BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Namo Tassa Bhagavato
Arahato Sammàsambuddhassa Con đem hết lòng thành kính
đảnh lễ Ðức Thế Tôn, CHƯƠNG I GIỚI THIỆU
ÐẠO PHẬT -ooOoo-
Bài 1:
ÐỨC PHẬT Ðức Phật là ai?
Phật là người đã đạt đến giác ngộ.
Giác ngộ ở đây muốn nói đến trạng thái lý tưởng của sự hoàn thiện cả về
tri thức lẫn đạo đức, trạng thái nầy có thể được đạt đến bởi con người và
bằng những phương tiện hoàn toàn nhân bản. Ðể làm sáng tỏ sự kiện Ðức Phật
đã đạt đến giác ngộ như thế nào, chúng ta hãy quay trở lại cuộc đời của
Ngài.
Khoảng 623 năm trước công nguyên, tại vườn
Lâm Tỳ Ni (Lumbìnì) gần kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapila-vatthu),
nơi mà ngày nay được mọi người biết đến như Padaria, một huyện lỵ thuộc
Nepal, một vị Hoàng tử dòng Thích Ca (Sakya) Ấn Ðộ, tên là Sĩ Ðạt
Ða Cồ Ðàm (Siddhattha Gotama) đã ra đời, để đánh dấu địa điểm này
như là nơi khai sinh của bậc đại đạo sư nhân loại, Hoàng đế A-Dục
(Akosa) năm 239 trước công nguyên đã cho dựng một thạch trụ khắc dòng
chữ, "Nơi đây bậc giác ngộ đã đản
sanh". Phụ thân của Ngài là
Suddhodana (Tịnh Phạn), vua xứ Ca Tỳ La Vệ, thủ phủ chính của dòng
tộc Thích Ca; và mẫu hậu, người đã chết sau khi sanh Ngài được 7 ngày, là
Mada hoàng hậu, bà cũng thuộc dòng Thích Ca. Dưới sự chăm nom săn sóc và
bảo dưỡng của di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Ðềø (Pajàpatì Gotamì), thái tử
Sĩ Ðạt Ða đã trải qua thời kỳ thơ ấu trong an lạc, xa hoa và được giáo dục
kỹ lưỡng. Năm mười sáu, Ngài kết hôn với người bà con của mình là công
chúa Da Du Ðà La (Yasodhara) con gái của vua Thiện Giác
(Suppabuddha) vua xứ Devadaha, họ có một hoàng nam tên là Rahula
(La Hầu La). Trong gần 13 năm, thái tử Sĩ Ðạt Ða đã thụ
hưởng cuộc sống vương giả của một ông hoàng Ấn Ðộ, chỉ thấy quanh mình
những cái đẹp và khả ái. Tuy nhiên, năm 29 tuổi, sự thật đã dần dần hé mở
trước mắt, Ngài nhận chân ra rằng tất cả mọi người không ngoại lệ ai đều
phải chịu sanh, lão, bệnh, tử, và rằng mọi lạc thú của thế gian chỉ là đầu
mối dẫn đến khổ đau. Thấu rõ được nỗi khổ đau chung của nhân loại như vậy,
Ngài khởi lên một khát khao muốn tìm cho ra nguồn gốc của nó, cũng như một
phương thuốc thần diệu chữa trị cho căn bệnh chung nầy. Thế là Ngài từ bỏ
đời sống trần tục để khoác vào mình chiếc y vàng giản dị của một du sĩ khổ
hạnh. Lang thang làm kẻ đi tìm an lạc cho đời,
Ngài đã tự hạ mình chịu sự hướng dẫn tâm linh của hai vị thầy Bà la môn
tiếng tăm thuở đó là A la lam (Àlàra) và Uất Ðầu Lam Phất
(Uddaka). Àlàra đạo sĩ là người lãnh đạo của một số lớn tìn đồ tại
Vesàli (Tỳ Xá Ly), ông là người trung thành với Kapilà, người sáng
lập lừng danh thời đó về hệ thống triết lý chủ trương thường hằng
(Sassata: thường hằng luận), Kapilà nhấn mạnh đến niềm tin vào bản ngã
hay linh hồn. Ông ta coi việc bất tín đối với sự tồn tại của một linh hồn
như là không có khuynh hướng hướng đến tôn giáo. Theo ông, nếu không có
niềm tin vào một linh hồn vĩnh cửu và bất tử, người ta sẽ không thể tìm ra
phương pháp cứu độ nào cả, tựa như con chim rừng hoang dã khi thoát khỏi
cái bẫy lâu nay giam giữ nó, linh hồn con người một khi đã thoát khỏi
những giới hạn vật chất của nó chắc chắn sẽ tự tại hoàn toàn, khi cái linh
