SỐ 196
KINH TRUNG BỔN KHỞI
Hán dịch: Đời Hậu Hán, Tam tạng Pháp sư Tây vực Sa- môn Đàm Quả và Khương Mạnh Tường.
Phẩm 5: XÁ-LỢI-PHẤT, ĐẠI MỤC-KIỀN- LIÊN ĐẾN HỌC ĐẠO
Phẩm 8: NHÂN DUYÊN CAI DUNG TRAI GIỚI
Phẩm 9: CÙ-ĐÀM-DI ĐẾN XIN ĐỨC PHẬT XUẤT GIA LÀM TỲ-KHEO-NI
Phẩm 11: TỰ YÊU THƯƠNG BẢN THÂN
Phẩm 12: ĐẠI CA-DIẾP LÚC MỚI ĐẾN HỌC ĐẠO
Tôn giả A-nan nói:
Lúc trước tôi theo hầu Đức Phật được nghe như sau:
Một thuở nọ Đức Phật trú dưới cội Bồ-đề tại đạo tràng Thiện thắng thuộc cương thổ nước Ma- kiệt-đề, Đức Đại Hùng hàng phục chúng ma, Thánh tâm an tịnh tuệ giác viên mãn, thông đạt ba đức: Thiên nhãn, túc mạng và lậu tận vô ngại, độ hai thương gia Đề-vị và Ba-lị[2], truyền trao ba phép tự quy y và năm giới, để họ trở thành Ưu-bà-tắc. Đức Thế Tôn nhớ lại trong quá khứ có Đức Cổ Phật tên là Định Quang, Ngài nhờ lễ bái danh hiệu Đức Phật này, nên được Phật ấy thọ ký:
–Trong chín mươi mốt kiếp về sau, ông sẽ thành Phật tên là Thích-ca Văn, hiệu Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Bậc Chúng Hựu cứu độ chúng sinh như Ta hiện nay.
Từ đó đến nay, Ta tu tập điều phục bổn tâm, hành trì sáu độ đến chỗ viên mãn diệu lý, tích lũy công hạnh; bốn Bình đẳng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) không khi nào thoái giảm, thực hành các hạnh khó làm, chịu vô lượng khổ đau, công đức tròn đủ nên được thành Phật.
Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Ta vốn phát tâm thệ nguyện khi trời Đế Thích vì chúng sinh đến thỉnh pháp sẽ mở cửa diệu pháp cam lộ. Ai thích hợp để được nghe trước tiên? Trước đây, Ta xuất gia học đạo, trên đường đi vị Phạm chí A-lan-ca-lan có bảo chờ đến khi Ta chứng ngộ. Do vậy nên độ vị ấy trước”.
Nghĩ thế rồi hướng ý đi tìm. Chư Thiên theo Thiên ý ở trên không trung thưa:
–Vị ấy đã mất cách đây bảy ngày.
Đức Phật bảo:
–Khổ thay! Này A-lan-ca-lan, cửa pháp cam lộ đang mở sao ông không được nghe.
Đức Phật lại nghĩ: “Cửa pháp cam lộ đang mở, ai là người kế tiếp đáng được nghe? Uất-đầu-lam- phất là vị kế tiếp xứng đáng được nghe”.
Ngài vừa đứng dậy hướng ý đi tìm, chư Thiên lại thưa:
–Vị đó mới mạng chung vào chiều hôm qua.
Đức Phật nói:
–Vị ấy sẽ mãi mãi bị suy thoái, diệu pháp cam lộ đang mở bày lại không được nghe, bị trôi dạt trong vòng sinh tử, làm sao chấm dứt sự luân chuyển trong năm đường, đau khổ biết bao!
Đức Phật lại suy nghĩ: “Trống pháp cam lộ vang rền khắp ba ngàn cõi trời, ai nên được nghe trước? Xưa kia phụ vương Ta lệnh cho năm người là:
Câu-lân. Át-bệ.
Bạt-đề.
Thập Lực Ca-diếp.
Ma-nam-câu-lợi dâng mè lúa cho Ta.
Hầu hạ Ta rất cực nhọc, nên báo đáp công đức ấy”.
Khi đó năm vị này đều ở tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ Đức Như Lai mới từ cội Bồ-đề đứng dậy với thân tướng tốt đẹp uy nghi trang nghiêm, ánh minh quang bừng tỏa khắp thế gian, thần khí oai hùng chấn động muôn phương khiến người người trông thấy đều hoan hỷ. Ngài đi thẳng đến nước Ba-la-nại, giữa đường Ngài gặp một vị Phạm chí tên là Ưu-hu. Thoáng thấy thân tướng oai nghi trang nghiêm rực rỡ của Đức Thế Tôn, ông ta vừa kinh hãi, vừa vui mừng đứng một bên đường cất tiếng khen ngợi:
–Thật là sức oai thần làm cảm phục lòng người, uy nghi thanh thoát đĩnh đạc! Ngài nương học với vị thầy nào mà được tư dung như vậy?
Đức Phật vì Ưu-hu nói bài tụng:
Tự ngộ tám Chánh đạo
Không ly, không ô nhiễm
Tắt ái, phá lưới dục
Tự nhiên, chẳng nhờ thầy.
Ta tu hành, không thầy
Một mình, không bạn lữ
Tích hạnh thành Phật vị
Từ nay truyền đạo Thánh.
Ưu-hu hỏi Đức Phật Cù-đàm:
–Nay Ngài đi đến đâu? Đức Phật bảo vị Phạm chí:
–Ta muốn đến vương quốc Ba-la-nại, đánh trống pháp cam lộ, chuyển pháp luân vô thượng mà các Thánh nhân trong ba cõi chưa từng truyền giảng, khiến mọi người đều đạt được Niết-bàn như ta hiện nay.
Ưu-hu vô cùng hoan hỷ thưa:
–Tốt lành thay! Thật là tốt lành! Đúng như lời Đức Cù-đàm nói, kính xin Ngài mở bày diệu pháp cam lộ, đúng như thế truyền giảng chánh pháp.
Đức Như Lai vào kinh đô nước Ba-la-nại, đi tới các cội cây trong vườn Nai thuộc vùng đất tên gọi Cổ tiên nhân, chỗ năm vị kia đang họp trú. Năm vị ấy từ xa trông thấy Đức Phật đi đến, liền cùng nhau bàn luận:
–Chúng ta bền bỉ chịu khổ, xa lìa gia đình, trèo non vượt núi khổ cực vô cùng để dâng cúng mè lúa cho người này, nghĩ rằng vị ấy có thể kham nhẫn được. Nhưng vì về sau, trong cuộc chiến với tập khí phiền não trong nội tâm, vị ấy lại mềm yếu, thoái tâm. Do vậy bây giờ vị ấy trở lại đây, một hạt mè, một hạt lúa chúng ta cũng không cúng. Nay muốn xin ăn thì làm sao có thể biện bạch gì? Chúng ta chỉ nhường cho vị ấy một chỗ ngồi, nhưng mỗi người không quỳ, không thăm hỏi gì. Vị ấy thấy không an lạc chắc chắn phải tự bỏ đi mà thôi.
Khi đó Đức Thế Tôn vì năm vị ấy hiển bày Phạm tướng vi diệu. Cả năm vị không có chủ ý nhưng đồng đứng dậy đảnh lễ, hầu hạ Ngài như trước. Đức Phật hỏi năm vị ấy:
–Các ông cùng nhau bàn luận là không được đứng dậy, vì sao nay lại đảnh lễ?
Họ đều thưa:
–Chúng tôi vì Ngài nên ở lại đây bền tâm trải qua bao nhiêu sự khổ nhọc. Vua Tịnh Phạn bạo ngược xa lìa đạo đều bởi do Ngài đó.
Đức Phật bảo năm vị ấy:
–Các ông chớ có ý niệm khinh rẽ Như Lai. Như Lai là Đấng Toàn Giác Bình Đẳng Tối Thượng, Bậc Vô Thượng Chánh Chân, Đấng Đại Giác Tối Thượng. Các ông không nên dùng ý niệm trong vòng sinh tử mà đối xử. Vì sao được tương kiến với Ta, các ông lại gọi tên của phụ thân Ta?
Ngài lại nói với họ:
–Các ông hãy quan sát thân tướng của Ta có giống như lúc ở dưới gốc cây trước đây không?
Năm vị ấy trả lời:
–Trước đây thân Ngài tiều tụy, nay tươi sáng rực rỡ. Lúc trước Ngài tĩnh tọa dưới gốc cây, thân ngay mắt khép, mỗi ngày chỉ dùng một hạt mè, hạt lúa mà còn cho là chẳng phải con đường giác ngộ. Nay Ngài đã trở lại vòng thế sự ăn mặc tùy thích làm sao cho đó là con đường chánh giác được?
Đức Phật dạy năm vị ấy:
–Thế gian có hai việc khiến người ta tự hại và bị mọi người khinh thường.
Hai việc ấy là gì? Đó là sát sinh và dâm dục phóng đãng, ỷ lại vào giàu sang nên sinh tâm tham đắm dục lạc làm khổ cực mệt mỏi thân thể, nội tâm không có tư niệm giải thoát. Xa rời hai việc ấy, chẳng phải là bậc Hiền thánh sao? Ta đối với chín mươi sáu học lý trước đây không hề rời bỏ, vì tâm Ta an trú trong Trung đạo, không bị ràng buộc vào hai cực đoan. Tâm an trú trong Trung đạo là thế nào? Chính là liễu giải con đường đưa đến tuệ giác, thông đạt tất cả các loại trí tuệ, sáu năng lực thần thông đều liễu tri, thực hành trọn vẹn tám pháp chánh đạo. Đó gọi là tâm an trú trong trung đạo, trụ trong Niết-bàn.
Đức Phật giảng xong nhưng cả năm vị vẫn chưa thể lĩnh hội. Sau đó, khi ba vị này đi khất thực thì hai vị kia ở lại hầu Đức Phật. Đức Phật giảng nỗi khổ đau từ sắc cho hai vị ấy:
–Tất cả nạn tai đều từ sắc dục sinh ra. Vạn vật mà ta ưa thích đều là vô thường, con người cũng không thường trụ. Giống như nhà ảo thuật, biến hóa mọi vật theo ý muốn, kẻ ngu thấy vậy say mê, tham đắm không nhàm chán nhưng nhà ảo thuật hiểu rõ sự huyễn hóa ấy nên không bị lôi kéo, không bị mê đắm. Vì sao vậy? Vì đó là vật giả hiện, không phải là chân thật.
Đức Phật vì hai vị ấy nói bài tụng: Phóng tâm theo dâm dục Gốc dục lớn càng nhanh Sắc buộc, oán họa sinh Họa tiêu bởi lìa dục.
Khi hai vị kia đi khất thực, ba vị này ở lại hầu Đức Phật, Ngài giảng nỗi khổ từ tham cho họ:
–Ham lợi cầu vinh là điều kẻ mê loạn, cuồng si thường đắm đuối. Tất cả công đức, hạnh lành bị phá hủy, làm hại đều do lòng tham. Được thì vui mừng, mất thì phẫn nộ, tâm trạng ấy kẻ tham dục không hề nhàm chán. Cái lợi ấy thật là hiểm nguy mỏng manh như đám phù vân thoáng trôi qua. Khi già bệnh chết đến, nó sẽ tan hoại chẳng thể chia xẻ cho ai. Giống như người nằm mộng, tỉnh giấc chẳng còn thấy gì. Bậc trí cần rời bỏ tham dục mới được đại tịch tĩnh.
Đức Phật vì ba vị ấy nói bài tụng:
Ý dục tham như đất
Dưỡng giống luyến si tâm
Đoạn niệm tham cầu lợi
Vĩnh viễn thoát ưu sầu.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nhân đó tuyên giảng pháp yếu rộng rãi, không phân biệt, năm vị nghe xong liền thấu hiểu, xin làm đệ tử.
Đức Phật tuyên nói:
–Thiện lai Tỳ-kheo.
Cả năm vị được thâu nhận thành Sa-môn. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
–Này các Tỳ-kheo, có hai việc lôi cuốn đưa người tu tập đến bờ khổ não. Một là nhớ nghĩ đến sắc dục, làm cho tâm ý không an tịnh. Hai là tham luyến, buộc ràng với ái dục, làm cho chí hạnh không thể thanh tịnh. Hai việc ấy khiến bậc tu hành bị lôi cuốn trở lại với các tà hạnh sinh ra không gặp Phật, chống trái và xa lìa chánh đạo. Nếu nỗ lực đoạn ly dục tham, tinh tấn trau dồi tuệ mạng có thể đạt được Niết-bàn. Niết-bàn là gì? Trước tiên phải tuệ tri Tứ đế. Tứ đế là gì? Một là Khổ, hai là Tập, ba là Tận, bốn là Nhập đạo. Như vậy, này các Tỳ- kheo, cần nuôi dưỡng tuệ giác, nhất tâm thiền quán sẽ thể đạt được đạo. Pháp nhãn sáng tỏ sẽ giải ngộ được Tứ đế, bắt đầu dự vào dòng Thánh đạo.
Thế nào gọi là Khổ?
Sinh là khổ; già là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; lo lắng, bi thương, tức giận buồn bực là khổ; yêu thương nhưng phải xa lìa là khổ; oán ghét mà phải gặp nhau là khổ; cầu mong nhưng không được là khổ. Tất cả khổ đau đều từ năm ấm, chấp thủ năm ấm là khổ.
Thế nào gọi là Tập?
Tất cả những gì ràng buộc với ái đều là Tập, thoát ly ái thì Tập không còn.
Thế nào gọi là Tận?
Từ tuệ giác rõ biết tất cả phiền não đều có gốc rễ từ ái thì ái tận diệt. Tâm lặng tắt ái, không bị ái nhiễm nên tỉnh giác hoàn toàn. Như thế gọi là Tận.
Thế nào gọi là Nhập đạo?
Chính là tám đạo lộ chân chánh. Một là Chánh kiến, hai là Chánh lợi, ba là Chánh ngôn, bốn là Chánh hạnh, năm là Chánh mạng, sáu là Chánh trị, bảy là Chánh chí, tám là Chánh định.
Đó là Khổ, Tập, Tận và Nhập đạo. Chân lý ấy vốn là vô sinh, vì vô sinh nên không già, vì không già nên không bệnh, vì không bệnh nên không chết, vì không chết nên không dẫn đến khổ đau. Không khổ đau là trạng thái an lành tối thượng, hướng đến Niết-bàn. Bấy giờ Đức Như Lai liền nói bài tụng:
Đạo lớn không qua lại
Lý huyền diệu tịch không
Thể vô tử, vô sinh
Niết-bàn an tịnh xứ.
Tối thượng đại tịch tĩnh
Tối thắng không tạo tác
Thiên xứ cảnh mỹ thanh
Niết-bàn vượt Thiên xứ.
Đức Phật giảng xong bài pháp, năm vị nhóm ông Câu-lân đều đắc được pháp nhãn.
Đức Phật hỏi:
–Này Câu-lân, ông đã thể hội chưa?
Tôn giả Câu-lân từ chỗ ngồi đứng dậy thưa:
–Bạch Thế Tôn, con vẫn chưa thể hội.
Đức Phật lại giảng cho Tôn giả Câu-lân:
–Này Câu-lân trong quá khứ xa xưa về trước, có một vị vua tên là Ác Sinh cùng các cung tần mỹ nữ vào núi vui chơi. Vua ra lệnh các quan tùy tùng đứng dưới chân núi, chỉ dẫn các cung nữ thả bước tiến lên đỉnh núi. Lúc ấy nhà vua rất mệt mỏi nên nằm nghỉ, đoàn cung nữ để nhà vua ở lại, đi hái hoa. Thấy một hiền sĩ đang tĩnh tọa dưới gốc cây, lòng họ rất hân hoan nên đều đến đảnh lễ. Vị hiền sĩ cất tiếng gọi:
–Các cô hãy đến đây!
Ngài bảo các cung nữ ngồi xuống rồi thuyết pháp cho họ nghe.
Nhà vua tỉnh giấc đi tìm các cung nữ, thấy họ đang ngồi trước một vị tu sĩ. Nhà vua bản tánh hay đố kỵ nên liền khởi lên ác tâm, hỏi vị hiền sĩ:
–Tại sao ngươi dụ dỗ các cung nữ của ta?
Ngươi là ai mà ngồi ở đây?
Vị hiền sĩ biết trước ý vua nhất định sẽ xuống tay hung bạo, làm hại liền đáp:
–Tôi là người tu hạnh nhẫn nhục.
Nhà vua liền rút gươm chặt đứt hai cánh tay của vị hiền sĩ rồi hỏi tiếp:
–Ngươi là ai? Ngài đáp:
–Quả thật tôi là người tu hạnh nhẫn nhục!
Nhà vua lại xẻo tai, cắt mũi vị hiền sĩ, nhưng tâm ngài vẫn kiên cố bất động. Ngài vẫn trả lời:
–Tôi là người tu hạnh nhẫn nhục.
Nhà vua thấy sắc mặt của vị hiền sĩ không hề biến đổi, bèn hối hận đến trước ngài xin sám hối. Vị hiền sĩ bảo nhà vua:
–Nay ngài vì nữ sắc đã dùng đao cắt chặt thân ta. Nhưng lòng nhẫn nhục của ta như mặt đất, ta nhất định sẽ đắc quả vị Chánh đẳng Chánh giác. Ta sẽ dùng trí tuệ toàn giác để đoạn trừ sinh tử của ngài.
Nhà vua tự nghĩ mình tội quá nặng, chắc chắn phải chịu nhận lãnh tai ương nặng nề nên cúi đầu sát đất, xin hiền giả xót thương tha thứ.
Vị hiền sĩ bảo nhà vua:
–Nếu hạnh nhẫn nhục của ta là chân thật, máu của ta sẽ biến thành sữa, những thương tích trên thân ta sẽ lành lại như xưa.
Đúng như lời ngài nói, máu hóa thành sữa và thân ngài bình phục lại như trước.
Nhà vua thấy sự hiển hóa chứng minh cho đức nhẫn của ngài, liền cúi mong ngài cứu độ, thành khẩn thưa:
–Nếu ngài thành đạo Chánh giác xin độ cho con trước tiên.
Vị hiền sĩ hứa chấp thuận. Nhà vua thoát khỏi cơn cuồng mê, bấn loạn, từ tạ vị hiền sĩ lui gót về cung.
Đức Phật bảo Câu-lân:
–Vị hiền sĩ tu hạnh nhẫn nhục lúc ấy chính là Ta, còn vua Ác Sinh thuở đó chính là ông. Này Câu-lân, ông đã thể hội chưa?
Tôn giả Câu-lân bạch Đức Phật:
–Bạch Thế Tôn, con đã thông đạt.
Khi Đức Phật thuyết bài pháp ấy xong, năm vị
Tôn giả nhóm ngài Câu-lân tâm trí bừng sáng, tất cả lậu hoặc đều rơi rụng. Cả năm vị đều chứng quả La-hán, tám vạn Thiên tử ở trên các cõi trời đều đắc pháp nhãn, ba ngàn thế giới bị chấn động mạnh.
Đó là lần đầu tiên Đức Như Lai ở nước Ba-la- nại chuyển pháp luân vô thượng mà trước đây chưa ai chuyển, rộng độ tất cả khiến không người nào không an lạc.
Bấy giờ trong thành Ba-la-nại có một vị trưởng giả tên là A-cụ-lợi, có một người con tên là Dã Dã (nước Tấn gọi là Bảo Xứng). Năm Bảo Xứng được hai mươi bốn tuổi bỗng sinh ra điều kỳ diệu, mỗi khi chàng cất chân đều có đôi guốc bằng ngọc lưu ly hiện ra. Cha mẹ rất quý điểm dị thường ấy nên đặt tên chàng là Bảo Xứng, xây riêng cho chàng một ngôi nhà, trong đó các chỗ ở hợp với thời tiết nóng lạnh khác nhau, luôn có kỹ nữ tấu nhạc suốt đêm ngày. Vào một ngày nọ, Bảo Xứng giữa đêm choàng tỉnh dậy, nhìn thấy các nàng hầu ngủ say dường như những cái xác không hồn, máu mũ chảy đầy, chân tay rời rã, nằm la liệt khắp cả gian phòng tựa như bãi tha ma. Chàng hoảng hốt bỏ chạy ra cửa thì cửa liền tự mở. Lúc ấy đất trời tối tăm mù mịt chỉ thấy một tia ánh sáng, chàng theo đó chạy đến cửa thành phía Đông, cửa thành lại tự mở. Một vầng sáng tỏa chiếu tại vườn Nai, chàng tìm theo vầng sáng ấy đi đến chỗ Đức Phật. Vừa nhìn thấy tướng Đức Phật tốt đẹp lạ thường, diện sáng trong lành, thân cao vòi vọi, tâm trạng cuồng loạn, kinh hoàng của chàng đều tan biến. Chàng cất tiếng than:
–Lâu nay ta ở mãi trong ngục ái ân, bị gông cùm danh sắc trói buộc, chẳng bằng nay theo Đấng Tối Tôn lại không được giải thoát sao?
Đức Phật dạy:
–Này chàng trai, hãy khéo đến với Bậc Toàn Giác. Nơi đây không có sự lo âu, tất cả hành[4] đều vắng lặng.
Bảo Xứng đến trước lạy dưới chân Đức Phật rồi đứng qua một bên. Đức Phật vì Bảo Xứng thuyết pháp, nghe xong chàng liền đắc được pháp nhãn vô cấu, bèn rời chỗ đứng tới trước Phật bạch:
–Cúi xin Thế Tôn cho con được làm đệ tử.
Đức Phật tuyên nói:
–Thiện lai Tỳ-kheo.
Bảo Xứng được thâu nhận thành Sa-môn.
Sáng sớm các cô gái thức giấc không thấy chàng Dã Dã, hoảng hốt tìm kiếm khắp nơi, than vắn thở dài khóc lóc. Trưởng giả hoảng sợ mới hỏi cớ sự, các nàng hầu thưa:
–Không biết Bảo Xứng nay ở đâu?
Trưởng giả lo sợ, lập tức sai người cỡi ngựa tìm kiếm khắp nơi. Còn trưởng giả thì cỡi xe của con mình chạy về phía Đông tìm kiếm. Con đường dẫn ông tới một con sông tên Ba-la-nại. Vượt qua dòng sông, trưởng giả tìm thấy đôi guốc báu của con cởi bỏ lại bên bờ sông. Ông liền theo dấu chân thẳng đến vườn Nai. Đức Phật dùng phương tiện, khiến cho hai cha con không thấy nhau.
Trưởng giả thấy uy nghi trang nghiêm và thân tướng tốt đẹp của Đức Phật trong lòng mừng lo lẫn lộn quên mất sự cung kính, vội hỏi Đức Phật:
–Con của tôi tên là Bảo Xứng, dấu chân của nó tới đây, Đức Cù-đàm có thấy không?
Đức Phật bảo trưởng giả:
–Nếu con của ông ở đây, lo gì mà không thấy. Đức Phật thuyết pháp cho ông:
–Sinh tử do si mê, sự ân ái nào cũng có chia ly, trừ bỏ hai mươi ức (2.000.000) điều ác sẽ đạt được quả Dự lưu.
Lúc ấy tâm của Bảo Xứng thông suốt, liền chứng quả A-la-hán. Cha con gặp nhau nhưng tình cảm không còn luyến tiếc như trước, trưởng giả vui mừng rời chỗ ngồi bạch Đức Phật:
–Hôm nay tâm con rất hân hoan, trong lòng có hai điều vui: một là vui vì được diện kiến Thế
Tôn, thấu hiểu được pháp, hai là vui vì xa lìa được ái nhiễm.
Lúc bấy giờ, Bảo Xứng có bốn người bạn thân là Phú Nhục, Duy-ma-la, Kiều Viêm Bát và Tu-đà. Họ nghe Bảo Xứng đã xuất gia làm Sa-môn, vừa mừng vừa kinh ngạc đến nỗi lông tóc dựng đứng bảo nhau:
–Bảo Xứng là người đức cao trọng vọng, trí tuệ hơn người, danh tiếng vang lừng cả nước, chúng ta đều quy phục anh ấy, nay đã là Sa-môn. Chắc hẳn đạo ấy rất thù thắng nên mới khiến anh ấy bỗng nhiên bỏ sự vinh lợi ở đời như thế? Chúng ta nên cùng nhau đến gặp Đức Phật và để thăm hỏi Bảo Xứng.
Họ liền cùng đi. Vừa thấy khung cảnh chỗ Phật ngự, nhờ hạnh nguyện lúc trước nên họ lập tức sinh tâm hân hoan, được thông suốt, đầu mặt sát đất đảnh lễ rồi đến trước bạch Đức Thế Tôn:
–Đã từ lâu tâm chúng con trống rỗng, khao khát tìm đạo để được chuyển hóa. Cúi xin Ngài đừng vì sự thô lậu của chúng con, cho chúng con được làm đệ tử.
Đức Phật tuyên nói:
–Thiện lai Tỳ-kheo!
Tất cả đều được thâu nhận thành Sa-môn. Đức Phật giảng cho họ cội nguồn ý nghĩa của tâm, giải bày con đường thanh tịnh tâm thức. Vừa nghe xong tâm họ được thông suốt liền chứng quả A-la-hán.
Bấy giờ kế bên Ba-la-nại có một huyện tên gọi là Đồ. Năm mươi người trong huyện ấy có việc sang nước Ba-la-nại, nghe tin các chàng trai Bảo Xứng, Phú Nhục... đều xuất gia làm Sa-môn, đều sinh ý nghĩ: “Các chàng trai con nhà trưởng giả này tánh tình vốn kiêu ngạo, thích vui chơi, phóng túng, tài nghệ lại hơn người nhưng đều cảm hóa theo đạo. Đức Cù-đàm ắt hẳn là vị Thần mới khiến hàng quý tộc không còn nghĩ đến vinh hoa”.
Mọi người đều phát khởi tâm niệm muốn đến chỗ Phật. Lập tức họ cùng lên đường thẳng đến vườn Nai. Do tâm nguyện lúc trước đúng thời được hóa độ nên gặp Đức Phật họ liền tâm khai ý giải, xin làm đệ tử. Đức Phật tuyên nói:
–Thiện lai Tỳ-kheo!
Họ đều được thâu nhận thành Sa-môn. Nhờ nỗ lực tu tập đúng theo lời Phật dạy nên các Tỳ-kheo này nhanh chóng thể đạt pháp yếu, trừ bỏ cấu nhiễm, thoát khỏi sự trói buộc của phiền não, đều chứng quả A-la-hán.
Lúc bấy giờ có một đám đông tụ hội trong vườn Nai ăn uống ca múa. Khi ấy có một thiếu nữ nhan sắc cực kỳ diễm lệ, đang nhảy múa giữa chúng hội. Mọi người trong lòng đều hân hoan, vô cùng ưa thích. Cô gái đang nhảy múa chưa xong thì bỗng nhiên biến mất. Mọi người mất thú vui nên buồn bực lo sợ lẫn lộn cùng nhau đi tìm, đến chỗ Đức Phật. Họ hỏi Ngài:
–Vừa rồi có một cô gái cùng ca múa với chúng tôi đi đến đây. Đức Cù-đàm có thấy nàng chăng?
