc ở ngay trong gian phòng của Tỳ-kheo Ưu-bà-tư. Chờ lúc Ưu-bà-tư ngồi thiền bò lên nóc thất để rớt xuống trên đỉnh đầu cắn chết Tỳ-kheo Ưu-bà-tư. Do nọc trùng quá độc nên đã đốt chết Tỳ-kheo Ưu-bà-tư.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất biết được việc này, đi đến chỗ Đức Phật bạch:
– Tỳ-kheo Ưu-bà-tư kia, vốn tạo nghiệp duyên gì, kiếp này tu đắc đạo mà còn bị trùng độc cắn chết như thế? Cúi mong Thế Tôn nói bày cho chúng con được biết nguyên do.
Đức Phật bảo:
Này Xá-lợi-phất, ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói rõ ràng đầy đủ. Ở đời quá khứ vô số kiếp có một vị Bích-chi-phật xuất hiện ra đời, sống trong núi rừng. Khi đó có một người thợ săn thường dùng bẫy để bắt cầm thú thì vị Bích-chi-phật này hay làm kinh sợ cho cầm thú chạy, không cho thợ săn bắt được, ông bèn nổi giận liền dùng tên có tẩm độc bắn chết vị Bích-chi-phật. Lúc đó vị Bích-chi-phật khởi lòng thương xót người thợ săn, muốn khiến cho ông cải hối mới hiện thần túc bay trên hư không, co duỗi thân hình to nhỏ, lúc ẩn lúc hiện thần túc tự tại như thế. Khi ấy người thợ săn thấy vị Bích-chi-phật hiển hiện thần thông như thế trong lòng kính ngưỡng, sợ hãi tự trách mình, thành tâm tạ lỗi cầu xin sám hối. Khi đó, đức Bích-chi-phật hoan hỷ cho sám hối rồi, nhưng người thợ săn ấy đi về nhà (do gây tội) bị trùng độc cắn chết. Sau khi mạng chung, ông bị đọa địa ngục, sau khi ra khỏi địa ngục, sinh làm người phải bị trùng độc cắn chết như thế trong năm trăm kiếp. Mãi cho đến kiếp này, tuy đắc quả A-la- hán, vẫn còn phải bị trùng độc cắn chết. Do có tâm sám hối phát thệ nguyện: Xin khiến cho tôi kiếp sau sinh ra được gặp Thánh hiền và tu được thần túc nên ngày nay được gặp Ta nhờ hiểu được đạo pháp.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất và cả chúng hội nghe Đức Phật nói rồi, vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Khi đó có một ông lão, vợ mất sớm, sống một mình với một đứa con trai, rất là nghèo khốn không có của cải chi cả. Tự giác ngộ cuộc đời là vô thường muốn xuất gia, ông liền đi đến nơi Phật ngự cầu xin nhập đạo. Bấy giờ Đức Thế Tôn thương xót, nhận cho xuất gia. Khi người cha được làm Tỳ-kheo thì người con hãy còn rất nhỏ mới chỉ làm Sa-di. Họ thường cùng nhau đi vào trong thôn xóm khất thực, sau đó mới trở về trụ xứ. Một hôm họ cùng đi đến một thôn rất xa để khất thực và khi quay trở về trụ xứ thì trời đã sập tối. Người cha già nên đi bộ chậm chạp, người con vì sợ thú rừng trùng độc nên nắm dìu cha đi vội vã, không ngờ vấp ngã xuống đất, đập đầu vào tảng đá chết mất. Sau khi người cha (vị Tỳ-kheo già) chết, người con (chú Sa-di) một mình trở về nơi Đức Phật ngự. Khi đó các thầy Tỳ-kheo hỏi chú Sa-di:
– Sớm mai con cùng thầy đi vào thôn khất thực, bây giờ thầy con đâu không thấy về?
Chú Sa-di đáp:
– Con cùng thầy đi đến một thôn xa kia khất thực, trở về thì trời tối, thầy con đi chậm chạp, lúc đó vì con sợ nên đã thúc giục khiến thầy con vấp phải đá ngã va đầu mà chết rồi.
Lúc ấy các thầy Tỳ-kheo quở trách chú Sa-di:
– Con là người đại ác, mang tội giết cha, giết thầy.
Các thầy Tỳ-kheo liền đem chuyện ấy bạch với Phật. Đức Phật bảo:
– Vị thầy Tỳ-kheo già này tuy chết nhưng không phải do Sa-di có ý ác.
Đức Phật liền hỏi Sa-di:
– Con có ý giết thầy con không?
Sa-di đáp:
– Con thật tình chỉ giục thầy con, chứ không có ý ác mà giết thầy con.
Đức Phật nói:
– Như lời con nói, Ta đã biết tâm con không có ý ác, ở thời quá khứ cũng lại như vậy, không có ý ác mà giết hại lẫn nhau.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói lời ấy rồi, đồng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, ở thời quá khứ, hai cha con người này có nhân duyên gì mà giết hại lẫn nhau. Xin Đức Thế Tôn kể lại cho chúng con được biết.
Đức Phật bảo:
Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà nói. Trong thời quá khứ cách đây vô lượng kiếp a- tăng-kỳ, hai cha con người này cùng ở một nơi. Khi đó người cha bệnh nặng đang nằm ngủ thì có rất nhiều ruồi nhặng bay tới cắn, người cha bảo con ngồi canh đuổi ruồi nhặng để ngủ nghỉ được yên. Khi ấy người con đuổi mãi mà ruồi nhặng cứ bay tới hoài. Người con giận quá cầm cây gậy lớn nhắm ngay con ruồi mà đập, lúc đó ruồi nhặng bay lại bu vào trán người cha, người con dùng gậy đập ngay tức khắc, người cha bị vỡ trán mà chết, lúc đó đứa con cũng không có chủ tâm giết cha. Các Tỳ- kheo nên biết, người cha thuở đó nay chính là chú Sa-di này, còn đứa con cầm gậy đập vào trán người cha nay chính là vị Tỳ-kheo già vậy. Do thời quá khứ không có tâm ác dùng gậy đập cha, nhưng nay vẫn phải trả báo, cũng không phải cố giết.
Từ đó chú Sa-di siêng năng tu học, không dám giải đãi, không bao lâu đắc quả A-la-hán.
Bấy giờ các vị Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói xong, tâm đều tin hiểu hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở trong khu vườn Trúc, tại thành Vương xá. Bấy giờ nước Xá-vệ của vua Ba- tư-nặc có một vị đại thần tên Tu-đạt, nhà rất giàu có, của cải nhiều vô hạn, ham làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu và người già cả cô đơn. Do nhân hạnh đó, người thời bấy giờ gọi ông là Cấp Cô Độc. Trưởng giả Cấp Cô Độc sinh được bảy người con trai đều đã lớn cả và đã cưới vợ cho sáu cậu, chỉ còn cậu thứ bảy, tướng mạo đoan chánh lạ thường nên ông yêu mến nghiêng nặng cậu út nhiều hơn, muốn tìm một cô gái dung nhan xinh đẹp, đức hạnh chu toàn để cưới cho con trai út. Ông nói với các Bà-la-môn:
– Ai có con gái tướng mạo xinh đẹp, tôi sẽ hỏi làm vợ cho con trai út của tôi.
Các vị Bà-la-môn bèn tìm kiếm, họ lần lần đi hành khất đến trong thành Vương xá. Trong thành này có một vị đại thần tên Hộ Di giàu có vô cùng lại có lòng tin kính Tam bảo. Những Bà-la-môn này đi đến từng nhà khất thực, theo quốc pháp nước này, người bố thí phải sai người đồng nữ cầm đồ vật ra để bố thí. Trưởng giả Hộ Di có một cô con gái dung mạo đoan chánh, nhan sắc xinh đẹp lạ thường, cô gái này cầm thức ăn ra bố thí cho Bà- la-môn. Ông vừa trông thấy, tâm rất vui mừng, tự nghĩ: “Người mà ta tìm kiếm hôm nay đã gặp được rồi”, liền hỏi cô gái:
– Có người nào đã cầu hôn với cô chưa? Cô gái đáp:
– Dạ chưa!
Ông lại hỏi cô gái:
– Cha cô còn sống không? Cô gái đáp:
– Thưa, còn sống!
Vị Bà-la-môn nói:
– Xin được mời ông ra đây, tôi muốn gặp và có việc cần bàn.
Khi đó người con gái đi vào trong nhà thưa với cha:
Bên ngoài có một người ăn xin muốn xin gặp cha.
Người cha bèn đi ra. Bấy giờ vị Bà-la-môn hỏi thăm về sinh hoạt, ăn ở... và nói:
– Ở nước Xá-vệ có một vị đại thần tên là Tu- đạt làm quan, ông có biết không?
Đáp:
– Tôi chưa thấy chỉ có nghe tên ông ta. Vị Bà-la-môn nói:
– Ông là một người rất giàu có ở nước Xá-vệ. Ông ta có một cậu con trai út, tướng mạo đoan chánh, thông minh mưu lược hơn người, ông ta muốn cầu hôn con gái ông cho con trai út, ông có vui lòng không?
Đáp:
– Vui lòng.
Bấy giờ gặp được một người lái buôn muốn đi đến nước Xá-vệ, vị Bà-la-môn bèn viết thư nhờ gửi cho ông Tu-đạt, trình bày đầy đủ mọi việc cho ông nghe. Ông Tu-đạt rất vui mừng liền đi vào cung tâu vua xin nghỉ chầu vài hôm để cưới vợ cho con trai. Vua liền đồng ý. Ông chở nhiều châu báu đến thành Vương xá, trong lúc đi đường, ông ban phát cho người nghèo thiếu, mãi cho đến thành Vương xá, nhà của ông Hộ Di, để cho con trai cưới vợ. Trưởng giả Hộ Di vui mừng ra nghênh đón, ông sắp xếp trang trí nhà cửa, bày biện thức ăn để đãi họ đàng trai. Ông Tu-đạt nghĩ: “Nay vị trưởng giả này bày biện các đồ cúng dường muốn làm việc gì thế? Có lẽ sắp thỉnh quốc vương, thái tử, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, thân thích đến làm lễ hôn nhân sao mà bày tiệc lớn dữ vậy?” Suy nghĩ mãi mà không thể tự biết, bèn hỏi:
– Thưa trưởng giả, hôm nay có việc gì mà ở đây bày tiệc chuẩn bị các thứ nhiều như thế? Có lẽ ngài muốn thỉnh quốc vương, thái tử, đại thần chăng?
Đáp:
– Không phải.
Tu-đạt lại hỏi:
– Ngài muốn mời thân thuộc đến dự lễ cưới chăng?
Đáp:
– Cũng không phải.
Tu-đạt lại hỏi:
– Vậy ngài định làm gì thế? Đáp:
Tôi chuẩn bị thỉnh Phật và chư Tỳ-kheo Tăng. Khi đó ông Tu-đạt nghe nói danh hiệu Phật và Tăng, bỗng cảm thấy lông tóc dựng ngược như có được một điềm lạ gì vậy, tâm tình vui vẻ, ông hỏi thêm:
– Thế nào gọi là Phật? Xin hãy giải thích nghĩa ấy cho tôi rõ.
Trưởng giả Hộ Di nói:
– Ông chưa nghe sao? Đó là thái tử Tất-đạt-đa, con của vua Tịnh Phạn, ngày thái tử sinh ra, trời giáng xuống điềm lành, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, có vạn vị thần thị vệ, vừa sinh ra đã đi bảy bước, một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã vi tôn”. Thầy tướng xem, nói rằng nếu ở tại gia thì làm Chuyển luân vương cai trị bốn châu thiên hạ. Khi lớn lên, thái tử thấy chúng sinh có bốn tướng sinh già bệnh chết. Không thích ở tại gia mà đi xuất gia tìm đạo, trải qua sáu năm khổ hạnh, đạt được Nhất thiết trí, dứt hết kết sử thành Phật, hàng phục tám mươi ức vạn ma quân, hiệu là Năng Nhân, có mười lực vô úy, mười tám pháp bất cộng, quang minh chói sáng, soi thấu ba cõi nên gọi là Phật.
Ông Tu-đạt hỏi:
– Thế nào gọi là Tăng? Trưởng giả Hộ Di đáp:
Sau khi thành Phật rồi, Phạm thiên cung thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân. Đức Phật nhận lời đến nước Ba-la-nại tại khu Lộc uyển thuyết pháp Tứ diệu đế cho năm anh em Câu-lân (Kiều-trần-như) dứt sạch lậu tận, thành vị Sa-môn đầy đủ Lục thông, Tứ như ý túc, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Trên hư không có tám vạn chư Thiên đắc quả Tu- đà-hoàn. Vô lượng trời người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Kế tiếp độ cho anh em ông Uất-bệ Ca-diếp một ngàn người, dứt được lậu tận ý giải thoát như năm anh em Kiều-trần-như. Kế đến tiếp độ đồ chúng của Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên năm trăm người được chứng quả A-la-hán. Những vị ấy thần túc tự tại, hay vì chúng sinh làm ruộng phước điền, nên gọi là Tăng.
Ông Tu-đạt nghe nói việc hay như vậy rất vui mừng cảm niệm kính tin, mong cho trời mau sáng để đi đến gặp Phật. Vì lòng thành nên có thần ứng thấy mặt đất tỏ sáng như ban ngày, bèn đi đến thành La-duyệt-kỳ. Cổng thành có ba giờ mở cửa; đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm gọi là ba thời. Giữa đêm đi ra khỏi cửa thấy có Thiên tự Tu-đạt liền lễ bái, bỗng quên nhớ đến Phật, tâm tự tối tăm, bèn nghĩ: “Bây giờ đêm tối, nếu ta đi đêm sợ gặp phải ác quỉ, thú dữ làm hại”, định trở vào thành chờ sáng mai mới đi. Trước đó ông có một người bạn thân mạng chung sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, thấy ông hối hận muốn trở về liền xuống nói rằng:
Cư sĩ chớ có hối hận, ông hãy đi đến gặp Phật sẽ được lợi ích vô lượng, nay ông được trăm xe châu báu cũng không bằng ông cất một bước chân đến gặp Đức Thế Tôn, được lợi ích còn hơn thế nữa. Cư sĩ ông chớ nên hối hận! Cư sĩ, ông hãy đi đi đừng có hối hận! Chính như nay ông có được châu Diêm-phù-đề đầy cả châu báu cũng không bằng cất bước chân đi đến gặp Đức Thế Tôn, được lợi ích rất lớn. Cư sĩ, ông hãy đi đừng có hối nữa! Chính như nay ông được bốn thiên hạ đầy cả châu báu, cũng không bằng cất bước đến gặp Thế Tôn, được lợi ích còn hơn đó nữa, còn được lợi ích gấp trăm ngàn vạn lần.
Ông Tu-đạt nghe vị trời nói lời đó rồi càng thêm vui mừng, cảm kính Đức Thế Tôn, bóng tối liền tiêu, ánh sáng trở lại, tìm đường đi đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ Đức Thế Tôn biết ông Tu-đạt đến nên đi ra ngoài kinh hành. Lúc đó ông Tu-đạt trông thấy Thế Tôn sáng chói cũng như núi vàng, tướng hảo dung mạo uy nghiêm còn hơn ông Hộ Di nói gấp vạn lần, trông thấy trong lòng vui vẻ, ông chưa biết lễ pháp, nên hỏi thẳng Thế Tôn:
– Thưa Cù-đàm, chỗ ở như thế nào?
Đức Thế Tôn liền mời ông ngồi. Khi ấy trời Thủ-đà-hội trông thấy ông Tu-đạt, tuy gặp Thế Tôn nhưng không biết pháp lễ bái cúng dường nên mới hóa làm bốn người sắp hàng đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, quỳ hỏi thăm về chỗ ở, rồi đi quanh bên phải ba vòng, đứng lại một bên. Lúc đó ông Tu-đạt thấy họ làm như vậy rất đỗi ngạc nhiên, tự nghĩ: “Phép cung kính phải làm như thế”, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, kính lễ như những người kia, hỏi thăm về sinh hoạt của Thế Tôn, rồi đi nhiễu bên phải ba vòng đứng qua một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì họ thuyết pháp Tứ diệu đế, khổ, không, vô thường. Nghe xong, ông rất vui mừng, thấm nhuần Thánh pháp đắc quả Tu- đà-hoàn, thí như tấm vải trắng sạch nhuộm màu sắc vậy. Ông quỳ xuống chắp tay hỏi Thế Tôn:
– Bạch Đức Thế Tôn, trong thành Xá-vệ, những người nghe pháp mau thấm nhuần như con có nhiều không?
Đức Phật bảo Tu-đạt:
– Người nghe pháp mau hiểu như ông không có người thứ hai. Trong thành Xá-vệ này, phần nhiều người tà kiến khó thấm nhuần Thánh giáo.
Ông Tu-đạt bạch Phật:
– Cúi mong Như Lai từ bi đến thành Xá-vệ, khiến cho chúng sinh trừ tà quy chánh.
Đức Thế Tôn nói:
– Người xuất gia có khác kẻ thế tục, nơi ở cũng phải khác, nơi đó không có tinh xá làm sao đến đó được.
Ông Tu-đạt bạch Phật:
– Đệ tử có thể xây dựng, xin ngài hứa khả cho!
Đức Thế Tôn lặng thinh. Ông Tu-đạt từ tạ ra về. Sau đó ông lo việc cưới vợ cho con trai xong rồi đến từ tạ Phật trở về nhà. Nhân đó ông bạch Phật:
– Con về đến nước nhà sẽ xây dựng tinh xá, không biết mô hình thế nào, cúi mong Như Lai cho một vị đệ tử sang để chỉ bày cách thức.
Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Trong thành Xá-vệ, các Bà-la-môn tin theo tà giáo, sai người khác chắc không thể làm nổi, chỉ có Xá-lợi-phất là thuộc dòng Bà-la-môn cũng có chút ít thông minh và có cả thần túc, cho đi ắt có lẽ đắc lực”, liền sai ngài Xá-lợi-phất đi cùng ông Tu-đạt. Ông Tu-đạt hỏi ngài Xá-lợi-phất:
– Đức Thế Tôn đi bộ một ngày được mấy dặm?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
– Một ngày đi được nửa do-tuần, cũng bằng vua Chuyển luân thánh vương vậy.
Lúc đó ông Tu-đạt bèn làm theo dọc đường nhà nghỉ chân, cứ hai mươi dặm làm một cái, xuất tiền của bố thí người lo ăn uống đầy đủ từ thành Vương xá đến nước Xá-vệ. Về đến nhà cùng Xá-lợi-phất tìm nơi nào đất rộng rãi bằng thẳng để khởi công xây dựng tinh xá. Đi khắp nơi mà chưa thấy có mảnh đất nào vừa ý, chỉ có khu vườn của thái tử
Kỳ-đà là bằng phẳng rộng rãi, cây cối sum suê, tươi tốt, không gần cũng không xa thành, chỗ này có thể được. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất nói với ông Tu- đạt:
Khu vườn này có thể làm tinh xá được. Vì sao? Nếu làm tinh xá quá xa sợ rằng chư Tăng đi khất thực khó khăn, còn ở quá gần thành thị thì ồn ào náo nhiệt, phế bỏ sự hành đạo.
Ông Tu-đạt vui mừng đến gặp thái tử thưa:
– Tôi muốn làm cho Như Lai một tinh xá, khu vườn thái tử rất tốt, tôi muốn mua nó để xây dựng, thái tử đồng ý không?
Thái tử Kỳ-đà cười nói:
– Tôi có thiếu thốn gì đâu, khu vườn này tươi tốt, tôi dùng nó để dạo chơi, tiêu dao ý chí.
Ông Tu-đạt nài nỉ đến ba lần, thái tử tham tiếc bèn tăng lên giá gấp bội, nói một giá rất đắt để không thể mua được, bảo ông Tu-đạt:
– Nếu ông đem vàng trải khắp mặt đất không để hở chỗ nào thì ta sẽ bán cho.
Tu-đạt nói:
– Vâng! Tùy theo giá của thái tử. Thái tử Kỳ-đà nói:
– Ta nói đùa thôi.
Ông Tu-đạt nói:
– Ngài làm thái tử không nên nói dối được, vọng ngữ dối gạt thì làm sao nối ngôi vua trị vì nhân dân.
Ông liền muốn cùng thái tử đi kiện. Bấy giờ trời Thủ-đà-hội vì muốn làm tinh xá cho Phật, ông sợ rằng các quan đại thần thiên lệch vì thái tử, liền hóa làm một người nói với thái tử:
Luận về phép làm thái tử, không nên nói dối, đã quyết định giá cả thì không nên hối hận. Thái tử bèn cho ông Tu-đạt mua vườn.
Ông Tu-đạt vui mừng sai người về nhà dùng voi chở vàng chỉ trong tám mươi khoảnh đất, chốc lát đã trải vàng khắp mặt đất, chỉ còn thiếu chút ít đất trống chưa lát xong. Ông Tu-đạt suy nghĩ xem coi kho vàng nào để lót cho vừa đủ, không bị nhiều cũng không lo ít, để sai người đi lấy cho đầy đủ. Thái tử Kỳ-đà thấy thế hỏi:
– Ngài chê mắc quá chăng? Đáp:
– Không phải thế! Tôi đang nghĩ coi vàng trong kho nào để lấy cho vừa đủ.
Thái tử Kỳ-đà nghĩ: “Đức Phật chắc là Bậc Đại Đức nên ông này mới coi thường vàng bạc đến như thế.” Nghĩ xong, thái tử ngăn lại nói:
– Thôi chớ có xuất vàng ra nữa, coi như khu vườn này là của ông, còn cây cối thuộc của tôi, chúng ta cùng dâng cúng cho Đức Phật để xây dựng tinh xá.
Ông Tu-đạt vui mừng nhận lời, liền trở về nhà chuẩn bị khởi công xây dựng. Bọn Lục sư nghe việc ấy đến tâu với quốc vương:
Tâu bệ hạ, trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà để cho Sa-môn Cù-đàm làm tinh xá rồi. Hãy cho đồ đệ của chúng tôi thi tài pháp thuật với Sa-môn, ai thắng thì được xây dựng, nếu không làm thế thì không được xây dựng. Đồ chúng của Cù-đàm ở thành Vương xá, đồ chúng của tôi ở tại đây.
Nhà vua triệu ông Tu-đạt vào cung hỏi:
– Nay bọn Lục sư nói khanh mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà, định xây tinh xá cho Sa-môn Cù- đàm. Vậy đệ tử của Sa-môn cùng đệ tử họ đấu pháp thuật với nhau, nếu ai thắng thì được lập tinh xá, còn như thua thì không được làm.
Ông Tu-đạt trở về nhà buồn rầu không vui, mặc quần áo bẩn rách. Khi đó ngài Xá-lợi-phất sáng sớm mặc y cầm bát đến nhà ông Tu-đạt, thấy ông không vui, liền hỏi:
– Vì sao ông không vui? Tu-đạt nói:
– Về việc xây dựng tinh xá sợ e không thành, cho nên tôi buồn rầu. Ngài Xá-lợi-phất hỏi:
– Có việc gì mà sợ không thành? Đáp:
– Nay có nhóm Lục sư đến xin vua cho đấu phép, ai thắng thì mới cho làm tinh xá, nếu không thắng được họ thì không cho xây dựng. Nhóm Lục sư này xuất gia đã lâu, vốn tinh thông pháp thuật cao cường, không ai có thể bì kịp. Tôi nay không biết tài nghệ của ngài có địch nổi với họ hay không?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
– Cho dù nhóm Lục sư này nhiều như tre trúc đầy khắp cõi Diêm-phù-đề cũng không thể làm động nổi sợi lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, hãy nhận lời đi. Ông Tu-đạt vui mừng, bèn mặc y phục mới, tắm gội nước hoa, rồi đi đến tâu vua:
– Thần đã hỏi đệ tử của Sa-môn, Lục sư muốn đấu thì cứ tùy ý chọn ngày thi đấu.
Lúc đó quốc vương bảo các Lục sư:
– Nay trẫm nhận lời cho phép các ông cùng với đệ tử của Sa-môn đấu phép.
Khi ấy bọn Lục sư tuyên bố cho nhân dân khắp cả nước hay biết, bảy ngày nữa ở một nơi rộng rãi ngoài thành cùng với Sa-môn đấu phép. Trong nước Xá-vệ có mười tám ức người đến xem. Theo quốc pháp thời bấy giờ đánh trống hội chúng như đánh trống đồng thì tám ức người vân tập, như đánh trống bạc thì có mười bốn ức người vân tập, nếu đánh trống vàng thì tất cả mọi người vân tập. Đã mãn bảy ngày, họ đến một nơi rộng rãi bằng thẳng đánh trống vàng để cho tất cả mọi người tụ hội. Nhóm đệ tử của Lục sư có ba ức người. Quốc vương và nhóm Lục sư sắp xếp ngồi trên tòa cao. Bấy giờ ông Tu-đạt làm cái tòa cao cho ngài Xá- lợi-phất. Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất đang ngồi dưới gốc cây yên lặng nhập định, các căn yên tịnh, dạo chơi các thiền định, thông đạt vô ngại, thầm nghĩ như vầy: “Đại chúng ở hội này, tập theo thói tà đã lâu, ngạo mạn tự cao, nhiều như cỏ rác, ta nên dùng đức gì để hàng phục họ?” Suy nghĩ rồi định dùng hai đức mà lập thệ nói rằng: “Nếu tôi trong vô số kiếp từ hiếu đối với cha mẹ, kính lễ đối với Hòa thượng, Sa-môn, Bà-la-môn xin cho tôi mới tới đại hội thì tất cả mọi người đều đứng dậy làm lễ.” Lúc đó, Lục sư thấy mọi người đã vân tập, chỉ còn một mình Xá-lợi-phất chưa đến, bèn tâu vua:
– Đệ tử Cù-đàm tự biết không có phép thuật, nói dối nên không đến đâu. Mọi người đã vân tập rồi, e hắn sợ nên không đến.
Vua bảo Tu-đạt:
– Đệ tử của Thầy khanh nhận lời, giờ đấu đã đến, xin hãy nên đến để bàn luận chứ.
Lúc đó ông Tu-đạt đi đến chỗ ngài Xá-lợi-phất quỳ bạch:
– Bạch Đại đức, đại chúng đã vân tập, xin ngài đến dự hội.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất từ thiền định dậy, chỉnh y phục, vắt tấm tọa cụ bên vai trái, đi bộ ung dung đĩnh đạc như một Sư tử vương, đến chỗ đại chúng. Lúc đó mọi người trông thấy hình dung pháp phục có khác, cho đến các Lục sư bỗng nhiên đứng dậy, giống như là gió thổi lướt qua mặt cỏ, bất giác họ đều làm lễ đối với ngài. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất lên tòa nơi ông Tu-đạt đã bày sẵn. Trong nhóm Lục sư có một đệ tử tên Lao-độ-sai giỏi về huyễn thuật, ra trước đại chúng đọc chú hóa làm một cây đại thọ to lớn, tàng lá che mát cả chúng hội, cành lá sum suê tươi tốt, hoa quả trĩu cành, mọi người đều reo hò nói:
– Đây là phép biến hóa của Lao-độ-sai.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất bèn dùng thần lực làm một cơn gió xoáy thổi trốc gốc cây, ngã xuống mặt đất nát nhỏ như vi trần. Mọi người đều hô nói:
– Thần biến của Xá-lợi-phất hơn rồi.
Lao-độ-sai đọc chú hóa ra một cái ao, bốn bề đều bằng bảy báu, trong ao có mọc các loại hoa. Mọi người đều khen:
– Đấy là do Lao-độ-sai làm ra.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất hóa làm một con voi trắng sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ. Voi trắng từ từ đi đến bên bờ ao hút hết nước trong ao. Mọi người đều nói:
Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng.
Lao-độ-sai lại hóa ra một ngọn núi bằng bảy báu trang nghiêm, có suối ao, cây cối, hoa quả tươi tốt. Mọi người đều hô nói:
– Đây là do Lao-độ-sai làm ra đó.
Khi đó ngài Xá-lợi-phất hóa làm Kim cang Lực sĩ dùng chùy Kim cang đứng xa chỉ thì quả núi liền tan nát không còn chút gì dấu vết. Mọi người đều hô to:
Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng.
Lao-độ-sai lại hóa ra con rồng có mười đầu ở trong hư không mưa ra các thứ châu báu, sấm chớp chấn động kinh sợ đại chúng. Mọi người đều nói:
– Đấy là do Lao-độ-sai hóa ra đó.
Khi ấy ngài Xá-lợi-phất hóa làm một con Kim sí điểu vương bay đến vồ lấy bắt lấy rồng xé ăn. Mọi người đều hô:
– Ngài Xá-lợi-phất thắng rồi, ông Lao-độ-sai kém hơn, không bằng rồi.
Lao-độ-sai tiếp tục hóa làm một con trâu, thân thể cao lớn mập mạp mạnh khỏe, chân to, móng bén nhọn, quỳ dưới đất rống lớn rồi chạy thẳng tới trước ngài Xá-lợi-phất. Lúc đó ngài Xá-lợi-phất hóa làm Sư tử vương vồ bắt trâu xé nát ra ăn. Mọi người đều reo hò:
Xá-lợi-phất thắng rồi, Lao-độ-sai không bằng.
Lao-độ-sai lại tiếp tục hóa làm quỉ Dạ-xoa, thân thể cao lớn, trên đầu lửa cháy, mắt đỏ như máu, bốn nanh dài bén nhọn, miệng phun ra lửa, chồm nhảy rất ghê sợ. Khi đó ngài Xá-lợi-phất hóa thân làm Tỳ-sa-môn vương. Dạ-xoa sợ hãi liền thoái chạy bị bốn bên lửa nổi dậy không có lối đi, chỉ có chỗ bên Xá-lợi-phất là không có lửa cháy. Ông
Lao-độ-sai liền khuất phục năm vóc sát đất cầu thương xót cứu mạng, tâm hổ thẹn khởi lên thì lửa tiêu diệt hết. Mọi người đều hô to:
– Ngài Xá-lợi-phất đã thắng, Lao-độ-sai không bằng.
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất thân bay lên hư không, hiện bốn oai nghi, đi đứng ngồi nằm, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, ẩn bên Đông hiện bên Tây, hoặc ẩn bên Tây hiện bên Đông, ẩn bên Bắc hiện bên Nam, ẩn bên Nam hiện bên Bắc; hoặc hiện thân to lớn, đầy khắp trong hư không rồi lại hiện lại thật nhỏ. Hoặc phân thân ra trăm ngàn vạn ức thân, rồi hợp lại thành một thân, đang ở trên hư không, bỗng nhiên lại hiện trên mặt đất, đi trên mặt nước như đi trên đất, biến hiện rồi lại thu nhiếp thần túc, ngồi lại vị trí cũ. Bấy giờ đại chúng dự hội thấy thần lực của ngài Xá-lợi-phất đều rất vui mừng và đem lòng kính phục. Khi đó ngài Xá-lợi-phất thuyết pháp nói về nhân duyên phước báo đời trước. Nghe xong, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đồ chúng của Lục sư có ba ức người theo ngài Xá-lợi- phất xuất gia học đạo. Hai bên thi thố thần thông xong rồi, bốn chúng bèn giải tán ra về. Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt cùng ngài Xá-lợi-phất đi đo lại đất và vẽ sơ đồ tinh xá. Ông Tu-đạt tự tay cầm một đầu dây thừng, còn ngài Xá-lợi-phất nắm một đầu, đo giáp vòng khu tinh xá. Khi ấy ngài Xá-lợi-phất bỗng nhiên mỉm cười. Ông Tu-đạt hỏi:
– Vì sao Tôn giả cười? Đáp:
Ông và tôi bắt đầu đo đất hết khu vườn này thì ở trên trời Lục dục đã làm xong một cung điện. Ngài Xá-lợi-phất liền cho ông Tu-đạt mượn đạo nhãn. Ông thấy cõi trời Lục dục, cung điện trang nghiêm, mới hỏi ngài Xá-lợi-phất:
– Cõi trời Lục dục, nơi nào là vui nhất?
Ngài Xá-lợi-phất nói:
– Trong ba tầng dưới sắc dục sâu dày, còn hai tầng trời trên tính kiêu mạn phóng dật buông lung, tầng trời thứ tư ít dục biết đủ, thường có Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đến sinh trong cõi đấy, thuyết pháp không dứt.
Ông Tu-đạt nói:
– Tôi nguyện sinh lên cõi trời thứ tư.