hồn này nhận rõ được bản chất vô hình của mình sẽ vươn đến sự giải thoát
chân thực. Ðối với Bồ Tát thì những lời như vậy không làm cho Ngài cảm
thấy thoả mãn, thế là Ngài từ giã Àlàra để đến học đạo với Uddhaka (Uất
Ðầu Lam Phất). Vị thầy sau nầy cũng chỉ lòng vòng quanh
vấn đề cái "Ta", tuy nhiên có nhấn mạnh hơn đến hiệu quả của nghiệp
(Kamma) và sự đầu thai của linh hồn. Bồ Tát thấy học thuyết về
nghiệp của ông có cái gì đó xác thực, nhưng Ngài lại không tin nổi về sự
hiện hữu của một linh hồn cũng như sự đầu thai của linh hồn; vì vậy mà
Ngài lại giã từ Uddaka và đi đến các vị giáo sĩ Bà La Môn đang chủ toạ các
nghi lễ cúng tế nơi các đền thờ để xem ở đó Ngài có thể học được chút gì
liên quan đến phương pháp giải thoát khỏi khổ đau và sầu muộn không. Tuy
nhiên, trước những lễ hiến tế tàn ác và vô ích mà họ đang thực hiện trên
các bàn thờ thần linh khiến cho bản chất từ hoà của Ngài phải kinh tởm, và
tại đây Ngài đã giảng gải cho các vị giáo sĩ đó nghe về sự vô bổ và phi lý
của việc chuộc tội bằng cách huỷ diệt cuộc sống của chúng sanh khác, và
việc thực hành lễ nghi tôn giáo bằng cách xem thường cuộc sống đạo đức là
điều không thể chấp nhận được.
Từ Vesàli Ngài lại lên đường lang thang đi
tìm một hệ thống tốt đẹp hơn; Sĩ Ðạt Ða đã đi đến rất nhiều bậc thầy nổi
danh thời đó, nhưng không một ai có đủ trình độ để thoả mãn cho những gì
Ngài đang nhiệt tâm tìm kiếm. Tất cả những vị gọi là triết gia hay luận sư
thuở đó đều là những người đang mò mẫm trong đêm tối, họ chẳng khác nào
người mù dẫn dắt kẻ đui, vì chính họ cũng còn bị màn vô minh che phủ. Cuối
cùng Ngài đi đến nơi cư ngụ của năm người học trò của đạo sĩ Uddaka do
Kiều Trần Như (Kondanna) dẫn đầu, trong khu rừng già Uruvelà (Ưu
Lâu Tân Loa) gần Gàya (Già Da) thuộc xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha).
Tại đó, Ngài chứng kiến năm vị này đang hành pháp chế ngự các giác quan
của mình để mong làm suy giảm đi những dục vọng, và họ cũng đang hành pháp
sám hối bằng lối tu khổ hạnh. Bồ Tát rất khâm phục sự nhiệt tâm và nỗ lực
nghiêm khắc của họ, Ngài cũng đã thử nghiệm theo các pháp khổ hạnh mà họ
đang rèn luyện này, bởi vì vào thời ấy người ta tin rằng trừ khi con người
sống đời khổ hạnh nghiêm khắc, bằng không họ sẽ không thể đạt đến sự giải
thoát được. Do vậy, Ngài đã tự buộc mình vào các hình thức khổ hạnh nào mà
Ngài có thể thực hành được. Gia tăng hết hình thức cầu nguyện này đến hình
thức cầu nguyện khác, Ngài đã thực hiện một nỗ lực phi thường trong suốt 6
năm trường đằng đẵng, cho đến khi thân hình của Ngài cuối cùng phải
teo rút lại tựa như một cành cây héo úa, máu Ngài khô cạn, da nhăn nhúm và
gân xanh lộ hẳn ra ngoài, nhưng càng tự hành xác bao nhiêu thì Ngài càng
xa dần mục tiêu bấy nhiêu. Tuy vậy, những cố gắng và nỗ lực dù không thành
công này cũng đã dạy cho Ngài một bài học quan trọng, đó là tự hành xác
khổ hạnh là việc làm hoàn toàn vô bổ, không đưa đến giải thoát.
Có được kinh nghiệm quý giá này, cuối cùng
Ngài quyết định đi theo con đường riêng của mình, tránh xa hai cực đoan là
khổ hạnh và lợi dưỡng, vì lợi dưỡng có khuynh hướng ngăn trở những tiến bộ
tâm linh của con người, trong khi khổ hạnh ép xác sẽ làm suy giảm trí tuệ.