Đức Phật bảo mọi người:
–Hãy tự quán thân mình, quan sát người khác làm gì. Sắc dục là vô thường, có hội họp thì có chia ly, giống như bọt nước nổi. Kẻ ngu ôm ấp, buộc ràng với sắc dục nên tai họa do đó sinh ra. Thân là vật chứa sự khổ, chúng sinh đều như thế.
Khi nghe xong tâm của mọi người bừng tỉnh, xin xuất gia làm Sa-môn. Đức Phật trao truyền giới pháp, dẫn dắt các vị ấy đến địa vị Kiến đế (chứng ngộ chân lý), khiến tất cả đều đắc quả Ứng chân.
Đức Phật dạy:
–Này các Tỳ-kheo, các ông, mỗi người hãy lên đường độ cho tất cả chúng sinh. Theo chỗ lĩnh ngộ pháp tùy duyên làm người dẫn đường đưa họ qua cầu, truyền bá giáo pháp để tất cả đắc được pháp nhãn, hoằng dương Tam bảo, nhổ tận gốc ái, tận trừ cội sinh tử khiến họ thể đạt Niết-bàn. Nay một mình Ta sẽ đi đến vùng Ưu-vi-la.
Các Tỳ-kheo vâng nhận lời dạy, đầu mặt sát đất đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đi nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi từ đó mỗi người một hướng ra đi.
Bấy giờ Đức Như Lai trở lại cương thổ nước Ma-kiệt-đề, đến vùng Ưu-vi-la, buổi tối Ngài dừng chân nghỉ trong ngôi vườn của Phạm chí Tư- nại. Sáng sớm, Ngài mang bình bát đến trước cửa nhà Phạm chí. Đức Phật hiện ánh sáng màu hoàng kim, chiếu vào nhà của vị Phạm chí. Hai người con gái của Phạm chí Tư-nại, cô chị tên là Nan- đà, cô em tên là Nan-đà-ba-la thấy vầng sáng hoàng kim nên vui mừng tìm đến chỗ Đức Phật, lễ bái thỉnh Phật. Đức Phật vào nhà dạy hai cô quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Đức Thế Tôn dạy:
–Thân này không phải của ta, mọi vật trên thế gian cũng đều trở về không.
Tâm hai cô gái thông suốt tỏ tường, cúi đầu vâng làm theo lời dạy. Lúc đó Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Từ khi bắt đầu học đạo, Ta chỉ có một ý hướng là cứu độ chúng sinh, hóa độ cho Ma vương cõi Dục thuận theo về với đạo”.
Gần bờ sông Ni-lan-thiền có một vị Phạm chí dòng họ Ca-diếp, tên Uất-tỳ-la, đã một trăm hai mươi tuổi, tu theo đạo thờ lửa, tinh cần không mỏi mệt, nên danh tiếng đồn khắp nơi, được người đời vô cùng cung kính, đệ tử theo học đến năm trăm người. Ca-diếp có hai người em. Họ đều xem anh mình như bậc Tôn sư đã đắc đạo. Cả hai đều có đệ tử riêng và cư trú ở vùng hạ lưu sông Ni-lan- thuyền. Ca-diếp tự nghĩ: “Danh tiếng của ta càng ngày càng cao vọng, người trong nước đều kính ngưỡng. Nếu pháp thuật yếu kém thì uy tín dễ bị tổn hại, uy tín bị tổn hại thì danh tiếng cũng bị sụp đổ. Vậy ta phải tìm phương chước hay nhất để nhân dân cả nước đều ngưỡng vọng”. Ông liền đi kiếm một con rồng, dùng chú thuật nhốt nó vào trong một ngôi tịnh thất, rồi căn dặn độc long:
–Nếu có người đột nhiên vào ngôi tịnh thất này thì ngươi hãy phóng lửa, phun độc giết kẻ đó.
Đến ngày lễ hội, độc long phun lửa không ngừng. Khắp nơi mọi người đều đồn:
–Đạo thờ lửa của Đại sư Ca-diếp thật là thần diệu!
Danh tiếng Ca-diếp nhờ thế càng ngày càng vang xa.
Khi đó Đức Thế Tôn suy niệm: “Ngày xưa Ta xuất gia giữa đường gặp vua Bình-sa, theo ý nguyện của vua Ta có hứa nếu Ta thành đạo sẽ độ nhà vua giải thoát trước tiên. Ta nhờ tất cả mọi người nên mới được đắc đạo như vậy. Nay Ta quán sát lòng dân, đều ngưỡng vọng Ca-diếp, thật khó có thể khiến họ hồi tâm chuyển ý. Giống như quả ngọt trên tận cây cao nên không thể ăn được. Chỉ có đốn tận gốc cây, trảy cành thì nhất định hưởng được quả. Điều mà mọi người kiêng sợ chính là độc long. Trước tiên Ta phải hàng phục độc long thì Ca-diếp sẽ theo về. Như vậy thì đạo Giác ngộ mới có thể truyền bá rộng rãi không cùng”. Đức Như Lai tuyên bố:
–Mặt trời chiếu khắp trời đất, có ba đức:
1. Ánh sáng tỏa ra phá trừ tăm tối, không nơi nào không được soi sáng.
2. Năm màu hòa tạp có thể phân tán ra từng màu rõ rệt.
3. Làm vạn vật nảy mầm sinh sản, sum suê tươi tốt.
Đức Như Lai ra đời cũng có ba đức:
Ánh sáng tuệ giác tối thượng chiếu soi, phá trừ màn vô minh, si ám.
Theo ngôn hạnh phân chia chúng sinh thành năm đường rõ rệt.
Dùng trí tuệ phương tiện cứu độ tất cả chúng sinh được lợi lạc và an ổn.
Sau khi suy niệm như thế, Bậc Chúng Hựu liền khởi hành đến vườn Tư-nại. Vào lúc chiều tối, Ngài đến ngôi tịnh thất mà Ca-diếp đã làm. Khi chưa tới nơi Ngài liền hiện ánh sáng hoàng kim khiến cây cối, đất đá đều có màu sắc như vàng ròng. Một đệ tử của Ca-diếp đang mang bình đi lấy nước, thấy sự biến hóa này, trong lòng rung động, nghi sợ quay lại tìm kiếm. Từ xa thấy Đức Thế Tôn, ánh minh quang rực rỡ đất trời, vị ấy không biết vì sao hiển hiện sự mầu nhiệm ấy nên chạy đến thưa thầy. Thầy trò cùng bước ra ngoài, thấy Đức Thế Tôn hiển lộ uy lực Phạm tướng, oai nghi rực sáng chói lòa.
Lòng Ca-diếp rung động, hoang mang không rõ việc gì tự nghĩ: “Đây là mặt trời mà mắt ta thấy được chăng? Đó là trời chăng? Sao mắt của vị ấy lại sáng rực như thế?”. Suy tư một hồi lâu, ông mới nhận ra: “Đó chẳng phải là Thái tử Tất-đạt con vua Bạch Tịnh sao? Ta xem qua vận số có viết: Con vua Bạch Tịnh, có phước đức của bậc Thánh vương, không màng quyền tước vinh hoa, sẽ được làm Phật. Ngày trước ta nghe vị ấy xuất gia, có lẽ nay đã thành đạo rồi chăng?”
Đức Như Lai đi đến, Ca-diếp rất vui mừng nói:
–Tốt lành thay! Đức Cù-đàm đã đến. Ngài từ đâu đến đây mà trông luôn an lành vậy?
Đức Phật vì Ca-diếp thuyết bài tụng:
Trì giới, suốt đời an
Chánh tín, chỗ ở tốt
Trí tuệ, thân an ổn
Không làm ác, được an.
Ca-diếp bạch Đức Phật:
–Cúi mong Ngài hạ cố oai đức, đến chỗ tôi nhận bữa ăn đạm bạc.
Đức Phật trả lời Ca-diếp:
–Trong truyền thống chư Phật từ xưa, không ăn khi quá ngọ. Ta chấp nhận sự chí thành ấy và muốn nhờ một việc, ông có sẵn lòng không?
Ca-diếp đáp:
–Rất tiếc là tôi không chuẩn bị trước, kính mong Tôn Đức miễn chấp.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Ta muốn nghỉ lại đây một đêm, ông không sẵn lòng sao?
Ca-diếp bạch Đức Phật:
–Theo luật đạo của các Phạm chí chúng tôi, không được ngủ chung một phòng. Cúi mong Tôn Đức tha thứ điều ấy, tôi không thể nhạn hứa được. Tôi không làm sao đi ngược lại những gì pháp luật đạo quy định.
Đức Phật chỉ ngôi tịnh thất hỏi:
–Còn đó là ngôi nhà gì?
Ca-diếp đáp:
–Trong đó có một con Thần long, tánh tình nó rất hung ác. Mỗi khi có ai vào ngôi nhà đó nó liền phun lửa thiêu chết lập tức.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Hãy cho Ta mượn nghỉ ở đó.
Ca-diếp trả lời:
–Trong đó quả thật rất đáng sợ, tôi chỉ e con rồng hại Ngài mà thôi.
Năm trăm vị đệ tử thảy đều run sợ, lo thầy của mình chấp nhận lời đề nghị của Đức Phật. Nhưng
Đức Phật yêu cầu đến ba lần như vậy. Ca-diếp nghi ngại, nhưng ý không thể không ưng thuận:
–Chỉ sợ Ngài bị họa mà thôi!
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Lửa dục trong ba cõi Ta đã tiêu diệt được, thì độc long không thể hại Ta được.
Ca-diếp thưa:
–Đức Cù-đàm là Bậc Tôn Quý, có thể ở chỗ đó được thì xin tùy ý.
Đức Phật liền thu lại uy lực Phạm tướng, bước vào ngôi nhà.
Năm trăm người đệ tử của Ca-diếp tin chắc con rồng đó rất độc hại nên không ai không rơi nước mắt, tiếc thương cho Bậc Tôn Quý bị con rồng giết hại.
Đức Phật tĩnh tọa chẳng bao lâu thì độc long từ trong hang bò ra phun độc quanh Đức Phật. Đức Như Lai liền hóa chất độc ấy thành những bông hoa. Con rồng thấy chất độc của nó biến thành những bông hoa bao quanh Đức Phật, tức giận khạc lửa cho là có thể hại Phật, nhưng hơi nóng lại bay ngược về phía nó. Hơi nóng xông lên khiến độc long bức rức, bực bội muốn chết. Nó cất đầu lên nhìn Đức Phật, trông qua thân tướng biết Ngài là Bậc Tôn Quý.
Một luồng gió mát bỗng thổi về phía con rồng. Nó liền theo luồng gió thanh lương đến chỗ Đức
Phật, bao nhiêu độc hỏa đều diệt trừ, lịm tắt, liền quy y rồi chui vào trong bình bát của Ngài.
Bấy giờ Đức Phật thị hiện một luồng Hỏa quang (tam-muội) ánh sáng thẳng lên tận cõi trời. Các đệ tử của Ca-diếp, thẳng đứng nhìn theo thấy ánh quang minh của Đức Phật cho là lửa của độc long nên cất tiếng than thở bi thương:
–Tiếc thay! Đấng Tối Chân đã bị độc long làm hại.
Thầy trò Ca-diếp hoảng sợ cùng chạy ra ngoài.
Năm trăm đệ tử đều lên tiếng trách thầy:
–Từ xưa đến nay, chúng ta chưa từng thấy ai tối diệu như Đức Cù-đàm, Ngài là Bậc Tôn Quý. Hận là chúng ta chưa chiêm ngưỡng Ngài kỹ, làm sao còn gặp lại Ngài được?
Họ lau lệ mà nói bài tụng:
Dung nhan sắc vàng tía
Mặt tròn, tóc biếc xanh
Bậc Đại Nhân trăm phước
Thần diệu ứng theo kinh
Tầm cao hơn trượng sáu
Tám mươi vẻ tùy hình
Đảnh quang xua u tối
Vô thường sao đến nhanh?
Sau đó, có một vị đệ tử của Ca-diếp ngỡ là lửa đã hại chết Đức Phật, nên đau buồn lên tiếng:
–Đức Cù-đàm đã bị hại, ta còn sống để làm gì?
Nói xong liền tung mình trầm thân trong lửa, nhưng vị ấy lại cảm thấy mát mẻ, điều hòa nên quay lại thưa thầy:
–Đức Cù-đàm không hề gì cả. Chúng ta cứ ngỡ là lửa của độc long, nhưng nhất định đây chính là hào quang của Đức Phật.
Thầy trò lo lắng, đứng nghỉ bên ngoài chờ đến sáng. Vào lúc sáng sớm Đức Như Lai ôm bát rời khỏi ngôi tịnh thất, Ca-diếp vô cùng mừng rỡ nói:
–Bậc Đạo Sư vẫn còn sống sao? Trong bình bát Ngài có vật gì vậy?
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Đó là con độc long. Ta đã hàng phục và nó đã thọ pháp của Ta.
Năm trăm đệ tử của Ca-diếp đều khen ngợi Đức Phật là Bậc Thần Thánh.
Ca-diếp trong lòng kính phục Đức Phật nhưng vẫn luyến tiếc danh tiếng của mình nên cống cao, tự phụ, thầm nghĩ: “Bậc Đại Sư ấy quả thật là vị thần! Tuy vậy người ấy vẫn không bằng ta, vì ta đã chứng A-la-hán.”
Ca-diếp bạch Đức Phật:
–Cúi mong Đạo Sư hãy ở lại để chúng tôi được cúng dường.
Hôm sau, Ca-diếp bày soạn thức ăn, tự thân đi thỉnh Đức Phật. Đức Phật bảo:
–Ngài hãy đi trước, Ta sẽ theo sau.
Ca-diếp vừa quay gót về nhà thì Đức Phật nhanh như khoảng thời gian một người co duỗi cánh tay, liền đến nước Phất-vu-đãi xa cả ngàn ức dặm về phía Đông, hái quả cây tên là Diêm-bức, đầy cả bát rồi trở về. Ca-diếp chưa về đến nhà, Đức Phật đã ngồi ở sàng tọa rồi. Ca-diếp hỏi Đức Phật:
–Thưa Đạo Sư, Ngài đi đường nào mà đến đây? Đức Phật đáp:
–Sau khi ông vừa đi, Ta liền đến nước Phất-vu- đãi ở phương Đông lấy những trái cây Diêm-bức này đem về, ăn vào rất thơm ngon.
Đức Phật độ thực xong ra về. Ca-diếp lại nghĩ: “Vị Đạo Sư này tuy thần biến nhưng không thể sánh được với đạo chân thật của ta”. Sang ngày mai đến giờ thọ trai, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật. Đức Phật bảo:
–Hãy về đi, Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa quay gót, Đức Phật liền đến cực Nam cõi Diêm-phù-đề lấy trái Ca-loa-lặc, chứa đầy bình bát rồi trở về.
Ca-diếp chưa vào nhà, đã thấy Ngài ngồi trên sàng tọa.
Ca-diếp hỏi Đức Phật:
–Ngài làm sao lại đến được đây trước? Đức Phật bảo:
–Ta đi qua phương Nam, lấy thứ quả thần mỹ này, ăn vào có năng lực trừ hết bệnh.
Sau khi Đức Phật độ xong ra về, Ca-diếp suy nghĩ: “Vị Đại Sa-môn này quả thật là thần diệu”. Hôm sau Ca-diếp lại đến thỉnh mời. Đức Phật bảo:
–Hãy về trước, Ta sẽ đến ngay.
Đức Phật liền đến nước Câu-da-ni (Cù-da-nặc) ở phía Tây, lấy trái A-ma-lặc đầy bình bát rồi trở về. Ca-diếp chưa đến nơi thì đã thấy Đức Phật ngồi trên sàng tọa. Ca-diếp hỏi Đức Phật:
–Ngài lại từ nơi nào đến đây? Đức Phật trả lời:
–Ta đến nước Câu-da-ni ở phía Tây, lấy trái cây A-ma-lặc đầy bình bát rồi trở về. Ngài có thể ăn chúng.
Đức Phật độ trai xong ra về. Ca-diếp lại nghĩ: “Việc của vị Đại Sa-môn này làm quả thật là thần biến”. Hôm sau Ca-diếp lại đến thỉnh Đức Phật. Đức Phật bảo:
–Hãy về trước, Ta sẽ đến sau.
Ca-diếp quay đầu lại nhìn thì bỗng nhiên không thấy Đức Phật. Ngài đã đến nước Uất-đơn-việt ở phía Bắc lấy loại lúa gạo mọc tự nhiên. Ca-diếp đi chưa đến nhà đã thấy Đức Phật an tọa trên sàng tọa. Ca-diếp hỏi Đức Phật:
–Ngài lại từ đâu về đây? Đức Phật đáp:
–Ta đến nước Uất-đơn-việt ở phía Bắc, lấy loại lúa gạo mọc tự nhiên này. Ngài có thể dùng nó.
Đức Phật thọ thực xong ra về, Ca-diếp tự nghĩ: “Vị Đạo Sư này thật có sức thần diệu đến như vậy”. Trưa hôm sau đúng giờ thọ thực, Đức Phật ôm bát tự thân đến nhà Ca-diếp nhận trai thực cúng dường rồi trở về. Thọ thực xong, Ngài muốn súc miệng, tắm gội nhưng không có nước. Trời Đế Thích liền đi xuống lấy tay chỉ mặt đất, một ao nước tự nhiên hiện ra. Ca-diếp sau buổi trưa đi dạo quanh thấy cái ao, kinh ngạc nên hỏi Đức Phật:
–Vì sao có cái ao này?
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Sáng nay Ta được ngài cúng dường cơm. Ăn xong Ta muốn súc miệng nhưng không có nước, trời Đế Thích mới chỉ mặt đất biến thành ao nước để Ta dùng. Nên đặt tên cho cái ao này là ao Chỉ địa.
Ca-diếp suy nghĩ: “Bậc Đạo Sư này thật là thần thông vi diệu, công đức không thể lường hết được”.
Ngày hôm sau Đức Thế Tôn dời đến ngồi dưới một gốc cây gần chỗ Ca-diếp. Giữa đêm có bốn vị vua cõi trời thứ nhất cũng đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Hào quang của bốn vị trời ấy chiếu sáng như các đống lửa cháy mãnh liệt.
Ca-diếp giữa đêm thức dậy, thấy trước Đức Phật có bốn đống lửa, sáng sớm liền hỏi Đức Phật:
–Thưa Đạo Sư, Ngài cũng thờ lửa sao?
Đức Phật đáp:
–Không phải thế! Đêm qua có bốn vị vua cõi trời đến nghe Ta thuyết pháp. Đó là ánh sáng của họ.
Ca-diếp lại nghĩ: “Bậc Đại Sa-môn này hết sức thần diệu mới khiến các vị trời đến nghe pháp, dù vậy vẫn không thể sánh với đạo chân chánh của ta”.
Đêm hôm sau, trời Đế Thích chủ quản cõi trời thứ hai đến chỗ Đức Phật nghe pháp, ánh sáng của trời Đế Thích sáng gấp bội ánh sáng của Tứ thiên vương. Giữa đêm Ca-diếp thức dậy thấy có ánh sáng ở trước Đức Phật, trong ý tự nghĩ: “Vậy là Đức Phật có thờ lửa”. Sáng sớm Ca-diếp đến hỏi Đức Phật:
–Nếu Ngài không thờ lửa, vì sao ánh sáng lại gấp bội đêm qua?
Đức Phật bảo:
–Đêm hôm qua Đế Thích xuống đây nghe pháp. Đó là ánh sáng của vị ấy.
Đêm sau lại có vị Phạm thiên ở tầng trời thứ bảy xuống nghe pháp. Hào quang của Phạm thiên sáng gấp bội ánh sáng của trời Đế Thích. Ca-diếp thấy ánh sáng ấy lại nghi Đức Phật theo đạo thờ lửa. Sáng sớm ông liền hỏi Đức Phật:
–Thưa Đại Sĩ, chắc chắn ngài có thờ lửa!
Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:
–Đêm qua có vị Phạm Thiên ở tầng trời thứ bảy đến nghe pháp. Đó là hào quang của vị ấy.
Ca-diếp tự nghĩ: “Đấng Đại Sĩ này thật có năng lực tối diệu mới khiến Phạm thiên xuống nghe pháp”. Năm trăm vị đệ tử của ngài Ca-diếp, mỗi người đều thờ ba ngọn lửa nên tổng cộng có một ngàn năm trăm ngọn. Sáng sớm cả năm trăm người đốt lửa nhưng đốt mãi lửa vẫn không cháy, kinh ngạc hỏi thầy. Ngài Ca-diếp bảo:
–Điều này chắc do Phật làm. Ông liền đến bạch Đức Phật:
–Năm trăm đệ tử của tôi sáng nay đốt lửa, nhưng đốt mãi lửa vẫn không cháy. Có phải điều này do Ngài làm chăng?
Đức Phật hỏi Ngài Ca-diếp:
–Ngài muốn lửa cháy chăng?
Đức Phật hỏi ba lần và Ca-diếp đều đáp:
–Muốn cho lửa cháy.
Đức Phật bảo:
–Hãy đi đi, lửa sẽ cháy.
Ngài vừa nói xong thì tất cả ngọn lửa đều cháy.
Ca-diếp thầm nghĩ: “Bậc Đại Sĩ này hết sức thần diệu”.
Ca-diếp cũng thờ ba ngọn lửa, sáng sớm đốt lên nhưng khi muốn tắt thì không làm sao tắt được. Năm trăm vị đệ tử và các tín đồ theo đạo đến giúp ông tắt lửa, cũng không làm thế nào tắt được. Ca- diếp nghi việc này do Đức Phật làm, liền đến thưa:
–Tôi tự thờ ba ngọn lửa nhưng không làm sao tắt được!
Đức Phật hỏi:
–Ngài muốn tắt lửa sao? Ca-diếp thưa:
–Quả thật muốn nó tắt.
Đức Phật bảo:
–Nó sẽ tắt.
Ngài vừa nói dứt lời thì ngọn lửa liền tắt. Ngài Ca-diếp thầm nghĩ: “Bậc Đại Sĩ này vô cùng thần diệu, làm việc gì cũng thành tựu”.
Hôm sau năm trăm vị đệ tử của ngài Ca-diếp cùng vào rừng đốn củi, nhưng khi mọi người dỡ búa lên thì đều không thể hạ búa xuống được. Họ hoảng hốt đến thưa thầy, ngài Ca-diếp nói:
–Việc ấy do vị Đại Sa-môn đó làm. Ngài đến bạch Phật:
–Các đệ tử của tôi đang cùng nhau đốn củi, dỡ búa lên thì không thể hạ xuống được.
Đức Phật bảo:
–Hãy về đi, búa sẽ hạ xuống.
Lập tức các cây búa đều hạ xuống. Ca-diếp nghĩ: “Vị Đại Sa-môn này chính là Thần nhân”.
Ngày hôm sau Đức Phật trở về an tọa dưới một gốc cây, thấy một chiếc y dơ bị vất bỏ nên có ý muốn giặt nó. Trời Đế Thích vâng theo thánh ý của Đức Phật, đến núi Át-na lấy một tảng đá bốn mặt và một tảng đá sáu mặt, dâng lên để Ngài giặt và phơi y. Ngài Ca-diếp đi ngang thấy bên bờ ao có hai tảng đá lấy làm lạ liền hỏi Đức Phật:
–Hiện nay bên bờ ao có hai tảng đá rất đẹp, không rõ chúng từ đâu đến?
Đức Phật bảo Ngài Ca-diếp:
–Ta muốn giặt và phơi y nên trời Đế Thích mới mang hai tảng đá đến để Ta sử dụng.
Ca-diếp lại nghĩ: “Đức Cù-đàm là Bậc có oai đức như thần khiến không ai không vâng phục”.
Sau đó Đức Phật xuống ao Chỉ địa tắm rửa. Tắm gội xong, Ngài muốn lên khỏi ao nhưng không có gì để vịn vào đi lên. Cạnh bờ ao có một thân cây tên là Ca-hòa vô cùng xinh tốt, cây ấy liền cong xuống ao, Đức Phật vịn vào đó lên khỏi ao.
Ngài Ca-diếp thấy thân cây tự nhiên cong xuống, ngạc nhiên hỏi Đức Phật. Đức Phật nói với Ca-diếp:
–Lúc sáng sớm Ta xuống ao để tắm rửa, khi muốn ra khỏi ao thì cây thần thả nhánh xuống để Ta nắm mà lên.
Ngài Ca-diếp nghĩ: “Bậc Đại Sĩ này có đức tối thượng, cảm hóa nhiều loài, làm cho đại thọ phải ngã nhánh cây xuống đón”.
Đức Phật muốn làm cho Ca-diếp hoàn toàn quy phục, liền đi xuống sông Ni-lan-thiền. Sông này rất sâu và thủy lưu chảy rất mạnh. Ngài dùng thần lực phân đôi dòng sông, làm cho nước hai bên đứng lại, dâng cao quá đầu người, đáy sông hiện ra, Ngài đi vào trong đó.
Ca-diếp thấy Đức Phật ngập trong dòng nước, sợ Ngài bị chết chìm, liền sai đệ tử chèo thuyền ra để cứu. Họ thấy nước dâng cao, phía dưới hiện rõ đáy sông và thấy Đức Phật ở trong đó nên đều vui mừng thốt lên:
–Đạo Sư vẫn còn sống! Họ lại hỏi:
–Đạo Sư có muốn lên thuyền không?
Đức Phật bảo:
–Ta sẽ lên.
Ngài nghĩ: “Ta sẽ xoi đáy thuyền để lên, nhưng không làm cho nước chảy vào”. Ca-diếp hết sức kinh ngạc nghĩ: “Bậc Đại Sĩ này thật là hóa hiện vi diệu không thể diễn bày cùng tận được”.
Khi đó quốc vương và quan dân nước Ma-kiệt- đề, nhân ngày lễ hội trong năm cùng đến chỗ của ngài Ca-diếp vui chơi trong bảy ngày. Ca-diếp thầm nghĩ trong tâm: “Phật là Đức Thánh Trí, nếu mọi người thấy được chắc chắn họ sẽ bỏ ta. Làm thế nào trong bảy ngày này mà Ngài không xuất hiện thì vui biết bao”. Đức Phật biết ý niệm của Ca-diếp, nên ẩn mặt trong bảy ngày. Đến sáng ngày thứ tám, Ca-diếp lại khởi niệm: “Nay ta đã có dư phẩm vật, nếu được cúng dường cho Đức Phật thì vui sướng biết bao”. Đức Phật theo ý niệm đó liền đi đến, Ca-diếp vô cùng hoan hỷ vì mới nghĩ muốn gặp Đức Phật để cúng dường thì Ngài liền đến, thật sướng vui biết bao và hỏi Đức Phật:
–Trong bảy ngày qua Đạo Sư đi đâu và nay thì từ đâu đến?
Đức Phật bảo Ca-diếp:
–Tâm ngươi suy nghĩ: “Phật là Đức Thánh Trí, nếu mọi người thấy Ngài họ sẽ bỏ ta. Làm thế nào trong bảy ngày này mà Ngài không xuất hiện thì vui biết bao”. Do đó Ta ẩn thân. Nay ngươi nghĩ đến Ta, cho nên Ta lại đến.