Vừa nói xong thì các cung điện đều biến mất hết, chỉ còn có cõi trời thứ tư, các cung điện lặng yên không biến động. Rồi lại bắt đầu cầm dây thừng đo nữa, khi ấy ông trông thấy ngài Xá-lợi- phất có sắc hơi buồn, liền hỏi:
– Thưa Tôn giả, vì sao ngài có sắc mặt hơi buồn?
Đáp:
– Ông có nhìn thấy đàn kiến này không? Đáp:
– Thưa thấy.
Khi đó ngài Xá-lợi-phất nói với ông Tu-đạt:
– Ông ở thời quá khứ Phật Tỳ-bà-thi, cũng ở tại khu đất này vì Đức Phật Tỳ-bà-thi xây dựng ngôi tinh xá mà đàn kiến này nó cũng sinh ở đây. Đến thời Phật Thi-khí, ông làm tinh xá cho Phật ấy cũng tại khu đất này tạo lập tinh xá, mà đàn kiến này cũng sinh sống nơi đây. Cho đến thời Phật Tỳ-xá- phù, ông vì Đức Thế Tôn ấy, ở tại khu đất này xây dựng tinh xá mà đàn kiến này cũng còn sinh sản nơi đây. Đến đời Phật Câu-lưu-tôn, ông cũng làm tinh xá ở khu đất này cúng Phật thì đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Đến thời Đức Phật Ca-na- hàm Mâu-ni, ông cũng làm tinh xá ở khu đất này cúng Phật mà đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Đến thời Phật Ca-diếp ông cũng làm tinh xá ngay khu đất này cúng Phật mà đàn kiến này cũng còn sinh ra ở đây. Cho đến ngày ngay, chín mươi mốt kiếp, nó còn thọ một thứ thân kiến không được giải thoát, sinh tử lâu dài như thế, duy có phước làm thiết yếu, không thể không gieo trồng.
Khi ấy ông Tu-đạt nghe xong đau buồn thương xót cho đàn kiến. Đo đất xong bắt đầu xây dựng tinh xá, làm riêng một gian bằng gỗ chiên-đàn cho Đức Phật, làm phòng ốc cho chúng Tăng bằng hương nê, hai mươi khu có một ngàn hai trăm gian phòng. Làm xong ông muốn đi thỉnh Phật, nhưng rồi lại suy nghĩ: ‘Trên có quốc vương, nên tâu cho vua biết, nếu không tấu trình e rằng bị vua trách”, liền đi đến tâu vua:
– Thưa bệ hạ, hạ thần đã vì Thế Tôn xây dựng một ngôi tinh xá, cúi mong đại vương cho sứ đi thỉnh Đức Phật.
Khi ấy vua nghe xong liền cho sứ giả đi đến thành Vương xá để thỉnh Đức Phật và chúng Tăng. Sứ giả sang Vương xá vào yết kiến Đức Phật, thưa:
– Bạch Thế Tôn, công trình xây dựng tinh xá đã hoàn thành, nay kính thỉnh Thế Tôn quang lâm Xá-vệ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng bốn chúng trước sau vây quanh phóng đại quang minh chấn động đại địa, đến nước Xá-vệ, đi trải qua các khách xá đều dừng nghỉ, gặp người hóa độ không thể tính kể, dần dần đến bên thành Xá-vệ. Tất cả đại chúng cầm các dụng cụ cúng dường, nghênh đón Đức Thế Tôn. Thế Tôn đến nước Xá-vệ, đi đến một nơi rộng rãi, phóng đại quang minh, chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, ngón chân ấn xuống đất, đất đều chấn động, trong thành các kỹ nhạc không khảy mà tự kêu, người mù được sáng mắt, người điếc được nghe rõ; người câm được nói năng, kẻ còng lưng được ngay thẳng, tất cả nhân dân trai gái già trẻ lớn nhỏ thấy điềm lành như vậy đều rất vui mừng hớn hở, đi đến chỗ Phật, mười tám ức người vân tập. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì họ thuyết Diệu pháp như thầy thuốc giỏi tùy bệnh cho thuốc, những người có túc duyên đều được lợi ích, có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la- hán. Có người gieo trồng nhân duyên Bích-chi- phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Mọi người đều rất vui mừng, vâng theo lời Phật dạy.
Khi đó Đức Phật bảo ngài A-nan:
– Khu vườn này do ông Tu-đạt mua, còn cây trái hoa quả của thái tử Kỳ-đà, hai người đồng tâm, cùng lập nên tinh xá, vậy nên lấy hiệu là khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, để lưu truyền khắp nơi và người đời sau hiểu biết.
Bấy giờ A-nan và bốn bộ chúng nghe Đức Phật nói xong đều đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một lúc nọ Đức Phật ở La-duyệt-kỳ, tại vườn trúc Ca-lan-đà.
Khi ấy A-nan đang ở trong rừng cây tĩnh tọa tư duy, suy nghĩ về việc như vầy: “Đức Như Lai Chánh Giác các căn đầy đủ, công đức trí tuệ sáng suốt, thù diệu khó lường. Trước kia Thế Tôn vốn gieo trồng nhân duyên gì, phát tâm Đại thừa vô thượng, tu tập việc gì mà được lợi ích thù thắng như vậy?” Nghĩ như vậy xong, ngài liền từ thiền định ra, đi đến chỗ Phật, đầu mặt sát đất tác lễ, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, như các Đức Thế Tôn ở trong thế gian trời người, tối tôn tối diệu, công đức trí tuệ sáng suốt, cao xa vòi vọi. Không biết trước kia tạo nhân duyên gì mà phát tâm Đại thừa vô thượng này?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, nay ông muốn biết, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ Ta sẽ vì ông mà nói rành rõ.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Dạ! Con xin lắng nghe! Đức Phật bảo:
Này A-nan, thời quá khứ lâu xa, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn kiếp a-tăng-kỳ, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị đại quốc vương tên là Ma-ha Ba-la-bà-tu (Tần dịch là Đại Quang Minh) thống lãnh năm trăm nước nhỏ. Khi đó vua cùng các quần thần đi ra ngoài săn bắn, vua cỡi con voi, tánh tình hung dữ, nó chở vua chạy đi dữ dội, dần dần đến khu rừng cây, nó chạy xông thẳng vào giữa rừng. Người quản tượng kêu vua nên nắm nhánh cây để được an toàn. Vua nghe theo lời quản tượng, nắm được nhánh cây mà được an toàn, còn con voi chạy đi mất. Đức vua nổi giận quở trách người quản tượng, muốn đem ông ra giết bỏ, trách:
– Do người điều voi không hợp chế độ, nên mới khiến hôm nay làm nguy hại đến thân ta.
Quản tượng tâu vua:
– Hạ thần điều khiển voi đúng như pháp, nhưng hôm nay con voi này vì dục vọng mê hoặc, tâm dục khó điều phục, chứ chẳng phải lỗi ở hạ thần, xin bệ hạ khoan thứ! Sau ba ngày nữa ắt voi trở về, theo thần đoán biết, hãy đợi ba ngày, thần có chết cũng không ân hận.
Đúng như kỳ hẹn ba ngày sau con voi tự trở về cung. Bấy giờ người quản tượng đốt bảy viên sắt đỏ hực, bức bách con voi phải nuốt, con voi không dám trái nghịch, nuốt hết liền chết. Ông vua ý hiểu ra, cùng các quần thần khen chưa từng có, lại hỏi quản tượng:
– Như tâm dục này ai có thể điều phục?
Bấy giờ có Thiên thần cảm ngộ quản tượng khiến đáp lời vua:
– Tâu bệ hạ, Đức Phật có thể điều phục việc đó. Vua nghe nói thế, bèn phát tâm nói:
– Giống như keo dính pháp khó điều phục, chỉ Phật có thể trừ. Vua liền tự thệ nguyện, nguyện cầu làm Phật, tinh cần trải qua nhiều kiếp chưa từng ngừng nghỉ, cho đến ngày nay được quả báo như thế ấy.
Nói đến đây, Đức Phật bảo:
– Này A-nan, vị đại quốc vương thuở đó chính là tiền thân của Ta.
Bấy giờ người trong chúng hội nghe Đức Phật nói về tiền kiếp đều phát tâm Vô thượng chánh chân, vui mừng không gì bằng, đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một lúc nọ Đức Phật ở nước Ca-tỳ-la-vệ, tại Tăng-già-lam Ni-câu-lư-đà.
Bấy giờ dòng họ Thích trông thấy Thế Tôn quang minh thần biến, hiển dương diệu pháp rất là đặc biệt, đường đường chính chính không ai có thể bì kịp. Họ lại khen ngợi nhóm ông Kiều-trần-như đời trước có duyên phước gì mà Đức Như Lai ra đời gióng pháp cổ lần đầu tiên, họ được nghe trước nhất; cam lộ vừa rơi xuống thì họ được thấm nhuần ân trạch, xa lìa cấu uế đạt được tâm thể huyền yếu; trong thành đến thôn ấp, đồng khen ngợi vô lượng. Bấy giờ chư Tỳ-kheo nghe việc như thế rồi đi đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, nay nhân dân trong nước này cùng tụ tập, khác miệng đồng lời khen ngợi Thế Tôn và khen nhóm ông Kiều-trần-như đời trước có phúc duyên gì mà được độ riêng trước.
Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
– Chẳng những đời này năm người này được riêng độ trước, ở kiếp lâu xa về trước Ta cũng từng cứu giúp những người này, dùng thân làm thuyền cứu họ ra khỏi chết đắm, an toàn mạng sống đều được an ổn đến bờ bên kia. Nay Ta thành Phật, cũng trước tiên tế độ bọn họ.
Bấy giờ chư Tỳ-kheo liền bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, trước kia Ngài cứu tế họ như thế nào khiến họ được an ổn, cúi mong Thế Tôn hãy vì chúng con mà nói lại, để chúng con được biết?
Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
Nếu muốn thích nghe Ta sẽ vì các ông mà nói.
Đáp:
– Dạ vâng!
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Vào thời quá khứ lâu xa, ở châu Diêm-phù- đề này có một nước tên Ba-la-nại, quốc vương nước đó tên Phạm-ma-đạt.
Lúc ấy, trong nước có một nhà buôn tên Lặc- na-xà-da, một hôm ông đi ra ngoài thành dạo chơi, đến khu rừng cây thì gặp một người đang ngồi khóc lóc thảm thiết, người này định dùng dây thòng lọng treo cổ tự tử. Ông bèn đi đến trước người ấy hỏi:
– Anh làm gì vậy? Thân người khó được, còn mạng sống lại nguy ách suy biến vô số.
Ông dùng các thứ ví dụ khiến cho người đó cởi dây ra. Người đó nói:
– Tôi bạc phước, nghèo khổ quá, thiếu nợ chồng chất, hết phương kế sống. Chủ nợ tranh nhau đến đòi, ngày đêm thúc giục, tâm buồn rầu không yên, trời đất tuy rộng nhưng không có chỗ dung thân. Nay muốn tự vận để tránh khỏi cái khổ này.
Bấy giờ nhà buôn liền nói:
– Anh hãy cởi dây ra, thiếu nợ bao nhiêu, tôi sẽ thay anh trả hết.
Lặc-na-xà-da nói như thế rồi người đó mới chịu thôi, vui mừng và cảm ân không cùng, rồi đi theo nhà buôn vào trong chợ tuyên bố cho mọi người nghe rằng là sẽ trả nợ hết. Khi ấy các chủ nợ tranh nhau tụ tập đến đòi nợ, người đến đông vô hạn, của cải sắp hết, mà người ta vẫn còn đến đòi, nợ trả mãi không hết, cho đến vợ con phải đi ăn xin, thân thuộc bà con đều ghét trách: “Đây là một người chồng điên, tự phá gia nghiệp.” Lúc đó có các thương gia khuyên rủ cùng đi biển buôn bán, ông liền nói:
– Theo pháp nhà buôn, muốn đi thì phải làm thuyền tốt, nay tôi nghèo khốn, không còn của cải gì, làm sao mà đi được?
Mọi người nói:
– Chúng tôi cả thảy năm trăm người, vui lòng bỏ ra tiền để làm thuyền mới.
Nghe vậy ông bèn nhận lời. Mọi người hợp lại được một số tiền lớn. Khi ấy thương gia Lặc-na- xà-da dùng ba ngàn lượng vàng, một ngàn lượng để làm thuyền, một ngàn lượng mua lương thực, còn một ngàn lượng đem theo để tiện khi dùng đến, còn dư ra đem cho vợ con sinh sống. Họ bèn đến bờ biển, làm một chiếc thuyền to, có bảy lớp ván, làm thuyền xong xuôi đẩy thuyền xuống nước, dùng bảy sợi dây lớn buộc neo trên bờ, dùng chiếc linh vàng phát lệnh cho tất cả mọi người:
– Ai muốn đi biển tìm của báu quý lạ, được nhiều vật dụng xài hoài không hết, nay có thể tụ tập cùng đi đến chỗ có của báu. Ai không quyến luyến cha mẹ, vợ con và thân mạng thì có thể đi. Tại vì sao? Vì đi ra biển có rất nhiều nạn nguy hiểm, nào là sóng to gió lớn, cá to, ác quỉ, các thứ như thế trình bày không thể hết.
Nói xong ông liền cắt đứt một sợi dây, hằng ngày đều làm như vậy, đến ngày thứ bảy cắt đứt sợi dây cuối cùng, thuyền trương buồm lướt gió ra khơi. Đi được giữa đường bỗng gặp một trận gió to đập nát con thuyền, mọi người hô cứu nạn, không chỗ nương tựa, hy vọng nắm được tấm ván nổi để tự độ, có người rơi xuống nước chết chìm, trong đó có năm người cùng thưa với thương gia Lặc-na-xà-da:
– Chúng tôi theo ông đến đây nay sắp bị chết chìm, nguy hiểm đến nơi, mong ông cứu giúp.
Người thương buôn nói:
– Tôi nghe nói biển cả không bao giờ chứa tử thi, bây giờ các ông nắm lấy tôi, vì các ông tôi sẽ tự sát để cứu nguy vậy. Nguyện đem việc cứu giúp này để cầu làm Phật. Sau khi thành Phật, sẽ dùng thuyền Vô thượng chánh pháp độ các ông qua khỏi biển khổ sinh tử.
Nói xong ông dùng dao tự sát. Sau khi đoạn mạng thì Hải thần nổi gió thổi giạt vào bờ, đều được an ổn.
Nói đến đây Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
– Các ông nên biết, Lặc-na-xà-da thuở đó chính là tiền thân của Ta. Năm người bám xác chết được vào bờ là bọn ông Câu-lân. Ở đời trước Ta cứu giúp họ vượt khỏi sinh tử, nay được thành Phật, khiến họ năm người được nghe Chánh pháp vô lậu đầu tiên, xa lìa dòng kết sử lâu dài nơi biển lớn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo đều cùng khen ngợi Đức Như Lai đại bi thâm diệu khó lường ai nấy đều gắng sức tiến tu, nghe Đức Phật nói đều vui vẻ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một thuở nọ Đức Phật ở trong khu vườn Trúc, tại nước Ma-kiệt-đà. Khi ấy Đức Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đi hướng về nước Tỳ-xá-ly đến bờ sông Lê-việt. Lúc đó bên bờ sông có năm trăm người chăn trâu và năm trăm người bắt cá, những người bắt cá này họ dùng ba thứ lưới, lớn nhỏ không đồng, thứ lưới nhỏ có hai trăm người kéo, thứ lưới vừa có ba trăm người kéo, thứ lưới lớn có năm trăm người kéo. Khi ấy Đức Như Lai và các Tỳ-kheo ở cách bờ sông không xa mấy đang ngồi nghỉ ngơi, trông thấy những người đánh cá lưới được một con cá lớn năm trăm người kéo mà kéo không nổi. Họ lại kêu năm trăm người chăn trâu, hợp lại là một ngàn người ra hết sức kéo lên được một con cá thật lớn có một trăm đầu, nào là đầu lừa, ngựa, lạc đà, cọp, sói, heo, chó, khỉ, hồ ly và đủ các loại như vậy. Mọi người xem thấy rất kỳ quái họ tranh nhau đến xem. Lúc đó Đức Thế Tôn bảo ngài A-nan:
– Ở đằng kia có việc gì mà mọi người đều tụ tập vậy? Ông hãy đi đến đó xem thử.
A-nan vâng lời liền đi đến đó trông thấy một con cá thật lớn trên mình có cả thảy một trăm đầu, trở về bạch lại với Thế Tôn như đã trông thấy. Đức Thế Tôn lúc đó cùng các Tỳ-kheo đi đến chỗ con cá, hỏi nó:
– Ngươi có phải là Ca-tỳ-lê không?
Con cá đáp:
– Dạ phải!
Đức Thế Tôn trịnh trọng hỏi ba câu:
– Người là Ca-tỳ-lê chăng? Đáp:
– Đúng vậy! Lại hỏi:
– Kiếp sau biết về đâu không? Đáp:
– Đọa trong địa ngục A-tỳ.
Bấy giờ ngài A-nan cùng đại chúng không biết duyên kiếp con cá như thế nào, bạch Thế Tôn:
– Bạch Đức Thế Tôn, tại sao Ngài gọi con cá trăm đầu này là Ca-tỳ-lê? Cúi mong Thế Tôn thương xót, chỉ bày cho chúng con được rõ.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe. Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Trước đây, vào thời Đức Phật Ca-diếp có một vị Bà-la-môn sinh được một cậu con trai đặt tên là Ca-tỳ-lê (Tần dịch là Hoàng Đầu). Cậu này thông minh tài trí, đối với các hàng đa văn thời đó thì cậu ta giỏi nhất chỉ có kém hơn các hàng Sa- môn. Khi cha cậu sắp chết, ông ân cần dặn dò anh ta:
– Con nên cẩn thận chớ cùng các vị Sa-môn đệ tử của Phật Ca-diếp tranh luận đạo lý. Tại vì sao?
Vì các Sa-môn trí tuệ sâu xa, chắc chắn con không bằng họ.
Sau khi người cha chết, mẹ anh ta hỏi:
Con vốn là người cao minh, có người nào hơn con không?
Đáp:
– Có các Sa-môn hơn con. Người mẹ lại hỏi:
– Tại sao hơn? Hơn con như thế nào? Đáp:
Vì con có chỗ nào nghi ngờ đều phải đến hỏi các Sa-môn, họ diễn thuyết rõ ràng khiến người ta rất dễ hiểu, ngược lại nếu các vị hỏi con thì con không thể giải đáp. Vì thế cho nên con tự biết không bằng họ.
Người mẹ lại nói:
– Tại sao con không đi học hỏi phương pháp ấy?
Đáp:
– Muốn học phương pháp ấy phải làm Sa-môn.
Con là bạch y thế tục làm sao học được?
Người mẹ lại nói:
– Con giả làm Sa-môn, học hành thông đạt rồi thì trở về nhà.
Nghe lời bà mẹ dạy, cậu ta giả làm một Sa- môn, trải qua một thời gian thì thông suốt Tam tạng, thấu rõ nghĩa lý. Người mẹ đến hỏi:
– Nay con học giỏi hơn các vị Sa-môn chưa? Đáp:
– Về học vấn con hơn nhưng về tọa thiền con không bằng.
Người mẹ nói:
– Tại sao con biết kém hơn họ? Đáp:
– Vì con hỏi, họ đều có thể phân biệt rành rõ, họ hỏi lại con, con không thể biết. Vì thế con biết là chưa bằng họ được.
Người mẹ lại bảo:
– Từ nay trở đi nếu con cùng họ đàm luận, nếu như bị thua thì con hãy mắng chửi họ, sĩ nhục họ.
Ca-tỳ-lê nói:
– Vị Sa-môn xuất gia, không có tội gì cả, tại sao phải mắng họ?
Đáp:
– Chỉ có mắng chửi thì con sẽ được thắng.
Bấy giờ Ca-tỳ-lê không nỡ trái lời người mẹ, nên sau này khi tranh luận bị bẻ gãy lý thì Ca-tỳ-lê liền chửi mắng:
– Các ông là người ngu si, không biết gì cả, các ông là loài súc sinh đâu có biết gì.
Rồi cậu dùng các loài thú để ví dụ mà chửi các Sa-môn, chửi như vậy vô số. Do duyên đó nay thọ quả báo mang thân cá mà có cả trăm đầu thú.
Ngài A-nan hỏi Đức Phật:
– Đến bao giờ Ca-tỳ-lê mới thoát khỏi thân cá, thưa Thế Tôn?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, trong hiền kiếp này, một ngàn vị Phật ra đời, vị ấy cũng chưa thoát khỏi thân cá.
Khi đó A-nan và cả đại chúng nghe Đức Phật nói đều rùng mình kinh hãi, đau buồn thương xót đồng thanh nói:
– Nghiệp thân, khẩu, ý không thể không cẩn thận.
Lúc đó những người bắt cá và những người chăn trâu cùng chắp tay hướng về Đức Phật cầu xin xuất gia tịnh tu phạm hạnh. Đức Phật liền hứa nhận nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc của họ tự rụng, y phục mặc trên mình, trở thành Sa-môn. Lúc đó Đức Thế Tôn thuyết các Diệu pháp, họ dứt lậu, sạch kết sử chứng quả A-la- hán. Đức Phật lại vì chúng hội rộng nói các pháp; phân biệt về Tứ diệu đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Có người nghe xong đắc được Sơ quả đến Tứ quả, có người phát tâm hướng về đạo Vô thượng, số ấy rất nhiều. Bấy giờ bốn chúng nghe Đức Phật nói rồi vui vẻ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Quốc vương lúc bấy giờ là vua Ba-tư-nặc, dưới triều có một quan phụ tướng rất thông minh lại giàu có, vợ của vị quan ấy mang thai sinh được một đứa con trai, tướng mạo khôi ngô hình dung đoan chánh lạ thường. Khi ấy quan phụ tướng rất vui mừng liền mời thầy về xem tướng. Thầy tướng trông thấy đứa bé liền nói:
– Phước tướng đứa trẻ này rất đặc biệt trong nhân gian, nó thông minh trí tuệ hơn người. Người cha nghe nói vui mừng, nhờ thầy tướng đặt tên. Thầy tướng hỏi:
Từ khi mang thai đứa trẻ này có điềm lạ gì không?
Quan phụ tướng đáp:
Bà nhà tôi tánh tình không hiền lành, nhưng từ khi mang thai đến nay tánh tình thay đổi lạ thường, tâm tánh cung kính thuận hòa, vui vẻ nhân đức, thương xót người nghèo khổ, không thích nói lỗi người khác.
Thầy tướng nói:
– Đây là ý chí của đứa bé.
Ông liền đặt tên là A-giác-tặc-kỳ (Tần dịch là
Vô Não).
Đứa bé ngày một lớn lên mạnh khỏe vô cùng, sức khỏe như một lực sĩ, có thể một mình địch nổi ngàn người, chạy nhanh như ngựa, người cha rất yêu mến. Khi đó trong nước có một vị Bà-la-môn thông minh học rộng nghe nhiều, có năm trăm người đệ tử theo học. Quan phụ tướng cũng dẫn đứa con trai mình theo học vị ấy, vị Bà-la-môn thu nhận truyền dạy. Vô Não đêm ngày siêng năng học tập, một ngày tiếp thu bàn bạc hơn học trọn năm. Học hành chưa bao lâu thì thông đạt tất cả. Người thầy Bà-la-môn đối đãi đặc biệt, đi đâu cũng cho theo, các bạn đồng học rất là kính nể. Khi đó vợ của vị Bà-la-môn, trông thấy Vô Não tướng mạo đẹp đẽ khôi ngô, tài năng vượt hơn người, ôm lòng thương mến say đắm, nhưng các đệ tử thường cùng thầy Bà-la-môn đi lại, không lúc nào sống một mình nên bà không có dịp nói chuyện tỏ bày tâm sự, thường than thở lo buồn. Bỗng một hôm có một thí chủ đến thỉnh thầy Bà-la-môn và các đệ tử thọ cúng ba tháng. Thầy Bà-la-môn vào trong cùng vợ bàn bạc:
– Nay ta được người thỉnh mời đi ba tháng, vậy nên để lại một người đệ tử để phụ giúp việc nhà.
Khi đó người vợ mừng thầm toan tính trong lòng, thưa thầy Bà-la-môn rằng:
– Sự việc phải như vậy, việc nhà cũng nhiều, nên cần người có tài năng, có thể để lại Vô Não.
Sau khi dặn dò mọi việc xong, thầy Bà-la-môn bảo Vô Não:
– Nay ta nhận lời mời của thí chủ phải đi, việc nhà rất nhiều, cần người lo liệu, con có tài năng, vì ta ở lại đảm trách việc ấy.
Vô Não thọ giáo liền ở lại không đi. Thầy Bà- la-môn cùng đồ chúng lên đường ra đi. Bà vợ vui mừng vô cùng, tự trang điểm rất đẹp, tỏ vẻ chuyện trò ẻo lả làm cho động lòng Vô Não. Nhưng Vô Não kiên chí vô tâm không để ý. Bà vợ do lòng dục mãnh liệt nên nói thật với Vô Não:
– Ta đem lòng yêu mến từ lâu, nhưng vì đồ chúng đông đảo nên chưa tỏ bày được. Nay thầy chàng đi rồi, nên ta có ý giữ chàng lại, giờ đây một mình yên tĩnh, hãy nên chìu theo ý ta.
Vô Não hiểu ra liền nói:
Theo pháp Phạm chí nhà ta, không dâm dục vợ của thầy, nếu trái phạm thì chẳng phải là Bà-la- môn, thà chọn lấy sự chết, chứ không làm việc này. Lúc bấy giờ vợ thầy Bà-la-môn thấy nghịch ý mình, xấu hổ sân hận, lại toan mật kế, đợi ngày thầy Bà-la-môn trở về, tự xé rách áo, cào rách mặt mày, nằm phơi dưới đất, mình dính bụi bặm, không nói không rằng. Khi đó thầy Bà-la-môn cùng các đệ tử về đến, vào nhà ông thấy sắc trạng vợ như thế liền hỏi nguyên do vì sao. Bà vợ khóc lóc nói:
– Không nên hỏi vậy!
Lúc đó vị Bà-la-môn càng hỏi thêm nữa:
– Bà có chuyện gì hãy nói cùng tôi, tại sao không chịu nói?
Người vợ khóc mà nói:
– Vô Não đệ tử của ông, từ sau khi ông đi rồi, thường hay xâm phạm thân em, em không chìu theo ý, nó xé rách áo và làm cho đầu mặt em rách nát. Thằng đệ tử của ông nuôi, tại sao mà làm như vậy hả?
Vị Bà-la-môn nghe xong rất là phẫn hận, nói với vợ:
– Thằng Vô Não này sức lực một mình có thể địch ngàn người, lại là con của quan phụ tướng dòng tộc tôn quý thế lực, dù muốn trị nó, phải nên từ từ bàn mưu tính kế mới được.
Sau khi tính xong xuôi, ông đi gặp Vô Não, tùy phương tiện an ủi dụ rằng:
Sau khi ta đi một thời gian, con ở nhà gánh vác công việc cực nhọc, lại hết lòng trung thành, vì cảm thấy tấm lòng con như thế, ta muốn đáp lại. Ta có một bí pháp, từ xưa đến nay chưa nó, nếu thực hành thành công thì sinh được lên cõi trời Phạm thiên.
Vô Não quỳ xuống thưa:
– Thưa thầy, bí pháp đó như thế nào? Đáp:
– Nếu trong vòng bảy ngày chém đầu một ngàn người, lấy mỗi người một ngón tay, dùng một ngàn lóng tay ấy xỏ xâu đeo cổ, thì sau khi mạng chung chắc chắn sinh lên cõi Phạm thiên.
Vô Não nghe việc ấy hãy còn hồ nghi do dự, mới thưa với thầy:
– Việc này không nên. Tại sao giết hại chúng sinh mà được sinh lên cõi Phạm thiên?
Người thầy nói:
– Con là đệ tử ta, há không tin ta nói những lời thiết yếu sao? Nếu không tin thì đoạn tuyệt tình nghĩa vậy, tùy con muốn đi đâu thì đi đừng ở lại đây nữa.
Nói rồi thầy Bà-la-môn trì chú, đem cây đao để dưới đất, đọc chú xong, tâm ác của Vô Não sinh khởi. Thầy Bà-la-môn biết được trong tâm ý Vô Não, bèn trao cho cây đao, chàng cầm đao đi ra ngoài đường gặp người thì giết ngay để lấy lóng tay xỏ xâu đeo, người ta trông thấy bèn gọi là Ương-cừu-ma-la (Tần dịch là Chỉ Man). Ương- cừu-ma-la đi khắp nơi giết người chặt lấy trong bảy ngày được chín trăm chín mươi chín lóng tay, còn thiếu một lóng, nếu giết thêm được một người thì số lóng tay đầy đủ. Lúc đó người ta đều lẩn trốn ít ai dám đi ra đường, chàng ta đi khắp nơi tìm kiếm lại càng không gặp. Trong bảy ngày ấy chàng không được ăn uống, bà mẹ thương xót con sai người đi tìm kiếm, họ đều sợ sệt không dám đi. Bà mẹ bèn cầm thức ăn đích thân đi tìm con. Từ xa chàng ta trông thấy mẹ chạy đến định giết, lúc đó bà mẹ nói:
– Đồ con vật bất hiếu, tại sao dám ôm lòng ngỗ nghịch muốn giết hại ta.
Vô Não nói:
– Con được thầy truyền dạy trong vòng bảy ngày lấy được một ngàn lóng tay thì sẽ được sinh lên cõi Phạm thiên. Số ngày đã mãn mà chỉ số vẫn chưa đủ, sự việc chắc sắp hỏng rồi, nên con muốn giết mẹ.
Bà mẹ lại nói:
Giả sử có sự việc như vậy thì chỉ chặt lấy lóng tay ta, chớ làm sao lại giết cả thân ta?
Lúc đó Đức Thế Tôn ở xa nhìn thấy biết hết mọi việc và biết chàng Vô Não có thể độ được, bèn hóa làm một vị Tỳ-kheo, đi bộ ngoài đường. Ương- cừu-ma-la trông thấy vị Tỳ-kheo liền bỏ ý định chặt lóng tay mẹ mà đuổi theo vị Tỳ-kheo để giết. Đức Phật thấy chàng chạy gần đến thì dùng thần lực đi nhanh hơn để chàng chạy theo không kịp.
Ương-cừu-ma-la bèn hô to:
– Tỳ-kheo hãy dừng lại một chút! Đức Phật đáp:
– Ta thường tự đứng, chỉ có ngươi là không đứng thôi.
Ương-cừu-ma-la lại hỏi:
– Tại sao ông đứng mà ta không đứng? Đức Phật liền đáp:
– Các căn Ta tịch định mà được tự tại, còn ngươi theo thầy ác, thọ học tà giáo điên đảo thay đổi tâm ngươi không được định trụ, ngày đêm giết hại tạo vô biên tội.
Chàng ta nghe xong tâm liền tỉnh ngộ, buông đao từ xa đảnh lễ Thế Tôn. Lúc đó Như Lai đợi chàng chạy đến, hiện trở lại thân Phật, quang minh sáng rực như mặt trời, ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm. Vô Não trông thấy Phật hào quang rực sáng uy nghi đường bệ, dập đầu xuống đất hối lỗi tự trách. Đức Phật bèn thuyết pháp cho chàng nghe. Nghe xong chàng được pháp nhãn tịnh, lòng tin thuần nhất, cầu xin xuất gia. Đức Phật hứa khả, bảo:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc của Vô Não tự rơi rụng, pháp y mặc trên mình. Đức Phật lại giảng thuyết thêm thì tâm cấu của chàng đều dứt sạch, chứng quả A-la-hán.
Đức Phật dẫn chàng về tinh xá Kỳ hoàn. Bấy giờ nhân dân trong nước nghe tiếng tăm của Vô Não đều rất kinh sợ. Người và súc vật mang thai, sợ hãi không sinh ra được. Khi đó có một con voi, không thể sinh con ra được. Đức Phật bảo Vô Não đến đó thành thật nói rằng:
– Ta từ khi sinh ra đến nay không giết hại một người.
Vô Não thưa Phật:
– Con từ nào đến giờ giết rất nhiều, tại sao nói không giết hại?