Con đường mới là trung đạo (Majjhima patipadà), tức là con đường
trung dung giữa khổ hạnh và lợi dưỡng, chính pháp hành trung đạo này sau
đó đã trở thành một trong những nét đặc thù của Phật giáo. Sáng sớm ngày trăng tròn tháng Vesàkha
(tức rằm tháng tư âm lịch), khi Ngài đang ngồi lắng sâu trong thiền
định, dưới gốc cây bồ đề, không do một quyền lực siêu nhiên nào trợ giúp
và hướng dẫn, mà hoàn toàn nhờ vào những nỗ lực của tự thân, ý thức về tuệ
giác chân thực đã chiếm hữu Ngài. Bồ Tát nhận ra các phương pháp sai lầm
mà tất cả các tín ngưỡng khác chủ trương, Ngài cũng tuệ tri được cội nguồn
từ đây khổ đau của thế gian sanh khởi và con đường dẫn đến sự diệt tận khổ
đau này. Ngài thấy ra nguyên nhân của khổ (khổ tập) nằm trong sự
chấp giữ ích kỷ vào cuộc sống, và rằng con đường thoát khỏi khổ nằm trong
việc thực hành Bát Chánh Ðạo. Với sự thấu triệt những sự thật vĩ đại này
cũng như sự chứng ngộ chân lý trong cuộc đời, Bồ Tát đã tẩy trừ hết mọi
tham dục và đạt đến giác ngộ giải thoát - như vậy Ngài đã trở thành một vị
Phật. Sau khi chứng đạt Phật quả, trạng thái
viên mãn tối thượng, Ngài đã hiến trọn phần đời quý giá còn lại của mình
để phục vụ nhân sanh, cả bằng thân giáo lẫn ngôn giáo, không vì bất cứ
động cơ cá nhân nào. Ðể tuyên thuyết bài pháp đầu tiên của mình, Ðức Phật
đã khởi hành đi Ba La Nại (Benares) nơi đây đã từng nổi tiếng trong
nhiều thế kỷ là trung tâm của cuộc sống và lý tưởng tôn giáo. Trên đường
đi Ngài đã gặp một trong những người bạn quen của mình là Upaka, một tu sĩ
theo đạo Loã Thể (Jain), bị choáng váng trước vẻ uy nghi rạng rỡ và
đầy hân hoan của Ðức Phật, Upaka đã cất tiếng chào hỏi: "Ồ! Ai là bậc đạo sư và dưới sự hướng dẫn
tâm linh của vị nào mà bạn đã từ bỏ thế gian (xuất gia) này vậy?". Ðức Phật trả lời: "Ta không có thầy, ta là Bậc Toàn Giác, là
Phật; Ta đã đạt đến an lạc, đã chứng ngộ Niết Bàn. Ðể thành lập Vương Quốc
của Chân Lý, ta sẽ đến Benares, ở đó, ta sẽ thắp sáng ngọn đèn chân lý vì
lợi ích cho những ai đang bị phủ kín trong bóng tối của sự chết và tội
lỗi". Lúc đó Upaka hỏi lại:
"Thế ra bạn tự nhận mình là Jina, bậc
chinh phục thế gian sao?". Ðức Phật trả lời: "Jina là người đã chiến thắng tự ngã và
những dục vọng của tự ngã và là những người đã tự mình chiến thắng, đã
kiểm soát được những dục vọng của mình và tránh xa tội lỗi. Ta đã chiến
thắng được tự ngã và vượt qua mọi tội lỗi. Vì thế, ta là Jina". Tại Benares, Ðức Phật gặp Kondanna
(Kiều Trần Như) và bốn người bạn đồng tu của ông ta trong vườn Lộc
Giả. Nơi đây, bây giờ gọi là Saranath. Khi năm anh em Kiều Trần Như nhìn
thấy Ðức Phật đang tiến về phía họ, họ đã chào Ngài bằng tên Cồ Ðàm, tức
tên tộc của Ngài. Nhân đó Ðức Phật nói với họ:
"Ðừng gọi ta bằng tên riêng như vậy, vì đó là
cách chào hỏi thô lỗ và khiếm nhã đối với một người đã thành Phật. Tâm ta
giờ đây không còn xao động, cho dù nguời ta có đối xử với ta bằng lòng
kính trọng hay bất kính cũng vậy, thế nhưng xưng hô với một người có cái
nhìn bình đẳng và lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh bằng tên tộc của họ
thì không tao nhã chút nào; chư Phật ra đời là để đem lại sự giải thoát
cho thế gian, vì vậy họ cần phải được đối xử với lòng kính trọng".