Ngài Ca-diếp tâm niệm: “Đức Phật đúng là Bậc có đại thần thông nên mới biết được ý niệm của con người”.
Đức Phật biết tâm của Ca-diếp đã quy phục nên bảo:
–Này Ca-diếp, ông chẳng phải là bậc A-la-hán, không biết đạo giải thoát, sao lại vì những điều hư huyễn, dối trá tự xưng là bậc Tôn quý?
Ca-diếp trong lòng hoảng sợ lông tóc dựng đứng, tự biết bản thân không thể đắc đạo nên lập tức cúi lạy thưa:
–Đạo Sư quả thật là Bậc Thánh nên biết được ý niệm con người. Vậy con có thể theo Đạo Sư học đạo giải thoát, vâng giữ giới pháp, làm bậc Sa-môn không?
Đức Phật bảo:
–Rất tốt lành! Hãy thông báo cho các đệ tử của ông. Ông là quốc sư, nay xuất gia vận pháp y, có thể nào chỉ biết một mình thôi sao?
Ngài Ca-diếp vâng lời dạy, quay về gọi các đệ tử:
–Các vị cùng ta đều thấy năng lực giáo hóa thần thông của Đức Phật. Nay ta đã hiểu và hướng trọn đức tin sắp xuất gia làm Sa-môn. Vậy ý các ngươi ra sao?
Năm trăm vị đệ tử của ngài đều cất tiếng thưa:
–Tất cả những gì chúng con được học đều nhờ ân của thầy. Thầy đã tôn kính và hướng trọn đức tin với Đức Phật, chúng con đều nguyện theo thầy. Ngay khi ấy thầy trò cùng đến chỗ của Đức Phật, đảnh lễ thưa:
–Chúng con đều tin tưởng, cầu mong được làm đệ tử của Ngài.
Đức Phật tuyên nói:
–Thiện lai Tỳ-kheo!
Tất cả đều được thâu nhận thành Sa-môn. Tôn giả Ca-diếp đem áo lông cừu, áo vải to, bình nước, gậy, dép và các dụng cụ thờ lửa vất bỏ hết xuống sông.
Bấy giờ hai người em của ngài Ca-diếp, người em kế tên Na-đề Ca-diếp, người em út tên Ca-da Ca-diếp; mỗi người đều có hai trăm năm mươi vị đệ tử, trú trong các ngôi nhà lá, gần bên dòng sông thấy các y phục của Phạm chí, các loại vật dụng và pháp cụ thờ lửa theo dòng nước bập bềnh trôi xuống. Hai người em kinh ngạc, sợ anh mình và các đệ tử bị người ta giết hại nên lập tức cùng các đệ tử theo dòng nước đi lên, thấy thầy trò của anh mình đều làm Sa-môn. Họ kinh ngạc hỏi:
–Đại huynh tuổi tác đã lớn, trí tuệ cao vút, được vua quan và nhân dân trong nước đều kính thờ. Theo ý của chúng em thì anh đã chứng La-hán rồi, sao lại rời bỏ đạo Phạm chí, học giáo pháp của Sa- môn? Đây không phải là việc nhỏ. Chẳng lẽ đạo Phật tôn quý, cao vời nhất hay sao?
Tôn giả Ca-diếp đáp:
–Đạo Phật tối thắng, pháp môn vô lượng. Tuy ta học đạo khắp thế gian, nhưng chưa từng thấy vị nào có trí tuệ, thần thông, đắc đạo như Đức Phật.
Hai người em của Tôn giả nghe lời đó, mỗi người đều bảo các đệ tử:
–Ta muốn theo anh của ta, ý các ngươi thế nào?
Năm trăm người đệ tử của họ đồng lên tiếng:
–Mong được xuất gia như thầy.
Họ đều đến chỗ Đức Phật đảnh lễ cầu xin xuất gia làm Sa-môn.
Đức Phật bảo:
–Thiện lai Tỳ-kheo!
Họ đều được thâu nhận thành Sa-môn. Bấy giờ Đức Như Lai cùng một ngàn vị Tỳ-kheo Tăng thẳng đến khu đại lâm Ca-da-tất, tĩnh tọa dưới gốc cây. Đức Phật trú trong Đại định, bỗng nhiên biến mất. Từ phương Đông hiện đến rồi lại biến mất dưới gốc cây, bốn phương đều như thế; bay lên trụ giữa hư không mà vẫn không rớt, thân phun ra lửa, nước, lên xuống vô ngại tự tại.
Các Tỳ-kheo ngước nhìn ngưỡng vọng, vui mừng, không rõ việc gì xảy ra. Đức Như Lai trở về lại chỗ cũ mà chẳng ai hay.
Các Tỳ-kheo vui mừng đến trước Đức Phật đảnh lễ dưới chân, rồi bạch:
–Bạch Thế Tôn, sự thị hiện này gọi là gì?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
–Này các Tỳ-kheo, đây gọi là Thần túc thị hiện, còn có tên là Giáo thọ thị hiện. Các Tỳ-kheo hãy lắng lòng nghe kỹ: tâm, ý và thức theo duyên ngoại cảnh nên bị nhiễm ô, ràng buộc; nay để phân biệt, hiển bày tà chánh nên gọi là Giáo thọ thị hiện. Lại có tên là Thuyết pháp thị hiện. Các Tỳ-kheo hãy lắng lòng suy tư! Vì mắt mê đắm sắc nên mắt bị suy tổn. Sáu căn mê đắm theo sáu trần nên sáu căn bị suy tổn. Tâm mãi bị suy tổn nên sinh ra khổ. Sao gọi là khổ sinh? Vì lửa dâm, nộ, si phát khởi liền có sự bức rức, không an trong tâm, sự sợ hãi già, bệnh và chết. Do đó phải dùng Thuyết pháp thị hiện.
Đức Phật ba lần thuyết pháp như vậy. Khi ấy một ngàn vị Tỳ-kheo phiền não chấm dứt, vọng tưởng đoạn trừ, tất cả đều chứng quả A-la-hán.
Đức Phật vì các Tỳ-kheo nói bài tụng:
Hôm nay ngàn Tỳ-kheo
Trưởng lão có tôn đức
Bỏ tà tu chánh kiến
Trừ tưởng đạt tuệ thiền.
Khi Đức Phật nói pháp này, Trời, Rồng, Quỉ, Thần, không ai không thích nghe.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hướng ý đến thành La- duyệt-kỳ độ cho vua dân nước này. Ngay hôm ấy, quốc vương thành La-duyệt-kỳ truyền sứ giả đi đến chỗ Đức Phật, hết lòng cung kính đảnh lễ xong, thưa:
–Quốc vương Bình-sa, cúi lạy trước Đức Phật, xin được gần gũi với Đức Thích Tôn, Bậc thành đạo hiệu là Phật, khiến trời, người và vạn loài vui mừng khi được diện kiến. Cúi mong Đức Thế Tôn đem lại lợi lạc an lành; mong Ngài rủ lòng che chở, quang lâm đến đất nước nhỏ bé, thô lậu của chúng con. Chúng con đang khao khát sự giáo hóa của
Đức Phật để tâm chúng con được an ổn và phát khởi đạo tâm. Mong Ngài xót thương chúng sinh, làm cho mọi người được giải thoát.
Đức Phật dạy:
–Này các Tỳ-kheo, các ông mau chuẩn bị đến thành La-duyệt-kỳ theo sự thỉnh mời của quốc vương.
Các Tỳ-kheo vâng lời, trang nghiêm phẩm phục theo hầu Đức Thế Tôn. Vị sứ giả đến bạch Đức Phật:
–Cúi xin Thế Tôn cùng một ngàn vị Tỳ-kheo Tăng du hành và tạm dừng tại cội cây ở vùng Tu- đa-la, cách thành bốn mươi dặm.
Đó là do theo lệnh truyền của quốc vương trước khi sứ giả đi thỉnh Phật: “Nếu Đức Phật quang lâm quốc thổ, ta phải tự thân ra nghinh rước, người nào nghinh rước Ngài sẽ được phước đức vô lượng.”
Nhà vua lập tức truyền lệnh chuẩn bị một ngàn cỗ xe, một vạn con ngựa, bảy ngàn người tháp tùng. Khi đã chuẩn bị xong, nhà vua lên xe rời cung ra ngoài thành. Khi đi đến cửa thành, cửa thành liền tự đóng làm cho cả đoàn đều phải dừng lại. Nhà vua vô cùng kinh hãi, lo sợ có nạn lớn than rằng:
–Tội của ta thật nặng nề nên mới có điềm họa này.
Khi ấy trên không trung có tiếng nói:
–Đức vua xưa kia có lập nguyện nếu được làm người, sẽ tha bổng tù nhân. Nay tù nhân còn ở trong ngục nên vì lời thệ nguyện xưa làm cho cửa thành đóng lại.
Nhà vua lập tức ân xá thả tất cả tù nhân cửa thành liền tự mở, đến được chỗ Đức Phật. Nhà vua từ xa trông thấy Đức Như Lai tướng tốt rạng ngời liền xuống xe, cởi bỏ vũ khí. Đức Phật biết bản tánh vua Bình-sa vốn kiêu mạn, cang cường, tự cao, nên hướng ý hóa độ cho vua và các quan tùy tùng qua cách thức hành lễ. Khi ấy vua Bình-sa quay lại nhìn thấy các quan tùy tùng không khác gì vua, e ngại Đức Phật không biết vua nên cúi đầu lạy dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên mặt ba lần. Lạy xong vua tự bạch:
–Con là Bình-sa, vua nước Ma-kiệt-đề.
Đức vua thưa như thế đến ba lần. Đức Phật dạy nhà vua:
–Ta chỉ soi chiếu tâm của vua, cần gì hình thức. Nhà vua vô cùng hoan hỷ, lui về chỗ ngồi. Các quan và dân, mỗi người đều hết lòng cung kính Đức Phật, trong đó có người quỳ xuống đảnh lễ, có người tự xưng tên họ, có người thẳng thân vái chào, hành lễ xong tất cả đều lui về đứng một bên.
Đức Phật truyền cho chúng hội an tọa, tất cả vâng lời ngồi xuống.
Đức Phật bảo vua Bình-sa:
–Ngài có đầy đủ phước báo nên được làm quốc vương. Nay lại thêm phần phước lợi khiến nhân dân trong vương quốc có đức trung hiếu, mọi người giàu sang, an lạc, không lo phiền, được phước che chở, có đức tốt lành, không có điều gì bất lợi.
Lúc ấy, trong chúng hội phát sinh nghi vấn: “Tôn giả Uất-tỳ Ca-diếp thành danh trước Đức Phật, nay cùng ở với Đức Phật, vậy ai là thầy?”
Đức Phật quán sát biết rõ tâm niệm chúng hội, liền bảo Tôn giả Ca-diếp:
–Nếu có người sát sinh để cúng tế, mong cầu phước báo, há có thể được không? Có người vào núi cầu đạo mà không có thầy, người ấy có thể đắc đạo chăng?
Tôn giả Ca-diếp bạch Đức Phật:
–Sát sinh để cúng tế không thể được phước. Trời thần không lãnh thọ nên người sát sinh phải bị tội. Người học đạo mà không thầy thì không bao giờ thành đạo.
Tôn giả Ca-diếp bạch Đức Phật:
–Trước đây con thờ lửa, ngày đêm không lười biếng, tinh cần khổ nhọc suốt nhiều năm. Đệ tử giỏi có đến năm trăm người, đều tinh thông thuật đốt lửa, siêng năng không quản trời nóng hay lạnh. Nay con đến lúc tuổi già, các căn suy mỏi mới thật tỏ rõ, người trước đã đem điều mê lầm truyền trao cho kẻ đi sau rồi tự gọi đó là đạo, chỉ là hư huyễn đưa đến khổ não, không thể giác ngộ. Nay con được Phật giáo huấn tẩy rửa tâm ô nhiễm nên đắc được quả A-la-hán.
Đức Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:
–Nay ông hãy hiển bày Thần túc thông của La- hán.
Tôn giả vâng lời Phật dạy liền nhập định, thân bay lên hư không cách mặt đất mấy trượng, bên trên hông bốc lửa, hiện bên dưới hông nước phun, rồi lại từ hông trên phun nước, bên dưới hông hiện lửa, dùng nước rưới lửa nhưng y vẫn khô không bị ướt, hiện ra đứng giữa hư không, bảy lần hiện, bảy lần ẩn; từ thân phóng ánh sáng năm màu rực rỡ, bay từ phương Đông đến rồi biến mất trước tòa của Đức Phật; bốn phương, phương trên và phương dưới đều hóa hiện như vậy. Khi biến hóa xong, Tôn giả liền chắp tay, quỳ xuống bạch Đức Phật:
–Đệ tử Ca-diếp nương nhờ từ ân của Đức Phật nên giải thoát được tội lỗi buộc ràng. Đức Như Lai là Bậc Tối Tôn, ba cõi đều cúi đầu tin tưởng thọ trì.
Đức Phật vì Tôn giả Ca-diếp nói bài tụng:
Nếu người sống trăm tuổi
Thờ lửa tu dị thuật
Không bằng theo chánh đạo
Phổ tuệ chiếu thế gian.
Nếu người sống trăm tuổi
Học tà, tâm không thiện.
Không bằng sống một ngày
Siêng năng thọ trì pháp.
Nhà vua và quần thần khi ấy mới biết Tôn giả Ca-diếp là đệ tử của Đức Phật.
Đức Phật dạy vua Bình-sa:
–Mắt của người trong thế gian không chỉ để thấy sắc mà còn phải thấy khổ, vui đều vô thường, thân mạng vốn không trường cửu. Tâm ý của người thế gian ác nhiều, lành ít, tư tưởng ngổn ngang vạn mối, ưa thích theo đuổi dục lạc, nếu có thể rời bỏ tâm ý đó thì có thể đắc đạo, công đức ngang bằng Ca-diếp. Không vì giàu sang mà buông lung căn ý, không vì ý thích tự do mà tham dâm vô độ, không vì quyền thế mà làm hại kẻ thế cô, yếu đuối, không vì lòng sân hận, phẫn nộ mà giết càn người vô tội; tâm không bị lôi cuốn theo niệm dâm, không bị lôi cuốn theo niệm tham, không bị lôi cuốn theo niệm sân; từ bỏ điều ác, làm trong sạch tâm ý; khéo tin tưởng hộ trì chân lý, luôn suy niệm về sự nguy hiểm của chết, của bệnh khổ; luôn hướng niệm theo dõi tư hành của thân tâm thì cũng có thể được thần túc của Tôn giả Ca-diếp. Nếu mắt thấy sắc tâm phải kiềm chế, sắc đẹp hay xấu tâm vẫn không loạn động; tai nghe các thứ tiếng phải kiểm soát tâm, không phát sinh niệm hân hoan vui thích hay buồn bực chán ghét; mũi ngửi mùi thơm hay thối, tâm phải chế phục, lòng không bị buộc ràng; miệng ăn các vị phải khéo hộ trì tâm để không khởi các tưởng; thân mặc các y phục phải phòng hộ tâm, không phân biệt tốt, xấu, hiểu rõ đó chỉ là dựa vào các vật bên ngoài của thân này. Do tâm được kiểm soát nên sáu căn tự tại, không tác tưởng với sự suy hoại của thân năm ấm, công đức của Tôn giả Ca- diếp nhờ tu tập như thế mà được. Con người chấp thủ vào thân này nên sinh ra nhiều cảm thọ ưu sầu, khổ não, bị đói khát lạnh nóng bức bách. Kẻ ngu tưởng đó là vui, người trí thấy đó là khổ. Người thế gian mê đắm đối với việc vợ con, danh lợi nhưng tất cả việc ấy không thể không ly tán, ngàn vạn năm sau đều tan hoại.
Đức Phật vì vua Bình-sa nói bài tụng:
Bậc Quốc chủ thế nhân
Xa cuồng, vâng thuận chánh
Liêm minh nêu hảo hạnh
Vương pháp ấy tuyệt trần,
Thứ tha người hiền chính
Nhân ái, lợi toàn dân
Lợi hòa đồng an lạc
Thần dân đến sớm gần.
Đức Phật hỏi vua Bình-sa:
–Đức vua tạo lập cung điện từ đó đến nay được bao lâu?
Nhà vua quay lại truyền hỏi các vị cận thần, một vị cận thần tâu:
–Từ khi tạo lập cung điện đến nay đã bảy, tám trăm năm.
Đức Phật hỏi các vị cận thần:
–Đã trải qua bao nhiêu đời vua? Vị cận thần bạch:
–Hơn hai mươi đời vua.
Đức Phật hỏi vua Bình-sa:
–Bệ hạ có biết hết các vị vua ấy không? Vua Bình-sa đáp:
–Con chỉ biết phụ vương của con. Đối với chư vị cựu hoàng trước đây con không tường tỏ.
Đức Phật bảo vua Bình-sa:
–Chỉ có thành quách, đất đai là còn đó, con người là vô thường. Người biết yêu thương thân mình không nên làm hại mạng khác, không nên phỉ báng người tu hành. Chúng sinh vần xoay trong vòng sống chết đều do ân ái. Người làm cha mẹ thường cho rằng: đứa con đó do tôi sinh, là con của tôi. Nhưng người con đó chẳng phải chỉ do nhân duyên cha mẹ hòa hợp mà có mà đều do người ấy đời trước vâng giữ giới trọn vẹn nên mới được làm người. Người làm hạnh ác, sau khi chết phải thác sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, đều theo hạnh nghiệp bản thân, không phải do ai sinh cả, tội phước rất rõ ràng, nhà vua cần suy nghĩ kỹ điều đó.
Đức Phật hỏi nhà vua:
–Nếu đứa con ở trong bào thai hoặc bị đui hay điếc thì người mẹ có biết trước được không?
Nhà vua thưa:
–Thật không biết trước được. Đức Phật dạy:
–Đứa bé đó trong kiếp sống trước đã làm những việc tội lỗi nên mới bị như vậy, chẳng phải lỗi của cha mẹ. Nếu đứa bé ở trong bào thai là bậc Thánh trí, thì người mẹ cũng không đoán biết được. Đó đều do hành nghiệp hoàn toàn thanh tịnh đời trước của đứa bé tạo nên, chẳng phải do năng lực của cha mẹ.
Lý này đã được chứng thật rất rõ ràng, Bệ hạ nên khéo nghĩ suy. Người cõi thế bị tội là do tạo tác của ba nghiệp: Miệng nói lời hại người, thân làm những việc tàn bạo, hung hại, tâm hay ganh tị. Nếu xa rời được ba ác nghiệp ấy thì tuy chưa thể đạt Niết-bàn trong hiện tại nhưng sẽ tự nhiên được hưởng giàu sang, vinh hiển giữa cõi trời và cõi người. Nguồn cội sinh tử là ở con người, từ si mê thọ nhận thân này, từ thân này các căn hoạt khởi mà có tình, do tình nên sinh ra thức, do thức sinh ra dục, do dục mà có cha mẹ, từ cha mẹ sinh nên ân ái phát sinh, do ân ái sinh ra buồn rầu, lo lắng, vần xoay trong năm đường không có chỗ dừng nghỉ. Con người cũng không biết được sinh từ đâu mà có, chết sẽ đi về đâu, không phân biệt tỏ tường cội nguồn sinh tử nên xét theo hình tướng, tên gọi mà bảo: Đây là cha, đấy là con. Chỉ có bậc đắc đạo mới biết được cội nguồn của nhân duyên sinh tử vốn từ si mê phát sinh, nên tất cả vốn là thường. Đại vương hãy thọ trì.
Đức Phật hỏi vua Bình-sa:
–Nếu trong nước của Đại vương có những người hiền thiện có đức cẩn trọng, trung hiếu, ngay thẳng, trong sạch, biết kính bậc trên nhường kẻ dưới, tài năng xuất chúng, trí tuệ cao vời, không vi phạm vương pháp, nhưng xuất thân không phải từ nhà quyền quý, Đại vương có đối xử khác không?
Nhà vua thưa Đức Phật:
–Với người tài đức nổi danh, con sẽ tìm chọn, theo khả năng mà phong chức.
Đức Phật dạy:
–Này Đại vương, trong pháp luật của đạo không có sự thương yêu, thân thích, chỉ do hành thiện nên được độ. Người chí thành vâng giữ năm giới được gọi là Thanh tín sĩ tinh tấn tu tập theo chánh đạo sẽ đạt đến địa vị Kiến đế không thoái chuyển liền đắc được các quả Thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Bốn Thánh quả theo nhân duyên chuyển hóa của tâm nên Thánh vị theo thứ lớp.
Khi Đức Phật giảng xong bài pháp, nhà vua cùng một vạn hai ngàn người trong nước, tám vạn vị trời đều thể đạt trí tuệ vô lậu, nhận ra chân lý.
Đức Phật bảo vua Bình-sa:
–Đại vương đến đây đã lâu, đường về cung xa xôi, nên sớm trở về, người ngựa theo hầu đứng lâu đã mỏi mệt. Một ngày gần đây Ta sẽ đến thành.
Nhà vua đứng dậy đảnh lễ Đức Phật, thọ giới rồi lui ra. Quần thần, các quan theo hầu hoan hỷ tiến đến trước Đức Phật nhận lãnh giới pháp. Khi vua và quần thần lãnh thọ năm giới, người và ngựa ở trong và ngoài pháp hội đều tĩnh lặng không có tiếng động. Các Bà-la-môn tâm được cảm hóa, vâng phục đều đến trước Phật lãnh thọ giới rồi hoan hỷ lui ra.
Vua Bình-sa lên xe xong, quần thần quỳ xuống chúc mừng công đức của nhà vua nên được gặp Đức Phật xuất hiện tại thế gian thuyết pháp làm cho quan dân được tắm gội chuyển hóa trở thành thanh tịnh.
Vua Bình-sa trở về thành truyền lệnh mọi người trong nước giữ trai trì giới. Thần dân trăm họ trong nước đều tin hiểu, hoan hỷ. Vua Đế Thích ở cung trời Đao-lợi, rải hoa cúng dường lên trên Đức Phật.
Trong pháp hội lúc đó có một vị trưởng giả giàu có tên là Ca-lan-đà, trong lòng suy nghĩ: “Thật đáng tiếc, khu vườn của ta đã cúng cho các vị xuất gia phái Ni-kiền. Phải chi Đức Phật đến trước, ta sẽ dâng cúng cho Đức Phật và chư Tăng”. Trưởng giả hối hận vì đã lỡ cúng rồi nên chắc là bị mất hẳn. Lòng chí thành muốn dâng cúng cho Đức Phật nên trưởng giả nằm trên giường mà không yên. Nhờ tập phước đời trước nên nay quả phước đức ứng hiện tròn đầy, vị Đại quỉ tướng quân tên Bán Sư vâng theo thánh ý của Đức Phật và biết tâm niệm của trưởng giả, liền lệnh cho Duyệt-xoa xua đuổi chúng Ni-kiền: “Bọn họ thân thể lõa lồ không biết xấu hổ nên không được ở đấy”.
Duyệt-xoa vâng lệnh của vị Đại quỉ Bán Sư lấy chày đánh chúng lõa thể Ni-kiền, lôi kéo đồ vật. Chúng Ni-kiền tử hoảng sợ bỏ chạy thốt lên:
–Đó là loại ác nhân nào mà hung tàn, ác hại đến thế?
Quỉ Bán Sư nói:
–Trưởng giả Ca-lan-đà muốn giữ lại vườn Trúc này để làm tinh xá cho Đức Phật. Ta là Đại quỉ tướng quân Bán Sư được lệnh đuổi các ngươi đi.
Hôm sau, chúng ngoại đạo Ni-kiền cùng đến chỗ trưởng giả, trách móc hết lời: Vì sao đổi ý cúng dường khiến bọn ta đều bị khốn khổ, suy yếu. Họ cho là vì trưởng giả nên họ mới chịu khốn đốn đến như vậy.
Ca-lan-đà trong lòng thầm vui sướng: “Ý nguyện của ta đã đạt được rồi! Đức Phật Thánh trí quảng đại đã soi thấu tâm niệm của ta”, liền trả lời các lõa sư phái Ni-kiền:
–Các loài quỉ ấy tánh tình vô cùng hung tợn, ngang ngược, hay giận dữ. Tôi e rằng họ sẽ làm hại các ngài, chi bằng các ngài nên bỏ đi tìm chỗ an ổn mà ở.
Chúng Ni-kiền uất hận, ngay ngày hôm đó tức giận bỏ đi. Trưởng giả vui mừng liền sửa sang xây dựng tinh xá, tăng phòng, tọa cụ… tất cả vật dụng đều đầy đủ trang nghiêm rồi đi đến chỗ Đức Phật, thỉnh Phật và chư Tăng chứng minh thọ nhận đến đó an trụ. Lúc bấy giờ, đạo giải thoát giáo hóa rộng khắp, không ai không hoan hỷ, an lạc.
Đức Phật ở tại tinh xá Trúc viên, thành La- duyệt-kỳ cùng đông đủ một ngàn vị Tỳ-kheo Tăng đều là bậc Ứng chân như Uất-tỳ-la... trong đó có một vị tên Na-la-đà. Lúc bấy giờ có một vị Phạm chí tên là Sa Nhiên tinh chuyên tu tập để được trường thọ bất tử, mãi về sau thâu nhận đệ tử, tổng cộng có hai trăm năm mươi người. Trong số đệ tử ấy có hai vị đứng đầu, vị thứ nhất tên là Ưu-bà- thế, vị thứ hai tên là Câu-luật-đà tài trí cao thâm, học vấn uyên bác. Phạm chí Sa Nhiên bị bệnh biết mình sắp chết gọi hai vị đê tử thượng thủ đến căn dặn:
–Các đệ tử sơ học này đều có chí nguyện tu tập để thành tựu đạo hạnh. Nay hai con có trách nhiệm phải hướng dẫn, dạy dỗ để họ hoàn thành chí nguyện.
Hai vị kính cẩn vâng lời, tuân theo giáo huấn thực hiện.
Một hôm Đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo Át-bệ:
–Ông hãy ra đi truyền bá giáo pháp. Trên đường du hóa, ông hẳn có thể gặp những người có duyên được giáo hóa; gặp những người có trí tuệ sáng suốt, ngoài Đức Như Lai, không ai có thể nghị luận cùng họ. Nếu gặp những người ấy chỉ nên nói những giáo lý căn bản, chớ nên đối đáp với họ để bị cười chê.
Tôn giả Át-bệ vâng lời, chỉnh trang y bát, đảnh lễ Đức Phật rồi lên đường. Đúng lúc Ưu-bà-thế cùng các đệ tử thả bước du ngoạn, từ xa trông thấy Tôn giả Át-bệ oai nghi chỉnh tề thanh thoát, chưa từng nghe tiếng hay gặp mặt, ngạc nhiên không rõ tại sao vị ấy lại có pháp tướng trang nghiêm như thế, y phục của vị ấy lại khác người đời nên muốn đến thăm hỏi. Hai vị cùng thẳng tiến gặp nhau ở giữa đường. Ưu-bà-thế cất tiếng hỏi Tôn giả Át-bệ:
–Y phục của ngài thật khác hẳn người thường. Ngài từ đâu đến? Tôn sư là ai, dạy giáo pháp gì có thể nói cho tôi nghe được không?