Đức Phật nói:
– Ở trong Thánh pháp ngươi là mới sinh ra. Bấy giờ Vô Não bèn chỉnh y phục, vâng lời
Đức Phật đi đến đó y như lời Phật dạy mà nói, con voi tức thời sinh được an ổn. Chàng trở về tinh xá, ngồi trong một gian phòng.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc tập hợp binh lính, đích thân tìm đến hỏi tội Ương-cừu-ma-la, đi thẳng đến tinh xá Kỳ hoàn để công kích. Khi đó trong tinh xá Kỳ hoàn có một Tỳ-kheo hình tướng xấu xí mà có âm thanh hay vô cùng, xướng lên tụng kinh âm thanh vang xa quân lính lắng tai nghe hoài không biết chán. Voi ngựa vảnh tai nghe, đứng hoài không chịu đi, vua ngạc nhiên hỏi quan lính hầu tại sao thế. Quân lính hầu thưa:
– Tâu bệ hạ, do tiếng tụng kinh khiến voi ngựa đứng lại không chịu đi.
Vua nói:
Súc sinh mà còn ham thích nghe kinh pháp, chúng ta loài người tại sao không đi đến đó nghe? Vua liền cùng quân lính đi đến tinh xá Kỳ hoàn, xuống ngựa cởi kiếm đi thẳng đến chỗ Phật ngự kính lễ thăm hỏi:
– Bạch Thế Tôn, vừa rồi con có nghe tiếng một vị Tỳ-kheo tụng kinh âm thanh trong trẻo vang xa, nghe tiếng tụng kinh rất là khâm phục ngưỡng mộ, xin cho con được gặp mặt và con xin cúng thí cho vị ấy mười vạn tiền.
Đức Phật bảo:
– Trước tiên bệ hạ hãy cho tiền rồi sau đó hãy gặp vị ấy. Vì sao? Vì nếu gặp vị ấy trước rồi thì tâm bệ hạ không muốn cho một đồng tiền nào cả, vì hình tướng vị ấy xấu xí, không ai muốn nhìn thấy và không muốn cho tiền.
Vua từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ xuống bạch:
– Bạch Thế Tôn, vị Tỳ-kheo này hình dung rất là xấu xí, mà tiếng tụng niệm vang xa nghe thật hay, không biết duyên đời trước như thế nào mà được báo như vậy?
Đức Phật bảo vua:
– Bệ hạ hãy để tâm lắng nghe Ta sẽ nói về tiền kiếp.
Trong kiếp quá khứ có Đức Phật hiệu là Ca- diếp, sau khi hóa độ chúng sinh bèn nhập Niết-bàn.
Lúc đó quốc vương đang trị vì thiên hạ tên Cơ-ly- tỳ, làm lễ hỏa thiêu thu lấy xá-lợi muốn dựng tháp thờ. Bấy giờ có bốn Long vương hóa làm hình người, đến gặp vua Cơ-ly-tỳ, hỏi về công trình xây tháp, làm bằng báu vật hay làm bằng đất. Vua liền nói:
– Muốn làm cái tháp to này không có nhiều vật báu, nay muốn làm bằng đất, vuông năm dặm, cao hai mươi lăm dặm, thật cao để mọi người trông thấy.
Long vương nói:
– Chúng tôi chẳng phải là người, đều là Long vương, nghe vua làm tháp mới đi đến thăm hỏi. Nếu như muốn dùng của báu thì chúng tôi sẽ giúp đỡ.
Vua rất vui mừng. Long vương liền nói:
Ngoài bốn cổng thành có bốn dòng suối lớn. Dòng suối thành cửa Đông lấy đất dưới đáy suối xây dựng, sau khi xây xong nó sẽ là lưu ly xanh cam. Suối thành cửa Nam dùng đất dưới đáy làm gạch xây xong nó sẽ là vàng ròng. Đất dưới dòng suối thành cửa Tây, lấy làm gạch xây xong nó sẽ biến thành bạc trắng. Đất dưới suối thành cửa Bắc lấy làm gạch, sau khi xây xong nó sẽ là bạch ngọc. Vua nghe xong vô cùng vui mừng, liền sai bốn người trông coi, mỗi người quản lý một mặt, ba mặt công tác sắp hoàn thành, riêng một mặt người trông coi lười biếng làm không xong. Vua đến xem thấy thế quở trách:
– Khanh không dụng tâm, không hết lòng công tác, trẫm sẽ phạt tội.
Người đó ôm lòng oán hận bèn tâu vua:
Do tháp này quá lớn biết bao giờ hoàn thành. Sau khi vua đi rồi, vị ấy liền sai mọi người làm việc ngày đêm không ngừng, chẳng mấy chốc thì xong. Tòa tháp cao đẹp vô cùng, các châu báu sáng trưng, trang hoàng cực kỳ lạ đẹp, ai thấy đều cũng vui mừng. Để sám hối lỗi trước bê trễ, người ấy cầm một cái linh vàng treo ở tháp đập vào đầu mình một cái tự nguyện:
– Xin nguyện kiếp sau con sinh ra đời được âm thanh thật hay, tất cả chúng sinh nghe tiếng, không ai không tham thích nghe. Sau này có Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời, khiến cho con được gặp và được Ngài độ thoát sinh tử.
Nói đến đây, Đức Phật gọi:
– Đại vương, vị quan trông coi công trình chậm chạp làm đại tháp kia, nay chính là vị Tỳ-kheo này vậy. Do duyên phiền trách cái tháp lớn, trong năm trăm kiếp sinh ra thường mang thân hình xấu xí. May sao ông ta vui mừng dùng cái linh đánh vào đầu và cầu nguyện được tiếng tốt và nguyện gặp Ta nên trong năm trăm đời được tiếng rất hay, nay lại gặp Ta được độ giải thoát.
Vua nghe rồi bèn từ tạ muốn ra về. Đức Phật hỏi:
– Đại vương muốn đi đâu nữa? Vua bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, trong nước có giặc cướp tên Ương-cừu-ma-la giết hại nhân dân, tung hoành bạo hại, nay trẫm đem binh lính vây bắt hắn lại.
Đức Phật bảo vua:
– Ương-cừu-ma-la hiện nay con kiến còn không giết huống nữa là giết vật khác.
Vua tự nghĩ: “Có lẽ Thế Tôn đã đến hàng phục hắn rồi chăng.” Đức Phật bảo:
– Đại vương, Vô Não nay đã xuất gia nhập đạo đắc quả A-la-hán, đoạn dứt hẳn các việc ác, hiện đang ở trong phòng đó. Đại vương có muốn gặp không?
Vua thưa:
– Con muốn gặp.
Vua liền đi đến đứng bên ngoài phòng. Nghe Tỳ-kheo Vô Não đang ho, vua nhớ lại ông hung ác giết người chặt lấy lóng tay khắp nơi việc ấy qua rồi, nay sinh vào nơi chỗ Phật. Vua đem việc ấy thưa với Phật. Đức Phật bảo:
Đại vương, không chỉ đời này nghe tiếng ông ta không bị đọa địa ngục mà đời sau cũng dứt tuyệt đọa địa ngục. Đại vương hãy lắng nghe, thời quá khứ lâu xa, ở châu Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên Ba-la-nại. Bấy giờ, trong nước có một con chim độc, thường bắt các côn trùng độc để ăn, nên thân nó cực độc không thể đụng chạm được, người đụng đến nó phải chết, cây đụng thì chết khô. Khi đó con chim này gặp một khu rừng, đậu trên một cội đại thọ, khằng khặc muốn kêu. Trong khu rừng đó có một bạch tượng vương đang đứng dưới gốc cây, nghe tiếng con chim độc, đứng im dưới đất không dám nhúc nhích. Đại vương nên biết, con chim độc lúc bấy giờ chính là tiền thân của Vô Não ngày nay vậy, còn bạch tượng vương là tiền thân của đại vương đó.
Vua lại bạch Đức Phật:
– Ương-cừu-ma-la hung bạo giết người nhiều như vậy, nay nhờ đến Thế Tôn hàng hóa tu thiện. Vì sao được duyên phước như vậy?
Đức Phật bảo vua:
– Ương-cừu-ma-la không chỉ đời này giết nhiều người nhờ Ta hàng hóa, mà ở thời quá khứ ông ta cũng giết nhiều người như vậy, Ta cũng hàng hóa ông ta, rồi hắn suy nghĩ làm việc thiện.
Vua lại bạch Đức Phật:
– Đời trước hắn hại người ta, được Thế Tôn hàng phục hóa độ, việc ấy như thế nào? Xin Thế Tôn giải nói cho chúng con được nghe.
Đức Phật nói:
Đại vương, hãy lắng nghe! Về quá khứ lâu xa cách đây vô số kiếp a-tăng-kỳ, ở Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên Ba-la-nại, quốc vương lúc bấy giờ tên Ba-la-ma-đạt. Khi đó quốc vương đem bốn loại binh vào trong núi rừng săn bắn, vua kéo quân đến một cái đầm rượt đuổi cầm thú, chỉ còn một mình chạy vào rừng sâu. Lúc ấy vua rất mệt, xuống ngựa ngồi nghỉ. Khi đó, ở trong rừng có một con sư tử cái, tới thời kỳ phát dục, chạy đi kiếm đực. Kiếm mãi mà không gặp con sư tử nào, bỗng gặp ông vua đang ngồi nghỉ, nó khởi lòng dâm dục rất mạnh, muốn cùng ông vua giao dâm, nó đi đến gần bên vua, nhỏng đuôi đưa đít đứng chờ. Vua biết ý nó, nhưng lại tự nghĩ: “Đây là loài thú dữ, sức mạnh có thể giết ta, nếu không chìu theo ý nó, sợ e nó hại chết.” Vì thế chìu theo sư tử, hành dục xong rồi sư tử bèn bỏ đi. Lúc đó các binh lính rượt theo cũng vừa chạy đến, vua cùng binh lính kéo về hoàng cung. Bấy giờ con sư tử cái ấy thọ thai, mãn tháng nó sinh được một đứa con, hình thể rất giống người, chỉ là có vằn trên mình. Sư tử biết là có con với vua bèn ngậm đứa con tìm đến trước vua. Vua suy nghĩ nhớ lại việc lúc trước biết là con mình, liền nhận lấy nuôi dưỡng, do cặp chân có rằn ri nên đặt tên nó là Ca-ma-sa-ba-đà (Tần dịch là Bác Túc). Nuôi nó dần dần lớn lên, rất có tài năng và sức mạnh, sau khi vua băng hà Bác Túc có hai bà phu nhân, một người dòng Sát-đế-lợi, còn một người là dòng Bà-la-môn.
Một ngày nọ vua Bác Túc đi ra ngoài thành dạo vườn hoa xem cảnh, ra lệnh hai phu nhân đi theo sau. Vua nói:
– Ai đi đến trước thì ngày hôm ấy cùng ta vui vẻ, còn ai đến sau thì ta không tìm kiếm đâu.
Sau khi vua đi rồi, hai vị phu nhân trang điểm rất đẹp, lên xe cùng đi. Được nửa đường thì trông thấy Thiên tự, vị phu nhân dòng Bà-la-môn xuống xe làm lễ, lễ xong vội vã đi, đành phải tới sau. Vua y theo lời hứa, trách vị phu nhân ấy. Lúc ấy phu nhân dòng Bà-la-môn phiền não sân giận oán trách Thiên thần:
– Vì tôi bận lễ lạy ông khiến vua coi thường, nếu ông có sức trời, tại sao không giúp tôi.
Phiền não sân giận bà tự ngầm tính kế. Sau khi vua trở về cung, bà càng thêm hầu hạ lo lắng, theo vua cầu xin rằng:
– Thiếp nghe nói trong nước chàng có một ngôi Thiên miếu mỗi ngày càng phóng túng, đại vương cần lưu ý cẩn thận!
Vua liền nghe theo, ra ngoài sai người đập phá Thiên tự như đất bằng, rồi trở về trong cung. Thần giữ miếu buồn rầu khổ não, đi vào trong cung muốn làm thương tổn cung vua, Thiên thần ngăn cản không cho vào. Có một Tiên nhân ở trong núi Tiên, vua Bác Túc lúc đó thường đến cúng dường. Hằng ngày đến giờ ăn thì vị Tiên bay vào cung không thích ăn thức ăn ngon, chỉ thích dùng những thứ thô sơ. Bỗng một hôm Tiên nhân không đến, Thiên thần biết được hóa làm hình vị Tiên ấy để đi vào cung, thần giữ cung cũng biết được không cho vào, bèn đứng từ xa ngoài cổng tâu vua. Vua nghe Tiên nhân đang ở ngoài, trách người giữ cổng, vội ra lệnh mời vào. Khi đó thần giữ cung nghe có lệnh vua nên không ngăn cản. Vị ấy bèn đi thẳng vào, đến ngồi chỗ Tiên nhân thường ngồi. Vua sai dọn thức ăn như thường khi cúng dường, lúc đó hóa Tiên nhân, không chịu ăn, mà nói với vua:
– Đây là thức ăn thô xấu, lại không có thịt cá, làm sao có thể ăn.
Vua bèn tâu:
– Đại Tiên từ trước đến nay, thường dùng thanh khiết, cho nên không sai người làm thịt cá dọn lên.
Hóa Tiên nhân lại bảo:
– Từ đây về sau, chớ có bày thức ăn thô sơ nữa hãy dọn thịt ta ăn.
Y như lời, vua bèn dọn đầy đủ thức ăn ngon, ăn xong hóa Tiên đi về. Ngày mai vị Tiên cũ bay đến, vua sai dọn các thức ăn thịt cá ngon lạ, Tiên nhân nổi giận oán trách nhà vua. Vua nói:
– Hôm qua đại Tiên vừa bảo như vậy!
Tiên nhân nói: “Hôm qua ta có việc, không ăn một ngày, không có đến đây. Ai nói với các ngươi, chỉ do các ngươi coi thường ta, nên mới làm như vậy”, bèn khiến nhà vua trong mười hai năm phải ăn thịt người. Nói xong Tiên nhân bay về trong núi. Từ đó về sau nhà vua cứ ăn thịt người. Một hôm quan coi nhà bếp quên không làm thịt người, sắp đến giờ ăn không biết tính thế nào, bèn đi ra ngoài thành kiếm thịt, thì thấy một đứa con nít mập mạp bị chết nằm trên mặt đất, ông bèn vội vã gánh đem về trong nhà bếp, thêm các gia vị thật ngon làm thức ăn cho vua. Hôm ấy vua ăn rồi cảm thấy ngon gấp bội bình thường, liền hỏi viên quan coi nhà bếp:
– Từ trước đến nay trẫm ăn thịt, chưa có thứ thịt nào ngon như thịt này. Đấy là thịt gì?
Quan coi bếp hoảng sợ, dập đầu trước nhà vua, xin vua tha tội mới dám nói ra. Vua nói:
– Cứ nói thật, trẫm không hỏi tội ngươi đâu. Quan coi bếp tâu vua rằng:
– Hôm trước, vì không chuẩn bị thịt may đâu gặp một đứa nhỏ chết, thần mới đem về làm thức ăn dâng cho bệ hạ.
Vua nói:
– Thịt ấy ngon lạ khác thường. Vậy từ nay về sau, cứ làm thứ thịt như vậy.
Quan coi bếp tâu vua:
– Hôm trước ngẫu nhiên gặp xác đứa nhỏ chết, mới đem về làm thịt, nay bắt trẻ con làm thịt e rằng phạm quốc pháp.
Nhà vua nói:
– Ngươi hãy bí mật đi bắt, giả sử có người biết, thì sau khi xử là do trẫm cả.
Quan coi bếp vâng lời âm thầm bắt con nít làm thịt dâng cho vua ăn, hằng ngày như vậy. Lúc đó người dân trong thành, có người đi ngoài đường khóc lóc nói là mất con, họ truyền miệng hỏi với nhau, do đâu mà có sự việc như thế. Các quan cùng nhau bàn bạc, nên thử rình xem sao. Họ bố trí người ở khắp nơi trong đường nhỏ, thì trông thấy quan nhà bếp của vua bắt con nít, họ rình bắt được, trói dẫn đến nhà vua, đem mọi việc lâu nay ra trình bạch. Vua nghe xong im lặng không đáp. Ba lần tâu vua rằng:
– Nay bắt dược kẻ trộm con nít, tội đã đành rành, phải nên quyết đoán, tại sao bệ hạ im lặng?
Vua bèn nói:
– Đấy là trẫm bảo!
Các đại thần lòng ôm hận lui ra, họ đi ra ngoài cùng nhau bàn bạc:
– Thì ra nhà vua là kẻ trộm bắt con nít của chúng ta, vua ăn thịt người thì làm sao mà cai trị dân được, chúng ta nên trừ khử đi tai họa này!
Tất cả đồng tâm cùng nhau tính kế. Trong vườn bên ngoài thành, có một cái hồ nước đẹp, thường ngày vua đến đó tắm gội, các quan phục binh trong vườn, đợi khi vua xuống ao tắm, phục binh nhất thời bao vây bốn bề, bắt vua mà giết. Vua thấy quân lính tập hợp kinh sợ hỏi:
– Tại sao các ngươi vây quanh bức trẫm? Các quan đáp:
– Luận về đạo làm vua phải dưỡng nuôi dân, trái lại nhà vua lại giết người ăn thịt, dân chúng oán thán, cho nên đều muốn giết vua.
Vua nói:
– Trẫm thật vô trạng, từ nay về sau, trẫm không làm như vậy nữa, sẽ tự cải hối, chỉ mong các ngươi tha trẫm.
Các quan nói:
– Trọn quyết không tha, chính vậy khiến ngày nay trời mưa tuyết đen và làm trên đầu ông sinh con rắn độc đen. Ông không cần phải van xin, không cần phải nói nhiều lời.
Khi đó vua Bác Túc nghe các quan nói xong, tự biết ắt phải chết không còn con đường thoát, liền nói với các quan:
– Dù muốn giết ta hãy cho ta thêm vài phút.
Các quan đồng ý đứng chờ, nhà vua tự thệ nguyện: “Thân ta lâu nay cũng có tu hạnh lành, làm vua trị vì thiên hạ, cúng dường Tiên nhân tập hợp các đức ấy khiến cho ngày nay ta biến thành La-sát phi hành.” Nói xong, vua liền được bay lên hư không, nói với các quan:
Các ngươi hợp lực muốn cưỡng giết ta, nhờ ta có may mắn lớn lại có thể tự thoát. Từ nay về sau các ngươi cứ yêu thương vợ con đi, ta sẽ lần lượt bắt ăn.
Nói xong, La-sát bay đi đến ở trong rừng núi, chờ người đi qua lại bắt ăn thịt. Nhân dân sợ hãi trốn tránh, tuy nhiên vẫn bắt ăn thịt rất nhiều người. Các La-sát khác bay theo, đồ chúng dần dần nhiều, nên việc bắt hại quần chúng càng rộng rãi. Sau này các La-sát ấy thưa vua Bác Túc La-sát rằng:
– Chúng tôi phụng sự vì vua bay theo, nguyện xin cho chúng tôi một bữa tiệc.
Bấy giờ vua Bác Túc hứa cho, nói:
– Các ngươi canh bắt các ông quan đúng một ngàn, ta sẽ đãi cho một bữa tiệc linh đình.
Nói xong các La-sát chia nhau đi bắt. Chúng phong tỏa các cửa núi rừng, bắt được chín trăm chín mươi chín ông quan, còn thiếu một người, số chưa đủ số. Các ông quan ấy suy nghĩ: “Chúng ta cùng cấp, làm sao đi về được. Nếu họ bắt được Tu- đà-tố-di, thì Tu-đà-tố-di có nhiều cách có thể cứu giúp chúng ta.” Tính kế như vậy rồi bèn thưa với vua La-sát Bác Túc:
– Nếu bệ hạ muốn làm một bữa tiệc đặc biệt khác thường, thuần là thịt các quan, không dùng những người dân thường, hãy nên bắt Tu-đà-tố-di, ông ấy rất có tiếng, như vậy bữa tiệc của bệ hạ mới ngon.
Vua La-sát nghe nói thế, liền bay đi bắt Tu-đà- tố-di và các thể nữ. Sáng sớm, ra ngoài thành đến khu vườn có ao nước tắm gội, trông thấy một vị Bà-la-môn đi khất thực, vua Tu-đà-tố-di nói với vị Bà-la-môn:
– Hãy đợi ta tắm xong, sẽ bố thí.
Vua liền đi đến khu vườn, xuống ao nước tắm. Lúc đó vua La-sát bay tới bắt lấy, mang về trong núi. Tu-đà-tố-di buồn rầu khóc lóc. Lúc đó vua Bác Túc hỏi:
– Nghe nói người danh đức thù thắng đệ nhất, có chí Đại trượng phu, tại sao mà buồn rầu khóc lóc như trẻ con vậy?
Tu-đà-tố-di tâu cùng vua La-sát rằng:
– Tôi không thương thân hay tham tiếc thọ mạng, nhưng từ khi sinh ra đến nay chưa từng nói dối, sáng này tôi đi ra khỏi cung thì thấy một Đạo sĩ, tôi đang đi xe ở trước mà Đạo sĩ cứ theo sau tôi xin ăn. Tôi hứa là sau khi tắm trở về sẽ bố thí cho, nhưng vừa đi ra đã bị đại vương bắt đem đến đây. Nghĩ lại hôm nay bị vọng ngữ mất đi sự thành tín, cho nên tôi buồn, chứ chẳng tiếc gì tấm thân này cả, mong đại vương thương xót cho tôi về bảy ngày, để bố thí cho đạo sĩ kia xong xuôi rồi sẽ trở lại đây nạp mạng.
Vua Bác Túc La-sát nghe rồi nói rằng:
Nay cho ngươi được trở về, sau này phải tự đến nạp mạng chịu chết, cho dù sau này ngươi không trở lại ta cũng có thể tự bắt ngươi được.
Nói xong thả ra. Vua Tu-đà-tố-di về đến nước nhà. Ông đạo sĩ cũng còn chờ ở đấy, vua vui mừng làm lễ cúng dường Bà-la-môn. Bấy giờ vị Bà-la- môn biết được nhà vua không lâu sẽ phải quay trở lại nạp mạng cho La-sát, sợ vua quyến luyến quốc gia mà âu sầu, bèn vì nhà vua thuyết kệ:
Trời đất bao la rốt cùng kiếp số
Đều là tro bụi Tu-di biển lớn.
Ở trong suy tàn Trời, Rồng, Người, Quỉ
Nước có gì thường hai nghi còn mất.
Luân chuyển không cùng sinh, lão, bệnh, tử,
Ưu bi làm hại sự cùng nguyện trái
Bệnh lỡ không ngoài dục thâm họa trọng
Nước nào đáng tin ba cõi đều khổ
Duyên thành các thứ có vốn tự không
Thật ắt có giả thạnh rồi ắt suy
Đều như huyễn ảo chúng sinh ngu xuẩn
Đất nước cũng vậy, ba cõi đều không
Mượn cỡi bốn rắn (tứ đại) thần thức vô hình
Cho là xe đẹp voi báu vô minh
Thần không là nhà hình không thường chủ
Há có nước sao hình thần còn lìa.
Bấy giờ vua Tu-đà-tố-di nghe xong bài kệ này, suy nghĩ nghĩa lý sâu xa vui mừng vô cùng, liền lập thái tử, thay mình làm vua, rồi từ biệt các quan, trở về nơi đã hứa. Các quan đồng nói với vua:
– Xin bệ hạ hãy ở lại, chớ có lo sợ Bác Túc! Chúng thần suy tính kế, đã phòng bị làm một cái nhà bằng sắt, để bệ hạ trong đó. Bác Túc dù có mạnh mẽ cũng không thể bắt ra được.
Vua bảo các quan và thần dân rằng:
– Người sống trên đời thành thật uy tín làm gốc. Hư dối mà sống thà là chết mà giữ chữ tín, sống không vọng ngữ lại còn nói các thứ lợi thành tín.
Vua rộng vì phân biệt nói rõ các tội hư vọng. Các quan nghe thế đau buồn không nói được một lời nào. Vua bèn đứng dậy đi ra ngoài thành, tất cả đều tống tiễn vua. Vua phải dùng mọi cách ví dụ cho các quan hiểu xong rồi lên đường mà đi. Khi ấy vua Bác Túc La-sát tự suy nghĩ: “Tu-đà-tố-di hôm nay phải đến”, bèn ngồi trên đỉnh núi chờ, từ xa trông ngóng, thấy vua cùng mọi người tuần tự kéo đến, thấy mặt mũi vua vui vẻ mừng rỡ và nói đúng như lời hẹn. Vua Bác Túc La-sát hỏi:
– Mau đến đây, người sống trên đời không ai chẳng tiếc thọ mạng, nay người sắp chết, vì sao vui mừng gấp bội lúc bình thường? Nhà ngươi trở về nước được lợi lành gì chăng?
Tu-đà-tố-di nói:
– Tâu đại vương, ngài khoan ân cho tôi về bảy ngày để bố thí, giữ được thành tín, lại được nghe nói Diệu pháp, dụng tâm nghe hiểu, nên hôm nay chí nguyện đã được thỏa mãn, dù có chết cũng được, không có tiếc gì mạng sống cả.
Vua Bác Túc nói:
– Ngươi nghe pháp gì? Thử nói cho ta nghe có được không?
Tu-đà-tố-di vì vua La-sát nói bài kệ ấy, lại còn dùng phương tiện rộng rãi vì ông thuyết pháp, giảng rõ về tội sát sinh và quả báo ác nghiệp; lại nói về phước báo của tâm Từ bi không sát sinh. Vua Bác Túc nghe xong, đảnh lễ và thọ sự chỉ giáo ấy, không có tâm muốn hại nữa, bèn thả vua và các quan lính trở về nước. Vua Tu-đà-tố-di liền thâu binh lính rồi đem vua Bác Túc về nước làm vua như cũ. Trước kia thề với Tiên nhân, mười hai năm đã mãn. Từ đó về sau Bác Túc không dám ăn thịt người nữa, bèn trở về nước làm vua trị dân như lúc cũ.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
Thưa đại vương, Tu-đà-tố-di thuở đó chính là tiền thân của Ta, còn vua Bác Túc nay là Ương- cừu-ma-la ngày nay. Những người trong mười hai năm theo vua Bác Túc kiếm ăn, nay là các người bị Ương-cừu-ma-la bắt giết. Những người này đời đời thường bị Ương-cừu-ma-la giết hại. Còn Ta cũng đời đời hàng phục ông ta làm thiện. Ta nhớ lại trong kiếp quá khứ lúc còn phàm phu còn biết giáo hóa khiến ông ta không sát sinh, huống hồ ngày nay Ta thành Bậc Như Lai, đầy đủ đức hạnh, dứt sạch mọi việc ác, há không thể hàng phục hóa độ ông ta sao?
Vua Ba-tư-nặc lại bạch Phật:
– Nay những người này kiếp trước có duyên gì mà thường đời đời bị ông ta giết mãi như thế? Mong Thế Tôn nói cho con được rõ.
Đức Phật nói:
– Đại vương hãy lắng nghe, trong đời quá khứ lâu xa, ở châu Diêm-phù-đề này có một nước lớn tên Ba-la-nại, quốc vương nước đó tên Ba-la-ma- đạt. Đức vua có hai vị thái tử, đều có tài năng khỏe mạnh, dung mạo đoan chánh đẹp đẽ lạ thường, đức vua rất yêu mến. Lúc đó người em tự nghĩ: “Nếu như vua cha băng hà, người anh chắc chắn kế vị, còn ta tuổi nhỏ, không mong gì được ngôi vị ấy. Sinh ở đời nay đã không được làm vua thì sống làm gì, chi bằng tìm nơi u tĩnh để cầu đạo Tiên.” Nghĩ thế rồi người em đi đến tâu vua cha:
– Tâu phụ vương, con rất ham thích vào núi sâu cầu học đạo Tiên, xin phụ vương cho phép con được đi vào núi tìm thầy học đạo.
Vua đồng ý. Thái tử ra đi, trải qua vài năm thì vua cha băng hà, người anh kế vị, thống trị nhân dân chưa bao lâu thì người anh cũng bị bệnh rồi qua đời, chưa có con nối dõi, lại càng không có người nối cơ nghiệp. Quần thần tập hợp lại bàn bạc, mà không tìm được cách nào giải quyết. Có một ông quan nói:
– Đức vua còn một thái tử, trước kia đã xin vua vào rừng núi tu tiên, nay chúng ta nên mời về để lên ngôi.
Các quan đều vui vẻ nói:
– Sự việc này rất hợp lý.
Nói rồi họ dẫn binh lính vào núi tìm kiếm, gặp được và trình bày mọi việc cầu thỉnh thái tử thương xót về lo cai trị đất nước. Thái tử đáp:
– Việc này thật đáng sợ, nay ta vui trong tĩnh lặng, mãi mãi không lo buồn, còn người đời hung ác, ham giết hại lẫn nhau. Nếu ta về làm vua, thấy những việc xấu xa ấy, nay ta đã được tịnh lạc, không muốn về làm vua.
Các quan lại tâu:
– Vua băng hà không người nối dõi, chỉ còn có một mình thái tử (đại Tiên) thuộc dòng vua chúa, nhân dân đất nước một ngày không thể thiếu vua được. Cúi mong thái tử thương xót trở về hoàng cung.
Các quan chí thành khẩn thiết cầu thỉnh, ý thái tử không nỡ bèn nhận lời theo họ về hoàng thành. Thái tử từ nhỏ học theo Tiên đạo, chưa tập theo việc đời, về trị quốc gia, dần dần gần gũi nữ sắc, càng nhiễm dâm dục, dâm dật phóng đãng, ngày đêm ăn nằm không thể tự khắc phục, bèn ra lệnh trong nước:
– Tất cả phụ nữ, trước khi đi lấy chồng, phải ăn nằm với trẫm trước.
Từ đó về sau khắp trong nước, con gái sắp về nhà chồng, ngay cả phụ nữ đoan chánh, cũng bị nhà vua lăng nhục. Bấy giờ có một người con gái đang đi trên đường chỗ đông người, đứng trần truồng, mọi người đều kinh tởm, đồng đến chê trách cô gái:
– Ngươi vì sao không xấu hổ, lại làm việc như vậy?
Cô gái liền đáp:
– Con gái đứng nơi đám con gái có gì đâu mà xấu hổ. Các ngươi đứng đấy không xấu hổ thì ta đối với các ngươi cũng đâu có gì khác, có gì đâu mà hổ thẹn!
Mọi người nói:
– Tại sao ngươi nói như vậy? Cô gái nói rằng:
– Chỉ có một mình ông vua là nam tử, phụ nữ cả nước đều bị ông ta làm nhục. Các ngươi nếu là phái nam đều để làm như vậy sao?
Lúc đó mọi người càng hổ thẹn cùng nói với nhau rằng:
– Như lời cô gái này thật chí lý.
Họ âm thầm truyền miệng với nhau đồng tâm hợp mưu kế, muốn cùng phế vua. Khi đó, ở ngoài thành có khu vườn, có ao nước trong mát, nhà vua thường thường đến đó tắm gội, các quan mai phục lính trong vườn, đợi vua xuống ao tắm thì xông ra bao vây bắt áp bức muốn giết. Nhà vua kinh sợ nói:
– Các ngươi muốn làm gì thế?
Các quan nói:
– Nhà vua không lo việc đất nước, lại cứ hoang dâm vô độ, phá hoại, rối loạn thuần phong mỹ tục, làm ô nhục nhiều nhà người ta, ai ai cũng đều thấy biết, không thể nhẫn nại nữa, cho nên muốn trừ khử nhà vua, đi cầu bậc hiền tài khác cai trị.
Nhà vua nghe nói thế hoảng sợ nói với các quan:
– Trẫm thật có lỗi, trẫm không phụ các khanh thỉnh mới trẫm về làm vua. Trẫm xin tự sửa lỗi, không bỏ bê triều chính nữa, mong các khanh hãy tha cho trẫm, để trẫm làm lại từ đầu.
Các quan lại nói:
– Giả sử hôm nay trời có mưa xuống tuyết đen trên đỉnh đầu nhà vua sinh ra con rắn độc, rốt cùng cũng không buông tha, không cần phải nói nhiều lời nữa.
Vua nghe rồi tự biết ắt phải chết, bèn nổi sân hận nói với các quan rằng:
– Ta vốn ở núi, không tham dự việc đời, các ngươi cưỡng bức ta về đưa ta lên làm vua, từ khi ta làm vua chưa từng có việc gì bị thất bại, thế mà hôm nay các ngươi đồng tâm sĩ nhục ta. Nay ta đơn độc sức yếu, không thể chống lại các ngươi, ta thề kiếp sau sinh ra sẽ giết lại các ngươi.
Tuy nhà vua thề như thế, các quan vẫn cứ giết nhà vua.
Nói đến đây Đức Phật nhắc lại:
– Đại vương nên biết, vị vua Tiên nhân kia chính là Ương-cừu-ma-la kiếp trước, còn các quan đồng tâm giết vua nay là những người bị Ương- cừu-ma-la giết vậy. Từ đó đến nay sinh ra họ cứ thường bị giết như vậy.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc quỳ bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Vô Não giết những người này, mà hôm nay lại tu đắc đạo, vậy kiếp sau có thọ báo không?