Sau đó Ngài thuyết cho họ nghe bài pháp vĩ đại đầu tiên của mình, kinh
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana sutta), trong đó Ngài giải
thích Bốn Sự Thực Cao Thượng (Tứ Diệu Ðế) và Bát Chánh Ðạo. Cả năm
người đều xuất gia Tỳ Khưu và tạo thành nhân tố đầu tiên của các bậc Thánh
đệ tử gọi là Tăng đoàn (Sangha). Trong suốt cuộc đời hoạt động tích cực của
mình, Ðức Phật đã thực hiện nhiều cuộc cảm hoá từ bậc thượng lưu đến người
hạ tiện, từ người giàu sang đến kẻ nghèo hèn, từ người có học đến người
thất học, từ các hàng giáo sĩ Bà La Môn đến giai cấp Thủ Ðà La, du sĩ
ngoại đạo và các gia chủ, kẻ cướp sát nhân và những cô gái giang hồ, từ
hàng vua chúa đến dân giả, nam cũng như nữ thuộc mọi giai cấp và điều kiện
xã hội đều trở thành đệ tử hoặc xuất gia hoặc tại gia của Ngài. Sau một sứ
mạng tối thượng của 45 năm hoằng hoá, đức Phật trong chuyến du hành thuyết
giảng cuối cùng của mình, đã đến Kusinàrà, một tỉnh nhỏ nằm ở miền đông xứ
Nepal, nơi đây Ngài nhập vô dư Niết Bàn ở tuổi 80; những lời cuối cùng
Ngài ban bố cho hàng đệ tử của mình là: "Các pháp hữu vi đều phải chịu hoại diệt;
hãy chuyên cần chánh niệm". Như vậy, Ðức Phật là một con người, Ngài
sanh ra như một con người, Ngài sống như một con người, và như một con
người, cuộc đời của Ngài cũng phải chấm dứt. Tuy nhiên, từ một phàm nhân
Ngài đã trở thành một con người phi thường (Acchariya manussa), như
chính Ngài đã tuyên bố trong Anguttara Nikàya
(Tăng Chi Kinh);
Ngài không nhận mình là hoá thân của Vishnu (một vị thần sáng tạo theo
tín ngưỡng Ấn giáo) như những người Hindus tin tưởng, Ngài cũng không
tự gọi mình là đấng cứu thế, cứu chuộc cho kẻ khác bằng sự giải
thoát cá nhân của mình. Ðức Phật khích lệ hàng đệ tử hãy nương tựa nơi
chính họ để giải thoát, vì thanh tịnh hay ô nhiễm đều do chính họ tạo.
Trong Pháp Cú kinh Ðức Phật dạy:
"Các ngươi hãy nỗ lực tự mình phấn đấu, chư Phật chỉ là bậc Ðạo Sư. Người
chánh niệm bước vào đạo lộ (Bát Chánh Ðạo), giải thoát khỏi mọi trói buộc
của tội lỗi". Hoặc
"Người khi đáng noã
lực lại không tự mình nỗ lực, người
khi đang còn thiếu niên, cường tráng đã dễ duôi lười biếng, ý chí nhu
nhược, con người biếng nhác chay lười đó sẽ chẳng bao giờ thấy được con
đường giác ngộ", hay
"Tinh cần là đường bất tử, giãi đãi là đường
chết. Người tinh cần không chết, kẻ giãi đãi (dù sống) cũng như đã chết". Chư Phật khám phá ra con đường (giải
thoát) và để nó lại cho chúng ta đi theo nếu muốn tự cứu mình; nương
tựa vào tha lực để cứu chuộc là thái độ thụ động tiêu cực, nhưng nương tựa
tự thân là hành động mang tính tích cực. Ðể khích lệ hàng đệ tử hãy nương
tựa chính mình, Ðức Phật đã dạy trong kinh Niết Bàn là
"Hãy tự mình làm ngọn đèn, làm nơi nương tựa
cho chính mình; giữ vững chánh pháp (Dhamma) làm ngọn đèn; giữ vững chánh
pháp làm nơi nương tựa; chớ tìm nơi nương tựa nơi ai khác ngoại trừ chính
mình. Bất cứ ai tự mình làm nơi nương tựa và là ngọn đèn cho chính mình,
chính người đó trong số những người tầm cầu giác ngộ - chắc chắn sẽ đạt
đến đỉnh cao chót vót (giải thoát)". Hơn nữa, Ðức Phật không nhận độc quyền đối
với Phật quả, mà thực ra, quả vị Phật này cũng không phải là đặc quyền
dành riêng cho một con người đã được đặc chọn nào cả. Ðức Phật đã đạt đến
trạng thái hoàn thiện viên mãn, và trạng thái nầy bất cứ ai cũng có thể
trông đợi, Ðức Phật đã khai mở cho mọi người biết con đường thẳng duy nhất
đó, để những ai mong cầu giải thoát cứ việc bước theo. Theo lời dạy của
Ðức Phật, ai cũng có thể đạt đến trạng thái tối thượng đó nếu nỗ lực cần
thiết. Như vậy, thay vì làm nản lòng những người theo mình và giữ độc
quyền trạng thái tối tôn đó cho riêng mình, Ðức Phật đã khích lệ và thúc
đẩy mọi người theo tấm gương cao quý của Ngài. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục | 01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
Bậc Arahán, Bậc Chánh Ðẳng Giác
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002