Tôn giả Át-bệ đáp bằng bài tụng:
Tuổi tôi nay còn nhỏ
Học đạo vốn thiển sơ
Chẳng thể tuyên pháp nghĩa
Như Lai tối thượng thừa.
Cội nguồn tất cả pháp
Nhân duyên, không, vô chủ
Tâm tịch, thấu nguồn chân
Hiệu Sa-môn vì thế.
Ưu-bà-thế nghe xong ý nghĩa trong lời pháp ấy suy ngẫm thấy thật là chân chánh, tự nghĩ: “Thuở còn thơ ấu ta vốn ham học, tám tuổi theo thầy đến năm mười sáu tuổi, về phương thuật để vào đạo của các bậc tiên hiền, không sách nào mà ta chưa từng đọc qua. Mười sáu nước lớn đều tôn ta là bậc kiến thức quảng bác, nhưng ta chưa từng được nghe pháp nghĩa chân thật tối thượng này. Nay tình cờ trên đường lại gặp được pháp tạng quý giá này, lời pháp ấy thật vi diệu, ngon như vị cam lộ.” Tâm ý Ưu-bà-thế bừng sáng tỏ, liền đắc được pháp nhãn, vội quay về tinh xá lòng mừng vui khôn tả.
Câu-luật-đà thấy diện mạo vui tươi của Ưu-bà- thế nghĩ là bạn đã được pháp cam lộ, nên cất tiếng hỏi:
–Bạn đã được nghe giáo pháp vi diệu rồi phải không? Vậy chớ quên lời hứa trước đây, hãy đọc lại để tôi được đôi phần tuệ giác.
Ưu-bà-thế đọc lại đầy đủ bài tụng mà mình được nghe cho Câu-luật-đà. Câu-luật-đà nghe xong lần thứ nhất, tâm ý vẫn chưa thông tỏ. Ưu- bà-thế đọc lại lần thứ hai, Câu-luật-đà mới hiểu hết ý nghĩa bài tụng liền trầm tư nội quán, tâm ý bừng tỏ rõ và cũng đắc được pháp nhãn.
Hai người cùng nhau bàn luận:
–Ước nguyện xưa nay của hai chúng ta là gặp được pháp cam lộ, nay đã được rồi. Sao chúng ta không cùng nhau đến chỗ Bậc Đại Sa-môn để được tẩy rửa thanh tịnh thân tâm trong biển tuệ giác sâu thẳm của Ngài.
Bàn luận xong, hai vị đồng lòng chuẩn bị lên đường. Câu-luật-đà suy nghĩ: “Thầy của ta lúc lâm chung đã di huấn trao chúng đệ tử cho ta, truyền di ý bảo ta phải tế độ cho họ thành đạo. Nay để họ lại ra đi, về đạo nghĩa thật không an ổn”. Câu-luật-đà hỏi các đệ tử:
–Bậc Đại Sa-môn ấy có Thánh pháp cam lộ, cởi bỏ được giềng lưới rách nát, hư hoại của trần lụy khiến tâm hạnh an tĩnh, tịch tịnh. Ta muốn đến đấy cầu học, tìm hiểu giáo pháp tinh diệu để thức tỉnh chân tâm. Nay các vị sẽ đi đâu?
Chúng đệ tử bạch:
–Chúng con có được sở học như hiện nay đều là công ân của hai thầy. Hai thầy đã kính ngưỡng đạo Phật chúng con xin vâng theo đến nơi an tịnh, ham cầu Thánh dược cam lộ. Chúng con nguyện theo sau hai thầy để học đạo.
Thầy trò cùng một chí, liền rời khỏi trú xứ thẳng đến vườn Trúc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ-kheo:
–Nay có hai Hiền giả cùng các đệ tử, theo hạnh nguyện xưa muốn xuất gia làm Sa-môn. Việc khó làm này được thành tựu đều là nhờ công sức của Tỳ-kheo Át-bệ.
Các Tỳ-kheo theo lời dạy Đức Phật nên mong đợi đón tiếp hai vị Hiền giả và chúng đệ tử.
Ưu-bà-thế, Câu-luật-đà và các đê tử từ xa trông thấy tướng tốt chói sáng của Đức Như Lai trong lòng rung động mừng rỡ, thầm nghĩ: “May mắn thay! Chúng ta được vâng học theo lời dạy của Bậc Thanh Tịnh. Niềm vinh hạnh này thật khó thể diễn bày.” Hai vị cùng đệ tử tiến đến phía trước tòa ngồi, đầu mặt sát đất đảnh lễ Đức Phật. Lạy xong, lòng họ càng hân hoan, vui sướng vô cùng, tự nghĩ đây chính là lúc nên bày tỏ thưa bạch:
–Chúng con nhiều tội lỗi hư hèn, trôi theo dòng thế tục rơi vào vùng tăm tối. Mãi đến hôm nay, mới ngược dòng thế sự trở về nguồn giác. Cúi mong thâu nhận cho chúng con được dự vào hàng Tăng chúng.
Được Đức Phật chấp nhận, tóc trên đầu họ tự rơi xuống, đều trở thành Sa-môn. Đức Phật bảo các
Tỳ-kheo:
–Hai vị này vào thời Phật quá khứ, có lập thệ nguyện, chờ khi Ta thành đạo sẽ theo hầu hai bên. Đức Phật dạy tên gọi Ưu-ba-thế vốn là danh hiệu xưng tụng, hoa mỹ nhưng không thật nên truyền Ưu-ba-thế đổi lại theo tên gọi thuở ấu niên là Xá-lợi-phất, Câu-luật-đà trở lại tên gọi Đại Mục- kiền-liên.
Sau đó, được nghe Đức Phật thuyết pháp, cả hai vị đều đắc quả A-la-hán.
Đức Phật dạy thị giả truyền bảo các vị Tỳ-kheo buổi chiều sẽ kiết giới, không vị nào được đi nơi khác. Đến tối thông kiểm số chúng Tăng được một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Đức Phật kiết giới xong, các Tỳ-kheo đều hoan hỷ, tất cả cung kính đảnh lễ Phật rồi lui ra.
Bấy giờ Đức Như Lai sắp trở về nước Xá-di cùng đi có chư vị đại Tỳ-kheo Tăng đều là bậc Ứng chân, nội tâm tĩnh lặng, trí tuệ thông suốt các pháp nhỏ nhiệm, tỏ tường nguồn cội hạnh nghiệp của chúng sinh trong ba đời như các vị Hiền giả: Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Uất-tỳ Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp... gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Khi ấy tại thành Ca-duy-la-việt, vua Duyệt- đầu-đàn lệnh cho Phạm chí Ưu-đà-da đến vườn Trúc, thỉnh Đức Phật trở về quốc thổ.
Đến nơi, Ưu-đà-da nhìn thấy tướng tốt của Đức Phật, ánh sáng hào tướng soi rạng đất trời lòng vô cùng vui sướng, cúi đầu toàn ý lạy dưới chân Đức Phật rồi đứng qua một bên. Sau đó, Ưu-đà-da tâm ý chí thành quỳ xuống bạch Phật:
–Đức phụ vương từ phương xa gởi lời đến Thế Tôn. Phụ vương nghe Ngài đã thành đạo lại cứu độ cho tất cả chúng sinh, riêng đức phụ vương chưa được kính nhờ vậy Ngài nên trở về. Hôm nay phụ vương sai con đến thỉnh Ngài.
Đức Phật hỏi Ưu-đà:
–Sinh hoạt thường ngày của phụ vương có an ổn không?
Ưu-đà thưa:
–Đại vương vẫn bình an, chỉ rất nhớ Đức Thế Tôn.
Đức Phật hỏi Ưu-đà:
–Ông có ưa thích đạo của Ta không?
Ưu-đà bạch:
– Bạch Thế Tôn, con rất thích.
Đức Phật chấp nhận cho Ưu-đà làm Sa-môn, và truyền trao giới pháp. Ưu-đà thầm nghĩ: “Nay ta đã là đệ tử Đức Phật, không thể trở về vương quốc. Đức vua đang chờ tin tức, vậy ai báo tin cho ngài?”
Đức Phật biết tâm niệm Ưu-đà muốn trở về nên dạy:
–Này Ưu-đà, chớ nên gần gũi với việc thế gian, luyến tiếc buộc ràng với việc nhà lúc trước.
Ưu-đà bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn, Ngài sẽ trở về Xá-di?
Đức Phật đáp:
–Ta sẽ về.
Ưu-đà vâng lời dạy, quỳ xuống bạch Đức Phật:
–Không rõ ngày nào Đức Thế Tôn sẽ lên đường?
Đức Phật bảo Ưu-đà:
–Sau bảy ngày nhất định Ta sẽ đến Xá-di!
Ưu-đà hoan hỷ đảnh lễ Đức Phật rồi lên đường về nước. Về đến Xá-di, Ưu-đà-da đến trước cung nhờ người thông báo. Người giữ cửa lập tức tâu lên đức vua:
–Sứ giả Ưu-đà đã trở về, hiện đang ở ngoài cửa xin được yết kiến.
Nhà vua truyền lệnh cho vào, lòng lấy làm lạ tự hỏi: “Ta mong Ưu-đà như người khát mong được uống nước. Vì sao ông ta cứ dừng ở ngoài cung, lại xin thông báo để được yết kiến và phải được ta ưng thuận đến lần thứ ba rồi sau đó mới tấn kiến?”
Nhà vua thấy Ưu-đà đã mặc y phục Sa-môn liền hỏi:
–Khanh đã xuất gia làm Sa-môn rồi sao?
Ưu-đà thưa:
–Thần đã xuất gia theo học giáo pháp của Đức Phật.
Nhà vua hỏi Ưu-đà:
–Tất-đạt khi ở trong cung chỉ có khanh là thân nhất. Khanh tự do ra vào cung như người trong hoàng tộc, không bao giờ phải thưa hỏi người giữ cửa. Nay đi sứ trở về, vì sao khanh lại đứng ngoài cửa nhờ người thông báo?
Ưu-đà thưa đức vua:
–Đức Phật dạy Tỳ-kheo không nên gần gũi người thế tục, quyến luyến nhà cửa vì đạo và tục khác nhau.
Nhà vua hỏi:
–Con ta lúc ở trong cung luôn vận y phục thượng hạng, nay là Sa-môn vận y phục gì?
Ưu-đà chỉ vào chiếc y đang mặc, thưa với đức vua hiện nay Đức Phật cũng vận y phục như vậy.
Nhà vua rơi lệ hỏi tiếp:
–Khi Tất-đạt ở trong cung, ta đã xây dựng cung điện, dùng bảy thứ báu để chạm trổ, quý giá tốt đẹp nhất thế gian cho Thái tử. Nay nhà cửa của con ta thế nào, có như ta không?
Ưu-đà tâu đức vua:
–Ngài thường ở dưới gốc cây. Trong truyền thống của đạo, chư Phật, Thế Tôn đều như thế.
Nhà vua lại hỏi Ưu-đà:
–Con của ta khi ở trong cung chăn ấm nệm êm, toàn bằng thứ gấm thêu tinh xảo, mềm mại. Nay tọa cụ của Thái tử có được như thế không?
Ưu-đà tâu vua:
–Ngài lấy cỏ làm tòa để giữ tâm trong sạch trừ lòng tham.
Nhà vua hỏi Ưu-đà:
–Khi Tất-đạt ở trong cung, ta sai người nấu các món ăn thượng vị cho Thái tử dùng. Nay Thái tử ăn uống như thế nào, có được đầy đủ không?
Ưu-đà tâu:
–Đến giờ Ngài ôm bát khất thực để tạo phước cho chúng sinh. Khi thọ thực Ngài không phân biệt ngon hay dở, mà chỉ chú nguyện cho thí chủ.
Nhà vua nghe những lời ấy lại tuôn rơi dòng lệ, hỏi Ưu-đà:
–Lúc trước, khi Tất-đạt ngủ, nếu muốn cho Thái tử thức giấc ta thường cho khảy đàn ca hát, sau đó Thái tử mới thức. Nay ở trong vùng núi non cô tịch, làm sao để đánh thức Thái tử.
Ưu-đà tâu vua:
–Đức Như Lai luôn trú trong Tam-muội không kể ngày đêm.
Nhà vua hỏi Ưu-đà:
–Lúc con ta còn ở trong cung, khi tắm rửa thường dùng thứ nước có tám loại hương thơm. Nay Thái tử tắm rửa thì dùng thứ nước gì?
Ưu-đà tâu đức vua:
–Ngài dùng nước bát giải thoát[5] để tẩy rửa tâm ô uế.
Nhà vua hỏi tiếp:
–Này Ưu-đà, khi Thái tử còn ở trong vương quốc, ta vẫn sai người dùng các loại hương chiên- đàn tô hợp để xoa thân con ta. Nay Thái tử đã là Sa-môn thì thường dùng loại hương gì?
Ưu-đà tâu vua:
–Ngài thường dùng hương bát chủng pháp [6] thuộc Giới, Định, Tuệ để xông ướp.
Đức vua lại hỏi Ưu-đà:
–Lúc Tất-đạt còn ở trong hoàng cung, ta ra lệnh làm giường cho Thái tử toàn bằng bốn thứ báu. Vậy nay giường Thái tử nằm làm bằng loại vật liệu gì?
Ưu-đà tâu:
–Ngài lấy Tứ thiền làm giường, tâm dứt bỏ các nghiệp ác, không có dục vọng.
Nhà vua lại hỏi:
–Này Ưu-đà, lúc còn ở trong cung, con ta luôn có các vệ sĩ theo hầu. Hiện nay có ai theo hầu không?
Ưu-đà thưa:
–Các đệ tử học đạo của Ngài được gọi là Tỳ- kheo Tăng, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị đều theo hầu Đức Thế Tôn.
Nhà vua lại hỏi Ưu-đà:
–Lúc Thái tử ngụ trong cung, nếu muốn ra ngoài đi dạo thường có bốn loại xe là xe trâu, xe dê, xe ngựa và xe voi để Thái tử cỡi. Còn nay lúc đi dạo thì cỡi bằng loại xe gì?
Ưu-đà tâu vua:
–Ngài lấy Tứ đế và Thần túc thông làm xe phi hành.
Nhà vua hỏi Ưu-đà:
–Khi con ta du ngoạn thường có cờ hiệu và lọng được tết các tua dài để làm vật nghi vệ trang hoàng rực rỡ cho Thái tử. Nay thì cờ lọng như thế nào?
Ưu-đà thưa vua:
–Ngài dùng bốn ân và đức từ bi để trang điểm cho tất cả chúng sinh.
Đức vua lại hỏi:
–Này Ưu-đà, mỗi khi Tất-đạt ra ngoài cung thường có người khua chuông, đánh trống, nhân dân đón xem đứng đầy đường. Bây giờ khi Thái tử đi hay dừng ở đâu thì cử lên loại âm thanh nào?
Ưu-đà thưa:
–Lúc Đức Phật mới thành đạo, Ngài đến nước Ba-la-nại chuyển trống pháp cam lộ khiến nhóm năm người của Tôn giả Câu-lân đều chứng được quả A-la-hán, tám vạn Thiên chúng chứng được pháp nhẫn vô cấu, chín mươi sáu vị ngoại đạo đều vui vẻ kính phục. Pháp âm vô thượng ấy rền vang khắp cả ba ngàn Đại thiên thế giới.
Vua Duyệt-đầu-đàn hỏi Ưu-đà:
–Hiện nay Thái tử có ý muốn thống lãnh nước nào?
Ưu-đà thưa:
–Những nơi mà Đức Thế Tôn thống lãnh không thể kể hết. Ngài giảng dạy và truyền trao chánh pháp cho chúng sinh, không người nào không mong được độ thoát. Ngài dùng tâm bình đẳng để độ khắp các nơi, không xứ sở nào không ưa thích.
Đức vua lại hỏi Ưu-đà:
–Lúc còn ở trong nước, con ta vẫn thường lo nghĩ vạch ra các đường lối chính trị giúp ta an dân, hành động đều thuận theo lễ nghi làm cho mọi người đều cung kính vâng lệnh. Nay ở nơi cô tịch Thái tử thường nhớ nghĩ về những việc gì?
Ưu-đà tâu vua:
–Đức Thế Tôn luôn quán niệm về Không, thấy rõ khổ hay vui đều chẳng phải là chân thật, những gì có hình thể, tên gọi cũng thế, về thực chất là Không, nên tâm Ngài luôn an định, không tạo tác.
Nhà vua nghe lời ấy xong liền thốt lên:
–Tai họa thay! Tất-đạt, tất cả mọi vật đều hiện có trước mắt sao lại nói là không? Trái ngược thay! Tất-đạt, con đã tạo mâu thuẫn với mọi người.
Ưu-đà liền tâu:
–Giả sử người trí khắp trong thiên hạ, mỗi người có một trăm cái đầu, mỗi đầu có một trăm cái lưỡi, mỗi cái lưỡi giải nghĩa được cả trăm ý, hợp tất cả số người đó lại để ca ngợi Đức Như Lai suốt trọn một kiếp cũng không thể nói hết công đức của Ngài. Huống chi những lời thần vừa nói chưa được một phần ức. Chỉ có Phật với Phật mới tỏ rõ được công đức ấy.
Đức vua nói:
–Tốt lành thay! Đức Phật sắp đến đây phải không? Ngày nào Ngài mới đến?
Ưu-đà thưa:
–Bảy ngày nữa Ngài sẽ đến.
Đức vua vô cùng vui mừng, ngay lập tức truyền lệnh cho quần thần:
–Ta sắp sửa nghênh rước Đức Phật. Các khanh hãy chuẩn bị đoàn nghi vệ của hoàng cung, tất cả đều phải chiếu theo đúng pháp tắc cung đón Bậc Thánh vương khi ra vào, sửa sang bằng phẳng các đường phố, vẩy nước hoa trên đất, các ngã tư trong thành đều phải treo tràng phan. Tất cả mọi việc tu sửa, trang hoàng đều phải làm hết sức toàn hảo. Đoàn người, ngựa xe theo hầu ra ngoài thành trong vòng bốn mươi dặm để cung đón.
Đến ngày thứ bảy, Đức Thế Tôn từ vườn Trúc cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo Tăng khởi hành tiến vào nước Xá-di. Uy thần Phạm tướng của Đức Phật và chư Tăng khiến chư Thiên cũng tùy tùng theo hầu. Trên đường đi có một dòng sông tên là A-lâu-na. Khi qua bên kia sông lên bờ, Đức Phật dùng trí tuệ vô lậu quán sát, soi thấu biết rõ ác niệm trong tâm Điều-đạt, chắc khó khai hóa, cần phải thị hiện thần túc thông làm cho Điều-đạt phải tin phục. Ngài liền bay lên hư không cách mặt đất bảy nhận[7], chân Ngài giống như bước trên đất nhưng kỳ thật là Ngài đang trụ giữa hư không. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
–Hãy xem đoàn xe ngựa của nhà vua năm màu trang nghiêm, đẹp đẽ. Thật giống như khi vua cõi trời rời cung du ngoạn.
Bấy giờ mọi người thấy Đức Phật và chư Tăng chân bước trên mặt đất, đưa mắt nhìn lên theo dấu chân lại thấy Đức Phật và chúng Tăng trụ giữa hư không, từ trên cao dần dần đi xuống, lần lượt đến ngay chỗ nghênh rước ở độ cao ngang đầu người khiến những người có tâm cang cường đều cúi đầu vâng phục tin theo. Chỉ có Điều-đạt khởi lên suy nghĩ bất thiện: “Tất-đạt đi học đạo chỉ để làm trò huyễn thuật, mê hoặc mọi người như thế. Rồi đây, ta cũng sẽ dùng pháp thuật để hóa độ cho tất cả chúng nhân.”
Đức vua cha từ xa thấy Đức Phật đi lại, trong lòng vừa thương vừa kính, một là kính đạo, hai là thương con liền bước xuống xe voi, cởi kiếm, bỏ lọng, nước mắt rơi tràn đi tới chỗ Đức Phật, đầu mặt sát đất lạy dưới chân Ngài cất lời tán tụng:
Đản sinh ba hai tướng
Lần nhất lễ Phước nhân
Bên cội cây kính lễ
Thành đạo nay cúi đầu.
Rồi vua cha xướng kệ hỏi Đức Phật:
Xưa kia ngụ hoàng thất
Ngự tọa bảo tượng xa
Nay cớ sao cực khổ
Dẫm đất lấm chân trần?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Cỡi ngựa xe sinh tử
Nguy hiểm, chẳng bền lâu
Ngự trên xe ngũ thông
Đến đi luôn tự tại.
Đức phụ vương hỏi:
Xưa khoác áo bảy báu
Tốt đẹp thật thanh cao
Nay đầu trần, y nát
Lại chẳng vương thẹn sao?
Đức Thế Tôn đáp kệ:
Hổ thẹn vì áo ngoài
Áo đời thêm trần cấu
Áo pháp Bậc Chánh Chân
Tịnh tâm, Như Lai khoác.
Vua cha đọc kệ hỏi tiếp:
Xưa dùng đồ vàng bạc
Ăn thượng vị thơm ngon
Nay gót lê hành khất
Thô dở ăn được sao?
Đức Thế Tôn xướng kệ trả lời:
Lìa xa cơn đói khát
Pháp vị là món ăn
Khất thực do từ bi
Vì chúng sinh gieo phước.
Đức phụ hoàng hỏi:
Xưa riêng ngự cung phòng
Có thị tỳ hầu hạ
Nay độc trú rừng sâu
Vì sao không sợ hãi?
Đức Thế Tôn trả lời:
Sợ hãi vì sinh tử
Tận trừ ngộ nguồn không
Không sầu, không hỷ niệm
Đạo tràng, nơi tịnh trú.
Vua cha lại hỏi:
Xưa ngự chốn hoàng cung
Tẩy thân bằng trầm thủy
Nay ở tại núi rừng
Lấy gì trừ trần cấu?
Đức Phật đáp:
Ao tắm là Pháp bảo
Nước Chánh định tràn dâng
Thân trầm trừ ba độc[8]
Tối lạc đạt tam thông[9].
Vua Tịnh Phạn thỉnh Đức Phật và chư Tăng đến khu ngự uyển của hoàng cung, truyền lênh từ đây về sau nơi đó mãi sẽ là tinh xá. Đức Phật vâng theo ý vua cha đi vào tinh xá, ngồi dưới cội cây Ni-câu-loại giảng dạy rộng truyền giáo pháp suốt bảy ngày không mệt mỏi. Thính chúng vô cùng hoan hỷ. Trong đó có người phát tâm Đại thừa, có người ưa thích hạnh Bích-chi-phật, có người khởi ý hướng theo quả A-la-hán, có người xuất gia làm Sa-môn; mỗi người tùy theo sự phát tâm mà tu tập đều được thành tựu. Lúc ấy các phụ nữ trong thành đều sinh niệm lành, buồn tủi rơi lệ tự trách: “Đức Thế Tôn đã trở về vương quốc, chỉ riêng nam giới có phước đức mới được diện kiến Đức Phật. Chúng ta tội chướng ngăn che nên không được uống pháp vị. Sao lại khổ như thế?”
Đức Phật biết rõ mọi suy nghĩ của phụ nữ trong thành nên khen ngợi:
–Lành thay! Họ thật sự khởi tâm niệm tốt đẹp, có ý muốn ưa thích được nghe giáo pháp để vượt thoát khỏi khổ đau.
Đức Phật nói với vua cha:
–Chánh pháp khó gặp, được nghe giảng rất khó. Phụ vương nên truyền lệnh cho phụ nữ trong nước ai thích nghe pháp hãy đến nghe.
Nhà vua liền ra lệnh ai muốn được gặp Phật nghe pháp hãy tới nghe. Phụ nữ ở trong thành đều vui mừng đến diện kiến Đức Phật, lễ bái rồi đứng qua một bên. Đức Thế Tôn tùy theo ý niệm của họ thuyết pháp thích hợp khiến tâm mọi người được thông suốt, đều được pháp nhãn.
Đức vua và nhân dân vui mừng lạy Đức Phật rồi lui ra. Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Đức Phật:
–Mọi người nam nữ, già trẻ trong nước Xá-di, nghe Đức Phật giảng dạy chánh pháp tùy theo ý niệm trong lòng họ nên tất cả đều được Thế Tôn ấn chứng. Đức Phụ hoàng cũng cùng nghe pháp sao không được Thế Tôn ghi nhận là có chứng đắc?
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
–Phụ vương của Ta niệm ân ái chưa dứt, tình cha con càng lúc càng nồng nên tâm cung kính chưa trọn vẹn, vì vậy chưa thể đạt được.
Sáng sớm Đức Như Lai và Tôn giả Mục-liên cùng đi đến hoàng cung. Khi vua cha an tọa trên thượng điện. Đức Phật bảo Tôn giả Mục-liên:
–Hãy hiển bày đạo lực của ông.
Tôn giả Mục-liên vâng lời bay lên hư không, ẩn hiện bảy lần, thân tuôn ra nước và lửa rồi từ trên hư không đi xuống đảnh lễ dưới chân Đức Phật đứng hầu phía bên trái.
Vua Duyệt-đầu-đàn được thấy sự hóa hiện ấy trong lòng hân hoan, tâm ý được thông suốt, dứt hẳn niệm ân ái, phát tâm cung kính đứng dậy đến trước Đức Phật đảnh lễ bạch:
–Hết sức tốt lành! Bạch Thế Tôn, đệ tử có công đức mới được như vậy. Oai đức của Như Lai thật khó thể đo lường.
Ngay khi đó, đức vua phát khởi đạo tâm Chánh giác vô thượng.
Về sau, mỗi khi nhà vua đến nơi Phật ngự đều thấy thân tướng xấu xí của một ngàn vị Tỳ-kheo, chúng của Tôn giả Ca-diếp, lòng vua không vừa ý, thầm nghĩ: “Các Tỳ-kheo này tuy tâm ý thuần nhất, bất loạn nhưng lại chẳng hiện ra Phạm tướng. Ta phải khuyến khích người trong hoàng tộc vui thích đạo giải thoát, tìm chọn những người có thân tướng trang nghiêm, đẹp đẽ để họ xuất gia làm Sa-môn”. Nhà vua truyền lệnh cho mọi người trong hoàng gia ngày mai phải tụ họp tại cung điện. Theo lệnh vua mọi người đều đến dự. Đức vua truyền bảo người trong vương tộc:
–Thầy tướng A-di có nói: “Nếu Đức Phật không xuất gia sẽ làm bậc Thánh vương thống lãnh bốn châu trong thiên hạ. Những người theo hầu hai bên hình mạo phải đẹp đẽ, trang nghiêm.” Nay có một số đệ tử của Ngài hình dáng thật khó coi. Ta muốn kính mời những vị có tâm chí học đạo giải thoát, có oai nghi và dung mạo đầy đủ xuất gia vào trong Tăng đoàn để làm sáng rực sự trang nghiêm của Đức Thế Tôn.
Mọi người trong vương gia đều nói:
–Thật vô cùng tốt lành!