Đức Phật bảo:
Đại vương, việc làm ấy ắt có báo. Hôm nay Tỳ-kheo Vô Não ở trong phòng, lửa của địa ngục từ trong lỗ chân lông vọt ra thiêu đốt đau đớn dữ dội. Lúc đó Như Lai muốn cho chúng hội biết việc làm ác ắt có tội báo, liền sai một Tỳ-kheo đi đến phòng của Vô Não đâm thủng một lỗ nhỏ xem. Vị Tỳ-kheo ấy vâng lời, đi đến làm thế, thấy trong phòng Vô Não bị cháy tiêu tan cả. Tỳ-kheo ấy kinh ngạc trở về bạch Phật. Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo ấy rằng:
– Hành báo là như thế đấy?
Vua và chúng hội không ai không tin hiểu. Khi đó, Tôn giả A-nan quỳ bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Ương-cừu-ma-la có túc duyên gì, thân thể mạnh khỏe, như một lực sĩ, còn chạy nhanh như bay, lại được gặp Phật, độ thoát sinh tử. Cúi mong Thế Tôn thương xót, vì chúng hội nói những việc đó.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, các ông hãy lắng nghe!
Về quá khứ thời Đức Phật Ca-diếp, có một vị Tỳ-kheo chấp tác công việc cho chúng Tăng. Một hôm đi gánh gạo, giữa đường mắc mưa, không có chỗ trú mưa, gạo và thức ăn đều bị ướt đẫm. Khi đó vị Tỳ-kheo suy nghĩ: “Vì ta sức lực yếu nên đi chậm chạp phải bị mắc mưa”, liền tự lập thệ: “Nguyện đời sau tôi sinh ra có sức mạnh địch nổi ngàn người, thân nhẹ đi nhanh chạy như chim bay, tương lai có Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời, khiến tôi được gặp và được độ thoát sinh tử.”
Này A-nan, vị Tỳ-kheo làm việc cho chúng Tăng nay chính là Ương-cừu-ma-la. Do ở đời trước, xuất gia trì giới, phụng sự chúng Tăng, lập nguyện như thế, cho nên từ đó đến nay, đời đời sinh ra được thân thể mạnh khỏe, tướng mạo đoan chánh, được như ý nguyện. Lại gặp được Ta, độ thoát sinh tử.
Bấy giờ ngài A-nan và cả chúng hội Tỳ-kheo, vua quan thần dân nghe Đức Phật nói về nhân duyên hành báo, thảy đều cảm kích, tư duy về Tứ diệu đế, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, có người gieo trồng căn lành Bích-chi-phật, có người phát tâm cầu Vô thượng chánh giác, có người trụ Bất thoái chuyển. Họ đều giữ thân, khẩu, ý tức khắc làm việc thiện, nghe Đức Phật nói xong thảy đều vui mừng phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một lúc nọ Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong nước có một vị Bà-la-môn, tên Tân-đầu-lư-đỏa-xà, có một người vợ hung dữ xấu xí, hai con mắt xanh dờn và cả thảy bảy đứa con gái, chẳng có sinh được một cậu con trai. Nhà nghèo khổ, các cô gái tánh tình cũng hung dữ, thường hay mắng chửi chồng, khi các cô cần gì mà chồng chưa kịp nhu cầu thì nổi sân khóc lóc, chồng của bảy cô gái đều tập hợp sống chung một nhà lo lắng sợ mất lòng các cô vợ ấy. Ruộng có lúa chín chưa kịp cắt, vị Bà-la-môn mượn trâu người khác đem về, định làm lúa; lại giữ trâu không cẩn thận, đứt dây chạy mất. Bấy giờ vị Bà-la-môn ngồi một mình suy nghĩ: “Mình kiếp trước làm tội gì mà chịu cảnh chua chát, độc hại đến như vậy! Trong nhà thì bị ác phụ chửi mắng, bảy đứa con gái cùng bảy thằng rể không đảm đang nổi công việc, lại còn làm mất trâu người khác, trời đất bao la biết đâu mà tìm kiếm.” Tâm ông lo lắng thân thể tiều tụy, buồn rầu áo não, bèn đi tìm, đi mãi đến khu rừng gặp Đức Như Lai đang ngồi dưới gốc cây, tĩnh nhiên an lạc. Khi đó vị Bà-la-môn chống gậy đứng ngắm nhìn Thế Tôn thật lâu, bèn khởi niệm rằng: “Sa-môn Cù-đàm hiện nay an lạc nhất, không bị người đàn bà nào chửi mắng cãi cọ, không bị các con gái làm buồn rầu và không bị mấy thằng rể nghèo làm phiền khổ. Lại không có lo lắng ruộng vườn, không có việc mượn trâu lo bị mất… ” Đức Phật biết tâm của vị Bà-la-môn, bèn nói:
– Theo ông nghĩ, như Ta ngày nay yên tĩnh không có các thứ phiền não, không có ác phụ chửi mắng, không có bảy đứa con gái làm phiền não mình, cũng không có bảy thằng rể tập hợp về nhà mình, lại cũng không lo rầu về ruộng lúa, không phải mượn trâu người khác để mất phải chịu lo buồn.
Đức Phật lại bảo ông ta:
– Ông có muốn xuất gia không?
Ông liền bạch Phật:
– Như con hiện nay xem nhà cửa như là nhà mồ, các phụ nữ như là oán tặc. Thế Tôn từ bi thương xót cho con xuất gia, con rất mãn nguyện.
Đức Phật liền bảo:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc ông ta tự rụng, áo trên thân đang mặc biến thành y ca-sa. Đức Phật thuyết pháp cho ông, ngay đó ông được dứt sạch các trần cấu thành A- la-hán.
Ngài A-nan nghe việc đó, khen ngợi:
– Lành thay! Đức Như Lai khéo dẫn dắt hóa độ, thật khó nghĩ bàn. Vị Bà-la-môn này kiếp trước gieo trồng phúc báo gì mà nay lìa được các hoạn nạn, được các lợi lành, cũng như chiếc thảm sạch dễ nhuộm màu sắc.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, vị Bà-la-môn này, chẳng những ngày hôm nay nhờ ân đức của Ta xa lìa khổ não được an lạc, mà ở thời quá khứ cũng được nhờ ân Ta tránh khỏi các khổ ách, được an lạc.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, trong thời quá khứ, ông ta được cứu khỏi khổ nạn như thế nào? Xin Thế Tôn nói cho con được biết?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ,
Ta sẽ vì ông mà nói rõ ràng.
A-nan tôi liền bạch Phật:
– Dạ vâng, con đang lắng nghe. Đức Phật bảo:
Này A-nan, về thời quá khứ cách đây vô số kiếp a-tăng-kỳ, có một đại quốc vương tên là A- ba-la-đề-mục-già (Tần dịch là Đoan Chánh), dùng đạo trị vì dân chúng không để oan uổng một ai. Lúc đó, trong nước có một vị Bà-la-môn tên Đàn-nhị- kỳ, nhà nghèo cơm không đủ ăn, thiếu thốn vô cùng không thể tự lo nổi. Một hôm mượn trâu người khác để cày ruộng, cày xong dẫn trâu trả cho chủ dẫn trâu đến cổng nhà, quên mất không nói với chủ tiếng nào lại quay về nhà. Người chủ trâu tuy thấy tưởng là mượn dùng trâu chưa xong, cho nên không buộc trâu lại. Hai bên tưởng lầm, con trâu không buộc nọc, bỏ đi mất. Sau này chủ trâu hỏi, người kia nói là trả trâu rồi, hai bên bèn tranh cãi nhau. Bấy giờ chủ trâu dẫn Đàn-nhị-kỳ đi đến chỗ nhà vua xử về việc cho mượn trâu. Vừa ra ngoài đường thì bỗng gặp người chăn ngựa của nhà vua, có một con ngựa phóng chạy, người chăn ngựa hô to, nhờ ngăn chận con ngựa lại. Lúc đó Đàn-nhị- kỳ cúi xuống lượm viên đá ném con ngựa, trúng phải chân bị gãy. Người chăn ngựa lại bắt và dẫn đến nhà vua. Họ đi đến một dòng sông không biết chỗ để đi qua, bỗng gặp một thợ mộc, miệng ngậm chiếc búa, vén áo muốn lội qua. Lúc đó Đàn-nhị- kỳ hỏi người ấy rằng:
– Chỗ nào có thể lội qua? Người đó đáp:
– Chỗ này.
Miệng người thợ mộc vừa hả ra nói thì chiếc búa rơi chìm xuống dòng sông, tìm mò mãi không được, bèn bắt ông cùng dẫn đến nhà vua. Lúc ấy Đàn-nhị-kỳ bị các chủ nợ giục bức, lại thêm bị đói khát bèn tấp vào quán rượu bên đường xin ít rượu trắng, bước lên giường ngồi uống, vô ý ngồi ngay bụng đứa bé đang nằm ngủ, đè bẹp đứa nhỏ khiến vỡ bụng chết mất. Lúc đó người mẹ đứa nhỏ lại bắt ông, cho rằng: “Ông là người vô đạo, giết chết con tôi oan uổng”, cùng giữ ông dẫn đến cung vua. Đi đến gần một bức tường, trong lòng tự suy nghĩ: “Ta thật bất hạnh, họa đâu tự nhiên đến, nếu đến chỗ nhà vua, có lẽ họ giết ta, nay nếu ta bỏ chạy trốn, thì may ra được thoát.” Nghĩ vậy rồi, ông bèn leo qua tường chạy trốn, dưới chân tường bên kia có một người thợ dệt, ông nhảy xuống trúng phải làm ông thợ dệt chết ngay. Bấy giờ đứa con trai người thợ dệt chạy lại bắt ông, cùng mấy người kia dẫn ông đến nhà vua. Lại tiếp tục lên đường đi tới trước, dọc đường bỗng gặp một con chim trĩ đang ở trên ngọn cây, từ xa hỏi ông:
– Ông Đàn-nhị-kỳ hôm nay đi đâu đó?
Ông liền ngước lên trên ngọn cây trả lời với chim trĩ. Chim trĩ lại nói:
– Nếu ông đến đó vì tôi mà tâu nhà vua rằng: ‘Tôi ở trên cây khác tiếng kêu nghe không vui, nếu ở cây này thì kêu tiếng nghe mới hay, là tại vì sao thế?’ Nếu ông gặp nhà vua hãy vì tôi hỏi như thế giùm nhé!
Đi một lát lại gặp một con rắn độc nó hỏi:
– Ông Đàn-nhị-kỳ hôm nay ông muốn đi đâu thế?
Ông liền đem mọi việc xảy ra trình bày cho rắn độc nghe hết, con rắn lại nói:
– Ông đến chỗ vua hãy vì tôi mà tâu vua rằng: ‘Tôi thường sáng sớm khi vừa ra khỏi hang thì thân thể tôi mềm nhũn, mà không có thứ bệnh gì cả. Đến chiều tối khi trở về hang thì thân thể thô xấu đau đớn, chướng ngại khó chui vào. Hỏi vua là tại làm sao thế?
Khi đó Đàn-nhị-kỳ cũng nhận lời con rắn dặn.
Đi một đỗi lại gặp một người đàn bà, hỏi rằng:
– Ông đi đâu thế?
Ông lại đem mọi việc xảy ra trình bày. Người đàn bà nói:
– Ông có đến chỗ vua, hãy vì tôi mà tâu rằng: Không biết tại sao tôi đến ở nhà chồng thì nhớ nhà cha mẹ mình; ở nhà cha mẹ mình thì cứ nhớ nhà chồng?
Ông cũng nhận lời dặn. Bấy giờ các chủ cùng vây bắt ông lại, đem đến trước nhà vua. Lúc đó chủ trâu ra trước tâu vua:
– Tâu bệ hạ, người này mượn trâu của con không chịu trả trâu lại.
Nhà vua hỏi:
– Tại sao không trả trâu?
Đàn-nhị-kỳ thưa:
– Con thật là nghèo khốn, có lúa đang chín ở ruộng, ông ta có ý tốt đem trâu cho con mượn. Con dùng trâu xong đem trả lại, ông chủ cũng thấy trả trâu, nhưng con không nói là con trâu đang ở trước cổng ông ấy. Con đi về nhà một mình. Không biết con trâu kia vì sao mà mất.
Vua nói với chủ trâu:
– Hai người nhà ngươi đều không đúng cả. Do Đàn-nhị-kỳ đem trả mà không nói tội đáng cắt lưỡi, còn ngươi thấy trâu mà không buộc giữ lại, tội đáng móc mắt.
Chủ trâu thưa:
– Con xin bỏ con trâu, không muốn bị móc mắt và cắt lưỡi anh kia.
Nhà vua liền cho được hòa giải. Người giữ ngựa ra tâu rằng:
– Tâu bệ hạ, anh này vô đạo làm gãy chân ngựa của tôi.
Vua bèn hỏi Đàn-nhị-kỳ:
– Người ta nuôi ngựa của nhà vua, tại sao ngươi đánh gãy cẳng con ngựa của y thế?
Đàn-nhị-kỳ tâu:
– Người chủ trâu dẫn con đi ngoài đường, bỗng đâu anh này hô to: Ngăn chận ngựa giùm tôi. Vì con sợ ngựa chạy mất, nên lấy hòn đá ném, trúng lỡ phải chân ngựa bị gãy, sự việc là như vậy.
Vua nói với người giữ ngựa:
– Do ngươi la to, vậy hãy cắt lưỡi ngươi, còn do người này ném ngựa, vậy hãy chặt tay.
Người giữ ngựa tâu vua:
Để con tự lo lắng cho ngựa, xin chớ hành hình.
Hai người cùng hòa giải sự việc. Người thợ mộc đi ra tâu:
Tâu bệ hạ, đàn-nhị-kỳ làm mất chiếc búa của con.
Nhà vua hỏi rằng:
Ngươi làm gì mà đánh mất chiếc búa của anh ta?
Đàn-nhị-kỳ quỳ thưa:
Tâu bệ hạ, lúc con định qua sông, hỏi anh ta chỗ khúc sông nào có thể qua, anh ta đáp lời, nên miệng ngậm chiếc búa phải bị rớt xuống sông, tìm mãi không được, sự thật là thế đấy.
Vua nói với thợ mộc:
Do ngươi hả miệng ra nói mà rớt búa, đáng tội cắt lưỡi, theo phép gánh của cải, đúng lễ phải dùng bằng tay, còn ngươi miệng ngậm mà khiến phải rơi xuống nước, nay phải đập gãy hai răng trước của ngươi.
Thợ mộc nghe xong, tâu đức vua rằng:
– Con thà bỏ chiếc búa, xin chớ hành phạt con.
Hai người cùng hòa giải. Bấy giờ bà bán rượu lại tâu. Nhà vua nói:
Đàn-nhị-kỳ, tại sao ngươi giết oan uổng con bà ta?
Ông quỳ bạch:
– Tâu bệ hạ, do mấy người này áp bức con, khiến con đói khát, đến xin bà này ít rượu, lỡ leo lên giường, vô ý đè bẹp con bà đang nằm, uống rượu vừa xong thì con bà ta tắt thở, chẳng phải con cố ý, cúi mong đại vương minh xét tha thứ.
Vua bảo bà chủ quán:
– Quán rượu của bà, khách tới lui đông đảo, tại vì sao đặt con nằm ngủ nơi khách thường ngồi, lại đắp kín đứa nhỏ khiến người ta không thấy. Nay hai người nhà ngươi đều có tội cả. Con bà đã chết do Đàn-nhị-kỳ cùng bà ra cả. Bây giờ Đàn-nhị-kỳ làm rể nhà bà, khiến có được đứa con mới thả cho ra về.
Khi ấy bà bèn khấu đầu nói:
– Con tôi đã chết rồi, con không dùng thứ Bà- la-môn đói khát này làm chồng đâu.
Lúc đó hai người được hòa giải. Khi ấy con người thợ dệt ra trước tâu rằng:
– Tâu bệ hạ, người này cuồng bạo, nhảy giết chết cha con.
Nhà vua hỏi:
Tại sao ngươi vô cớ giết oan uổng cha của anh ta?
Đàn-nhị-kỳ thưa:
– Tâu bệ hạ, các người có oan trái này bức bách con, con rất hoảng sợ, định vượt qua tường chạy trốn, bỗng nhảy rớt trên mình ông già, thật là việc chẳng phải con muốn thế.
Vua nói với người con rằng:
– Cả hai đều không đúng, cha ngươi đã chết, vậy ngươi hãy bắt Đàn-nhị-kỳ làm cha nhà ngươi.
Người con thưa:
– Cha con đã chết rồi, con trọn không dùng vị
Bà-la-môn này làm cha đâu.
Như vậy hai bên nhà vua cho hòa giải. Bấy giờ bản thân Đàn-nhị-kỳ đã xong việc, vui mừng vô cùng, thấy ở trước nhà vua có hai người mẹ đang tranh giành một đứa con, đến trước nhà vua cùng tâu. Bấy giờ nhà vua dùng quyền trí, lập kế nói với hai bà mẹ đó rằng:
– Hôm nay có một đứa trẻ, hai bà đều tranh giành. Trẫm bảo hai người mỗi người nắm một tay đứa nhỏ, ai kéo được thì đứa nhỏ này là con.
Lúc đó bà không phải mẹ đứa bé dùng hết sức nắm kéo đứa nhỏ về phía mình, không sợ nó thương tổn chút nào cả, còn người mẹ sinh đứa nhỏ ra vì lòng thương sâu nặng, thương yêu con, không nỡ nắm kéo. Vua quan sát người nào thật giả, bèn nói rằng:
– Bà dùng sức kéo đứa bé về mình, thật sự không phải con của bà, chỉ là mưu kế bắt con người khác thôi, nay đối trước mặt vua, phải nói sự thật đi.
Bà ấy bèn dập đầu trước nhà vua tạ tội:
– Con thật hư dối, không phải mẹ đứa trẻ. Đại vương là bậc Thánh hiền thông minh, xin tha thứ tội cho con. Đứa bé này xin trả lại cho mẹ của nó. Mọi người đều được vua thả cho về. Lại có hai người khác cùng tranh một tấm lụa cùng đến trước vua phân xử. Nhà vua lại dùng trí như trên đã xử.
Khi đó Đàn-nhị-kỳ bèn tâu vua rằng:
– Tâu bệ hạ, những người oan trái này khi dẫn con đến đây, dọc đường đi có gặp một con rắn độc, nhờ con tâu vua: “Không biết vì sao khi ra khỏi hang, thân thể mềm nhũn dễ dàng bò ra, nhưng khi trở vào hang thì đau đớn khó khăn, nó không tự biết duyên cớ gì?”
Nhà vua nói:
Việc đó dĩ nhiên! Khi nó ra khỏi hang, không có mọi việc phiền não, tâm tình nhu hòa, thân cũng như vậy, khi nó ở ngoài thì thú chim quấy rối, lòng nó sân hận, thân bèn thô xấu to ra, nên khi vào hang, chướng ngại khó hơn lúc ra. Ngươi có thể nói với nó: “Nếu ngươi ở ngoài hang giữ lòng không sân hận thì sẽ được vào như lúc ra không khác, không có chướng ngại khó khăn gì cả.”
Đàn-nhị-kỳ lại tâu vua:
– Tâu bệ hạ, dọc đường con gặp một phụ nữ nhờ con thưa vua rằng: “Khi cô ở nhà chồng thì lại nhớ nhà mẹ cha, nếu lúc ở nhà mẹ cha lại nhớ nhà bên chồng, không biết duyên cớ gì.”
Vua lại nói:
– Ngươi hãy nói với cô ta rằng: “Do cô ta có tâm tà, ở nhà cha mẹ mình lại càng nuôi dưỡng chồng, còn cô ở nhà chồng lại nhớ nhà bên mình vì có chút chán ghét, còn có ý niệm làm dâu, cho nên mới có tâm nhớ như thế.”
Ngươi có thể nói với cô ta rằng:
– Cô hãy giữ tâm bỏ tà theo chánh thì không có tâm trạng đó nữa.”
Đàn-nhị-kỳ lại tâu vua rằng:
– Tâu bệ hạ, bên đường có một con chim trĩ ở trên ngọn cây nhờ hỏi vua: “Nó ở trên ngọn cây này thì hót nghe âm thanh hòa nhã rất hay, nó không hiểu vì sao mà có việc như vậy?”
Vua bảo Đàn-nhị-kỳ:
Sở dĩ như vậy là ở dưới gốc cây nó hát hay có cái búa vàng, còn gốc cây khác không có cái búa vàng nên nó đậu hót nghe không hay.
Vua bảo:
– Đàn-nhị-kỳ, ngươi có nhiều tội lỗi nay đã giải quyết xong, trẫm thả ngươi ra về.
Chàng ta nói:
– Nhà con nghèo khổ vô cùng, vậy cái búa vàng ở dưới gốc cây nên là của con, con sẽ lấy nó dùng.
Vua nói:
– Ngươi có thể đào lấy.
Vâng lời vua dạy, chàng ta đào lấy búa vàng, đem về mua bán tạo cơ nghiệp ruộng vườn, mọi thứ cần dùng đều mua sắm không thiếu gì cả trở thành người giàu có, khoái lạc suốt đời.
Nói đến đấy, Đức Phật bảo:
– Này A-nan, vị vua lúc bấy giờ là A-bà-la-đề- mục-khư, há phải người nào khác, chính là tiền thân của Ta. Vị Bà-la-môn Đàn-nhị-kỳ nay chính là Tân-đâu-lư-đỏa-xà. Khi xưa Ta miễn tội cho họ, bố thí trân bảo, khiến ông ta được khoái lạc. Nay Ta thành Phật lại cứu ông khỏi khổ, ban cho tài bảo Pháp tạng.
Khi đó ngài A-nan và tứ chúng nghe Đức Phật nói xong vui mừng phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong nước có vị Bà-la-môn tên là Sư Chất, nhà rất giàu có, nhưng không có con mới đi đến Lục sư hỏi nhân duyên đó. Lục sư nói:
– Tướng ông không có con.
Khi đó Sư Chất bèn trở về nhà, mặc quần áo dơ xấu, buồn rầu không vui, rồi tự nghĩ rằng: “Ta không có con trai, một khi mạng chung, nhà cửa tài sản sẽ thuộc về quốc vương.” Suy nghĩ thế rồi, ông càng thêm sầu não. Vợ ông Bà-la-môn cho một vị Tỳ-kheo-ni biết chuyện ấy. Khi ấy vị Tỳ- kheo-ni đi thẳng đến nhà ông Bà-la-môn, thấy ông buồn rầu tiều tụy bèn hỏi:
– Vì sao ông buồn rầu tiều tụy như vậy? Vợ vị Bà-la-môn liền đáp:
– Nhà tôi không có con trai, có đi đến hỏi Lục sư, Lục sư xem tướng nói là không con vì thế cho nên ông nhà tôi buồn rầu.
Bấy giờ vị Tỳ-kheo-ni nói:
– Học trò của Lục sư không có Nhất thiết trí, làm sao có thể biết được nghiệp hạnh nhân duyên? Đức Như Lai còn tại thế thấu rõ các pháp quá khứ vị lai không có gì chướng ngại, có thể đi đến đó hỏi ắt sẽ biết tất cả.
Sau khi vị Tỳ-kheo-ni đi rồi, bà vợ nói với chồng:
– Như lời sư cô nói ông đã nghe rồi.
Tâm ông bèn khai ngộ, mặc y phục mới đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật mà bạch:
Bạch Thế Tôn, tướng mệnh của con sẽ có con không?
Đức Thế Tôn bảo:
– Ông sẽ có một đứa con trai có phúc đức đầy đủ, lớn lên nó sẽ muốn xuất gia.
Vị Bà-la-môn nghe xong vui mừng khôn lường, nói:
– Chỉ khiến có con, dù nó ham học đạo cực khổ cũng được.
Nhân dịp đó ông thỉnh Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng ngày mai đến nhà thọ trai. Khi ấy Thế Tôn im lặng nhận lời. Ngày mai Đức Phật và chúng Tăng cùng đi đến nhà ông. Chúng Tăng đã an tọa hết, khi đó vợ chồng vị Bà-la-môn đồng tâm đồng chí kính dâng thức ăn, thức uống. Cúng dường xong, Đức Phật và chúng Tăng trở về trụ xứ. Trên đường về, gặp một cái đầm có nước trong thật đẹp, Đức Phật ngồi lại nghỉ ngơi. Chư Tỳ-kheo đem bát đến đầm nước rửa, có một con khỉ xin bát của A- nan, ngài sợ nó làm vỡ nên không đưa cho nó. Đức Phật bảo A-nan:
– Ông hãy đưa cho nó, đừng có lo sợ!
Vâng lời Thế Tôn, A-nan đưa bát cho nó. Con khỉ cầm được cái bát đi lấy mật trên cây đựng đầy bát rồi đem dâng cho Thế Tôn. Đức Thế Tôn bảo:
– Bỏ những thứ bất tịnh trong đó.
Con khỉ liền lấy ong con bỏ sạch sẽ. Đức Phật lại bảo:
– Hãy lấy nước hòa với mật.
Nó làm theo lời đi lấy nước hòa xong, đem dâng lên Thế Tôn. Thế Tôn thọ xong rồi phân chia cho các Tỳ-kheo đều được dùng cả. Con khỉ tỏ vẻ vui mừng leo trèo tung tăng rớt xuống cái đầm nước mạng chung, thần thức thọ thai vào nhà ông Sư Chất. Bấy giờ bà vợ ông Sư Chất cảm thấy có thai, ngày tháng đủ kỳ sinh được một cậu con trai, mặt mũi đoan chánh, ở đời ít ai sánh bằng. Khi sinh đứa bé ra, các đồ vật trong nhà tự nhiên đầy mật ong. Vợ chồng Sư Chất vui mừng khôn xiết, liền mời thầy tướng bói coi tốt xấu. Thầy tướng bói xong bảo:
– Đứa bé này có phúc đức, rất hiền lành không ai sánh bằng. Nhân đó đặt tên là Ma-đầu-la-thế- chất (Tần dịch là Mật Thắng). Do ngày nó sinh ra có mật làm điềm ứng, mà đặt tên đứa bé. Khi lớn lên, cậu bé cầu xin đi xuất gia, cha mẹ luyến tiếc mến thương không muốn cho đi. Cậu năn nỉ thưa cùng cha mẹ nếu ngăn cản không chìu theo ý nó, sẽ chọn lấy cái chết, chứ không chịu sống ngoài thế tục. Cha mẹ cậu bàn bạc:
– Xưa kia Đức Thế Tôn cũng đã dự đoán rồi, sau này nó sẽ xuất gia, nay giữ nó lại, có thể nó sẽ chọn cái chết, thôi hãy chìu theo ý nó.
Cùng bàn bạc quyết định xong, hai vị nói với con:
– Tùy theo chí của con đấy.
Đứa con rất vui mừng vội vàng đi đến nơi Phật ngự, cúi đầu đảnh lễ cầu xin xuất gia. Đức Thế Tôn nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc cậu tự rụng, pháp y mặc trên mình trở thành một Sa-môn. Nhân đó Đức Phật rộng thuyết lý Tứ diệu đế, các pháp vi diệu. Tâm vị ấy khai ngộ dứt sạch kết sử đắc quả A-la-hán, rồi cùng các Tỳ- kheo đi du hóa nhân gian. Nếu lúc khát thì cầm bát giơ lên không trung thì tự nhiên bát đầy mật, cùng chúng Tăng uống đều được no đủ.
Lúc đó ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Ma-đầu-la-thế-chất chứa nhóm công đức gì mà xuất gia chưa bao lâu đã chứng quả A-la-hán, lại còn cầu muốn gì cũng được như ý?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, ông có nhớ xưa kia thọ trai ở nhà ông Sư Chất không?
Đáp:
– Bạch Thế Tôn, nhớ. Đức Phật nói:
– Lúc thọ trai xong, trở về ngồi nghỉ nơi đầm nước, khi ấy có một con khỉ xin bát ông đi lấy mật cúng thí Ta, Ta thọ nhận xong nó vui mừng nhảy nhót rơi xuống đầm nước mà chết, ông còn nhớ chăng?
Ngài A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn, nhớ. Đức Phật nói:
– Này A-nan, con khỉ đó nay đầu thai chính là Ma-đầu-la-thế-chất. Do thấy Phật nhận thí vui mừng mà nó được sinh vào nhà ông ấy, tướng mạo đoan chánh xuất gia học đạo, mau chứng vô lậu.
Ngài A-nan quỳ bạch:
– Bạch Thế Tôn, vì duyên gì mà nó lại sinh trong loài khỉ như thế?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, về thuở quá khứ, thời Đức Phật Ca-diếp có một vị Tỳ-kheo trẻ thấy một vị Sa-môn khác nhảy ngang kênh nước liền lên tiếng nói:
– Ông kia nhảy nhẹ nhàng nhanh chóng giống như con khỉ.
Vị Sa-môn đó nghe được lời ấy bèn nói:
– Ông có biết tôi không? Đáp:
– Con biết thầy. Thầy là Sa-môn đệ tử của Phật
Ca-diếp, làm sao mà không biết?
Khi ấy vị Sa-môn đó nói:
– Ông chớ có gọi ta là Sa-môn giả danh. Các quả của Sa-môn ta đều đầy đủ.
Vị Tỳ-kheo trẻ nghe xong, lông tóc dựng ngược, năm vóc sát đất cầu xin sám hối. Vì do hối lỗi thời quá khứ, không bị đọa địa ngục, nhưng trong năm trăm đời thường làm khỉ. Do đời trước xuất gia trì giữ giới cấm, nên nay được gặp Ta, tắm gội thanh hóa bằng giáo pháp được dứt hết khổ.
Đức Phật lại bảo A-nan:
– Vị Tỳ-kheo trẻ thuở đó nay chính là Ma-đầu- la-thế-chất.
Lúc đó A-nan và cả đại chúng nghe Đức Phật nói về tiền kiếp vui buồn lẫn lộn, đồng nói rằng:
– Nghiệp thân, khẩu, ý khá nên gìn giữ. Vị Tỳ- kheo trẻ do không gìn giữ miệng mà phải gặp quả báo như thế.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, đúng như lời các ông nói.
Nhân đó Đức Phật vì bốn chúng rộng nói các pháp tịnh thân, khẩu, ý, tâm cấu trừ sạch. Có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm, A-la-hán. Lại có người phát tâm Vô thượng chánh giác, có người trụ Bất thoái địa. Cả chúng hội nghe pháp đều rất vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở thành Vương xá trong khu vườn trúc. Lúc đó trong nước Câu-tát-la có một vị trưởng giả tên là Đàm-ma-quán-chất thuộc dòng họ giàu có nhưng không có con, cầu đảo tất cả nơi thờ thần kỳ trong nước xin một đứa con trai, do lòng chí thành cảm động đến Thần linh khiến bà vợ mang thai. Ngày tháng mãn, người vợ sinh được một đứa con trai, thân hình đoan nghiêm trên đời ít có. Ông cho mời thầy tướng về xem coi tốt xấu thế nào. Thầy tướng nói:
– Đứa bé này rất có phúc đức.
Nhân đó đặt tên là Đàn-di-ly. Khi lớn lên, cha mẹ qua đời, lúc đó, vua Ba-tư-nặc ban tước cho cha Đàn-di-ly. Thọ vua phong rồi thì nhà cửa liền biến thành bảy báu, các kho lẫm tự nhiên đầy ắp, đầy đủ các thứ. Lúc đó, vương tử Lưu Ly bị bệnh nóng, thân thể tiều tụy, các ngự y bảo phải có gỗ Ngưu đầu chiên-đàn dùng làm bột xoa lên mình thì mới khỏi. Vua liền ra lệnh: “Khắp trong nước, ai có gỗ Ngưu đầu chiên-đàn mang đến cho nhà vua sẽ được ban thưởng một ngàn lượng vàng.” Lệnh truyền khắp nơi, không thấy ai đem tới. Khi ấy có một người tâu vua:
– Tâu bệ hạ, ở nước Câu-tát-la có trưởng giả Đàn-di-ly trong nhà có gỗ ấy rất nhiều.
Vua nghe nói thế, đích thân ngồi xe ngựa đi đến trước cổng nhà Đàn-di-ly. Lúc đó người giữ cổng vào báo:
– Thưa trưởng giả, có vua Ba-tư-nặc đang ở ngoài cổng.
Trưởng giả vui mừng, liền vội vã ra nghênh đón, mời vua vào nhà. Nhà vua thấy ngoài cổng xây toàn bằng bạc trắng, còn vào nhà trông thấy các cô gái mặt mũi đoan chánh ở đời ít có; họ ngồi trên giường bạc, dệt bằng sợi bạc. Mười cô gái nhỏ ra đứng hầu hai bên. Khi đó vua bèn hỏi:
– Ngươi có chồng chưa? Đáp:
– Tâu bệ hạ, chưa.
Vua tiếp tục hỏi trưởng giả:
– Các cô gái nhỏ này dùng làm gì?
Đàn-di-ly đáp thưa rõ mọi thứ ngọn ngành, lại mời vua đi vào lớp cửa trong nữa, thấy thuần lá lưu ly xanh. Trong nhà này cũng có các cô gái mặt mũi đoan nghiêm, đẹp hơn các cô gái trước nữa, họ đứng hai bên tả hữu hầu. Lại tiến vào bên trong thấy nhà cửa thuần là vàng ròng, bên trong cũng có các cô gái mặt mày tươi đẹp còn hơn các cô trước nữa. Họ ngồi trên giường dây dệt bằng sợi vàng ròng, đứng hầu hai bên. Vua cũng hỏi:
– Những cô gái này là thiếp của khanh chăng? Đáp:
– Tâu bệ hạ, không phải.
Đi vào một dãy nhà bên trong nữa thấy đất bằng lưu ly trong sáng như nước, gian nhà điêu khắc hình thú vật thủy trùng... gió thổi cảnh ấy hiện trên mặt đất, lắc lư. Vua thấy nghi ngờ sợ hãi, hỏi:
– Đây có phải là nước hay là cái ao ở mặt đất? Đàn-di-ly nói:
– Tâu bệ hạ, không phải thế. Đó là lưu ly cam. Trưởng giả liền thò tay chỉ thì bảy báu, vòng xuyến... đầy trên mặt đất, che kín cả bức tường mới dừng. Vua trông thấy rất vui mừng, liền cùng bước vào trong, lên ngồi điện bảy báu. Vợ chồng Đàn- di-ly ngồi trên giường lưu ly cam, còn có một cái giường tuyệt diệu khác nữa mời vua ngồi. Vợ chồng Đàn-di-ly bỗng dâng trào nước mắt. Vua hỏi:
– Tại sao hai khanh lại khóc, có gì không vui chăng?
Vợ chồng đáp:
– Tâu bệ hạ, ngài đến đây thật là điều lành rất lớn, chỉ vì y phục của vua có khói, khiến hai hạ thần chảy nước mắt, chứ không phải chán ghét bệ hạ.
Vua bèn hỏi:
– Hiện nay trong nhà người không đốt lửa chăng?
Đáp:
– Tâu bệ hạ, không có! Vua hỏi:
– Vậy khanh dùng gì để nấu cơm? Đáp:
– Tâu bệ hạ, khi muốn ăn thì trăm thức ăn ngon tự nhiên có trước mặt, không cần phải nấu nướng.
Vua lại hỏi:
– Vậy thì trời tối thì dùng thứ gì để thắp sáng ? Đáp:
– Tâu bệ hạ, dùng châu Ma-ni. Đàn-di-ly bèn kêu đóng các cửa lại, lấy châu Ma-ni ra, nó sáng rực như ban ngày. Lúc đó Đàn-di-ly quỳ xuống thưa vua:
– Tâu bệ hạ, vì sao phải nhọc nhằn khuất phục tôn thần?
Vua nói:
– Con trẫm là thái tử Lưu Ly bị bệnh ngặt nghèo, cần gỗ Ngưu đầu chiên-đàn làm thuốc, nên trẫm đến đây xin khanh.” Đàn-di-ly vui mừng đi vào kho bày các thứ đồ vật, trân châu bảy báu chiếu sáng rực, gỗ Ngưu đầu chiên-đàn không thể tính kể. Ông hỏi vua:
– Bệ hạ cần lấy bao nhiêu? Lúc đó vua nói:
– Chỉ cần hai khúc là đủ rồi.
Vua bèn sai thị tùng đem về hoàng cung trước và hỏi:
– Ngươi có gặp Phật chưa? Đàn-di-ly đáp:
– Thế nào là Phật?
Vua nói:
– Ngươi không nghe danh Đức Phật ư? Đấy là thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ, con vua Tịnh Phạn, nhân dịp ra chơi ngoài thành trông thấy già bệnh chết nên chán ngán bỏ hoàng cung đi xuất gia học đạo. Sau khi thành đạo gọi là Phật. Ngài có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, trí tuệ, thần túc thù thắng không ai sánh bằng, vì là Bậc Tôn Quý nhất trong trời người, nên gọi là Phật.
Đàn-di-ly nghe rồi, phát sinh lòng cung kính, hỏi vua:
– Tâu bệ hạ, hiện nay Ngài đang ở đâu?
Đáp:
– Đang ở thành Vương xá, trong khu vườn
Trúc.
Sau khi nhà vua ra về, Đàn-di-ly bèn đi đến bái kiến Đức Phật. Ông trông thấy dung nhan uy nghiêm còn hơn nghe nhà vua tán thán gấp vạn lần, trong lòng vui mừng, đầu mặt làm lễ, hỏi thăm chỗ ở, sinh hoạt... Đức Phật vì ông thuyết pháp. Nghe xong ông chứng quả Tu-đà-hoàn, liền quỳ chắp tay cầu xin xuất gia. Đức Phật nhận lời nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc ông rơi rụng, áo đang mặc biến thành y ca-sa. Đức Phật lại thuyết thêm về pháp Tứ diệu đế. Tâm cấu của ông đều sạch thành bậc A-la-hán. Bấy giờ A-nan và các Tỳ-kheo chắp tay bạch
Phật, hỏi:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Đàn-di-ly có công đức gì mà sinh trong nhân gian, được hưởng thọ phước lộc của trời, lại không ham vui cái vui của thế gian, xuất gia tu hành, chưa bao lâu thì chứng đạo quả?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe!
Về thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Sau khi Phật diệt độ, đến thời tượng pháp, có năm vị Tỳ-kheo cùng bàn ước điều thiết yếu, muốn tìm nơi yên tĩnh cùng hành đạo. Họ thấy có một cái đầm gần bên khu rừng có suối nước trong, lúc đó họ khuyên một vị Tỳ-kheo:
– Chúng tôi sắp đi xa thành thị vào rừng tu tập, nên việc đi khất thực rất cực nhọc, vậy ông nên ở lại tu phước, cúng dường chúng tôi.
Bấy giờ người đó liền hứa, rồi đi khắp nơi vận động khuyên các đàn-việt, mỗi ngày đem thức ăn, để bốn người yên thân chuyện tinh hành đạo. Trong chín mươi ngày, năm vị chứng được đạo quả, liền cùng đồng tâm nói với vị Tỳ-kheo ở lại tu phước:
– Vì nhân duyên ông lo lắng cho chúng tôi yên ổn tu hành, nay đã đạt thành đạo quả. Ông có cầu nguyện gì thì hãy cầu xin đi.
Khi ấy vị Tỳ-kheo lòng rất vui mừng mà nói:
– Vậy khiến cho tôi kiếp sau giàu có nhất trong trời người, những vật mong cầu không cần công sức mà đều tự có, rồi lại gặp được Thánh sư, nghe pháp tâm mau chóng thanh tịnh đắc đạo quả.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, vị Tỳ-kheo thuở đó nay là Đàn- di-ly vậy. Do duyên cúng dường bốn vị Tỳ-kheo mà trong chín mươi mốt kiếp sinh ra trong trời, người giàu có tôn nghiêm, không bao giờ sinh ra nơi nghèo hèn hạ tiện. Nay được gặp Ta hóa độ.
Khi đó A-nan và các Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói xong, mọi người rất được khích lệ, tinh tấn tu hành, có người đắc Sơ quả đến Tứ quả, có người phát tâm rộng rãi trụ Bất thoái địa, ai nấy đều rất vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong nước Ma- kiệt có một vị trưởng giả, vợ sinh được một đứa con trai, tướng mạo đầy đủ trông rất khả ái. Ngày sinh cậu ta, các kho tự nhiên hiện ra một con voi vàng. Cha mẹ rất vui mừng, bèn mời thầy xem tướng về nhà đặt tên. Thầy tướng trông thấy đứa bé có phước tướng mới hỏi cha mẹ nó:
– Ngày sinh đứa bé này có điềm ứng gì không? Đáp:
– Tự nhiên trong kho có một con voi vàng cùng lúc đứa bé sinh ra.
Nhân đó thầy tướng đặt tên là Tượng Hộ. Đứa bé ngày một lớn lên thì con voi ấy cũng lớn theo. Khi cậu bé đi chập chững thì con voi cũng bước đi được ra vào tới lui thường không lìa nhau. Như không dùng nó thì nó cứ ở trong nhà, con voi ấy khi tiểu tiện chỉ vọt ra vàng ròng. Một hôm, Tượng Hộ cùng năm trăm người con của các trưởng giả đi dạo chơi, ai cũng đều khoe nói về việc kỳ lạ của nhà mình, hoặc có người nói: “Nhà tôi, cái giường ngồi đều bằng bảy báu”, hoặc có người nói: “Nhà tôi vườn rừng cũng là các châu báu.” Lại có người nói: “Nhà tôi kho lẫm đầy dẫy các thứ của báu.” Họ cứ so sánh như vậy, các thứ của báu rất nhiều. Lúc đó, Tượng Hộ nói:
– Còn tôi khi mới sinh ra thì tự nhiên ở trong nhà có một con voi vàng. Khi tôi lớn lên, nó thường bên cạnh, không trái ý tôi. Tôi thường cỡi nó, đi dạo chơi khắp nơi, muốn nhanh hay chậm tùy ý, rất thích ý, đặc biệt khi nó đại tiểu ra toàn vàng ròng.
Khi đó vương tử A-xà-thế cũng ở trong nhóm đó, nghe Tượng Hộ nói thế thầm nghĩ: “Nếu ta làm vua sẽ chiếm đoạt con voi của hắn”. Khi thái tử A- xà-thế lên ngôi vua, bèn triệu Tượng Hộ dẫn con voi cùng đến triều đình. Lúc ấy cha của Tượng Hộ nói với con:
– Vua A-xà-thế hung bạo, vô đạo, tham cầu, keo kiệt. Ông ta bạo ngược nhốt tù vua cha huống nữa là người khác. Nay ông ta gọi con là tham muốn con voi của con, ông ta sẽ chiếm đoạt nó.
Người con nói:
– Con voi này không có thể cướp đoạt được đâu.
Bấy giờ hai cha con cùng cỡi voi đến bái kiến vua. Khi đó người giữ cổng vào tâu vua:
– Tâu bệ hạ, cha con của Tượng Hộ cỡi voi đến đang ở ngoài cổng thành.
Vua bảo:
– Cho họ cỡi voi vào.
Lúc đó người giữ cửa trở ra báo và bảo cha con Tượng Hộ cỡi voi vào thẳng nội cung. Bấy giờ họ xuống voi quỳ lạy vấn an nhà vua. Nhà vua rất vui mừng ra lệnh cho ngồi và ban cho ăn uống, nói chuyện qua lại chốc lát, hai cha con bái từ vua ra về. Vua bảo Tượng Hộ hãy để con voi lại, chớ có dẫn ra về. Tượng Hộ vui vẻ vâng lời vua chỉ dạy, đi bộ ra ngoài cung. Chưa bao lâu thì con voi ấy độn thổ đi ra ngoài cổng thành, cha con lên cỡi voi đi về nhà. Chàng ta tự nghĩ: “Quốc vương vô đạo, hình phạt phi lý, vì con voi này mà có thể làm hại đến mình, nay Đức Phật còn tại thế, ban ân thấm nhuần quần sinh, chi bằng xa nhà theo tu phạm hạnh.” Nghĩ thế, Tượng Hộ liền vào thưa cha:
Thưa cha, con muốn nhập đạo, mong cha mẹ cho phép.
Chàng bèn cỡi voi vàng từ tạ cha mẹ ra đi. Đến tinh xá Kỳ hoàn gặp Thế Tôn, Tượng Hộ cúi đầu đảnh lễ trình bày chí nguyện của mình. Đức Phật nhận lời nói:
– Thiện lai Tỳ-kheo!
Râu tóc Tượng Hộ tự rụng, pháp phục mặc trên mình trở thành một Sa-môn. Đức Phật thuyết về pháp yếu Tứ diệu đế, tâm thần Tượng Hộ khai ngộ chứng quả A-la-hán, cùng các vị Tỳ-kheo ở trong rừng cây tư duy tu đạo, con voi vàng ấy cũng thường ở trước mặt. Người của nước Xá-vệ nghe nói có voi vàng trong rừng bèn tranh nhau đi đến xem, làm ồn ào náo nhiệt, phá sự yên tĩnh hành đạo của các Tỳ-kheo. Các vị ấy đến bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Tượng Hộ vì có con voi theo bên mình nên mọi người thường kéo tới xem ồn náo, xin Đức Thế Tôn chỉ dạy.
Đức Phật kêu Tỳ-kheo Tượng Hộ nói:
– Nay ông nên đuổi con voi đi đi. Tượng Hộ thưa:
Bạch Thế Tôn, con muốn đuổi nó đi, thế nhưng nó không chịu đi.
Đức Phật lại bảo:
– Ông có thể nói với nó: “Ta nay đã không còn dùng ngươi nữa.” Nói như vậy ba lần thì con voi sẽ biến mất.
Bấy giờ Tượng Hộ vâng lời Thế Tôn dạy đối với con voi nói ba lần: “Ta không cần ngươi nữa”. Lúc đó con voi liền chui vào lòng đất biến mất.
Bấy giờ các vị Tỳ-kheo đều thấy rất kỳ lạ, bạch với Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Tượng Hộ vốn tu công đức gì, đối với ruộng phước gieo trồng căn lành gì mà được phước báo nhiều như thế? Mong Thế Tôn từ bi nói cho chúng con được nghe.
Đức Phật bảo A-nan cùng các Tỳ-kheo:
– Nếu có chúng sinh đối với ruộng phước Tam bảo gieo trồng một ít căn lành thì được quả báo vô lượng. Về thời quá khứ của Phật Ca-diếp, lúc đó người đời sống thọ hai vạn tuổi, sau khi Đức Phật giáo hóa xong thâu thần nhập Nê-hoàn, hỏa thiêu phân bố xá-lợi, xây dựng tháp nhiều nơi. Khi đó có một cái tháp, trong ấy có một vị Bồ-tát vốn từ cõi trời Đâu-suất cỡi voi giáng xuống phàm nhập vào thai mẹ. Lúc đó con voi ấy da trên thân bị rách chút ít. Có một người đang đi nhiễu tháp thấy da voi bị rách tự nghĩ: “Đây là voi Bồ-tát cỡi, nay bị thương, ta nên trị giúp nó.” Rồi vị ấy lấy bùn vàng đắp lên vết thương, nhân đó lập thệ nguyện: “Xin cho tôi đời sau thường sinh vào nhà tôn quý giàu có, của cải dùng không bao giờ hết.” Sau khi người đó thọ chung sinh lên cõi trời, hưởng hết tuổi trời sinh xuống nhân gian, thường được sinh vào nhà giàu có, diện mạo đoan chánh khác hơn người thường, lại thường có con voi vàng theo hầu hạ.
Đức Phật dạy:
Này A-nan, ông nên biết, người trị bệnh cho con voi nay chính là Tượng Hộ. Do đời trước trị bệnh cho voi nên từ đó đến nay sinh ở trên trời hoặc trong nhân gian được thọ của báu tự nhiên, lại có duyên tâm cung kính, phụng thờ Tam bảo nên nay được gặp Ta, bẩm thọ diệu hóa, tâm cấu đều sạch hết, cho đến tu đắc quả A-la-hán.
Lúc đó ngài A-nan và các chúng hội nghe Đức Phật nói thế không ai chẳng hiểu rõ, có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán, có người phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh giác, có người chứng được Bất thoái địa; ai nấy đều vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở thành Vương xá trong núi Thứu đầu, cùng với các đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Lúc bấy giờ vua nước Ba-la-nại tên là Ba-la- ma-đạt. Dưới triều vua này có một quan phụ tướng, ông có một cậu con trai, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt đầy đủ, thân màu sắc vàng, dung nghi đĩnh đạc. Quan phụ tướng trông thấy đứa con như thế rất vui mừng, liền mời thấy tướng về xem tướng. Thầy tướng vừa trông thấy khen rằng:
– Kỳ lạ thay! Đầy đủ tướng tốt, công đức thù thắng. Đứa bé sau này trí tuệ thông đạt hơn người.
Quan phụ tướng càng thêm vui mừng, nhân đó muốn đặt tên. Thầy tướng lại hỏi:
Từ khi sinh đứa bé ra đến nay, có điềm gì lạ không?
Quan phụ tướng đáp:
– Có điềm rất lạ thường, người mẹ tánh tình vốn không hiền lành nhưng từ khi bà mang thai thì tánh thay đổi hẳn, thương yêu kẻ khổ, giúp đỡ nuôi dưỡng người nghèo...
Thầy tướng vui mừng nói:
– Đấy là chí của đứa nhỏ.
Nhân đó đặt tên là Di-lặc. Cha mẹ thương yêu vô cùng, tiếng tăm đứa trẻ cũng đồn lan truyền khắp nơi, nhà vua nghe được, lo sợ thầm nghĩ: “Đứa bé này, danh tướng tốt đẹp rõ ràng, giả sử nó là bậc Cao đức, sau này ắt đoạt ngôi vị của ta, đợi khi nó chưa trưởng thành, ta hãy đề phòng trừ diệt trước, nếu không ắt có họa hoạn về sau.” Nghĩ kế xong, vua liền ra lệnh cho quan phụ tướng:
– Trẫm nghe nói khanh có một đứa con, dung mạo khác thường, khanh có thể mang đến để trẫm ngắm xem nó được chăng?
Khi đó người trong cung nội vương phủ nghe ý đồ mưu tính của vua, rất đau lòng như nước sôi lửa bỏng. Đứa bé này có một người cậu tên Ba-bà-lê ở nước Ba-lê-phất-đa-la, làm tới quốc sư, là một người thông minh học rộng, trí tuệ hiểu biết cao xa, tài năng đặc thù. Ông có năm trăm người đệ tử thường tới lui thọ học. Lúc bấy giờ quan phụ tướng rất yêu quý đứa con của mình, sợ bị nhà vua hại nên âm thầm tính kế sai người dùng voi chở đứa con gửi cho người cậu. Người cậu trông thấy Di- lặc tướng tốt, lòng càng thương mến nuôi dưỡng. Đứa bé dần dần lớn lên, ông dạy cho học hành, học một ngày bằng người khác học cả năm, học chưa bao lâu đã làu thông kinh thư. Khi ấy Ba-bà-lê thấy cháu mình học chưa bao lâu mà thông đạt các sách vở như thế, ông muốn mở một bữa tiệc để hiển dương tiếng tốt của nó. Ông sai một người đệ tử đến nước Ba-la-nại nói với quan phụ tướng rằng sở học của con trai ông quý hơn châu ngọc, nay đã thành công, người cậu muốn mở tiệc ăn mừng. Người đệ tử này đi được nửa đường nghe người ta nói Đức Phật có đức hạnh vô lượng, suy nghĩ hâm mộ muốn đến diện kiến, liền đi đến chỗ Phật, đi giữa đường bị hổ vồ bắt ăn thịt, nhờ có tâm thiện nên được sinh lên cõi trời Tứ thiên. Ông Ba-bà-lê đem hết sức mình tập hợp của cải để chiêu đãi một bữa tiệc lớn, thỉnh các Bà-la-môn. Tất cả mọi người đều vân tập, bày biện các món thức ăn khéo léo ngon lạ. Chiêu đãi xong, đại thí cho mỗi người được năm trăm đồng tiền vàng. Bố thí xong tài vật khánh tận thì có một vị Bà-la-môn tên là Lao-độ- sai đi đến sau cùng gặp Ba-bà-lê nói:
– Tôi đi đến sau tuy không được ăn nhưng cũng nên cho tôi năm trăm đồng tiền vàng.
Ba-bà-lê đáp:
– Tài vật tôi đã hết, thật sự không thể đáp ứng cho ông nữa.
Lao-độ-sai nói:
– Nghe ông mở cuộc bố thí nên tôi mới đi đến. Tại sao không thấy có được gì cả, nếu ông trái nghịch không cho tôi thì bảy ngày nữa, đầu ông sẽ vỡ bảy mảnh.
Khi đó Ba-bà-lê nghe lời nói rồi tự suy nghĩ: “Ở đời có ác chú và đạo đầu độc khác, sự việc này không thể xem thường, giả sử có thể có, chắc là tài vật đều hết, không cách nào tính được.” Nghĩ thế buồn rầu lấy làm sợ sệt. Nhờ trước kia có một đệ tử mạng chung sinh lên cõi trời, từ xa trông thấy thầy mình buồn rầu tiều tụy không chỗ nương cậy, liền từ trên trời bay xuống đến trước mặt thầy hỏi:
– Thưa thầy, vì sao thầy buồn rầu?
Vị thầy mới đem mọi việc trình bày ra hết. Vị trời nghe rồi nói với thầy:
– Lao-độ-sai chưa biết Đảnh pháp, là người ngu si sống trong lưới mê tà ác, rốt cùng làm sao có thể hại, xin chớ lo buồn về việc này. Nay chỉ có Đức Phật có thể giải quyết Đảnh pháp, là Bậc Vô Cực Pháp Vương, đáng để quy y.
Bấy giờ Ba-bà-lê nghe trời nói về Phật, liền hỏi thêm:
– Đức Phật là người thế nào? Trời liền nói:
– Đức Phật trước kia sinh ở Ca-tỳ-la-vệ, con vua Tịnh Phạn, Ngài sinh ra từ hông phải, đi bảy bước, được trời người tôn xưng, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu khắp trời đất; trời Đế Thích, Đại phạm hầu hạ, có ba mươi hai điềm lành chất đầy trời đất. Thầy tướng đến xem nói hai điều: Một, nếu ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Hai, nếu xuất gia sẽ thành Phật. Sau khi lớn lên, do thấy già bệnh chết, không thích ngôi vua, Ngài vượt hoàng cung bỏ nước, sáu năm khổ hạnh, ngồi dưới cội Bồ-đề, phá sạch mười tám ức ma. Lúc nửa đêm, chứng Tam minh, Lục thông, Thập lực vô úy, Thập bát bất cộng đều đầy đủ. Ngài đến nước Ba-la-nại chuyển pháp luân lần đầu tiên cho năm anh em Kiều-trần- như dứt sạch lậu, tám vạn chư Thiên được pháp nhãn tịnh, vô số trời người phát tâm cầu đạo Vô thượng. Kế đến nước Ma-kiệt-đà độ Uất-tỳ-la-tinh, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên..., có cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo làm đồ đệ gọi là Tăng chúng. Công đức trí năng của Ngài không thể kể xiết, nói tóm lại gọi là Phật. Hiện nay Ngài đang ở thành Vương xá, trong núi Thứu đầu.
Khi đó ông Ba-bà-lê nghe tán thán về Đức Phật, tự suy nghĩ: “Ắt là có Phật. Trong sách ta có ghi chép, sao Phật giáng hiện, trời đất chấn động, sẽ sinh Thánh nhân, nay thật sự có việc này, dường như là vị này”, liền sai Di-lặc và mười sáu người đến gặp Cù-đàm. Trông thấy Đức Phật tướng hảo, đầy đủ các tướng, tâm niệm Di-lặc suy nghĩ vấn nạn Đức Phật:
– Thầy ta là Ba-bà-lê có vài tướng, còn thân ta đây có hai tướng: tóc xanh mượt và lưỡi rộng dài. Nếu ông ấy biết việc ấy, lại càng nạn vấn: Thầy ta Ba-bà-lê năm nay một trăm hai mươi tuổi, nếu như ông ấy biết, càng phải nạn vấn. Thầy ta là dòng họ nào, muốn biết dòng họ của ta là Bà-la-môn, như ông ta biết lại càng phải nạn vấn. Thầy Ba-bà-lê ta có vài đệ tử, còn như ta đây có năm trăm đệ tử, nếu đáp biết được số đó, ắt đây đúng là Phật.
Bấy giờ Di-lặc tiến đến thành Vương xá gần núi Thứu đầu, thấy dấu chân Phật có tướng ngàn bánh xe rõ như ban ngày, liền hỏi người ta rằng:
– Đây là dấu chân ai? Có người đáp:
– Đây là dấu chân Phật.
Khi đó nhóm người của Di-lặc ôm lòng ngưỡng mộ, bồi hồi bên dấu chân. Lúc đó có vị Tỳ-kheo-ni Sát-la cầm một con trùng chết để nơi dấu chân Phật, chỉ bày cho nhóm người của Di-lặc đều cùng xem:
– Các ông đều khâm phục ngưỡng mộ dấu chân này. Còn các ông giẫm giết chúng sinh có kỳ lạ không?
Di-lặc cùng mọi người đến trước xem, nhìn thấy hình tướng là độc trùng, liền hỏi Tỳ-kheo-ni:
– Bà là đệ tử của ai? Tỳ-kheo-ni đáp:
– Là đệ tử của Đức Phật.
Bấy giờ nhóm người của Di-lặc đều tự nói: “Trong đệ tử Phật cũng có người này”. Họ dần dần đi đến chỗ Phật, từ xa trông thấy Thế Tôn quang minh chiếu diệu, các tướng chói lọi. Đức Phật liền vì họ le lưỡi dài trùm cả mặt, lại dùng thần lực khiến họ thấy âm tàng, thấy khắp các tướng, họ càng thêm vui mừng, liền vâng lệnh thầy trình bày tâm khó nghĩ:
– Thầy con là Ba-bà-lê cũng có vài tướng. Đức Phật từ xa liền đáp:
– Thầy ngươi Ba-bà-lê chỉ có hai tướng, một là tóc xanh mượt, hai là lưỡi rộng dài.
Di-lặc nghe rõ trong lòng càng muốn chất vấn:
– Thầy con Ba-bà-lê năm nay bao nhiêu tuổi. Đức Phật đáp:
– Thầy Ba-bà-lê của ngươi năm nay một trăm hai mươi tuổi.
Tuy nghe rồi nhưng trong lòng còn muốn nạn vấn:
– Thầy Ba-bà-lê con thuộc dòng tộc nào? Đức Phật đáp:
Thầy Ba-bà-lê của người thuộc chủng tộc Bà- la-môn.
Di-lặc nghe rồi lòng càng nạn vấn:
– Thầy Ba-bà-lê con có mấy đệ tử? Đức Phật đáp:
– Thầy Ba-bà-lê của ngươi có năm trăm đệ tử.
Lúc bấy giờ chúng hội nghe Đức Phật nói rồi rất ngạc nhiên: “Như Lai riêng một mình nói lời này”. Khi đó các đệ tử quỳ hỏi Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, tại sao Thế Tôn nói như vậy? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Có ông Ba-bà-lê ở nước Ba-lê-phất-đa-la, sai mười sáu đệ tử đến chỗ Ta thử xem tướng Ta, do họ khởi tâm niệm, nên Ta đáp đầy đủ.
Lúc đó nhóm người của Di-lặc nghe Đức Phật đáp nạn vấn đúng như thật, không sai một chút nào, sinh lòng rất kính ngưỡng, đi đến chỗ Phật ngự, đầu mặt đảnh lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật vì họ thuyết pháp, cả mười sáu người được pháp nhãn tịnh, từ chỗ ngồi đứng dậy muốn cầu xin xuất gia. Đức Phật bảo:
– Thiện lai!
Râu tóc họ tự rụng, pháp y mặc trên thân trở thành Sa-môn. Đức Phật lại dùng thêm phương tiện thuyết pháp cho họ cả mười sáu người chứng quả A-la-hán.
Bấy giờ Di-lặc cùng nhóm bạn cùng bàn bạc:
Thầy Ba-bà-lê ở xa, nên sai người trở về cho hay tin tức. Trong mười sáu người có một người tên Tân Kỳ là con của chị gái ông Ba-bà-lê. Họ sai người này về thưa tin tức. Vị ấy bèn trở về nước Ba-bà-lê trình bày các điều nghe thấy. Ông Ba-bà- lê nghe rồi, trong lòng vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay quỳ xuống hướng về thành Vương xá, tự thành tâm nói:
– Sinh ra đời rất khó gặp được Bậc Thánh, suy nghĩ muốn gặp tôn dung, bẩm thọ thanh hóa, tuổi đã già, chân tay không còn mạnh khỏe, tuy có thành tâm nhưng không tự đạt được, Đức Thế Tôn đại từ, đoán biết tâm người, cúi mong khuất thần đến để tiếp độ.
Khi đó Như Lai tự biết được ý của ông, co duỗi cánh tay trong khoảng chốc lát đến trước mặt ông. Lễ xong, ông ngước đầu nhìn thấy Thế Tôn, vui mừng kinh ngạc, lễ bái thăm hỏi, mời ngồi cung kính đứng hầu Phật. Đức Phật vì ông thuyết pháp, ông chứng quả A-na-hàm, lúc đó Thế Tôn trở về núi Thứu đầu.
Bấy giờ vua Tịnh Phạn nghe Đức Phật thành đạo đi khắp nơi giáo hóa, nhiều nơi được hóa độ, ôm lòng khát ngưỡng suy nghĩ muốn được gặp, mới bảo Ưu-đà-da rằng:
– Ông đi đến chỗ Phật, đem ý của ta thưa với Tất-đạt: “Con có đắc đạo nên trở về, ta nguyện tuân theo lời giáo hóa”.
Khi đến gặp nhau, Ưu-đà-da đến trình bày ý của vua. Đức Phật hứa khả, bảy ngày nữa sẽ trở về. Ưu-đà-da vui mừng trở về báo tin tức, vua Tịnh Phạn nghe xong nói với các quần thần:
– Ưu-đà-da đến bảo rằng Đức Phật sẽ trở về.
Vua cho chuẩn bị trang nghiêm thành nội rất là sạch sẽ, dẹp đường xá, dựng tràng phan khắp nơi, cùng các hoa hương chuẩn bị cúng dường. Chuẩn bị trang hoàng xong, vua cùng các quần thần đi ra ngoài thành bốn mươi dặm nghênh đón Thế Tôn. Lúc bấy giờ Như Lai cùng cả đại chúng tám Kim cang Lực sĩ đứng ở tám mặt, có bốn vị Thiên vương đi trước dẫn đường, trời Đế Thích cùng các trời cõi Dục hầu hạ bên trái đường, các Tỳ-kheo Tăng thứ tự đứng sau. Đức Phật đứng ở giữa đại chúng, phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp trời đất, hơn cả mặt trời, mặt trăng, khắp cùng đại chúng, cỡi hư không mà đi, sắp đến gần vua, hạ thấp bằng đầu người. Vua cùng thần dân, phu nhân, thể nữ trông thấy đại chúng y vàng rực rỡ, Đức Phật đứng ở giữa như những vì sao chung quanh mặt trăng. Vua rất vui mừng bất giác cúi xuống lễ bái, hỏi thăm rồi cùng trở về nước, trụ ở Tăng-già- lam Ni-câu-lư-đà. Quốc pháp lúc bấy giờ nam nữ có khác, vua cùng thần dân hàng ngày được nghe pháp, nghe xong được giác ngộ, người được độ rất nhiều. Còn các phụ nữ thì ôm lòng oán hận: “Đức Phật cùng đại chúng tuy trở về nước, người nam có được may mắn, riêng được thấy nghe, còn người nữ chúng tôi không nhờ được ân đức”. Đức Phật biết ý đó, liền nói với vua:
– Từ nay về sau khiến cả nước được nghỉ ngơi nghe pháp một ngày một giờ.
Từ đó về sau, nhờ ân Phật, phái nữ được độ rất nhiều. Khi đó di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, sau khi Phật đã đi xuất gia, tự tay bà dệt một tấm lụa màu vàng trong lòng tưởng nhớ, chỉ chờ đợi Phật, nay đã gặp được Phật, lòng rất vui mừng, cầm tấm lụa ấy dâng lên Như Lai. Đức Phật bảo:
– Kiều-đàm-di, bà hãy đem tấm lụa này đi dâng cho chúng Tăng.
Khi đó bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề lại bạch Phật:
– Từ khi Đức Phật xuất gia, tâm tôi mỗi khi nhớ đến nên tự tay dệt tấm lụa này, một lòng chờ đợi Phật, cúi mong thương xót vì tôi nạp thọ.