Mọi người đều hoan hỷ lãnh ý chỉ của vua lui về sắp xếp, giao phó việc nhà, hẹn bảy ngày nữa sẽ xuất gia học đạo.
Điều-đạt lên tiếng bảo một vị trong hoàng tộc sắp xuất gia:
–Chúng ta là con em dòng hoàng tộc, nay từ bỏ sự vinh hiển của thế gian, sắp sửa xuất gia sống trong đạo. Chúng ta cần ăn mặc thật chỉnh tề, đẹp đẽ nhất; đi trên loại xe ngựa, voi có giá trị ngàn vàng. Đến ngày xuất gia, chúng ta ra đi trang nghiêm như thế chắc hẳn người xem sẽ đứng chật cả đường.
Khi ấy chiếc mũ vải để vén tóc trên đầu Điều- đạt tự nhiên rơi xuống đất. Cùng đi đến ngã tư đường, voi và ngựa của hai người đang cỡi bỗng xoài bốn chân trên đất, làm cho chim muông bay lên kêu inh ỏi.
Thầy tướng số thấy thế nên dự báo:
–Mọi người đều thành tựu đạo quả, chỉ có hai người ấy là không được an lành.
Đến ngày đó, các vị trong hoàng thất cùng đến chỗ Đức Phật xuất gia làm Sa-môn. Mọi tâm niệm cang cường trong lòng họ đều rơi rụng, vâng phục theo Đức Phật. Tất cả mọi người đều được an lạc.
Đức Phật từ Xá-vệ cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo Tăng trở về vườn Trúc trong thành Vương xá. Trưởng giả Bá Cần[10] đã được sự cảm hóa của Đức Phật nên phát khởi lòng cung kính đi đến vườn Trúc, cúi năm vóc sát đất đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu quanh, rồi đứng trang nghiêm tâm ý bạch Phật:
–Cúi mong Đức Thế Tôn hạ cố đến nhà con thọ dụng bữa trai đạm bạc.
Đức Phật im lặng nhận lời. trưởng giả vui mừng lạy dưới chân Đức Thế Tôn rồi lui ra. Khi về đến nhà, trưởng giả sai người chuẩn bị đầy đủ các thứ cần dùng cho trai lễ, sắp xếp lọng, phướn thật trang nghiêm và đích thân ông nấu các thức ăn hương vị tuyệt hảo.
Trong thành Xá-vệ, có một vị trưởng giả tên là Tu-đạt[11] tuy chưa từng hội ngộ với trưởng giả Bá
Cần nhưng cả hai đều được nghe tiếng tăm của nhau. Đời sống và đức hạnh tương đồng nên dù ở xa mà đã xem nhau như bạn.
Tu-đạt có việc sang thành Vương xá, nhân tiện muốn đến nhà để kết thân. Đúng lúc, trưởng giả Bá Cần đang tự thân sửa soạn trai phẩm cúng dường nên không thể ra ngoài đón tiếp. Tu-đạt ngồi đợi mãi lâu sau mới gọi người hầu hỏi:
–Ta từ xa đến đây thăm viếng vì sao ông chủ ngươi không ra tiếp? Từ trước đến nay ta luôn có lòng kính trọng vị ấy nên đến đây. Nay chẳng lẽ ta phải mất đi tình cảm đó sao? Vì sao hôm nay tiếp đãi lạnh nhạt như vậy?
Ngay khi đó, Ca-lan-đà vừa xong việc vội ra tiếp đón. Nhưng Tu-đạt ngồi yên quay mặt đi trách móc:
–Xưa nay tôi chưa từng phải chịu cảnh tình nhục nhã, đến thăm viếng lại không được đón tiếp phải ngồi ngóng đợi như thế này.
Ca-la-đà nói:
–Tôi thật không ngờ hôm nay ngài đến thăm. Ngày mai tôi có thỉnh Đức Thế Tôn và chư Tăng, phải đích thân lo lắng sắp xếp mọi thứ việc nên không một phút nào rảnh rỗi để kịp ra nghinh tiếp. Chính vì việc đó nên lòng tôi cứ lo mãi, không yên.
Tu-đạt hỏi:
–Đức Thế Tôn và chư Tăng là ai? Đó là tiệc cưới hay tiệc mừng nhân ngày lễ hội trong nước?
Trưởng giả Ca-lan-đà đáp:
–Này người bạn đồng chí hướng, ngài không biết thật sao? Vị Thái tử con vua Bạch Tịnh vào núi tu tập sáu năm, nay đã thành đạo hiệu là Phật. Phạm tướng trang nghiêm, uy nghi rạng rỡ của Ngài cao vượt hơn tất cả, trí tuệ của Ngài như vầng sáng xua bóng tối, thân Ngài cao tầm một trượng sáu, thân sắc đẹp đẽ màu vàng tía tỏa chiếu khắp thế gian. Ngài thuyết pháp thông suốt vô ngại, nghĩa lý rất rõ ràng, rốt ráo. Các đệ tử theo Ngài tu tập được gọi là Tỳ-kheo Tăng. Các vị ấy thường trú nơi vắng lặng giữ thân ngay thẳng, theo đạo tu tập đức hạnh, không màng vinh hoa lợi dưỡng nên được gọi là bậc Chân nhân, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Tu-đạt vừa nghe đến tiếng Phật, thân bỗng rung động, lông tóc dựng đứng, lòng khấp khởi mừng vui. Đêm đó ông cứ mong chờ trời sáng nên tâm trạng bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Tâm niệm vô cùng thành kính của Tu-đạt làm cảm động đất trời, mới nửa đêm mà trời bỗng bừng sáng. Ông lập tức ngồi dậy, vận trang phục đi ra hướng cửa thành. Nhìn sang phía trái thành môn có một ngôi miếu thờ vị thần tên Thấp-ba, ông rảo bước sang đó quỳ lạy. Khi lễ bái xong, ông mới nhận ra trời vẫn tối đen mù mịt. Tu-đạt thoáng hoảng sợ chẳng biết đi đâu. Tuy có sự lạ thường ấy nhưng do tâm ông luôn chí thành nghĩ đến Đức Phật nên nỗi kinh sợ liền lặng tắt. Từ khoảng không vang lên tiếng nói:
–Lành thay! Này Tu-đạt, ông nhờ tâm niệm chí thành mới được như vậy.
Trưởng giả theo hướng thanh âm phát ra từ hư không hỏi:
–Ngài là vị thần nào vậy? Liền có tiếng trả lời:
–Tôi là quyến thuộc của trời Nhân-đề[12].
Tu-đạt lại hỏi:
–Ngài vốn từ đâu sinh ra mà sao lại ở giữa hư không?
Vị ấy trả lời:
–Ngày xưa, tôi theo ngài Đại Mục-kiền-liên, đệ tử thần túc của Đức Phật, nghe thuyết kinh pháp. Nhờ phước báo ấy nên tôi được sinh lên tầng trời Đao-lợi thuộc cõi Dục giới nhưng vì công đức quá ít nên được lệnh coi giữ ở đây. Thấy ngài có tâm niệm vô cùng thành kính nên tôi đến để giúp đỡ. Đức Phật là Bậc Chí Tôn, cứ mỗi bước đến với Ngài thì phước đức vô lượng. Tiếc vì lúc còn sống, tôi không được gặp Đức Phật. Nếu nay được diện kiến Ngài, tôi sẽ thấu rõ được chân lý.
Vị Thiên ấy từ thân phóng luồng ánh sáng lớn chiếu đến vườn Trúc. Thiên Ôn theo luồng sáng ấy đi tới. Từ xa trưởng giả thấy Đức Như Lai vượt hơn cả những điều ông được nghe, liền đến trước lễ bái rồi bước qua một bên, lặng lẽ chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật. Trưởng giả lên tiếng vấn an:
–Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có được an ổn không?
Đức Phật vì Tu-đạt nói bài kệ:
Không sầu cũng không vui
Tâm không, lòng an tịnh
Vô sinh nơi tịch trú
Kiến đế-trụ Niết-bàn
Tỉnh giác, niệm đoan chánh
Soi sáng độ quần sinh
Giác chánh niệm trong sáng
Chặt đứt vòng ân ái
Mãi an lạc, tịch không.
Vừa nghe xong bài kệ, trưởng giả Tu-đạt nhờ công đức trong quá khứ nên liền khởi lên ý niệm thanh tịnh, lập tức đắc được pháp nhãn, cúi đầu xin quy y ba ngôi báu, vâng giữ năm giới làm Thanh tín sĩ. Trưởng giả tiến đến trước Phật bạch:
–Cúi mong Đức Như Lai quang lâm nước Xá- vệ truyền dạy chánh pháp, độ cho người dân nước chúng con trong một thời gian.
Đức Phật hỏi:
–Ông tên họ là gì?
Trưởng giả quỳ xuống bạch:
–Con tên là Tu-đạt. Do con thường nuôi nấng, cấp dưỡng lương thực, quần áo cho những người già cả cô độc, nên mọi người trong nước còn gọi con là Cấp Cô Độc.
Đức Phật hỏi Tu-đạt:
–Ở đó có tinh xá cho các đệ tử của Ta cư trú không?
Tu-đạt thưa:
–Bạch Thế Tôn, chưa có.
Trưởng giả Tu-đạt vâng theo thánh ý của Đức Phật tiến ra trước, quỳ xuống bạch Đức Thế Tôn:
–Con có thể lãnh trách nhiệm xây dựng tinh xá, chỉ cần có một vị Tỳ-kheo đến để xem chỗ nào thuận tiện.
Đức Phật nhìn sang Tôn giả Xá-lợi-phất dạy:
–Ông hãy đến đó giúp đỡ trưởng giả cùng lo việc xây cất.
Tôn giả vâng theo lời dạy của Đức Phật cúi lạy lui ra cùng Tu-đạt trở về Xá-vệ, đi khắp nơi tìm chọn đất. Ngài thấy chỉ có khu vườn của thái tử Kỳ-đà là thuận tiện. Nơi ấy có các loại cây ăn trái, có suối chảy, nhiều giống chim lạ tụ tập, đất đai bằng phẳng, cây cối xanh tươi, lại cách thành Xá- vệ không xa. Trưởng giả Tu-đạt liền đến nơi thái tử Kỳ-đà ngỏ ý muốn mua lại khu vườn, nhưng Kỳ- đà hoàn toàn không có ý bán. Tu-đạt cứ khẩn khoản xin mua mãi, Kỳ-đà tức giận nói:
–Nếu ông có thể đem tiền vàng trải đầy hết khu vườn thì tôi mới bán.
Trưởng giả liền hỏi ngay:
–Có thật ngài quyết định như thế không? Kỳ-đà bảo:
–Ta nêu giá cao như vậy chắc là ông không đủ tiền mua đâu. Ta nói đùa thế thôi.
Tu-đạt nói:
–Ngài đã quyết định rồi, còn nghi ngờ gì nữa!
Tu-đạt từ giã, trở về nhà đưa các xe chở tiền vàng đến. Người giữ vườn không rõ nội vụ vội chạy vào tâu thái tử:
–Ngài Tu-đạt mang tiền đến, không rõ ngài có chấp thuận bán vườn hay không mà sao không truyền lệnh xuống cho thần?
Kỳ-đà đáp:
–Ta chỉ nói đùa như thế. Vị ấy mang tiền đến thì chớ nhận.
Tu-đạt và Kỳ-đà cùng nhau tranh cãi. Các bậc trưởng lão trong nước đến khuyên can, phân xử:
–Thái tử đã quyết định giá đất rồi thì không nên hối tiếc. Chánh trị nước nhà đang thanh bình, thái tử không nên đi ngược lại luật pháp!
Kỳ-đà đồng ý cho Tu-đạt lót tiền trong khu vườn nhưng số tiền vàng đem đến không đủ phủ kín mặt vườn. Kỳ-đà vui mừng thầm nghĩ: “Khu vườn vẫn thuộc về ta thôi!”, liền sai người đến thúc giục. Tu-đạt đích thân đến xem. Hai người cùng ra vườn, Tu-đạt thấy số tiền vàng chưa trải khắp khu vườn trong lòng bực bội không vui.
Kỳ-đà bảo:
–Thưa Hiền sĩ, nếu ngài hối tiếc hãy ngừng việc trải tiền này lại.
Trưởng giả Tu-đạt thưa:
–Tôi không hối tiếc. Tôi chỉ đang suy nghĩ nên xuất số vàng của kho nào để lót cho đủ khoảnh đất còn lại thôi.
Lúc ấy, trong lòng thái tử Kỳ-đà khởi lên ý nghĩ: “Đức Phật chắc phải là Bậc Tôn Kính tối thượng nên mới khiến người này đem hết tiền bạc ra cúng dường mà không hối tiếc. Đối với Bậc Tối Tôn ấy ta nên cúi đầu kính ngưỡng, vì Ngài có sức thần diệu đến như vậy”. Kỳ-đà liền nói với Tu-đạt:
–Ngài không cần mang thêm tiền để trải trên khoảnh đất còn lại. Tôi xin cúng dường các cây cối trong vườn, cùng ngài xây dựng tinh xá.
Tu-đạt đáp:
–Lành thay! Thưa vâng.
Trưởng giả lập tức cho khởi công xây dựng Tăng phòng; sắm sửa tọa cụ, giường chõng, mền nệm đẹp nhất, treo tràng phan, dùng nước hoa rưới trên đất, bày biện đầy đủ vật dụng cúng dường và các thức trai phẩm thật tinh khiết. Sau đó trưởng giả đốt các hương thơm, từ xa quỳ xuống thỉnh Đức Phật:
–Cúi mong Đức Như Lai hạ cố quang lâm. Bấy giờ Đức Chúng Hựu theo lời thỉnh cầu của Tu-đạt, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo Tăng đi đến nước Xá-vệ. Oai thần của Đức Phật vang dội khắp mọi nơi, nhân dân trong nước, nam nữ, già trẻ đều hân hoan, mừng đón đứng chật cả đường.
Trưởng giả Cấp Cô Độc và Nan-đà, hoàng đệ của đức vua tiến ra phía trước, lạy dưới chân Đức Phật, thỉnh Đức Thế Tôn và chư Tăng cùng lên tinh xá. Đức Phật chấp nhận sự cúng dường và chú nguyện, dạy gọi trụ xứ này là Khu lâm viên của thái tử Kỳ-đà và trưởng giả Cấp Cô Độc.
Sau đó trong nước có việc nên đức vua sai người mời Tu-đạt về gấp. Tu-đạt đến dự hội nhưng vẫn cung kính hết lòng vâng giữ trai giới. Công việc hoàn tất, trên đường trưởng giả trở về có người dâng một bình sữa. Vì không có ai theo hầu nên Tu-đạt phải tự mình mang bình sữa đi. Đi một đoạn đường gặp một vị Phạm chí, ông nhờ mang hộ bình sữa cùng đến tinh xá. Tự tay ông rót sữa cúng dường rồi quay sang vị Phạm chí bảo:
–Ông cũng nên rót sữa dâng cúng cho Đức Thế Tôn.
Đức Phật độ trai xong, cả hai dâng nước để Ngài rửa tay. Mọi người thân tướng nghiêm trang, giữ lòng thanh tịnh lắng nghe Thế Tôn giảng pháp. Sau thời pháp, tất cả chúng hội đều hoan hỷ, tán thán vô cùng.
Buổi chiều trở về nhà, vị Phạm chí vâng giữ trai giới không dùng cơm. Người vợ ngạc nhiên hỏi:
–Không rõ ông đang oán giận việc gì? Vị Phạm chí trả lời:
–Chẳng phải tức giận, chỉ vì tôi đang vâng giữ trai giới.
Người vợ liền chất vấn:
–Ông nghe theo ai mà lại giữ trai giới? Phạm chí đáp:
–Trưởng giả Cấp Cô Độc dâng cúng trai thực cho Đức Phật tại khu lâm viên Kỳ hoàn, có mời ta đến tham dự bữa trai giới, được gọi là Bát quan trai.
Người vợ khóc lóc tức giận nói:
–Ông đã bỏ phép tắc xưa nay của Phạm chí thì tai họa sẽ từ đó sinh ra mà thôi. Cù-đàm làm rối loạn phép tắc, sao ông lại có thể tin theo người ấy được?
Vị Phạm chí bị vợ bức ép mãi nên phải dùng bữa cùng với vợ. Vào lúc nửa đêm, vị Phạm chí mạng chung, sinh vào nước Uất-đa-la-vệ làm vị thần cây trong một cái đầm lớn. Khi ấy có năm trăm vị Bà-la-môn muốn đến sông Hằng, chỗ ba cái ao thờ thần, tắm rửa tẩy trừ cấu uế để mong được thần gia hộ. Đi giữa đường thì bị thiếu lương thực, từ xa trông thấy thân cây ấy họ tưởng có dòng suối nên vội chạy đến cội cây nhưng hoàn toàn không thấy gì. Trong đầm, cả đoàn bị cơn đói khát hoành hành, vô cùng nguy khốn. Vị thần cây hóa hiện thành thân người hỏi các vị Phạm chí:
–Các vị từ đâu đến? Nay muốn đi đâu?
Các vị Phạm chí đều lên tiếng trả lời:
–Chúng tôi muốn đến ao thần để tắm rửa, cầu thần gia hộ. Nay bị đói khát mong ngài thương xót cứu giúp.
Vị thọ thần cất tay lên lập tức đầy đủ các món ăn, thức uống ngon thơm hiện ra. Sau khi ăn uống no nê, họ đến chỗ thọ thần thưa hỏi:
–Ngài đã tạo công đức gì mà nay có sức thần biến to lớn như vậy?
Vị thọ thần trả lời:
–Lúc trước, tôi nhờ vị trưởng giả Cấp Cô Độc ở nước Xá-vệ khuyên bảo nên vâng giữ tám pháp trai giới, nhưng lại bị vợ cản trở làm cho không vâng giữ trai giới trọn vẹn. Khi mạng chung tái sinh làm thọ thần ở đầm này. Nếu vâng giữ đầy đủ tám pháp trai giới sẽ được phước báo sinh lên cõi trời.
Vị thọ thần nói bài kệ:
Thờ thần gieo gốc họa
Nhánh cành vụt lớn nhanh
Điêu tàn, thân tự khổ
Trai giới độ Thiên, Nhân.
Các vị Phạm chí nghe xong bài kệ liền tỉnh ngộ, vâng nhận lời dạy quay về Xá-vệ. Trên đường trở về, họ đi ngang qua vương quốc Câu-lam-ni[13]. Trong nước này có vị trưởng giả tên Cù-sư-la[14] được nhân dân kính yêu, tin tưởng, trưởng giả nói gì họ cũng nghe. Đoàn Phạm chí đến nhà trưởng giả xin nghỉ qua đêm.
Trưởng giả Mỹ Âm hỏi:
–Quý vị từ đâu đến? Nay muốn đi đâu?
Các vị Phạm chí thuật lại đầy đủ câu truyện công đức của vị thọ thần ở đầm kia cho trưởng giả nghe và tỏ ý muốn đến nước Xá-vệ chỗ trưởng giả Cấp Cô Độc để xin thọ trì tám pháp trai giới mới thỏa nguyện.
Nghe xong, Mỹ Âm toàn thân rung động, mừng vui vô hạn, nhớ lại các hạnh nghiệp đã tạo trong quá khứ nên bày tỏ ý muốn đi theo. Sáng sớm, ông lệnh bảo người trong gia đình và thân bằng quyến thuộc:
–Ai muốn vâng giữ trai giới có thể cùng đi với tôi.
Tất cả có năm trăm người cùng lên tiếng xin đi. Nương theo nguyện lực khi xưa, mọi người đều tận tâm chuẩn bị lên đường đến nước Xá-vệ.
Chưa đến tinh xá Kỳ hoàn, giữa đường Mỹ Âm gặp trưởng giả Tu-đạt đang trên đường đến nơi Phật ngự đi ngang, không biết là ai bèn hỏi các người cùng đi trong đoàn:
–Đó là vị quan nào thế? Mọi người lên tiếng đáp:
–Đó là vị trưởng giả Cấp Cô Độc.
Các vị Phạm chí và mọi người đều vui mừng đuổi theo, nói:
–Mong ước của chúng ta đã thành tựu rồi!
Muốn gặp người thì được gặp.
Cả đoàn đuổi theo, gặp được trưởng giả Cấp Cô Độc. Tất cả đều cất lời ngợi khen:
–Từ lâu chúng tôi đã hết lòng ngưỡng mộ, học theo đạo đức của ngài. Chúng tôi được nghe ở đây có Bậc Đạo Sư dạy tám pháp trai giới nên từ xa đến đây để nương học. Thật là may mắn, mong ngài hướng dẫn!
Tu-đạt dừng xe lại đáp:
–Vị Đạo sư của tôi hiệu là Như Lai, Bậc Chúng Hựu. Ngài đang trụ tại tinh xá Kỳ hoàn hóa độ mọi người. Các vị có thể cùng tôi đến đó ra mắt Đức Thế Tôn.
Mọi người cung kính vâng theo lời trưởng giả
Cấp Cô Độc, giữ trọn tâm thành, quyết chí đi theo. Từ xa trông thấy Đức Như Lai, tất cả đoàn người trong tâm khởi lên niệm hoan hỷ, năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ lui ra, rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật quán sát tâm niệm của họ, theo duyên tuyên giảng pháp yếu. Năm trăm vị Phạm chí nghe pháp xong đều đắc quả A-na-hàm, xin xuất gia làm Sa-môn. Gia thân quyến thuộc của trưởng giả Mỹ Âm đều đắc pháp nhãn.
Các vị Tỳ-kheo bạch Đức Phật:
–Năm trăm vị Phạm chí và các vị trưởng giả vì sao thành tựu đạo quả nhanh như vậy?
Đức Thế Tôn dạy:
–Trong khoảng thời gian không lâu trước đây, khi ấy có Đức Phật hiệu là Ca-diếp giảng pháp cho các vị Phạm chí và trưởng giả này. Ngài dạy rằng Ta sẽ thành tựu Phật ở tương lai. Các vị Phạm chí liền ở trước Phật Ca-diếp hân hoan phát nguyện mong ước trong tương lai được gặp Đức Phật Thích-ca Văn. Các trưởng giả cũng đồng nguyện như vậy. Nhờ nhân duyên ấy nên gặp Ta họ liền được giải thoát.
Các vị Tỳ-kheo vui mừng, vâng nhận lời dạy, theo đó tu tập.
Lúc đó, trưởng giả Mỹ Âm có tâm niệm muốn thỉnh Đức Thế Tôn. Đức Phật biết ý nghĩ trong tâm của trưởng giả nên dạy:
–Tại Câu-lam-ni chưa có tinh xá vì vậy ý nguyện của ông chưa thể thành tựu.
Mỹ Âm vui mừng, tâm niệm thông suốt, ra trước Đức Phật bạch:
–Con có một tòa nhà riêng xin đem làm tinh xá. Cúi mong Đức Thế Tôn thương xót đến đó hóa độ chúng sinh.
Thưa thỉnh xong trưởng giả vội trở về nước; sửa sang tinh xá, sắp xếp đầy đủ vật dụng cúng dường. Sau đó ông đến tinh xá Kỳ hoàn đầu mặt sát đất lạy dưới chân thỉnh Đức Phật quang lâm chứng minh thọ nhận. Lạy thỉnh xong, trưởng giả lui gót ra về.
Bấy giờ Đức Như Lai cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo Tăng từ tinh xá Kỳ hoàn, nước Xá-vệ đi đến tinh xá của trưởng giả Mỹ Âm, nước Câu-lam-ni. Đức Phật vừa đến cổng thành, đất trời bỗng chấn động, các nhạc cụ bằng ngọc báu không đánh mà tự kêu. Ngay trong ngày hôm ấy mọi thứ độc hại đều biến mất, các điều tốt lành đồng hiện ra. Nhân dân trong nước không ai không cung kính, ngưỡng vọng Đức Thế Tôn.
Trị vì vương quốc lúc bấy giờ là vị quốc vương tên Ưu Điền[16]. Nhà vua tánh tình rất nghiêm khắc, tàn bạo, thích nghe lời dua nịnh, mê đắm dục lạc, luôn nghi ngờ người khác nên truyền lệnh sắp đặt hai vị phu nhân cận kề hai bên thay phiên nhau hầu hạ. Cả hai vị Hoàng hậu đều có nhan sắc diễm lệ, đẹp nhất nước. Vị phu nhân hầu bên trái tên Chiếu Đường là người có tánh kiêu ngạo, chỉ thích làm những việc ác, ganh ghét, sàm tấu bậc hiền lương, vu khống người vô tội. Vị phu nhân hầu bên phải tên Cai Dung là người hiền hậu, nhân ái, tánh nết khiêm cung, hòa nhã, luôn tự kiềm chế trong nếp sống thanh bạch, đạo đức không ai sánh bằng. Nhà vua rất quý trọng đức hạnh ấy nên việc gì cũng tâm sự. Hoàng hậu Chiếu Đường trong lòng ghen ghét, gièm pha hết lời nhưng nhà vua biết rõ đức hạnh của Cai Dung nên không tin lời sàm tấu ấy.
Hoàng hậu Cai Dung có một vị lão hầu tên Độ Thắng thường ra chợ mua hương. Một hôm, trên đường trở về được người mách bảo nên thẳng đến tinh xá. Từ đó, mỗi ngày Độ Thắng đều đến đó kính thành tu tập. Bà giảm bớt tiền mua hương, góp lại để dành cúng dường trai phạn cho Đức Phật và các vị Tỳ-kheo. Đức Phật thuyết pháp, bà lão chú tâm nhớ mãi không quên. Khi cúng dường xong trở về cung, Độ Thắng ngang qua chợ lấy hương.
Nương theo công đức cúng dường ấy, nên mùi hương tỏa ra thơm ngát, cân lượng cũng tăng lên gấp bội ngày thường. Khi bị Hoàng hậu hỏi, vị lão hầu không trả lời được nên thật tình bày tỏ:
–Mỗi lần đi chợ, thần đều bớt tiền mua hương tích góp lại để cúng trai phạn cho Đức Phật và chư Tăng và được nghe giáo pháp sâu xa, nghĩa lý vi diệu mà ở thế gian chưa từng được nghe.
Hoàng hậu Cai Dung nghe đến tiếng Phật bỗng nhiên trong lòng hoan hỷ, tự nghĩ: “Lòng ta thật hân hoan vui sướng. Làm sao để được nghe giáo pháp tối diệu ấy?”, liền bảo Độ Thắng:
–Lão hãy nói lại lời Đức Phật dạy để ta nghe thử.
Vị lão hầu thưa:
–Thân của lão thần thấy hèn, miệng không thanh tịnh nên không dám tự tiện tuyên lại lời dạy tôn quý của Đức Như Lai. Xin Hoàng hậu hãy dời gót đến chỗ Đức Phật nghe pháp rồi trở về.
Hoàng hậu truyền bảo vị lão hầu rời cung đến tinh xá và căn dặn cẩn thận:
–Lão cần phải ghi nhớ đầy đủ nghi thức trong buổi thuyết pháp của Đức Phật.
Độ Thắng chưa trở về mà phu nhân và người hầu đã đứng chờ trong sân.