Đức Phật bảo di mẫu:
– Biết mẹ chuyên tâm nhưng Ta muốn di mẫu bố thí cho chúng Tăng thì được phước báo rất nhiều, Ta biết việc này, nên mới khuyên đấy.
Đức Phật lại nói:
Nếu có đàn-việt đầy đủ mười sáu thứ thỉnh riêng tuy được phước báo cũng chưa là nhiều. Thế nào là mười sáu? Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phải có tám vị, không như trong Tăng chúng thỉnh bốn vị, công đức được phước nhiều hơn kia. Trong mười sáu phần chưa bằng một. Đời mạt sau này, pháp sắp diệt tận, cho dù Tỳ-kheo nuôi vợ con nhưng bốn người trở lên mới gọi là Tăng, phải nên cung kính như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên...
Khi đó Ma-ha Ba-xà-ba-đề tâm liền khai giải lấy y ấy dâng cúng chúng Tăng, thứ tự cúng dường, không ai muốn nhận, đến trước Di-lặc thì ông thọ nhận. Sau đó Thế Tôn cùng Tỳ-kheo Tăng đi đến nước Ba-la-nại hóa đạo. Bấy giờ Di-lặc mặc y lụa sắc vàng, thân tướng đoan chánh, dung nhan vàng tím, trong người tương xứng uy nghi rõ ràng, vào thành Ba-la-nại, muốn đi khất thực. Đến con đường lớn, ôm bát đứng lại, nhân dân trông thấy tướng mạo vây quanh xem mãi không biết chán, tuy ai cũng đều khâm phục kính ngưỡng mà không có cho cơm. Có một người thợ xâu ngọc, gặp Di- lặc rất là ngưỡng mộ, liền hỏi:
– Đại đức, có được thức ăn chưa? Đáp:
– Chưa được!
Ông liền mời về nhà bày dọn thức ăn cúng dường. Ăn uống, tắm gội xong, Di-lặc vì ông ta thuyết Diệu pháp, ngôn từ hay đẹp, nghe mãi không chán. Lúc đó có một vị đại trưởng già nọ muốn gả đứa con gái, trước tiên cần cho một xâu chuỗi ngọc, đi mượn xâu chuỗi xong đem trả mười vạn tiền. Khi đó trưởng giả sai người đến hỏi.
Người thợ ngọc đang nghe pháp mới bảo:
– Đi đi! Sau này sẽ xâu cho. Người đó lại nói:
– Nay rất cần gấp.
Ông nhớ xâu chuỗi đeo trên tay, nên lấy ra dặn người đó mang về và nói với vị trưởng giả chốc lát sẽ sai người đến. Vì còn đang nghe pháp chưa đi xâu chuỗi được. Vị ấy trở về thưa lại với trưởng giả, vị trưởng giả nổi giận nói:
– Đã sai người đến nói đôi lần mà còn nhờ vả ký thác, nay không làm theo ta cần.
Ông liền sai người đến lần nữa, nhân đó ôm tiền đi, nếu ông ta chưa xâu chuỗi thì đem ngọc trở về. Sai người đến hỏi cũng còn đang nghe pháp, biết là chưa xong ngọc, vội vã đòi ngọc lại, việc bất đắc dĩ, liền trả lại cho vị ấy, người thợ xâu chuỗi vẫn ở trước Di-lặc ngồi nghe pháp, tâm không chán mệt. Người vợ thợ xâu ngọc nổi giận trách mắng chồng:
– Chịu cực nhọc trong chốc lát thì đã được mười vạn tiền, lấy đó để mua sắm đồ đạc, y thực trong nhà đang thiếu thốn, chỉ lo nghe lời nói phù mỹ của Sa-môn để mất cái lợi tiền tài này.
Chồng nghe vợ nói ôm lòng hối hận. Di-lặc biết ý ông nói:
– Nay ông có thể cùng đi đến tinh xá không? Đáp:
– Vâng!
Lúc đó cả hai cùng đi đến tinh xá. Sắp đến trong Tăng chúng, Di-lặc mới hỏi tăng chúng rằng:
– Nếu có đàn-việt thỉnh một vị Sa-môn trì giới thanh tịnh đến nhà cúng dường, lợi ích đạt được có như mười vạn tiền không?
Khi đó ngài Kiều-trần-như nói:
– Giả sử có người được trăm xe châu báu, phước lợi ấy tính ra không bằng thỉnh một Sa-môn trì giới thanh tịnh về nhà cúng dường, được lợi rất nhiều.
Bây giờ ngài A-na-luật nói:
– Giả sử của báu có được đầy cả bốn thiên hạ, cũng không bằng thỉnh một vị Sa-môn trì giới thanh tịnh về nhà cúng dường, được lợi thù thắng gấp bội. Sở dĩ như vậy vì sở chứng của tôi tự nhớ quá khứ chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi, sau khi nhập Niết-bàn, kinh pháp diệt tận, lúc đó ở châu Diêm-phù-đề có một nước lớn tên Ba-la-nại.
Bấy giờ, trong nước có một thương buôn, nhà rất giàu có không thiếu thốn gì cả. Ông có hai cậu con trai, tướng mạo đều đoan chánh. Đứa lớn tên Lệ-tra, đứa nhỏ tên A-lệ-tra. Lúc người cha sắp mạng chung dặn dò hai đứa con:
Cha chắc không tránh khỏi sự chết, sau khi cha qua đời, anh em các con nên nhớ cùng nhau thờ phụng hợp tâm hợp lực, chớ có sống riêng. Tại vì sao thế? Thí như một sợi tơ không thể buộc con voi, nhưng hợp nhiều sợi tơ lại thì có thể chế phục con voi. Thí như một cọng cỏ không riêng đốt cháy, hợp nhiều cọng cỏ thành một bó đốt cháy lâu hơn. Nay anh em các con, cũng lại như vậy, phải cùng tương trợ, nương tựa với nhau thì người ngoài không phá hoại được, bên trong siêng năng thì gia nghiệp ngày càng phát đạt.
Sau khi dặn dò xong thì tắt thở qua đời, anh em vâng lời cha sống chung với nhau một thời gian. Sau này vợ của A-lệ-tra tự suy nghĩ rằng: “Nay cùng sống chung với người của nhà anh biết không được ưu đãi mấy, nếu sống riêng ai nấy cố gắng nỗ lực, về tình đã không khó xử mà có thể tự lập thành ngôi nhà.” Nghĩ thế xong bèn nói với chồng là A- lệ-tra. Nghe vợ nói như vậy, người em cho là không thể, người vợ lại năn nỉ, nói ra đạo lý dông dài. A-lệ-tra đem sự việc thưa với anh, người anh nhắc lại lời cha dặn dò và nói sự việc ấy không thể. Bấy giờ vợ A-lệ-tra cứ mỗi ngày khuyên chồng, người chồng đành thưa với anh là phải sống riêng. Sau khi ở riêng, vợ của A-lệ-tra tự do phóng túng, tụ tập bạn bè ăn uống xa xỉ, không theo lễ độ. Trải qua chưa được mấy năm của cải tài sản trong nhà tiêu hao hết, nghèo khổ không phương sinh sống, lại đi đến người anh xin. Người anh cho mười vạn tiền đem về tiêu dùng hết rồi lại tiếp tục xin, cứ như vậy sáu lần, trước sau cho cả thảy sáu mươi vạn tiền. Sau này lại đến cầu xin nữa, người anh quở trách:
– Em quên lời cha dạy, không chịu nghe lời, mới được mấy năm thì xin sống riêng, tiêu xài vô độ. Không thể cho nữa, trước nay đã cho em cả thảy sáu mươi vạn tiền, em còn chẳng biết đủ, lại còn đến cầu xin. Hôm nay cho em thêm mười vạn tiền, có sống hay không có sống như thế nào, đừng đến xin nữa.
Người em bị quở trách, xấu hổ lấy tiền ra về. Vợ chồng sửa đổi siêng năng tiết kiệm, tài sản ngày càng phát triển rộng sau này dần dần giàu có không thiếu thốn gì. Còn người anh Lệ-tra gặp phải suy vi phá sản, của cải, tài vật tiêu tan, nhà cửa nghèo thiếu vô phương sinh kế, mới đi đến bên người em cầu xin ít tiền. Người em không cho mà còn nổi giận hiềm trách nói với anh:
Anh chưa từng biết nghèo sao lại đi đến tôi xin.
Nói rồi cũng không cho ăn uống gì cả. Người anh bèn trở về tự ngẫm nghĩ: “Trong cuộc đời sinh tử, sao mà đáng sợ thế? Anh em cùng một cha mẹ, sao không biết ân dưỡng, huống nữa là người khác.” Suy rộng nghĩa lý, tâm Lệ-tra liền chán thế gian, bỏ nhà vào núi, tĩnh tọa tư duy các pháp sinh diệt, tâm liền khai ngộ, thành Bích-chi-phật, uy nghi khả quan, rồi đi vào thành khất thực. Gặp lúc nhân dân đói thiếu, đi khất thực khó được. Khi đó người em A-lệ-tra sau này nghèo khổ, hàng ngày phải đi kiếm củi đem bán để nuôi sống vợ con.
Một buổi sáng nọ, đi vào trong cửa thành, gặp vị Bích-chi-phật uy nghi khả quan vào thành khất thực, chàng ta vẫn đi kiếm củi rồi trở về đến cửa thành thấy Bích-chi-phật đi ôm bát không, tâm tự suy nghĩ: “Đây là Khoái Sĩ, sáng sớm thấy vào thành sao bây giờ ôm bát không ra về. Nếu nay đi chung với ta về nhà, ta sẽ đem thức ăn dâng cúng cho ngài.”, nghĩ thế rồi đi. Bấy giờ Bích-chi-phật quán biết được ý của người em, liền đi theo sau đến cổng nhà. A-lệ-tra trông thấy Bích-chi-phật, tâm vui mừng, liền trải giường thỉnh ngài vào ngồi, tự tay mình đem thức ăn dâng cho ngài. Bấy giờ Bích- chi-phật nói với A-lệ-tra:
– Người cũng đói khát, nên cùng chia nhau ăn.
A-lệ-tra bạch:
– Chúng con người thế tục ăn không giờ giấc, còn ngài chỉ dùng một buổi, xin hãy thọ nhận.
Bích-chi-phật liền thọ trai, cảm niệm sự chí tâm của thí chủ. Gặp lúc đói ngặt, cha con không thể cứu, cắt thân mình dùng để cúng thí. Ngay lúc đó, Bích-chi-phật liền bay lên hư không, thân xuất ra lửa nước, hiển hiện thần túc, rồi trở lại trước mặt, nói với A-lệ-tra:
– Có muốn cầu nguyện gì thì sẽ được như ý?
Thấy sự biến hiện vui mừng, A-lệ-tra liền chí tâm tự lập thệ nguyện: “Tất cả chúng sinh có nhiều của cải, nguyện tôi đời đời chớ có thiếu thốn, mong muốn điều gì, ưng ý mà có.” Lại nguyện: “Tương lai gặp được bậc Thượng sĩ công đức thù thắng gấp trăm ngàn vạn lần vị này, khiến tôi ở chỗ vị ấy được lậu tận, chứng thần túc biến hóa cùng với ngài không khác.” Cầu nguyện xong, lại vui mừng gấp bội.
Bấy giờ Bích-chi-phật trở về chỗ ở, còn A-lệ- tra trở về đi kiếm củi, thì thấy một con thỏ, ý muốn bắt lấy, chạy đến gần, lấy liềm từ xa ném, tức thời rớt trên đất. Chàng chạy tới trước muốn lấy thì thấy hóa thành người chết đè lên lưng, bao phủ đầu mình, dùng hết sức lôi đẩy đi, nhưng không làm nổi. Trong lòng chàng lo sợ, kinh hoảng khổ não, ý muốn vào thành cùng vợ tiếp, nhưng sợ người ta trông thấy khiến không cho vào nên ở lại đợi đến trời tối dùng áo che phủ vác vào thành đi vào nhà. Vác vào đến trong nhà, bao ấy tự nhiên rơi xuống đất, biến thành một đống vàng Diêm-phù-đàn, ánh sáng chói lọi. Những nhà bên cạnh đồn đãi lần lần đến tai nhà vua. Vua liền sai người đi đến xem xét có đúng sự thật không, sai người đến thấy thì là xác người chết, trở về tâu vua là xác người chết. Nhà vua hỏi người khác thì nói là thấy vàng. Thấy việc quá kỳ lạ, vua sai người đến xem nữa. Đến lui như vậy bảy lần đều nói không chắc chắn. Nhà vua đích thân đi đến xem thấy là xác người chết, thây thi dần dần muốn hôi thối, liền bảo A-lệ-tra:
– Nhà ngươi thấy như thế nào?
A-lệ-tra đáp:
– Đây thật là vàng.
Liền lấy một ít dâng lên cho vua. Đức vua thấy sắc vàng, quý chưa từng có, mới hỏi nguyên do, duyên sự thế nào mà được vàng này Lúc đó A-lệ- tra trình bày đầy đủ gốc ngọn cho vua nghe, chắc là do đức Bích-chi-phật. Vua nghe nói, khen: “Lành thay! Ngươi được phước báo gặp được bậc Thượng nhân này”, liền ban cho chức đại thần.
Nói đến đây ngài A-na-luật nhắc lại:
Như thế đó chư Tôn, A-lệ-tra kia chính là tiền kiếp của tôi. Tôi ở đời trước dùng ít mè cúng thí cho Bích-chi-phật, nhân đó tự cầu nguyện, duyên đó đến nay được chín mươi mốt kiếp sinh trong trời người không bị thiếu kém, thân tướng trang nghiêm muốn gì đều được như ý, cho đến đời này, khi ở tại gia, tôi thường dạo chơi, không thích việc đời, anh Ma-ha-nam thường có lời oán trách. Mẹ tôi nói rằng: “Con tôi có phúc đức”. Anh Ma-ha- nam nói: “Tôi riêng một mình suy nghĩ nhọc nhằn, việc nhà ruộng nương. Nó ở không nằm ăn, làm sao có phước đức”. Bà mẹ muốn thử, sai tôi đến ruộng coi việc trồng tỉa, mà không đem cơm. Tôi ngạc nhiên sao đem cơm đến chậm, sai người đi hỏi, mẹ sai người đến nói với tôi rằng: “Không có gì cả”. Tôi trở về thưa mẹ: “Cúi mong cho con!” Lúc đó mẹ nghe tôi nói liền lấy dụng cụ đồ vật dùng đồ che lại đem đưa cho tôi, khiến Ma-ha-nam trông thấy, anh đi đến trước tôi, vỡ ra thấy trăm vị thơm ngon, đồ đựng đầy đủ. Như vậy, tôi dùng có ít mè cúng thí Bích-chi-phật, trong chín mươi mốt kiếp phước lợi chưa giảm, lại do duyên này gặp Phật hóa độ. Vì thế cho nên mới biết thỉnh một vị Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh về nhà cúng dường được lợi hơn của báu bốn châu thiên hạ.
Ngài A-na-luật nói lời đó rồi, lúc đó Thế Tôn từ bên ngoài đi vào, nghe A-na-luật nói về việc quá khứ, bảo các Tỳ-kheo:
Tỳ-kheo các ông, nói về quá khứ, Ta tiếp tục nói về đời vị lai. Lúc ấy ở cõi Diêm-phù-đề này đất đai rộng rãi bằng thẳng, không có núi sông, đất sinh cỏ mềm cũng như y áo của trời. Lúc đó nhân dân thọ mạng tám vạn bốn ngàn tuổi, thân cao tám trượng, ngay thẳng đẹp đẽ lạ thường, tánh người nhân từ hiền hòa, đầy đủ mười điều thiện. Thời đó sẽ có Chuyển luân thánh vương tên là Thắng Già. Lúc đó có một vị Bà-la-môn, trong nhà có một đứa con trai tên là Di-lặc, thân sắc vàng tím, ba mươi hai tướng tốt đầy đủ, quang minh chói lọi, sau xuất gia học đạo thành Bậc Tối Chánh Giác rộng vì chúng sinh chuyển pháp luân tôn quý. Đại hội lần thứ nhất độ chín mươi ba ức loại chúng sinh, đại hội lần thứ hai độ chín mươi sáu ức, đại hội lần thứ ba độ chín mươi chín ức. Các Tỳ-kheo như thế trong ba hội thuyết pháp, người được độ đều là Ta để giáo pháp lại cho chúng sinh gieo trồng phước điền hoặc cúng dường Tam bảo, xuất gia, tại gia trì giữ giới, người thắp hương đốt đèn lễ bái đều được ở trong ba đại hội ấy. Ba đại hội chúng sinh được độ do Ta để lại, sau này giáo hóa đồng duyên làm đồ đệ.
Lúc bấy giờ Di-lặc nghe Phật nói thế từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ xuống chắp tay bạch:
– Con nguyện làm vị Di-lặc Thế Tôn ấy. Đức Phật bảo Di-lặc:
– Như lời ông nói, sau này ông sẽ là Di-lặc Như Lai, giáo hóa như đã nói trên đều là ông vậy.
Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Tỳ-kheo tên A-thi-đa quỳ bạch Đức Phật:
Con nguyện làm vị Chuyển luân thánh vương đó.
Đức Phật bảo:
Ông chỉ muốn đêm dài tham vui sinh tử, không tính ra khỏi sao?
Lúc đó tất cả đại chúng thấy Đức Phật thọ ký cho Di-lặc sau này thành Phật, cũng tên là Di-lặc, đều có tâm nghi, muốn biết nguồn gốc.
A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Di-lặc thành Phật lại có tên
Di-lặc, do nhân duyên gì mà đặt tên như thế?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe!
Vào thời quá khứ kiếp a-tăng-kỳ vô lượng, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị đại quốc vương tên Đàm-ma-lưu-chi thống lãnh châu Diêm-phù-đề tám vạn bốn ngàn nước, sáu vạn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, hai vạn phu nhân thể nữ, một vạn đại thần, trong đó có một nước nhỏ giàu có vui vẻ, vua tên Ba-tắc-kỳ. Lúc đó Đức Phật Phất-sa vừa mới ra đời hóa đạo chúng sinh trong nước ấy. Khi đó vua Ba-tắc-kỳ cùng các quần thần chuyên cúng dường Đức Phật và chúng Tăng, nghĩ đến triều gặp đại vương cống hiến đều dứt cả. Lúc đó đại vương ngạc nhiên thấy họ không đến, bèn sai sứ giả đến quở trách. Sứ giả đến nói:
– Mấy năm gần đây, người và thư đều cắt đứt, ngài là bề tôi vì sao trái lại, ắt là có lòng dạ khác chăng, muốn ôm lòng phản nghịch chăng?
Khi đó vua Ba-tắc-kỳ được nghe lời đại vương dạy, tự biết trái phạm nhưng chẳng biết làm sao, liền đi đến bái kiến Đức Phật bạch sự việc như vậy. Đức Phật bảo vua:
Bệ hạ chớ có lo lắng, hãy nhờ sứ giả trở về thành thật trình bày rằng: “Vì có Phật ở nước tôi, sớm tối lo phụng sự, cho nên không xin nghỉ phép, không đến chầu đại vương, còn của cải trong nước đem cúng Phật và chúng Tăng, không có dư để có thể đem cống hiến.”
Vua Ba-tắc-kỳ được Đức Phật dạy rồi, liền trở về báo sứ giả y như lời Phật nói. Sứ giả trở về tâu đại vương đầy đủ ý của vua Ba-tắc-kỳ. Đại vương nghe xong rất là phẫn nộ, liền họp quần thần bàn bạc việc này. Các quần thần đều nói:
– Vua đó kiêu ngạo, đạo lý ngang ngược, nên tuyên hợp các binh lính đi công phạt hắn.
Đại vương liền đồng ý hợp binh đi đánh. Tiền quân sắp đến gần, vua Ba-tắc-kỳ hay được, trong lòng lo sợ vội đến bạch Phật. Đức Phật bảo:
– Chớ có lo rầu, chỉ nên đi gặp đại vương nói như lời trước.
Vua Ba-tắc-kỳ cùng các quần thần đi đến biên giới gặp đại vương vấn bái xong đứng qua một bên. Đại vương trách hỏi:
– Vì sao nhà ngươi ỷ lại ngã mạn thất thường không đến triều bái?
Vua Ba-tắc-kỳ nói:
– Tâu đại vương, Đức Phật ra đời rất khó gặp, nay Ngài đang ở nước của thần, hóa đạo chúng sinh. Vì sáng tối lo hầu hạ cho nên khiến thất lễ với đại vương.
Lại trách thêm:
– Cho dù hầu hạ cũng được, nhưng tại sao cắt đứt không cống hiến?
Vua Ba-tắc-kỳ nói:
– Tâu đại vương, Đức Phật có đồ chúng gọi là chúng Tăng. Họ giữ giới đức thanh tịnh, là ruộng phước cho người đời, lấy của trong nước thường dùng cúng dường, nên không có dư nhiều có thể đem đi cống hiến.
Đàm-ma-lưu-chi nghe xong lời này bảo:
– Hãy thôi! Ta cần gặp Phật, gặp Phật xong sẽ trở về, miễn hỏi tội nhà ngươi.
Vua liền cùng quần thần đi đến chỗ Phật. Lúc đó Như Lai được đại chúng vây quanh, thảy đều ngồi nhập định yên lặng. Có một Tỳ-kheo nhập Từ bi tam-muội, phóng kim quang minh như đống lửa lớn. Vua Đàm-ma-lưu-chi từ xa trông thấy Thế Tôn quang minh chói lọi hơn cả mặt trời mặt trăng, đại chúng vây quanh như những tinh tú, đảnh lễ Phật đúng như pháp thăm hỏi. Thấy vị Tỳ-kheo này quang minh sáng chói, vua liền bạch:
– Bạch Thế Tôn, vị Tỳ-kheo này nhập định gì mà ánh sáng chói lọi như thế?
Đức Phật bảo:
– Đại vương, Tỳ-kheo này nhập định Từ bi.
Vua nghe xong kính ngưỡng gấp bội. Nghe nói về định Từ bi cao vòi vọi như thế, vua nói:
– Con muốn tập tam-muội Từ bi này.
Nói xong, chí hâm mộ định Từ bi, ý rất nhu nhuyễn, tâm vô hại, liền thỉnh Đức Phật và chúng
Tăng cúi mong hồi thân đi đến đại quốc. Đức Phật hứa khả tức khắc đi liền. Vua Ba-tắc-kỳ nghe Đức Phật muốn đi đến nước của vua Đàm-ma-lưu-chi, rất buồn nhớ, lưu luyến, tâm tư suy nghĩ: “Nếu khiến ta là đại vương, chắc Như Lai thường trụ ở nước ta, do ta nước nhỏ nên không được tự tại.” Nghĩ như vậy rồi liền hỏi Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, trong các vua ai là lớn nhất? Đức Phật bảo:
– Vua Chuyển luân lớn nhất.
Vua Ba-tắc-kỳ nhân đó lập nguyện: “Nguyện cho tôi từ nay về sau cúng dường Đức Phật và chúng Tăng, công đức này thệ nguyện đời đời về sau làm vua Chuyển luân.”
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Này A-nan, đại vương Đàm-ma-lưu-chi thuở đó nay là Di-lặc, bắt đầu từ kiếp đó phát tâm Từ, từ đấy về sau thường tên Di-lặc. Vua Ba-tắc-kỳ nay là Kỳ-đà, vẫn ở trong nước đó làm vua Chuyển luân, từ đó về sau đời đời thường như vậy, cho đến ngày nay, công đức chẳng cùng. Bấy giờ thợ xâu ngọc nghe nói thế rồi phát tâm cầu đạo Vô thượng, ngoài ra chúng hội nghe Đức Phật thuyết pháp có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, có người phát tâm Vô thượng chánh chân, có người trụ được Bất thoái địa, thảy đều cung kính vui vẻ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt kính tin Phật pháp, vì chư Tăng làm đàn-việt cung cấp tất cả đồ cần dùng. Bấy giờ chư Tỳ-kheo cần muốn điều gì hàng ngày đến lui thuyết pháp dạy dỗ. Trong nhà ông Tu-đạt có hai con chim Anh vũ, một con tên Luật-đề, một con tên Xa-luật-đề, bẩm tánh thông minh có thể biết tiếng người. Các Tỳ- kheo tới lui thì nó báo cho trong nhà hay biết trước, chuẩn bị để nghênh tiếp. Khi đó A-nan đi đến nhà ông gặp con chim thông minh, tâm liền thương mến mà nói rằng muốn dạy hai con nghe giáo pháp. Hai con chim vui mừng thọ pháp Tứ đế, dạy đọc tụng, nói kệ rằng: “Đâu-khư, Tam-mâu-đề-da, Ni- lâu-đà, Mạt-da (Tần dịch là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo). Trước cửa nhà có một cội cây, hai con chim nghe pháp vui mừng tụng tập, bay hướng trên ngọn cây, bay xuống bay lên bảy lần, tụng đọc pháp Tứ đế đã thọ. Ban đêm nó ngủ trên cây, bị con chồn bắt ăn thịt, vì cơ duyên tâm thiện nên sinh lên cõi trời Tứ thiên. A-nan ngày mai, mặc y ôm bát vào thành khất thực, nghe hai con chim Anh vũ bị chồn bắt ăn sinh lòng thương xót, trở về bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, ở nhà ông Tu-đạt có hai con chim Anh vũ, hôm qua đệ tử dạy nó tụng Tứ đế, tối qua nó đã chết rồi, không biết thần thức sinh về nơi đâu? Cúi mong Như Lai thương xót chỉ bày cho con.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy lắng nghe và khéo ghi nhớ trong lòng, Ta sẽ vì ông mà nói khiến ông hoan hỷ. Do ông truyền pháp, tâm chim hoan hỷ nhận lãnh nên sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương. Ở cõi Diêm-phù-đề này, năm mươi năm bằng cõi trời Tứ Thiên vương một ngày một đêm, ở đó cũng ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, cõi trời đó thọ năm trăm tuổi.
Ngài A-nan hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, sau khi thọ chung chúng sinh ở nơi nào?
Đức Phật bảo:
– Ngài sinh ở cõi trời Đao-lợi (tầng trời thứ hai). Ở cõi Diêm-phù-đề này một trăm năm thì trên trời Đao-lợi một ngày một đêm, ở đấy cũng ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Cõi trời Đao-lợi đó thọ mạng một ngàn tuổi.
Ngài A-nan hỏi:
– Ở đó thọ chung thì sinh về đâu? Đức Phật bảo:
– Này A-nan, sinh lên cõi trời Diệm-ma thứ ba.
Hai năm ở cõi Diêm-phù-đề này bằng một ngày đêm ở cõi trời Diệm-ma. Ở đấy cũng ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Ở cõi Diêm-ma tuổi thọ hai ngàn tuổi.
Ngài A-nan lại hỏi:
– Sau khi thọ chung chúng sinh về đâu? Đức Phật bảo:
– Này A-nan, họ sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất thứ tư. Cõi Diêm-phù-đề này bốn trăm năm thì cõi trời đó một ngày một đêm. Ở đó cũng ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng là một năm. Cõi trời Đâu-suất thọ mạng bốn ngàn tuổi.
Tôi lại hỏi:
– Ở đó, họ mạng chung sinh về đâu? Đức Phật bảo:
– Này A-nan, họ sẽ sinh lên cõi trời thứ năm Vô kiêu lạc thiên. Cõi Diêm-phù-đề tám trăm năm bằng cõi trời này một ngày một đêm. Ở đấy cũng ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng làm một năm. Cõi trời thứ năm thọ mạng tám ngàn tuổi.
Ngài A-nan lại hỏi:
– Ở đó họ thọ chung sinh về đâu? Đức Phật bảo:
Này A-nan, họ sẽ sinh lên cõi trời thứ sáu, trời Hóa ứng thinh. Cõi Diêm-phù-đề một ngàn sáu trăm năm bằng cõi ấy một ngày một đêm. Nơi đó cũng ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, thiên thọ sáu ngàn tuổi.
Ngài A-nan lại hỏi:
– Ở đó mạng chung chúng lại sinh về đâu? Đức Phật bảo:
– Này A-nan, họ sinh trở lại cõi trời thứ năm, cứ thứ tự trở lại như vậy lên xuống bảy lần. Sinh trong sáu tầng trời Dục giới thứ tự thọ phước, tuổi trời cực thọ không có yểu số.
Ngài A-nan lại hỏi:
– Bạch Thế Tôn, như vậy cõi trời thứ sáu thọ mạng hết sinh về đâu?
Đức Thế Tôn đáp:
– Họ sẽ xuống cõi Diêm-phù-đề, sinh trong loài người, xuất gia học đạo. Tiền duyên của chim Anh vũ tụng trì Tứ đế, tâm tự khai giải, thành Bích-chi- phật, một vị tên là Đàm-ma, một vị tên là Tu-đàm- ma.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, tất cả chư Phật và chúng Hiền thánh, trời người thọ phước nhiều ít đều do ở gieo trong nhân lành, khiến họ được diệu quả sau này.
Bấy giờ ngài A-nan và cả chúng hội nghe Đức Phật nói hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, ở trong rừng cây có một vị Tỳ-kheo tọa thiền hành đạo. Sau khi ăn cơm xong, vị ấy kinh hành, do tiếng tụng kinh của vị ấy hòa nhã vô cùng nên có một con chim thích nghe tiếng của nhà sư, nó bay đậu trên ngọn cây lắng nghe âm thanh ấy. Lúc đó có một người thợ săn dùng tên bắn chết. Do nó khởi lòng lành liền sinh lên cõi trời Đao-lợi, trên đầu gối cha mẹ sinh ra, bỗng nhiên to lớn như đứa trẻ tám tuổi, diện mạo đoan chánh, quang minh khác thường, chói lọi không gì bằng, liền tự nghĩ rằng: “Ta làm phước gì mà được phước quả báo trời?” Vị trời bèn biết túc mạng quán thấy thân xưa vốn là loài chim, nhờ nghe vị Tỳ-kheo tụng kinh được phước báo sinh lên cõi trời này nên liền cầm hoa trời bay về cõi Diêm-phù-đề đến chỗ vị Tỳ-kheo đảnh lễ, thăm hỏi, dùng hoa hương trời tán thán cúng dường. Vị Tỳ-kheo hỏi:
– Ông là thần nào? Đáp:
– Tôi vốn là chim, thích nghe âm thanh của ngài tụng kinh, bị thợ săn bắn chết, nhân có tâm thiện nên sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Vị Tỳ-kheo vui vẻ liền mời ngồi vì trời thuyết diệu pháp. Nghe xong vị trời chứng quả Tu-đà- hoàn, vui mừng liền bay về trời.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, Như Lai ra đời làm lợi ích hữu tình rất nhiều, thuyết ra các pháp rất là thần diệu, cho đến loài chim bay nhờ duyên thích nghe pháp âm cũng được phước vô lượng há là người có lòng tin vững chắc thọ trì, được quả báo thật khó thể sánh. Bấy giờ ngài A-nan và cả đại chúng nghe Đức Phật thuyết xong, vui mừng đảnh lễ phụng hành.
❑
Tôi nghe như thế này:
Một thuở nọ, Đức Phật ở nước Ba-la-nại. Bấy giờ Thế Tôn ở trong đầm rừng, vì trời người bốn bộ chúng diễn thuyết Diệu pháp. Lúc đó, ở trên không trung có một bầy nhạn năm trăm con nghe âm thanh của Đức Phật, tâm rất ham thích, chúng bay vòng vòng muốn đáp xuống chỗ Thế Tôn thì có mấy người săn giăng bẫy lưới bắt trọn bầy chim nhạn giết ăn hết. Thần thức bầy chim được sinh lên cõi trời Đao-lợi, từ đầu gối cha mẹ sinh ra đột nhiên và lớn nhanh như đứa nhỏ tám tuổi, thân thể đoan nghiêm, dung mạo không thể sánh, quang minh trong sáng như núi vàng. Họ tự nghĩ: “Chúng ta do nhân gì mà sinh trong cõi trời này?” Tâm của các vị trời thông suốt có túc mạng thông nên biết được duyên kiếp trước do nghe pháp âm được phước báo sinh cõi trời. Muốn báo ân ấy, họ cùng nhau dùng hương hoa trời bay xuống Diêm-phù- đề, đến nước Ba-la-nại, chỗ Thế Tôn ngự, ánh sáng các vị trời chói lọi cũng như rừng cây báu, đồng thời cúi mình đảnh lễ dưới chân Phật chắp tay bạch:
– Chúng con nhờ âm thanh thuyết pháp của Thế Tôn mà được sinh nơi tốt đẹp, cúi mong Thế Tôn thương xót chỉ bày đạo lý thiết yếu.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn vì họ rộng thuyết pháp Tứ diệu đế. Nghe xong các vị trời đắc quả Tu-đà-hoàn rồi bay trở về trời, họ không bị đọa tam đồ, tùy duyên bảy lần sinh được dứt các lậu.
Bấy giờ, ngài A-nan bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, hôm qua có các vị trời ánh sáng chói lọi kính lễ Thế Tôn, không biết duyên gì, mong Thế Tôn chỉ bày.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, hãy khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông mà nói. Hôm qua Ta ở trong đầm rừng vì chư Thiên bốn bộ chúng diễn bày Diệu pháp thì có năm trăm chim nhạn kính mến tiếng pháp, tâm sinh vui mừng cùng nhau bay tới muốn đến chỗ Ta ngự thì bị mắc bẫy lưới của thợ săn họ bắt giết ăn hết. Nhân khởi lòng lành, thần thức bầy chim nhạn sinh lên cõi trời Đao-lợi, tự biết túc mạng, nên đến đây báo ân.
Khi đó ngài A-nan nghe Đức Phật nói thế vui mừng khen chưa từng có mà nói:
– Như Lai ra đời thật là kỳ diệu, mưa pháp thấm nhuần ai cũng được nhờ ân, cho đến loài chim muông nghe pháp cũng được phước báo, huống là người ta tín tâm thọ trì, tính xét quả báo còn vượt nhiều hơn nó gấp trăm ngàn vạn lần, không thể sánh bằng.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, lành thay! Lành thay! Như lời ông nói, Như Lai ra đời đưa pháp cam lộ thắm nhuần quần sinh được lợi ích rất nhiều. Vì thế phải nên nhất tâm tin kính Phật pháp.
Bấy giờ ngài A-nan và cả chúng hội nghe Đức Phật nói xong vui vẻ đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Một lúc nọ Đức Phật ở thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật. Khi ấy Đề-bà-đạt-đa thường ôm lòng ác muốn hại Thế Tôn, ông tự xưng là Phật, dạy thái tử A-xà-thế hại vua cha rồi lên ngôi vua để có Phật mới vua mới trị vì thiên hạ, như vậy chẳng phải sướng sao? Vương tử tin dùng, bèn giết cha mình tự lên làm vua, lúc đó người đời đều ôm lòng ác đối với các Tỳ-kheo ghét không muốn ngó.
Bấy giờ chư Tỳ-kheo vào thành khất thực, nhân dân phẫn nộ đều không cúng thí, ôm bát không mà về. Trở về trong núi bạch Thế Tôn:
– Đề-bà-đạt-đa làm việc bất thiện khiến dân chúng đều sinh khởi lòng ác, hướng các Sa-môn, sinh khởi lòng ác; họ hướng chư Bích-chi-phật, A- la-hán quá khứ, hiện tại, tương lai phát khởi lòng ác; đối với ba đời chư Hiền thánh tạo vô lượng tội nghiệp quả báo. Tại vì sao? Vì y phục nhuộm hoại sắc đều là tiêu thức của Thánh hiền ba đời, những chúng sinh cạo bỏ râu tóc, mặc y nhuộm, nên biết người đó chẳng bao lâu sẽ được giải thoát tất cả các khổ được trí vô lậu, vì các chúng sinh làm một vị cứu hộ lớn. Nếu có chúng sinh hay phát tín tâm đối với người xuất gia người mặc y nhuộm thì được phước khó lường.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, Ta do kiếp xưa đối với người xuất gia mặc y nhuộm sinh lòng tin sâu đậm, vì kính ngưỡng nên mới được thành Phật.
A-nan tôi bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, kiếp xưa Thế Tôn tin sâu kính ngưỡng người mặc y nhuộm, sự việc ấy như thế nào? Cúi xin Ngài nói cho con được nghe.
Đức Phật bảo:
Này A-nan, hãy lắng nghe! Thuở xưa cách đây vô lượng kiếp a-tăng-kỳ, ở châu Diêm-phù-đề này, có một đại quốc vương tên là Đề-tỳ, thống lãnh tám vạn bốn ngàn tiểu quốc vương. Lúc đó, ở đời không có Phật pháp, chỉ có Bích-chi-phật sống trong rừng núi tọa thiền hành đạo, phi hành biến hóa, rộng độ chúng sinh. Lúc đó các con dã thú đều tới gần gũi. Có một con sư tử tên là Trà-ca-la-tỳ (Tần dịch là Kiên Thệ) thân màu sắc vàng, ánh sáng chói lọi, chỉ ăn quả ăn cỏ không giết hại cầm thú. Lúc bấy giờ người thợ săn cạo tóc mặc ca-sa, bên trong giấu cung tên, đi bộ vào trong rừng, thấy có sư tử trong lòng mừng thầm, nghĩ rằng: “Hôm nay ta được lợi lớn, gặp được con thú này có thể giết lấy da dùng để dâng cho vua, thoát khỏi sự nghèo khổ.” Lúc đó con sư tử đang ngủ, người thợ săn bèn dùng tên độc bắn trúng. Sư tử tỉnh dậy định đuổi hại, thì trông thấy người mặc y ca-sa, bèn tự nghĩ: “Người này ở đời không bao lâu ắt được giải thoát, lìa các khổ ách. Tại vì sao? Vì người mặc y nhuộm này là tướng tiêu biểu cho Thánh nhân ba đời, nếu ta hại họ, thì là có ba điều ác đối với chư Hiền thánh ba đời.” Suy nghĩ như vậy, ý hại liền dừng, rồi tự nói kệ: “Da-la-la, bà-xa-sa ta-ha”. Khi sư tử nói lời này rồi, trời đất chấn động, không mây mà mưa. Chư Thiên kinh sợ, dùng Thiên nhãn quan sát dưới thế gian thấy người thợ săn giết hại Bồ-tát Sư tử, ở trên hư không mưa xuống hoa trời, cúng dường tử thi. Bấy giờ thợ săn lột da sư tử đem về đến nhà rồi đem dâng quốc vương Đề-tỳ cầu được ban thưởng. Lúc ấy nhà vua nghĩ rằng: “Trong kinh sách có nói: ‘Nếu có thú vật thân tướng sắc vàng, ắt là Bồ-tát đại sĩ.’ Nay ta làm sao ban thưởng cho người này được? Nếu thưởng cho hắn thì giống như giết hại không khác.” Lúc ấy người thợ săn nghèo cầu xin quốc vương thương xót cho ít tài vật. Vua hỏi thợ săn:
– Khi sư tử chết có điềm gì không? Đáp:
– Tâu bệ hạ, miệng nó nói ra tám tiếng thì trời đất chấn động, không mây mà tự mưa, trời rơi xuống các hoa.
Khi đó quốc vương nghe nói rồi vui mừng khôn cùng lòng tin dũng mãnh, triệu tập các thần kỳ cựu, người trí giải thích nghĩa ấy. Lúc đó mọi người đều không thể giải thích. Ở trong khu rừng cạnh bờ đầm có một Tiên nhân tên Xa-ma, ông rất thông minh, thông đạt lý lẽ. Nhà vua thỉnh Tiên nhân về nhờ giải thích nghĩa tám chữ ấy: “Da-la-la” nghĩa là cạo tóc mặc y nhuộm ở trong sinh tử mau được giải thoát. “Bà-xa-sa” nghĩa là người cạo tóc mặc y nhuộm đều là tướng Thánh hiền, gần với Niết- bàn. “Ta-ha” nghĩa là người cạo tóc mặc y nhuộm sẽ được tất cả chư Thiên, người đời trông thấy kính ngưỡng. Lúc đó Tiên nhân giải nói xong, vua Đề- tỳ vui mừng liền triệu tám vạn bốn ngàn tiểu quốc vương tập hợp một nơi, làm xe cao bằng bảy báu, trương da sư tử, biểu thị tất cả đều cùng kính ngưỡng, đốt hương rải hoa mà cúng dường rất mực cung kính. Sau đó dùng vàng làm quan tài, để da sư tử vào, rồi dựng tháp thờ. Bấy giờ nhân dân duyên theo tâm thiện sau khi thọ chung cũng đều được sinh lên cõi trời.
Đức Phật bảo ngài A-nan và bốn bộ chúng:
– Con sư tử lúc ấy do phát khởi lòng lành đối với người mặc y nhuộm, trong mười ức vạn kiếp được làm vua Chuyển luân, làm ruộng phước cho chúng sinh mãi đến khi thành Phật. Trà-ca-tỳ-la há là người nào khác, chính là tiền thân của Ta vậy, còn quốc vương Đề-tỳ do duyên cúng dường da sư tử nên trong mười vạn ức kiếp sinh trong trời người tôn quý đệ nhất, tu các căn lành, nay chính là Di- lặc Bồ-tát. Tiên nhân khi đó nay là ông Xá-lợi- phất. Người thợ săn nay là Đề-bà-đạt-đa.
Bốn chúng lúc bấy giờ theo Phật nghe thuyết nhân duyên quá khứ tâm rất vui mừng, nói:
– Chúng con ngu si, không biết minh triết nên sinh khởi tâm ác. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ ngu si, cho sám hối tội lỗi trước.
Đức Thế Tôn từ bi nhân đó thuyết pháp Tứ đế vi diệu, tùy túc duyên của họ đều được các quả, có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán; có người còn phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân.
Lúc đó ngài A-nan và bốn bộ chúng nghe Đức Phật nói xong thảy đều vui mừng đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Khi ấy Thế Tôn dẫn thị giả A-nan vào thành Xá-vệ. Đức Thế Tôn mặc y trên thân có vài chỗ bị rách, vì muốn ứng hóa độ chúng sinh. Khất thực xong Ngài muốn trở về chỗ nghỉ thì có một vị Bà-la-môn đến chỗ Đức Phật làm lễ. Trông thấy Đức Phật dung nhan quang tướng đặc biệt lạ thường, lại thấy y Phật có chút hư rách, nên có tâm muốn cúng thí, vị ấy bèn cắt ít lụa trắng ở nhà đem dâng cúng Phật, thưa:
Cúi mong Như Lai nhận tấm lụa này dùng để vá y.
Đức Phật liền thọ nhận. Khi ấy vị Bà-la-môn thấy Đức Phật thọ ký trong lòng vui mừng gấp bội. Đức Phật liền thọ ký:
– Ở đời sau này trong hai a-tăng-kỳ kiếp, ông sẽ được làm Phật, thần thông tướng hảo đầy đủ mười hiệu.
Đức Phật thọ ký xong vui mừng mà đi. Lúc đó trong nước, những trưởng giả giàu có đều ôm lòng thắc mắc: “Tại sao Thế Tôn thọ chút của thí mà đền đáp ân lớn như vậy?” Nghĩ thế rồi, vì Như Lai, họ phá rách y tốt, làm các thứ y đem dâng cho Đức Phật. Ngài A-nan hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn, xưa kia Ngài tạo hạnh lành gì mà khiến tất cả đều dâng cúng thí y phục? Cúi mong Như Lai vì con chỉ bày giải nói khiến được hiểu rõ.
Đức Thế Tôn bảo:
– Hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói.
Ở đời quá khứ vô lượng kiếp a-tăng-kỳ, khi đó có Đức Phật hiệu Tỳ-bà-thi ra đời cùng đồ chúng của Ngài chín vạn người câu hội. Vị vua lúc bấy giờ tên là Bàn-đầu. Có một đại thần thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường ba tháng, Đức Phật liền hứa khả. Ông bèn trở về nhà chuẩn bị cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Lúc đó vua Bàn-đầu đi đến chỗ Phật, bạch:
– Xin được Như Lai và chúng Tăng nhận lời con cúng dường ba tháng.
Đức Phật nói với vua Bàn-đầu:
– Ta đã thọ nhận thỉnh mời của vị đại thần trước rồi, theo phép không nên trái nghịch.
Đức vua trở về cung bảo với vị đại thần rằng:
Đức Phật ở nước trẫm, nay trẫm muốn cúng dường, nhưng khanh đã thỉnh rồi, nay khanh có thể tránh dịp khác, trẫm cúng dường xong rồi, khanh hãy thỉnh sau.
Vị đại thần tâu:
– Tâu bệ hạ, nếu đại vương bảo đảm được thân mạng của thần, lại bảo đảm được Như Lai thường trụ ở đây, lại khiến quốc độ thường an ổn không tai nạn. Nếu đại vương có thể bảo đảm hết những việc này, thần xin nhường để cho đại vương thỉnh Phật trước.
Vua tự nghĩ: “Việc này chắc khó bảo đảm”, nên nói rằng:
– Thôi, khanh thỉnh cúng một ngày, rồi đến trẫm thỉnh cúng một ngày.
Quan đại thần đồng ý, rồi cùng nhau chuẩn bị thiết hội, ai nấy đều mãn nguyện. Bấy giờ quan đại thần may cho Đức Như Lai đó ba y và cúng cho chín vạn Tỳ-kheo y bảy điều.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Này A-nan, ông nên biết, quan đại thần đem y phục cúng thí Đức Phật và chúng Tăng, há phải người nào khác, chính là tiền thân của Ta. Ta đời đời gieo trồng phước điền không biết chán, nay đều tự được trọn không thể sánh.
Bấy giờ ngài A-nan cùng mọi người nghe Đức Phật nói xong hoan hỷ siêng tu tạo các nghiệp phước, đảnh lễ Phật phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ các Tỳ-kheo đang mùa hạ an cư, đi đến chỗ Phật đảnh lễ thăm hỏi. Đức Phật dùng tâm từ an ủi vỗ về: “Các ông trụ nơi kia được vô khổ chăng?” Tâm tư vô cùng thương mến. Tôi thấy thế bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, lòng từ mẫn thương mến đặc biệt như vậy là xa gần chăng?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, nếu ông muốn biết, hãy lắng nghe
Ta nói.
Thời quá khứ lâu xa kiếp a-tăng-kỳ không thể tính kể, có hai người tội cùng ở địa ngục, bỗng bị xua đuổi khiến kéo xe sắt cắt lấy da, dùng làm cái ách xe, lại dùng roi sắt đánh khiến chạy rông Đông, Tây rượt đuổi, không có dừng nghỉ. Khi đó có một người, gân sức yếu ớt, ngục tốt bức bách họ, té xuống đất rồi đứng dậy, mệt nhọc cực khổ vô cùng, chết đi sống lại. Người kia thấy người này khốn khổ như thế phát khởi tâm từ thương xót, người này thưa với ngục tốt rằng:
– Xin hãy thương xót thân tôi là người, một mình kéo xe không nổi.
Ngục tốt nổi sân dùng gậy đánh tức thời chết ngay, thần thức được sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Nói đến đây, Đức Phật lại nói:
– Này A-nan nên biết, người trong ngục khởi tâm Từ lúc bấy giờ chính là tiền thân của Ta. Ta lúc đó bị tha tội ở trong địa ngục, mới vừa khởi tâm Từ thương xót đối với tất cả mọi người chưa từng thoái xả, cho đến ngày nay, vì ham thích tu hành thương xót tất cả.
Bấy giờ ngài A-nan nghe Đức Phật nói xong hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ cùng với chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Bấy giờ Thế Tôn thấy các Tỳ-kheo tham ưa đồ đẹp, dính mắc danh lợi, phần nhiều gom chứa không biết chán, Ngài thấy như vậy rồi bèn nói về cái hại của tham lợi:
– Phàm người tham lợi hiện tại tổn thân mạng, sau khi chết đọa vào ba đường, thọ khổ vô lượng. Tại sao thế? Ta nhớ thuở quá khứ, do tham mà phải đọa lạc chịu các khổ não.
Khi ấy ngài A-nan chắp tay quỳ bạch Phật:
Bạch Thế Tôn, thời quá khứ do tham mà Ngài phải đọa lạc, việc ấy như thế nào? Mong Thế Tôn nói cho chúng con được biết.
Đức Thế Tôn bảo:
– Về thời quá khứ vô lượng vô biên kiếp a- tăng-kỳ, ở cõi Diêm-phù-đề này có một vị đại vương tên Cù-tát-ly, thống lãnh tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, có hai vạn phu nhân thể nữ, một vạn đại thần.
Khi ấy trên đỉnh đầu nhà vua mọc một khối u hình dáng như một cái kén, trong trẻo, không đau đớn gì cả, sau dần dần lớn lên như trái bầu, bèn mổ ra xem thì được một đứa bé, tướng mạo rất đoan chánh, tóc xanh mượt, thân sắc vàng tím, mời thầy tướng xem tướng tốt xấu. Thầy tướng xem xong nói với vua:
– Đứa bé này rất có phúc đức, dung nghi hiếm có sau này ắt là Thánh vương, thống trị bốn thiên hạ.
Nhân đó đặt tên là Văn-đà-kiệt (Tần dịch là Đảnh Sinh). Khi trưởng thành, vua ban cho một nước riêng phong cấp cho Đảnh Sinh. Sau này đại vương bị bệnh khốn cùng, các tiểu vương đều đến chăm sóc nhưng không thể thuyên giảm rồi phải băng hà. Các tiểu vương cùng đến chỗ Đảnh Sinh thưa:
Đại vương đã băng hà, xin ngài lên ngôi kế vị.
Đảnh Sinh đáp:
– Nếu như ta có phước đáng làm vua thì phải khiến trời Tứ thiên và Đế Thích tới nghênh đón để đăng quang vương vị.
Lập thệ xong, Tứ Thiên vương liền bay xuống, mỗi vị cầm bình báu đựng đầy nước hoa thơm, dùng tưới trên đỉnh đầu vua Đảnh Sinh. Trời Đế Thích cầm mão báu tới đội lên đầu vua, sau đó gọi các tiểu vương khuyên đến đại quốc để cai trị. Vua Đảnh Sinh lại nói:
– Nếu như ta có phước đáng làm vua thì nước nên đến ta, ta không đến nước.
Lập thệ xong, trong đại quốc, tất cả cung điện, vườn rừng, ao hồ đều đến nơi vua; kim luân, voi ngựa, ngọc nữ, thần châu, điển tàng, điển binh, đều vân tập đến. Vua bốn thiên hạ vì vua Chuyển luân tuần hành quốc giới, thấy các thần dân cuốc cày đất trồng ruộng, vua hỏi sứ thần:
– Các quần sinh ở đây muốn làm gì? Đáp:
– Vì có hình tướng do ăn mới sống còn, cho nên gieo trồng ngũ cốc để nuôi mạng sống.
Vua lập thệ rằng:
– Nếu ta có phước đáng làm vua tự nhiên nên có trăm vị ăn uống no nê tất cả khiến không ai bị đói khát.
Phát nguyện xong, liền có thức ăn uống. Một hôm, vua bèn ra ngoài dạo chơi thấy những người dân may dệt, lại hỏi:
– Họ đang làm gì thế? Quan cận thần đáp:
– Người dân thức ăn tự nhiên có rồi, nhưng cũng cần áo mặc, nên họ dệt vải may đồ để phục sức.
Vua lại lập thệ:
– Nếu ta có phước đáng làm vua thì y áo đẹp tự nhiên có để ban cho vạn dân khiến họ không nghèo thiếu.
Nguyện xong thì các thân cây tự nhiên sinh ra y phục, màu đẹp lạ thường, tất cả người dân cần dùng không hết. Một hôm đi dạo chơi, vua thấy người ta tu tạo nhạc khí, vua lại hỏi:
– Họ làm gì thế? Quan cận thần đáp:
– Tâu bệ hạ, dân chúng ăn mặc đã được đầy đủ, chỉ thiếu âm nhạc, do đó họ tạo nhạc khí dùng để giúp vui.
Vua lại lập thệ:
– Nếu ta có phước đáng làm vua thì các nhạc khí hay lạ tự nhiên đến.
Nguyện xong, tức thời các thân cây có các nhạc khí treo lơ lửng trên cành, nếu có ai cần thì lấy xuống mà dùng, âm thanh hòa xướng, người nghe không ai chẳng vui mừng. Đức nhà vua sâu dày, muôn điều thiện vân tập đến, trời mưa bảy báu khắp các cõi nước. Vua hỏi các quan:
– Đây là đức của ai thế? Các thần tâu:
– Thưa đây là đức của nhà vua, cũng là phước của quốc dân. Vua lại lập thệ: “Nếu là phước của dân thì của báu nên mưa xuống khắp nơi, nếu riêng đức của ta thì chỉ mưa trong cung nội”.
Nói xong, chỉ mưa riêng trong cung bảy ngày bảy đêm. Vua Đảnh Sinh ở cõi Diêm-phù-đề ngũ dục tự vui, trải qua tám vạn bốn ngàn tuổi. Lúc đó có một Dạ-xoa, vọt ra trước cung điện lớn tiếng xướng:
– Ở phương Đông có nước tên Phất-bà-đề, nơi đó vui vẻ khoái lạc không thể bì, đại vương có thể đến đó xem.
Vua liền hứa khả ý muốn tuần hành. Kim luân lại chuyển bay lên hư không mà đi, quần thần bảy báu thảy đều theo sau. Đến nước đó, các tiểu vương đồng đến triều bái. Vua ở nước đó ngũ dục tự đầy đủ. Trải qua tám ức năm thì Dạ-xoa đến xướng:
– Ở phương Tây có nước tên Cù-da-ni, cũng rất khoái lạc, vua có thể đến đó.
Vua liền nhận lời đi đến nước đó, hưởng phước trải qua mười bốn ức năm. Dạ-xoa lại đến xướng:
Ở phương Bắc có nước tên Uất-đan, an ổn giàu đẹp nhân dân đông đảo xung túc. Vua chịu đi đến nước đó ở lại thọ hưởng ngũ dục thỏa mãn ý chí, trải qua mười tám ức năm. Dạ-xoa lại đến xướng rằng:
– Có cõi Tứ Thiên vương, nơi đó vui vẻ sung sướng khôn lường.
Vua liền đi đến đó cùng quần thần và bốn bộ binh cỡi hư không mà đi. Tứ Thiên vương từ xa trông thấy rất là sợ hãi, liền hợp binh chủng ra ngoài chống cự, rốt cùng không chống cự lại, đành trở về. Vua Đảnh Sinh ở đó ưu du thọ lạc trải qua mười ức năm. Trong ý vua lại nghĩ muốn lên cõi trời Đao-lợi, liền cùng quần thần, binh chủng cỡi hư không mà bay lên. Lúc đó có năm trăm Tiên nhân, ở bên hông núi Tu-di, voi ngựa của vua phóng uế rơi xuống dơ uế thân các Tiên nhân. Các Tiên nhân đến hỏi:
– Có duyên gì mà rớt thứ này?
Có Tiên nhân nói:
– Ta nghe nói vua Đảnh Sinh muốn lên tầng trời thứ Ba mươi ba, ắt voi ngựa làm rớt đồ bất tịnh xuống đây.
Tiên nhân phẫn hận, bèn kết thần chú khiến vua Đảnh Sinh và các quan binh đều đứng lại không đi được. Vua Đảnh Sinh biết liền thệ nguyện:
– Nếu ta có phước thì các Tiên nhân này đều sẽ đến đây phụng sự ta.
Đức của vua rộng lớn có thể cảm đến năm trăm Tiên nhân đến bên cạnh vua, giúp dìu ngựa xe, cùng đi lên trời. Từ xa vua nhìn thấy thành trời tên là Khoái kiến, màu sắc trắng tinh, cao hiền, đặc biệt khác thường. Thành Khoái kiến này có một ngàn hai trăm cửa, các trời sợ sệt đều đóng cửa lại, ba lớp cổng sắt, binh chủng của vua Đảnh Sinh đi thẳng không nghỉ. Vua liền lấy vỏ ốc thổi, trương cung nạp tên thì một ngàn hai trăm cánh cửa đồng thời mở ra. Vua Đế Thích bước ra, hai vua gặp nhau, nhân đó thỉnh vua Đảnh Sinh vào cung rồi cùng mời ngồi. Vua trời và dân trời tướng mạo một loại, mới nhìn không thể phân biệt, chỉ nhìn thấy đôi mắt nhanh chậm mà biết khác thôi. Vua ở trên trời thọ ngũ dục lạc, tận cùng ba mươi sáu vua, cuối cùng là trời Đế Thích (Đại Ca-diếp).
Khi đó vua A-tu-la dấy binh lên trời cùng Đế Thích đánh nhau. Quân Đế Thích đánh không lại, thoái quân vào thành. Vua Đảnh Sinh lại lấy vỏ ốc thổi, tra cung tên. Vua A-tu-la liền băng đọa. Vua Đảnh Sinh tự nghĩ: “Sức ta mạnh như vậy không có ai bằng, nay cùng Đế Thích ngồi chung coi sao cho được, chi bằng tiêu diệt ông ta, một mình thống lãnh ở đây hưởng lạc thú.” Tâm ác vừa sinh, liền bị sa đọa, đang ở trước cung điện thì bỗng chết ngay. Các dân trời đến hỏi:
– Vua Đảnh Sinh vì sao mạng chung? Bị quả báo thế nào?
Vua Đế Thích đáp:
– Nếu có người hỏi thì nên trả lời. Vua Đảnh Sinh do tham mà chết, ông thống lãnh bốn thiên hạ, sống bốn mươi ức tuổi, mưa bảy báu ngày, cho đến làm vua hại trời không có biết đủ, cho nên bị đọa lạc.
Nói đến đây, Đức Phật nhắc lại:
– Do vậy, này các Tỳ-kheo, nói về lợi dưỡng thật là đại hoạn, nên suy nghĩ xa lìa mau cầu chân đạo. Ngài A-nan bạch Phật:
– Vua Đảnh Sinh này, đời trước gieo trồng phước gì mà được đại phước vô lượng như thế? Mong Thế Tôn vì chúng con giải nói.
Đức Phật bảo:
Về đời quá khứ, số kiếp không thể tính, có Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa, Ngài cùng đồ chúng du hóa nhân gian. Bấy giờ có con trai của một vị Bà- la-môn muốn lấy vợ, tay cầm đại đậu để dùng tán phụ, đó là lễ của thế tục, giữa đường gặp Phật, tâm ý chàng vui mừng, liền cầm nắm đậu ấy dâng cúng cho Phật bốn hạt vào bát, một hạt để ở đỉnh. Do nhân duyên đó, thọ phước vô lượng. Bốn hạt vào bát nên được làm vua bốn thiên hạ, một hạt để trên đỉnh, hưởng thọ hai cõi trời.
Khi đó các đệ tử nghe Đức Phật nói xong, có người đắc được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả cho đến quả A-la-hán không thể tính kể, thọ trì lời Đức Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ, Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt có đứa con gái út tên là Tô-man, diện mạo đoan chính, dung nhan đẹp đẽ lạ thường, người cha yêu mến đặc biệt nhiều hơn các con khác, như đi dạo chơi thì dẫn đi chung. Khi đó trưởng giả dẫn đến chỗ Đức Phật, cô gái ấy thấy Phật thì vui mừng muốn đem hương thơm trét vào ngôi nhà của Phật ở. Trong tay cô đang cầm quả Tấn-bà, Đức Phật xin cô, cô vâng lời đem dâng cho Phật. Đức Phật tìm giống hương hoa tốt trả lại cho cô gái. Hai cha con trở về trong thành đi mua các thứ hương tốt như Đức Phật cần rồi mang đến tinh xá Kỳ hoàn, đích thân tự mài hàng ngày như vậy. Lúc đó quốc vương Đặc-xoa-thi-lợi sai một người con trai của ông đến nước Xá-vệ, trước tiên đi đến nước khác tham quan, rồi dần dần đi đến tinh xá. Trông thấy nàng Tô-man đang mài hương, chàng yêu mến nhan sắc muốn cưới làm vợ, liền đi vào thành tâu vua Ba-tư-nặc:
– Có cô gái rất hợp ý tôi, mong đại vương ban cho, xin chớ trái ý.
Vua hỏi:
– Là con gái nhà ai?
Đáp:
– Con gái của ông Tu-đạt.
Vua nói:
– Khanh tự đi hỏi, trẫm không thể nói. Thái tử lại tâu vua:
– Nếu đại vương cho phép, tôi sẽ tự đi cầu hôn cô ấy.
Vua nói:
– Cho phép.
Con trai vua nước đó sai đem xe ngựa, đồ vật về bổn quốc trước, chỉ để lại một con voi. Sau đó chàng đi đến tinh xá Kỳ hoàn bắt cô gái Tô-man để lên voi cỡi đi. Trưởng giả Tu-đạt nghe tin sai người đuổi theo, voi chạy nhanh quá không thể đuổi kịp nên chàng trai chạy về đến xứ nhà lấy cô gái làm vợ. Sau đó cô gái mang thai sinh ra được mười cái trứng, thời gian sau trứng nở được mười cậu con trai, dung mạo tốt đẹp lạ thường khác với người phàm, chúng đều ham thích săn bắn giết hại sinh vật. Bà mẹ thương xót dạy dỗ khiến chàng chớ làm việc ấy. Các đứa con thưa mẹ:
– Việc săn bắn rất là vui vẻ, sao nay mẹ ngăn cản và ghét việc ấy?
Bà mẹ nói:
– Các con yêu, đó là nhân tội lỗi. Tại vì sao?
Phàm tội sát sinh sẽ phải đọa địa ngục, thọ các khổ não, mấy ngàn năm thường làm nai, dê, thỏ, các loài cầm thú bị người săn bắn lại, tuổi thọ không bao lâu, tuy có muốn giải thoát nhưng không làm được gì cả.
Các con thưa mẹ:
– Như lời mẹ nói là từ nơi đáy lòng hay nghe từ nơi người khác.
Bà mẹ lại bảo:
– Ta xưa kia theo Phật, nghe được sự việc như vậy.
Các đứa con lại hỏi mẹ:
– Phật là người nào? Hãy nói cho chúng con biết rõ.
Bà mẹ bảo:
– Các con không nghe sao? Con trai của vua Tịnh Phạn ở thành Ca-tỳ-la-vệ, hình tướng rực rỡ, đáng làm Thánh vương, nhưng chán sự già bệnh chết xuất gia học đạo, hạnh nguyện thành tựu, đắc quả vô thượng. Ngài thân tướng cao một trượng sáu, tướng hảo vô cùng, chứng tam minh lục thông, việc quá khứ, vị lai biết rõ cả ba đời rõ như viên ngọc nằm trong lòng bàn tay.
Các đứa con nghe rồi, trong lòng vui vẻ, nhân đó hỏi mẹ:
Đức Phật ở cách đây bao xa? Có thể gặp được hay không?
Bà mẹ đáp:
– Hiện nay Ngài đang ở nước Xá-vệ. Các con thưa mẹ:
– Chúng con muốn đi gặp Phật.
Bà mẹ liền cho phép, mười đứa con đồng đi đến nước Xá-vệ. Trưởng giả Tu-đạt trông thấy các đứa trẻ thì yêu mến vô cùng, dẫn đến tinh xá Kỳ hoàn diện kiến Như Lai. Các cậu bé trông thấy Đức Phật dung nhan tươi đẹp còn hơn trước kia nghe mẹ nói gấp ngàn vạn lần, trong lòng vui mừng không thể kể xiết. Đức Phật nhân đó tùy duyên thuyết diệu pháp, cả mười người đều được pháp nhãn thanh tịnh, rồi bạch Phật cầu xin xuất gia. Đức Phật hỏi:
– Cha mẹ các con có cho phép không? Đáp:
– Bạch Thế Tôn, chúng con chưa hỏi. Đức Phật bảo:
Cha mẹ chưa cho phép thì không được xuất gia.
Ông Tu-đạt lại thưa:
– Bạch Thế Tôn, đây là cháu ngoại của con, nay con cho phép chúng nó xuất gia.
Đức Phật liền hứa khả cho nhập đạo, râu tóc họ liền tự rụng, pháp y mặc trên mình biến thành những Sa-môn, tinh tấn vì đại nghiệp, chứng đắc A-la-hán. Mười vị Tỳ-kheo này rất được người khâm phục cung kính, đến lui đều ở chung một trụ xứ, nhân dân trong nước không ai chẳng kính quý.
Ngài A-nan bạch Phật:
– Mười vị Tỳ-kheo này có phước gì mà được sinh vào nhà tôn quý, dung mạo hiếm thấy, lại gặp Thế Tôn dứt trừ sạch khổ? Cúi mong Thế Tôn vì con nói rõ.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, về thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, giáo hóa xong Ngài nhập Niết-bàn, hỏa thiêu nhục thân, phân bố xá-lợi xây dựng vô lượng tháp thờ.
Khi đó có một ngôi tháp hư mục, có một bà già muốn sửa lại, thấy mười chàng thiếu niên đi đường, bà nói:
– Đây là tháp tôn quý, công đức to lớn, cho nên cần phải tu bổ, sau này sẽ được quả lành.