Đức Phật truyền dạy vị lão hầu Độ Thắng:
–Lão bà hãy trở về cung nói pháp, sẽ có nhiều người được độ thoát. Nghi thức của buổi thuyết pháp trước nhất phải thiết đặt một tòa cao.
Độ Thắng vâng lời Phật dạy, trở về cung tuyên lại đầy đủ lời của Đức Phật dạy. Hoàng hậu Cai Dung hoan hỷ mở rương lấy y xếp thành tòa cao. Lúc ấy vị lão hầu Độ Thắng nương theo oai thần của Đức Phật, thuyết pháp như Bậc Đạo Sư đã giảng.
Hoàng hậu Cai Dung và các nàng hầu tâm không còn nghi ngờ, tiêu trừ tất cả các niệm ác, đắc được quả Câu hạng[17]. Ngay lúc ấy, Độ Thắng cũng đắc được Tổng trì[18].
Chiếu Đường trong lòng càng thêm oán hận, ganh ghét, rất nhiều lần sàm tấu với vua. Nhưng vua ngược lại còn quở trách:
–Ngươi thật hiểm độc, xúc xiểm, vu khống đức hạnh của Dung hậu, người luôn giữ gìn tiết hạnh đáng quý.
Trong tâm của Chiếu Đường rất oán ghét chỉ muốn làm hại hoàng hậu Cai Dung nên bí mật tâu vua:
–Hoàng hậu Cai Dung thường sai người hầu đến chỗ Đức Phật giao tình phóng đãng, có ý dâm dật, bất chánh. Thiếp tình cờ bắt được, vì lòng
Nhà vua cũng bắt đầu sinh lòng nghi ngờ hoàng hậu Cai Dung. Chiếu Đường trong lòng mưu tính thầm nghĩ: “Dò xét cô ta trong ngày trai giới thì tất biết mà thôi”. Chiếu Đường cho người dò xét ngày trai giới của Dung hậu. Đúng ngày trai giới ấy trong cung có tiệc vui, Chiếu Đường liền tâu với đức vua:
–Hôm nay là ngày vui, Bệ hạ nên mời hoàng hậu Cai Dung đến dự.
Nhà vua truyền tuyên chiếu mời. Mọi người theo lệnh vua đều đến dự hội chỉ có Hoàng hậu Cai Dung vì đang giữ trai giới nên không vâng lệnh đến dự. Nhà vua cho người mời đến ba lần nhưng Hoàng hậu vì giữ giới nên vẫn không đến. Nhà vua vô cùng giận dữ, sai người giải hoàng hậu ra khỏi phòng, trói lại trước cung, dùng xạ tiễn hành hình. Hoàng hậu Cai Dung tâm không sợ hãi, vẫn một lòng hướng về Đức Phật. Nhà vua tự mình giương cung bắn, nhưng mũi tên lại bay ngược lại hướng vua. Các lần sau lần nào mũi tên cũng bay ngược trở lại hướng vua. Bấy giờ, vua vô cùng kinh hãi, hoảng sợ buông rơi cung tên, hỏi:
–Ngươi dùng pháp thuật gì mà sao làm được việc ấy?
Phu nhân tâu:
–Thiếp chỉ phụng thờ Đức Như Lai, quy y ba Bậc tôn quý. Sáng nay vâng giữ trai giới của Đức Phật, không ăn sau giờ ngọ và còn tu tập hành trì tám giới pháp, không trang điểm thân thể, có lẽ là Đức Thế Tôn thương xót nên được như vậy.
Nhà vua thốt lên:
–Lành thay! Lẽ nào lại có việc như nàng nói sao?
Nhà vua lập tức đến tinh xá bày tỏ niềm tin phục, quy kính Đức Phật. Đúng lúc đó có tin quốc gia thù địch đưa đoàn quân đông đảo, hùng mạnh xâm nhập biên giới, đức vua phải đích thân ra trận nên truyền lệnh giao cho Phạm chí Kiết Tinh quyền thống lĩnh chính sự của quốc gia. Chiếu Đường vui sướng nói:
–Cha ta đang nắm giữ việc quốc chính, ta chắc chắn giết y thị được thôi.
Sau khi đức vua ra trận, cô ta cùng cha lập mưu thiêu chết Cai Dung và các vị thị nữ của nàng, rồi tuyên bố dối trá là họ bị nạn lửa thiêu chết. Cả hai cha con cho là có thể giấu kín được độc kế nhưng sự việc bị phát hiện, nhà vua vô cùng phẫn nộ, đuổi Kiết Tinh ra khỏi nước, vì ông ta là tu sĩ Bà-la-môn nên được tha tội chết; còn Chiếu Đường và đồng bọn đều bị giam vào hầm tối dưới đất. Sau đó, nhà vua truyền lệnh dẹp trừ tà giáo, rộng truyền Phật pháp khắp nơi.
Khi ấy, các vị Tỳ-kheo từ tòa ngồi đứng dậy thưa hỏi Đức Phật:
–Hoàng hậu và các vị thị nữ tinh tấn như vậy, đã thấy chân lý đạt được Sơ quả Tu-đà-hoàn, không rõ vì tội gì mà bị lửa hại mạng? Cúi mong Đức Thế Tôn dạy rõ điều chúng con chưa hiểu.
Đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:
–Trong quá khứ, tại thành Ba-la-nại. Có năm trăm cô dâm nữ muốn mời những người nghèo hèn, đói rách để đích thân cứu tế. Vào thời đó, có một vị Bích-chi-phật tên là Ca-la đi hóa đạo, dạy bảo mọi người giữ năm giới. Nam nữ trong nước đều hướng lòng theo ngài. Năm trăm cô gái rất tức giận bảo nhau:
–Tại sao ông ấy đến đây làm mất khách của chúng ta?
Tất cả đều sinh tâm oán giận nên bàn kế để hãm hại ngài. Hôm sau Đức Phật Ca-la vào thành theo thứ tự khất thực đi đến nhà của các cô dâm nữ. Các cô gái rất phẫn nộ cùng chạy ra lấy than củi đang cháy trong lò ném vào người Đức Ca-la, làm thân ngài bị cháy bỏng mà trong lòng không chút hối hận. Đức Ca-la liền hiện thần túc bay lên hư không. Các cô gái hoảng sợ, khóc lóc, hối hận vì tội lỗi đã làm, quỳ thẳng đầu hướng lên cao bày tỏ:
–Chúng con ngu si không biết Đấng Tối Chân, thật là dại khờ mê muội nên làm tổn hại đến Bậc
Thánh. Chúng con tự biết đã phạm rất nhiều lầm lỗi, tội ác như núi. Cúi mong Ngài xót thương tha thứ để chúng con được tiêu trừ tội lỗi nặng nề.
Theo lời khẩn thỉnh, Đức Ca-la liền hạ thân xuống và nhập Niết-bàn. Các cô gái cùng nhau xây tháp cúng dường xá-lợi.
Đức Thế Tôn dạy tiếp:
–Các dâm nữ lúc đó nay chính là hoàng hậu Cai Dung và các thị nữ. Tội hay phước đều theo đuổi con người, dù lâu xa nhưng không có gì là không báo ứng rõ ràng.
Khi Đức Phật thuyết bài pháp ấy, tất cả người già trẻ trong nước đều hoan hỷ, tin tưởng vâng theo lời Phật dạy, quy y Ba ngôi báu, nhận lãnh giới pháp rồi ra về.
Đức Phật và các vị Tỳ-kheo cũng trở về tinh xá Kỳ hoàn tại nước Xá-vệ.
Bấy giờ Đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ-kheo Tăng đến trụ tại tinh xá dòng họ Thích, nước Ca-duy-la-vệ. Khi ấy Đại Ái Đạo Cù-đàm-di đi tới chỗ Phật ngự, cúi đầu kính lạy rồi đứng qua một bên, chắp tay bạch:
–Con nghe người nữ tinh tấn tu học có thể đạt được bốn đạo quả Sa-môn nên mong được nhận lãnh giáo pháp và giới luật của Đức Phật. Con ở tại nhà luôn nuôi dưỡng lòng tin nay mong được rời khỏi đời sống gia đình học đạo.
Đức Phật dạy:
–Hãy thôi đi! Cù-đàm-di, thật không an lạc cho nữ giới khi phải khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta, vận pháp y và sống trọn đời Phạm hạnh thanh tịnh giải thoát.
Cù-đàm-di thỉnh cầu đến ba lần nhưng Đức Phật vẫn không chấp thuận nên bà đến trước Đức Phật đảnh lễ, nhiễu quanh rồi ra về.
Sau đó không lâu, Đức Phật cùng các vị đại Tỳ- kheo Tăng từ tinh xá dòng họ Thích đi vào thành Ca-duy-la-vệ. Nghe tin Đức Phật và các vị đệ tử theo sau vào thành, Đại Ái Đạo trong lòng vô cùng mừng vui vội đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân Ngài, thỉnh cầu lần nữa:
–Con nghe người nữ tinh tấn học đạo có thể chứng đắc bốn đạo quả Sa-môn nên nguyện được lãnh nhận giáo pháp và giới luật của Đức Phật. Con ở tại nhà luôn có niềm tin với Phật pháp, nay mong muốn được xuất gia học đạo.
Đức Phật dạy:
–Nên thôi đi! Cù-đàm-di, thật không an lạc cho người nữ khi phải khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta, vận pháp phục và sống trọn đời
Phạm hạnh thanh tịnh giải thoát.
Đại Ái Đạo ba lần cầu khẩn nhưng Ngài vẫn không chấp nhận nên đến trước đảnh lễ, nhiễu quanh Đức Thế Tôn rồi ra về.
Đức Phật cùng các vị Tỳ-kheo ở lại nước Ca- duy-la-vệ trú mưa ba tháng. Sau khi vá sửa pháp y, Đức Phật và chư Tỳ-kheo vận y ôm bát rời vương quốc ra đi. Đại Ái Đạo cùng các vị cung phi thị nữ lớn tuổi trong cung vội đuổi theo Đức Phật.
Đến thôn Na-tư, Đức Phật dừng chân nghỉ bên bờ sông. Đại Ái Đạo liền đến trước đảnh lễ Đức Phật rồi đứng qua một bên bạch:
–Con nghe người nữ siêng năng, kiên trì tu tập có thể đạt được bốn đạo quả Sa-môn nên muốn xin được lãnh thọ giới luật và giáo pháp của Đức Phật. Ở tại nhà, con luôn có đức tin với Phật pháp, nay mong được xuất gia học đạo.
Đức Phật dạy:
–Hãy thôi hẳn đi! Cù-đàm-di, thật không an lạc cho giới nữ khi phải khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta, vận y ca-sa, sống trọn đời Phạm hạnh thanh tịnh giải thoát.
Đại Ái Đạo khẩn cầu như vậy ba lần nhưng Đức Phật vẫn không chấp nhận. Bà đến trước đảnh lễ, nhiễu quanh Đức Phật rồi lui ra, đứng ngoài ngõ. Bấy giờ cả đoàn người vận y ca-sa, đứng chân trần trên đất, khuôn diện và y phục lấm lem bụi đường, thân thể mỏi mệt, than khóc rất bi thảm.
Hiền giả A-nan thấy bá mẫu Đại Ái Đạo như thế liền hỏi:
–Cù-đàm-di, vì sao người lại vận ca-sa, đi chân trần, mặt lấm lem, y đầy bụi, có vẻ mệt mỏi và còn khóc than như vậy?
Đại Ái Đạo trả lời:
–Thưa Hiền giả A-nan, nay chỉ bởi tôi mang thân người nữ nên không được nhận lãnh giáo pháp và giới luật của Đức Phật. Do vậy mà tủi hổ thương xót cho bản thân.
Tôn giả A-nan nói:
–Thôi! Thôi đừng than khóc. Cù-đàm-di nên yên lòng. Nay hãy chờ tôi vào thưa thỉnh việc này với Đức Phật.
Hiền giả A-nan lập tức đi vào đảnh lễ dưới chân Đức Phật, quỳ thẳng bạch:
–Con từng được nghe Thế Tôn dạy người nữ nỗ lực siêng năng tu tập có thể đạt được bốn đạo quả Sa-môn. Nay Đại Ái Đạo hết lòng thành kính muốn được nhận lãnh giáo pháp và giới luật. Người ở trong cung luôn có niệm tín thành, nay mong được xuất gia học đạo. Cúi mong Đức Phật chấp thuận việc ấy.
Đức Phật dạy:
–Nên thôi đi! Này A-nan, thật không an lạc nếu Ta cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn, khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta. Vì sao vậy? Này A-nan, thí như trong một gia tộc có nhiều người nữ, ít người nam. Ông nên biết gia tộc đó chính vì thế sẽ bị suy yếu, không thể cường thạnh được. Nếu nay cho phép người nữ xuất gia, khép mình trong giáo pháp và giới luật của Ta chắc chắn sẽ khiến cho đời sống Phạm hạnh thanh tịnh của Tăng đoàn không bền vững dài lâu. Thí như một ruộng lúa đang trổ hạt chín đều gặp phải hơi sương giá rét hay khí hậu xấu sẽ làm cho những hạt lúa tốt bị hư hoại. Nay nếu Ta cho phép người nữ xuất gia, khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta chắc chắn sẽ khiến cho đạo lớn thanh tịnh của Ta không được hưng thịnh lâu dài.
Tôn giả A-nan lại thưa:
–Đại Ái Đạo hiện nay đang có tâm niệm chí thiện, rất thành kính. Từ thuở Thế Tôn ấu niên, chính người đã tự tay nuôi dưỡng, dạy dỗ cho Ngài đến lúc trưởng thành.
Đức Phật dạy:
–Đúng như vậy. Này A-nan, Đại Ái Đạo có đức tin và nhiều tâm niệm trong lành, có ân đối với Ta. Sau khi sinh Ta bảy ngày, mẫu thân của Ta đã mất, chính Đại Ái Đạo đã nuôi dưỡng cho đến khi Ta trưởng thành. Nay tại thế gian này, Ta thành Phật, cũng đã có nhiều ân đức đối với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo chính do Ta giáo hóa nên tự thân được trở về nương theo Phật, Pháp và chư Tỳ-kheo Tăng; phát khởi lòng tin Phật, Pháp và chư Tỳ-kheo Tăng; dứt bỏ được lòng nghi ngờ đối với Khổ, Tập, Tận và Đạo nên có được đức tin ấy, vâng giữ trọn vẹn giới cấm, trở thành bậc đa văn, thực hành đầy đủ hạnh bố thí, thành tựu được trí tuệ như thế và cũng có thể tự chế ngự bản thân, không giết hại mạng sống, không trộm cắp, không dâm dật, không nói dối, không uống rượu. Như thế, này A-nan, ngay cả ân đức khuyến hóa khiến mọi người bố thí, cấp dưỡng trọn đời tất cả các thứ y phục, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, thuốc men khi bị bệnh cho kẻ bần hàn cũng không bằng ân đức ấy của Ta.
Đức Phật dạy Tôn giả A-nan:
–Nếu như người nữ muốn xuất gia làm Sa-môn thì phải vâng giữ tám pháp cung kính, không được vi phạm, phải suốt đời học tập và thực hành tám pháp ấy. Ví như để đề phòng nước lũ phải khéo đắp đê ngăn chận, không cho nước lọt vào mới thôi. Nữ giới nếu vâng giữ được như vậy mới có thể khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ta.
Tám pháp cung kính là gì?
1. Người nữ đã là Tỳ-kheo-ni phải theo Tỳ- kheo Tăng đã thọ Đại giới vâng học chánh pháp.
2. Cứ mỗi nửa tháng, Tỳ-kheo-ni phải sang lễ bái, hầu thỉnh học với Tỳ-kheo Tăng đã thọ Đại giới. Tỳ-kheo Tăng và Tỳ-kheo-ni không được ở chung, sống chung.
4. Sau ba tháng an cư tại một trú xứ, Tỳ-kheo- ni phải cùng nhau tự kiểm thảo về những giới tội nghe được, thấy được và phải tự xét bản thân lầm lỗi ở điểm nào tỉnh ngộ xem xét.
5. Tỳ-kheo-ni không được hỏi và trách phạt Tỳ- kheo Tăng về những giới tội nghe và thấy được. Nhưng Tỳ-kheo Tăng đối với những giới tội nghe được, thấy được của Tỳ-kheo-ni được quyền hỏi và trách phạt, Tỳ-kheo-ni phải lập tức tự phản tỉnh.
6. Tỳ-kheo-ni có lòng cầu học đạo pháp được phép hỏi những việc về kinh, luật với Tỳ-kheo Tăng.
7. Tỳ-kheo-ni bản thân chưa đắc đạo, nếu phạm giới luật phải nửa tháng ra giữa chúng nhận tội, tự sám hối để bỏ tánh kiêu mạn.
8. Tỳ-kheo-ni dù một trăm tuổi, đã thọ đại giới đối với Tỳ-kheo Tăng trẻ tuổi mới thọ đại giới phải ngồi dưới và cung kính lễ bái.
Đó là tám pháp cung kính Ta dạy cho hàng nữ giới xuất gia, phải khép mình vào đó, không được vi phạm, phải trọn đời học tập và thực hành. Nếu Đại Ái Đạo xét thấy có thể giữ được tám pháp cung kính đó, Ta sẽ chấp nhận cho xuất gia làm Sa-môn. Hiền giả A-nan nhận lãnh, nhớ kỹ lời Phật dạy, đảnh lễ rồi bước ra báo cho Đại Ái Đạo:
–Cù-đàm-di, chớ có ưu sầu nữa! Hãy giữ trọn niềm tin sẽ được từ bỏ đời sống gia đình, xa lìa đời sống gia đình, được lãnh thọ giới pháp. Đức Phật dạy người nữ muốn xuất gia làm Sa-môn phải vâng giữ tám pháp cung kính, không được vi phạm, cần phải trọn đời hết lòng học tập và thực hành tám pháp ấy, phải giữ tâm như đề phòng nước lũ, khéo đắp bờ đê không cho nước lọt vào.
Tôn giả A-nan nói lại đầy đủ, trọn vẹn tám pháp cung kính mà Đức Phật đã truyền dạy ban bố cho bá mẫu nghe và nói rõ:
–Thế Tôn đã dạy người nữ nào có khả năng vâng giữ được như vậy có thể xuất gia, khép mình vào trong giáo pháp và giới luật của Ngài.
Đại Ái Đạo vui mừng thưa ngay:
–Thưa vâng. Tôn giả A-nan, cúi xin lắng nghe lời này của con. Ví như các cô gái thuộc bốn đẳng cấp đã tắm rửa xong, dùng hương thơm xoa thân, vận y phục trang nghiêm nhưng có người muốn cho họ thêm lợi ích, an ổn không sợ hãi nên dùng các loại hoa thơm tươi tốt và các vật báu quý giá kết thành chuỗi ngọc đem cho các cô gái ấy. Có lẽ nào họ lại không yêu thích vui sướng mang ngay lên đầu? Nay đối với tám pháp cung kính mà Đức Phật đã ban dạy, con cũng hân hoan xin được đội trên đầu vâng giữ.
Đại Ái Đạo được thọ Đại giới làm Tỳ-kheo-ni, vâng giữ và tu tập theo giáo pháp và giới luật nên đạt được quả vị Ứng chân (La-hán). Một thời gian sau, Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo cùng các vị Tỳ-kheo- ni trưởng lão cùng đi đến chỗ Hiền giả A-nan thưa hỏi:
–Thưa Tôn giả A-nan, các vị Tỳ-kheo-ni trưởng lão này đều tu tập phạm hạnh đã lâu và đều đã thấy chân lý, vậy tại sao lại phải lễ bái các vị Tỳ-kheo Tăng nhỏ tuổi mới thọ đại giới?
Tôn giả A-nan đáp:
–Hãy đợi giây lát, nay tôi sẽ vào để thưa hỏi Đức Phật.
Tôn giả A-nan đi vào, cúi đầu lạy dưới chân Đức Phật bạch:
–Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo thưa hỏi rằng các vị Tỳ-kheo-ni trưởng lão đều tu tập phạm hạnh đã lâu và đều đã thấy chân lý, vậy tại sao lại phải đảnh lễ các vị Tỳ-kheo Tăng nhỏ tuổi, mới thọ đại giới.
Đức Phật dạy:
–Hãy thôi đi! Này A-nan, phải thận trọng, không được nói lời ấy! Chỉ vì hiểu biết của ông không như tri kiến của Như Lai. Nếu Ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của Ta, tất cả Phạm chí dị học ngoại đạo và cư sĩ sẽ lấy y trải trên mặt đất, khẩn cầu các Sa-môn: “Hiền giả là bậc giới hạnh thanh tịnh cao tột. Xin Ngài hãy bước trên tấm y này để con được phước báo lâu dài về sau”.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu Ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của Ta, mọi người trong đời đều trải tóc xuống đất cầu xin các Sa-môn: “Hiền giả là bậc có đầy đủ giới, văn, tuệ, hành. Xin Ngài hãy bước lên trên tóc này để con được phước báo lâu dài về sau”.
Nếu Ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của Ta, người trong thiên hạ đều chuẩn bị đầy đủ y phục, trai phẩm, giường nằm, thuốc men chữa bệnh, và mời thỉnh: “Xin các vị Sa-môn nhận lấy, tùy ý đem về dùng”.
Nếu Ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của Ta, nhân dân ở khắp nơi sẽ kính thờ Sa-môn như thờ mặt trời, mặt trăng, như thờ Thiên thần, còn hơn cả bậc tối cao của các vị dị học ngoại đạo.
Nếu Ta không cho phép người nữ xuất gia làm Sa-môn trong đạo của Ta, chánh pháp của Như Lai sẽ được hưng thạnh cả ngàn năm.
Đức Phật lại dạy Tôn giả A-nan:
–Vì người nữ xuất gia làm Sa-môn nên làm cho giáo pháp của Ta suy vi hết năm trăm năm. Vì sao vậy? Này A-nan, vì người nữ có năm ngôi vị không thể đạt được. Năm ngôi vị ấy là gì?
Người nữ không thể đạt được quả vị Như Lai
Tối Chân Chánh Đẳng Giác.
Người nữ không thể đạt được ngôi vị Chuyển luân thánh vương.
Người nữ không thể đạt được ngôi vị Đế Thích, vua tầng trời Đao-lợi thứ hai.
Người nữ không thể đạt được ngôi vị vua cõi Thiên ma thứ sáu.
Người nữ không thể đạt được ngôi vị Phạm thiên vương ở cõi trời thứ bảy.
Năm ngôi vị ấy trên chỉ có Bậc Trượng phu mới đạt được. Bậc Trượng phu ở trong đời thành tựu Phật quả, được làm Chuyển luân thánh vương, được làm trời Đế Thích, được làm vua cõi Thiên ma, được làm Phạm thiên vương.
Đức Phật giảng xong lời đó, chúng hội đều hoan hỷ, vâng giữ lời Phật dạy để tu tập.
Bấy giờ Đức Như Lai cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo Tăng trở về nước Xá-vệ, trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc. Vua Ba-tư- nặc trong lòng thầm nghĩ: “Đức Phật vốn thuộc dòng họ Thích, trước đây rời khỏi đời sống gia đình vào núi tu tập, nay đã thành Bậc Toàn Giác Bình Đẳng Chánh Chân Tối Thượng có oai nghi
Phạm tướng vi diệu, khiến Trời, Rồng, Quỉ, Thần đều tôn thờ kính ngưỡng. Ngài vì mọi người giảng dạy giáo pháp, lời đầu, lời giữa và lời cuối đều thiện. Những ai được nghe pháp của Ngài giảng đều hoan hỷ, tu tập phước đức, ngăn chận tai ương; lời Ngài giảng dạy đưa đến Niết-bàn”.
Nhà vua lập tức chuẩn bị rời cung, dẫn quan quân theo hầu như thường lệ lên đường đến nơi Phật ngự. Khi đến trước tinh xá, đức vua xuống xe cùng các quan đi vào, đến trước Đức Phật, đứng thẳng, chắp tay vái rồi ngồi xuống, bạch:
–Tôi được nghe Đức Thích-ca tu tập trong sáu năm, nay đã thành đạo có hiệu là Phật, điều đó có thật không? Hay là do người đời ca tụng?
Đức Phật bảo nhà vua:
–Ta thật là Phật. Người đời không phải truyền tụng điều không thật.
Nhà vua liền hỏi:
–Thưa Đức Cù-đàm, phải chăng danh hiệu Phật là do Ngài tự xưng chứ Ngài chẳng phải là Phật?
Đức Phật trả lời nhà vua:
–Lâu xa về trước, trong quá khứ có một vị Phật hiệu là Định Quang đã thọ ký cho Ta: “Trong tương lai, chín mươi mốt kiếp nữa, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Văn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, có mười tám pháp đặc thù vi diệu[20], mười loại trí lực và bốn đức vô úy. Nếu thiếu một trong những pháp ấy, không thể gọi là Phật. Ta nay đã có đủ các pháp ấy, vì vậy Ta là Đức Như Lai, Bậc Giác Ngộ Chân Chánh không còn cấu nhiễm.
Trong lòng vua vẫn còn nghi hoặc nên chất vấn Đức Phật:
–Cù-đàm tuổi vẫn còn nhỏ, học đạo lại chưa bao lâu. Vì sao được như vậy? Ở đời có những vị Bà-la-môn tu tập theo đạo thờ nước, thờ lửa siêng năng, cực khổ không kể ngày đêm. Chín mươi sáu vị Bà-la-môn không có điều gì không thông suốt. Có sáu vị tuổi cao đức lớn như Bất-lan Ca-diếp..., danh tiếng vang dội khắp nơi còn chưa được thành Phật. Phật là Bậc vô cùng tôn quý. Đem việc này để so với lời Ngài nói, tôi thật nghi ngờ, không tin được.
Đức Phật bảo nhà vua:
–Nay Ta sẽ vì đức vua giảng bày nghĩa lý chân thật. Đức vua nên lắng nghe thật kỹ, chớ có nghi ngờ.
Nhà vua nói:
–Thật là tốt lành!
Đức Phật dạy nhà vua:
–Có bốn điều nhỏ nhưng không thể coi thường.
Bốn điều ấy là gì?
Một là vị Thái tử tuy nhỏ nhưng tương lai sẽ là một đấng quân vương. Với người ấy không thể coi thường.
Hai là một đốm lửa tuy nhỏ, nhưng sẽ thiêu rụi cỏ cây, chừng nào cháy hết mới thôi. Với đốm lửa ấy không thể coi thường.
Ba là con của loài rồng tuy nhỏ nhưng sẽ có thể tạo ra mưa gió, giông tố, sấm sét... Với con rồng nhỏ đó, không thể coi thường.
Bốn là vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi, nhưng đã đạt được tuệ giác, thấy rõ ràng con đường giải thoát, có thể giảng dạy, độ hóa khắp nơi làm cho mọi người đều giải thoát. Với vị Tỳ-kheo ấy, không thể coi thường.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì vua nói bài tụng:
Thái tử tròn phước
Sẽ thành quốc quân
Kẻ ngu khinh mạn
Vướng họa vào thân
Chính do tâm khởi
Niệm trọng niệm khinh.