Mười chàng thiếu niên vui mừng, cùng nhau giúp công sửa lại, làm xong cùng thệ làm con bà lão. Từ đó đến nay đã chín mươi mốt kiếp, sinh ở trên trời hay trong nhân gian thường cùng sinh ra thọ hưởng phước lạc, thường có ba việc hơn cả mọi người: Một là hình thể đoan chánh; hai là mọi người kính mến; ba là thường được trường thọ. Trải qua nhiều kiếp không đọa ba đường, nay được gặp Ta, tắm gội pháp hóa, dứt sạch trần cấu thành bậc Ứng chân. Nên biết bà lão thuở đó nay chính là Tô-man vậy. Mười chàng thiếu niên nay là mười vị A-la-hán.
Đức Phật nói đến đây, trong đại hội nghe pháp có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na- hàm, A-la-hán, có người phát tâm Đại thừa bất thoái, tin thọ lời Phật hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe nói như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ, trong núi Kỳ-xà-quật. Bấy giờ ở nước này có một vị trưởng giả giàu có tên Thi-lợi-chất, nhà cửa giàu có, của báu đầy ắp. Bà vợ ông mang thai, sau đó sinh ra được một cậu con trai dung mạo nghiêm diệu, ở đời ít ai sánh bằng. Cha mẹ rất vui mừng cho là rất may phước, bèn mời thầy về xem tướng. Thầy tướng xem nói với song thân:
– Đứa bé này có phước đức, sẽ làm vinh hiển dòng họ.
Trưởng giả nghe thế càng thêm vui mừng, lại nhờ thầy đặt tên. Thầy tướng lại hỏi:
– Từ khi mang thai có điềm ứng gì không? Trưởng giả nói:
Bà mẹ đứa bé vốn nói năng vụng về, nhưng từ khi mang thai ăn nói khéo léo lanh lẹ vô cùng!
Thầy tướng bèn đặt tên là Bà-thế-chất. Cậu bé lớn lên thông minh siêu quần. Một hôm cùng đồng bạn dạo chơi, chàng trông thấy nhà của nhạc vũ công Na-la có một người con gái diện mạo xinh đẹp, dung nhan ít người có được, bèn sinh lòng yêu mến muốn được hỏi làm vợ, về thưa cha mẹ xin cầu hôn cô gái ấy. Cha mẹ bảo:
– Con là dòng quý phái, còn cô gái kia dòng tộc hạ tiện, cao thấp chẳng bằng nhau, làm sao có thể thương yêu sâu đậm được, không thể tự ý được.
Bà-thế-chất lại thưa:
– Xin cha mẹ chớ nói đến môn đăng hộ đối, chỉ nói đến bản thân, xin hãy rủ lòng thương xót vì con mà cầu hôn, nếu không được như chí muốn, con xin tự vẫn.
Cha mẹ bèn nghe theo, sai người đi đến đó cầu hôn. Họ về báo:
– Nhà anh vốn dòng tộc lớn, còn nhà tôi là tiểu nhân, hai bên không cân xứng làm sao cưới hỏi được?
Người con ân cần năn nỉ mãi không chịu ngừng, sai người đem thư đến hỏi nữa. Nhà bên gái đáp rằng:
– Nếu có thể theo bên nhà tôi, học tập các thứ thuật ca múa..., đều phải biết đầy đủ, cho đến ở trước nhà vua thi đậu, sau đó mới thành hôn nhân.
Người con trai mê hoặc sắc đẹp cô gái, không hổ thẹn gì cả liền qua bên nhà gái, học tập hí nghệ, trải qua một thời gian đều thành tựu cả. Khi đó quốc vương tập hợp các Na-la, chơi trò trốn tìm..., thi tài kỹ nghệ... Bấy giờ người con trưởng giả cũng theo bên vua ứng hiện kỹ thuật, chạy đi tìm kiếm, vua thoắt mất không thấy, lại muốn trèo lên cao tìm. Khí lực dần dần suy yếu giữa đường muốn rớt xuống, trong lòng lo sợ không chỗ nương tựa. Bấy giờ Tôn giả Mục-liên đi trên hư không đến bên cạnh bảo:
– Như con nay muốn toàn thân mạng tham gia học đạo, hay chịu rớt xuống đất mà lấy người con gái kia?
Chàng ta bèn nói:
– Nguyện tôi còn sống, không cần đến người con gái đó nữa.
Ngài Mục-liên liền từ trong hư không hóa làm đất bằng, chàng ta liền ngưng sợ sệt, từ đất mà xuống, được toàn thân mạng, nhờ đó an ổn mừng không thể tả, theo Tôn giả Mục-kiền-liên đi đến chỗ Thế Tôn, lễ bái cúng dường. Bấy giờ Đức Phật rộng thuyết diệu luận, như luận nói về Bố thì, luận nói về Trì giới, về sinh Thiên... Muốn xa lìa bất tịnh, mau nhất là ra khỏi. Tâm ý chàng khai giải liền được Sơ quả, nhân đó bạch Phật nguyện được xuất gia phụng tu Chánh pháp. Thế Tôn nhận lời, râu tóc chàng tự rụng, pháp y mặc trên thân, trở thành vị Sa-môn, chuyên tinh thiền định, tư duy, tu theo chánh nghiệp, dứt sạch các lậu, thành A-la- hán.
Ngài A-nan đến trước bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Sa-môn Bà-thế-chất, kiếp trước cùng người con gái kia có nhân duyên gì mà tâm mê hoặc đắm nhiễm, hầu như đến nguy ngập. Lại tạo nhân duyên gì mà gặp Tôn giả Mục-kiền- liên nhờ ân được tế độ, lại được nhân duyên gì mà đạt được quả Ứng chân?
Đức Phật bảo:
Này A-nan, thời quá khứ vô lượng kiếp trước, ở nước Ba-la-nại, có một vị trưởng giả sinh được một cậu con trai, tướng mạo đoan chánh vô cùng. Đang lúc đó, trong nhà có người đi biển trở về đem một trứng chim dâng cho trưởng giả, ông nhận lấy. Trải qua một thời gian trứng ấy nở ra được một con chim phượng hoàng lông cánh sáng rực. Trưởng giả rất yêu mến nó, đem cho đứa con để chơi, dần dần con chim to lớn. Bấy giờ đứa con của trưởng giả cỡi lên lưng nó bay đi khắp nơi xem cảnh, thỏa mãn rồi trở về nhà, ngày ngày cứ như thế. Trải qua một thời gian đứa con trưởng giả đã lớn, nghe quốc vương ở nước khác có mở cuộc thi, bèn cỡi chim bay đến đó đáp xuống xem. Chim đậu trên ngọn cây, vị ấy bỗng thấy vương nữ nên đem lòng thương mến, sai người đem thư tỏ bày tâm sự. Vương nữ đồng ý, bèn cùng nhau quan hệ tình cảm, do thương yêu không kín đáo, bị nhà vua biết, sai người truy bắt. Bắt được chàng ta trói lại định đem xử trảm. Người con của trưởng giả nói:
– Vì sao các ông định giết tôi? Hãy cho tôi lên trên cây gieo mình xuống chết đi.
Mọi người đồng ý, liền cho anh ta lên cành cây. Anh ta leo lên lưng chim bay lên hư không đi mất. Nhờ con chim mà kéo dài được mạng sống.
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, người con của vị trưởng giả kia nay chính là Bà-thế-chất. Vương nữ thuở đó nay là con gái của nhà kia, còn con chim phượng hoàng nay chính là Tôn giả Mục-kiền-liên. Ở đời quá khứ do mê nhan sắc mà đưa đến khốn đốn, nhờ con chim mà được cứu sống. Nay lại tham sắc đẹp cũng sắp tử vong, do nhờ Mục-kiền-liên mà được an ổn. Bà-thế-chất nói năng thông biện thành bậc Vô lậu, là do về thuở quá khứ, có một cư sĩ nước Ba- la-nại gặp Bích-chi-phật đi khất thực, cư sĩ liền đem cơm cúng thí, nhân đó lại thỉnh ngài thuyết kinh pháp. Bích-chi-phật ấy từ chối không thể thuyết, rồi quăng cái bát lên hư không nhảy vọt lên mà đi. Cư sĩ nghĩ rằng: “Người này thần lực biến hóa vô cùng, nhưng không thể diễn bày thuyết hóa, nguyện ta đời sau, gặp được Thánh tôn hơn vị đạo sĩ này khoảng ức vạn lần, diễn tán pháp nghĩa vô cùng vô tận, khiến thân ta cũng được quả chứng.”
Do nhân duyên đó, đời này thông minh, đạt đến quả A-la-hán.
Lúc Đức Phật nói tiền kiếp nhân duyên, người nghe không ai chẳng hoan hỷ; có người nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la- hán, có người gieo trồng căn lành Duyên giác, có người phát tâm Bồ-tát, đều tin lời Đức Phật đảnh lễ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ nước này có một vị Phạm chí tên A-ba-cúc-đề, ông là một người thông minh học rộng, thấu xưa đạt nay. Ông đi đến chỗ Phật cầu xin làm Sa-môn, nhân đó bạch:
– Nếu con xuất gia, trí tuệ biện tài cùng bằng ngài Xá-lợi-phất... Nếu không bằng như vậy sẽ tự trở về nhà.
Đức Phật nói:
– Ông không bằng được.
Khi ấy vị Phạm chí ngừng lại không học đạo trở về nhà. Sau đó Đức Thế Tôn bảo với chúng hội:
Ta diệt độ rồi, trong một trăm năm sau, vị Bà- la-môn này sẽ được pháp hóa chứng đạt lục thông, trí tuệ cao xa, giáo hóa chúng sinh, số như vi trần.
Khi Đức Phật Niết-bàn, Ngài bảo A-nan:
– Sau khi Ta diệt độ tất cả Kinh tạng ắt phó chúc cho ông, ông sẽ thọ trì lưu bố rộng rãi.
Sau khi Thế Tôn diệt độ, A-nan trì pháp. Sau đó Tôn giả A-nan lại muốn xả thân, bảo đệ tử Da- thế-kỳ:
– Sau khi ta qua đời, tất cả yếu điển, ngươi nên giữ gìn. Ngài A-nan nhân đó bảo:
– Nước Ba-la-nại sẽ có một cư sĩ tên là Cúc-đề, người này có con tên là Ưu-ba-cúc-đề. Ông hãy đến hỏi để cùng làm đạo, nếu ông thọ chung, giao phó pháp cho người ấy.
Tôn giả A-nan diệt độ rồi, Da-thế-kỳ phụng trì Phật pháp, du hóa thế gian, độ người rất nhiều. Ngài đến Ba-la-nại, đến lui nhà cư sĩ để cùng quen biết, thường hay tới lui nhà cư sĩ ấy. Vị cư sĩ đó sinh được một đứa con trai tên A-ba-cúc-đề. Lúc đứa bé còn nhỏ Da-thế-kỳ đến đó hỏi, muốn khiến nó học đạo. Cha nó đáp:
– Tôi mới có một đứa con để nối dòng không thể cho, nếu có sinh thêm thì sẽ cho.
Sau này sinh được một đứa con trai tên Nan- đà-cúc-đề. Bấy giờ Da-thế-kỳ lại đến hỏi xin. Người cha nói:
Con lớn ở dinh ngoài, con thứ ở dinh trong. Nhà cửa như vậy mới có thể hưng thịnh. Nếu sau này có chắc chắn sẽ dâng cho.
Da-thế-kỳ là bậc A-la-hán, đầy đủ Tam minh, có thể biết được căn cơ con người, quán thấy hai đứa bé này không có duyên với đạo, cũng không muốn cầu xin nữa.
Bấy giờ nhà vị cư sĩ kia lại sinh một đứa con trai, diện mạo đoan nghiêm, hình tướng thù đặc. Khi đó Da-thế-kỳ đến hỏi, người cha nói:
– Đứa bé này còn nhỏ, chưa có thể phụng sự, hơn nữa nhà lại nghèo.
Dần dần lớn lên, cậu bé có tài trí, người cha bèn giao phó tài vật cho buôn bán. Khi ấy Da-thế-kỳ đi đến bên cậu ấy thuyết pháp dạy buộc niệm, dùng viên đá đen trắng để trù tính. Hễ nghĩ thiện thì để viên đá trắng, nghĩ ác thì để viên đá đen. Ưu-ba- cúc-đề vâng theo lời dạy tùy theo niệm thiện ác mà quăng hòn đá, mới đầu hòn đá đen rất nhiều, đá trắng ít, dần dần tu tập, đen trắng bằng nhau, không ngừng buộc niệm, càng không có hòn đá đen, thuần có viên đá trắng. Niệm thiện đã nhiều chàng đạt đến Sơ quả.
Lúc đó, trong thành ấy có một dâm nữ, sai tỳ nữ cầm tiền đi mua hoa. Ưu-ba-cúc-đề tâm tánh chất trực, cho cô ấy hoa không lấy tiền. Tỳ nữ đem hoa về, dâm nữ thấy kỳ lạ, hỏi nữ tỳ:
– Hôm trước mua hoa cũng bấy nhiêu tiền, vì sao hôm trước ít, hôm nay lại được nhiều hoa?
Tỳ nữ đáp:
– Hôm nay chủ bán hoa nhân từ thủ lễ, bình đẳng cho, do đó được nhiều. Lại nữa người ấy hình thể đẹp đẽ lạ thường mọi người trông thấy ai cũng mến thương.
Dâm nữ nghe nói thế, sai đến mời. Ưu-ba-cúc- đề tự đè nén không đi. Lại cứ mời mãi, cuối cùng cũng không theo mệnh. Lúc đó dâm nữ cùng con của vương gia thông dâm. Tham đắm y phục của báu..., lợi hưng nghĩa suy nên nàng ta giết con vương gia đem giấu. Vương gia tìm kiếm được xác nơi nhà dâm nữ, bắt cô đem chặt chân tay, xẻo mũi xẻo tai, đem treo nơi cao, tuy khổ như vậy nhưng chưa mạng chung. Ưu-ba-cúc-đề đi đến chỗ đó. Dâm nữ nói:
– Tôi trước kia tướng mạo đoan chánh không chịu gặp nhau, nay hình hài tàn tệ làm sao gặp được?
Ưu-bà-cúc-đề đáp:
– Tôi không tham sắc mà đến nơi đây, vì thương xót mà đến đây thôi.
Nhân đó, tuyên thuyết pháp vô thường, thân là bất tịnh khổ, không, vô ngã; nhất nhất hãy quán sát, đâu có gì đáng nương cậy, người ngu si, vọng sinh nhiễm tưởng. Dâm nữ nghe pháp xong được pháp nhãn tịnh.
Lúc bấy giờ Da-thế-kỳ lại đến nhà cư sĩ xin chàng thiếu niên. Người cha vâng lời đem cho. Ngài dẫn đem về tinh xá cho thọ mười giới, năm hai mươi tuổi cho thọ Cụ túc, bạch Tứ yết ma xong thì đắc quả A-la-hán, chứng Tam minh, Lục thông đầy đủ, nói năng khéo léo, diễn thuyết hay vô cùng bèn tập hợp mọi người vì chúng thuyết pháp. Lúc đó ma Ba-tuần đến ở hội ấy, mưa xuống tiền vàng, mọi người tranh nhau giành lấy không chịu nghe pháp. Ngày thứ hai tập hợp đại chúng, ma bèn mưa hoa để loạn tâm quần chúng. Đến ngày thứ ba, ngài lại tập hợp đại chúng, Ma vương bèn hóa làm một con voi lớn, màu lưu ly xanh, miệng có sáu ngà, trên đầu sáu ngà có bảy ao nước, trong bảy ao nước có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ, các ngọc nữ này đều trổi kỹ nhạc, con voi đi bộ bên cạnh. Mọi người chú mắt nhìn, không để ý nghe pháp. Đến ngày thứ tư, ngài lại tập hợp đại chúng, Ma vương lại hóa làm một người con gái, đoan chánh xinh đẹp lạ thường, đứng hầu ở phía sau, mọi người chú mắt nhìn quên cả pháp sự. Lúc đó Tôn giả bèn hóa người con gái ấy thành bộ xương trắng, mọi người trông thấy lại chuyên tâm nghe pháp, người đắc đạo rất nhiều. Tôn giả vốn có một con chó, hằng ngày nó ở đó cũng được nghe pháp, sau đó nó mạng chung, sinh lên cõi trời thứ sáu, cùng ma Ba-tuần, ngồi chung một giường. Ma vương suy nghĩ: “Trời này đức lớn ngang bằng với ta, từ đâu mất mà sinh đến đây?” Quán sát mới biết là từ thân chó của vị Sa-môn kia nên Ma nghĩ muốn làm nhục. Từ xa trông thấy Tôn giả đang lúc nhập định, Ma vương liền cầm một cái mão báu đội lên trên đầu Tôn giả. Khi xả định, Tôn giả cảm thấy trên đầu có cái mão, quán sát mới biết ma Ba-tuần làm, liền dùng thần lực làm cho ma đến và hóa xác con chó giống như đồ trang sức, bảo ma:
– Ngươi để cái mão cho ta, thâm tạ ý ngươi, nay ta đem đồ trang sức dùng để tặng đáp lại.
Ma vương nhận xong, bèn trở về trời, mới thấy là xác con chó chết, trong lòng chán ghét muốn đi báo thù, nhưng dùng hết thần lực không thể làm được. Ma lại đến trời Đế Thích cầu xin trừ khử bất tịnh. Đế Thích nói:
– Người làm việc này, cũng chính là người có thể xả bỏ, sức ta không thể làm được.
Ma vương lại đi hỏi khắp các trời, cho đến Phạm thiên, họ cũng đều đáp như lúc ban đầu. Sự việc không xong, Ma vương bèn trở về chỗ Tôn giả thưa:
– Đức Phật thật là Đại đức, lòng Từ vô biên, các vị Thanh văn thành thật làm hung kỵ, làm sao dùng thí nghiệm. Ta ngày xưa đem các quân ma mười tám ức vây đánh Bồ-tát, muốn làm bại hoại đạo ấy, do ôm lòng từ bi không lấy làm oán. Nay ta xúc chạm chút ít, vì sao làm ta khốn đốn như vậy?
Tôn giả đáp:
– Lý thật như vậy, Đức Phật hơn ta gấp ngàn vạn ức lần, không thể ví dụ, như núi Tu-di sánh với hạt cải, như nước biển lớn với dấu chân trâu, như sư tử vương hơn con dã can, hình tướng lớn nhỏ thật không bì kịp.
Tôn giả nói với ma:
– Ta sinh vào thời mạt pháp không gặp Như Lai, nghe ngươi có thể hóa làm Phật. Hãy thử hiện một lần, ta muốn trông thấy.
Ma vương đáp:
Nay tôi hóa hiện, xin ngài cẩn thận chớ làm lễ.
Đáp:
– Ta không đảnh lễ đâu.
Lúc đó Ma vương hóa làm Đức Phật thân cao trượng sáu, màu vàng tía, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng chói lọi hơn cả mặt trời mặt trăng. Tôn giả vui mừng bèn cúi đầu làm lễ. Ma vương hiện lại nguyên hình, nói với Tôn giả:
– Đã bảo ngài không làm lễ, tại sao lại đảnh lễ? Tôn giả đáp:
– Ta tự lễ Phật không phải lễ nhà ngươi. Ma lại thưa:
– Cúi mong ngài thương xót, trừ bỏ thây chó. Tôn giả nói:
– Người khởi tâm Từ ủng hộ quần sinh, thì thây chó biến thành đồ trang sức; nếu ôm lòng ác thì nó biến thành thây chó trở lại.
Vì thế ma rất sợ thường phát khởi lòng lành. Bấy giờ Tôn giả, sau khi thành đạo, hóa độ chúng sinh người đắc Tứ quả, mỗi người một thẻ dài bốn tấc. Thẻ như vậy đầy cả một gian phòng chất cao sáu trượng, ngang rộng cũng như vậy. Lúc đó mọi người hỏi Tôn giả rằng:
– Tôn giả phước thật là rộng lớn, hóa độ quần sinh không thể tính kể.
Tôn giả nói:
– Khi ta còn làm kiếp súc sinh cũng hóa độ chúng sinh, khiến được Thánh quả, huống nữa là ngày nay.
Chúng hội bạch:
– Thưa Tôn giả, kiếp trước ngài hóa độ chúng sinh như thế nào, xin nói cho chúng con được biết.
Tôn giả nói:
Ở thời quá khứ có nước Ba-la-nại, trong nước có một ngọn núi tiên, năm trăm vị Bích-chi-phật trụ trong núi đó. Bấy giờ có con khỉ hằng ngày đến cúng dường chư Bích-chi-phật. Sau khi chư Bích- chi-phật nhập Niết-bàn hết thì lại có năm trăm Phạm chí tiếp tục đến ở trong núi đó. Những vị Phạm chí, có vị hoặc thờ mặt trời mặt trăng, có vị thờ lửa. Người thờ mặt trời mặt trăng thì vênh chân hướng về nó. Người thờ lửa thì sáng tối đốt lửa. Bấy giờ con khỉ kia thấy những người ấy vểnh chân thì nắm lôi kéo, thấy người đốt lửa thì nó dập tắt. Lúc đó con khỉ ngồi ngay thẳng suy nghĩ. Các Phạm chí trông thấy tự nói rằng:
Con khỉ này bắt chước chúng ta biểu thị uy nghi.
Con khỉ ngồi ngay thẳng tầm sát chân lý, tâm ý khai giải, đắc quả Bích-chi-phật.
Nói đến đây Tôn giả nhắc lại:
– Con khỉ đó chính là tiền thân của ta vậy. Chúng hội lại bạch:
– Do nhân duyên gì mà ngài bị thọ thân khỉ? Tôn giả nói:
– Về thuở quá khứ chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, các Tỳ-kheo trụ ở trong núi tiên của nước Ba-la-nại. Khi đó có một vị Ứng chân leo lên đỉnh núi đi nhẹ nhàng mau chóng, một đạo nhân trẻ nói:
– Ông đó đi mau chóng nhẹ nhàng giống như khỉ vậy.
Do nhân duyên đó trong năm trăm kiếp sinh ra thường làm khỉ. Thế cho nên bốn chúng nên tự giữ miệng chớ lời hung ác.
Khi Tôn giả Ưu-ba-cúc-đề nói đến đây, tất cả chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà- hàm, A-na-hàm, A-la-hán, có người trồng căn lành
Duyên giác, có người phát tâm Đại thừa bất thoái, không thể tính kể, tín thọ ngài chỉ giáo hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở nước La-duyệt-kỳ, trong núi Kỳ-xà-quật. Bấy giờ ở bên thành có một cái vũng nước rộng, bùn sình bất tịnh, phần nhiều là phẩn uế trong đó. Người dân trong nước, những người hèn hạ thường đem những thức dơ bẩn quăng vào trong đấy. Có một con trùng lớn, hình như con rắn lại có bốn chân ở trong vũng nước ấy, chạy đi qua lại, lúc hụp lúc trồi, trải qua mấy năm thọ khổ vô lượng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dẫn các Tỳ-kheo vây quanh vũng nước ấy, hỏi:
– Này các Tỳ-kheo, các ông có biết con trùng này túc duyên tạo hạnh nghiệp gì không?
Bấy giờ các Tỳ-kheo đều suy nghĩ mà không thể biết kiếp trước nó tạo nghiệp gì, đều bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, chúng con không biết. Bấy giờ Đức Phật nói:
Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói nó tạo hạnh nghiệp gì.
Thời quá khứ có Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, giáo hóa xong Ngài thu thần Niết-bàn. Lúc đó, trong Phật pháp có mười vạn Tỳ-kheo tịnh tu phạm hạnh, nhàn cư lạc tịnh nương vào một ngọn núi. Bên phải, bên trái ngọn núi có nhiều cây cối hoa lá sum suê tươi tốt không cùng. Giữa khu rừng ấy có suối nước trong veo mát mẻ. Bấy giờ các Tỳ-kheo thích trụ nơi ấy để hành đạo siêng năng không lười mỏi. Họ đều đạt đến Sơ quả cho đến Tứ quả, không có vị nào là phàm phu cả. Khi ấy có năm trăm người thương buôn, cùng hội họp muốn đi ra biển. Trên đường phải đi ngang ngọn núi này, các nhà buôn thấy các Tỳ-kheo siêng năng tu tập, trong lòng thầm quý kính, suy nghĩ định cúng dường. Khi đó các thương buôn tụ tập đi đến thỉnh chúng Tăng xin được cúng dường, nhưng đã có đàn-việt khác thỉnh cúng dường hằng ngày rồi. Sự việc không theo ý muốn, bèn đến từ giã chúng Tăng đi ra biển:
– Giả sử chúng tôi yên ổn trở về sẽ mở tiệc cúng dường, xin thương xót hứa khả.
Khi ấy chư Tăng im lặng hứa khả thọ thỉnh. Những thương buôn ra biển được nhiều châu báu, bình an trở về, đến chỗ chúng Tăng, chư Tăng muốn tuyển các thứ báu lạ đẹp để cúng dường, nếu có cần tiêu dùng gì thì tùy ý. Khi ấy chúng Tăng nạp thọ báu vật, gởi cho vị Tăng Ma-ma-đế. Sau này thức ăn đều hết, đem thứ của báu ấy đổi ra để tiêu dùng. Khi đó Ma-ma-đế đáp lại chúng Tăng rằng:
– Trước kia các vị khách thương tự cho tôi của báu, nay duyên cớ gì mà lại xin tôi.
Các bậc Thượng tọa, Duy na nói với Ma-ma- đế:
Trước kia đàn-việt đem của báu cúng dường chúng Tăng nhờ ông giữ giùm, nay chúng Tăng hết lương thực nên lấy thứ ấy ra dùng đỡ.
Lúc đó Ma-ma-đế nổi sân mà nói rằng:
– Những của báu này là của tôi, duyên cớ gì mà đòi hỏi. Nếu có thiếu hãy lấy phẩn mà ăn.
Khi ấy chúng Tăng thấy Ma-ma-đế khởi ác ý rồi bèn bỏ ra đi.
Do lời ác khẩu khi dễ chúng Tăng, sau khi thân hoại mạng chung, đọa địa ngục A-tỳ, thân thường lăn lộn trong phẩn uế. Trải qua chín mươi hai kiếp, từ trong địa ngục ra, nay lại sinh vào trong ao phân uế này, trải qua mấy năm chưa được giải thoát. Tại vì sao? Vì thời quá khứ có Đức Phật Thi-khí dẫn các Tỳ-kheo đi ngang qua hầm này, bảo các đệ tử nói rõ ngọn nguồn. Kế đến có Đức Phật tên Tùy- diệp cũng dẫn các Tỳ-kheo đi đến đó nói rõ nhân duyên. Từ đó mạng chung lại rơi vào địa ngục. Trải qua vạn ức năm, sau đó mạng chung lại sinh vào trong đây. Kế đến có Đức Phật tên Câu-lưu-tôn, cũng cùng đồ chúng đi quanh ao này, chỉ bày nói rõ nguồn gốc con trùng trong ao nước này cho các Tỳ-kheo nghe. Kế đến có Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni cũng cùng các đệ tử, đi đến ao này. Lại đến Đức Phật Ca-diếp cũng dẫn các đệ tử đến đây thuyết về nhân duyên cái ao này. Lần lượt bảy vị Phật, đến Ta là Thích-ca Mâu-ni, hôm nay chỉ bày ngọn nguồn nhân duyên của ao nước nay. Trông thấy con trùng ấy ở đời hiện kiếp và tương lai đều mang thân hình như vậy.
Khi ấy các Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói kinh sợ lông tóc dựng ngược, cùng nhau cố gắng tu, giữ gìn thân miệng ý, tin thọ lời Đức Phật, hoan hỷ phụng hành.
Tôi nghe như thế này:
Thuở nọ Đức Phật ở tại vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi- phất, ngày đêm ba thời thường dùng Thiên nhãn quán sát thế gian, ai đáng được độ thì ngài đi đến đó độ. Lúc đó có các thương buôn, muốn đi đến nước khác. Những thương buôn này đem theo một con chó đi đường. Thấy người ta buôn bán nghỉ ngơi, con chó bèn trộm lấy thịt. Khi ấy những người buôn bán nổi giận, đánh con chó gãy chân, quăng ngoài đồng trống, rồi bỏ đi. Ngài Xá-lợi- phất dùng Thiên nhãn từ xa trông thấy con chó nằm trên đất đói khát khốn cùng, sắp chết. Ngài mặc y ôm bình bát vào thành khất thực, khất thực xong bay đến chỗ con chó, đem lòng thương xót, cho nó thức ăn. Chó được ăn mạnh khỏe sống lại, trong lòng vui mừng vô cùng. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất vì con chó thuyết đầy đủ pháp giải thoát vi diệu. Sau đó con chó mạng chung sinh vào nhà một Bà- la-môn ở nước Xá-vệ.
Lúc đó ngài Xá-lợi-phất một mình đi khất thực, vị Bà-la-môn trông thấy hỏi:
– Tôn giả đi một mình không có Sa-di sao? Ngài Xá-lợi-phất nói:
Tôi không có Sa-di, nghe nói ông có con trai, tôi muốn gặp nó.
Vị Bà-la-môn nói:
– Tôi có một đứa con trai tên Quân-đề, còn rất nhỏ, không thể cho theo được, bao giờ nó khôn lớn tôi sẽ cho ngài.
Ngài Xá-lợi-phất nghe nói xong ghi nhớ trong lòng, rồi trở về tinh xá Kỳ hoàn. Bảy năm sau, ngài lại đến nhà ông Bà-la-môn hỏi. Bấy giờ vị Bà-la- môn đem đứa con trai mình giao phó cho ngài Xá- lợi-phất để được xuất gia. Khi đó ngài Xá-lợi-phất bèn nhận cậu bé dẫn về tinh xá Kỳ hoàn cho làm Sa-di, dần dần thuyết các Diệu pháp tâm được khai mở, đắc quả A-la-hán, đầy đủ Lục thông, công đức hoàn bị. Lúc ấy Sa-di Quân-đề đắc đạo rồi tự dùng trí lực, quán xét đời quá khứ, vốn tạo hạnh gì mà được thọ thân hình này, gặp được Thánh sư, tu hành chứng quả. Quán thấy tiền thân mình là một con chó nhờ ân Hòa thượng Xá-lợi-phất nay được thân người và đắc đạo quả, trong lòng vui mừng nghĩ rằng: “Ta nhờ ân thầy được dứt các khổ, nay đem thân này phục vụ cúng dường ngài hết mình, trọn đời làm Sa-di, không thọ đại giới.”
Khi đó ngài A-nan bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, vị ấy này xưa kia làm hạnh ác như thế nào mà phải thọ thân chó và tạo căn lành gì mà được giải thoát sớm như thế?
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, về thời quá khứ Phật Ca-diếp có các Tỳ-kheo tu tập ở một nơi. Có một Tỳ-kheo trẻ âm thanh tao nhã, tụng niệm rất hay, ai cũng đều ưa thích nghe. Lại có một vị Tỳ-kheo già tuổi đã cao âm thanh ồ ề không thể đọc kinh, mỗi khi cất tiếng tụng niệm nghe không được hay. Vị Tỳ-kheo trẻ lấy đó làm trò đùa cho mình, không ngờ vị Tỳ- kheo già đã đắc quả A-la-hán, đầy đủ công đức của bậc Sa-môn.
Lúc đó Tỳ-kheo trẻ thấy tiếng của mình thanh thoát rất hay, cậy vào tiếng hay của mình mà chê trách vị trưởng lão kia tụng tiếng như chó sủa. Vị
Tỳ-kheo già bèn kêu Tỳ-kheo trẻ nói:
– Ông có biết tôi không? Vị Tỳ-kheo trẻ đáp:
Tôi rất biết ông, ông là Tỳ-kheo đệ tử của Phật Ca-diếp.
Vị Trưởng lão Tỳ-kheo nói:
– Tôi đã đắc quả A-la-hán rồi, đầy đủ đức hạnh của bậc Sa-môn.
Khi đó vị Tỳ-kheo trẻ nghe rồi trong lòng lo sợ, lông tóc dựng ngược, tự trách liền bái lạy sám hối tội lỗi của mình. Vị Tỳ-kheo già hoan hỷ cho sám hối. Nhưng do lời nói ác ấy trong năm trăm đời thường thọ thân chó, may là ông có xuất gia trì thọ tịnh giới nên nay được thân người gặp Ta và được giải thoát.
Bấy giờ ngài A-nan nghe Đức Phật nói xong vui mừng đảnh lễ phụng hành.
❑
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]