Hạnh tròn quả mãn
Phước tự theo mình
Trước xét cội đức
Sau mới quán nhân
Đạo vốn như thế
Đại vương thẩm tư.
Đốm lửa gặp cỏ
Sẽ cháy vô cùng
Tu-di, núi báu
Từ đồi nhỏ sinh
Bậc trí quán vật
Lớn nhỏ không phân
Không tránh rồng nhỏ
Độc hại tự thân.
Tỳ-kheo trừ ác
Tĩnh lự chuyên cần
Thành tựu đạo trí
Độ khắp chúng nhân.
Đạt Kiến đế –không nhiễm
Năm đường hiểm – đã vượt
Ta hiện tại cõi đời
Vì chúng sinh trừ khổ.
Nhà vua nghe xong lời pháp vi diệu ấy, trong lòng vốn còn đầy phiền não, lậu hoặc nên vẫn nghi ngờ, chưa tỉnh ngộ. Vua liền đến trước lạy dưới chân Đức Phật, cáo từ trở về cung.
Lúc bấy giờ, trong nước Xá-vệ một vị Bà-la- môn giàu có, tài sản đầy ắp vật báu, tuổi đã cao mà chẳng có con nên hết lòng cầu khấn. Không bao lâu sau, vợ ông sinh được một đứa con trai. Khi lên bảy tuổi, cậu bé mắc bệnh rồi chết. Người cha trong lòng đau đớn, sầu khổ, đứng nằm không yên, chẳng màng đến việc ăn uống. Nghe đồn Đức Phật có thể giải tỏa được mọi tâm trạng sầu khổ, ưu tư, vị ấy vội đi đến tinh xá Kỳ hoàn.
Đức Phật hỏi vị Phạm chí:
–Ông có điều buồn lo, bối rối gì mà khuôn mặt hốc hác, gầy gò như vậy?
Vị Bà-la-môn thưa:
–Tuổi con đã cao, chỉ có một đứa con trai duy nhất nhưng nó vừa mới chết, bỏ con lại một mình khiến lòng con vô cùng buồn thương, đau đớn.
Đức Phật bảo vị Phạm chí:
–Con người vì có yêu thương nên mới bị lo buồn, thương xót.
Trong lòng đang mê loạn nên vị Phạm chí liền thưa với Đức Phật:
–Trong niệm vui của sự yêu thương, có điều gì khiến ta phải thương xót, buồn khổ đâu?
Đức Phật nói:
–Chẳng phải như vậy.
Thế Tôn lập lại lời ấy đến ba lần nhưng vị Bà- la-môn vẫn không thông suốt. Vị ấy liền chạy ra khỏi tinh xá Kỳ hoàn, gặp hai người đang đánh bạc, trong lòng suy nghĩ: “Chắc họ là người trí, có thể giải tỏa được mối nghi của ta”. Ông ta liền hỏi hai người ấy:
–Yêu thương là vui hay là buồn khổ? Họ lập tức trả lời:
–Tất cả niềm vui trong cuộc sống không có gì hơn là sự yêu thương.
Phạm chí bảo:
–Tôi gặp Đức Cù-đàm nhưng vị ấy đã nói ngược lại.
Hai người kia lên tiếng bảo:
–Sa-môn Cù-đàm đi ngược lại đời, mê hoặc con người. Ông cần cẩn thận, đừng có tin ông ta.
Người ngu trong nước cùng nhau chê cười lời Đức Phật. Câu chuyện truyền đến tai vua, khiến nhà vua hiểu lầm liền cho mời Hoàng hậu Mạt-lợi đến bảo:
–Cù-đàm thật đáng cười, lập luận ngược đời, vô lý. Sao lại có chuyện yêu thương sinh ra buồn khổ được?
Phu nhân Mạt-lợi tâu:
–Đức Phật không bao giờ nói điều gì sai lầm.
Lời dạy đó thật ra là đúng như thế.
Nhà vua liền nói:
–Nàng tôn kính quý trọng Cù-đàm đến như vậy nên mới tin lời của vị ấy mà thôi.
Hoàng hậu tâu vua:
–Sao ngài không tự đến hoặc sai vị nào có trí đến chỗ Đức Phật để thưa hỏi việc này, để chứng thật sự điên cuồng, mê hoặc của người đời.
Nghe xong lời nói ấy, đức vua liền cho gọi một vị đại thần có trí tên Na-lợi-thẳng đến truyền lệnh:
–Ông hãy nhân danh ta đến thưa hỏi Đức Cù- đàm: “Người đời ngu si, mê hoặc, truyền miệng sai lầm lời dạy của Thế Tôn, phê bình ngang ngược rằng: Yêu thương mà lại sinh ra buồn khổ. Điều đó thật là quái gở, nghịch lý. Do vậy, nhà vua sai sứ giả đến để báo tin và cúi nghe Đức Phật giáo hóa”. Nếu Đức Phật có dạy điều gì ông phải ghi nhớ thật kỹ.
Vị đại thần vâng theo lệnh vua lập tức đến tinh xá Kỳ hoàn. Sau khi lạy Đức Phật xong đứng dậy, vị đại thần tiến tới phía trước Đức Phật, quỳ xuống bạch:
–Quốc vương Ba-tư-nặc cúi lạy trước tòa, xin thỉnh vấn Đức Phật về một điều mà Quốc vương chưa hiểu rõ. Cúi mong Thế Tôn chỉ dạy, giảng rõ ý nghĩa thật sự.
Đức Như Lai bảo vị đại thần ngồi xuống, Ngài dạy:
–Cội gốc của yêu thương là dòng nước trong chốn vực thẳm sâu không đáy. Mọi phiền não lo buồn, sầu khổ đều là do yêu thương mà ra.
Ngài lại dạy vị đại thần:
– Nay Ta hỏi ngài, ý ngài hiểu thế nào thì trả lời thế ấy. Ví dụ như có một người, cha mẹ đã qua đời, vợ con cũng đều chết, tài sản bị quan tịch thu, có phải là không có sự đau khổ nào hơn nỗi đau phiền muộn, buồn thương của người đó không?
Vị đại thần thưa:
–Thưa vâng, đúng như lời Đức Thế Tôn dạy.
Đức Phật lại dạy tiếp:
–Ngày xưa có một người sống trong cảnh bần cùng khốn khổ cưới được người vợ trong một gia đình giàu có. Gia đình vợ lười biếng, không có phương kế để làm ăn nên gia cảnh ngày càng suy sụp nghèo khổ. Đã cùng khốn mà còn phải lo lót quan trên nên gia đình muốn bắt người vợ tái giá. Người vợ nghe gia đình bàn luận, liền nói lại cho chồng: “Gia đình thiếp có quyền thế chắc chắn họ sẽ buộc thiếp xa chàng. Chúng ta phải tính sao đây?”. Người chồng nghe xong lời ấy bèn dẫn vợ vào phòng nói: “Nay anh muốn chúng ta cùng chết một chỗ”. Anh ta lập tức giết vợ rồi quay ngược dao tự vẫn.
Đức Phật bảo Na-lợi-thằng:
–Vì yêu thương mà giết nhau, đâu phải chỉ có ưu sầu, buồn khổ thôi.
Vị đại thần vâng nhận lời Phật dạy, đảnh lễ rồi trở về cung tuyên lại đầy đủ lời dạy của Đức Phật. Nhưng tâm vua vẫn không tỉnh giác, còn chê cười lời dạy ấy, nói với hoàng hậu Mạt-lợi:
–Vì sao Cù-đàm lại nói lời ấy? Hoàng hậu tâu với nhà vua:
–Nay thiếp muốn thưa một việc này, mong rằng bệ hạ sẽ hiểu rõ được lời dạy ấy.
Vua bảo:
–Nàng hãy nói. Hoàng hậu hỏi vua:
–Vương quốc ta hiện có hai vùng lãnh địa là Ca-di và Câu-đạt-lô. Nếu có người tâu với Bệ hạ: “Hai vùng lãnh thổ ấy đã bị vua nước khác chiếm đoạt”, Bệ hạ sẽ như thế nào?
Đức vua bảo hoàng hậu:
–Sự phồn vinh và an lạc của nước ta là nhờ hai vùng đấy ấy. Nếu có việc đúng như lời nàng nói, ta sẽ rất buồn lo.
Hoàng hậu lại hỏi:
–Nếu như thái tử Lưu Ly và công chúa Kim Cang bị bệnh hay bị chết, Bệ hạ sẽ làm như thế nào?
Nhà vua đáp trả lời:
–Nếu như vậy thì ta khó lòng chịu nổi! Hoàng hậu thưa vua:
–Đó có phải là yêu thương làm phát sinh lo lắng, buồn khổ không?
Rồi hoàng hậu hỏi tiếp:
–Tiện thiếp xấu xí, được hầu hạ dưới trướng Bệ hạ, nếu một mai bị bệnh mà chết, Bệ hạ sẽ như thế nào?
Nhà vua đáp:
–Này Mạt-lợi, nếu vậy thì lòng ta sẽ mê loạn, đời ta sẽ thật trống trải.
Hoàng hậu lại thưa vua:
–Đó có phải là yêu thương làm phát sinh buồn lo, khổ não không?
Ngay khi ấy tâm vua được thông suốt, liền bước xuống giường từ xa hướng về tinh xá Kỳ hoàn đảnh lễ, phát tâm quy y Ba bậc tôn quý, sám hối lỗi lầm, nguyện trọn đời tôn kính vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn.
Đức Phật trụ tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ, đang giảng dạy chánh pháp cho đông đủ Tăng chúng.
Nhân ngày rảnh rỗi, vua Ba-tư-nặc đi đến nơi Phật ngự. Đến nơi, vua xuống xe, cất lọng, vòng tay tiến đến trước Đức Phật cúi lạy sát đất rồi lui về chỗ ngồi.
Đức Phật hỏi nhà vua:
–Đại vương từ đâu đến đây mà y phục nhàu nát, dáng người tiều tụy vậy?
Nhà vua liền rời chỗ ngồi, gạt lệ bạch:
–Hoàng thái hậu, mẹ con vừa từ giã cõi đời. Con theo hầu, đưa tiễn hoàng cữu đi an táng, lo liệu xong con mới trở về. Gần đây được Đức Thế Tôn hạ cố quang lâm đất nước quê mùa của con, lòng con hiện đang đau thương sầu khổ, đang mong mỏi lời dạy của Thế Tôn. Tánh con ngu ám, tâm con bị mê hoặc bởi những lời sai quấy, đến nay mới được giải tỏa, chính nhờ lời dạy sáng suốt, chí lý của Đức Thế Tôn: “Ưu bi khổ não đều do ân ái mà ra”. Mỗi khi nghĩ tới lời giáo huấn ấy, con nghĩ đó thật là điều thế gian khó được nghe.
Đức Thế Tôn bảo nhà vua:
–Đại vương hãy trở lại chỗ ngồi và lắng lòng nghe kỹ.
Đức vua thưa:
–Dạ vâng!
Đức Phật dạy:
–Chúng sinh không luận là già hay trẻ, giàu hay nghèo, đã mang thân này đến ngày mạng chung, không ai không bị chia ly, tan rã. Ví như hoa mùa xuân màu sắc không thể tươi mãi, khi kết hạt thì hoa rụng, lúc quả chín thì hoa lìa cành. Núi báu Tu- di đến khi kiếp tận cũng phải tan nát. Đại dương bao la sâu thẳm còn có lúc khô kiệt. Mạng sống con người vô cùng nguy cấp, người có trí không trông cậy vào nó, chỉ có tu tập đức hạnh, tinh chuyên hành đạo.
Đức Thế Tôn nói bài tụng:
Thân mạng như quả chín
Thường lo sợ rụng rơi
Do sinh nên có khổ
Không chết, nào có ai.
Như dòng sông chảy xiết
Lắng chìm vào đại dương
Mạng người cũng như thế
Tan hủy không hoàn quy.
Đức Phật lại dạy vua:
–Vua Giá-ca-việt-la thống lĩnh bốn cõi, khi đi tuần tra có bảy báu theo cùng, tuy thọ một ngàn tuổi cũng không tránh được cái chết. Các vị trời phước đức khi muốn ăn thì các món ăn tự hiện, đến khi phước hết cũng phải mạng chung. Tỳ- kheo phá ác, nội tâm hoàn toàn trú trong thiền định, không dao động trước vinh hoa, lợi dưỡng, ý chí kiên định như núi, thành bậc Chân nhân có uy thần mà còn phải diệt độ. Đức Như Lai dùng phương tiện trí ứng hiện thân tại thế gian, báo thân của Như Lai như Kim cang, hào quang chiếu sáng hơn ngàn thế giới, trùm khắp cõi cứu độ chúng sinh. Bậc Hùng Sư có đủ mười lực tại thế gian còn thị hiện nhập Niết-bàn. Người thế gian, sinh mạng chẳng lâu dài nhanh như ánh chớp, mau như cơn gió thoảng qua, vương vị vinh hiển chỉ như giấc mộng mà thôi. Suy xét từ xưa đến nay, con người từ vô thỉ đã luân chuyển không dừng trong năm đường. Nếu thấy được sự thật giải thoát nên quay về với chân lý.
Đức Phật vì vua nói bài tụng:
Như sông chảy xiết
Trôi qua chẳng lại
Cũng thế mạng người
Mất không hoàn cố
Dẫu ngàn tuổi thọ
Chết tránh được đâu.
Hợp tất phải ly
Lấy gì nương tựa
Ba cõi không an
Thảy đều tan rã
Khoái lạc cõi trời
Phước vong đọa xứ.
Tâm bền tợ đất
Đức nặng dường non
Bậc thánh vô nhiễm
Tịch lặng thần thâu.
Báo thân phước đức
Sở nguyện tròn đầy
Phương tiện Như Lai
Nê-hoàn thị hiện.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc lại bạch Phật:
–Sao gọi là tự yêu thương bản thân? Sao gọi là tự phòng hộ bản thân?
Đức Phật dạy:
–Câu hỏi ấy thật là tốt lành! Đại vương hãy lắng nghe. Con người sinh ở thế gian, do tứ đại hợp thành, tâm tánh ngu si, chất chứa phiền não nên phạm các lỗi lầm sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, không tin đạo hạnh. Đó là không tự yêu thương bản thân. Nếu huân tập điều thiện, làm điều nhân, tuệ quán thế gian chẳng phải thường tồn, tin rằng chết rồi lại sinh, lòng tưởng nhớ ba bậc tôn quý, vâng theo giới để nhiếp tâm, giữ đức tin đạo thuần thục, giữ lễ độ bằng niệm khiêm cung, hiếu thuận chí thành. Người ấy ở tại thế gian là bậc biết tự yêu thương bản thân. Người biết tích lũy công đức lành, thân không làm điều sai quấy, quyết chí tu tập hành trì theo đạo giải thoát sẽ được chư Thiên tại cõi trời theo hộ vệ, không luận là nam hay nữ, các hành nghiệp đã làm đều tự thân hưởng thọ, binh đao không thể làm thương tổn, hổ dữ không thể làm hại. Phương pháp tự phòng hộ bản thân chỉ có vâng giữ giới hạnh.
Đức Phật vì vua Ba-tư-nặc nói bài tụng:
Người làm việc ác
Khoái ý ngu si
Không thể tự tỉnh
Lãnh khổ về sau
Sinh hạnh chẳng lành
Chết đọa ác đạo
Vào ngục vô gián
Không chỗ tựa nương.
Người biết thương thân
Cẩn tâm gìn giữ
Điều thân theo chánh
Phước cảm chư Thiên,
Bậc có tín hành
Được Thánh khen ngợi
Thương thân như thế
An lạc, không lo.
Hạnh ác hại thân
Kẻ ngu xem dễ
Hành thiện thật an
Người ngu cho khó.
Tin pháp, trì giới
Trí tuệ trau giồi
Chư Thiên hộ vệ.
Bậc trí thích Từ
Không tà, nhân, ái
An ổn không lo
Diệt trừ phẫn nộ
Do đó thoát khổ.
Đức vua nghe xong bài pháp, tâm niệm u mê, sai lầm được giải tỏa liền đến trước Đức Phật nhận lãnh năm giới. Quan quân theo hầu đều phát khởi tâm đạo. Trời, Rồng, Quỉ, Thần đều vui thích lắng nghe.
Bấy giờ Đức Thế Tôn trú tại khu lâm viên Kỳ- đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ thuyết pháp cho hội chúng rất trang nghiêm gồm có đầy đủ: trời, rồng, quỉ, thần và bốn chúng đệ tử.
Khi ấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp tóc xõa, y rách, đến nơi Phật ngự. Đức Thế Tôn từ xa trông thấy cất lời khen:
–Thật tốt lành! Này Ca-diếp, Ta đã để sẵn nửa tòa ngồi. Hãy đến đây cùng ngồi.
Tôn giả Ca-diếp tiến tới trước, cúi đầu mặt lạy Đức Phật, rồi lui lại, quỳ xuống, bày tỏ:
–Con là đệ tử đức hạnh hèn mọn của Đức Như Lai. Ngài xót thương chia nửa tòa ngồi cho con nhưng con chẳng dám vâng lệnh.
Tất cả hội chúng đều nghĩ: “Vị tu sĩ Trưởng lão này có đức hạnh gì đặc biệt mà khiến Đức Thế Tôn chia nửa tòa bảo ngồi. Người ấy chắc phải là bậc tài trí bậc nhất, điều này chỉ có Đức Phật mới tỏ tường”.
Sau khi quán sát tâm niệm mọi người, Đức Như Lai muốn giải tỏa sự nghi ngờ của họ. Ngài bèn luận giảng rộng về công hạnh lớn lao ngang với bậc Thánh. Đức Thế Tôn dạy:
–Ta đạt được Tứ thiền, trú tâm vào tĩnh lự, từ đầu đến cuối không thoái giảm. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng có Tứ thiền, do tĩnh lự mà tâm ý định tĩnh. Ta đạt được tâm đại từ, nhân ái với tất cả chúng sinh. Bản tâm của Ca-diếp cũng có lòng Từ như vậy. Ta đạt được lòng đại bi, cứu độ chúng sinh. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng có lòng đại bi như vậy. Ta trụ trong
Tứ thiền tam-muội, tự thân luôn tịnh lạc suốt ngày đêm. Bốn Tam-muội ấy là gì?
1. Vô hình tam-muội.
2. Vô lượng ý tam-muội.
3. Thanh tịnh tích tam-muội.
4. Bất thoái chuyển tam-muội.
Tỳ-kheo Ca-diếp cũng có Tam-muội ấy. Ta vốn ưa thích Lục thông, nay đã đạt được. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng đắc được Lục thông. Lục thông là gì?
1. Tâm luôn nhớ nghĩ về Tứ thần túc.
2. Biết tất cả niệm của con người.
3. Tai nghe rất tinh diệu.
4. Thấy được nguồn cội của chúng sinh.
5. Biết chúng sinh do hạnh nghiệp mà đi về đâu.
6. Các lậu đều tận diệt.
Nay Ta đã đạt pháp vô úy, là Bậc Tôn quý nhất trong ba cõi. Ta trú trong Tứ định để xiển dương chánh pháp tối thượng. Tứ định là gì?
1. Giải định.
2. Trí định.
3. Tuệ định.
4. Giới định.
Thân tâm Ta hoàn toàn vắng lặng, tuyệt đối thanh tịnh, không có niệm tưởng buồn vui, dứt hẳn cội nguồn sinh tử. Tỳ-kheo Ca-diếp cũng được như vậy.
Đức Thế Tôn lại dạy:
– Lâu xa về trước, trong quá khứ có một vị Thánh vương tên Văn Đà Kiệt, đức hạnh cao tột chói sáng trong đời, công đức làm cảm động đến vua Đế Thích ở tầng trời Đao-lợi. Đế Thích khâm phục đức hạnh khó có của vị ấy nên ra lệnh ngựa xe, đến cung để rước vua. Khi vua vừa bước lên thiên xa, xe trời bỗng nhiên bay lên hư không. Trời Đế Thích ra nghênh rước cùng ngồi chung với vua, vui chơi hết sức vui thích rồi đưa vua trở về cung.
Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
–Trời Đế Thích lúc đó là Đại Ca-diếp, còn vua Văn Đà Kiệt chính là thân của Ta. Xưa kia Đế Thích dùng tòa sinh tử sợ hãi mời Ta cùng ngồi. Nay Ta dùng tòa Chánh pháp Chân thật Tối thượng báo đền công đức xưa.
Đức Phật nói về bổn hạnh trong quá khứ hiển bày rõ Thánh đức. Tỳ-kheo Ca-diếp và tất cả chúng hội đều được giải thoát, cùng phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh chân. Giáo pháp vang truyền khắp nơi, không ai không an lạc.
Đức Phật từ nước Ca-duy-la-vệ cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đến nước Bạt-kỳ để độ nhân dân xứ ấy. Khi đến thành Duy-da-ly[22], Ngài đi tới vườn cây của Nại nữ. Trong thành có người con gái tên A-phàm-hòa-lợi nghe Đức Phật đến giáo hóa, vô cùng vui mừng liền sửa soạn cùng với năm trăm cô gái ra đón.
Đức Phật truyền dạy các vị Tỳ-kheo:
–Các ông hãy khép mắt, giữ ý chánh niệm, chớ có vọng tưởng ngoái nhìn, vì sắc dục làm mê loạn con người, chỉ có đạo mới có thể chế ngự tình cảm, kiểm soát tâm ý. Bậc có trí mới làm được như vậy. Nay có cô gái tên A-phàm-hòa-lợi cùng với năm trăm cô gái khác muốn được nghe pháp. Các ông, mỗi người phải phòng hộ, giữ gìn tịnh hạnh, chớ có buông lung tâm ý.
Các vị Tỳ-kheo đều vâng lãnh lời Phật dạy.
A-phàm-hòa-lợi đi đến trước cửa, xuống xe, chắp tay để trước ngực, cúi đầu đi thẳng đến trước, đầu mặt sát đất đảnh lễ Đức Phật rồi đứng về chỗ của nữ giới.
Đức Thế Tôn dạy:
–Thân này không tồn tại lâu dài, nhan sắc không xinh tươi mãi mãi, mạng sống con người như gió thoảng qua, có trẻ mạnh phải có già suy, chớ cậy vào nhan sắc mà làm những việc ô nhiễm. Người thế gian u mê, lầm lỗi sinh ra tai họa đều do sắc dục. Ba đường (ác) rất khổ, bậc có trí mới ngăn chận được chúng.
Các cô gái nghe Đức Phật dạy tâm được thông suốt, lòng dục ngưng tắt, khởi lên ý niệm cầu đạo, tự quy y ba Bậc Tôn quý. A-phàm-hòa-lợi rời chỗ ngồi bạch Đức Phật:
–Đức Thế Tôn đã không vì người nữ thấp hèn, cho chúng con được nghe pháp. Mong Đức Như Lai hoan hỷ cùng chư vị Tỳ-kheo Tăng sáng mai hạ cố đến chỗ chúng con thọ bữa trai thực đạm bạc. Khi ấy Đức Phật im lặng tỏ ý nhận lời. Các cô gái đứng dậy cúi đầu mặt đảnh lễ Đức Phật, vui mừng ra về.
Bấy giờ, trong thành phố có một chàng trai con nhà trưởng giả cùng năm trăm người bạn nghe Đức Phật đến đây giáo hóa, đang dừng chân nghỉ tại Nại viên liền cùng nhau đến chỗ Đức Phật để nghe pháp. Xe, ngựa và phục sức của họ đều lấp lánh năm màu rực rỡ. Ra khỏi thành, đến khu Nại viên, những người tùy tùng, xe ngựa đều im lặng đúng pháp. Đến trước cửa, họ xuống xe chắp tay tiến tới trước lễ bái, thưa bạch rồi về chỗ ngồi của nam giới. Đức Phật dạy:
–Các vị con trai nhà quý tộc, các vị có được địa vị cao sang, tôn quý, được vui vẻ theo ý muốn đều do phước đức đời trước đưa đến. Nay được gặp Đức Phật, công đức sẽ tăng thêm lợi ích.
Các chàng trai con nhà trưởng giả vui mừng rời khỏi chỗ ngồi, quỳ thẳng thỉnh Đức Phật:
–Sáng mai cúi xin Đức Thế Tôn xót thương đến chỗ chúng con dùng bữa trai thực đạm bạc.
Đức Phật liền bảo:
–Ta đã nhận lời mời trước rồi. Đức Phật không hứa thọ nhận hai lần.
Các trưởng giả tử lại bạch:
–Chúng con không rõ tên họ của người thỉnh đó là ai?
Đức Phật nói:
–Vừa rồi, Ta đã thọ nhận lời thỉnh cầu của A- phàm-hòa-lợi, sáng mai Ta sẽ đến đó.
Các chàng trai con nhà trưởng giả bạch Đức Phật:
–Họ chỉ là thường dân trong nước, có lẽ nào lại được ưu tiên?
Đức Phật dạy:
–Này các vị con trai nhà quý tộc, lòng Từ của Như Lai trải đến khắp nơi, không phân biệt giàu sang hay thấp hèn.
Các vị trưởng giả tử đến trước đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi giã từ trở về nhà. Họ đến gặp A- phàm-hòa-lợi, bảo:
–Đức Phật là Bậc Tôn quý nhất, Ngài vì lợi ích cho tất cả mọi người nên đến nước ta giáo hóa. Việc cúng dường trai thực cho Đức Phật và chúng Tăng phải dành cho chúng ta trước bởi vì nam vốn cao quý, nữ vốn thấp kém nên cô phải cúng dường sau. Phải cẩn thận! Đừng có bày biện gì để cúng dường. Vì việc ấy, chúng ta đến đây để nói với cô.
Cô gái bảo các vị trưởng giả tử:
–Các anh không nên dùng sức mạnh giàu sang, quyền quý lấn lướt người yếu kém. Nay tôi xin bốn điều, nếu các anh làm được thì tôi không dám cúng dường trước. Bốn điều ấy là gì?
Một là xin làm cho tâm tôi luôn giữ được ý niệm lành không thay đổi.
Hai là xin làm cho mạng sống của tôi tồn tại mãi không mất.
Ba là xin làm cho tài sản của tôi còn mãi không hao giảm.
Bốn là xin làm cho Đức Thế Tôn thường ở đây giáo hóa, không sang nước khác.
Các chàng trai liền nói:
–Thiện tâm rất khó giữ, mạng người cũng vậy, chúng ta thật không thể làm được.
Họ cùng bảo nhau:
–Cô gái này là người có phước, nên mới được cúng dường Đức Phật trước và thấu hiểu được lý vô thường. Thật là đáng mừng!
Có những chàng trai nhỏ tuổi trong nhóm xấu hổ vì họ phải cúng dường sau nên sinh lòng hẹp hòi, ra lệnh cho người coi chợ phải bãi chợ. A- phàm-hòa-lợi sai người hầu ra chợ mua đồ nhưng chẳng mua được gì. Nàng vào xem lại trong kho thì thấy chứa đầy mọi thứ thực phẩm, chỉ thiếu than củi. Đi tìm mãi không có, nàng liền mở kho lấy bông vải tẩm dầu thơm đốt lên nấu nướng, chuẩn bị đầy đủ các thức trai phẩm cúng dường. Sang ngày mai, đến giờ thọ trai nàng sai người đến bạch Đức Phật nhưng cửa thành lại bị đóng kín. Người ấy trở về thưa:
–Cửa thành không mở.
Biết việc này do các chàng trai con trưởng giả làm, nàng thầm nghĩ: “Đúng theo pháp, ta phải cử người đến thưa thỉnh với Đức Phật việc cúng dường đã chuẩn bị xong, nhưng làm thế nào để ra khỏi thành?” Cô liền bảo chim Anh vũ:
–Ngươi hãy đến bạch thỉnh Đức Phật.
Chim Anh vũ vâng lệnh bay ra khỏi nhà. Các chàng trai con trưởng giả liền giương cung bắn chim. Chim Anh vũ vâng lệnh đến thỉnh Phật nên được oai thần che chở, các mũi tên đều hóa thành bông hoa. Chim bay tới nơi Phật ngự, trụ giữa hư không bạch:
–Tất cả trai nghi đã chuẩn bị xong, cúi xin Đức Thế Tôn quang lâm chứng minh.
Khi ấy Bậc Chúng Hựu hiện uy nghi của Bậc Đạo Sư, chân vừa bước thì cửa thành liền mở, đất trời chấn động, loài rồng phun mưa khắp mặt đất, nhạc trời theo đó tấu lên. Các khí cụ âm nhạc tự nhiên vang rền. Sau khi thọ thực, lấy nước rửa tay xong, Đức Phật giảng dạy kinh pháp cho năm trăm vị trưởng giả tử, nàng A-phàm-hòa-lợi và năm trăm cô gái, khiến họ đều đạt được pháp nhãn và nhận lãnh năm giới. Sau đó, Đức Phật và các vị Tỳ- kheo Tăng trở về vườn cây của nàng A-phàm-hòa- lợi. Tất cả mọi người đều hoan hỷ, không ai không vui thích nghe pháp.
Đức Phật từ Duy-da-ly cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo Tăng và một ngàn vị Ưu- bà-tắc đồng đến vườn Ba-hòa-ly, nước Na-nan-đà. Bấy giờ nước ấy đang mê theo tà hạnh, phụng thờ sáu vị ngoại đạo sư. Trong thành có một vị trưởng giả giàu có tên A-di-bạt-đề-phất hết sức siêng năng phụng sự cho vị ngoại đạo sư Ni-kiền. Ông ta nghe Đức Phật đến xứ này nhưng vẫn đến chỗ Ni-kiền lễ bái như thường lệ. Ngoại đạo sư Ni- kiền hỏi:
–Ông có nghe Cù-đàm đến đây không? Trưởng giả thưa:
–Đã nghe.
Ni-kiền bảo:
–Ông hãy đến vấn nạn Sa-môn Cù-đàm một việc sẽ làm cho ông ta bị nghẹn họng.
Bạt-đề-phất hỏi:
–Việc ấy là gì mà khiến ông ta không thể trả lời được?
Ni-kiền trả lời:
–Ông hãy hỏi Cù-đàm: “Tôi nghe Sa-môn thường tụng niệm cầu nguyện cho tất cả chúng sinh đều được no đủ, nay lại hèn hạ cùng đông người đến một đất nước nghèo đói, làm phí tổn lương thực của mọi người. Điều này thật không có lợi ích gì cả!”.
Bạt-đề-phất vâng lệnh lui ra, lập tức đến chỗ Đức Phật. Nhìn thấy Phạm tướng uy nghiêm, oai đức rạng ngời của Đức Phật, chư vị đệ tử của Ngài pháp tướng oai nghi tề chỉnh, nghiêm trang, tâm trưởng giả bỗng hân hoan cung kính, vòng tay tiến đến trước Đức Phật, đứng thẳng vái chào rồi ngồi xuống bạch:
–Con muốn thưa hỏi một việc, kính mong Ngài giải thích.
Đức Phật bảo:
–Hãy nói điều ông muốn được nghe. Bạt-đề-phất thưa:
–Con được nghe Đức Cù-đàm làm lợi ích cho muôn loài, khiến cho tất cả đều được an ổn. Nhưng nay Ngài lại cùng đông người đến một đất nước nghèo đói làm tốn lương thực của nhân dân, chỉ làm hao tổn mà không đem lại ích lợi gì.
Đức Phật bảo A-di-bạt-đề-phất:
–Từ chín mươi mốt kiếp đến nay, Ta chưa nghe nói khuyên người làm việc phước đức chỉ đem lại sự hao phí của cải mà không lợi ích gì. Nhưng Ta nghe rằng sự giàu sang, an lạc vinh hiển đều do nhân hạnh bố thí trong quá khứ, chưa từng có ai hao tổn nhiều tài sản mà không có quả báo. Người làm việc nhân nghĩa, hiện tại được người đời truyền tụng ca ngợi, tương lai được sinh lên Thiên giới. Do vậy Ta thường khuyên dạy mọi người vui làm việc lành sẽ có phước báo theo thân.
Đức Phật lại dạy trưởng giả:
–Tài sản con người có tám điều nguy hại làm cho hao tổn mà không đem lại lợi ích:
Một là bị quan thu lấy.
Hai là bị kẻ đạo tặc cướp đoạt. Ba là bị lửa cháy mà không biết. Bốn là bị nước trôi.
Năm là bị oan gia trái chủ cướp giật một cách ngang ngược.
Sáu là có ruộng vườn mà không khai khẩn. Bảy là buôn bán mà không có lợi.
Tám là bị con bất hiếu lén lấy tiêu xài phung phí, vô đạo.
Tám việc như vậy rất nguy hại, khó bảo tồn. Khi tám điều tai họa này ập đến thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được. Cho nên Đức Như
Lai vì lý do đó khuyên người bố thí, đưa đến ruộng phước an ổn, vô cùng bền vững, khó thể chuyển dời, nước, lửa hay giặc cướp không thể làm hại được. Lúc mạng chung người ấy sẽ được sinh lên cõi trời, mọi thứ ăn, mặc đều tự nhiên hóa hiện.
Đức Phật dạy vị trưởng giả:
–Pháp ngữ này rất cần thiết, làm chuyển hóa sự ngu si, lầm lạc của người đời. Nếu không tin sẽ hủy hoại tập tánh thiện của bản thân, phải rơi vào ba đường (ác). Nếu có thể tỉnh giác phân biệt rõ, thay đổi nhận thức và hành động hướng tâm vào Niết- bàn, an tịnh thì con đường tu tập rất rõ ràng.
A-di-bạt-đề-phất nghe Đức Phật thuyết pháp lòng vui mừng, nội tâm định tĩnh, từ tòa ngồi đứng dậy bày tỏ:
–Con thật ngu si, trong lòng chất chứa mê hoặc, không phân biệt được nghĩa lý chân thật nên mới chất vấn điều phi pháp. Thật ra đó chẳng phải là ý thô lậu của con mà do Ni-kiền sai khiến, con phải vâng lời không thể từ chối. Mong Đức Phật rủ lòng thương, tha thứ tội lỗi của con.
Đức Phật bảo:
–Ông có thể tự tỉnh thức, phước ấy thật vô lượng.
Trưởng giả vui mừng bạch Phật:
–Tâm con mê ám khó ngộ, có điều nghi ngờ muốn được thưa hỏi.
Đức Phật dạy:
–Hãy tùy ý hỏi! Nay Ta sẽ vì ông phân biệt mọi việc.
Trưởng giả hỏi:
–Con được nghe Đức Như Lai với lòng Từ bình đẳng cứu độ tất cả, không rõ vì sao giáo pháp lại thiên lệch, lẫn lộn, không đồng. Có người đắc đạo, có người thì không đắc đạo. Lâu nay con ôm ấp mãi mối nghi này, cúi mong Đức Thế Tôn mở bày cho con.
Đức Phật dạy:
–Câu hỏi đó thật là tốt lành! Ông hãy lắng nghe và nhớ thọ trì. Ví như một nông phu có hai thửa ruộng: thửa ruộng thứ nhất ở trên cao khô ráo, đất phì nhiêu; thửa ruộng thứ hai ở dưới ẩm thấp thì đất xấu. Vào mùa xuân, người ấy vẫn ra sức cày bừa như nhau, gieo hạt đúng thời tiết, cuốc xới trừ cỏ dại. Đến mùa thu thì gặt hái nhưng sản lượng của hai thửa ruộng lại khác nhau.
Đức Phật bảo vị trưởng giả:
–Công sức người ấy bỏ ra vốn như nhau nhưng sản lượng thu hoạch lại không đồng là do đất nhiều dinh dưỡng hay ít dinh dưỡng. Những người nghe pháp của Ta, tin tưởng vâng giữ theo đó tu tập sẽ tùy theo tâm niệm mà được thành tựu đạo quả, ví như ruộng lúa phì nhiêu nên sản lượng thu hoạch được rất nhiều. Nay các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di này tùy theo tâm niệm có thể đi sâu vào thần thông không chướng ngại. Còn những kẻ nghe giảng dạy mà chống chế không tin tưởng, ví như ruộng lúa ở dưới thấp bị ngập nước, ít dinh dưỡng nên không thể sinh trưởng được. Chính là sáu vị thầy ngoại đạo ni-kiền hiện nay.
Đức Thế Tôn lại dạy:
–Ví như một người đem hai chiếc bình đi lấy nước, bình thứ nhất thì nguyên vẹn rất bền chắc, còn bình thứ hai thì bị thủng hư hoại. Khi dùng đựng nước thì chiếc bình nguyên vẹn luôn đầy, còn chiếc bình thủng thì bị chảy hết. Những người nghe giáo pháp, tinh cần tu tập, vâng giữ không phạm giới, theo lời dạy giữ gìn trang nghiêm thân, khẩu, ví như chiếc bình nguyên vẹn chứa nước được lâu dài. Còn những kẻ nghe giáo pháp, không lãnh nhận, không tin tưởng, lại còn chê bai, gièm pha, quên lãng, đánh mất tập tánh thiện của con người, sẽ phải quay trở lại đường ác, ví như chiếc bình bị lủng, không thể chứa đầy nước.
Đức Phật bảo trưởng giả:
–Ông nhờ thiện hạnh đời trước nên mới được gặp Phật. Tuy được giàu sang nhưng lại không tin tưởng giáo pháp, ví như loài hoa dại sẽ rơi rụng mà không kết thành trái được.
Trưởng giả A-bạt-đề-phất lòng mừng vui, vô cùng thành kính cất lời ca ngợi lời dạy của Đức
Phật thật là tốt lành, lời dạy thật vi diệu, lập tức phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, nhận lãnh giới pháp rồi lui ra.
Tất cả người trong nước đều phát tâm hướng đạo. Mọi tà thuật của sáu vị ngoại đạo sư bị phá bỏ. Trời, Người, Rồng, Quỉ đều ca ngợi lời Phật dạy.
Bấy giờ Đức Phật từ Ba-hòa-ly cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo trở về khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc.
Khi ấy ở giữa biên giới nước Xá-vệ có một địa phương tên Tùy-lan-nhiên, tại đó có một Bà-la- môn tên A-kỳ-đạt, là người đa trí thông minh, nhà cửa giàu có không ai sánh bằng. Một hôm, vị Bà- la-môn đi đến nhà của A-nan-bân-kỳ bàn bạc công việc. Sau khi xong việc, ông hỏi Tu-đạt:
–Hiện nay tại vùng này có vị Thánh nhân nào xứng đáng là Bậc Tôn Sư không?
Tu-đạt đáp:
–Ông chưa nghe sao? Có vị Vương tử dòng họ Thích xuất gia học đạo, nay đã thành đạo, hiệu là Phật. Hình tướng dung mạo của người đều rất đẹp, chẳng phải là bậc mà người đời dễ gặp, oai nghi của người rất đoan chánh, thanh nhã. Ngài soi chiếu làm tiêu trừ cấu nhiễm, phiền não trong tâm niệm chúng sinh; là Bậc đã thể đạt trí tuệ thần thông, biết rõ nguồn cội của muôn loài. Các vị Trời, Rồng, Thần đều thờ kính. Mỗi pháp ngữ của Ngài giảng, ý nghĩa đều rõ ràng, thuần nhất đưa đến giải thoát, không thể dùng trí tuệ le lói như đom đóm của tôi mà nói hết được.
A-kỳ-đạt được nghe đức hạnh siêu việt của Thế Tôn, trong lòng rất hồi hộp liền hỏi:
–Hiện nay Đức Phật ngự ở đâu? Tôi có thể gặp được không?
Tu-đạt trả lời:
–Ngài trụ tại tinh xá Kỳ hoàn ở gần đây, đang rộng mở tuyên bày diệu pháp.
Sáng ngày mai A-kỳ-đạt đến tinh xá Kỳ hoàn. Vừa vào cửa, nhìn thấy Phạm tướng uy nghi rạng rỡ của Đức Phật, trong lòng ông khởi lên niệm cung kính, liền tiến đến phía trước lạy dưới chân Đức Phật, rồi ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe, tâm A-kỳ-đạt rất vui mừng phấn khởi lập tức rời khỏi chỗ ngồi thỉnh cầu Đức Phật và chư vị Tỳ-kheo Tăng hứa nhận đến Tùy- lan-nhiên giáo hóa trong ba tháng.
Đức Phật dùng tuệ quán, biết rõ nhân duyên trong quá khứ nên im lặng nhận lời thỉnh cầu. A- kỳ-đạt được Đức Phật hứa nhận vội từ giã quay về nước. Trở về nhà, A-kỳ-đạt chuẩn bị, sắp xếp vật dụng, vật thực để cúng dường đều là những thứ quý giá, ngon đẹp nhất.
Đến ngày đó Đức Phật cùng năm trăm Tỳ- kheo Tăng đi tới Tùy-lan-nhiên. Ngay khi ấy A- kỳ-đạt bị thiên ma mê hoặc, lòng chìm đắm trong năm dục: 1. Vật trang sức quý báu; 2. Nữ nhạc; 3. Y thực; 4. Vinh lợi; 5. Sắc dục; nên ông ta ra nhà sau lệnh cho người giữ cửa:
– Trong ba tháng, không được tiếp khách bất kể là người sang hay kẻ hèn. Phải tuân lệnh của ta. Đức Như Lai đến nhà A-kỳ-đạt nhưng cửa đóng kín không vào được nên bèn đến nghỉ trong một ngôi nhà sát bên dưới một cây cội lớn. Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo Tăng:
–Địa phương này bị đói kém, người dân lại không ưa thích đạo, mỗi người hãy tự đi khất thực tùy theo chỗ thích hợp.
Tôn giả Xá-lợi-phất vâng lời Phật dạy, bay lên cõi trời Đao-lợi, mỗi ngày độ các thứ thiên thực tự nhiên. Ba ngày sau, chúng Tăng đi khất thực trên các cõi trời trở về. Lúc đó có một người làm nghề huấn luyện ngựa lấy bớt phần lúa mạch của ngựa dâng cúng cho Đức Phật và vị Tỳ-kheo kia. Tôn giả A-nan lấy bát đựng phần lúa mạch ấy, trong lòng đau xót nói:
–Hương vị thơm ngát trong các món thiên thực của các vị trời, các món ăn của quốc vương cúng dường, mỗi thứ đều có hương vị thơm ngon còn không thể xứng dâng cho Đức Thế Tôn. Nay loại lúa mạch này vô cùng thô dở có thể nào lại đem nó cúng dường cho Đức Phật sao?
Tôn giả đem phần lúa mạch được cúng dường đến bảo một bà lão:
–Đức Phật là Bậc vô cùng tôn kính, là Bậc Pháp Ngự trên tất cả. Nay tôi muốn làm cơm cúng cho Ngài, mong lão bà nấu giúp. Công đức ấy thật lớn vô cùng.
Bà lão trả lời Tôn giả A-nan:
–Tôi bây giờ đang bận việc, không thể nấu được.
Một bà lão ở gần đó nghe được lời ca ngợi Đức Phật, Thế Tôn bèn chạy tới xin nấu cơm hộ. Tôn giả A-nan chấp nhận liền nhờ bà lão nấu. Đức Phật độ thực xong, chú nguyện. Lòng Tôn giả A-nan như thắt lại. Đức Phật muốn giải tỏa tâm niệm của A-nan nên trao phần cơm còn lại cho Tôn giả. Ngài A-nan thấy cơm ấy có đủ trăm hương vị thơm ngon, thế gian chẳng thể có được. Tâm Tôn giả A- nan được giải tỏa, bạch Phật:
–Diệu đức của Như Lai thật không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ Đức Như Lai muốn đến nước Bạt-kỳ, nên truyền bảo ngài A-nan đến báo trước cho trưởng giả A-kỳ-đạt. Tôn giả A-nan vâng lệnh lập tức đến báo tin. A-kỳ-đạt tâm ý vẫn chưa tỉnh ngộ thấy Tôn giả A-nan đi đến, liền hỏi:
–Đức Như Lai hiện nay đang ở đâu?
Tôn giả A-nan báo tin:
–Trước đây Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của ông nên trong ba tháng qua Ngài đã trụ tại đây. Bậc Tôn quý không nói hai lời. Nay đã xong ba tháng nên đến cáo từ ông để ra đi.
A-kỳ-đạt nghe Đức Phật ban ân đến giáo hóa mà bản thân không kịp cúng dường nên lòng buồn lo lẫn lộn liền chạy đến chỗ Đức Phật, đầu mặt sát đất đảnh lễ bày tỏ:
–Con thật tội lỗi, bị màn si ám che phủ nên đã không giữ tròn lời hứa. Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi tha thứ tội nặng này của con.
Đức Phật bảo vị Phạm chí:
–Ta đã rõ tấm lòng chí thành của ông.
A-kỳ-đạt mừng vui đến trước Đức Phật bạch:
–Cúi xin Thế Tôn ở lại bảy ngày để con được cúng dường.
Vì vừa đến ngày mãn hạ nên Đức Phật nhận lời. Đến ngày đó, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng từ cõi trời đi xuống. Sau lễ tự tứ, Đức Phật sắp khởi hành đến nước Bạt-kỳ. A-kỳ-đạt đem tất cả đồ cúng dường còn dư bày ra khắp mặt đất muốn để Đức Phật dẫm đạp lên đi qua. Đức Phật bảo vị Phạm chí:
–Tất cả lương thực, lúa gạo và trai phẩm để ăn, không nên lấy chân dẫm lên trên.
Đức Phật thọ nhận sự cúng dường ấy, chú nguyện bằng bài kệ:
Phái ngoại đạo tu hành
Siêng thờ lửa tối thắng
Học vấn ngày một cao
Thông nghĩa là bậc nhất.
Mọi người đồng kính ngưỡng
Đứng đầu Giá-ca vương
Sông ngòi nguồn suối chảy
Biển lớn sâu thắng vượt,
Tinh tú trụ khoảng không
Mặt trời, trăng sáng nhất
Phật xuất hiện thế gian
Thọ thí, phước tối thượng.
Tâm A-kỳ-đạt vui mừng, giải tỏa mọi phiền não ràng buộc, liền được pháp nhãn thanh tịnh. Mọi người già trẻ ở trong nước đều phát tâm hướng theo đạo, đến trước lạy dưới chân Đức Phật rồi hoan hỷ ra về. Bấy giờ Tôn giả A-nan nương theo oai thần của Đức Phật, biết trong tâm các Tỳ- kheo có mối nghi lớn, nên bạch Đức Phật:
–Đức Như Lai thần thông diệu dụng, Tam đạt[23] rộng chiếu, biết rõ mọi tâm niệm của chúng sinh do nhân duyên gì khởi, không rõ vì sao có lúc phải ăn lúa mạch? Mong Đức Phật giảng bày để giải tỏa mối nghi của chúng Tăng.
Đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:
–Trong quá khứ lâu xa về trước, có một nước lớn tên Bàn-đầu-việt do vị vua tên Tần-đầu thống lĩnh. Vua có một thái tử tên là Duy-vệ xuất gia học đạo. Khi thành tựu Phật quả vẫn lấy tên là Duy-vệ có tướng tốt uy đức đứng đầu trong các Đức Phật ở quá khứ, giáo pháp của Ngài cũng thế, có sáu vạn hai ngàn (62.000) Tỳ-kheo theo hầu. Đức phụ vương dâng cúng trai thực cho Đức Phật và chư vị Tỳ-kheo Tăng nên cho người chuẩn bị trai lễ, trang hoàng bằng tràng phan quý nhất thế gian, trong thành được sửa sang, sắp xếp thật huy hoàng, tráng lệ. Khi ấy có một Phạm chí đức hạnh thanh cao, cùng các đệ tử có việc phải vào thành. Vị Phạm chí thấy vậy nên hỏi mọi người:
–Có lễ hội gì đặc biệt mà trang hoàng rực rỡ như vậy?
Người đi đường đáp:
–Vị thái tử con vua Tần-đầu đắc đạo, hiệu là Phật. Hôm nay vì vua và quan dân thiết lễ cúng dường nên Đức Phật sắp đến đây.
Vị Phạm chí nói:
–Người đời thật mê muội, tổn phí dâng món ăn cao sang cho vị ấy làm gì. Theo lời ông nói thì vị ấy chỉ xứng được ăn lúa mạch của ngựa.
Năm trăm đệ tử cũng đồng thanh khen thầy nói phải. Trong nhóm có một người lên tiếng can thầy:
–Lời thầy nói thật chẳng đúng. Thầy nên nói: “Đức hạnh của vị ấy thật đáng tôn kính, xứng đáng thọ nhận cơm của chư Thiên”.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
–Vị Phạm chí có đức hạnh thanh cao lúc ấy chính là thân Ta, năm trăm vị đệ tử nay chính là các ông, còn người can gián vị thầy lúc ấy là Xá- lợi-phất. Ta gieo cái nhân ấy đến nay mới hoàn trả xong.
Đức Phật dạy bảo các vị Tỳ-kheo:
–Các ông mỗi người phải giữ gìn tâm, miệng, cẩn thận chớ buông lung. Việc thiện, ác sẽ đi theo con người, dù lâu xa vẫn không mất. Cần phải tu tập trí hạnh mới có thể nhờ đó đắc đạo. Các ông theo quả báo phải hoàn trả của Ta thì tỏ tường.
Các vị Tỳ-kheo nghe pháp xong đều hoan hỷ vâng lời Phật dạy để tu tập.
❑
[1] Trong bộ Trường A-hàm, kinh này có tựa là Tứ Bộ Tăng.
[2] Đề-vị: (Pāli: Trapusa) còn gọi là Đế-lê-phú-ta, Qua-li-vị… Ba-lị: (Pāli: Bhallika) còn gọi là Bạt-lê-ca, Ưu- bà-li…
[3] Còn có tên là phẩm Thiện Lai.
[4] Hành: tạo tác của thân, miệng và ý.
[5] Bát giải thoát: Gọi tắt là Bát giải, còn gọi là Bát bội xả. Đó là tám loại thiền định để đối trị các phiền não trong Tam giới; nhằm xả ly và giải thoát khỏi sự trói buộc của chúng.
[6] Bát chủng pháp: Tám loại pháp gồm: 1. Ba Tam-muội; 2. Bốn Thiền định; 3. Bốn Vô lượng tâm; 4. Bốn Vô sắc định; 5. Tám Bội-xả; 6. Tám Thắng xứ; 7. Chín Thứ đệ định; 8. Mười Nhất thiết xứ. Tổng cộng là năm mươi pháp.
[7] Nhà Chu (một triều đại cổ của Trung Quốc) định tám thước là một nhận, tương đương với 6,48m.
[8] Tam độc: Ba thứ độc hại. Còn gọi là Tam căn. Tam độc gồm: 1. Tham độc; 2. Sân độc; 3. Si độc.
[9] Tam đạt: Ba đức thông đạt. Với A-la-hán thì gọi là Tam minh, với Phật thì gọi là Tam đạt. Tam đạt là thông đạt ba pháp Thiên nhãn, Túc mạng và Lậu tận. Đại Thừa Nghĩa chương, q.20 viết: “Biết đến tận cùng gọi là Tam đạt. Minh thì chung cả với Nhị thừa. Đạt thì chỉ riêng Như Lai mới có”.
[10] Bá Cần tức trưởng giả Ca-lan-đà, còn gọi là Ca-lan-ca. Xem kinh Trung Bổn Khởi, q.Thượng, Phẩm thứ 4: Độ vua Bình-sa.
[11] Tu-đạt, Tấn dịch là Thiện Ôn.
[12] Nhân-đề: còn gọi là Nhân-đà-la, Nhân-đạt-la, Nhân-đê, Nhân-đề-lê; tức thần mưa, sấm (Indra). Theo Huyền ứng âm nghĩa, q.32, Nhân-đề: Hán dịch là Thiên chủ, Thiên chủ Đê, cũng tức là Thích Đề-hoàn Nhân, trời Đế Thích. Đây là vị trời Hộ pháp tối cao của Phật giáo đương thời, ngang với Phạm thiên.
[13] Câu-lam-ni (Pāli: Kosambī; Sanskrit: Kausāmbi): tức Kiều-thường-di.
[14] Cù-sư-la (Pāli: Ghosira): còn gọi là Cụ-sử-la, Cồ-tư-la, Cù-sử-la. Đời Tấn dịch là Mỹ Âm.
[15] Hay Phẩm tiền thân của Hoàng hậu Cai Dung.
[16] Ưu-điền (Pāli: Udayana): còn dịch là Vu-điền, Ưu-đà-diên, Ưu-đà-diễn-na, Ô-đà-diễn-na-phạt-sai.
[17] Câu hạng: Thánh vị đầu tiên trong tứ quả A-la-hán, tức quả Dự lưu hay Sơ quả Tu-đà-hoàn (Pāli: Sotapanna, Sanskrit: śrotāpanna).
[18] Tổng trì: (Sanskrit: Dhāranī): tức niệm tuệ lực có thể tổng nhiếp, chấp trì vô lượng Phật pháp mà không thể mất. trung trực, đã nhiều lần khuyên can mà Dung hậu vẫn không bỏ.
[19] Phẩm này còn có tựa là phẩm Vô Thường.
[20] Tức mười tám pháp bất cộng (của Phật). Các pháp này chỉ Đức Phật mới có, còn hàng Nhị thừa, Bồ-tát đều không có nên gọi là Bất cộng pháp.
[21] Nại nữ: tiếng Hán dịch ý từ chữ Pāli: Ambapāli (Sanskrit: Āmrapālī). Phiên âm là A-phàm-hòa-lợi, A-phạm- bà-la, Am-bà-bà-lợi…
[22] Duy-da-ly (Pāli: Vesāli; Sanskrit: Vaisālī): còn phiên âm là Tỳ-xá-li, Tỳ-da-li (nay là Basarh).
[23] Ibid, Trung Bổn Khởi Q.thượng, p.39 & 40.
[Đầu trang][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
[Mục lục bộ Bản duyên][152][153][154][155][156][157][158][159][160][161][162][163][164][165][166][167][168][169][170][171][172][173][174][175][176][177][178][179][180][181][182][183][184][185][186][187][188][189][190][191][192][193][194][195][196][197][198][199][200][201][202][203][204][205][206][207][208][209][210][211][212][213][214][215][216][217][218][219]